You are on page 1of 105

Đức Thích Ca Mâu Ni Phật

Đức Đạt Lai Lạt Ma 14

2
1. Giới thiệu về IBD 4
2. Chương trình học 13
3. Nội quy lớp học 15
4. Thông tin liên lạc 17
5. Quan điểm của 17 bậc hiền trí Nalanda 18
7. Tranh biện kinh luận theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng 20
8. Kinh tụng buổi học 25
9. Kinh tụng hàng ngày 44

3
Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 đã thành lập Phật Học Viện Biện chứng (Institute
of Buddhist Dialectics - IBD) nhân dịp sinh nhật của Ngài ngày 6/07/1973, đây cũng
là Học viện đầu tiên được thành lập bởi Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14, toạ lạc tại
McLeod Ganj, Dharamsala, Himachal Pradesh, India (Ấn Độ). Đức Đạt Lai Lạt Ma
thứ 14 đã bổ nhiệm Thầy Lobsang Gyatso là lãnh đạo Học viện, có trách nhiệm quản
lý và giảng dạt. Ngay từ đầu, Phật Học Viện Biện chứng đã duy trì mối quan hệ rất
chặt chẽ với Văn phòng của Thánh Đức Đạt Lai Lạt Ma. Các hoạt động quan trọng
nhất của Viện được thực hiện bằng cách tham khảo ý kiến của Ngài hoặc dựa trên
những gợi ý và lời khuyên của Ngài.
Năm 1991, trường Cao đẳng Nghiên cứu Tây Tạng (tên thường gọi là trường Cao
đẳng Sarah) là chi nhánh trực thuộc Phật học Viện Biện chứng (IBD) được thành lập
dưới sự hướng dẫn ban đầu của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Cố Tướng Lobsang Gyatso đã

4
tự nguyện và vị tha đảm nhận nhiệm vụ thành lập và điều hành cả hai viện (IBD đầu
tiên vào năm 1973, và sau đó là Cao đẳng Sarah vào năm 1991).
Xem chi tiết cơ cấu tổ chức của Học viện tại link sau:
https://instituteofbuddhistdialectics.org/?mibextid=Zxz2cZ
Chương trình học gồm các khoá học: Nhiếp loại học, Nhân loại học, Tâm loại
học, Các Tông phái, Địa – Đạo (2 năm); Bát Nhã (6 năm); Trung Quán (3 năm); A-
Tỳ-Đạt-Ma Câu-Xá, Luật, 4 Trường phái Phật giáo Tây Tạng (4 năm); Mật điển (2
năm). Để học hết toàn bộ chương trình này phải dành ít nhất 17 năm. Đây là chương
trình học của dòng Gelugpa. Do đó, khi tốt nghiệp sẽ vinh dự được nhận bằng cao
nhất - Tiến sĩ Phật học (Geshe - dành cho các vị tăng và Geshema - dành cho các vị ni).
Xem chi tiết lịch sử, chương trình học của Học viện tại link sau:
https://ibd.instituteofbuddhistdialectics.org
Thông tin các giáo thọ sư của học viện và kỷ yếu của học viện xem chi tiết tại kỷ
yếu của IBD tại phần Thông tin liên lạc.

5
Hình ảnh thầy Viện trưởng sáng lập Gen Lobsang Gyatso
Gen Lobsang Gyatso sinh năm 1928 tại một ngôi làng nhỏ ở miền đông
Tây Tạng. Ông trở thành một nhà sư ở tuổi mười một, và sau đó đến miền trung
Tây Tạng để học tại Tu viện Drepung. Sau khi ra khỏi Tây Tạng trong Cuộc

6
nổi dậy của người Tây Tạng năm 1959, Thầy Lobsang Gyatso, hay “Gen la”
khi ông được biết đến tại Viện, cuối cùng đã chuyển đến Mussoorie để phục
vụ với tư cách là giáo viên tôn giáo tại Trường trung tâm dành cho người Tây Tạng.
Năm 1973, sau khi được Đức Đạt Lai Lạt Ma uỷ nhiệm thành lập Học
viện, Ngài tái định cư tại Dharamsala, Ấn Độ. Sau một số năm đầu khó khăn,
Viện đã trở thành một trong những câu chuyện thành công của cộng đồng lưu
vong Tây Tạng. Năm 1991, Gen la đã mở rộng công việc vốn đã thành công
của Viện với việc thành lập một chi nhánh mới tại Sarah, Trường Nghiên cứu
Cao cấp về Tây Tạng. Dưới sự hướng dẫn của ông, Phật Học Viện Biện chứng
và Cao đẳng Nghiên cứu Tây Tạng Cao cấp đã phát triển thành các tổ chức
giáo dục Tây Tạng có giá trị độc nhất, cung cấp các nghiên cứu tổng hợp trong
cả các môn học truyền thống của Tây Tạng và các môn học hiện đại.
Trong khi việc thành lập Phật Học Viện Biện chứng Phật giáo và Cao
đẳng Nghiên cứu Tây Tạng Cao cấp tại Sarah là công việc mà Gen la sẽ được
nhớ đến nhiều nhất, Gen la cũng được nhớ đến với vai trò là một nhà văn tài ba.
Tuyển tập các ấn phẩm của Gen Lobsang Gyatso:
(1). Sự Hài Hòa Của Tánh Không và Duyên Khởi, Paljor Publications, 1992.
(2). Tứ Diệu Đế, Snow Lion Publications, 1994.
(3). Bồ Đề Tâm: Trau Dồi Tâm Từ Bi của Giác Ngộ, Snow Lion
Publications, 1997.
(4). Hồi ức của một Lạt ma Tây Tạng của Gyatso, Lobsang (1990) Bìa
mềm, Snow Lion Publications, 1998.
(5). Tsongkhapa’s Ca ngợi Thuyết tương đối phụ thuộc, Nhà xuất bản
Trí tuệ, 2012.
Là một người Tây Tạng yêu nước, một thiền sư và là tín đồ kiên định
của Đức Đạt Lai Lạt Ma, Gen la nổi lên như một nhà phê bình xã hội dũng
cảm và một người có tinh thần sâu sắc. Thầy Lobsang Gyatso qua đời ở Dharamsala
vào tháng 2 năm 1997.

7
8
Sự tái sinh của thầy Viện trưởng Gen Lobsang Gyatso: vào năm 2006,
Đức Đạt Lai Lạt Ma đã chính thức công nhận một cậu bé đến từ vùng Ladakh
của Ấn Độ là hóa thân của Tướng Lobsang Gyatso. Cậu bé, Tenzin Tseten
Rinpoche, sinh ngày 14 tháng 5 năm 2001 tại thành phố Leh của Ladakhi, có
cha là người Zanskari, Gain Chand, và mẹ là người Tây Tạng, Kalsang
Yangkey.

Khi tin tức rằng cậu bé có thể là tái sinh của Gen la đến Dharamsala, hai
đại diện từ Viện Phật học Phương ngữ, Trợ lý Giám đốc Geshe Kalsang
Damdul và cháu trai của cố Giám đốc, Ven. Lobsang Yeshi, đã đến Ladakh để
điều tra. Cả hai nhà sư đều thân cận với Gen la và hoàn toàn hài lòng với cuộc
điều tra của họ, điều này khiến không còn nghi ngờ gì nữa, cậu bé chính là tái
sinh phù hợp.

Sau khi Đức Đạt Lai Lạt Ma xác nhận và phê chuẩn sự tái sinh, Tenzin
Tseten Rinpoche được đưa đến Dharamsala cùng với cha mẹ của mình. Ngài
được đăng quang - với tên gọi Tsen-nyi Khentul Tenzin Tseten Rinpoche -
trong một buổi lễ tại Tsuglagkhang, ngôi chùa chính của Phật giáo Tây Tạng
ở McLeod Ganj, Dharamsala, vào ngày 6 tháng 6 năm 2009.

Khách mời tham dự lễ đăng quang bao gồm Thủ tướng Tây Tạng và các
thành viên nội các, thư ký của nhiều ban ngành, người đứng đầu các tổ chức
chính phủ và phi chính phủ, người đứng đầu các tu viện, người đứng đầu các
trường học và hàng ngàn tăng ni và cư sĩ Tây Tạng. Những người họ hàng của
cố Gen Lobsang Gyatso và họ hàng của cha mẹ vị tái sinh trẻ tuổi của Rinpoche
cũng tham dự buổi lễ.
Thầy Tenzin Tseten Rinpoche hiện đang tu học tại Tu viện Drepung
Loseling ở miền nam Ấn Độ.

9
10
Thầy Viện trưởng đương nhiệm là thầy Samten Gyatso sinh ngày 06 tháng
6 năm 1969 tại Dharamsala, H.P., Ấn Độ. Thầy bắt đầu tu học Pháp từ năm 14
tuổi, là Tiến sĩ chương trình nghiên cứu Phật học cao cấp chính của Đại học
Tu viện Drepung Gomang, Mundgod, Nam Ấn Độ từ năm 1996 đến năm 2004.
Thầy đã nhận được bằng Thạc sĩ Triết học Phật giáo Bát nhã ba la mật (tương
đương với bằng B.A) từ Phật Học viện Biện chứng, Dharamshala sau khi hoàn
thành xuất sắc khóa học 6 năm của chương trình nghiên cứu triết học Phật giáo
từ năm 1984 đến 1989. Thầy nhận được bằng Thạc sĩ Triết học Phật giáo
Madhyamika (tương đương với M.A.) từ Phật Học viện Biện chứng,
Dharamsala sau khi hoàn thành xuất sắc chương trình nghiên cứu triết học Phật
giáo nâng cao từ năm 1990 đến năm 1992. Thầy gia nhập Đại học Mật tông
Gyudmed ở Hunsur, Nam Ấn Độ vào năm 2005-2006 để nghiên cứu Mật tông
Phật giáo.
Thầy từng là Hiệu trưởng của Cao đẳng Nghiên cứu Tây Tạng Cao cấp tại
Sarah, Dharamsala từ tháng 1 năm 1995 đến tháng 6 năm 1996, là Giám đốc
điều hành của Đại học Tu viện Drepung Gomang, Mundgod, từ năm 2011 đến
2014, là Trưởng ban Kế hoạch Drepung Gomang, Mundgod, Nam Ấn Độ từ
năm 2016 đến tháng 9 năm 2018.
Thầy đã thuyết pháp ở Nam Phi do một trung tâm Phật giáo Tây Tạng tổ
chức vào năm 2009, thuyết pháp ở Nam Phi và Anh vào năm 2015 do một
trung tâm Phật giáo Tây Tạng có liên quan sắp xếp.
Tích cực tham gia Hội thảo Quốc tế về Học bổng Nghiên cứu Phật giáo
tại Ấn Độ vào ngày 20 và 21 tháng 7 năm 2019 tại New Delhi, do Liên đoàn
Phật giáo Quốc tế, New Delhi tổ chức.
Hiện tại, thầy Samten Gyatso là Viện trưởng Phật Học viện Biện chứng (IBD).

11
12
- Ngôn ngữ: tiếng Tạng phiên dịch trực tiếp sang tiếng Việt.
- Đối tượng học: tất cả các Phật tử người Việt Nam có nguyện vọng học
Triết học Phật giáo theo Tạng truyền và tu học Phật Pháp một cách bài bản.
- Hình thức học: học online thông qua hệ thống trực tuyến của Cisco Webex.
- Học phí: miễn phí tất cả các khoá học.
- Chương trình đào tạo tương đương chương trình học trực tiếp tại trường
cao đẳng Sarah và IBD, bao gồm các môn: Nhiếp loại học, Nhân loại học, Tâm
loại học, Các Tông phái, Địa - Đạo (3 năm); Bát Nhã (4 năm); Trung Quán (2
năm); A-Tỳ-Đạt-Ma Câu-Xá (1 năm); Mật điển (2 năm). Tổng thời gian hoàn
thành chương trình học dự kiến: 12 năm.
- Trong quá trình học, học viên sẽ được giao bài tập, tổ chức học nhóm thảo
luận bài học, tập tranh biện, tập hợp các câu hỏi đã thảo luận nhóm để hỏi
Giảng sư vào các buổi học (nếu có).
- Phần mềm ứng dụng Webex giúp học viên có thể trao đổi bài bất kỳ thời gian
nào trong ngày. Giáo thọ có thể theo dõi được quá trình thảo luận và những vướng
mắc của học sinh, từ đó giải đáp các vướng mắc trong quá trình học và hiểu.
- Học viên tham gia đọc kinh vào mỗi tối thứ 4 hàng tuần cùng các học viên
học trực tiếp tại Học viện, trực tuyến qua Webex (không bắt buộc).
- Sau khi đăng ký và test thành công Webex, các học viên sẽ được cấp mã
số học viên và các file tài liệu qua Webex.
- Giáo thọ của Học viện sẽ có các buổi sách tấn, nghe học sinh hỏi đáp về
việc Tu học, thời gian tuỳ theo sắp xếp của Học viện.
- Kết thúc môn học sẽ được đánh giá bằng hình thức thi trắc nghiệm online,
đạt điểm đỗ trong kỳ thi học viên sẽ được cấp chứng chỉ hoàn thành môn học và
tiếp tục học môn tiếp theo. Kết thúc các khoá học sẽ được nhận Bằng từ Học viện.
- Giáo trình được giảng dạy là giáo trình chính thức của Phật Học Viện Biện
chứng (IBD) được dịch sang tiếng Việt.
- Căn cứ vào nhu cầu học của các Phật tử Việt Nam đối với Triết học phật
giáo, IBD Việt Nam sẽ có kế hoạch tuyển sinh các khoá tiếp theo và thông báo
rộng rãi trên các trang thông tin chính thức của Học viện.

13
Lịch học Khoá 1 sẽ tiến hành vào tối thứ 2 và thứ 6, bắt đầu từ 8h30 tối, Buổi
đọc kinh toàn trường vào thứ 4 bắt đầu từ 7h30 tối hàng tuần, giờ Việt Nam.

(Học viên vào sớm 15 phút để đọc kinh trước khi thỉnh pháp)

Năm Nội dung Ghi chú

1 Học môn Nhiếp loại học, Các Tông Phái Phật Giáo Thi trắc nghiệm

2 Học môn Nhân loại học Thi trắc nghiệm

3 Học môn Tâm loại học, Địa Đạo Thi trắc nghiệm

4 Học môn Bát Nhã Thi trắc nghiệm

5 Học môn Bát Nhã Thi trắc nghiệm

6 Học môn Bát Nhã Thi trắc nghiệm

7 Học môn Bát Nhã Thi trắc nghiệm

8 Học Trung quán luận Thi trắc nghiệm

9 Học Trung quán luận Thi trắc nghiệm

10 Học Câu xá luận Thi trắc nghiệm

11 Học Mật điển Thi trắc nghiệm

12 Học Mật điển Thi trắc nghiệm

Ghi chú: Lịch học có thể thay đổi tuỳ theo sự sắp xếp của Học viện

14
- Các học viên đăng nhập vào Webex trước 15 phút để tụng quy y và khẩn
nguyện 17 bậc hiền trí Nalanda. Sau buổi học cả lớp sẽ đọc hồi hướng công đức.

- Hệ thống Webex sẽ điểm danh tự động các học viên tham gia buổi học
(do đó học viên cần thiết phải đăng nhập webex theo hướng dẫn sử dụng). Hệ
thống điểm danh tự động bằng email đăng nhập do đó email đăng ký với Ban
tuyển sinh phải chính xác với email đăng nhập Webex.

- Thời gian điểm danh sẽ tính từ 20h30 phút giờ Việt Nam, từ khi bắt đầu
buổi học đến khi kết thúc hồi hướng sau buổi học. Học sinh vào muộn quá 15
phút sẽ không được vào lớp.

- Số buổi tham gia học và không làm bài tập dưới 70% không có lý do học
viên sẽ không được tham gia kỳ thi hết môn và học lại với khoá dưới. Học viên
sẽ được xem xét thi nếu số buổi nghỉ học và thiếu bài tập trên 30% có xin phép
và có lý do thật sự chính đáng.

- Học sinh xin phép nghỉ học mail về trường theo địa chỉ:
Phathocvienbienchungibd@gmail.com
- Trong quá trình học sẽ có bài tập được giao qua WEBEX và thời hạn tối
đa nộp bài tập là không quá 5 ngày tính từ ngày học (buổi học tối thứ 2 thì sẽ
nộp bài tập chậm nhất vào 8h30 tối thứ 7, buổi học tối thứ 6 thì sẽ nộp bài tập
chậm nhất vào 8h30 tối thứ 4).

- Học viên sẽ tham gia tranh biện, thảo luận (debate) theo nhóm, tổ. Nhóm,
tổ trong lớp sẽ phân chia theo mã số học viên. Các nhóm, tổ sẽ thảo luận về
bài học, bài tập được giao, tập tranh biện và tập hợp câu hỏi để hỏi Giảng sư
(nếu có). Việc hỏi đáp giữa các tổ và Giảng sư là 20 phút (nếu có), do đó Lớp
trưởng chịu trách nhiệm sắp xếp chọn Tổ đặt câu hỏi. Việc tập tranh biện là

15
quy định bắt buộc và có thể tiến hành tối thiểu một lần trong tuần theo nhu cầu
của mỗi tổ. Các Tổ trưởng được giao quản lý và triển khai việc thực hiện tranh
biện của Tổ mình, Lớp trưởng quản lý việc tham gia tranh biện của các Tổ.
Việc tạo Team Webex để các tổ nhóm thực hiện tranh biện thực hiện theo
hướng dẫn của Ban Kỹ thuật.

- Có thể mỗi tháng hoặc 2 tháng một lần Học viện sẽ tổ chức tranh biện
giữa học viên Việt Nam và học viên đang học tại Dharamsala tuỳ theo sự sắp
xếp của Học viện.

- Kết thúc môn học học viên thi hết môn thông qua hình thức trắc nghiệm
trên WEBEX. Điểm đạt là 33%/100% điểm số. Không đạt học viên học lại với
khoá tiếp theo.

- Học viên không up hình ảnh, bài giảng lên mạng xã hội khi chưa được
cho phép (có thể share thông tin được đăng trên các trang mạng chính thống
của Học viện).

- Việc học miễn phí, dưới hình thức tự nguyện, giành cho các phật tử có
mong cầu học và nghiên cứu Phật Pháp, do đó để hiểu sâu sắc hơn các Giáo
Pháp của Đức Phật, khuyến khích các học viên học tập tinh tấn, tập trung nghe
giảng trong buổi học, ghi chép bài, học xuyên suốt các bài giảng không nên bỏ
lỡ sẽ dẫn đến khó hiểu, nản học, không nên chống đối điểm danh bằng cách
nhờ điểm danh hộ.

- Việc học và tu song hành vì vậy các học viên trong quá trình học nên
nêu ra nhiều câu hỏi lên thầy về vướng mắc trong việc áp dụng kiến thức học
được vào quá trình tu tập.

- Các học viên đoàn kết, cùng nhau chia sẻ kiến thức, tránh phát sinh ngã
mạn, chấp ngã, tranh cãi trong quá trình tu học.

16
Website:
https://instituteofbuddhistdialectics.org/?mibextid=Zxz2cZ
https://ibd.instituteofbuddhistdialectics.org
Facebook: https://www.facebook.com/profile.php?id=100063590425430
Email:
ibdoffice@rediffmail.com
Tel:
+91-01892-221215
Địa chỉ trụ sở chính của IBD: Toạ lạc trong khuôn viên Dinh thự Đức Đạt Lai La
Ma tại McLeod Ganj, Dharamsala, Distt, Kangra, Himachal Pradesh 176219, India

https://drive.google.com/drive/folders/1-0D58IYaASD8_qE4TL8Pa-xX5wtRKJOj

- Qua điện thoại, viber:


+ Nguyễn Quang Hiển: 0905.112.468 (hỗ trợ kỹ thuật)
+ Trần Thị Quỳnh Trang: 0813.138.181 (tiếp nhận thông tin từ học viên)
+ Nguyễn Thị Thu Hà: 0979.777.895 (tiếp nhận thông tin từ học viên)
- Qua email: Phathocvienbienchungibd@gmail.com

- Qua điện thoại, viber:


+ Trần Thị Quỳnh Trang: 0813.138.181 (tiếp nhận thông tin từ học viên)
+ Nguyễn Thị Thu Hà: 0979.777.895 (tiếp nhận thông tin từ học viên)
- Qua email: Phathocvienbienchungibd@gmail.com

17
1.འཕགས་པ་'་(བ། Ngài Long Thọ theo quan điểm Trung Quán Ứng Thành Phái
2.འཕགས་པ་+། Ngài Thánh Thiên theo quan điểm Trung Quán Ứng Thành Phái
3.སངས་-ས་བ.ངས། Ngài Phật Hộ theo quan điểm Trung Quán Ứng Thành Phái
4./ོབ་དཔོན་ལེགས་5ན་འ6ེད། Ngài Thanh Biện theo quan điểm Trung Quán Tự Tục Phái
5.7་བ་8གས་པ། Ngài Nguyệt Xứng theo quan điểm Trung Quán Ứng Thành Phái
6.ཞི་བ་+། Ngài Tịch Thiên theo quan điểm Trung Quán Ứng Thành Phái
7.ཞི་བ་འཚ<། Ngài Tịch Mạng theo quan điểm Du Già Hành Trung Quán Tự
Tục Phái
8.པད་མའི་ངང་>ལ། Ngài Liên Hoa Giới theo quan điểm Du Già Hành Trung
Quán Tự Tục Phái
9.ཐོགས་མེད། Ngài Vô Trước theo quan điểm Trung Quán Ứng Thành Phái
10.ད6ིག་གཉེན། Ngài Thế Thân theo quan điểm Duy Thức Tông
11.Aོགས་Bི་Cང་པོ། Ngài Trần Na theo quan điểm Duy Thức Tông
12.ཆོས་Bི་8གས་པ། Ngài Pháp Xứng theo quan điểm Duy Thức Tông
13.འཕགས་པ་8ོལ་Eེ། Ngài Thánh Giải Thoát Quân theo quan điểm Trung Quán
Tự Túc Phái
14./ོབ་དཔོན་སེང་གེ་བཟང་པོ། Ngài Sư Tử Hiền theo quan điểm Trung Quán Tự Túc Phái
15.ཡོན་ཏན་འོད། Ngài Công Đức Quang theo quan điểm Phân Biệt Thuyết
Nhất Thiết Hữu Bộ

18
16.IB་འོད། Ngài Thích Ca Quang theo quan điểm Phân Biệt Thuyết Nhất
Thiết Hữu Bộ
17.ཇོ་བོ་ཨ་ཏི་ཤ Ngài Atisha theo quan điểm Trung Quán Ứng Thành Phái.

Ghi chú: Tuy Ngài Vô Trước là người Sáng lập ra Tông phái Duy Thức
Tông, nhưng tư tưởng của Ngài theo quan điểm Tông phái Trung Quán Ứng
Thành Phái. Ví dụ như: bộ Luận "Luận Giải Bảo Tánh Luận" của Ngài Vô
Trước được luận giải theo tư tưởng Trung Quán Ứng Thành Phái vậy.

#Sc Vạn Thảo chuyển dịch Tạng-Việt 4/8/2022


#Dưới sự chỉ dạy của Thầy giáo thọ Khamsang Tsering.

19
Mོད་པའི་དོན།!

Ý nghĩa động tác, cử chỉ, điệu bộ tay, chân và cách thức


trong lúc “tranh biện kinh luận”

Kể từ thời của các vị vua Phật giáo đầu tiên, Tây Tạng đã có một lịch
sử nghiên cứu triết học phong phú và mang di sản này cho đến ngày nay.
Phật giáo là một "truyền thống trí tuệ", có nghĩa là nó dựa trên những nhận
thức hoặc hiểu biết của lịch sử Đức Phật và nó cho rằng tất cả đau khổ và
thậm chí đau khổ của cái chết đều liên quan đến sự thất bại của trí tuệ. Họ
cho rằng một người được giải thoát nhờ trí tuệ, bằng cách nhìn thấy bản chất
của sự vật. Tranh luận triết học là một phần của nỗ lực này. Ở Ấn Độ, tranh
luận được coi trọng đến mức, nếu bạn thua trong một cuộc tranh luận với
đối thủ, bạn sẽ phải chuyển sang quan điểm của đối thủ đó. Nếu bạn không
thể đánh bại lần đó, thì bạn buộc phải chấp nhận nó.
Mục đích chính của cuộc tranh luận của các tu viện Tây Tạng là đánh
bại những quan niệm sai lầm, thiết lập một quan điểm có thể bảo vệ được,
và xóa bỏ những phản đối đối với quan điểm đó. Tranh luận đối với các nhà
sư Tây Tạng không chỉ là học thuật, mà là một cách sử dụng những hàm ý
trực tiếp từ điều hiển nhiên để đưa ra suy luận về trạng thái không hiển nhiên
của các hiện tượng. Những người tranh luận đang tìm cách hiểu bản chất
của thực tại thông qua việc phân tích cẩn thận trạng thái tồn tại của các hiện
tượng bình thường, cơ sở của thực tại. Đây là mục đích thiết yếu cho cuộc
tranh luận về tôn giáo.
Trong thực tế, hình thức thông thường là cuộc tranh luận giữa "Người
thách thức" đứng và đặt câu hỏi, và "Người bảo vệ" ngồi và trả lời những
câu hỏi đó. Thái độ như thể "Người thách thức" đang tôn trọng tiếp cận
"Người bảo vệ" với một thái độ khó khăn. Vỗ tay kịch tính chỉ được thực

20
hiện bởi "Người thách thức" đang đứng và được sử dụng để chấm câu cuối
"câu hỏi", là một cuộc tranh luận để đáp lại câu trả lời của "Người bảo vệ".
Theo cách hiểu của họ về cử chỉ, "tay phải" tượng trưng cho phương
pháp, có nghĩa là đặc biệt thực hành lòng từ bi, và "tay trái" tượng trưng cho
trí tuệ. "Đưa hai tay lại gần nhau" tượng trưng cho sự kết hợp của trí tuệ và
phương pháp. Vào lúc vỗ tay, bạn nghe thấy tiếng "chân trái" dậm xuống và
điều đó tượng trưng cho việc đóng sầm cánh cửa tái sinh ở các tầng thấp
hơn. Sau khi đồng thời vỗ tay và dậm chân, "Người thách thức" đưa ra cánh
tay trái của trí tuệ để giữ cánh cửa cho tất cả sự tái sinh. Ngoài ra, trong cử
chỉ đó, Kẻ thách thức sử dụng tay phải của mình để nâng chuỗi hạt cầu
nguyện xung quanh cánh tay trái của mình. Điều này thể hiện sự hoàn thành
những nỗ lực của lòng từ bi, trong việc nâng đỡ tất cả chúng sinh đau khổ
ra khỏi vòng tái sinh.

Các hình thức lập luận của người Tây Tạng đã được chuyển sang với
những điều chỉnh nhỏ từ các hình thức luận lý của Ấn Độ. Trong hệ thống
lập luận này, hai hình thức lập luận được sử dụng để đánh bại những quan
niệm sai lầm và hỗ trợ một sự hiểu biết rõ ràng. Đây là những cụm từ bao
gồm luận điểm và lý do được nêu cùng nhau trong một câu, và các hệ quả,
một lập luận có cấu trúc tương tự như một chủ nghĩa luận nhưng chỉ đơn
thuần là một dòng logic từ các khẳng định của đối phương. Một lập luận
hợp lệ có thể có dạng một thuyết âm tiết hoặc một hệ quả. Hình thức thuyết
âm tiết thường được sử dụng trong văn học triết học Tây Tạng và trong các
cuộc tranh luận bao gồm luận điểm và lý do, cả những gì cần được chứng
minh và bằng chứng, trong một câu:
*Ví dụ: Chủ thể "âm thanh" là một hiện tượng "vô thường" bởi vì nó là
"một sản phẩm".
*Tiền đề thứ yếu là "âm thanh" là "một sản phẩm". Tiền đề chính, bị
"triệt tiêu", là "tất cả các sản phẩm" đều là hiện tượng "vô thường". Và, luận
điểm/ kết luận là "âm thanh là một hiện tượng vô thường". Khi một người

21
phát biểu một chủ nghĩa âm tiết, nó giống như một "lời hứa", nỗ lực cao nhất
của người đó để nói ra một lập luận đúng.
Tuy nhiên, những gì bạn thường nghe trong cuộc tranh luận triết học là
hậu quả, không phải là "lời hứa" mà là hàm ý logic rút ra từ các tuyên bố
của Defender. "Người bảo vệ" bị giới hạn ở một số câu trả lời cho các lập
luận của "Người thách thức". Những câu trả lời này bao gồm:
(1) "Lý do không được thiết lập," là cách phủ nhận tiền đề phụ;
(2) "Không có sự lan tràn", đó là cách phủ nhận tiền đề chính; và
(3) "Tôi chấp nhận nó," có nghĩa là "Người bào chữa" chấp nhận lập
luận và kết luận.
Mục tiêu của "Người bảo vệ" là đưa ra một loạt câu trả lời nhất quán
đối với các lập luận của "Người thách thức" mà không mâu thuẫn với những
gì anh ta đã nói trước đó. Khi "Người bảo vệ" mâu thuẫn với những tuyên
bố trước đó, "Người thách thức" sẽ nói tiếp, "Tsa, Tsa!" nghĩa là "Đã xong!"
Yêu cầu trước đó của bạn đã hoàn tất! Nếu "Người bảo vệ" mâu thuẫn với
luận điểm cơ bản được đưa ra lúc đầu, "Người thách thức" sẽ nói tiếp "Tsa,
Tsa!" ba lần.
Thực hành lý luận và tranh luận là một con đường rộng lớn cho nhiều
người. Học sinh có sáng suốt và lý trí hay không thì việc nghiên cứu lý luận
và tranh luận sẽ giúp ích cho bạn. Trên thực tế, cho dù một người thậm chí
có phải là một Phật tử hay không, thì việc nghiên cứu lý luận và tranh luận
sẽ giúp ích. Tất cả chúng ta đều muốn có thể hiểu rõ hơn, đánh giá tốt hơn
lời nói của người khác và thể hiện bản thân rõ ràng hơn. Những kỹ năng
này phát triển cùng với việc thực hành tranh luận. Từ nguồn gốc ở Ấn Độ,
Phật giáo đã được đánh giá cao về kỹ năng lập luận và tranh luận. Mục đích
sâu xa của tranh luận và lý luận Phật giáo là xóa bỏ quan niệm sai lầm về
bản chất của chúng ta và do đó để thoát khỏi đau khổ và thậm chí là cái chết.
Tuy nhiên, đại đa số chúng ta không thể đi thẳng vào vấn đề. Vì vậy, trong
nỗ lực đạt được điều đó, các Phật tử đã cố gắng xây dựng các công cụ và thủ
tục đáng tin cậy.

22
Các công cụ và quy trình đáng tin cậy được gọi là "đáng tin cậy" vì
chúng giúp chúng ta hiểu được điều gì là thực tế và chính xác, điều gì là
thực và điều gì là không thực. Vì vậy, các công cụ được sử dụng trong lý
luận Phật giáo không chỉ áp dụng cho các chủ đề triết học Phật giáo mà còn
cho bất cứ điều gì chúng ta muốn nghiên cứu. Các công cụ và thủ tục thực
tế rất đơn giản và thanh lịch, vì vậy chúng rất hữu ích đối với nhiều người.
Phong cách lập luận và tranh luận của Phật giáo cung cấp một cách hữu ích
để tổ chức suy nghĩ và lời nói của chính bạn và để đánh giá cơn lũ thông tin
đang đến với chúng ta.

📚Phần thi biện luận Kinh-Luận


⛩Tại Phật Học Viện Biện Chứng.IBD.
📋Môn: Thích Lượng Luận
🔹Sinh viên: Thích nữ Vạn Thảo
&N་ས་རིགས་ལམ་/ོབ་གཉེར་ཁང་གི་༢༠༢༢ ལོའི་དS་མ་ལོ་རིམ་གཉིས་པའི་ལོ་འཁོར་Mོད་Tགས། བUན་མ་ཝན་ཐའོ། ཝེད་ནམ་ནས་ཡིན།
📒The Madhyamika class students of Institute of Buddhist Dialectics,
Dharamsala, taking annual Debate examination of 2022.

23
24
Con xin quy y Phật, Pháp, Chúng trung tôn
Cho đến ngày chứng đắc viên mãn Bồ đề
Với những tư lương có được nhờ nghe pháp v.v…
Con nguyện thành Phật để lợi lạc chúng sinh (3 lần)

སངས་-ས་ཆོས་དང་ཚ<གས་Bི་མཆོག་Xམས་ལ། །
6ང་Yབ་བར་Z་བདག་ནི་.བས་[་མཆི། །
བདག་གིས་\ིན་སོགས་བ]ིས་པའི་ཚ<གས་Xམས་Bིས། །
འ8ོ་ལ་ཕན་Aིར་སངས་-ས་འ^བ་པར་ཤོག །

Sang gye choe dang tsog kyu chog nam la


Jang chob bar du dag ni kyab su chi
Dag gi choe nyen gyi pai tsog nam kyi
Dro la phen chir sang gye grub par shog

25
26
_བ་དབང་`་བའི་ཉི་མ།

1/ Sinh từ tâm bi, nguyện làm lợi ích chúng sinh


Thiên trong chư Thiên đắc tối thắng đoạn chứng Cứu Hộ
Hướng dẫn chúng sinh bằng thuyết duyên khởi
Con kính lễ Đấng Năng Vương, Mặt Trời Ngôn Thuyết.
༅༅། །འ8ོ་ལ་ཕན་བཞེད་_གས་bེས་རབ་བcན་པའི། །
dངས་eོགས་.ོབ་པ་མཆོག་བfེས་+་ཡི་+། །
eེན་འgང་གཏམ་]ིས་འ8ོ་Xམས་འhེན་མཛད་པའི། །
_བ་དབང་`་བའི་ཉི་མར་མགོས་Aག་འཚལ། །
Dro-La Phen-Zhed Thuk-Jee Rab-Trun-Pa’i,
Pang-Tok Kyop-Pa Chok-Nyee Lha-Yi-Lha,
Ten-Jung Tam-Gyie Dro-Nam Dren-Zed-Pa’i,
Thup-Wang Ma-Wa’I Nyi-Mar Goe-Chak-Tsel.

27
2/ Khéo làm sáng tỏ luận lý duyên khởi thâm sâu
Nghĩa chân như mật ý Kinh Bát Nhã lìa biên
Vị khai tông Trung Quán Đại Thừa như lời Phật thọ ký
Con kính lễ dưới chân Ngài Long Thọ.
-ལ་jལ་དགོངས་དོན་མཐའ་kལ་དེ་ཉིད་དོན། །
eེན་འgང་རིགས་>ལ་ཟབ་མོས་གསལ་མཁས་པ། །
-ལ་བའི་lང་བཞིན་ཐེག་མཆོག་དS་མའི་mོལ། །
འ6ེད་མཛད་'་(བ་ཞབས་ལ་གསོལ་བ་འདེབས། །
Gyal-Yum Gong-Dhon Tha-Drel De-Nyi-Dhon,
/ོབ་དཔོན་'་(བ། Ten-Jung Rik-Tsul Zam-Moe Sel-Khey-Pa,
Gyal-Wa’i Lung-Zhin Thek-Chok U-Ma’i-Sol,
Jed-Zed Lu-Drup Zhap-La Sol-Wa-Dhep.

3/ Trưởng tử Hiền Trí tối thắng


Thấu đạt tận cùng biển triết học nội giáo, ngoại tông
Tôn kính bảo trì tất cả luận thuyết Ngài Long Thọ
Con khẩn cầu Thánh Thiên, con của Đấng Chiến Thắng.
དེ་mས་_་བོ་མཁས་ཤིང་^བ་པའི་མཆོག །
Aི་ནང་^བ་མཐའ་-་མཚ<འ་ི ཕ་མཐར་སོན། །
'་(བ་གnང་འཛoན་pན་]ི་གUན་ནོར་དཔལ། །
-ལ་mས་འཕགས་པ་+་ལ་གསོལ་བ་འདེབས། །
De-SeyThu-Wo Khey-Shing Drup-Pa’i-Chok,
Chi-Nang Drup-Tha Gya-Tso’i Pha-Thar-Son,
-ལ་mས་འཕགས་པ་+།
Lu-Drup Zhung-Zin Kun-Gyi Tsuk-Nor-Pal,
Gyal-Sey Phak-Pa Lha-La Sol-Wa-Dhep.

28
4/ Xiển minh nghĩa cứu cánh duyên khởi thánh ý
Yếu quyết thâm sâu “giả có duy chỉ danh xưng”
Đạt đến thù thắng địa thành tựu
Con khẩn thỉnh dưới chân luận sư Phật Hộ.
འཕགས་པའི་དགོངས་པ་eེན་འgང་མཐར་_ག་དོན། །
བཏགས་ཡོན་མིང་qང་ཙམ་]ི་ཟབ་མོའ་ི གནད། །
གསལ་མཛད་^བ་པ་མཆོག་གི་སར་གཤེགས་པ། །
སངས་-ས་བ.ངས་Bི་ཞབས་གསོལ་བ་འདེབས། །
Phak-Pa’i Gong-Pa Ten-Jung Thar-Thuk-Dhon,
/ོབ་དཔོན་སངས་-ས་བ.ངས། Tak-Yod Ming-Kyang Tsam-Gyi Zam-Mo’i-Ned,
Sel-Zed Drup-Pa Chok-Ghi Sar-Shek-Pa,
Sang-Gyay Kyang-Kyi Zhap-La Sol-Wa-Dep.

5/ Phá trừ biên các pháp thật có sinh, v.v....


Vị khai tông triết lý nghĩa “ngoại hiện cộng thông lượng”
Ngài là Đấng Hộ Trì toàn diện Pandita (Ban Trí Đạt)
Con chí thành khẩn thỉnh A-xà-lê Thanh Biện.
བདེན་པའི་དངོས་པོ་.ེ་སོགས་མཐའ་བཀག་ཅིང་། །
ཚད་མ་མ_ན་uང་Aི་དོན་བཞེད་པ་ཡི། །
^བ་མཐའ་mོལ་བཏོད་ཡོངས་vོགས་པwྜཏི ། །
/ོབ་དཔོན་ལེགས་5ན་འ6ེད་ལ་གསོལ་བ་འདེབས། །
Den-Pa’i Ngo-Po Kye-Sok Tha-Kag-Ching,
/ོབ་དཔོན་ལེགས་5ན་འ6ེད།
Tsed-Ma Thun-Nang Chi-Dhon Zhed-Pa-Yi,
Drup-Tha’i Sol-Toe Yong-Zok Pen-Di-Ta,
Lob-Pon Lek-Den Jed-La Sol-Wa-Dep.

29
6/ Bởi duyên khởi là duy chỉ duyên này
Trung quán lý Không – Minh Hiện phá trừ hai biên
Hoằng dương đạo lộ viên mãn hiển mật sâu rộng
Con chí thành khẩn nguyện Ngài Nguyệt Xứng.
eེན་འkེལ་qེན་ཉིད་འདི་པ་ཙམ་ཉིད་Bིས། །
མཐའ་གཉིས་སེལ་བའི་uང་yོང་དS་མའི་>ལ། །
ཟབ་-ས་འདོམས་མཁས་མདོ་zགས་ཡོངས་vོགས་ལམ། །
-ས་མཛད་7་བ་8གས་པར་གསོལ་བ་འདེབས། །
Ten-Drel Kyen-Nyi Dhi-Pa Tsam-Nyi-Kyie,
Tha-Nyie Sel-Wa’i Nang-Tong U-Ma’i-Tsul,
དཔལ་5ན་7་བ་8གས་པ།
Zab-Gyay Dhom-Khey Dho-Ngak Yong-Zok-Lam,
Gyay-Zed Da-Wa Drak-Par Sol-Wa-Dhep.

7/ Thiện xảo khai thị đạo lộ đại bi hy hữu siêu tuyệt


Bằng nhiều đạo lý thâm sâu và quảng đại
Cho đồ chúng có duyên lành
Con khẩn cầu Thắng Vương Tử Tịch Thiên.
ངོ་མཚར་{ད་gང་|ིང་bེ་ཆེན་པོའ་ི ལམ། །
ཟབ་དང་-་ཆེའ་ི རིགས་>ལ་Xམ་མང་གིས། །
}ལ་བཟང་གZལ་6འི་ཚ<གས་ལ་yོན་མཁས་པ། །
-ལ་mས་ཞི་བ་+་ལ་གསོལ་བ་འདེབས། །
Ngo-Tsar Med-Jung Nying-Je Chen-Po’i-Lam,
Zab-Dhang Gya-Che’i Rig-Tsul Nam-Mang-Ghie,
-ལ་mས་ཞི་བ་+། Kel-Sang Dhul-Ja’i Tsok-La Ton-Khey-Pa,
Gyal-Sey Zhi-Wa Lha-La Sol-Wa-Dhep.

30
8/ Thiện xảo phân chiết đạo lý Trung-Lượng
Khai sáng Trung Đạo nhị không theo căn cơ đồ đệ
Hoằng dương giáo lý Đấng Chiến Thắng nơi xứ tuyết
Con khấn nguyện Đại Thân Giáo Sư Tịch Mạng.
གZལ་6འི་ཁམས་བཞིན་གཉིས་yོང་དS་མའི་ལམ། །
mོལ་གཏོད་དS་ཚད་རིགས་>ལ་འ6ེད་མཁས་ཤིང་། །
ཁ་བའི་~ོངས་[་-ལ་བyན་dེལ་མཛད་པ། །
མཁན་ཆེན་ཞི་བ་འཚ<་ལ་གསོལ་བ་འདེབས། །
Dhul-Ja’i Kham-Zhin Nyi-Tong U-Ma’i-Lam,
Sol-Tod U-Tsed Rig-Tsul Jed-Khey-Shing,
མཁན་ཆེན་ཞི་བ་འཚ<། Kha-Wa’i Jong-Su Gyal-Ten Pel-Zed-Pa,
Khen-Chen Zhi-Wa Tso-La Sol-Wa-Dhep.

9/ Luận giải xuất sắc Thứ Tự Tu Tập song vận Chỉ Quán
Trung quán kiến xa lìa biên hợp với kinh (hiển giáo)
tục (mật chú)
Làm rạng rỡ giáo lý Đấng Chiến Thắng không sai
lầm nơi xứ tuyết
Con khẩn thỉnh dưới chân Ngài Liên Hoa Giới.
མཐའ་kལ་དS་མའི་•་དང་ཞི་+ག་€ང་། །
•ོམ་རིམ་མདོ་Tད་བཞིན་Z་ལེགས་བ‚ལ་ནས། །
གངས་~ོངས་-ལ་བyན་འƒལ་མེད་གསལ་མཛད་པ། །
པད་མའི་ངང་>ལ་ཞབས་ལ་གསོལ་བ་འདེབས། །
Tha-Drel U-Ma’i Ta-Dhang Zhi-Lhak-Zung,
/ོབ་དཔོན་པད་མའི་ངང་>ལ། Gom-Rim Dho-Gyue Zhin-Dhu Lek-Trel-Ney,
Gang-Jong Gyal-Ten Trul-Med Sel-Zed-Pa,
Pe-Ma’i Ngang-Tsul Zhap-La Sol-Wa-Dhep.

31
10/ Kế thừa Ngài Di Lặc, hoằng truyền thiện xảo
Đạo lộ quảng đại hết thảy Đại Thừa Tạng
Là vị khai sáng Duy Thức Tông theo lời Phật thọ ký
Con khẩn cầu dưới chân Ngài Vô Trước.
6མས་པས་bེས་བ€ང་ཐེག་ཆེན་Eེ་uོད་pན། །
ལེགས་པར་dེལ་མཁས་-་ཆེན་ལམ་yོན་ཞིང་། །
-ལ་བའི་lང་བཞིན་Xམ་རིག་ཤིང་eའི་mོལ། །
འ6ེད་མཛད་ཐོགས་མེད་ཞབས་ལ་གསོལ་བ་འདེབས། །
Jam-Pae Je-Zung Thek-Chen De-Nguo-Kun,
Lek-Par Pel-Khey Gya-Chen Lam-Ton-Zhing,
འཕགས་པ་ཐོགས་མེད། Gyal-Wa’i Lung-Ten Nam-Rig Shing-Ta’i-Sol,
Jed-Zed Thok-Med Zhap-La Sol-Wa-Dhep.

11/ Bảo trì hệ thống nhị không, A-tì-đạt-ma bảy luận tạng
Minh giải triết học Duy Thức Tông, Kinh bộ và Tì-
bà-sa bộ
Nổi danh đấng Biến Tri thứ hai, Thắng Trí Giả
Con thành kính khẩn nguyện dưới chân luận sư Thế Thân.
ཆོས་མངོན་Eེ་བZན་གཉིས་yོང་mོལ་བ€ང་ནས། །
6ེ་མདོ་Xམ་རིག་^བ་མཐའ་གསལ་མཛད་པ། །
pན་མ„ེན་གཉིས་པར་8གས་པའི་མཁས་པའི་མཆོག །
/ོབ་དཔོན་ད6ིག་གཉེན་ཞབས་ལ་གསོལ་བ་འདེབས། །
Choe-Ngon De-Dhun Nyie-Tong Sol-Zung-Ney,
Je-Dho Nam-Rig Drup-Tha Sel-Zed-Pa,
/ོབ་དཔོན་ད6ིག་གཉེན།
Kun-Kyen Nyie-Par Drak-Pa’i Khey-Pa’i-Chok,
Lob-Pon Yig-Nyen Zhap-La Sol-Wa-Dhep.

32
12/ Khéo phân chiết trăm cửa Lượng lý, chứng minh
Hệ thống kinh điển của Đấng Năng Nhơn bằng luận
lý sự thế
Bậc Thầy lượng lý khai mở mắt tuệ cho người có tri thức
Con cầu thỉnh dưới chân Trần Na luận sư.
_བ་པའི་གnང་lགས་དངོས་yོབས་རིགས་པ་ཡིས། །
yོན་Aིར་ཚད་མའི་•ོ་བ-་ལེགས་Aེ་ནས། །
Xམ་ད…ོད་†ོ་མིག་\ིན་མཛད་ཚད་མ་པ། །
Aོགས་Bི་Cང་པོའ་ི ཞབས་ལ་གསོལ་བ་འདེབས། །
Thup-Pa’i Zhung-Luk Ngo-Top Rig-Pa-Yie,
Ton-Chir Tsed-Ma’i Go-Gya Lek-Ched-Ney,
/ོབ་དཔོན་Aོགས་Bི་Cང་པོ།
Nam-Chod Lo-Mig Jin-Zed Tsed-Ma-Pa,
Chok-Kyi Lang-Po’i Zhap-La Sol-Wa-Dhep.

13/ Hiểu thấu toàn diện tinh yếu Nhận Thức Luận
của nội và ngoại tông,
Biện thuyết tài tình pháp lý siêu tuyệt xác chứng,
Bằng lối luận lý tất cả đạo lộ sâu rộng của Kinh Bộ và
Duy Thức Tông,
Con thỉnh nguyện dưới chân Pháp Xứng luận sư.
Aི་ནང་ཚད་མའི་གནད་pན་ལེགས་དགོངས་ཤིང་། །
མདོ་སེམས་ཟབ་-ས་ལམ་pན་རིགས་ལམ་ནས། །
ངེས་yེར་{ད་gང་ཆོས་>ལ་འདོམས་མཁས་པའི། །
ཆོས་Bི་8གས་པའི་ཞབས་ལ་གསོལ་བ་འདེབས། །
Chi-Nang Tsed-Ma’i Nged-Kun Lek-Gong-Shing,
/ོབ་དཔོན་ཆོས་Bི་8གས་པ།
Dho-Sem Zab-Gyay Lam-Kun Rig-Lam-Ney,
Nged-Ter Med-Jung Choe-Tsul Dhom-Kyed-Pa’i,
Choe-Kyi Drak-Pa’i Zhap-La Sol-Wa-Dhep.

33
14/ Con thỉnh cầu dưới chân Ngài Thánh Giải Thoát Quân
Thắp ngọn đèn soi sáng nghĩa Trang Nghiêm luận
Nghĩa Bát Nhã truyền từ anh em Ngài Vô Trước
Theo truyền thống Trung Quán lìa biên Hữu và Vô.
ཐོགས་མེད་‡་མཆེད་ལས་འོང་ཤེར་Aིན་དོན། །
ཡོད་མེད་མཐའ་kལ་དS་མའི་mོལ་བཞིན་Z། །
-ན་]ི་གnང་དོན་uང་བའི་ˆོན་མེ་‰ར། །
འཕགས་པ་8ོལ་Eེའ་ི ཞབས་ལ་གསོལ་བ་འདེབས། །
Thok-Med Ku-Ched Lay-Wong Sher-Chin-Dhon,

འཕགས་པ་8ོལ་Eེ། Yod-Med Tha-Drel U-Ma’i Sol-Zhin-Dhu,


Gyen-Gyi Zhung-Dhon Nang-Wa’i Dron-Me-Bar,
Phak-Pa Drol-De’i Zhap-La Sol-Wa-Dhep.

15/ Con khấn nguyện A-xà-lê Sư Tử Hiền


Phật thọ ký: Ngài triển khai nghĩa Bát Nhã
Như lời giáo thọ của Ngài Di Lặc Hổ Chủ
Làm sáng tỏ tối thắng Bát Nhã Tam Phật Mẫu Kinh.
jམ་དོན་འ6ེད་ལ་-ལ་བའི་lང་བyན་ཐོབ། །
མི་ཕམ་མགོན་པོའ་ི མན་ངག་ཇི་བཞིན་Z། །
jམ་ག[མ་ཤེར་Aིན་གnང་མཆོག་གསལ་མཛད་པའི། །
/ོབ་དཔོན་སེང་གེ་བཟང་པོར་གསོལ་བ་འདེབས། །
Yum-Dhon Jed-La Gyal-Wae Lung-Ten-Thop,
Mi-Pham Gon-Po’i Men-Ngak Ji-Zhin-Dhu,
/ོབ་དཔོན་སེང་གེ་བཟང་པོ།
Yum-Sum Sher-Chin Zhung-Chok Sel-Zed-Pa’i,
Lob-Pon Seng-Ge Sang-Por Sol-Wa-Dep.

34
16/ Con khấn nguyện dưới chân Ngài Công Đức Quang
Bậc Thắng Trí kiên trực, giải thích không sai lạc
Biệt Giải Thoát Giới theo truyền thống thuyết Nhất
Thiết Hữu Bộ
Nhiếp tập mật nghĩa của Thập Vạn Luật Tạng.
འZལ་བ་འSམ་Eེའ་ི དགོངས་དོན་ལེགས་བŠས་ནས། །
ཐམས་ཅད་ཡོད་`འི་lགས་བཞིན་སོ་སོ་ཐར། །
མ་ནོར་ལེགས་འདོམས་བeན་མཁས་མཆོག་‹ར་པ། །
ཡོན་ཏན་འོད་Bི་ཞབས་ལ་གསོལ་བ་འདེབས། །
Dhul-Wa Bum-De’i Gong-Dhon Lek-Dhue-Ney,
/ོབ་དཔོན་ཡོན་ཏན་འོད། Tham-Ched Yod-Ma’i Luk-Zhin So-So-Thar,
Ma-Nor Lek-Dhom Ten-Khey Chok-Gyur-Pa,
Yon-Ten Woe-Kyi Zhap-La Sol-Wa-Dhep.

17/ Con thỉnh cầu dưới chân Ngài Thích Ca Quang


Tự tại trong bảo tạng công đức Tam học
Bậc Trì Luật thù thắng, khéo giải nghĩa quảng Đại Luận
Nhằm xiển dương giới luật vô cấu dài lâu.
བ/བ་ག[མ་ཡོན་ཏན་ནོར་Sའི་མཛ<ད་ལ་དབང་། །
འZལ་བyན་hི་མེད་རིང་lགས་dེལ་བའི་/ད། །
-་ཆེན་གnང་དོན་ལེགས་བ‚ལ་འZལ་འཛoན་མཆོག །
IB་འོད་Bི་ཞབས་ལ་གསོལ་བ་འདེབས། །

Lab-Sum Yon-Ten Nor-Bu’i Zod-La-Wang,


Dhul-Ten Dri-Med Ring-Dhu Pel-Wa’i-Ley,
/ོབ་དཔོན་IB་འོད། Gya-Chen Zhung-Dhon Lek-Trel Dhul-Zin-Chok,
Shak-Kya Woe-Kyi Zhap-La Sol-Wa-Dhep.

35
18/ Con chí thành khấn nguyện Tôn giả Atisha
Thuyết giảng toàn triệt truyền thống giáo pháp sâu rộng
Lời Phật dạy cô đọng trong đạo lộ của ba hạng sĩ phu
Là Ân Sư hoằng dương Giáo Pháp Đấng Năng Nhơn
nơi xứ tuyết.
_བ་ག[ང་ཟབ་-ས་བཀའ་mོལ་མ་lས་པ། །
.ེས་S་ག[མ་]ི་ལམ་Z་འདོམས་མཛད་དེ། །
གངས་~ོངས་_བ་བyན་dེལ་པའི་hིན་ཅན་bེ། །
ཇོ་བོ་ཨ་ཏི་ཤ་ལ་གསོལ་བ་འདེབས། །

Thup-Soon Zab-Gyay Ka-Sol Ma-Lue-Pa,


Kyee-Bu Sum-Gyi Lam-Dhu Dhom-Zed-Dhe,
དཔལ་5ན་ཨ་ཏི་ཤ
Gang-Jong Thup-Ten Pel-Wa’i Drin-Chen-Je,
Jo-Wo A-Ti Sha-La Sol-Wa-Dhep.

19/ Các Ngài là bậc Trí giả trang nghiêm cho thế gian
Là nguồn xứ thiện thuyết tôn thắng siêu tuyệt
Với tín tâm thanh tịnh kiên cố con khẩn thỉnh
Gia trì dòng tâm thức con được thuần thục giải thoát.
དེ་•ར་འཛམ་Cིང་-ན་‹ར་མཁས་པའི་Œལ། །
ངོ་མཚར་ལེགས་བཤད་འgང་གནས་མཆོག་Xམས་ལ། །
མི་Aེད་དང་བའི་ཡིད་Bིས་གསོལ་བཏབ་པས། །
བདག་Tད་•ིན་ཅིང་8ོལ་བར་6ིན་]ིས་Žོབས། །
De-Tar Zam-Ling Gyen-Gyur Khed-Pa’i-Phul,
Ngo-Tsar Lek-Shed Jung-Ngey Chok-Nam-La,
Mi-Ched Dhang-Wa’i Yi-Kyie Sol-Tap-Pae,
Dhak-Gyud Min-Ching Drol-War Jin-Gyie-Lob.

36
20/ Biết rõ nghĩa Nhị Đế, nền tảng các pháp tồn tại
Hiểu Tứ Đế quyết định phương cách nhập và xuất luân hồi
Nhận thức đúng làm cho niềm tin kiên định đối với Tam Bảo
Thỉnh cầu gia trì con khởi nguồn Đạo Giải Thoát.
གཞི་ཡི་གནས་>ལ་བདེན་གཉིས་དོན་ཤེས་པས། །
བདེན་བཞིས་འཁོར་བ་འ•ག་5ོག་ཇི་བཞིན་ངེས། །
ཚད་མས་hངས་པའི་.བས་ག[མ་དད་པ་བeན། །
ཐར་ལམ་M་བ་>གས་པར་6ིན་]ིས་Žོབས། །
Zhi-Yi Ngey-Tsul Den-Nyie Dhon-Shee-Pae,
Den-Zhie Khor-Wa Juk-Dhok Ji-Zhin-Ngee,
Tsed-May Drang-Pa’i Kyab-Sum Dhed-Pa-Ten,
Thar-Lam Tsa-Wa Tsuk-Par Jin-Gyie-Lob.

21/ Gia trì cho con truy cầu giải thoát tịch diệt Khổ Đế và Tập Đế
Sinh tâm nhàm lìa, khát khao cứu độ chúng sinh
Nguồn gốc tâm bi trải khắp phương hướng biên tế
Luyện tâm bồ đề chân thật không hư giả.
Šག་pན་ཉེར་ཞིའི་ཐར་པ་དོན་གཉེར་བའི། །
ངེས་འgང་†ོ་དང་འ8ོ་Xམས་.ོབ་འདོད་པའི། །
Aོགས་མཐས་ག•གས་པའི་|ིང་bེའི་M་བ་ཅན། །
བཅོས་མིན་6ང་སེམས་འ6ོངས་པར་6ིན་]ིས་Žོབས། །
Dhuk-Kun Nyer-Zhi Thar-Pa Dhon-Nyer-Wa’i,
Ngee-Jung Lo-Dhang Dro-Nam Kyop-Dhoe-Pa’i,
Chok-Thae Tuk-Pa’i Nying-Je Tsa-Wa-Chen,
Choe-Min Jang-Sem Jong-Par Jin-Gyie-Lob.

37
22/ Xin gia trì cho con dễ dàng phát sinh xác quyết
Nghĩa lý kinh luận của các bậc Đại Khai Tông
Văn tư tu tất cả đạo lộ trọng yếu thâm sâu
Của Bát Nhã Ba La Mật Thừa và Kim Cang Thừa.
ཤིང་e་ཆེན་པོའ་ི གnང་གི་དོན་Xམས་ལ། །
ཐོས་བསམ་•ོམ་པས་ཕ་རོལ་Aིན་པ་དང་། །
Nོ་bེ་ཐེག་པའི་ཟབ་གནད་ལམ་pན་ལ། །
ངེས་པ་བདེ་†ག་fེད་པར་6ིན་]ིས་Žོབས། །
Shing-Ta Chen-Po’i Zhung-Ghi Dhon-Nam-La,
Thoe-Sam Gom-Pay Pha-Rol Chin-Pa-Dhang,
Dor-Je Thek-Pa’i Zab-Ngey Lam-Kun-La,
Ngee-Pa De-Lak Nyed-Par Jin-Gyie-Lob.

23/ Cầu mong đời đời có được thân tốt lành


Tu Tam Học, thuyết giảng và thực hành Giáo Chứng
Nguyện bảo trì, xiển dương giáo pháp
Phụng sự Phật Pháp tương đồng với các bậc Đại Khai Tông.
.ེ་ཞིང་.ེ་བར་བ/བ་ག[མ་5ན་པའི་eེན། །
ལེགས་ཐོབ་བཤད་དང་(བ་པས་lང་eོགས་བyན། །
འཛoན་ཅིང་dེལ་ལ་ཤིང་e་ཆེ་Xམས་དང་། །
མ>ངས་པར་བyན་ལ་6་བ་6ེད་པར་ཤོག །
Kye-Zhing Kye-War Lab-Sum Den-Pa’i-Ten,
Lek-Thop Shed-Dhang Drup-Pad Lung-Tok-Ten,
Zin-Ching Pel-La Shing-Ta Che-Nam-Dhang,
Tsung-Par Ten-La Ja-Wa Jed-Par-Shok.

38
24/ Nguyện cho tăng chúng tự viện tận dụng thời gian
Nghe học, tư duy, giảng dạy và tu hành
Đoạn trừ hết thảy lối sống tà mạn
Các bậc Thánh Hiền, trí giả càng tăng thịnh.
Mãi mãi trang hoàng lộng lẫy khắp đại địa thế gian.
འZས་Eེ་pན་•་ཐོས་བསམ་བཤད་(བ་Bི། །
6་བས་Zས་འདའ་ལོག་འཚ<་ཡོངས་dངས་པའི། །
དམ་པའི་མཁས་^བ་རབ་•་འཕེལ་བ་ཡིས། །
འཛམ་Cིང་ས་ཆེན་eག་•་མཛ‘ས་‹ར་ཅིག །
Due-De Kun-Tu Thoe-Sam Shed-Drup-Kyi,
Ja-Wae Dhue-Dha Lok-Tso Yong-Pang-Pa’i,
Dham-Pa’i Khed-Drup Rab-Tu Phel-Wa-Yie,
Zam-Ling Sa-Chen Tak-Tu Zed-Gyur-Chik.

25/ Nhờ năng lực đó con đạt đến Địa Đạo kinh hiển mật viên mãn
Hai lợi tự nhiên thành tựu
Chóng chứng quả vị Phật Biến Tri
Nguyện làm lợi ích chúng sinh cho đến khi nào hư không còn tồn tại.
དེ་མ_ས་མདོ་zགས་ཡོངས་vོགས་ས་ལམ་བ8ོད། །
དོན་གཉིས་’ན་^བ་Xམ་མ„ེན་-ལ་བ་ཡི། །
གོ་འཕང་“ར་བ་ཉིད་Z་ཐོབ་‹ར་ནས། །
ནམ་མཁའ་ཇི་mིད་འ8ོ་བའི་དོན་6ེད་ཤོག །
ཅེས་པ་འདི་ནི་ྋ-ལ་དབང་‡་•ེང་བ–་བཞི་པ་ཆེན་པོས་མཛད་པའོ། །

De-Thue Dho-Ngag Yong-Zok Sa-Lam-Drod,


Dhon-Nyie Lun-Drup Nam-Kyen Gyal-Wa-Yi,
Go-Phang Myur-Wa Nyed-Dhu Thop-Gyur-Ney,
Nam-Kha Ji-Si Dro-Wa’i Dhon-Jed-Shok.

39
Lời ghi của dịch giả:
Như vầy, Đức Phật Thế Tôn tuyên thuyết diệu pháp thâm sâu và quảng đại này
được các bậc Hiền Trí ở thánh địa Ấn Độ soạn tác nhiều tác phẩm xuất sắc để khai
mở mắt tuệ cho số đông người trí thức. Cho đến nay trải qua 2550 năm kinh luận ấy
vẫn còn đang được văn, tư duy, tu tập, chưa bị suy đồi. Đó là nhờ ân của các Bậc
Thầy Hiền Trí, với kính tin kiên cố nguyện nối bước theo các Ngài.
Thế giới thời nay khoa học và cơ khí vật chất phát triển cao, làm cho chúng ta
không ngừng bận tâm với chuyện thế tục. Chúng ta là đệ tử của Đức Phật, điều hết
sức quan trọng là phải có đức tin từ hiểu biết giáo pháp Đức Phật, với tâm thành thật
khởi hoài nghi khảo sát cẩn trọng tìm nguyên do, thấy có lý do hợp lý kết hợp với
trí tuệ để phát khởi niềm tin. Nhận thấy những tác phẩm siêu tuyệt thâm thuý rộng
lớn của Lục Trang Nghiêm (1), Nhị Thắng (2), Ngài Phật Hộ, Thánh Giải Thoát
Quân Luận Sư không thể không có. Theo truyền thống ngày xưa đã có bức Thangka
của Lục Trang Nghiêm và Nhị Thắng, nên vẽ thêm vào chín Đại Luận Sư nữa của
dòng truyền thừa các bậc Thầy trong đạo lộ thâm sâu rộng lớn, mới thành 17 bậc
Hiền Trí Nalanda. Tôi đã có ý muốn soạn tác lời khẩn nguyện bày tỏ lòng thành kính
của tôi đối với các bậc Hiền Trí thù thắng trên, cũng có một số pháp hữu tha thiết
khuyến cầu tôi viết lời khẩn thỉnh 17 bậc Hiền Trí trứ danh của Nalanda có tựa đề là
“Mặt trời chiếu sáng ba niềm tin”. Tôi thật sự khởi lòng tin đối với những tác phẩm
tuyệt xảo của các bậc Hiền Trí này, tôi được xếp hạng chót trong những người cầu
học thiện thuyết kiệt tác của các bậc Trí Giả này.
Đệ tử Đức Phật Tỳ Kheo Sakya Tenzin Gyatso soạn tác tại Thekchen Choeling,
Dharamsala, Quận Kangra, Tỉnh Himachal Pradesh, Ấn Độ, Phật lịch 2545 kể từ
ngày Phật Nhập Niết Bàn tính theo truyền thống Phật giáo Nguyên Thuỷ; ngày 01
tháng 11 năm Con Rắn Sắt trong 17 Rabjung (chu kỳ 60 năm theo lịch Tạng); nhằm
ngày 15 tháng 12 năm 2001 Tây lịch.
Cầu mong điều thiện lành toả khắp.
Nhật Hạnh – Tenzin Yangchen chuyển ngữ từ Tạng ngữ sang Việt ngữ.
Thầy giáo thọ Geshe Thupten Sonam, tu viện Drepung Loselling, Tsangpa
Khangtsen, Nam Ấn Độ hướng dẫn chuyển ngữ.
Dharamsala 12/04/2015
Chú thích:
(1)Sáu vị Trang Nghiêm: Ngài Long Thọ, Thánh Thiên, Vô Trước, Thế Thân,
Trần Na và Pháp Xứng.
(2)Hai vị đại luận sư thù thắng: Ngài Thích Ca Quang và Công Đức Quang.

40
Nguyện nhờ công đức này

Con sớm thành địa vị, của Đức Phật - Đạo Sư

Nguyện dẫn dắt chúng sinh, không chừa sót một ai

Vào địa vị giác ngộ.


དགེ་བ་འདི་ཡི་“ར་Z་བདག །†་མ་སངས་-ས་^བ་འ‹ར་ནས། །
འ8ོ་བ་གཅིག་Bང་མ་lས་པ། །དེ་ཡི་ས་ལ་འགོད་པར་ཤོག །

Ge wa di yi nyur du dag

La ma sang gya drub gyur na

Dro wa chig kyang ma lu pa

De yi sa la go par shog

Nguyện cho Bồ Đề Tâm

Nơi nào chưa phát triển, sẽ nảy sinh lớn mạnh

Nơi nào đã phát triển, sẽ tăng trưởng không ngừng

Không bao giờ thối chuyển


6ང་Yབ་སེམས་མཆོག་རིན་པོ་ཆེ། །མ་.ེས་པ་Xམས་.ེས་པ་དང་། །
.ེས་པ་ཉམས་པ་མེད་པར་ཡང་། །གོང་ནས་གོང་Z་འཕེལ་བར་ཤོག །

41
Jang chub sem chhog rin po che

Ma kye pa nam kye gyur chig

Kye wa nyam pa me pa yang

Gong na gong du phel war shog

Như Mạn Thù, Phổ Hiển

Chứng cảnh giới như thật

Con cũng xin nguyện đem, tất cả mọi công đức

Hồi hướng nơi cao cả, xin theo chân các Ngài.
འཇམ་དཔལ་དཔའ་བོས་ཇི་•ར་མ„ེན་པ་དང་། །pན་•་བཟང་པོ་དེ་ཡང་དེ་བཞིན་ཏེ། །
དེ་དག་pན་]ི་bེས་[་བདག་/ོབ་Aིར། །དགེ་བ་འདི་དག་ཐམས་ཅད་རབ་•་བzོ་། །

Jam pal pa wo ji khyen pa dang

Kun tu zang po de yang de shin te

De gag kun gyi je su dag lob chhir

Ge wa di dag tham cha rab tu ngo

Nguyện gửi hết thiện căn

Theo hồi hướng tuyệt hảo, của chư Phật ba thời

Sao cho con theo tròn

Tất cả mọi thiện hạnh.


Zས་ག[མ་གཤེགས་པའི་-ལ་བ་ཐམས་ཅད་Bིས། །བzོ་བ་གང་ལ་མཆོག་•་བzགས་པ་དེ། །
བདག་གཞན་དགེ་བའི་M་བ་འདི་pན་Bང་། །བཟང་པོ་—ོད་Aིར་རབ་•་བzོ་བར་བ]ི། །

42
Du sum sheg oa gyal wa tham cha kyi

Ngo wa gang la chhog tu ngag pa de

Dag gi ge wai tsa wa di kun kyang

Zang po cho chhir rab tu ngo war gyi

Nơi miền núi tuyết vây quanh

Có suối nguồn an lạc, của mọi sự tốt lành

Là bấc tối thánh Quán Thế Âm Tenzin Gyatso

Xin Thầy ở lại cõi thế, cho đến khi tận diệt luân hồi
གངས་རི་ར་བས་བ}ོར་བའི་ཞིང་ཁམས་[། །ཕན་དང་བདེ་བ་མ་lས་འgང་བའི་གནས། །
—ན་རས་གཟིགས་དབང་བyན་འཛoན་-་མཚ<་ཡི། །ཞབས་པད་mིད་མཐའི་བར་Z་བeན་འ‹ར་ཅིག །

Khang ri ra gue kho gue shing kham dir

Phan dang de wa ma lu jung gue ne

Chen re zig wang ten zin gya tso yi

Zhab pay sid te bar du ten gyur chig

43
Con xin quy y Phật, Pháp, Chúng trung tôn
Cho đến ngày chứng đắc viên mãn Bồ đề
Với những tư lương có được nhờ nghe pháp v.v…
Con nguyện thành Phật để lợi lạc chúng sinh (3 lần)

སངས་-ས་ཆོས་དང་ཚ<གས་Bི་མཆོག་Xམས་ལ། །
6ང་Yབ་བར་Z་བདག་ནི་.བས་[་མཆི། །
བདག་གིས་\ིན་ཚ<གས་བ]ིས་པའི་ཚ<གས་Xམས་Bིས། །
འ8ོ་ལ་Aིར་སངས་-ས་འ^བ་པར་ཤོག །

Sang gye choe dang tsog kyu chog nam la


Jang chob bar du dag ni kyab su chi
Dag gi choe nyen gyi pai tsog nam kyi
Dro la phen chir sang gye grub par shog

Các câu tâm chú:


Tâm chú Đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật:
Tadyatha Om Muni Muni Maha Muniye Svaha
Tâm chú Đức Quán Thế Âm:
Om Mani Padme Hum
Tâm chú Đức Văn Thù Sư Lợi:
Om Ara Pa tsa Na Dhi

44
Vô Thượng đạo sư Phật Bảo
Vô Thượng cứu hộ Pháp Bảo
Vô Thượng dẫn đạo Tăng bảo
Con dâng cúng dường Tam bảo, nơi quy y

Kính bậc Đạo Sư tôn quí, xin hẵng lắng nghe lời chân thành của con.
Đệ tử con tên là [đọc tên mình nơi đây] từ nay cho đến mạng chung [cả đời].
Con nguyện về nương tựa Phật, Lưỡng Túc Tôn
Con nguyện về nương tựa Pháp, Ly Dục Tôn.
Con nguyện về nương tựa Tăng, Chúng Trung Tôn.
Xin bậc Đạo sư hứa khả lời phát nguyện của đệ tử từ nay cho đến mạng chung
Lob pon gong su sol
Dag ming di [your name] shet gyi ba
Due di ney sung tay Ji sid tso bar du
Gang nyi nam kyi chog sang gye la kyab su chi
Dod chag dang drel way nam kyi chog choe la kyab su chi
Tsog nam kyi chog ge dun la kyab su chi
Dag ji sid tso bar du ge nyen du lob pon gyi sung du sol

Năm giới dành cho cư sĩ tại gia nên chánh: (1). Sát sanh; (2). Lấy của
không cho; (3). Tà dâm; (4). Nói dối; (5). Uống rượu

45
Với tâm nguyện giải thoát chúng sinh
Cho đến ngày viên mãn Bồ Đề
Con xin thường quy y
Phật, Pháp, Chúng Trung Tôn.
Dro nam drol dod sam pa yi
Sang gye choe dang gen dun la
Jang chub nying por chi kyi bar
Tag par dag ni kyab su chi

Con nguyện luôn tinh tấn


Tu bồi từ bi và trí tuệ
Vì lợi ích hữu tình
Trước chư Phật chứng minh
Con phát tâm Vô thượng Bồ Đề.
She rab nying tser dang jey pai
Tson pae sem jen don du dag
Sang gye dun du nay hyi tay
Dzog pai jang chub sem kyed do

Khi nào không gian còn


Chúng sinh còn tồn tại
Nguyện con còn ở lại
Xua tan mọi khổ nạn của mình
She rab nying tser dang jey pai
Tson pae sem jen don du dag
Sang gye dun du nay hyi tay
Dzog pai jang chub sem kyed do

46
Con xin quy y ngôi Tam Bảo
Sám hối tất cả từng tội chướng
Tuỳ hỷ phước thiện của chúng sinh
Nguyện bảo trì tâm Bồ Đề Phật.
Kon chog sum la dag kyab chi
Dig patham jed so sor shag
Dro way ge la je yi rang
Sang gye jang chub yid kyi sung

Cho đến ngày giác ngộ, con quy y


Phật, Pháp, Chúng Trung Tôn
Mục đích thành tựu tự tha lợi
Con nguyện phát khởi tâm Bồ Đề.
Sang gye choe dang tsog chog la
Jang chub par du dag kyab chi
Rang shen don ni rab drub chir
Jang chub sem ni kyed par gyi

Đã phát Tâm Bồ Đề thù thắng


Con đối đãi hết thảy chúng sinh khách quý
Nguyện hành duyệt ý Bồ Đề Thắng Hạnh
Vì lợi ích chúng sinh nguyện thành Phật.
Jang chub chog gi sem ni kyed gyi nay
Sem jen tham ched dag gi dron du nyer
Jang chub job chog yid wong jed par gyi
Dro la phen chir sang gye drub par shog

47
Phúc thay ta được thân người cao quý
Hôm nay sinh trong con nhà Như Lai
Con phải hành theo tư cách Phật gia
Không dơ dòng giống Phật Đà tối tôn
Deng due dag tsey drey bu yod
Mi yi pa leg par thob
De ring sang gye rig su kye
Sang gye sey su da gyur to
Da ni dag gi ji nay kyang
Rig dang thun pai lay tsam tay
Kyon mey tsun pai rig di la
Nynog par mi gyur de tar cha

(1). Khen mình, chê người do tham đắm nhận cúng dường lợi dưỡng,
được tôn kính như bậc Thầy.
(2). Không san sẻ phương tiện vật chất hoặc giáo pháp cho người bị khổ đau
không người trợ giúp, do vì bỏn xẻn muốn tích luỹ kiến thức riêng cho mình.
(3). Không nghe lời xin lỗi và tha thứ dù người đó nhận lỗi mà còn sân
hận đánh mắng họ.
(4). Chê bai giáo pháp của Phật và dạy tà kiến.
(5). Tìm mọi mưu mẹo trộm cướp phẩm vật dâng cúng Tam Bảo cho
riêng mình.
(6). Khinh chê Tam Tạng (Kinh, Luật, Luận Tạng) và tuyên bố Tam
Tạng không phải là lời dậy của Phật.
(7). Đuổi vị Tăng ra khỏi chùa hoặc trục xuất khỏi Tăng chúng vì không
tha thứ, cho dù họ phạm giới.

48
(8). Phạm bất kỳ một trong năm tội vô gián như giết mẹ, giết cha, giết A
La Hán, cố ý làm thân Phật chảy máu, phá hoà hợp Tăng do ủng hộ,
xiển dương tư tưởng bộ phái.
(9). Chấp thủ quan kiến sai lầm, trái với Phật Pháp như phân chia bộ
phái, không tin Tam Bảo, Luật Nhân quả v.v…
(10). Huỷ diệt toàn bộ nơi ở bằng lửa, bom, ma thuật, làm cho ô nhiễm.
(11). Dạy tánh không cho người chưa sẵn sàng lãnh hội.
(12). Khiến vị hành giả hành trì toàn giác Phật vị chuyển hướng hành trì
giải thoát khổ đau cho riêng mình.
(13). Khuyên người từ bỏ Biệt giải thoát giới
(14). Coi khinh Thanh Văn Thừa, làm cho người khác sinh quan kiến sai
lầm do nói rằng sự hành trì giáo lý Tiểu Thừa không dẫn đến Niết Bàn.
(15). Không hiểu hoặc hiểu chút ít về không tánh mà nói với người khác
rằng nếu họ lãnh hội không tánh thâm sâu, họ sẽ chứng đắc cao cả, vĩ
đại như bạn.
(16). Phẩm vật dâng cúng Tam Bảo mà khuyến khích họ cúng cho mình.
(17). Đem phẩm vật cúng cho một vị Tăng hành thiền chuyển cúng cho
một vị Tăng tụng niệm.
(18). Từ bỏ Bồ Đề Tâm.
Bồ Tát giới bị phạm hoàn toàn nếu đủ bốn yếu tố sau:
(1). Không cho là có lỗi khi phạm giới.
(2). Không từ bỏ ý muốn phạm giới.
(3). Lấy làm thoả mãn, vui vẻ khi phạm giới
(4). Không cảm thấy xấu hổ và bối rối khi phạm giới
Tuy nhiên, nếu phạm giới thứ 9 và thứ 18 thì phạm Bồ Tát giới không cần
hội đủ bốn yếu tố trên. Mười sáu giới còn lại phạm khi đủ bốn yếu tố trên.

49
46 giới nhẹ cần tránh như sau:
(1). Không dùng thân, khẩu, ý lễ bái, tán thán, cúng dường, thiền định về thiện
đức của Tam Bảo mỗi ngày để tăng trưởng kính tin nơi Tam Bảo.
(2). Nuông chiều dục tưởng, muốn có nhiều thứ vì không biết đủ.
(3). Không tỏ sự kính trọng chư Tăng lớn hơn, có thể họ là chư Bồ Tát.
(4). Không trả lời thắc mắc mà bạn có khả năng giải đáp.
(5). Vì sân hận không nhận lời mời củ người khác, muốn tổn thương họ; kiêu
ngạo xem mình thuộc hàng tôn quý hơn kẻ thấp kém; hoặc ghen tỵ, nghĩ rằng
người khác được tôn kính hơn mình, họ sẽ khinh thường xem mình là kẻ hạ đẳng.
(6). Không nhận tiền, quà v.v… của người khác do vì sân hận, kiêu ngạo hay gen tị.
(7). Không dậy pháp cho người cầu học.
(8). Bỏ mặc, không tha thứ và không giúp đỡ người phạm giới Biệt Giải Thoát.
(9). Không dậy phương diện khác thuộc về pháp cho người muốn học. Bạn có
trình độ chuyên môn dạy nhưng bạn không thích hoặc không có sự tự tu.
(10). Vì động cơ Bồ Đề Tâm, trong trường hợp xem là cần phạm một trong
bảy bất thiện hành thuộc thân và khẩu (phạm giới để giúp người) mà bạn không
phạm, bằng cách nói rằng điều ấy trái phạm với Biệt Giải Thoát giới.
(11). Vì thiếu lòng từ bi, không làm một trong bảy điều Bất Thiện Hành của
thân và khẩu trong trường hợp cần thiết với động cơ Bồ Đề Tâm.
(12). Nhận phẩm vật từ người sinh sống một trong năm loại tà mạn như nịnh
hót, tống tiền, sự khéo léo, ăn hối lộ hoặc lường gạt.
(13). Sôi nổi say đắm những việc vô bổ như giải trí, thể thao, rượu chè vớ vẩn v.v…
làm cho tâm tán loạn, phí phạm nhiều thời giờ mà bạn nên thực hành pháp.
(14). Mong ước giải thoát luân hồi cho riêng mình.
(15). Không giữ Bồ Tát Giới vì bạn nghĩ điều này khiến bạn không được ưa
chuộng (không nổi danh).

50
(16). Phiền não khiến bạn phạm giới nhưng không như pháp sám hối.
(17). Khi làm việc thiện bạn nổi sân, trả đũa khi bạn bị đánh, bị chửi, bị xúc
phạm danh dự hoặc bạn là đối tượng thù ghét của kẻ khác.
(18). Tản lờ giúp đỡ người giận mình.
(19). Không nhận lời xin lỗi của người khác khi họ có lỗi với bạn.
(20). Nuông chiều và làm theo ý tưởng sân hận.
(21). Thân cận đệ tử, tín đồ vì bạn muốn được lợi dưỡng, danh tiếng yêu thương
và an toàn.
(22). Không từ bỏ chướng ngại lười biếng, trì hoãn, tự khinh mình không có
khả năng, phí thời giờ và năng lực vào những việc vặt vãng ở đời.
(23). Vì bạn muốn tham đắm những chuyện phiếm và tán gẫu về giới tính, rượu
chè, nghiệp ngập, bè phái v.v…
(24). Không nỗ lực tu phương pháp đắc tịch chỉ.
(25). Không từ bỏ tán loạn chướng ngại thiền định.
(26). Thấy vui thích cảm thọ lạc và những lợi ích bạn có được từ thiền định
như là mục đích chính làm bạn tham đắm.
(27). Xao lãng học tập giáo lý Tiểu thừa.
(28). Chuyển đổi pháp hành khi bạn đang hành theo pháp môn phù hợp với
mình. Do đó, bạn đổi Đạo Sư và thừa giáo giữa đường khi bạn chắc chắn hướng
đến giác ngộ.
(29). Tốn nhiều công sức, thời gian học ngoại điển. Mặc dù bạn được phép
hiểu để có khả năng giúp đỡ làm lợi ích tha nhân nhưng không nên xao lãng
việc học pháp.
(30). Bạn chỉ đọc ngoại điển vì bị biệt đãi và tham chấp.
(31). Từ bỏ Đại Thừa.
(32). Tự khen mình và xem thường người khác do vì kiêu ngạo hay giận dữ.
(33). Không tham gia Pháp hội, hội họp, cầu nguyện, lễ, v.v…
(34). Khinh miệt Đạo Sư của mình và không nghe lời Thầy.

51
(35). Không giúp người cần giúp.
(36). Không chăm sóc người bệnh.
(37). Không giúp người giảm bớt khổ thân.
(38). Không chỉ dậy Phật pháp cho người không biết và người chỉ làm việc cho đời này.
(39). Không đền ơn người đã giúp mình.
(40). Không giảm bớt khổ tâm của người.
(41). Không bố thí tài vật cho người nghèo thiếu.
(42). Không chăm lo cho người thân, đệ tử, người hầu cận, bạn bè bằng pháp
thí hoặc tài thí.
(43). Không khuyến khích và ủng hộ người thực hành pháp và làm lành.
(44). Không khuyến khích và khen ngợi những người đáng khen.
(45). Không ngăn chặn người đang làm điều tổn hại chung. Trong tình huống
cần thiết, bằng mọi cách ngăn chặn sự tiếp tục làm tổn hại của họ. Đặc biệt họ
là mối đe doạ đối với Pháp.
(46). Bạn không sử dụng thần thông khi cần thiết

52
2. 🌸XƯNG TÁN ĐỨC BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT🌸

Con kính lễ Đức Phật Thích Ca


Người đoạn trừ mọi tà ác kiến
Với tất cả lòng đại bi mẫn
Ngài tuyên bày diễn thuyết diệu pháp.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Om Muni Muni Maha Muniye Soha.

གང་གི་_གས་བMེ་ཉེར་བ€ང་ནས། །
•་བ་ཐམས་ཅད་dང་པའི་Aིར། །
དམ་པའི་ཆོས་ནི་yོན་མཛད་པ། །
གོ་དམ་དེ་ལ་Aག་འཚལ་ལོ། །
ཨ˜་™་ནི་™་ནི་མš་™་ནི་ཡེ་›•œ ། །
Khẳng khì thục sê nhề sung nề
Ta wa thăm chệ ngăng pề chir
Thăm pế chuê nì tôn sệ pa
Khô tha ma thề lả chắc sên lô
Om Mu Ni Mu Ni Ma Ha Mu Ni Yê Sô Ha

#Trích: Căn Bản Trí Tuệ Trung Quán


#Của Ngài Long Thọ

53
3. 🌸XƯNG TÁN ĐỨC VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT🌸
འཇམ་དཔལ་ད6ངས་Bི་བyོད་པ།
Chẳm pê jăng kì tuê pa
***
Kính lễ Thượng sư và Ngài Hộ Pháp Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát
†་མ་དང་མགོན་པོ་འཇམ་དཔལ་ད6ངས་ལ་Aག་འཚལ་ལོ། །
La ma thằng gôn pô chề chun chẳm pê jăng là chắc sên lô

Trí tuệ của Ngài thanh tịnh rực sáng như mặt trời thoát ly đám mây hai chướng
གང་གི་†ོ་8ོས་ˆིབ་གཉིས་žིན་kལ་ཉི་•ར་Xམ་དག་རབ་གསལ་བས། །
Khẳng khi lô truế trin nhi chin chệ nhỉ tar nằm răb sê guề

Giữ quyển kinh giữa ngực, chứng tri vạn pháp như thật
ཇི་|ེད་དོན་pན་ཇི་བཞིན་གཟིགས་Aིར་ཉིད་Bིས་_གས་ཀར་Cེགས་བམ་འཛoན། །
Chỉ nhê thổn kun chi sin sịch chir nhi kì thuc kar lêch pẳm sin

Những ai bị ngục tù ở cõi hữu, chìm trong bóng tối vô minh khổ não áp bức
གང་དག་mིད་པའི་བཙ<ན་རར་མ་རིག་™ན་འཐོམས་Šག་བzལ་]ིས་གཟིར་བའི། །
Khẳng đắc si pê sôn rar mả rích mun thôm đục ngên tri shi guề

Thương yêu tất cả chúng sinh như con một


Lời Ngài với 60 Diệu Âm
འ8ོ་ཚ<གས་pན་ལ་S་གཅིག་•ར་བMེ་ཡན་ལག་Ÿག་–འི་ད6ངས་5ན་ག[ང༌། །
Trồ sooc kun là pu chích tar sê jền lắc trục chu jang đển sung

Làm thoát khỏi xiềng xích của nghiệp


Như sấm lớn đánh thức giấc ngủ si mê
འ¡ག་•ར་ཆེར་ˆོགས་ཉོན་མོངས་གཉིད་/ོང་ལས་Bི་¢གས་ˆོག་ˆོལ་མཛད་ཅིང༌། །
Chục tar chềr trốc nhổn mông nhi lông lể kì chắc trốc trô zê ching

54
Cầm kiếm báu chặt đứt tất cả mầm khổ đau, xoá tan bóng tối vô minh
མ་རིག་™ན་སེལ་Šག་བzལ་“་£་ཇི་|ེད་གཅོད་མཛད་རལ་8ི་བuམས། །
Ma rích mun sề đục nghên Nhu Khu ji nhê truê jệ rên tri năm

Ngài nguyên sơ vốn thanh tịnh, là trưởng tử của đáng chiến thắng đã
hoàn mãn mọi công đức chứng thập địa
གདོད་ནས་དག་ཅིང་ས་བ–འི་མཐར་སོན་ཡོན་ཏན་lས་vོགས་-ལ་mས་_་བོའི་‡། །
Đuê nề thắc ching sa chun thar sôn yôn đên luy sốc gề sệ thu gô ku

Con kính lễ Đức Văn Thù 11 tướng trang nghiêm xoá tan bóng tối
trong tâm con
བ–་•ག་བ–་དང་བ–་གཉིས་-ན་žས། །བདག་†ོའི་™ན་སེལ་འཇམ་དཔལ་ད6ངས་ལ་འZད། །
Chu chắc chu thằng chu nhị gền chệ đắc luê mùn sê zăm pê zăng lả đuý

Với lòng bi ánh sáng trí tuệ của Ngài


བMེ་5ན་„ོད་Bིས་མ„ེན་རབ་འོད་ཟེར་]ིས། །
Sề đên truy kì gên rắp ồ sê khi

Xoá tan bóng tối si mê trong tâm con


བདག་†ོའ་ི གཏི་™ག་™ན་པ་རབ་གསལ་ནས། །
Đắc luê ti mup mủn pa rắp sê nề

Liễu ngộ truyền thống Kinh điển và Luận giải


བཀའ་དང་བyན་བཅོས་གnང་lགས་eོགས་པ་ཡི། །
Ka thằng tên chuê sung lúc tốc pa jì

Khởi sinh ánh sáng của tuệ lực


†ོ་8ོས་dོབས་པའི་uང་བ་¤ལ་Z་གསོལ། །
Lô Truê pô pề nẳng wa chên tu sô

55
4. 🌸XƯNG TÁN DUYÊN KHỞI🌸

Kính lễ Thượng sư Diệu Âm Bồ Tát

(1). Đấng trí, thuyết vô thượng


Do bởi thấy và thuyết. Kính lễ đấng tối thắng
Vị chứng, thuyết duyên khởi.

(2). Mọi suy thoái trên đời


Đều từ rễ vô minh. Thấy pháp gì diệt trừ
Phật dậy thuyết duyên khởi.

(3). Vì vậy người có trí


Lẽ nào không hiểu rằng. Trí tuệ về duyên khởi
Là tinh tuý pháp Phật.

(4). Thế nên, ai xưng tán


Hy hữu, đấng Cứu hộ. Ngoại trừ pháp duyên khởi
Còn pháp nào hơn thế?

(5). Các pháp y duyên sanh


Pháp ấy tự tánh không.
Tuyệt vời thay thiện thuyết
Còn giáo thuyết nào hơn?

(6). Kẻ phàm ngu chấp thật


Bị biên kiến trói chặt. Trí giả với duyên khởi
Cắt đứt lưới hí luận.

56
(7). Pháp này không đâu thấy
Nên tôn Ngài Đạo sư. Ngoại đạo chỉ khoa trương
Gọi chồn là sư tử.

(8). Thiện tai Đại Đạo Sư


Thiện tai đấng Y xứ. Thiện tai Thù thắng thuyết
Thiện tai đấng Cứu hộ. Con kính lễ Đại sư.
Khéo tuyên thuyết duyên khởi.

9. Hằng vì ích chúng sanh.


Đấng Y vương thuyết giáo. Tâm yếu là tánh không.
Nhân quyết định vô tỉ.

(10). Cho rằng lý duyên khởi


Lỗi tương vi, bất hành
Người ấy làm sao hiểu. Giáo pháp của Thế Tôn?

(11). Phật dạy nếu khi thấy


Không tức nghĩa duyên khởi. Tự tánh ấy là không
Chấp nhận tác sở tác. Không trái nghịch lẫn nhau.

(12). Nếu ai thấy ngược lại


Không thì không tác dụng. Tác dụng chẳng phải không
Kẻ ấy rớt xuống ngay. Vực khổ não hiểm ác.

(13). Vì thế giáo pháp Phật


Tán thán kiến duyên khởi. Chẳng phải không tất cả
Chẳng phải có tự tánh.

57
(14). Độc lập như hoa đốm
Không duyên không hiện hữu. Nếu nó có thật tánh
Trái quan hệ nhân duyên.

(15). Vì vậy không pháp nào


Mà không do duyên khởi. Nếu phi tự tánh không
Không pháp nào tồn tại.

(16). Nếu pháp có tự tánh


Tự tánh không thể diệt. Không thể diệt hí luận
Không thể chứng Niết Bàn.

(17). Giữa pháp hội trí thức


Với tiếng hống sư tử. Thế Tôn tuyên nhiều lần
Các pháp ly tự tánh. Đối với quan điểm này
Ai dám tranh biện Ngài?

(18). Không mảy may tự tánh


Duyên đây pháp này sinh. Tất cả lý đều thành
Chân tục không mâu thuẫn.

(19). Do thiện thuyết duyên khởi


Không lệ thuộc biên kiến. Lý do thiện thuyết ấy
Tôn Ngài vô thượng thuyết.

(20). Cái này tự tánh không


Duyên cái này quả sinh. Hai khẳng định tương đối
Tương hỗ không tương huỷ.

58
(21). Còn gì kỳ diệu hơn
Còn gì thù thắng hơn. Còn đạo lý nào hơn
Để tán thán Thế Tôn.

(22). Nô dịch bởi ngu si


Chúng thù địch Thế Tôn. Không hiển diệu âm vô tự tánh
Có gì phải ngạc nhiên.

(23). Thọ hành Thế Tôn giáo


Trân trọng thuyết duyên khởi.
Mà không kham tiếng hống Không tánh
Ấy mới thật ngạc nhiên.

(24). Cửa vô thượng dẫn vào


Duyên khởi là vô tánh. Phàm phu từ danh xưng
Trở lại chấp tự tánh.

(25). Biết lấy phương tiện nào


Đưa những chúng sanh ấy. Vào đạo lộ vô tỷ
Lối chư Thánh thiện hành
Mà Thế Tôn hoan hỷ.

(26). Tự tánh, phi hư, phi đối đãi


Duyên sinh hư giả và đối đãi. Làm sao cùng thống nhất
Hai sự không mâu thuẫn?

(27). Những gì do duyên khởi


Bản lai không tự tánh. Bản thể chúng là không

59
Trong không mà hiển lộ.
Hư ảo thuật hoá hiện.

(28). Thế tôn chơn thật thuyết


Kẻ vấn nạn thảm bại. Chẳng tìm ra sơ hở
Khiến cho chúng khiếp đảm

(29). Thuyết này nhắm đích gì?


Các pháp thấy, không thấy.
Viễn ly lối chấp trước. Tăng ích và tổn giảm.

(30). Lời Thế Tôn vô tỷ


Nhơn thấy lý duyên khởi.
Tâm con khởi xác tín
Giáo pháp khác Ngài dạy.

(31). Kiến như nghĩa thiện thuyết


Chư vị học theo Ngài. Xa lìa mọi suy tổn
Nhổ tận gốc sai lầm.

(32). Quay lưng với thánh giáo


Dù khổ hạnh dài lâu
Càng gọi, càng sai lầm. Do ngã kiến kiên cố.

(33). Hy hữu, người có trí


Hiểu khác biệt giữa hai. Há dễ tận đáy lòng
Không tôn kính Thế Tôn.

60
(34). Chưa hiểu nhiều pháp Phật
Dù nơi một phần nghĩa. Xác quyết khởi sanh ra
Tâm hỷ lạc thù thắng.

(35). Ôi! Vì ngu thiếu huệ


Tuy quy y Phật đã lâu. Con chưa hiểu một phần
Công đức tụ Thế Tôn.

(36). Thế nhưng, khi lâm chung


Dòng sinh mạng chưa dứt. Tạm thời chút tín tâm
Đây quả thật đại hạnh

(37). Thuyết duyên khởi trong các thuyết


Trí duyên khởi trong các trí. Như Tối thắng vương trong đời
Thế Tôn chứng tri, không ai khác.

(38). Tất cả giáo pháp phật


Hướng nhập lý duyên sinh. Nhằm hướng đến Niết Bàn
Ngài chẳng hành hạnh nào. Không mang lại tịch tỉnh.

(39). Vi diệu thay, giáo pháp cao minh


Những ai nghe được rót vào tai. Đều đạt đến cùng tịch tịnh trí
Ai mà không cung kính thọ trì.

(40). Hay hàng phục oán địch


Lìa trái nghịch trước sau
Cho chúng sanh hai lợi, với tôn đạo lý này
Chúng con thêm hoan hỷ!

61
(41). Trải qua vô lượng kiếp
Vì truy cầu duyên khởi. Ngài thí nhiều thân mạng
Người thân cùng tài sản.

(42). Thấy những công hạnh nào


Dẫn pháp từ Tôn ý. Như lưỡi câu câu cá
Thật là kém phước duyên. Chưa nghe chính Phật dậy.

(43). Tự hận thiếu thiện căn


Lực của nỗi ưu não. Không rời tâm ý con
Như lòng mẹ trông con

(44). Suy nghiệm lời Tôn sư


Tướng tốt chiếu sáng ngời. Lưới hào quang xoay quanh
Bằng phạm âm Phật thuyết.

(45). Tâm con tưởng lời Ngài


Ảnh tượng đấng Năng nhơn. Hiển hiện trong lòng con.
Như ánh trăng mát dịu. Xua tan khổ nóng bức.

(46). Giáo pháp vi diệu này


Kẻ phàm phu vô trí. Lúng túng và hỗn loạn
Như vướng trong cỏ rối.

(47). Thấy tình thế như vậy


Con đặt nhiều nỗ lực. Thuận hành theo trí giả
Truy cầu chơn mật ý.

62
(48). Khi học nhiều kinh điển
Ngoại giáo lẫn nội giáo. Tâm con luôn khổ não
Vướng mắc lưới hoài nghi

(49). Thế Tôn thọ ký Thánh Long Thọ


Giải thích rõ pháp vô thượng thừa.
Giáo thuyết như vườn hoa kunda
Khiến lìa biên chấp hữu và vô.

(50). Trí vô nhiễm trăng tròn


Vô ngại dạo hư không. Trừ tối tăm biên kiến
Át sao đêm tà thuyết.

(51). Vòng bạch quang chiếu diệu


Thiện thuyết của Nguyệt Xứng
Khi gặp được ân sư
Tâm con được an ổn.

(52). Trong tất cả Phật sự


Thuyết pháp là đệ nhứt.
Người trí tưởng niệm Phật
Từ duyên khởi mà niệm

(53). Xuất gia nối gót Bậc Đạo sư


Tu học Thánh giáo không yếu kém.
Tỳ kheo tinh tấn hành du già
Để tỏ tôn kính Đại Tiên Nhơn.

63
(54). Nhờ ân đức Tôn sư
Con ngộ pháp vô thượng. Hồi hướng công đức này
Cho tất cả hữu tình
Được thiện hữu nhiếp thọ.

(55). Nguyện cầu giáo pháp Đấng lợi sanh


Tồn tại đến cùng biên tế hữu. Bất động trước gió ác phân biệt
Người người tín nhẫn thường sung mãn
Thông đạt thuyết giáo của Đạo sư.

(56). Nguyện trong mọi kiếp xả thân mạng


Trụ trì diệu pháp đấng Năng nhơn
Hiển dương thậm thâm duyên khởi tánh
Dẫu một sát-na không buông lung.

(57). Con nguyện ngày đêm thường suy tìm


Phương tiện nào xiển dương diệu pháp
Đạo sư tối thắng vô thượng kiếp. Tận tâm nỗ lực mới thành tựu.

(58). Khi hành tinh tấn tịnh ý lạc


Nguyện chư Phạm Thiên, Đế Thích, Hộ thế
Thiện thần, Hộ pháp, Đại Hắc thiên
Thường xuyên hộ trì không xao lãng.

Thi tụng này được soạn bởi: Tôn giả Je Tsong Kha Pa
Chuyển ngữ: Sư cô Nhật Hạnh

64
5. 🌸XƯNG TÁN ĐỨC QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT🌸
ག€ངས་zགས་ཁག་བnགས་སོ། །

&Ngàn tay là ngàn vị Chuyển Luân Vương


Aག་yོང་འཁོར་ལོས་¥ར་བའི་-ལ་པོ་yོང་། །
Chak-Tong Khor-Loe Gyur-Wa’i Gyal-Po-Tong

👁Ngàn mắt là ngàn vị Phật hiền kiếp


—ན་yོང་བ}ལ་བ་བཟང་པོའི་སངས་-ས་yོང་། །
Chen-Tong Kel-Pa Sang-Po’i Sang-Gyed-Tong

Tuỳ căn cơ giáo hoá điều phục chúng


གང་ལ་གང་འZལ་དེ་ལ་དེར་yོན་པ། །
Gang-La Gang-Dhul Dhe-La Dhe-Ton-Pa

Đảnh lễ Thánh Bồ Tát Quán Thế Âm.


བUན་པ་—ན་རས་གཟིགས་ལ་Aག་འཚལ་ལོ། །
Tsun-Pa Chen-Red Zik-La Chak-Tsel-Lo

།&

&

65
Hồi hướng:
Nguyện nhờ công đức này,
Con sớm thành địa vị, Của Đức Quan Thế Âm.
Nguyện dẫn dắt chúng sinh,
Không chừa sót một ai, Vào địa vị giác ngộ.
དགེ་བ་འདི་ཡིས་“ར་Z་བདག །
—ན་རས་གཟིགས་དབང་འ^བ་‹ར་ནས། །
འ8ོ་བ་གཅིག་Bང་མ་lས་པར། །
„ེད་Bི་ས་ལ་འཁོད་པར་ཤོག །
Ge-Wa Dhi-Yie Nyur-Dhu -Dhak
Chen-Red Zik-Wang Drup-Gyur-Ned
Dro-Wa Chik-Kyang Ma-Lue-Pa
Dhe-Yi Sa-La Khoe-Par-Shok.

66
OM vajra bhumi AH HUM. Đây là vùng đất vàng kim cang hùng vĩ.
OM vajra rekhe AH HUM. Đây là tường thành kim cang.
Vòng ngoài có núi vây quanh. Chính giữa là núi Tu Di, vua của các núi. Bốn
phía có: Đông Thắng Thần châu [Videda, châu của người thân lớn], Nam
Thiệm Bộ châu [jambudvipa, châu của cây Diêm phù], Tây Ngưu Hoá châu
[Godaniya, châu có trâu như nguyện] và Bắc Câu Lư châu [Kuru].
Hai trung châu [hướng Đông] là Thân châu và Thắng Thân châu [Deha,
Videha]. [Hướng Nam] là Miêu Ngư châu và Thắng Miêu Ngư châu [Camara,
Apara – camara]. [Hướng Tây] là Xiêm Châu và Thượng Nghi Châu [Satha,
Uttara-mantrina]. (Hướng Bắc) là Thắng Biên Châu và Hữu Thắng Biên châu
[Kurava, Kaurava]. [Ở bốn đại châu này], [phía Đông có] núi châu bảo, [phía
Nam có] núi như ý, [phía Tây có] núi trâu như nguyện, [phía Bắc có] vụ mùa
không cần cấy trồng.
[Tầng một có:] luân xa quí, châu ngọc quí, hoàng hậu, thừa tướng tướng quí,
ngựa quí, đại tướng quí, và bình bảo tích quí.
[Tầng hai có:] tám vị Thiên nữ: Thiên nữ Đẹp, Thiên nữ Tràng hoa, Thiên nữ
Bài ca, Thiên nữ Điệu múa, Thiên nữ Bông hoa, Thiên nữ Hương đốt, Thiên
nữ Đuốc sáng, Thiên nữ Hương thơm.
[Tầng ba có:] Mặt trời và mặt trăng; Bảo cái Tràng phan phất phới khắp mọi phương.
Ở giữa là tất cả sản vật quý giá nhất của cõi trời, cõi người, không thiếu thứ gì,
thanh tịnh đẹp đẽ trang nghiêm. Xin cúng dường cảnh Phật này lên các Đấng
Bổn Sư từ bi diệu thắng của dòng truyền thừa, đặc biệt là Đấng Bổn Tôn Pháp
Chủ của Lama Tông Khách Ba, vua của các bậc Thánh, Đại Kim Cang Trì
[Maha-Vajradhara], cùng những vị thánh chúng tuỳ tùng. Và đặc biệt là vị
Thầy tôn kính Đạt Lai Lạt Ma 14, người chấp trì toàn bộ chánh pháp, mong
sao cho con nhận được giáo pháp Đại Thừa từ lời nói vàng ngọc của Thầy.
Xin hãy vì chúng sinh mà từ bi tiếp nhận cúng phẩm này. Xin mở tâm đại bi
ban sức mạnh gia trì cho con và cho cha mệ nhiều đời của con, là chúng sinh
nhiều sánh không gian vô tận.

67
Con xin hiến cúng
Đất này trang nghiêm hương hoa,
Điểm núi Tu Di, tứ đại bộ châu, mặt trời và mặt trăng,
Quán tưởng thành cõi Phật.
Nguyện chúng sinh yên vui trong cảnh thanh tịnh này.
Sa zhi po kyi jug shing me tog tram
Ri rab ling zhi nyi dae gyan pa di
Sangye zhing du mig te bul wa yi
Dro kun nam dak zhing la cho par shog

Từ pháp thân Thượng Sư tôn giả


Hiển hiện mây bi trí giữa hư không,
Khẩn thỉnh tuôn mưa pháp sâu rộng.
Xuống ruộng tâm đồ chúng khiến điều phục
Je tsun lama dam pa khye nam kyi
Chho kui kha la khyen tsai trin trik ne
Jita tsam pai dul jai zin ma la
Zab gye chhoe kyi char pa up tu sol

68
Sám hối nghiệp chướng là hạnh thứ tư trong Thập nguyện mà Đức Phổ
Hiền Bồ Tát tuyên thuyết nơi Hoa Nghiêm đại hội. Và cũng là pháp tu thiết
yếu mà hàng Phật Tử thời mạt pháp phải nghiêm cẩm hành trì. Kinh dạy: "Nếu
nghiệp ác mà có hình tướng thiệt, thời tất cả hư không cũng không thể dung
chứa cho hết". Há có thể lơ là được chăng?
Con tên là … quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng.
🙏 1.Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật.(1 lạy)

🙏 2.Nam mô Kim Cương Bất Hoại Phật.(1 lạy)


🙏 3.Nam mô Bảo Quang Phật.(1 lạy)

🙏 4.Nam mô Long Tôn Vương Phật.(1 lạy)


🙏 5.Nam mô Tinh Tấn Quân Phật.(1 lạy)
🙏 6.Nam mô Tinh Tấn Hỉ Phật.(1 lạy)

🙏 7.Nam mô Bảo Hỏa Phật.(1 lạy)


🙏 8.Nam mô Bảo Nguyệt Quang Phật.(1 lạy)

🙏 9.Nam mô Hiện Vô Ngu Phật.(1 lạy)


🙏 10.Nam mô Bảo Nguyệt Phật.(1 lạy)

🙏 11.Nam mô Vô Cấu Phật.(1 lạy)


🙏 12.Nam mô Dũng Thí Phật.(1 lạy)
🙏 13.Nam mô Thanh Tịnh Phật.(1 lạy)

🙏 14.Nam mô Thanh Tịnh Thí Phật.(1 lạy)


🙏 15.Nam mô Ta Lưu Na Phật.(1 lạy)

69
🙏 16.Nam mô Thủy Thiên Phật.(1 lạy)

🙏 17.Nam mô Kiên Đức Phật.(1 lạy)


🙏 18.Nam mô Chiên Đàn Công Đức Phật.(1 lạy)
🙏 19.Nam mô Vô Lượng Cúc Quang Phật.(1 lạy)

🙏 20.Nam mô Quang Đức Phật.(1 lạy)


🙏 21.Nam mô Vô Ưu Đức Phật.(1 lạy)

🙏 22.Nam mô Na La Diên Phật.(1 lạy)


🙏 23.Nam mô Công Đức Hoa Phật.

🙏 24.Nam mô Tịnh Hoa Quang Du Hí Thần Thông Phật.(1 lạy)


🙏 25.Nam mô Liên Hoa Du Hí Thần Thông Phật.(1 lạy)
🙏 26.Nam mô Tài Công Đức Phật.(1 lạy)

🙏 27.Nam mô Đức Niệm Phật.(1 lạy)


🙏 28.Nam mô Thiện Danh Xưng Công Đức Phật.(1 lạy)

🙏 29.Nam mô Hồng Diệm Đế TràngVương Phật.(1 lạy)


🙏 30.Nam mô Thiện Du Bộ Công Đức Phật.(1 lạy)

🙏 31.Nam mô Đấu Chiến Thắng Phật.(1 lạy)


🙏 32.Nam mô Thiện Du Bộ Phật.(1 lạy)

🙏 33.Nam mô Châu Táp Trang Nghiêm Công Đức Phật.(1 lạy)


🙏 34.Nam mô Bảo Hoa Du Bộ Phật.(1 lạy)
🙏 35.Nam mô Tu Di Sơn Vương Phật.(1 lạy)
Tất cả thế giới chư Phật Thế Tôn hi hữu như vậy thường tại ở đời. Chư
Thế Tôn ấy nên thương nhớ con. Hoặc con ở đời nầy hoặc con ở đời trước từ
đời vô thỉ sanh tử đến nay đã tạo những tội: hoặc tự mình làm, hoặc bảo người
làm, thấy làm tùy hỉ ; hoặc vật của tháp, hoặc vật của Tăng, vật tứ phương

70
Tăng, hoặc tự mình lấy; hoặc bảo người lấy, thấy lấy tùy hỉ; năm tội vô gián
hoặc tự mình làm, hoặc bảo người làm, thấy làm tùy hỉ; những tội đã làm, hoặc
có che giấu, đáng đọa địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, các ác đạo khác biên địa hạ
tiện và kẻ ác kiến, bao nhiêu những tội đã làm như vậy nay đều sám hối.
Nay chư Thế Tôn nên chứng biết con nên ghi nhớ con, con lại ở trước chư
Phật Thế Tôn bạch lời như vầy: Hoặc con ở đời này hoặc con ở đời khác từng
làm bố thí hoặc giữ tịnh giới nhẫn đến thí cho súc sanh thiếu đói chừng một
vắt cơm, hoặc tu tịnh có những thiện căn, thành tựu chúng sanh có những thiện
căn, tu hành Bồ Đề có những thiện căn và trí vô thượng có những thiện căn,
tất cả hội họp so đếm tính lường thảy đều hồi hướng Vô Thượng Bồ Đề, như
chư Thế Tôn quá khứ vị lai và Phật hiện tại hồi hướng như vậy.
Các tội đều sám hối
Các phước đều tùy hỉ
Và công đức chư Phật
Nguyện thành trí vô thượng
Khứ lai hiện tại Phật
Tối thắng trong chúng sanh
Biển vô lượng công đức
Nay con quy mạng lễ.

Nguyện đem công đức này


Hồi hướng khắp tất cả
Đệ tử và chúng sanh
Đều trọn thành Phật đạo 🙏🙏🙏

71

(1). Đức Thích Ca Mâu Ni Phật: Ngài toạ ở vị trí trung tâm và ngồi trên ngôi báu.
Thân sắc: Thân màu vàng ròng, tay trái ôm bát khất thực.
(2). Đức Kim Cương Bất Hoại Phật: Thân của Như Lai, thân bất hoại, thể
của Kim Cương, hộ trì hành giả chặt đứt mọi phiền não, bệnh tật, cái ác…trên
con đường tu tập
Thân sắc: xanh lam, hai tay Ngài cầm chuỳ Kim cang.
(3). Bảo Quang Phật: tiếng phạn: ratna là vật báu. Lăng Nghiêm nói rằng: ‘’từ
trong nhục kế phun ra ánh sáng trăm báu, trong ánh sáng hiện ra Đức Phật
tuyên nói thần chú’’, tâm phát ánh sáng chiếu khắp chân pháp giới nên gọi
Ngài là Bảo Quang Phật.
Thân sắc: trắng, tay phải cầm chuỳ Kim cang giữa luân xa tim, tay trái
cầm viên minh châu.
4). Long Tôn Vương Phật: Bậc tối tôn của loài rồng, nên gọi là Vương (Vua),
nghe Phật âm giao cảm mà phát tâm tin, quy đầu nơi Phật để được tự tại.
Thân sắc: xanh lam, tay phải cầm cây của loài rồng, tay trái cầm một 🐍
(5). Tinh Tấn Quân Phật: Là bậc thế quân dũng mãnh tinh tấn, đẩy lui oán
địch. Đức Như Lai là vị tướng của Đại pháp. Chúa tể của các chiến binh, giáng
phục quân Ma (niệm danh hiệu Ngài diệt các ác nghiệp về khẩu).
Thân sắc: Vàng, tay phải cầm kiếm, tay trái cầm Kinh thư
(6). Tinh Tấn Hỷ Phật: tinh tiến tu tập Đạo. Do tinh tiến cho nên chuyên Tâm
hướng về Đạo, được sự vui thích của Pháp, viên thành Phật Quả.
Thân sắc: Da cam, tay phải cầm minh châu, tay trái cầm cành hoa Sen.
(7). Bảo Hoả Phật
Hoả: lửa thiêu đốt phiền não, ánh sáng của Đức Phật chiếu soi tất cả, lửa
bên trong chân như, thành thục căn lành. Lăng Nghiêm nói rằng: “trong Như

72
Lai Tạng, lửa chân thật của tính không’’, trong sạch, tuỳ theo tâm của chúng
sinh mà ứng biến.
Thân sắc: Đỏ rực, tay phải cầm ốc báu có lửa bao quanh, tay trái cầm cốc
nến đang cháy.
(8). Bảo Nguyệt Quang Phật
Nguyệt: ánh sáng trăng, candra trong tiếng Phạn là tướng biểu thị cho giải thoát.
Quang: prabha, biểu thị cho Bát nhã.
Bảo Nguyệt Quang biểu thị cho Công đức Phật của Như Lai.
Thân sắc: Trắng, tay phải cầm ốc báu bao quanh bởi lửa, tay trái cầm dạ minh châu.
(9). Hiện Vô Ngu Phật
Tiếng phạn là bất không kiến.
Khi ánh sáng trí tuệ soi chiếu thì si mê, chướng nạn được tiêu tan
Kinh Bát Nhã nói: “trí tuệ ngu si thông là Bát nhã”.
Biểu thị cho thân Trí Tuệ Phật của Như Lai.
Thân sắc: màu xanh lá cây. Tay phải đưa xuống tiếp dẫn chúng sinh, tay
trái: lòng bàn tay hướng về phía trước để ban cho các hạnh nguyện của chúng
sinh thành hiện thực.
(10). Bảo Nguyệt Phật
Ratna: Cứu giúp khổ đau
Candra trong mát
Dùng báu trong mát cứu giúp khắp chúng sinh, trừ diệt khổ nóng bức, nên gọi
là Bảo Nguyệt. Đây là ví dụ cho thân Ứng Hoá Phật của Như Lai.
Thân sắc: thân trắng (ngả xanh lá nhạt), tay phải cầm ốc báu bao quanh
bởi lửa, tay trái cầm dạ minh châu.
(11). Vô Cấu Phật: Tự tánh của Như Lai trong sạch, vốn không có nhiễm dơ
nên gọi là vô cấu.
Thân sắc: màu khói, bao quanh bởi tro, hai tay ôm một chiếc gương sáng trước ngực

73
(12). Dũng Thí Phật: Tài thí, pháp thí, vô uý thí ban cho chúng sinh không có
giải thoát nên gọi là Dũng thí.
Thân sắc: trắng, hai tay ôm cây có lá và nhiều quả
(13). Thanh Tịnh Phật
Tự tính của Như Lai vốn thanh tịnh, lìa các bụi nhiễm, trong ngoài trong suốt,
không có tối tăm.
Thân sắc: da cam, tay phải cầm viên minh châu hướng ra ngoài, tay trái
cầm nhành hoa Sen.
(14). Thanh Tịnh Thí Phật: dúng Chính để trợ giúp giáo Pháp, giáo hoá chúng sinh.
Thân sắc: màu vàng, tay phải cầm viên minh châu hướng ra ngoài, tay trái
cầm nhành hoa Sen.
(15). Ta Lưu Na Phật
Lưu Na là nước cam lồ, cải tử hoàn sinh, chuyển phàm thành Thánh
Thân sắc: xanh lam, hai tay ôm bánh xe pháp.
(16). Thuỷ Thiên Phật: dùng nước Thiên lý để nuôi dưỡng tâm, tu tập quán
hạnh thành quả Chánh Giác
Thân sắc: trắng, tay trái ôm vòng tròn của thần nước bao quanh chiếc gương.
(17). Kiên Đức Phật: Dùng pháp của Vô lậu giới tu nhiếp tâm, dùng đức làm
rạng danh
Thân sắc: Đỏ, tay phải cầm nhành sen, tay trái cầm một nhánh cây.
(18). Chiên Đàn Công Đức Phật
Có ích nên nói là Công, cứu độ hết thảy chúng sinh nên nói là Đức. Nghĩa là
Đức Như Lai nói pháp chẳng thể nghĩ bàn, chúng sinh nghe thấy như được
chiên đàn (một loại gỗ quý thơm) bệnh liền trừ khỏi.
Thân sắc: da cam, hai tay ôm cây gỗ chiên đàn.
(19). Vô Lượng Cúc Quang Phật: Cúc là tụm lại, nghĩa là Diệu Tướng của
Đức Như Lai tụm lại phát ra ánh sáng trùng trùng vô tận
Thân sắc: Đỏ, hai tay ôm lấy viên minh châu.

74
(20). Quang Đức Phật: Ánh từ quang soi chiếu khắp, lợi ích hữu tình, ân đức
không tận.
Thân sắc: trắng, hai tay ôm lấy một vòng ánh sáng trắng trước ngực
21). Vô Ưu Đức Phật: là đức Như Lai đã chứng Đại Niết Bàn, lìa hẳn các Lậu
(hay còn gọi là phiền não). Tụng danh hiệu Ngài sẽ diệt các ác nghiệp do lòng
tham gây nên.
Thân sắc: màu xanh rất nhạt, hai tay ôm lấy cây Vô Ưu
(22). Na La Diên Phật
Narayana: bền chắc, nghĩa là thân Phật bền chắc như Kim Cương, không có gì
có thể làm tan hoại
Thân sắc: xanh lam, tay phải cầm núi Tu Di, tay trái cầm nhành sen
(23). Công Đức Hoa Phật: Hoa của vạn hạnh trang nghiêm quả Đức
Thân sắc: vàng, tay trái ôm cây hoa có màu vàng và quả
(24). Tịnh Quang Du Hí Thần Thông Phật: Ánh sáng thanh tịnh toả ra từ
thân Như Lai
Thân sắc: trắng, tay phải ôm nhành sen, tay trái ôm dải ánh sáng
(25). Liên Hoa Quang Du Hí Thần Thông Phật: Phật trí là ánh sáng chiếu
xa. Đức Như Lai dùng thần thông du hoá 10 phương
Thân sắc: Đỏ, tay phải cầm nhành hoa Sen, tay trái cầm minh châu
(26). Tài Công Đức Phật: Đức Như Lai dùng Pháp tài cứu khắp chúng sinh
chứng Bồ Đề.
Thân sắc: Đỏ, hai tay ôm lấy bảo vật có lửa bao quanh
(27). Đức Niệm Phật: Đức là gốc của thành Phật, dùng Đức hoằng dương Phật
Pháp hoá độ chúng sinh
Thân sắc: vàng, tay phải cầm kiếm chém tan vô minh, tay trái cầm Kinh thư
(28). Thiện Danh Xưng Công Đức Phật
Thiện: Khen ngợi sự tốt đẹp, Đức Như Lai đã tu công đức lợi sinh, thấy
tướng nghe tên đều được lợi lạc

75
Thân sắc: Xanh lá, hay tay cầm Mão (vương miện) của Phật
(29). Hồng Diễm Đế Tràng Vương Phật: Ánh sáng của cây phướng (ketu)
màu đỏ, chỉ mọc trong cung thiên đế.
Thân sắc: Vàng, tay phải cầm bảo vật bao quanh bởi lửa, tay trái ôm lọng báu
(30). Thiện Du Bộ Công Đức Phật: Ý chỉ Đức Như Lai bước đi như Voi chúa,
nơi nào Ngài đến chúng sinh đều phát tâm Bồ Đề, tăng trưởng công đức
Thân sắc: trắng, hai tay buông nhẹ lòng bàn tay úp vào trong
(31). Đấu Chiến Thắng Phật: (danh hiệu được dùng cho Tôn Ngộ Không sau
khi thành đạo, trong phim Tây Du Kí), hoá độ thiên ma ngoại đạo, dẹp trừ bản
ngã, sự kiêu ngạo..
Thân sắc: đen, tay phải cầm gươm, tay trái cầm khiên
(32). Thiện Du Bộ Phật: Đức Như Lai du hành mười phương, cảm hoá các
cõi nên gọi là Thiện Du Bộ
Thân sắc: trắng, toạ trên địa cầu chạm vào thủ ấn
(33). Châu Táp Trang Nghiêm Công Đức Phật: Mười phương rạng chiếu
ánh sáng, pháp hành tinh diệu trang nghiêm
Thân sắc: vàng, tay phải cầm minh châu, tay trái cầm một nhành cây báu
(34). Bảo Hoa Du Bộ Phật: Dưới bàn chân của Đức Như Lai có tướng bánh
xe ngàn năm, phàm nơi du hành đều có hoa báu dưới chân. Cúng dường hoa
mười vạn ức Phật.
Thân sắc: Đỏ, tay phải cầm quả bảu bao quanh bởi lửa hướng xuống dưới,
tay trái ôm cành Sen.
(35). Tu Di Sơn Vương Phật: Vua của Núi Tu Di, núi Tu Di là vua của các
ngọn núi, là trung tâm của thế giới, là vũ trụ quan của Phật Giáo, do bốn chất
báu vàng, bạc, lưu ly, pha lê tạo thành.
Thân sắc: Màu xanh của bầu trời, hai tay ôm núi Tu Di đội trên đầu.

76
བzོ་བ།

Nguyện nhờ công đức này


Con sớm thành địa vị, của Đức Phật - Đạo Sư
Nguyện dẫn dắt chúng sinh, không chừa sót một ai
Vào địa vị giác ngộ.
དགེ་བ་འདི་ཡི་“ར་Z་བདག །†་མ་སངས་-ས་^བ་འ‹ར་ནས། །
འ8ོ་བ་གཅིག་Bང་མ་lས་པ། །དེ་ཡི་ས་ལ་འགོད་པར་ཤོག །
Ge wa di yi nyur du dag
La ma sang gya drub gyur na
Dro wa chig kyang ma lu pa
De yi sa la go par shog

Nguyện cho Bồ Đề Tâm


Nơi nào chưa phát triển, sẽ nảy sinh lớn mạnh
Nôi nào đã phát triển, sẽ tăng trưởng không ngừng
Không bao giờ thối chuyển
6ང་Yབ་སེམས་མཆོག་རིན་པོ་ཆེ། །མ་.ེས་པ་Xམས་.ེས་པ་དང་། །
.ེས་པ་ཉམས་པ་མེད་པར་ཡང་། །གོང་ནས་གོང་Z་འཕེལ་བར་ཤོག །
Jang chub sem chhog rin po che
Ma kye pa nam kye gyur chig
Kye wa nyam pa me pa yang
Gong na gong du phel war shog

Như Mạn Thù, Phổ Hiển. Chứng cảnh giới như thật
Con cũng xin nguyện đem, tất cả mọi công đức
Hồi hướng nơi cao cả, xin theo chân các Ngài.

77
འཇམ་དཔལ་དཔའ་བོས་ཇི་•ར་མ„ེན་པ་དང་། །pན་•་བཟང་པོ་དེ་ཡང་དེ་བཞིན་ཏེ། །
དེ་དག་pན་]ི་bེས་[་བདག་/ོབ་Aིར། །དགེ་བ་འདི་དག་ཐམས་ཅད་རབ་•་བzོ་། །
Jam pal pa wo ji khyen pa dang
Kun tu zang po de yang de shin te
De gag kun gyi je su dag lob chhir
Ge wa di dag tham cha rab tu ngo

Nguyện gửi hết thiện căn


Theo hồi hướng tuyệt hảo, của chư Phật ba thời
Sao cho con theo tròn. Tất cả mỏi thiện hạnh.
Zས་ག[མ་གཤེགས་པའི་-ལ་བ་ཐམས་ཅད་Bིས། །བzོ་བ་གང་ལ་མཆོག་•་བzགས་པ་དེ། །
བདག་གཞན་དགེ་བའི་M་བ་འདི་pན་Bང་། །བཟང་པོ་—ོད་Aིར་རབ་•་བzོ་བར་བ]ི། །
Du sum sheg oa gyal wa tham cha kyi
Ngo wa gang la chhog tu ngag pa de
Dag gi ge wai tsa wa di kun kyang
Zang po cho chhir rab tu ngo war gyi

Nơi miền núi tuyết vây quanh


Có suối nguồn an lạc, của mọi sự tốt lành
Là bấc tối thánh Quán Thế Âm Tenzin Gyatso
Xin thầy ở lại cõi thế, cho đến khi tận diệt luân hồi
གངས་རི་ར་བས་བ}ོར་བའི་ཞིང་ཁམས་[། །ཕན་དང་བདེ་བ་མ་lས་འgང་བའི་གནས། །
—ན་རས་གཟིགས་དབང་བyན་འཛoན་-་མཚ<་ཡི། །ཞབས་པད་mིད་མཐའི་བར་Z་བeན་འ‹ར་ཅིག །
Khang ri ra gue kho gue shing kham dir
Phan dang de wa ma lu jung gue ne
Chen re zig wang ten zin gya tso yi
Zhab pay sid te bar du ten gyur chig

78
Hình ảnh 21 đức Tara

79
Om chề sun mà, phặc ma chô ma lả chắc sừn lô

1. Kính lạy Đức Tara, bậc đại hùng thần tốc


Ánh mắt như tia chớp, đản sinh từ nhụy sen
Trổ từ giọt nước mắt của Quan Âm Đại Sĩ
Là đấng đại cứu độ của cả ba thế giới
Aག་འཚལ་ˆོལ་མ་“ར་མ་དཔའ་མོ། །
—ན་ནི་}ད་ཅིག་Cོག་དང་འh་མ། །
འཇིག་eེན་ག[མ་མགོན་Y་.ེས་ཞལ་]ི། །
གེ་སར་6ེ་བ་ལས་ནི་gང་མ། །
Chắc sên, chuê ma, nhur ma pa mô
Chen nì, kê chích, lốp thằng trả ma
Chích ten, sum gôn, chu kế sểl ghì
Khề sar, chề wa, lể nỉ, chủng ma

2. Kính lạy Đức Tara, khuôn mặt Ngài tròn đầy


Như trăm vầng trăng thu, tỏa rạng ngời ánh sáng
Của ngàn vạn thiên hà
Aག་འཚལ་yོན་ཀའི་7་བ་pན་•། །
གང་བ་བ-་ནི་བMེགས་པའི་ཞལ་མ། །
}ར་མ་yོང་•ག་ཚ<གས་པ་Xམས་Bིས། །
རབ་•་Aེ་བའི་འོད་རབ་འབར་མ། །
Chắc sên tôn kê đà wa kun tù
Khẳng wa ga nỉ sếc pề sểl mà
Kar ma tông chắc sốc pà năm kì
Rắp tù chê guề uể rắp par ma

80
3. Kính lạy Đức Tara, đản sinh từ nhụy sen
Màu vàng tỏa ánh biếc tay trang nghiêm sen quí
Bố thí và tinh tấn, cùng tĩnh lự, tịnh giới
Và an nhẫn, tu thiền, là cảnh giới của Ngài
Aག་འཚལ་སེར་zོ་Y་ནས་.ེས་Bི། །
པ¦ྨས་Aག་ནི་Xམ་པར་བ-ན་མ། །
\ིན་པ་བMོན་འ^ས་དཀའ་_བ་ཞི་བ། །
བཟོད་པ་བསམ་གཏན་—ོད་jལ་ཉིད་མ། །
Chắc sên sêr ngô chu nể kề ki
Pê mề chắc nỉ năm par gển ma
Chỉn pa chôn trú ka thúc shi wa
Suề pa săm ten chuy yn nhi ma

4. Kính lạy Đức Tara là mũ miện cao quí


Của mười phương Phật Đà, Hàng phục vô lượng ma
Viên mãn hạnh toàn hảo, Ngài là chốn nương dựa,
Của tất cả người con của Chư Phật Thế Tôn
Aག་འཚལ་དེ་བཞིན་གཤེགས་པའི་གUག་ཏོར། །
མཐའ་ཡས་Xམ་པར་-ལ་བར་—ོད་མ། །
མ་lས་ཕ་རོལ་Aིན་པ་ཐོབ་པའི། །
-ལ་བའི་mས་Bིས་ཤིན་•་བyེན་མ། །
Chắc sên thề shin sếc pề súc tôr
Tha jế nằm par gể war chuê mà
Mà lú pha rôl chin pà thốb pề
Gền guê sê kì sin tù tên ma

81
5. Kính lạy Đức Tara, với hai chữ nhiệm màu:
TUTTARA và HUM.
Ngài rót đầy ba cõi.
Dục, phương hướng, không gian, đạp rung bảy thế giới,
Nhiếp thọ khắp chúng sinh.
Aག་འཚལ་•¨་©œ ར་ªཾཾ་ཡི་གེས། །
འདོད་དང་Aོགས་དང་ནམ་མཁའ་གང་མ། །
འཇིག་eེན་བZན་པོ་ཞབས་Bིས་མནན་ཏེ། །
lས་པ་མེད་པར་འ£གས་པར་¬ས་མ། །
Chắc sên, tuta, ra hung, jỉ khề
Đuể thằng chốc thằng nằm kha khẳng ma
Chịch ten đủn pô sắp kì nên tề
Luy pa nể par gúc par nể mà

6. Kính lạy Đức Tara, à bậc mà Chư Thiên,


Đế Thích, Tích Lịch Thiên, Phạm Thiên, Phong Lôi Thần,
Và các bậc Đế Thiên, đều hết lòng sùng kính,
Cùng tất cả quỉ thần: Khởi Thi, Càn Thát Bà,
Và cả loài Dạ Xoa, đều hết lòng tôn vinh
Aག་འཚལ་བ-་6ིན་མེ་+་ཚངས་པ། །
-ང་+་u་ཚ<གས་དབང་®ག་མཆོད་མ། །
འgང་པོ་རོ་ལངས་hི་ཟ་Xམས་དང་། །
གནོད་\ིན་ཚ<གས་Bིས་མZན་ནས་བyོད་མ། །
Chắc sên, gả chỉn mề la, săng pa
Lung la, na sốc wang chúc chuê mà
Chung pô rổ lăng chì xa năm thằng
Nuể chin sốc kì đuỷ nề tuê ma

82
7. Kính lạy Đức Tara, với âm TRAT và PHAT
Phá luân xa huyền thuật, đôi chân Ngài nhấn xuống,
Với chân phải co lại và chân trái duỗi ra,
Ngài bốc cháy bừng bừng trong muôn trùng lửa xoáy
Aག་འཚལ་¯ད་ཅེས་6་དང་ཕཊ་Bི། །
ཕ་རོལ་འƒལ་འཁོར་རབ་•་འཇོམས་མ། །
གཡས་བ‡མས་གཡོན་བqངས་ཞབས་Bིས་མནན་ཏེ། །
མེ་འབར་འƒག་པ་ཤིན་•་འབར་མ། །
Chắc sên, trế chề, cha thằng phếch kì
Pha rôn chu khôr rắp tù chôm mà
Jề kum jôn kăng sắp kì nên tề
Mề par chúp pa shin tù par mà

8. Kính lạy Đức Tara, là đấng đại uy đức,


Với chủng tự TURE diệt đội quân Ma Vương.
Gương mặt Ngài đóa sen đầy oai thần phẫn nộ,
Quét sạch quân thù địch không chừa sót một ai.
Aག་འཚལ་•་རེ་འཇིགས་པ་ཆེན་པོ། །
བZད་Bི་དཔའ་བོ་Xམ་པར་འཇོམས་མ། །
Y་.ེས་ཞལ་ནི་±ོ་གཉེར་5ན་མཛད། །
ད8་བོ་ཐམས་ཅད་མ་lས་གསོད་མ། །
Chắc sên, ture, chịch pa chền mô
Đuy kì pa gô năm par chôm ma
Chu kề sển nỉ chô nhêr đển jệ
Chả gô thăm chề mả luý suê mà

9. Kính lạy Đức Tara, tay trang nghiêm nơi tim


Mang ấn kiết Tam Bảo
Cùng bánh xe chánh pháp
Phóng ra ánh sáng lớn chiếu tỏa khắp mười phương.

83
Aག་འཚལ་དཀོན་མཆོག་ག[མ་མཚ<ན་Aག་-འི། །
སོར་མོས་_གས་ཀར་Xམ་པར་བ-ན་མ། །
མ་lས་Aོགས་Bིས་འཁོར་ལོས་བ-ན་པའི། །
རང་གི་འོད་Bི་ཚ<གས་Xམས་འƒག་མ། །
Chắc sên, kun chốc sum sôn chắc gể
Xô mô thúc kar năm par gển ma
Ma luy chốc kì khôr lô gển pề
Rẳng khì uế kì sốp nằm chup ma

10. Kính lạy Đức Tara, đỉnh đầu Ngài tỏa rạng
Nguồn ánh sáng tươi vui, giọng cười TUTTARE
Nở giòn tan rộn rã, thu phục hết toàn bộ
Ma vương cùng Thiên vương.
Aག་འཚལ་རབ་•་དགའ་བ་བbིད་པའི། །
དS་-ན་འོད་Bི་•ེང་བ་dེལ་མ། །
བཞད་པ་རབ་བཞད་•¨་©œ ར་ཡིས། །
བZད་དང་འཇིག་eེན་དབང་Z་མཛད་མ། །
Chắc sên, rắp tù khả wà ji pề
U gển uế kì chêng wa pềl ma
Sề pa răp sế tuta ra ji
Đuy thằng jịch tên wang thù chệ ma

11. Kính lạy Đức Tara, Ngài triệu thỉnh tất cả


Chư hộ thần sở tại chủng tự HUM oai nộ,
Rung chuyển toàn thế giới, cứu vớt khắp chúng sinh.
Thoát mọi cảnh bần cùng.
Aག་འཚལ་ས་གཞི་.ོང་བའི་ཚ<གས་Xམས། །
ཐམས་ཅད་འ£ག་པར་¬ས་མ་ཉིད་མ། །
±ོ་གཉེར་གཡོ་བའི་ཡི་གེ་ªཾ་གིས། །
ཕོངས་པ་ཐམས་ཅད་Xམ་པར་ˆོལ་མ། །

84
Chắc sên, sa shi chông guể sộc nằm
Thăm chề gúc par nu mà nhi mà
Trô nhêr jô wa jỉ khế hung khì
phông pa thăm chế năm par trổ mà

12. Kính lạy Đức Tara, đỉnh đầu Ngài trang nghiêm
Vầng trăng sắp độ rằm đính ngọc châu sáng chói,
Từ trong lọn tóc Ngài, có Phật A Di Đà
Phóng tỏa hào quang lớn sáng vô lượng vô biên
Aག་འཚལ་7་བའི་Zམ་Sས་དS་བ-ན། །
བ-ན་པ་ཐམས་ཅད་ཤིན་•་འབར་མ། །
རལ་པའི་±ོད་ནས་འོད་དཔག་མེད་ལས། །
eག་པར་ཤིན་•་འོད་རབ་མཛད་མ། །
Chắc sên, đà guế đum pu u gên
Gển pa thăm chế sin đu par mà
Rề guê chuê na uề pag mể lề
Tăc par shin tù uể rắp jê mà

13. Kính lạy Đức Tara giữa biển lửa cháy rực,
Sánh bằng lửa hoại kiếp, Ngài an định tự tại.
Với chân phải đưa ra và chân trái thu vào,
Vây quanh đầy niềm vui tan đội quân thù nghịch
Aག་འཚལ་བ}ལ་པ་མཐའ་མའི་མེ་•ར། ། འབར་བའི་•ེང་བའི་དSས་ན་གནས་མ། །
གཡས་བqངས་གཡོན་བ‡མས་pན་ནས་བ}ོར་དགའི། །
ད8་ཡི་ད²ང་ནི་Xམ་པར་འཇོམས་མ། །
Chắc sên, kên pê tha mê mể tar
Par guề chêng guê u nà nê mà
Jề chăng jôn kum kun nề kôr ga ỉ
Tra jì pung nỉ năm par jôm mà

85
14. Kính lạy Đức Tara, với ánh mắt oai thần
Bàn tay vỗ mặt đất và bàn chân trấn đạp
Cùng với chủng tự HUM
Ngài chinh phục bảy địa
Aག་འཚལ་ས་གཞིའ་ི ངོས་ལ་Aག་གི །
མཐིལ་]ིས་བ³ན་ཅིང་ཞབས་Bིས་བ´ང་མ། །
±ོ་གཉེར་ཅན་མཛད་ཡི་གེ་ªཾ་གིས། །
རིམ་པ་བZན་པོ་Xམས་ནི་འགེམས་མ། །
Chắc sên, sa shi ngô la chắc khì
Thi chì nun ching sắp kì đung mà
Trô nhêr chên zệ jỉ khề hung khì
Rỉm pa đùn pô năm nì gêm mà

15. Kính lạy Đức Tara, bậc đại hỉ đại đức.


Là cảnh giới đại lạc, của niềm vui Niết Bàn.
Với SVAHA và OM Ngài chiến thắng toàn bộ,
Mọi tà ma ác quỉ
Aག་འཚལ་བདེ་མ་དགེ་མ་ཞི་མ། །
µ་ངན་འདས་ཞི་—ོད་jལ་ཉིད་མ། །
›œ་•་ཨ˜་དང་ཡང་དག་5ན་པས། །
Eིག་པ་ཆེན་པོ་འཇོམས་པ་ཉིད་མ། །
Chắc sên, đề ma gề ma sì ma
nhà nghên để si chuê juy nhi mà
Sô ha Om thằng jang thắc đên pề
Địch pa chên mô zôm pà nhi mà

16. Kính lạy Đức Tara, với chúng Tăng hỉ lạc.


Xé tan mọi sắc tướng của thân xác kẻ thù.
Mười chủng tự trang điểm lời nói Ngài màu nhiệm.
HUM, chủng tự trí tuệ, phổ độ khắp chúng sinh

86
Aག་འཚལ་pན་ནས་བ}ོར་རབ་དགའ་བའི། །
ད8་ཡི་lས་ནི་Xམ་པར་འགེམས་མ། །
ཡི་གེ་བ–་པའི་ངག་ནི་བཀོད་པའི། །
རིག་པ་ªཾ་ལས་ˆོལ་མ་ཉིད་མ། །
Chắc sên, kun nề kôr rắp ga guề
Tra jì luy ní nằm par gêm mà
Jỉ khê chu guê ngắc nỉ kuế pề
rịch pa hung lề trồ ma nhi mà

17. Kính lạy Đức Tara, Ngài dậm chân mặt đất.
Và tuyên ngôn: TURE!. Chủng tự mang sắc HUM.
Làm chấn động ba cõi cùng ba ngọn núi lớn Tu Di,
Man-đa-ra, và núi Vin-đi-a.
Aག་འཚལ་•་རེའི་ཞབས་ནི་བNབས་པས། །
ªཾ་གི་Xམ་པའི་ས་བོན་ཉིད་མ། །
རི་རབ་མ¶་·œ ར་དང་འབིགས་6ེད། །
འཇིག་eེན་ག[མ་Xམས་གཡོ་བ་ཉིད་མ། །
Chắc sên, tu rê sắp ni đắb pề
Hung khì nằm pê sa pôn nhi mà
Rỉ rắp mản đa ra thằng pịch chệ
jịch tên sum nằm jô wa nhi mà

18. Kính lạy Đức Tara, trên tay là vầng trăng.


In bóng hình ngọc thỏ tựa biển hồ cõi thiên.
Hai lần âm TARA cùng với chủng tự PHAT.
Ngài khiến cho tất cả mọi chất độc tiêu tan
Aག་འཚལ་+་ཡི་མཚ<་ཡི་Xམ་པའི། །
རི་¸གས་eགས་ཅན་Aག་ན་བuམས་མ། །
¹་ར་གཉིས་བbོད་ཕཊ་Bི་ཡི་གེས། །
Zག་Xམས་མ་lས་པ་ནི་སེལ་མ། །

87
Chắc sên, ha ỉ sô ỉ năm pề
Ri thắc tắc chê chắc na năm mà
Ta ra nhi juê phếch kì ỉ khề
Thúc nằm ma luy pa nỉ sê mà

19. Kính lạy Đức Tara, là nơi chốn nương tựa,


Của tất cả Thiên Vương, Chư Thiên, Khẩn Na La;
Khoát áo giáp lộng lẫy mang niềm vui trong sáng.
Đến cho khắp mọi loài, phá ác mộng, chấp tranh.
Aག་འཚལ་+་ཡི་ཚ<གས་Xམས་-ལ་པོ། །
+་དང་མིའམ་ཅི་ཡིས་བyེན་མ། །
pན་ནས་གོ་ཆ་དགའ་བའི་བbིད་Bིས། །
Mོད་དང་{ི་ལམ་ངན་པ་སེལ་མ། །
Chắc sên ha ỉ chốc nằm gền pô
Ha thằng mi ằm chi ỉ tên mà
Kun nể khồ cha ga uể ji kì
Suê thằng mi lăm ngển pa sê mà

20. Kính lạy Đức Tara, với đôi mắt Nhật Nguyệt,
Tỏa ánh sáng rạng ngời, Ngài tuyên ngôn hai lần:
HARA, TUTTARA.
Diệt tan bệnh truyền nhiễm
Aག་འཚལ་ཉི་མ་7་བ་-ས་པའི། །
—ན་གཉིས་པོ་ལ་འོད་རབ་གསལ་མ། །
ཧ་ར་གཉིས་བbོད་•¨་©œ ར་ཡིས། །
ཤིན་•་hག་པོའ་ི རིམས་ནད་སེལ་མ། །
Chắc sên, nhỉ ma đà wa gê pề
Chên nhi pô la uể rắp sê mà
Ha ra nhỉ juệ Tuta ra ji
Shin tù trặc puê rỉm nệ sê mà

88
21. Kính lạy Đức Tara, trong sáng tam chân như
Sung mãn lực tự tại
Dẹp tan loài ác quỉ
La Sát và Dạ Xoa
Trước TURE tuyệt bậc con chí thành đảnh lễ.
Aག་འཚལ་དེ་ཉིད་ག[མ་Xམས་བཀོད་པས། །
ཞི་བའི་མ_་དང་ཡང་དག་5ན་མ། །
གདོན་དང་རོ་ལངས་གནོད་\ིན་ཚ<གས་Xམས། །
འཇོམས་པ་•་རེ་རབ་མཆོག་ཉིད་མ། །
Chắc sên, thể nhi sum năm kuê pề
Shi wuê Thu thằng zăng thắp đển ma
Đôn thằng rô lăm nêu chin sốc nằm
Jôm pa Tu rê rặp chốc nhi mà

Vậy đây là hăm mốt lời đảnh lễ tán dương


Đức Phật Mẫu Tara cùng chân ngôn của Ngài
M་བའི་zགས་Bི་བyོད་པ་འདི་དང་། །
Aག་འཚལ་བ་ནི་ཉི་»་M་གཅིག །
Sa guê ngắc kì tuê pa đi thằng
Chắc sên wà nỉ nhì su sa chích

Hồi hướng:
Nguyện nhờ công đức này,
Con sớm thành địa vị, của Đức Phật Mẫu Tara
Nguyện dẫn dắt chúng sanh, Không chừa sót một ai,
Vào địa vị giác ngộ.&

89
Thánh Phật Mẫu Bát nhã ba la mật đa tâm kinh
Kính lễ chư Phật, Bồ Tát.
Tôi nghe như vầy, một thời Đức Thế Tôn ở tại núi Linh Thứu, nơi thành
Vương Xá, cùng với chúng đại Tỳ Kheo và chúng đại Bồ Tát đồng câu hội.
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nhập chánh định thậm thâm quang minh tuyên
thuyết chánh pháp. Cũng ngay khi ấy, Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát hành
thậm thâm bát nhã ba la mật đa, quán thấy năm uẩn tự tánh cũng đều là không.
Nương nơi oai thần Phật, Tôn giả Xá Lợi Phất thưa hỏi Thánh Quán Tự Tại
Bồ Tát Ma Ha Tát rằng: “Nếu có thiện nam tử nào muốn hành thậm thâm bát
nhã ba la mật đa thì nên tu học như thế nào?”.
Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát đáp lời Tôn giả Xá Lợi Phất rằng:
“Xá Lợi Phất, nếu có thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân nào muốn hành thậm
thâm bát nhã ba la mật đa thì nên quán sát chân chánh hành tướng năm uẩn tự
tánh cũng đều là không. Sắc tức là Không, Không tức là Sắc, Sắc chẳng khác
Không, Không chẳng khác Sắc. Tượng tự, Thọ, Tưởng, Hành, Thức v.v. đều
là Không.
Xá Lợi Phất, tất cả các pháp là không, không tướng, không sanh, không diệt,
không nhớp, không sạch, không thêm, không bớt.
Xá Lợi Phất, cho nên trong không không có sắc, không thọ, không tưởng,
không hành, không thức, không mắt, không tai, không mũi, không lưỡi, không
thân, không ý, không sắc, không thanh, không hương, không vị, không xúc,
không pháp, không có nhãn giới, không ý giới, cho đến cũng không có ý thức
giới. Không có vô minh, không có hết vô minh, không có già chết cho đến
cũng không có hết già chết. Tương tự, không khổ, tập, diệt, đạo, không trí,
không đắc, cũng không có không sở đắc. Xá Lợi Phất, vì không ở đắc nên chư
Bồ Tát an trú trong bát nhã ba la mật đa, tâm không ngăn ngại, không sợ hãi,
xa lìa hẳn điên đảo mộng tưởng, đạt đến cứu cánh Niết Bàn. Chư Phật trong

90
ba đời đều nương theo bát nhã ba la mật đa mà được đạo quả vô thượng chánh
đẳng chánh giác. Do vậy nên biết bát nhã ba la mật đa là đại thần chú, là thần
chú cực sáng, thần chú tối thượng, thần chú bất đồng bực mà đồng bực, thần
chú bạt trừ hết thảy khổ não, chân thật không hư dối.
Ngài tuyên nói chú bát nhã ba la mật đa rằng:

Xá Lợi Phất, Vị Bồ Tát Ma Ha Tát nên học thậm thâm bát nhã ba la mật đa
như thế.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn xuất định, tán thán Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát Ma
Ha Tát rằng: “Lành thay! Lành thay! Này thiện nam tử, đúng thật như thế.
Thiện nam tử, đúng thật như thế. Các ông nên hành sâu bát nhã ba la mật đa
như lời ông thuyết, khiến chư Phật cũng đều tùy hỷ”.
Thế Tôn dạy xong, Tôn giả Xá Lợi Phất và Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát Ma
Ha Tát cùng tất cả chúng hội Thiên, Nhân, Phi Nhân, Càn Thát Bà v.v. thảy
đều hoan hỷ, tín thọ phụng hành.
༄༅། །-་གར་}ད་Z། བྷ་ག་ཝ་ཏི་¾¿་Àཱ་ར་མི་¹་Âི་ད་ཡ། བོད་}ད་Z། བཅོམ་5ན་འདས་མ་ཤེས་རབ་Bི་ཕ་རོལ་•་Aིན་པའི་|ིང་པོ།
འདི་}ད་བདག་གིས་ཐོས་པ་Zས་གཅིག་ན། བཅོམ་5ན་འདས་-ལ་པོའི་ཁབ་6་Ãོད་Œང་པོའ་ི རི་ལ་དགེ་/ོང་གི་དགེ་འZན་ཆེན་པོ་དང་
6ང་Yབ་སེམས་དཔའི་དགེ་འZན་ཆེན་པོ་དང་ཐབས་གཅིག་•་བnགས་ཏེ། དེའི་ཚ‘་བཅོམ་5ན་འདས་ཟབ་མོ་uང་བ་ཞེས་6་བའི་ཆོས་Bི་
Xམས་8ངས་Bི་ཏིང་ངེ་འཛoན་ལ་|ོམས་པར་nགས་སོ། །ཡང་དེའ་ི ཚ‘་6ང་Yབ་སེམས་དཔའ་སེམས་དཔའ་ཆེན་པོ་འཕགས་པ་—ན་རས་
གཟིགས་དབང་®ག་ཤེས་རབ་Bི་ཕ་རོལ་•་Aིན་པ་ཟབ་མོའི་—ོད་པ་ཉིད་ལ་Xམ་པར་བ•་ཞིང་Œང་པོ་Ä་པོ་དེ་དག་ལ་ཡང་རང་བཞིན་]ིས་
yོང་པར་Xམ་པར་བ•འོ། །དེ་ནས་སངས་-ས་Bི་མ_ས། །ཚ‘་དང་5ན་པ་I་རིའི་Sས་6ང་Yབ་སེམས་དཔའ་ཆེན་པོ་འཕགས་པ་—ན་རས་
གཟིགས་དབང་®ག་ལ་འདི་}ད་ཅེས་`ས་སོ། །རིགས་Bི་S་གང་ལ་ལ་ཤེས་རབ་Bི་ཕ་རོལ་•་Aིན་པ་ཟབ་མོའི་—ོད་པ་—ད་པ་འདོད་པ་དེས་
ཇི་•ར་བ/བ་པར་6། །དེ་}ད་ཅེས་`ས་པ་དང་། 6ང་Yབ་སེམས་དཔའ་སེམས་དཔའ་ཆེན་པོ་འཕགས་པ་—ན་རས་གཟིགས་དབང་®ག་གིས་
ཚ‘་དང་5ན་པ་I་ར་¸་ཏིའི་S་ལ་འདི་}ད་ཅེས་`ས་སོ། །I་རིའ་ི S་རིགས་Bི་Sའམ། རིགས་Bི་S་མོ་གང་ལ་ལ་ཤེས་རབ་Bི་ཕ་རོལ་•་Aིན་
པའི་ཟབ་མོའ་ི —ོད་པ་—ད་པར་འདོད་པ་དེས་འདི་•ར་Xམ་པར་བ•་བར་6་yེ། །Œང་པོ་Ä་པོ་དེ་དག་Bང་རང་བཞིན་]ིས་yོང་པར་Xམ་
པར་དག་པར་ཡང་དག་པར་bེས་[་བ•འོ། །ག€གས་yོང་པའོ། །yོང་པ་ཉིད་ག€གས་སོ། །ག€གས་ལས་yོང་པ་ཉིད་གཞན་མ་ཡིན། yོང་པ་
ཉིད་ལས་Bང་ག€གས་གཞན་མ་ཡིན་ནོ། །དེ་བཞིན་Z་ཚ<ར་བ་དང་། །འZ་ཤེས་དང་། འZ་6ེད་དང་། Xམ་པར་ཤེས་པ་Xམས་yོང་པའོ། །
I་རིའི་S། །དེ་•ར་ཆོས་ཐམས་ཅད་yོང་པ་ཉིད་དེ། མཚན་ཉིད་མེད་པ། མ་.ེས་པ། །མ་འགགས་པ། hི་མ་མེད་པ། hི་མ་དང་kལ་བ་མེད་
པ། །kི་བ་མེད་པ། གང་བ་མེད་པའོ། །I་རིའ་ི S། དེ་•་བས་ན་yོང་པ་ཉིད་ལ་ག€གས་མེད། ཚ<ར་བ་མེད། འZ་ཤེས་མེད། འZ་6ེད་མེད། Xམ་
པར་ཤེས་པ་མེད། མིག་མེད། X་བ་མེད། u་མེད། ¢ེ་མེད། lས་མེད། ཡིད་མེད། ག€གས་མེད། ˆ་མེད། hི་མེད། རོ་མེད། རེག་6་མེད། ཆོས་མེད་
དོ། །མིག་གི་ཁམས་མེད་པ་ནས་ཡིད་Bི་ཁམས་མེད། ཡིད་Bི་Xམ་པར་ཤེས་པའི་ཁམས་Bི་བར་Zའང་མེད་དོ། །མ་རིག་པ་མེད། །མ་རིག་པ་ཟད་
པ་མེད་པ་ནས་Ã་ཤི་མེད། །Ã་ཤི་ཟད་པའི་བར་Zའང་མེད་དོ། །དེ་བཞིན་Z་Šག་བzལ་བ་དང་། pན་འgང་བ་དང་། འགོག་པ་དང་། ལམ་
མེད། ཡེ་ཤེས་མེད། ཐོབ་པ་མེད། མ་ཐོབ་པའང་མེད་དོ། །I་རིའི་S། དེ་•་བས་ན་6ང་Yབ་སེམས་དཔའ་Xམས་ལ་ཐོབ་པ་མེད་པའི་Aིར། ཤེས་

91
རབ་Bི་ཕ་རོལ་•་Aིན་པ་ལ་བeེན་ཅིང་གནས་ཏེ་སེམས་ལ་ˆིབ་པ་མེད་པས་Åག་པ་མེད། Aིན་ཅི་ལོག་ལས་ཤིན་•་འདས་ནས་µ་ངན་ལས་
འདས་པར་མཐར་Aིན་ཏོ། །Zས་ག[མ་Z་Xམ་པར་བnགས་པའི་སངས་-ས་ཐམས་ཅད་Bང་ཤེས་རབ་Bི་ཕ་རོལ་•་Aིན་པ་ལ་བeེན་ནས་
†་ན་མེད་པ་ཡང་དག་པར་vོགས་པའི་6ང་Yབ་•་མངོན་པར་vོགས་པར་སངས་-ས་སོ། །དེ་•་བས་ན་ཤེས་རབ་Bི་ཕ་རོལ་•་Aིན་པའི་
zགས། རིག་པ་ཆེན་པོའི་zགས། †་ན་མེད་པའི་zགས། མི་མཉམ་པ་དང་མཉམ་པའི་zགས། Šག་བzལ་ཐམས་ཅད་རབ་•་ཞི་བར་6ེད་པའི་
zགས། མི་Æན་པས་ན་བདེན་པར་ཤེས་པར་6་yེ། ཤེས་རབ་Bི་ཕ་རོལ་•་Aིན་པའི་zགས་`ས་པ།

I་རིའི་S་6ང་Yབ་སེམས་དཔའ་སེམས་དཔའ་ཆེན་པོ་དེ་•ར་ཤེས་རབ་Bི་ཕ་རོལ་•་Aིན་པ་ཟབ་མོ་ལ་བ/བ་པར་6འོ། །དེ་ནས་བཅོམ་
5ན་འདས་ཏིང་ངེ་འཛoན་དེ་ལས་བཞེངས་ཏེ་6ང་Yབ་སེམས་དཔའ་སེམས་དཔའ་ཆེན་པོ་འཕགས་པ་—ན་རས་གཟིགས་དབང་®ག་ལ་
ལེགས་སོ་ཞེས་6་བ་6ིན་ནས། ལེགས་སོ། །ལེགས་སོ། །རིགས་Bི་S། དེ་དེ་བཞིན་ཏེ། ཇི་•ར་„ོད་Bིས་བyན་པ་བཞིན་Z་ཤེས་རབ་Bི་ཕ་རོལ་•་
Aིན་པ་ཟབ་མོ་ལ་—ད་པར་6་yེ། དེ་བཞིན་གཤེགས་པ་Xམས་Bང་bེས་[་ཡི་རང་ངོ་། །བཅོམ་5ན་འདས་Bིས་དེ་}ད་ཅེས་བཀའ་¤ལ་ནས།
ཚ‘་དང་5ན་པ་I་རི་¸་ཏིའི་S་དང་། 6ང་Yབ་སེམས་དཔའ་སེམས་དཔའ་ཆེན་པོ་འཕགས་པ་—ན་རས་གཟིགས་དབང་®ག་དང་། ཐམས་
ཅད་དང་5ན་པའི་འཁོར་དེ་དག་དང་། +་དང་། མི་དང་། +་མ་ཡིན་དང་། hི་ཟར་བཅས་པའི་འཇིག་eེན་ཡི་རངས་ཏེ། བཅོམ་5ན་འདས་
Bིས་ག[ངས་པ་ལ་མངོན་པར་བyོད་དོ། །འཕགས་པ་ཤེས་རབ་Bི་ཕ་རོལ་•་Aིན་པའི་|ིང་པོ་vོགས་སོ། ། ། །
Thề nê, săng gê kì thu་། Sê thằng đên pà, sha ri pù, chằng chục sêm pa chên
pô, phắc pa chên rê sịc, wăng chúc la, đì kê chê mê sồ་། Rích kì pu, khẳng là la,
sề rắp kì pa rôn tù chin pa, sặp mô chuê pa, chê pa đuê pa thể, shi tar lab par cha་།
Thề kê chề, mê pa thằng, chẳng chúc sêm pa, sêm pa chên pô, phắc pa chên rê
sịc, wăng chúc khì chê thằng đên pa , sha ra đà ti pu là, đi kề chề mê sô་། Sa ri pù,
rích kì pu ằm་། །
Rích kì pu mô, khăng la lả, sề rắp kì pa rôn tù chìn pê, sặp mô chuê pa , chề
par đuể pa thề, đi par num par, ta wa cha tề་། Phung pô nga pô thề thắp kăng,
rằng sin khì, tông par num par khặc par, yang thặc par, chề xù ta ổ་། Sục tung pa
ổ་། Tông pa nhi sục xô་། Sục lể tông pa nhi, sên mà yỉn། Tông pa nhi lể kăng sục
sên mà yỉn nồ་། Thể sỉn đù, chô wa thằng་། Đù sê thằng་། đù chê thằng་། Num par sề
pa nằm, pông ta ồ་། །
Sa ri wu་། thề tar, chuê thăm chê, tông pa nhi thề་། Chin nhi mê pa་། Mà kê pa་།
Mà khắp pa་། Chì ma mề pa་། Chì ma thẳng, chà wa mề pa་། Chi wa mê pa་། Khằng
wa mê pa ô་། Sa ri pù་། Thề ta guề na, tông pa nhi la , súc mể་། Chuê wa mê་། Đù sê mể་། །
Năm par sê par mề་། Míc mề་། Na wa mề་། Na mể་། Chê mệ་། Luy mệ་། Yi mệ་།
Sục mệ་། །
Cha mệ་། Chi mệ་། Rô mệ་། Rệp cha mể་། Chuê mệ thô་། Mịc khì khăm mể pà nề
yi khì khăm mể་། །

92
Yi ki năm par sề pê, khăm kì par đu ằng mê thô་། Mà rích pa mề་། Ma rích pà
sê pà mê pà nề gà shi mề་། Ga shi sể pê, par đu ăng mê thô་། Thề sỉn thu đục ngên
wà thằng་། Kun chung wa thằng་། Gooc pa thằng་། Lum mề་། Ye se mề་། Thốc pa mề་།
Ma thốc pa ăng mề thồ་། Sa gi gù་། །
Thề ta guề na, chẳng chúc sêm pa năm là thốc pa mề pê chir་། Sề rắp kì pa rô
tù chin pà lả, tền ching nề tệ sêm la chịp pa mề pê, chắc pa mề thê་། Chin chi lốc
lề, shin tù đề nê, nhạ nghê lề,đề par thar chin tồ, thù sum thù năm par súc pề, săng
gê thăm chề kăng, sề rắp kì, pa rôn tù chin pà lả, tên nề, la na mề pa, rẳng thắc
par chốc pề, chẳng chúc tù ngôn pa sộc par săng gê xồ་། །
Thè ta què ná she rấp kì pha rol tù chin bè ngát། Rịt pa chen bô ngát་། La ná
mé bè ngát་། Mỉ nhâm ba thằng nhâm bè ngát་། Đụt nghel thâm ché rấp tù she quà chẻ bè
ngát་། Mỉ zùn bè nó đèn ba sé bà chà té. Sé rấp kì pha rol tù chin bè ngát mé bà། །

Sha ri phù, chần chúp sem pa་། sem pa chen bô, thè ta sé rấp kì་། pha rol tù
chin pa, sấp mô là lấp bà chà ồ་།Thè né, chôn đen đẹ, tin nghé zỉn, thè lé seng té,
chần chúp sem pa་། sem pa chen pô་། phát pa chen ré sịt, quang chút lạ, lét xồ, sé
chà quà chin né, lét xồ, lét xồ། Rịt kì phu, thè thè sin té, chi ta, khuế kì ten pà་། sin
thù, sé rấp kì pha rol tù chin pà sấp mô là ché pà chà, té་། thè sin sét pà, năm kân
ché xù di răn ngô་། Chôm đen đẹ kì, thè ké ché ka chel nẻ, ché thằng đẹn pà་། Sha
ri đà ti phù thằng chần chúp sem pa, sem pa chen bô་། phát ba chen ré sịt, quang
chút thằng, thăm ché thằng, đèn pè khô thè thát thằng་། Lha thằng, mi thằng, lha
mà dỉn thằng་། Trì sa ché pè, chịt ten di răn té, chôm đen đẹ kì, sung pa là ngôn pa
tuế thồ་། Phát pa sé rấp kì pha rol tù chin pe nhin pô, zọt xô་། །

93
Đức đại học Phổ Hiền Bồ Tát
Dũng mãnh Văn Thù thật tri chư pháp
Hồi hướng chư thiện căn thế nào
Con xin nguyện hồi hướng như vậy.
འཇམ་དཔལ་དཔའ་བོས་ཇི་•ར་མ„ེན་པ་དང་། །
pན་•་བཟང་པོ་དེ་ཡང་དེ་བཞིན་ཏེ། །
དེ་དག་pན་]ི་bེས་[་བདག་/ོབ་Aིར། །
དགེ་བ་འདི་དག་ཐམས་ཅད་རབ་•་བzོ་། །
Chẳm pê pa wô chi tar khên pa thằng
Kun tu sằng pô thể rằng thể sin tế
Thề thắc kun khì sế sù đặc lốb chir
Gề wa đì thắc thăm chế rắb tù ngô

Chư phật thiện thệ trong ba đời


Tán thán những hồi hướng tối thắng
Chính là đại nguyện Phổ hiền hạnh
Con nguyện hồi hướng được như vậy.
Zས་ག[མ་གཤེགས་པའི་-ལ་བ་ཐམས་ཅད་Bིས། །
བzོ་བ་གང་ལ་མཆོག་•་བzགས་པ་དེ། ། བདག་གཞན་དགེ་བའི་M་བ་འདི་pན་Bང་། །
བཟང་པོ་—ོད་Aིར་རབ་•་བzོ་བར་བ]ི། །
Thù sum sếp pề gển wa thăm chế kis
Ngô wa thằng la chốc tù ngắc pà thể
Đặc sỉn gề wuê sa wa đì kun kẳng
Sẳng pô chuế chir rắp tù ngô wa khi

94
Nguyện cho Bồ Đề Tâm
Nơi nào chưa phát triển, sẽ nảy sinh lớn mạnh
Nôi nào đã phát triển, sẽ tăng trưởng không ngừng
Không bao giờ thối chuyển
6ང་Yབ་སེམས་མཆོག་རིན་པོ་ཆེ། །
མ་.ེས་པ་Xམས་.ེས་‹ར་ཅིག །
.ེས་པ་ཉམས་པར་མེད་པ་ཡང་། །
གོང་ནས་གོང་Z་འཕེལ་པར་ཤོག །
Chẳng chúc sềm chốc rin pô chê
Ma kế pa nằm kế trủr chích
Kế pa nhẳm par mề pa răng
Không nề không thu phên par sốp

Thầy là Quán Thế Âm, kho tàng đại bi tâm


Là Đức Văn Thù, bậc Đại Đạo Sư với trí tuệ vô cấu
[Là Đức Kim Cang Thủ chiến thắng mọi ác ma]
Lama Tông Khách Ba, ngọc quí trên đỉnh các bậc Thánh xứ tuyết.
Đảnh lễ Lobsang Dragpa, đệ tử thành tâm thỉnh nguyện.
དམིགས་མེད་བMེ་བའི་གཏེར་ཆེན་—ན་རས་གཟིགས། །
hི་མེད་མ„ེན་པའི་དབང་པོ་འཇམ་པའི་ད6ངས། །
གངས་ཅན་མཁས་པའི་གUག་-ན་ཙ<ང་ཁ་པ། །
བZད་ད²ང་མ་lས་འཇོམས་མཛད་གསང་བའི་བདག །
†ོ་བཟང་8གས་པའི་ཞབས་ལ་གསོལ་བ་འདེབས། །

95
Mig me tse wai ter chhen chan ra zig
Dri me khyen pai wang po jam pai yang
Du pung ma lu jom dza sang wai dag
Gang chan kha pai tsug gyan Tsong Kha Pa
Lozang grag pai zhab la sol wa deb.

Ngài hiện thân đại bi, trí thân của chư Phật
Gom cùng một thể như bạch tuyết sơn
Hoá thân Thánh tự tại trên đời
Nguyện bậc Thầy chúng sinh trong ba cõi chiến thắng.

Thánh toàn tri như hoa Ưu Đàm


Là ngọc quý trên đỉnh đầu của mọi hữu tình
Giáo pháp ở trần gian
Vô song hy hữu trong ba cõi
Nguyện Thắng Vương Liên Hoa Thủ cửu trụ.

Ngài là khởi thuỷ vốn là Phật


Phát nguyện kiên định như Kim Cang
Duỗi tay nâng giữ chúng sinh giữa thời tranh đấu
Nguyện Đấng Đại Tự Tại Thập Địa cửu trụ.

96
Chứng tri giai tầng đạo Bồ Đề
Tâm mật hoà nhập bất phân ly
Công hạnh bí tri bất tư nghì
Nguyện Năng Nhơn Vương thứ hai phương Bắc
Thọ mạng viên trường.

Thuyết, biện, trước tác vô chướng ngại


Hoàn toàn giải thoát tám tự tin đại tạng
Thuyết pháp biện tài vô ngại giải
Nguyện Đấng Đại toàn thắng trăm phương cửu trụ.

Giáo pháp tôn quí của Đấng Chiến Thắng Lobssang Dragpa
Xiển dương giảng, tu, nghiệp khắp trăm phương
Diệt trừ giặc thù ác độc với bộ não voi ma quái
Nguyện Đấng Sư Tử hống tiếng vô uý cứu trụ.

Giai tầng Tam Hiện, Tam Mục, Mật Chú đạo lộ


Tứ quán đảnh Du Già thậm sâu hoà tan trong bốn giai đoạn
Chứng ngộ hiện tiền bốn trí thân
Thỉnh cầu Biến Chú Kim Cang Trì cửu trụ.

Mặt trời trí tuệ đại thủ ấn


Chơn thể các pháp câu sanh bất nhị thâm minh
Xua tan bóng tối hữu tịch
Nguyện Đấng Đại Tự Tại Du Già cửu trụ.

97
Ngài là kho tàng tất cả bí mật trong biển Tục Bộ
Dòng giải thoát tốt lành hội tụ bốn ngọn sông
Dẫn vào mảnh đất đồ đệ có duyên lành
Nguyện Đấng Thủ Hộ Bí Mật cửu trụ.

Duyên khởi hiển bày pháp luân hồi, xuất thế


Hiển hiện như nhiên ban sơ vốn vô sanh, cực tịnh
Trung đạo thâm sâu lìa mọi lý luận
Nguyện Đấng Long Chủ thiện thuyết cửu trụ.

Thời luân: nội, ngoại, mật tam bất phân


Bạch Liên Pháp Vương khéo giải bày
Thị hiện làm thầy ở xứ Bhota (Tây Tạng)
Thỉnh cầu Đấng Thời Luân Kim cang cửu trụ.

Ánh sáng, minh điểm khởi ra luân hồi, xuất thế pháp
Bất tăng, bất giảm tự nhiên thành
Quả Phật giải thoát chẳng cần dụng công
Nguyện bổn lai Hổ Chủ Phổ Hiền Phật cửu trụ.

Cánh tay vô uý nắm kéo cương xa mã


Chờ tất cả pháp Phật thuần tịnh
Là nơi duy nhất cho chúng sinh, giáo pháp nương nhờ
Nguyện Ngài, Đức Tenzin Gyatso cửu trụ.

98
Trân chân trên đỉnh đầu của hữu tình trong ba cõi
Với rung động kính ngưỡng hàng trăm lần
Xin đảnh lễ dưới gót sen cát tường luân
Nguyện Đấng Đại Pháp Vương thọ mạng miên trường.

Đế Thích Thiên tiêu diệt phi thiên ma


Bằng mảnh lực Kim Cang Chuỳ bách đỉnh
Phá huỷ núi đá ác tà kiến
Nguyện Đấng Tác Ý Thắng Lạc (Heruka) cửu trụ.
Thỉnh Thánh hỷ lạc tại cung điện Potala
Tam mật kiên cố chẳng biến chuyển
Cửu trụ như đại địa, núi Diệu Cao, như nhật nguyệt
Xin Ngài mãi trụ trên Kim Cang Toà.

Nương nhờ năng lực chơn thật lời thỉnh nguyện


Vô Thượng Sư, Bổn Tôn, Phật, Bồ Tát
Thỉnh cầu Tam Thắng Thần Vô Uý ban phúc
Gia trì thành tựu, vô chướng ngại.

99
Đối trước hội chúng Vô Thượng Ân Sư
Hiện tại cùng quá khứ
Thân khẩu ý của vô lượng chư Phật
Ngọc Như Ý sanh ra mọi sự thiện lành trong cõi hữu tịch
Như huyễn thuật ca vũ tuỳ duyên cứu độ.
Chúng con chí thành khẩn thiết thỉnh cầu Vô Thượng Ân Sư,
Gia trì Đấng Cứu Hộ xứ tuyết - Tenzin Gyatso
Thọ mạng trăm kiếp miên trường bất diệt
Ước nguyện thành tựu không chướng ngại.

Mây ảo hoá trí đại lạc vô cấu


Trải khắp hư không cùng khắp pháp giới
Hiện ra vô số Mạn - đà - la
Với tất cả hội chúng Bổn Tôn, Thần.
Chúng con chí thành khẩn thiết thỉnh cầu Bổn Tôn.
Gia trì Đấng Cứu hộ xứ tuyết - Tenzin Gyatso
Thọ mạng trăm kiếp miên trường bất diệt
Ước nguyện thành tựu không chướng ngại.

Trước vô lượng chư Phật ba đời


Thầy của trời đủ mười lực
Với công hạnh đoạn chứng viên mãn

100
Ích lợi chúng sinh giới như biển cả
Chúng con chí thành khẩn thiết thỉnh cầu chư Phật
Gia trì Đấng Cứu hộ xứ tuyết - Tenzin Gyatso
Thọ mạng trăm kiếp miên trường bất diệt
Ước nguyện thành tựu không chướng ngại.

Tam thừa thậm thâm Vi Diệu Pháp tư lương


Vô Cấu, bất động, thiện đức mọi điều lành
Bảo tạng thanh tịnh, tịch tịnh thù thắng
Hay khiến chúng sinh thoát ly ba cõi khổ
Chúng con chí thành khẩn thiết thỉnh cầu Diệu Pháp
Gia trì Đấng Cứu hộ xứ tuyết - Tenzin Gyatso
Thọ mạng trăm kiếp miên trường bất diệt
Ước nguyện thành tựu không chướng ngại.

Đối trước bậc trí giác Thánh Tăng Chúng


Trí tuệ liễu ngộ trực tiếp thắng nghĩa đế
Chưa từng rời bỏ giải thoát Kim Cang Thành
Uy phong phá huỷ mọi huyễn thuật cõi hữu.
Chúng con chí thành khẩn thiết thỉnh cầu Diệu Pháp
Gia trì Đấng Cứu hộ xứ tuyết - Tenzin Gyatso
Thọ mạng trăm kiếp miên trường bất diệt
Ước nguyện thành tựu không chướng ngại.

Hội chúng Không Hành Dũng Sĩ trong ba cõi


Trụ ở Không Hành quốc độ, thánh địa, rừng tử thi

101
Trải nghiệm không lạc hoá hiện phương tiện
Trợ giúp hành giả thành tựu các thiện đạo
Chúng con chí thành khẩn thiết thỉnh cầu Diệu Pháp
Gia trì Đấng Cứu hộ xứ tuyết - Tenzin Gyatso
Thọ mạng trăm kiếp miên trường bất diệt
Ước nguyện thành tựu không chướng ngại.

Trước biển cả các đáng Hộ Pháp có tuệ nhãn


Luôn giữ thủ ấn kiết trên búi tóc để gia hộ
Các vị hùng lực trì giáo với chánh pháp
Mà Đức Kim Cang Trì giao phó
Chúng con chí thành khẩn thiết thỉnh cầu Diệu Pháp
Gia trì Đấng Cứu hộ xứ tuyết - Tenzin Gyatso
Thọ mạng trăm kiếp miên trường bất diệt
Ước nguyện thành tựu không chướng ngại.

Nhờ năng lực kính tâm thỉnh nguyện


Đấng quy y Tối Thắng bất hư như thế
Chúng con cầu cho Đấng Cứu hộ xứ tuyết
Là vị bảo hộ duy nhất của chúng sinh
Đang chịu vô tận cấu trược khổ hạn
Đấng tối thắng Ngawang Lobsang Tenzin Gyatso
Thân ngữ ý bất biến, bất huỷ, bất diệt
Lìa mọi suy thoái, bất động
Cửu trụ giữa Kim Cang Toả như kiếp hải.

102
Gánh vác công hạnh của vô lượng Phật
Trên đôi vai đại hùng đại lực
Là trái tim bảo châu, sự nghiệp lợi hành
Cầu cho ước nguyện Ngài thành tựu không chướng ngại.
Do năng lực trên Ngài mở cửa hư không
Thiện duyên viên mãn cho chúng sinh
Được an ổn giải thoát
Cầu cho đỉnh điềm lành hữu tịch
Pháp Phật hoằng truyền khắp muôn phương mọi thời.

Cầu dòng cam lồ gia trì của Đức Liên Hoa Thủ
Rót vào tâm trưởng dưỡng chúng con
Cúng dường sự hành trì của con mong đẹp ý Ngài
Nguyện mọi thiện hạn đáo bỉ ngạn
Cầu chư Phật, Bồ Tát gia trì
Duyên khởi hy hữu chơn thật bất hư
Nhờ năng lực ý lạc thanh tịnh của chúng con
Nguyện mọi sở cầu chóng dễ dàng thành tựu.

103

You might also like