You are on page 1of 103

Nha khoa kỹ thuật số

Hướng dẫn từng bước và ca lâm sàng

Biên tập bởi


Giáo sư Arthur R.G.Cortes, DDS, MSc.PhD
Bộ môn phẫu thuật nha khoa
Khoa Phẫu thuật nha kho
Đại học Malta
Msida, Malta

NỘI DUNG

Phần 1 Kiến thức cơ bản về nha khoa kỹ thuật số


1. Giới thiệu về nha khoa kỹ thuật số

1.1 Định nghĩa


1.1.1 Hình ảnh ba chiều
1.1.2 Yếu tố mặt phẳng
1.1.3 Thiết kế và chế tạo với sự hỗ trợ của máy tính (CAD-CAM)
1.1.4 Lưới
1.1.5 Điều trị hướng dẫn bởi hình ảnh
1.1.6 Chồng hình/ Căn hình
1.1.7 Độ phân giải
1.2 Lịch sử của nha khoa kỹ thuật số
1.3 Quy trình làm việc tại phòng khám và thuê ngoài
1.3.1 Phòng khám nha khoa kỹ thuật số
1.3.2 Khía cạnh của công nghệ kỹ thuật số tại phòng khám nha khoa
1.3.3 Đào tạo nha sĩ kỹ thuật số
1.3.4 Các mức độ kỹ thuật số của phòng khám nha khoa
1.3.5 Các loại hình phòng khám nha khoa và mô hình kinh doanh
1.3.6 Khía cạnh tài chính của các phòng khám nha khoa kỹ thuật số
1.3.7 Làm thế nào để tính lãi (RỒI)
1.3.8 Ưu điểm của nha khoa kỹ thuật số đối với phòng khám
1.3.9 Quy trình làm việc tại phòng khám nha khoa kỹ thuật số
1.4 Các kiến thức hiện nay và quan điểm về trí thông minh nhân tạo trong nha khoa
Tài liệu tham khảo

2. Thiết kế với sự hỗ trợ của máy tính (CAD)


2.1 Các phương pháp hình ảnh kỹ thuật số
2.1.1 Chụp cắt lớp vi tính với chùm tia hình nón
2.1.1.1 Kiến thức cơ bản
2.1.1.2 Quy trình từng bước
2.1.2 Máy quét trong miệng
2.1.2.1 Kiến thức cơ bản
2.1.2.2 Quy trình từng bước
2.1.3 Máy quét để bàn
2.1.3.1 Kiến thức cơ bản
2.1.3.2 Quy trình từng bước
2.1.4 Máy quét ngoài mặt
2.1.4.1 Kiến thức cơ bản
2.1.4.2 Quy trình từng bước
2.1.5 Chụp ảnh lâm sàng
2.1.6 Chụp cộng hưởng từ
2.1.6.1 Các yếu tố ảnh hưởng chất lượng MRI
2.1.6.2 Phân tích MRI giải phẫu mô mềm
2.1.6.3 Chẩn đoán các tổn thương mô mềm với MRI
2.1.6.4 Phân tích khớp thái dương hàm
2.1.6.5 Phân tích MRI cấu trúc xương
2.1.6.6 Tái tạo hình ảnh 3 chiều từ MRI
2.1.6.7 Nghiên cứu quy trình làm việc kỹ thuật số sử dụng MRI
2.2 Sử dụng phần mềm
2.2.1 Các loại phần mềm sử dụng trong CAD
2.2.1.1 Các chương trình phần mềm nguồn mở không nha khoa
2.2.1.2 Các chương trình phần mềm nha khoa
2.2.2 Các loại tập tin sử dụng
2.2.2.1 Giao tiếp kỹ thuật số trong y khoa (DICOM)
2.2.2.2 Ngôn ngữ tesselation tiêu chuẩn (STL)
2.2.2.3 Định dạng tập tin đa giác (PLY)
2.2.2.4 Tập tin đối tượng (OBJ)
2.2.2.5 Tập tin từ chụp ảnh lâm sàng
2.2.2.6 Tập tin video
2.2.3 Dữ liệu kết hợp: Bệnh nhân ảo
Tài liệu tham khảo

3. Chế tạo với sự hỗ trợ máy tính (CAM)


3.1 Công nghệ in 3D FDM
3.1.1 Kiến thức cơ bản
3.1.2 Quy trình từng bước
3.1.2.1 Hiệu chuẩn
3.1.2.2 In và quy trình sau đó
3.2 Màn hình tinh thể lỏng (LCD)
3.2.1 Kiến thức cơ bản
3.2.2 Quy trình từng bước
3.2.2.1 Sự thu nhận
3.2.2.2 Cài đặt phần mềm CAM
3.2.2.3 Cắt lớp
3.2.2.4 In vật phẩm
3.2.2.5 Rửa/ Chiếu đèn
3.2.2.6 Kết luận
3.3 In lito lập thể (SLA)
3.3.1 Kiến thức cơ bản
3.3.2 Quy trình từng bước
3.3.2.1 Thiết lập máy in
3.3.2.2 Điều chỉnh thiết bị
3.3.2.3 Trang bị bảo vệ cá nhân (PPE)
3.3.2.4 Sửa soạn khoang chứa nhựa (Vat) và thiết lập tấm đỡ
3.3.2.5 Các loại nhựa
3.3.2.6 Sửa soạn nhựa
3.3.2.7 Phun nhựa
3.3.2.8 Các thông số in
3.3.2.9 Tải công việc
3.3.2.10 In
3.3.2.11 Bỏ tấm đỡ
3.3.2.12 Bỏ nhựa chưa đông
3.3.2.13 Chiếu nhựa
3.3.2.14 Lọc nhựa
3.3.2.15 Vật liệu nhựa và chất tan
3.3.2.16 Duy trì phòng ngừa
3.4 Quy trình ánh sáng kỹ thuật số (DLP)
3.4.1 Kiến thức cơ bản
3.4.2 Quy trình từng bước
3.5 Phay cán/mài
3.5.1 Kiến thức cơ bản
3.5.2 Quy trình từng bước
3.5.2.1 Phay cán tại lab
3.5.2.2 Hiệu chuẩn và thử nghiệm thiết bị phay cán
3.5.2.3 Quy trình phay cán tại ghế
Tài liệu tham khảo

Phần 2 Ứng dụng lâm sàng của nha khoa kỹ thuật số

4. Quy trình làm việc kỹ thuật số trong Phục hình/ Nha khoa phục hồi
4.1 Quy trình lâm sàng để quét trong miệng
4.1.1 Sửa soạn răng
4.1.2 Trụ quét implant
4.1.2.1 Quy trình từng bước: Lấy dấu implant nha khoa
4.1.2.2 Kỹ thuật đo ảnh lập thể: Sự thay thế chính xác và nhanh chóng
4.2 Thiết lập bệnh nhân ảo
4.2.1 Nhập hình ảnh quét trong miệng vào phần mềm CAD
4.2.2 Giá khớp ảo
4.2.2.1 Quy trình từng bước sử dụng giá khớp ảo trong quy trình kỹ thuật số
4.2.3 Phân tích thẩm kỹ và thiết kế nụ cười kỹ thuật số
4.2.3.1 Phân tích thẩm mỹ
4.2.3.2 Thiết kế nụ cười kỹ thuật số hai chiều
4.2.3.3 Các phương pháp ghi nhận hình ảnh 3D cho phân tích thẩm Mỹ
4.2.3.4 Quy trình từng bước để thiết kế răng mặt thẩm mỹ 3D
4.2.4 Thiết kế nụ cười động
4.2.4.1 Quy trình từng bước cho thiết kế nụ cười động
4.3 Quy trình kỹ thuật số cho phục hồi/ phục hình.
4.3.1 Mão đơn
4.3.1.1 Mão đơn trên răng
4.3.1.2 Làm việc với đai
4.3.1.3 Mão nâng đỡ bởi implant
4.3.1.4 Khuôn CAD-CAM
4.3.1.5 Abutment đặc chế
4.3.2 Mão nẹp và cầu cố định
4.3.2.1 Quy trình từng bước để thiết kế và phay cán cầu răng
4.3.3 Mặt dán sứ
4.3.4 Phục hồi inlay và onlay
4.3.5 Phục hồi composite nhựa trực tiếp kỹ thuật số
4.3.6 Hàm giả toàn bộ kỹ thuật số
4.3.6.1 Quy trình tái tạo phục hình tháo lắp: Phương pháp BPS-SEMECD tóm tắt
4.3.7 Phục hình nâng đỡ trên implant toàn hàm
4.3.7.1 Sử dụng CAD-CAM cho phục hình toàn hàm
4.4 In ba chiều trong phục hình
4.4.1 Phục hình nhựa in 3D
4.4.2 Khung in 3D
4.4.2.1 Nhập tập tin
4.4.2.2 Xử lý tập tin
4.4.2.3 Làm sạch lưới
4.4.2.4 Làm trơn láng bờ lưới
4.4.2.5 Chế tạo đế
4.4.2.6 Làm vật cứng
4.4.2.7 Làm vật rỗng
4.4.2.8 Cắt mặt phẳng
4.4.2.9 Xuất tập tin
Tài liệu tham khảo

5. Quy trình kỹ thuật số trong nha chu


5.1 Lên kế hoạch phẫu thuật nha chu
5.2 Máng hướng dẫn phẫu thuật CAD-CAM cho làm dài thân răng lâm sàng
5.2.1 Lên kế hoạch cho chế tạo máng hướng dẫn phẫu thuật nha chu
5.3 Phẫu thuật nha chu có hướng dẫn bằng hình ảnh
5.4 Máng hướng dẫn phẫu thuật cho ghép mô mềm
5.5 Bằng chứng nghiên cứu
Tài liệu tham khảo

6. Quy trình kỹ thuật số trong cấy ghép nha khoa


6.1 Quan điểm của lên kế hoạch phẫu thuật phục vụ phục hình
6.2 Phẫu thuật implant hướng dẫn bằng hình ảnh tĩnh
6.2.1 Kỹ thuật quét CBCT kép
6.2.2.1 Máng hướng dẫn cắt lớp
6.2.2 Sử dụng kết hợp quét trong miệng và CBCT
6.2.2.1 Lên sáp ảo
6.2.2.2 Phần mềm lên kế hoạch phẫu thuật implant ảo
6.2.3 Tái tạo implant toàn hàm
6.2.3.1 Quan điểm của phẫu thuật implant hướng dẫn bằng hình ảnh kỹ thuật số cho tái tạo
toàn hàm
6.2.3.2 Ưu điểm của phẫu thuật có hướng dẫn
6.2.3.3 Làm việc nhóm nha khoa và các yêu cầu kỹ thuật cho lên kế hoạch phẫu thuật có
hướng dẫn
6.2.3.4 Thực hiện phẫu thuật tổng quát
6.2.3.5 Quy trình từng bước cho phẫu thuật có hướng dẫn hình ảnh toàn hàm, từ lên kế
hoạch tới phẫu thuật
6.2.3.6 Các lưu ý bổ sung
6.2.4 Implant gò má
6.3 Phẫu thuật implant có hướng dẫn động
6.3.1 Kỹ thuật phẫu thuật
6.4 Lên kế hoạch ghép xương khối
6.4.1 Bảo tồn huyệt ổ răng
6.4.2 Nâng xoang
6.4.3 Ghép xương onlay
Tài liệu tham khảo

7. Quy trình kỹ thuật số trong phẫu thuật miệng và hàm mặt


7.1 Phẫu thuật nhố răng kẹt có hướng dẫn bằng hình ảnh
7.2 Lên kế hoạch cho phẫu thuật chỉnh hình
7.2.1 Xây dựng hình ảnh sọ mặt ảo
7.2.1.1 Hình ảnh toàn cảnh ngang
7.2.1.2 Tái tạo hình ảnh ba chiều và cắt ngang của xương
7.2.1.3 Nhập hình ảnh quét răng
7.2.1.4 Làm sạch lưới
7.2.1.5 Thiết kế cho phẫu thuật cắt xương
7.2.1.6 Định hướng sọ mặt ảo theo vị trí đầu tự nhiên
7.2.1.7 Các điểm sọ nghiêng: Vị trí và định nghĩa
7.2.2 Lên kế hoạch ảo: Di chuyển xương
7.2.3 Thực hiện máng phẫu thuật
7.2.4 So sánh các kết quả từ kế hoạch điều trị ảo
7.3 Máng hướng dẫn phẫu thuật: Các dạng và phân loại
7.4 Lên kế hoạch điều trị ảo cho phẫu thuật chấn thương
T ài liệu tham khảo

8. Quy trình kỹ thuật số trong nội nha


8.1 Hình ảnh kỹ thuật số trong nội nha
8.1.1 Khuyến cáo cho hình ảnh nội nha
8.2 Định vị chóp bằng máy
8.2.1 Quy trình từng bước để sử dụng máy định vị chóp
8.3 Sử dụng kính hiển vị nha khoa trong nội nha
8.4 Nội nha hướng dẫn CAD-CAM
8.4.1 Chỉ định và ưu điểm
8.4.2 Quy trình từng bước để thực hiện nội nha hướng dẫn CAD-CAM
8.4.2.1 Chụp phi. CBCT cho răng liên quan
8.4.2.2 Quét bề mặt
8.4.2.3 Nhập dữ liệu quét bề mặt và CBCT
8.4.2.4 Chuẩn bị CBCT
8.4.2.5 Gộp hình ảnh quét bề mặt và CBCT
8.4.2.6 Máng hướng dẫn đường vào
8.4.2.7 Thiết kế máng hướng dẫn phẫu thuật
8.4.2.8 Thông qua kế hoạch và in máng
8.4.2.9 Máng phẫu thuật đường vào
Tài liệu tham khảo

9. Quy trình kỹ thuật số trong chỉnh nha


9.1 Hướng dẫn CAD-CAM cho mắc cài chỉnh nha
9.2 Hướng dẫn CAD-CAM cho mini vít chỉnh nha
9.2.1. Kỹ thuật
9.2.2 Bàn luận
9.3 Khay chỉnh nha
Tài liệu tham khảo
10. Quy trình kỹ thuật số trong nha khoa công cộng, nha khoa phòng ngừa và giáo dục
nha khoa
10.1 Nha khoa kỹ thuật số trong sức khoẻ công cộng
10.1.1 Vai trò của từ xa
10.1.2 Vai trò mong đợi của CAD-CAM trong sức khoẻ công cộng
10.2 Quy trình kỹ thuật số trong nha khoa phòng ngừa
10.3 Nha khoa kỹ thuật số trong giáo dục nha khoa
Tài liệu tham khảo

Phần 3 Ca lâm sàng

11. Các ca lâm sàng đa ngành

Chỉ mục
Phần 1

Kiến thức cơ bản về nha khoa kỹ thuật số


Chương 1

Giới thiệu về nha khoa kỹ thuật số


Renan L.B. da Silva, Jun Ho Kim, Roberto A. Markarian, Rui Falacho, Djalma N. Cortes,
Alan J.M. Costa, và Arthur R.G. Cortes

TÓM TẮT
Chương này sẽ thảo luận về tất cả các thuật ngữ và định nghĩa mà chuyên gia nha khoa cần
biết để hiểu các quy trình được trình bày trong các chương sau. Các định nghĩa này bao
gồm các chữ viết tắt và các khái niệm chung về hình ảnh kỹ thuật số và quy trình làm việc
kỹ thuật số. Trong chương này, chúng tôi cũng trình bày lịch sử sử dụng CAD-CAM trong
nha khoa trong hai thập kỷ qua và kiến thức cơ bản cần có, cùng với các ý tưởng và giải
pháp thay thế để bắt đầu với nha khoa kỹ thuật số.

1.1 Định nghĩa

Nha khoa kỹ thuật số là thuật ngữ được sử dụng để mô tả các phương thức khác nhau của quy
trình điều trị nha khoa mà hầu hết được thực hiện với việc sử dụng các công nghệ kỹ thuật số.
Một số phương pháp kỹ thuật số đã được tích hợp vào thực hành nha khoa để thay thế các
phương pháp và kỹ thuật thông thường nhằm tăng cường cho việc lập kế hoạch điều trị và khả
năng dự đoán kết quả. Ngày nay, nha khoa kỹ thuật số được coi là một lĩnh vực nghiên cứu
toàn diện trong nha khoa. Như với bất kỳ lĩnh vực nghiên cứu nào khác, nha khoa kỹ thuật số
liên quan đến một lộ trình học tập để nắm vững và sử dụng trong quy trình lâm sàng. Chuyên
gia nha khoa chịu trách nhiệm sử dụng các công cụ kỹ thuật số hiện có một cách thích hợp để
điều trị cho bệnh nhân. Nói cách khác, các lý thuyết cơ bản về nha khoa vẫn giống nhau và nên
được nắm rất rõ bởi bác sĩ thực hiện - những người sẽ có thể sử dụng các công cụ kỹ thuật số
mới này để nâng cao khả năng dự đoán trong việc thực hiện kế hoạch điều trị.
Để làm quen với nha khoa kỹ thuật số và tận dụng các lợi ích của nó, điều cần thiết là
nắm vững một loạt các khái niệm và từ viết tắt quan trọng. Điều quan trọng nhất trong số này
được thảo luận dưới đây.

1.1.1 Hình ảnh ba chiều

Phương thức hình ảnh hai chiều (2D) thông thường thường có một số hạn chế như hình ảnh
biến dạng, phóng đại, xếp chồng các cấu trúc giải phẫu và thiếu thông tin ba chiều (3D) để
chẩn đoán và lập kế hoạch. Trong bối cảnh này, các phương thức hình ảnh 3D như chụp cắt lớp
vi tính chùm tia hình nón (CBCT), hệ thống quét trong miệng và khuôn mặt cung cấp hình ảnh
kỹ thuật số 3D cho nha khoa [1–3]. Hình ảnh CBCT cho phép hình dung và đánh giá cấu trúc
xương với độ chính xác và chẩn đoán cao. Đối với hình ảnh CBCT, chuyên gia cần hiểu các
thông số thu nhận hình ảnh, vì chất lượng hình ảnh ảnh hưởng đến chất lượng công việc trong
nha khoa kỹ thuật số. Có một số tham số thu thập CBCT, chẳng hạn như kích thước trường
quan sát (FOV), điện áp đỉnh (kVp), milliamper (mA) và kích thước voxel. Mỗi tham số này
đều có ảnh hưởng đến chất lượng CBCT [2–5].
Quét trong miệng và khuôn mặt có thể chụp ảnh bệnh nhân 3D và có thể được sử dụng
cho các hệ thống lập kế hoạch điều trị kỹ thuật số (Hình 1.1). Sau đó, phần mềm sẽ phát triển
một biểu diễn kỹ thuật số của các bề mặt đối tượng 3D có sẵn, và tự động chuyển đổi thành
hình ảnh 3D được tạo bởi các mô hình khung dây.
Bất kỳ hình ảnh 3D nào cũng có thể được hiển thị và chỉnh sửa trong không gian 3D,
trước khi được chuyển đổi và lưu ở định dạng tệp cụ thể [5]. Như đã thảo luận trong chương
tiếp theo, ba định dạng tệp thường được sử dụng trong nha khoa kỹ thuật số: OBJ, STL và PLY.
Các tệp này dựa trên sự tái tạo hình học của các đối tượng bằng vectơ, hình tam giác
hoặc đa giác, xem xét vị trí của chúng trong không gian 3D. Sau khi tất cả dữ liệu đã sẵn sàng,
có thể lưu trữ hình dạng của mô hình và các chi tiết khác như màu sắc hoặc kết cấu.
Hình ảnh ba chiều có thể được thao tác theo nhiều cách khác nhau, tùy thuộc vào đặc
điểm của phần mềm. Ví dụ: với các tệp DICOM và STL, sử dụng phần mềm CAD, người ta có
thể lập kế hoạch và thực hiện phẫu thuật cấy ghép nha khoa kỹ thuật số và wax-up phục hình
trong tương lai. Sau khi lập kế hoạch kỹ thuật số, máng hướng dẫn phẫu thuật cấy ghép, mão
răng tạm thời và mão răng vĩnh viễn có thể được in bằng các thiết bị sản xuất đắp lớp (additive
manufacturing) hoặc được phay cán bằng các thiết bị gia công cắt gọt (subtractive
manufacturing) [5, 6].

Hình 1.1 Các đối tượng ba chiều được nhập vào trong các tọa độ khác nhau của không gian
3D (chụp màn hình phần mềm MeshMixer, Autodesk). Lưu ý rằng cầu cố định gần màn hình
hơn mão răng hàm. Lưới động được sử dụng để định hướng bố cục không gian của các đối
tượng 3D.

1.1.2 Toạ độ và mặt phẳng

Tất cả hình ảnh 3D được tạo hoặc hiển thị trong không gian ảo có tọa độ và mặt phẳng. Bất kỳ
đối tượng nào được thiết kế kỹ thuật số trong tọa độ 3D đều có thể được chỉnh sửa hoàn toàn
trong không gian ảo trước khi được sản xuất. Hệ tọa độ là một phương pháp gán số cho các
điểm. Trong không gian ba chiều, ba số được yêu cầu để xác định một điểm. Hình ảnh 2D thuần
túy có các số chỉ liên quan đến hai tọa độ (x và y). Tọa độ đại diện cho chiều thứ ba thường là
một trục gọi là z. Trục z vuông góc với cả trục x và trục y (Hình 1.2).
Các tọa độ và các mặt phẳng tương ứng cung cấp các tham chiếu cho vị trí, kích thước
và khối lượng của hình ảnh 3D. Tất cả các đối tượng 3D có tọa độ cố định trong một mặt phẳng
ảo của phần mềm hình ảnh. Điều quan trọng là đảm bảo rằng nhiều đối tượng 3D được thao
tác hoặc căn chỉnh được định vị trong cùng một tọa độ không gian, có thể được sử dụng làm
tham chiếu không gian. Do đó, các tệp 3D từ các phương pháp hình ảnh khác nhau phải ở cùng
tọa độ 3D để được xếp chồng lên nhau hoặc kết hợp với mục đích tạo bệnh nhân ảo, như được
giải thích thêm trong chương này.

Hình 1.2 Một đối tượng 3D (mô hình tái tạo của chụp CT hàm trên) được định vị trong không
gian 3D của phần mềm (Ultimaker Cura) để in 3D. Lưu ý ba trục được phần mềm mô tả bằng
các màu khác nhau (trục x màu đỏ, trục y màu lục, trục z màu lam).

1.1.3 Thiết kế và chế tạo với sự hỗ trợ của máy tính (CAD-CAM)

Thuật ngữ thiết kế có sự hỗ trợ/hỗ trợ của máy tính thường được viết tắt là CAD. Các phương
pháp được sử dụng để thu nhận hình ảnh (CBCT, hình ảnh quét, ảnh) và thao tác (chương trình
phần mềm) có thể được đưa vào CAD. Mặt khác, sản xuất có sự trợ giúp/hỗ trợ của máy tính
(CAM) bao gồm các quy trình như máy in 3D (sản xuất phụ gia) và thiết bị phay cán (sản xuất
trừ). Các công nghệ CAD-CAM hiện đang được sử dụng trong kỹ thuật y sinh, y học lâm sàng,
cấy ghép y tế tùy chỉnh, kỹ thuật mô, nha khoa, sản xuất khớp nhân tạo và phẫu thuật bằng rô-
bốt. Hơn nữa, việc sử dụng các công nghệ CAD-CAM ngày càng tăng trong nhiều lĩnh vực
nghiên cứu về y học và nha khoa [5, 6]. Trong số các thiết bị chính có thể được thiết kế và sản
xuất kỹ thuật số là các loại phục hồi và phục hình răng khác nhau, hướng dẫn phẫu thuật, nẹp
khớp cắn, phôi nha khoa và khay chỉnh nha [5, 7]. Chi tiết về các ứng dụng lâm sàng chính của
CAD-CAM trong nha khoa sẽ được đề cập thêm trong các chương tiếp theo.

1.1.4 Lưới

Thuật ngữ lưới được sử dụng để mô tả bề mặt của đối tượng 3D bao gồm các mặt hình tam
giác hoặc đa giác. Một đối tượng lưới không có bất kỳ độ cong thực tế nào. Thay vào đó, sự
xuất hiện của các đường cong trong hình ảnh 3D bao gồm các mắt lưới có được bằng cách tăng
số lượng bề mặt. Định dạng tệp phổ biến nhất của những hình ảnh 3D này là tệp STL [5], sẽ
được thảo luận chi tiết trong chương tiếp theo.

1.1.5 Điều trị hướng dẫn bởi hình ảnh


Do bệnh nhân được quét 3D trước khi điều trị nha khoa nên công nghệ CAD-CAM có thể được
sử dụng để chế tạo các hướng dẫn phẫu thuật, hướng dẫn chuẩn bị và các mẫu phẫu thuật hàm
mặt. Hầu hết các ứng dụng này đều yêu cầu hình ảnh mô cứng và mô mềm 3D được tạo bởi
CBCT và các phương thức hình ảnh quét quang học tương ứng. Dựa trên những hình ảnh như
vậy, các máng hướngdaaxn CAD-CAM có thể được thiết kế và sản xuất để định hướng các quy
trình khoan và tạo đường rạch [5].

1.1.6 Chồng hình/ Căn hình


Các tệp hình ảnh 3D riêng biệt như DICOM và STL có thể được chồng lên hoặc căn chỉnh
bằng phần mềm CAD. Trong lĩnh vực nha khoa kỹ thuật số, việc căn chỉnh DICOM và STL rất
hữu ích để lập kế hoạch đặt implant. Chi tiết về căn chỉnh hình ảnh sẽ được đề cập trong chương
tiếp theo.

1.1.7 Độ phân giải

Trong hình ảnh 2D, độ phân giải phụ thuộc vào số pixel. Pixel là đơn vị nhỏ nhất của hình ảnh
kỹ thuật số có thể được hiển thị và biểu diễn trên thiết bị hiển thị kỹ thuật số, còn được gọi là
phần tử hình ảnh (pix = hình ảnh, el = phần tử). Một pixel được biểu thị bằng một dấu chấm
hoặc hình vuông trên màn hình hiển thị của máy tính. Pixel là các khối xây dựng cơ bản của
hình ảnh hoặc màn hình kỹ thuật số và được tạo bằng cách sử dụng tọa độ hình học. Tùy thuộc
vào card đồ họa và màn hình hiển thị, số lượng, sự kết hợp màu sắc và kích thước của các điểm
ảnh sẽ khác nhau và được đo bằng độ phân giải màn hình. Hình ảnh độ phân giải cao đầy đủ
(full HD) có chiều rộng 1920 pixel và chiều cao 1080 pixel, tổng cộng là 2,07 megapixel. Độ
phân giải Ultra HD (còn được gọi là 4K) có 3840 × 2160 pixel, tổng cộng 8,3 megapixel.
Phiên bản 3D của pixel được gọi là voxel. Nói chung, kích thước voxel càng nhỏ thì mô hình
tái tạo 3D sẽ có chất lượng càng tốt.
Chất lượng của hình ảnh X quang phụ thuộc vào độ phân giải tương phản và độ phân
giải không gian. Độ phân giải tương phản tỷ lệ với kích thước của thang độ tương phản có sẵn
để tạo ra hình ảnh. Do đó, độ phân giải tương phản của hình ảnh càng cao thì càng dễ phân biệt
giữa nhiều mật độ. Trong hình ảnh kỹ thuật số, độ phân giải tương phản phụ thuộc vào độ sâu
bit của phương pháp hình ảnh, tuân theo thang logarit. Do đó, một máy chụp ảnh toàn cảnh8
được sản xuất với hệ thống 8 bit có thể hiển thị 2 = 256 mức thang độ xám khác nhau được
phân phối từ đen sang trắng. Thiết bị CBCT với hệ thống 12 bit sẽ cung cấp 212 = 4096 giá trị
thang xám. Độ phân giải không gian là khả năng của một phương pháp hình ảnh để xác định
các giới hạn thực tế và phân biệt hai cấu trúc liền kề [2–4].
Độ phân giải trong các tệp CAD 3D về cơ bản phụ thuộc vào kích thước và mật độ của
các mắt lưới. Tuy nhiên, chất lượng của thiết bị được sản xuất tương ứng cũng phụ thuộc vào
các yếu tố liên quan đến CAM (ví dụ: độ phân giải của máy in 3D hoặc thiết bị phay cán). Đối
với máy in 3D sẽ có các yếu tố liên quan đến độ phân giải như số lớp, độ dày lớp. Đối với máy
phay cán, độ phân giải sẽ phụ thuộc vào số lượng trục và kích thước của mũi khoan (xem
Chương 3).

1.2 Lịch sử của nha khoa kỹ thuật số

Khoa học và công nghệ là nền tảng phát triển của con người. Từ việc tạo ra và cải tiến thô sơ
các công cụ bằng đá, kèm theo đó là bước đột phá trong việc học cách kiểm soát lửa và cuộc
cách mạng thời kỳ đồ đá mới, giúp nhân rộng nguồn cung cấp thực phẩm, đến phát minh quan
trọng về bánh xe cho phép con người đi lại và sản xuất máy móc, hay việc vượt qua các rào
cản vật lý với những tiến bộ trong truyền thông, công nghệ là điều làm nên sự khác biệt của
nhân loại.
Bên cạnh công nghệ, sự phát triển từ vựng luôn luôn cần thiết để cung cấp sự hiểu biết
chung về những đổi mới về ý nghĩa và cách sử dụng các từ mới hoặc từ hiện có. Việc mở rộng
từ vựng công nghệ thường sẽ thể hiện rõ ràng một ý nghĩa mới trong việc sử dụng nhưng cũng
là một sự hợp lý hóa về lý do tại sao một ý nghĩa mới lại xuất hiện. Điều này xuất phát từ nhu
cầu đặt tên cho các phát minh mới, và khi những phát minh này đạt đến trạng thái nổi tiếng, thì
thuật ngữ tương quan cũng vậy. Một ví dụ phổ biến về sự mở rộng từ vựng này là khái niệm
“kỹ thuật số”, trong thế kỷ trước, đã trải qua một sự gia tăng lớn về cách sử dụng và ý nghĩa
như một hệ quả không thể thay đổi của điện toán hiện đại.
Tuy nhiên, trái ngược với thông lệ trong công nghệ, thuật ngữ “kỹ thuật số” hoàn toàn
không phải là một từ mới. Với từ nguyên của nó trong từ chữ số trong tiếng Latinh, có nghĩa
là ngón tay hoặc ngón chân, “kỹ thuật số” đã đi một chặng đường dài kể từ đó. Vào thế kỷ XV,
từ này được sử dụng để xác định các số Ả Rập từ 1 đến 9 và 0 là chữ số. Mãi cho đến thế kỷ
XX, thuật ngữ này mới trở nên phổ biến và có ý nghĩa quan trọng. Trong những năm 1930 và
1940, các thiết bị máy tính tương tự hiện có tính toán dữ liệu bằng hệ thống thập phân thông
thường đã được thay thế bằng các máy mới có chức năng với dữ liệu được biểu thị dưới dạng
các chuỗi chữ số rời rạc.
Vào cuối những năm 1970, thiết bị điện tử sử dụng khái niệm kỹ thuật số không còn
giới hạn ở các tổ chức và công ty nghiên cứu. Khi chi phí của họ giảm xuống, công chúng bắt
đầu có quyền truy cập và vô số nguồn thông tin và thiết bị đã được chuyển đổi sang kỷ nguyên
kỹ thuật số. Từ một đĩa CD đơn giản đến một máy ảnh cảm biến kỹ thuật số phức tạp hơn, máy
chụp ảnh phóng xạ hoặc máy quét 3D, thế giới đã thay đổi mãi mãi.
Cấu trúc của “kỹ thuật số” không chỉ dừng lại ở việc phát triển máy móc mà còn mang
một ý nghĩa rộng hơn. Nó đã phát triển để bao gồm mọi thứ liên quan đến công nghệ kỹ thuật
số hoặc máy tính, cũng như để mô tả bất kỳ vật thể hoặc thực thể nào tương đương qua trung
gian máy tính tồn tại trong thế giới có thể sờ thấy được. Công dụng hàng ngày của khái niệm
này là xe mua hàng kỹ thuật số và sách kỹ thuật số, trong số những thứ khác. Không chỉ các
đối tượng thông thường mà cả các ngành nghề, lĩnh vực chuyên môn và toàn bộ tổ chức đều
có ý nghĩa kỹ thuật số khi họ sử dụng công nghệ (phần cứng hoặc phần mềm) cho các hoạt
động của mình. Ví dụ về điều này là nhiều tài liệu tham khảo về nha khoa kỹ thuật số hoặc Học
viện Nha khoa Kỹ thuật số Châu Âu đang phát triển mạnh đã nhanh chóng trở thành một trong
những hiệp hội khoa học được kính trọng và phổ biến nhất trong lĩnh vực nha khoa.
Mặc dù thế kỷ 20 tràn ngập từ “kỹ thuật số” như là sự đổi mới công nghệ quan trọng
nhất trong lịch sử loài người, nhưng có thể dự đoán rằng thế kỷ 21 sẽ làm cho từ “kỹ thuật số”
trở nên lỗi thời chứ không phải khái niệm này. Khi kỹ thuật số trở thành tiêu chuẩn, nhu cầu
xác định nó như vậy trở nên lỗi thời. Các lĩnh vực như nha khoa kỹ thuật số sẽ vượt qua mô
hình trước đó khi tất cả nha khoa trở thành kỹ thuật số, do đó loại bỏ nhu cầu về bí danh. Tương
tự như “máy tính kỹ thuật số” đã được đặt tên trước đây, vì vậy, sáp kỹ thuật số, nhiếp ảnh kỹ
thuật số và nhiều thực thể khác sẽ mất đi tiền tố không cần thiết.
Dù đã thảo luận về các khái niệm chung về kỹ thuật số trong quá khứ, trong hiện tại và
tương lai, bắt buộc phải làm rõ khái niệm hiện tại về nha khoa kỹ thuật số, vì nó có thể không
tuân thủ khái niệm thâm căn cố đế được ngành quảng bá và dán nhãn. Mặc dù được tiếp thị
rộng rãi hơn trong các lĩnh vực phẫu thuật và phục hồi chức năng răng miệng, nha khoa kỹ
thuật số có ưu thế lớn trong nội nha, khoa tim mạch, nha chu, chỉnh nha và khớp cắn, trong số
những lĩnh vực khác. Ngày nay, rõ ràng là nha khoa kỹ thuật số bao gồm tất cả các lĩnh vực và
không chỉ là quan niệm sai lầm phổ biến về “kỹ thuật số” như một từ đồng nghĩa với nha khoa
CAD-CAM, một từ thông dụng phổ biến trong chăm sóc sức khỏe răng miệng. Công nghệ
CAD-CAM mang đến vô số cơ hội đổi mới và chắc chắn là một trong những động lực phát
triển trong nha khoa hiện đại. Tuy nhiên, theo khái niệm do Học viện Nha khoa Kỹ thuật số
Châu Âu quy định, “Nha khoa kỹ thuật số bao gồm bất kỳ và tất cả các kỹ thuật và/hoặc quy
trình khoa học, lâm sàng hoặc phòng thí nghiệm với mục đích kiểm tra, chẩn đoán, điều trị, hỗ
trợ trực tiếp hoặc gián tiếp. trong điều trị, sản xuất thiết bị y tế hoặc bất kỳ kỹ thuật nào khác
được nha sĩ và kỹ thuật viên nha khoa sử dụng để theo đuổi tốt hơn mục tiêu cải thiện điều trị,
sự thoải mái và kết quả của bệnh nhân, cũng như môi trường làm việc của chuyên gia chăm
sóc sức khỏe.”
Theo khái niệm đã nói ở trên, có thể nhận thấy rằng các lĩnh vực nha khoa như nội nha
thể hiện sự số hóa thậm chí còn cao hơn các lĩnh vực kỹ thuật số nổi tiếng khác, vì các bác sĩ
nội nha sống trong một không gian làm việc được số hóa hoàn toàn, nơi tất cả các quy trình
lâm sàng được thực hiện với sự hỗ trợ của công nghệ – chẩn đoán bằng X quang 2D hoặc 3D,
kính hiển vi và máy ảnh, công cụ tìm chóp, công nghệ siêu âm để tiếp cận ống tủy, hướng dẫn
nội nha tĩnh và động, thiết bị với động cơ kỹ thuật số tiên tiến, kỹ thuật bơm rửa kích hoạt và
phương pháp trám bít nóng.
Phương pháp tiếp cận đa ngành bắt buộc trong nha khoa kỹ thuật số khiến nhiệm vụ
xác định mốc thời gian lịch sử rõ ràng là không thể, vì vô số sự kiện, sự phát triển và các lĩnh
vực lâm sàng hoặc phòng thí nghiệm có liên quan và đan xen trong khái niệm hiện đại.
Tuy nhiên, tập trung vào phục hồi chức năng răng miệng và sự phát triển trong thiết kế
và sản xuất có sự trợ giúp của máy tính, các hệ thống CAD-CAM đầu tiên trong nha khoa đã
có từ năm 1971 khi Tiến sĩ François Duret giới thiệu chúng trong luận án tốt nghiệp DDS của
ông “Ấn tượng quang học”, nhưng công nghệ này đã được sử dụng từ những năm 1960 trong
ngành công nghiệp ô tô và máy bay.
Năm 1984, Tiến sĩ Duret đã cấp bằng sáng chế cho thiết bị CAD-CAM, thiết bị này đã
được trình bày tại Cuộc họp giữa mùa đông của Hiệp hội Nha khoa Chicago năm 1989, tại đó
mão răng được chế tạo trong thời gian kỷ lục là 4 giờ. Song song đó, Tiến sĩ Werner Mormann
đã nghiên cứu phát triển một hệ thống quét kỹ thuật số được nha sĩ tổng quát sử dụng, mang
nhãn hiệu CEREC 1 và ra mắt vào năm 1985. Hệ thống cải tiến này bao gồm một máy quét kỹ
thuật số ba chiều và máy phay cán mà khi được kết hợp, sẽ cho phép các nha sĩ sản xuất các
lớp phủ và lớp phủ sứ trên ghế chỉ trong một lần hẹn.
Kể từ đó, công nghệ này đã được cải thiện rất nhiều và các nha sĩ cũng như kỹ thuật
viên nha khoa đã trải qua thời kỳ mà CAD-CAM có thể tạo ra kết quả giống như ma thuật thuần
túy, đó là điều sẽ xảy ra khi công nghệ đủ tiên tiến. Hai chương tiếp theo của cuốn sách này sẽ
trình bày chi tiết về công nghệ CAD-CAM và các quy trình có sẵn.
Sự ra đời của in 3D đang cách mạng hóa một số lĩnh vực nha khoa, nâng cao chất lượng
và độ chính xác của các kỹ thuật phẫu thuật, đồng thời đạt được ưu thế lớn trong nha khoa phục
hồi. Thuật ngữ in 3D định nghĩa một quy trình sản xuất trong đó các kỹ thuật bồi đắp được sử
dụng để xây dựng các vật thể theo từng lớp một, trái ngược với các kỹ thuật phay cán đòi hỏi
khối vật liệu phải được mài thành hình dạng mong muốn cuối cùng.
Kỹ sư Charles Hull đã giới thiệu công nghệ in 3D đầu tiên vào năm 1986 với hệ thống
lập thể lập thể (SLA) đã được cấp bằng sáng chế của ông và 4 năm sau, Scott Crump đã được
cấp bằng sáng chế cho kỹ thuật mô hình lắng đọng hợp nhất (FDM). Được sử dụng rộng rãi
trong vô số lĩnh vực sản xuất trong 30 năm qua, in 3D với các vật liệu mới được phát triển đang
trên bờ vực thay đổi hoàn toàn y học nói chung và nha khoa. Từ việc sản xuất các dụng cụ
hướng dẫn phẫu thuật, phôi nghiên cứu, mô hình, phục hình gián tiếp tạm thời, nẹp khớp cắn
và khay chỉnh nha cho đến việc sản xuất các phục hồi nhựa dài hạn, răng giả hoàn chỉnh và
thậm chí cả cấy ghép nha khoa bằng titan gần đây, công nghệ đắp lớp này được cho là tương
lai của CAM, với một số đổi mới được dự đoán trước về vật liệu và kỹ thuật sẽ sớm cho phép
in phục hình sứ với khả năng tùy chỉnh cao hơn và giảm lãng phí nguyên liệu thô.
Với sự ra đời của chẩn đoán, tài liệu bệnh nhân và trường hợp, lập kế hoạch điều trị, kỹ
thuật điều trị mới và gần đây là trong suốt quy trình làm việc trong phục hồi chức năng răng
miệng, nha khoa kỹ thuật số là một thực tế với một tương lai đầy hứa hẹn. Tuy nhiên, còn nhiều
điều nữa vẫn chưa đến và các lĩnh vực khác như trí tuệ nhân tạo (AI) sẽ đóng một vai trò quan
trọng và hiện không thể tưởng tượng được trong việc vượt qua mọi ranh giới đã biết. Được coi
là một lĩnh vực đang phát triển, công nghệ AI trong nha khoa đã trở thành tâm điểm của các
nghiên cứu nghiêm túc. Phần mềm có khả năng học sâu đã giúp cải thiện kết quả điều trị chỉnh
nha, chẩn đoán sâu răng, chẩn đoán và dự đoán các bệnh nha chu, đánh giá rủi ro ung thư miệng,
đề xuất kế hoạch điều trị, phân tích dữ liệu bệnh nhân và thiết kế nụ cười, v.v.
Các công ty như Pearl, Smilecloud và LM Instruments, trong số nhiều công ty khác,
dẫn đầu việc phát triển các công cụ và phần mềm mới có khả năng tự dự đoán bệnh lý, đề xuất
các kế hoạch điều trị hoặc cung cấp các giải pháp để cải thiện quản lý lâm sàng và tối đa hóa
các phương pháp tiếp cận hiệu quả về chi phí cũng như sự an toàn của bệnh nhân.
Với nhiều hạn chế và thiếu sót, nha khoa kỹ thuật số là một thực tế mới không thể tránh khỏi.
Tuy nhiên, nó không nên được coi là một phương tiện để giải quyết tất cả các vấn đề và lỗi của
nha sĩ/kỹ thuật viên nha khoa, mà là một công cụ để tối đa hóa và cải thiện các quy trình đã
được thực hiện đầy đủ.
Kể từ những ngày đầu, công nghệ đã mang lại những gì bên trong mỗi chúng ta, theo
nghĩa là cả sự tầm thường hay vĩ đại, đều có thể xuất hiện. Chắc chắn, một nha sĩ cẩn thận và
hiểu biết sẽ thấy công việc của mình được tăng cường và năng suất tăng lên, nhưng công việc
tầm thường sẽ được nhấn mạnh bởi công nghệ. Do đó, các nha sĩ và kỹ thuật viên nha khoa
không nên tìm kiếm nơi ẩn náu trong công nghệ hoặc coi nó như một phương tiện để giải quyết
các vấn đề tồn tại từ trước, mà nên tập trung vào việc tiếp thu kiến thức và thực hiện nha khoa
chất lượng cao, tôn trọng tất cả các nguyên tắc cơ bản và sau đó phát huy tác dụng của nó thông
qua một cách tiếp cận kỹ thuật số.

1.3 Quy trình làm việc kỹ thuật số tại phòng khám và thuê ngoài

1.3.1 Phòng khám nha khoa kỹ thuật số

Trong nhiều năm, các chuyên gia nha khoa đã cung cấp các phương pháp điều trị nha khoa dựa
trên quy trình làm việc tương tự và các nguyên tắc đã được thiết lập tốt của các quy trình nha
khoa. Với sự ra đời của nha khoa kỹ thuật số, nhiều bước thông thường trong quy trình nha
khoa đang được thay đổi thành quy trình kỹ thuật số, bằng phần mềm, ứng dụng, phần cứng,
thiết bị, vật liệu và kỹ thuật được vi tính hóa.
Các công trình nghiên cứu hiện tại và gần đây đã đề cập đến những lợi ích thực tế của
các phương pháp kỹ thuật số mới phát sinh trong lĩnh vực nha khoa. Sự cần thiết của các dự án
như vậy cũng đang được nghiên cứu, xem xét rằng sẽ không ích gì khi thay đổi quy trình làm
việc đã được thiết lập và triển khai các phương pháp công nghệ mới mà không mang lại lợi ích
rõ ràng cho bệnh nhân và các chuyên gia. Trong số các kết quả nghiên cứu sẽ được thảo luận
thêm trong cuốn sách này, thực tế là các quy trình công việc kỹ thuật số có thể nâng cao chất
lượng và khả năng dự đoán, mang lại kết quả nhanh hơn, chuẩn hóa các quy trình và tăng cường
giao tiếp giữa nhóm nha khoa và bệnh nhân [8]. Những phát hiện này có nghĩa là việc áp dụng
quy trình công việc kỹ thuật số đang trở nên phổ biến hơn ở một số quốc gia. Tuy nhiên, chỉ có
một số ít phòng khám và cơ sở thực hành thực sự áp dụng hệ thống CAD-CAM nội bộ trong
quy trình khám chữa bệnh hàng ngày của họ.

1.3.2 Khía cạnh của công nghệ kỹ thuật số tại phòng khám nha khoa
Kỷ nguyên kỹ thuật số đang thay đổi hoàn toàn cách thức con người tương tác, làm việc và
sinh sống. Trong nhiều lĩnh vực, số lượng và loại công việc có sẵn đang thay đổi. Đồng thời,
toàn bộ ngành nghề, thị trường, sản phẩm và dịch vụ tăng lên hoặc biến mất. Nghề nha khoa
cũng đang bị ảnh hưởng bởi quá trình chuyển đổi kỹ thuật số. Trong một phòng khám nha khoa
kỹ thuật số, quy trình điều trị sử dụng công nghệ vi tính hóa có thể ảnh hưởng đến tinh thần
đồng đội trong nha khoa ở tất cả các cấp: quản lý, nhân viên hỗ trợ, lễ tân, nha sĩ, nhân viên vệ
sinh và kỹ thuật viên nha khoa.
Nhân viên hành chính và thư ký có thể nhanh chóng lưu trữ và phân tích lượng lớn dữ
liệu bệnh nhân, sử dụng phần mềm quản lý chuyên dụng, nâng cao hiệu quả và giảm lượng
giấy sử dụng. Nhân viên vệ sinh nha khoa cần có khả năng hiểu và sử dụng các thiết bị công
nghệ cao như máy quét nha khoa và chụp x-quang kỹ thuật số, đồng thời nhân viên hỗ trợ cũng
phải có khả năng duy trì các biện pháp an toàn sinh học trong máy móc có độ nhạy cao. Điều
này có nghĩa là, ví dụ, nhân viên vệ sinh có thể thực hiện quét trong miệng và có thể phân tích
và sửa lỗi trong quá trình nếu cần, sử dụng phần mềm chuyên dụng dưới sự giám sát của nha
sĩ. Hiện tại, các nhà vệ sinh nha khoa và thậm chí cả kỹ thuật viên nha khoa ở hầu hết các quốc
gia không được đào tạo về nha khoa kỹ thuật số ở trường, khiến việc lựa chọn nhân sự chuyên
môn trên thị trường trở nên khó khăn hơn. Do đó, với việc áp dụng các xu hướng kỹ thuật số,
các thành viên của nhóm nha khoa sẽ cần được giáo dục đặc biệt để sử dụng quy trình làm việc,
thiết bị, vật liệu và phương pháp.
Một khía cạnh quan trọng khác là nha khoa kỹ thuật số bổ sung các công cụ hỗ trợ điều
trị mà vẫn tuân theo các nguyên tắc giống nhau của nha khoa. Việc áp dụng nha khoa kỹ thuật
số cho phép tăng cường các phương pháp điều trị và khả năng thu được bằng các kỹ thuật tương
tự thông thường. Ví dụ, phẫu thuật miệng có thể chính xác hơn và nhanh hơn bằng cách sử
dụng các hướng dẫn phẫu thuật để định hướng quy trình khoan (xem Chương 6 và 7). Hình ảnh
kỹ thuật số và các công cụ phần mềm mới rất hữu ích để tăng cường chẩn đoán răng miệng.
Các vật liệu mới như zirconia và gốm mới cải thiện kết quả thẩm mỹ. Máy móc có thể hoạt
động liên tục với độ chính xác và tốc độ mà không con người nào có thể đạt được.

1.3.3 Đào tạo nha sĩ kỹ thuật số

Nhu cầu giáo dục về nha khoa kỹ thuật số cũng rất rõ ràng đối với các nha sĩ, những người có
thể có vị trí chủ chốt trong nhóm nha khoa. Vai trò của nha sĩ kỹ thuật số là lập kế hoạch, thực
hiện và điều phối nhân viên nha khoa trong khi cung cấp các phương pháp điều trị kỹ thuật số.
Lý tưởng nhất là nha sĩ kỹ thuật số cần đưa ra quyết định và do đó phải hiểu đầy đủ cả quy
trình nha khoa kỹ thuật số và kỹ thuật số. Ngày càng có nhiều nghiên cứu hỗ trợ các kết quả
lâm sàng khả quan với các công nghệ kỹ thuật số. Kết quả là, độ tin cậy của phục hồi CAD-
CAM đang tạo ra nhu cầu ngày càng tăng từ các học viên và sinh viên để tìm hiểu về số hóa.
Để hỗ trợ xu hướng này, các trường nha khoa đang ngày càng cải thiện lịch trình của
họ với thông tin mới về công nghệ kỹ thuật số cho sinh viên nha khoa. Sinh viên có thể được
giới thiệu các khái niệm về nha khoa kỹ thuật số được áp dụng trong một số lĩnh vực nha khoa,
nhưng họ hiếm khi được phép tiến hành các ca lâm sàng, cũng như không nhận được thông tin
chuyên sâu hơn.
Một số cuộc thảo luận học thuật cho thấy rằng nha khoa kỹ thuật số sẽ trở thành một
lĩnh vực nghiên cứu chính. Một trong những lý do là nha sĩ cần nắm vững kiến thức, kỹ năng
và đào tạo mới để tiến hành điều trị nha khoa [9]. Điều này cho thấy rằng nha khoa kỹ thuật số
nên được coi là một bằng cấp chuyên môn riêng biệt trong lĩnh vực nha khoa. Mặt khác, những
người khác tin rằng các khái niệm kỹ thuật số chỉ đơn thuần là một cách mới để giải quyết các
vấn đề truyền thống, và do đó, nha khoa kỹ thuật số được coi là một lĩnh vực phụ xuất phát từ
các chuyên ngành chính (tức là phục hình răng kỹ thuật số sử dụng các nguyên tắc của nha
khoa thông thường). chỉnh nha). Dù bằng cách nào, nha khoa kỹ thuật số đại diện cho một lĩnh
vực nghiên cứu rộng lớn dành cho các chuyên gia nha khoa trẻ tuổi và những người hành nghề
có kinh nghiệm hơn.
Hầu hết các thực hành nha khoa mà phải đưa ra quyết định mua thiết bị kỹ thuật số đầu
tiên thường được đào tạo kỹ thuật có thể kéo dài vài ngày. Tuy nhiên, hướng dẫn ban đầu này
có thể là phần giới thiệu về các khái niệm lý thuyết, tính năng kỹ thuật và khả năng của thiết bị
và/hoặc phần mềm. Tại thời điểm ban đầu này, việc đào tạo thêm về các khóa học, sách và ấn
phẩm khoa học sẽ giúp lấp đầy khoảng trống trong đào tạo trong khi thiết bị được sử dụng
trong quy trình lâm sàng nha khoa.
Thông thường, việc sản xuất công việc nha khoa kỹ thuật số ban đầu sẽ tập trung vào
các quy trình cơ bản nhưng theo thời gian, khi nha sĩ kỹ thuật số ngày càng có nhiều kinh
nghiệm hơn, quan điểm có thể thay đổi và cách suy nghĩ kỹ thuật số xuất hiện, cung cấp những
hiểu biết mới về lập kế hoạch và thực hiện các thủ thuật nha khoa hiện tại theo những cách mới
lạ. Do đó, phòng khám nha khoa có thể được tổ chức bởi các nha sĩ kỹ thuật số có chuyên môn
về công nghệ kỹ thuật số để tổ chức và giám sát việc tạo ra và kết quả của các phương pháp
điều trị nha khoa.

1.3.4 Các mức độ kỹ thuật số của phòng khám nha khoa

Ngày nay, có một nghịch lý trong thị trường nha khoa là các phương pháp điều trị và vật liệu
tiên tiến nhất được tìm thấy trong nha khoa kỹ thuật số nhưng chỉ một số ít thực hành nha khoa
được số hóa. Các yếu tố có thể làm suy giảm việc sử dụng công nghệ rộng rãi hơn trong nha
khoa bao gồm chi phí đầu tư, giáo dục kỹ thuật và khả năng chống lại sự thay đổi của văn hóa.
Có thể có một quan niệm sai lầm giữa các nha sĩ rằng để sử dụng công nghệ kỹ thuật số, trước
tiên người ta phải đầu tư một số tiền lớn và sẽ khó thu được lợi tức đầu tư.
Thực tế là hầu như bất kỳ phòng khám nha khoa nào cũng có thể cung cấp các phương
pháp điều trị kỹ thuật số, ban đầu không nhất thiết phải tự sản xuất công việc tại nhà mà thuê
bên ngoài cho các phòng khám hoặc phòng thí nghiệm bên thứ ba tiên tiến hơn về số hóa. Các
khả năng khác có thể bắt đầu với điện thoại di động, ví dụ như bằng cách sử dụng các ứng dụng
chuyên dụng cho phép lập kế hoạch nụ cười. Phòng khám kỹ thuật số hoàn chỉnh, trong đó mọi
quy trình đơn lẻ được thực hiện với thiết bị kỹ thuật số, mang lại kết quả tự động, tiêu chuẩn
hóa, rẻ hơn và đáng tin cậy, đang bắt đầu được đề xuất như một ý tưởng khả thi bởi một số kết
quả nghiên cứu [9, 10].
Phòng khám kỹ thuật số thực tế có thể nằm ở đâu đó giữa hai thái cực là thiếu sự chấp
nhận và đầu tư lớn cho người dùng khó tính. Theo cách tiếp cận thực tế hơn, phòng khám nha
khoa và các chuyên gia nha khoa có thể được số hóa ở các cấp độ khác nhau. Ví dụ, một phòng
khám chỉnh nha có thể được số hóa chỉ để quét trong miệng, thuê bên ngoài dịch vụ thiết lập,
lập kế hoạch và chế tạo các khay. Trong khi đó, một phòng khám khác có thể cung cấp các
phục hồi trong cùng ngày được sản xuất bằng thiết bị và nhân viên nội bộ. Quyết định về mức
độ số hóa cho thực hành sẽ phụ thuộc vào chuyên môn của phòng khám nha khoa và sự tập
trung vào các nhu cầu cụ thể hơn của họ.
1.3.5 Các loại hình phòng khám nha khoa và mô hình kinh doanh

Sự phát triển của công nghệ kỹ thuật số cũng đang thay đổi chính hoạt động kinh doanh phòng
khám nha khoa, mang lại những đổi mới có thể nâng cao các phòng khám chuyên biệt truyền
thống và tạo ra các mô hình kinh doanh mới. Vì thiết bị được sử dụng trong nha khoa kỹ thuật
số có tính chuyên môn cao nên có thể cần các mô hình kinh doanh khác nhau, tùy thuộc vào
lĩnh vực nghiên cứu cụ thể.
Một số ví dụ về thiết bị và bố trí có thể được tạo cho các phòng khám chuyên dụng được trình
bày trong Bảng 1.1. Tuy nhiên, thực hành đa ngành cuối cùng có thể ảnh hưởng đến phần cứng
và phần mềm cần thiết.
- Trung tâm chẩn đoán hình ảnh kỹ thuật số: được đầu tư trang thiết bị hình ảnh kỹ thuật
số (chụp X quang toàn cảnh, CT Scanner). Tùy thuộc vào các dịch vụ được cung cấp,
một số thực hành có thể cung cấp chức năng quét trong miệng (hoặc máy quét mô hình)
và hình ảnh kỹ thuật số để lập kế hoạch phẫu thuật thuê ngoài. Có sẵn phần mềm dành
riêng cho các trung tâm hình ảnh để cung cấp chẩn đoán tốt hơn và gửi lại thông tin
được yêu cầu cho bác sĩ lâm sàng.
- Thẩm mỹ kỹ thuật số: sẽ có nhu cầu lớn về phục hình sứ (mặt dán sứ, mão răng). Các
cơ sở thực hành có thể đầu tư vào phần mềm thiết kế nụ cười, máy in 3D và máy phay
cán sứ đơn chiếc.
- Cấy ghép kỹ thuật số: một trung tâm cấy ghép kỹ thuật số có thể sẽ cần thiết bị hình
ảnh trong nhà và máy quét trong miệng để chẩn đoán chính xác và lập kế hoạch điều
trị. Ngoài ra, phần mềm phẫu thuật có hướng dẫn sẽ cần thiết để chế tạo stent phẫu thuật
bằng máy in 3D. Nếu thực hiện phục hồi kỹ thuật số, sẽ cần có thiết bị bổ sung tương
tự như thực hành phục hồi chức năng răng miệng.
- Phục hồi chức năng răng miệng và phục hình răng: phục hồi chức năng răng miệng là
một lĩnh vực phức tạp bao gồm nhiều lĩnh vực chuyên môn chính của nha khoa. Do đó,
một phòng khám nha khoa kỹ thuật số có thể yêu cầu thiết bị và phần mềm để tạo ra ít
nhất một số hạng mục trong nhà, trong khi thuê ngoài những công việc phức tạp hơn.
Để làm như vậy, những bổ sung tốt sẽ là một máy quét trong miệng, phần mềm đặt trên
ghế để thiết kế phục hình, một máy phay cán sứ nhỏ để sản xuất phục hình trong ngày
và một lò nung sứ. Nếu muốn sản xuất phục hình tại phòng khám phức tạp hơn, có thể
tạo ra một phòng thí nghiệm kỹ thuật số nội bộ chuyên dụng.
- Phòng lab nha khoa nội bộ: không có giới hạn đối với công việc có thể được tạo ra bởi
phòng lab nha khoa nội bộ khi so sánh với các đối tác thương mại, vì có thể mua cùng
một thiết bị và phần mềm. Tuy nhiên, việc thiết lập phòng lab hoàn chỉnh sẽ yêu cầu
đầu tư tài chính mạnh mẽ hơn vào máy móc, phần mềm và vật liệu. Ngoài ra, cần có
một không gian dành riêng với quy hoạch cơ sở hạ tầng đặc biệt để chứa phần cứng và
cần có nhân viên chuyên môn để vận hành máy móc. Kích thước, tổ chức và tốc độ sản
xuất của thiết bị phải tương thích với quy trình công việc mong muốn. Thiết bị cho
phòng thí nghiệm nha khoa kỹ thuật số sẽ bao gồm các thiết bị cần thiết cho phòng thí
nghiệm truyền thống cộng với máy quét để bàn, máy phay cán có khả năng 5 trục cho
các khoảng trống lớn và khối gốm, lò nung sứ, lò thiêu kết, phần mềm CAD để thiết kế
các bộ phận giả và một máy in 3D nhựa.
- Chỉnh nha: bác sĩ chỉnh nha kỹ thuật số có thể tăng cường thực hành với máy quét trong
miệng. Có thể mua phần mềm chuyên dụng và máy in 3D để lập kế hoạch kết quả điều
trị, cũng như các khay tự chế tạo.
- Bác sĩ đa khoa: có thể đầu tư máy quét trong miệng để dễ dàng số hóa các bệnh nhân
chỉnh nha, phục hình và phục hình. Cảm biến kỹ thuật số cho X quang cũng được sử
dụng rộng rãi.
- Phẫu thuật: bác sĩ phẫu thuật miệng và hàm mặt có thể có được phần mềm chuyên dụng
để lập kế hoạch phẫu thuật chỉnh hình và sẽ cần ít nhất máy quét để bàn để số hóa mẫu,
mặc dù một máy quét trong miệng sẽ được ưa thích hơn.
- Trung tâm lập kế hoạch (Planning centers): trung tâm lập kế hoạch kỹ thuật số là một
mô hình kinh doanh mới nhằm cung cấp dịch vụ thuê ngoài cho bất kỳ nha sĩ hoặc
phòng khám nào, bằng các phần mềm chuyên dụng. Phạm vi dịch vụ được cung cấp có
thể bao gồm chỉnh nha, phẫu thuật cấy ghép, thiết kế nụ cười, phẫu thuật miệng, thiết
kế phục hình, v.v. Giấy phép cho phần mềm có thể tốn kém và yêu cầu đầu tư ban đầu
và thường đăng ký cập nhật tính phí hàng năm. Ngoài ra, các chuyên gia được đào tạo
chuyên sâu về phần mềm và có thể thảo luận về thiết kế với nha sĩ trước khi giao hàng.
Kết quả của một kế hoạch điều trị kỹ thuật số có thể là một sản phẩm như một mẫu
hướng dẫn phẫu thuật hoặc thậm chí là các tệp hoặc hình ảnh kỹ thuật số.
- Dịch vụ quét (Scan services): đối với những người không có máy quét trong miệng
nhưng muốn sử dụng, dịch vụ quét sẽ mang máy quét đến phòng khám của khách hàng
để lấy dấu kỹ thuật số. Mô hình kinh doanh mới lạ này có thể xuất hiện như một công
ty độc lập hoặc được cung cấp bởi phòng lab nha khoa kỹ thuật số.
- Trung tâm phay cán mài (Milling centers): một trung tâm phay cán kỹ thuật số là một
phòng lab nha khoa chuyên dụng tập trung vào việc sản xuất các cấu trúc hoặc phục hồi
được mài chỉnh. Các vật liệu cụ thể như cấu trúc coban-crom thường được sử dụng
trong phục hình nhưng là vật liệu có mật độ cao, chúng cực kỳ khó nghiền, đòi hỏi các
công cụ và máy móc chuyên dụng và đắt tiền. Do đó, nhiều phòng thí nghiệm nhỏ có
xu hướng thuê ngoài các trung tâm phay cán mài kim loại của họ. Tùy thuộc vào trọng
tâm và dịch vụ được cung cấp bởi các trung tâm phay cán nghiền, các vật liệu khác có
thể được sử dụng như zirconia, gốm sứ, PEEK hoặc PMMA.

Bảng 1.1 Ước tính số lượng máy móc, thiết bị, phần mềm chuyên dụng, nhân sự chuyên môn
và cấu trúc không gian vật lý dành riêng để vận hành các loại mô hình kinh doanh nha khoa kỹ
thuật số khác nhau.
Máy Máy Hình Máy in Máy Máy Lò sứ Lò Cấu trúc Nhân Phần
quét quét ảnh kỹ 3D phay phay nung không sự đặc mềm
trong để bàn thuật cán cán lớn kết gian vật lý biệt chuyên
miệng số nhỏ dụng
Chỉnh X X X X X
nha
BS X X X X X X
tổng
quát
Nha X X X X X X X
khoa
thẩm
mỹ
Cấy X X X X X X XX XX XX
ghép
nha
khoa
Tái X X X X X X X X XX XX XX
tạo
miệng
Phẫu X X X X X
thuật
Lab X X X X X X XX XXX XXX
nha
khoa
Trung X X X X XX
tâm
hình
ảnh

chẩn
đoán
Trung X X X XXX
tâm
lên kế
hoạch
Dịch X X X
vụ
quét
Trung X X X X XX X
tâm
phay
cán
mài

1.3.6 Khía cạnh tài chính của các phòng khám nha khoa kỹ thuật số

Phòng khám kỹ thuật số có thể phức tạp hơn so với một phòng khám tư nhân thông thường -
thường có độ phức tạp thấp hơn, chi phí vận hành và mức độ số hóa tài liệu cũng như đội ngũ
quản trị chuyên nghiệp nhỏ hơn. Do đó, hoạt động của một phòng khám nha khoa kỹ thuật số
tương tự như một công ty kinh doanh, điều mà các nha sĩ có thể không quen thực hiện. Các
khoản đầu tư tài chính tiềm năng cao hơn là cần thiết để trang bị cho một phòng khám nha khoa
kỹ thuật số, điều này gây khó khăn cho bất kỳ phòng khám nào khi tham gia thị trường. Đáng
chú ý là những vấn đề này ít có khả năng xảy ra ở các phòng khám và bệnh viện nha khoa lớn
hơn.
Một phòng khám nha khoa kỹ thuật số có thể có tiềm năng lớn hơn một phòng khám thông
thường, nhưng không nhất thiết phải là một hoạt động kinh doanh có lợi nhuận cao hơn. Khi
một thực tế phát triển và mở rộng hoạt động, cơ sở vật chất và nhân viên, thì lợi nhuận và nợ
phải trả cũng tăng lên theo cùng một tỷ lệ. Vì vậy, trong thế giới thực, các nghiên cứu về khả
năng kinh tế của các phòng khám nha khoa, hoặc liên quan đến một số công ty thiết bị cụ thể,
có thể xác định liệu một công ty sẽ diệt vong hay phát triển. Hơn bao giờ hết, một phòng khám
nha khoa thành công cần có sự kết hợp giữa các nha sĩ có tay nghề cao và kỹ năng kinh doanh.

1.3.7 Làm thế nào để tính lợi tức đầu tư (ROI)

Lợi tức đầu tư là tỷ lệ giữa thu nhập ròng và số tiền chi cho khoản đầu tư trong một khoảng
thời gian. Áp dụng cho một phòng khám nha khoa, phép tính ROI có thể dự đoán sẽ mất bao
lâu để hoàn lại tiền cho doanh nhân.
Việc ước tính ROI dựa trên các tính toán phức tạp so sánh chi phí ban đầu, thu nhập và ước
tính dự kiến về chi phí/lợi ích sau khi thực hiện đầu tư. Để đạt được cùng một kết quả sản xuất,
có nhiều hơn một giải pháp kỹ thuật số và có thể được so sánh [9].
Tính toán lợi tức đầu tư có ba khía cạnh.
- Thu nhập: khoản đầu tư sẽ mang lại bao nhiêu doanh thu? Liệu sẽ có một sự gia tăng?
- Chi phí: khoản đầu tư sẽ tiết kiệm được bao nhiêu (thời gian, các bước lâm sàng, chi phí nhân
sự, vật tư tiêu hao)?
- Với thông tin được lập bản đồ này, sẽ có thể tạo ra ước tính hòa vốn, đó là dự đoán về thời
điểm khoản đầu tư sẽ hoàn vốn. Đạt được nhiều hơn mức hòa vốn được coi là có lợi nhuận.
Ước tính ROI phải tính đến việc sau khi mua thiết bị, thiết bị có thể yêu cầu bảo trì thường
xuyên và vật tư tiêu hao. Ngoài ra, sự lỗi thời của thiết bị phải được tính đến khi công nghệ
phát triển theo thời gian và có thể cần được thay thế bằng khoản đầu tư tài chính mới. Cuối
cùng, để đại diện cho một sự đảo ngược tốt, việc số hóa các quy trình chăm sóc nha khoa sẽ
mang lại những lợi ích có thể định lượng về chất lượng, thời gian tiêu thụ và giảm chi phí nhân
sự. Vì việc tính toán ROI có thể phức tạp, nên cần có lời khuyên chuyên nghiệp về các khía
cạnh kinh tế này.
1.3.8 Ưu điểm của nha khoa kỹ thuật số đối với phòng khám

Trước khi có nha khoa kỹ thuật số, khách hàng thường đến gặp nha sĩ để được tư vấn nhiều lần
để chẩn đoán và lên kế hoạch điều trị nha khoa, và các quy trình có thể kéo dài trong thời gian
dài. Tuy nhiên, các phòng khám nha khoa hiện đại có thể chẩn đoán, lập kế hoạch và điều trị
cho bệnh nhân của họ nhanh hơn nhiều với ít bước lâm sàng hơn và ít thời gian ngồi trên ghế
hơn bằng cách sử dụng công nghệ kỹ thuật số. Bên cạnh những lợi ích tài chính tiềm năng, việc
triển khai các giải pháp kỹ thuật số có thể mang lại những lợi ích gián tiếp. Trải nghiệm của
bệnh nhân có xu hướng tốt hơn và thoải mái hơn khi sử dụng các phương pháp điều trị kỹ thuật
số, với cảm nhận về chất lượng và mức độ đổi mới công nghệ cao. Các khía cạnh của phương
pháp điều trị như lập kế hoạch có thể dễ hiểu hơn cho bệnh nhân. Mô phỏng và hiển thị kỹ
thuật số 3D có thể cải thiện sự tham gia và chấp thuận của bệnh nhân, đặc biệt là khi có liên
quan đến thẩm mỹ.
Với việc áp dụng các quy trình số hóa, các quy trình phòng thí nghiệm và lâm sàng có xu hướng
hợp tác tốt hơn với hồ sơ hành chính, lập kế hoạch điều trị và chế tạo thông qua quy trình làm
việc được tiêu chuẩn hóa.

1.3.9 Quy trình làm việc tại phòng khám nha khoa kỹ thuật số

Thuật ngữ quy trình làm việc (workflow) đề cập đến một chuỗi các nhiệm vụ được xác định
trước được thực hiện bởi nhiều người khác nhau trong môi trường làm việc. Việc thiết lập quy
trình công việc tạo ra tư duy trong toàn tổ chức đảm bảo trao đổi dữ liệu được tiêu chuẩn hóa
dọc theo quy trình công việc nha khoa từ lập kế hoạch đến điều trị [10]. Mỗi phòng khám nha
khoa có thể xác định quy trình công việc nội bộ của riêng mình và cách họ sẽ tương tác khi cần
một số trợ giúp từ bên ngoài. Một số quy trình cuối cùng có thể được lên kế hoạch để hoàn
toàn là kỹ thuật số và có thể có sự kết hợp giữa các thành phần kỹ thuật số và tương tự (Hình
1.3).
Bên cạnh đó, các phòng khám nha khoa thường có một số chuyên gia có thể tiến hành điều trị
với các trình độ chuyên môn khác nhau. Trong bối cảnh này, quy trình điều trị dẫn đến tiêu
chuẩn hóa kết quả và trình độ kỹ năng của đội ngũ nha khoa. Điều này cho phép một kết quả
sản xuất nhất quán và có thể kiểm soát hơn.

1.4 Các kiến thức hiện nay và quan điểm về trí thông minh nhân tạo trong
nha khoa

Trí tuệ nhân tạo (AI) là một thuật ngữ thường được sử dụng để biểu thị khái niệm về trí thông
minh giống con người được tạo ra một cách nhân tạo [11]. AI đã cách mạng hóa một số lĩnh
vực nghiên cứu và phát triển khoa học, với những cải tiến từ nhận dạng khuôn mặt trên điện
thoại thông minh của chúng ta đến phân tích bộ gen. AI đã được phát triển trong các lĩnh vực
khác nhau của xã hội để giải quyết các nhiệm vụ khác nhau bằng cách sử dụng dữ liệu một
cách tối ưu hơn, bao gồm các lĩnh vực y tế như y học và nha khoa. Khoa học dữ liệu là một
thuật ngữ chung đề cập đến lĩnh vực liên ngành dành riêng cho việc phân tích dữ liệu có cấu
trúc và phi cấu trúc, nhằm mục đích áp dụng các phương pháp thống kê để phân tích dữ liệu.
Công việc của các nhà khoa học dữ liệu bao gồm sử dụng các kỹ thuật tiên tiến như học máy
(machine learning). Học máy là một lĩnh vực con của AI, trong đó các thuật toán được áp dụng
để học các mẫu bên trong cấu trúc dữ liệu, cho phép dự đoán dữ liệu (học máy có giám sát) và
giảm thiểu dữ liệu cũng như xử lý dữ liệu (học máy không giám sát) [12]. Một trong những
yếu tố liên quan đến việc áp dụng phương pháp này là AI đặc biệt phù hợp để khắc phục sự
thay đổi trong kiểm tra cá nhân chủ quan và để tăng hiệu quả chẩn đoán [13].
Hình 1.3 Quy trình làm việc kỹ thuật số liên quan đến các trung tâm lập kế hoạch và hình ảnh.
Tất cả các kế hoạch điều trị cuối cùng phải được bác sĩ nha khoa chịu trách nhiệm về trường
hợp đó phê duyệt.

Học máy không giám sát được sử dụng để giảm kích thước của các bộ dữ liệu đó, tăng khả
năng diễn giải. Phân cụm sử dụng các biến số liệu làm đầu vào cho dữ liệu nhóm, cho phép
giảm dữ liệu thành các nhóm nhỏ hơn, với các biến phân loại làm đầu ra. Phân tích thành phần
chính (PCA) cũng cho phép giảm dữ liệu bằng cách nhóm các biến tương quan với nhau. Nhiều
phân tích tương ứng (MCA) được sử dụng để giảm dữ liệu và xử lý dữ liệu của các biến phân
loại liên kết với nhau. Học máy không giám sát rất phù hợp để xử lý một lượng lớn dữ liệu và
để khai thác dữ liệu, chẳng hạn như có được thông qua hồ sơ của bệnh nhân nha khoa [14].
Học máy có giám sát, được xác định bằng cách sử dụng các bộ dữ liệu được gắn nhãn, được
sử dụng để dự đoán. Do đó, độ chính xác sẽ phụ thuộc vào quy mô và chất lượng của cơ sở dữ
liệu, cũng như phương pháp ghi nhãn và đào tạo. Học máy có giám sát sử dụng hồi quy tuyến
tính, hồi quy logistic, mô hình tập hợp và mạng lưới thần kinh (NN). Thành phần chính của
học máy có giám sát là gắn nhãn tập dữ liệu để huấn luyện các thuật toán và phân loại chính
xác dữ liệu hoặc dự đoán kết quả (Hình 1.4).
Mạng nơ-ron đặc biệt hữu ích cho các cấu trúc dữ liệu phức tạp, chẳng hạn như dữ liệu hình
ảnh, vì các mô hình này có khả năng biểu diễn một hình ảnh và các tài nguyên phân cấp của
nó, chẳng hạn như các cạnh, góc, hình dạng và các mẫu vĩ mô [15, 16]. Trong quá trình đào
tạo, dữ liệu và nhãn tương ứng được truyền lặp đi lặp lại bởi các NN. Sức mạnh tính toán của
các NN này phụ thuộc vào chất lượng và số lượng dữ liệu đào tạo, cho phép các mạng này cập
nhật các trọng số được gán cho từng biến của mô hình được đề cập và quá trình đào tạo này có
thể được giám sát hay không. NN cũng có thể được liên kết trong một số lớp. Thuật ngữ
deeplearning ám chỉ các kiến trúc NN sâu (nhiều lớp) [12].
Hình 1.4 Công cụ phần mềm AI LabelImg đang được sử dụng để dán nhãn bộ dữ liệu.

Gần đây, mạng thần kinh tích chập (CNN) đã được phát triển và ứng dụng trong nhiều khía
cạnh của lĩnh vực y tế, bao gồm cả nha khoa, với việc thực hiện các nhiệm vụ khác nhau như
phân loại hình ảnh và phát hiện đối tượng [11, 12]. CNN sử dụng một thủ thuật thông minh để
giảm lượng dữ liệu đào tạo cần thiết để phát hiện các đối tượng trong các điều kiện khác nhau.
Thủ thuật về cơ bản là sử dụng các trọng số đầu vào giống nhau cho nhiều nơ-ron nhân tạo –
sao cho tất cả các nơ-ron đó được kích hoạt theo cùng một mẫu – nhưng với các pixel đầu vào
khác nhau. Mọi lớp chập chỉ phản ứng với các kích thích trong một vùng giới hạn của trường
quan tâm của hình ảnh, được gọi là trường tiếp nhận. Cấu trúc này khác với các thuật toán phân
loại hình ảnh thông thường và các thuật toán học sâu khác, vì CNN có thể học loại bộ lọc được
tạo thủ công trong các thuật toán thông thường [15, 16].
Khi bộ dữ liệu hình ảnh đào tạo được nhập vào hệ thống máy học, các quy trình học sẽ tự động
được lặp lại mà không cần định nghĩa thủ công các đặc điểm của hình ảnh. Bằng cách này, các
phương pháp học máy (có hoặc không có học sâu) có thể học một cách thích ứng các đặc điểm
của hình ảnh và đồng thời thực hiện phân loại hình ảnh [16]. Do đó, kết quả từ các mô hình sử
dụng máy học khác rất nhiều so với các hệ thống hoạt động bằng cách lập trình thông thường.
Từ thời điểm một NN được huấn luyện, các trọng số được gán cho các đặc điểm của dữ liệu
mẫu và các kết quả về bản chất được liên kết với mẫu được sử dụng để huấn luyện mô hình
này. Do đó, chỉ có thể tìm thấy kết quả thuận lợi hơn khi đào tạo AI với mẫu mới, lớn hơn và
chính xác hơn.
Các phương pháp dựa trên học máy phụ thuộc vào số lượng và chất lượng thông tin có thể học
được (dựa trên tập dữ liệu huấn luyện). Kích thước mẫu nhỏ hơn có thể làm giảm khả năng
nhận dạng chính xác trong hình ảnh thử nghiệm, do đó làm giảm độ nhạy và độ đặc hiệu của
thử nghiệm. Hơn nữa, một mẫu lớn có thể được tạo bằng cách sử dụng tính năng tăng cường
dữ liệu, đây là một tính năng được sử dụng để tăng mẫu hình ảnh bằng cách xoay và thay đổi
kích thước hình ảnh. Do đó, dựa trên một số lượng dữ liệu hạn chế, có thể tăng kích thước mẫu,
điều này có thể giúp các nhà nghiên cứu làm việc với các mẫu nhỏ và tránh bị quá khớp. Quá
ăn khớp (Overfitting) xảy ra khi dữ liệu nội tại của một mẫu cụ thể được ưu tiên; do đó, hiệu
suất của mô hình đối với các hình ảnh không thuộc về mẫu cuối cùng sẽ thấp hơn nhiều so với
hiệu suất liên quan đến mẫu được sử dụng để huấn luyện.
Một số tác giả đã báo cáo độ chính xác cao khi sử dụng NN để phát hiện đối tượng trong việc
phân loại các yếu tố răng [17], bệnh nha chu [18], sâu răng [19], tổn thương chóp [20], tổn
thương nang và khối u [21, 22], chẩn đoán gãy răng [23] và viêm xoang hàm trên [24], trong
số các yếu tố khác, với việc sử dụng CNN sâu áp dụng cho chụp X quang toàn cảnh và X quang
quanh chóp kỹ thuật số. Tuy nhiên, mặc dù các phương pháp phát hiện đối tượng thông qua
CNN sâu đang phát triển nhanh chóng, nhưng vẫn có thể là một thách thức vì nó phụ thuộc vào
cơ sở dữ liệu lớn và xử lý tính toán [25, 26].
Phần mềm phát hiện đối tượng sử dụng AI đã tồn tại. Ví dụ, Second Opinion® (Hello Pearl,
Los Angeles, Hoa Kỳ), là một công cụ do AI điều khiển để lập kế hoạch chẩn đoán và điều trị.
Phần mềm này cung cấp một nền tảng thị giác máy tính có thể phát hiện ngay hàng chục bệnh
lý phổ biến (Hình 1.5–1.8).
Ngoài việc phát hiện đối tượng trong phân tích X quang, NN đã được sử dụng để nhận dạng tự
động. Các ví dụ bao gồm so sánh giữa phim chụp toàn cảnh trước và sau khi chết (nhận dạng
con người sau khi chết) [25], chẩn đoán loãng xương trên phim chụp toàn cảnh [26–28] và
chẩn đoán sai khớp cắn [29, 30].
Một khả năng quan trọng khác với việc sử dụng CNN là tự động hóa nhận dạng và lựa chọn
cấu trúc trong hình ảnh CBCT DICOM. Với phương pháp này, có thể phát hiện ống tủy hàm
dưới tự động [31] và phân đoạn hàm dưới tự động [32], hay tiếp cận để lập kế hoạch cấy ghép
nha khoa [33].

Hình 1.5 Hình chụp màn hình phần mềm Hello Pearl (Los Angeles, USA) hiển thị tự động phát
hiện vùng hàm trên bị tiêu xương.
Hình 1.6 Chụp màn hình phần mềm Hello Pearl (Los Angeles, Mỹ) hiển thị tự động phát hiện
vùng xương hàm dưới bị tiêu xương.

Hình 1.7 Ảnh chụp màn hình của phần mềm Hello Pearl (Los Angeles, USA) hiển thị tự động
phát hiện tình trạng hở bờ của phục hình kim loại.
Hình 1.8 Chụp màn hình phần mềm Hello Pearl (Los Angeles, USA) thể hiện tính năng tự
động dò tìm tích phân.

Tài liệu tham khảo


1 Kim, J.H., Abdala-Júnior, R., Munhoz, L. et al. 7 Hung, K., Yeung, A.W.K., Tanaka, R., and
(2020). Comparison between different cone-beam Bornstein, M.M. (2020). Current applications,
computed tomography devices in the detection of opportunities, and limitations of AI for 3D imaging
mechanically simulated peri-implant bone defects. in dental research and practice.
Imaging-Sci.- Dent. 50 (2): 133–139. Int.-J.-Environ.-Res.-Public-Health 17 (12): 4424.
2 Bagis, N., Kolsuz, M.E., Kursun, S., and Orhan, 8 Markarian, R.A., da Silva, R.L.B., Burgoa, S. et
K. (2015). Comparison of intraoral radiography and al. (2021). Clinical relevance of digital dentistry
cone-beam computed tomography for the detection during COVID-19 outbreak: a scoped review.
of periodontal defects: an in vitro study. Braz.-J.-Oral-Sci. 19: e200201.
BMC-Oral- Health 15: 64. 9 No-Cortes, J., Ayres, A.P., Lima, J.E. et al.
3 Nasseh, I. and Al-Rawi, W. (2018). Cone beam (2021). Trueness, 3D deviation, time and cost
computed tomography. Dent.-Clin.-North-Am. 62 comparisons between milled and 3D-printed resin
(3): 361–391. single crowns. Eur.-J.-Prosthodont.-Restor.-Dent.
4 Kolsuz, M.E., Bagis, N., Orhan, K. et al. (2015). 29: 1–6.
Comparison of the influence of FOV sizes and 10 Coachman, C., Sesma, N., and Blatz, M.B.
different voxel resolutions for the assessment of (2021). The complete digital workflow in
periodontal defects. Dentomaxillofac.-Radiol. 44 interdisciplinary dentistry. Int.-J.-Esthet.-Dent. 16:
(7): 20150070. 1–18.
5 Grant, G.T., Campbell, S.D., Masri, R.M. et al. 11 Park, W.J. and Park, J.B. (2018). History and
(2016). Glossary of digital dental terms: American application of artificial neural networks in dentistry.
College of Prosthodontists. J.-Prosthodont. 25 Eur.-J.-Dent. 12: 594–601.
(Suppl 2): S2–S9. 12 Mupparapu, M., Wu, C.W., and Chen, Y.C.
6 Davidowitz, G. and Kotick, P.G. (2011). The use (2018). Artificial intelligence, machine learning,
of CAD/CAM in dentistry. Dent.-Clin.-North-Am. neural networks, and deep learning: futuristic
55 (3): 559–570. concepts for new dental diagnosis.
Quintessence-Int. 49: 687–688.
13 Naylor, C.D. (2018). On the prospects for a 24 Murata, M., Ariji, Y., Ohashi, Y. et al. (2019).
(deep) learning health care system. JAMA 320 (11): Deep-learning classification using convolutional
1099–1100. neural network for evaluation of maxillary sinusitis
14 Peng, J., Zeng, X., Townsend, J. et al. (2021). A on panoramic radiography. Oral-Radiol. 35 (3):
machine learning approach to uncovering hidden 301–307.
utilization patterns of early childhood dental care 25 Heinrich, A., Güttler, F., Wendt, S. et al. (2018).
among Medicaid-insured children. Front.-Public- Forensic odontology: automatic identification of
Health 8: 599187. persons comparing antemortem and postmortem
15 Hornik, K. (1991). Approximation capabilities panoramic radiographs using computer vision.
of multilayer feedforward networks. Neural-Netw. Rofo 190 (12): 1152–1158.
4 (2): 251–257. 26 de Medeiros, F.C.F.L., Kudo, G.A.H., Leme,
16 Krizhevsky, A., Sutskever, I., and Hinton, G.E. B.G. et al. (2018). Dental implants in patients with
(2012). ImageNet classification with deep osteoporosis: a systematic review with meta-
convolutional neural networks. analysis. Int.-J.-Oral- Maxillofac.-Surg. 47: 480–
Adv.-Neural-Inf.-Proces.-Syst. 25: 1–9. 491.
17 Tuzoff, D.V., Tuzova, L.N., Bornstein, M.M. et 27 Kavitha, M.S., An, S.Y., An, C.H. et al. (2015).
al. (2019). Tooth detection and numbering in Texture analysis of mandibular cortical bone on
panoramic radiographs using convolutional neural digital dental panoramic radiographs for the
networks. Dentomaxillofac.-Radiol. 48 (4): diagnosis of osteoporosis in Korean women.
20180051. Oral-Surg.-Oral-Med.-Oral-Pathol.-Oral-Radiol.
18 Lee, J.H., Kim, D.H., Jeong, S.N., and Choi, 119 (3): 346–356.
S.H. (2018). Diagnosis and prediction of 28 Kavitha, M.S., Ganesh Kumar, P., Park, S.Y. et
periodontally compromised teeth using a deep al. (2016). Automatic detection of osteoporosis
learning-based convolutional neural network based on hybrid genetic swarm fuzzy classifier
algorithm. J.-Periodontal- Implant-Sci. 48 (2): 114– approaches. Dentomaxillofac.-Radiol. 45 (7):
123. 20160076.
19 Lee, J.H., Kim, D.H., Jeong, S.N., and 29 Tanny, L., Huang, B., Shaweesh, A., and
Choi,S.H. (2018). Detection and diagnosis of dental Currie,mG. (2021). Characterisation of anterior
caries using a deep learning-based convolutional open bite in primary school-aged children: a
neural preliminary study with artificial neural network
network algorithm. J.-Dent. 77: 106–111. analysis. Int.-J.-Paediatr.- Dent. 31 (5): 576–582.
20 Ekert, T., Krois, J., Meinhold, L. et al. (2019). 30 Auconi, P., Caldarelli, G., Scala, A. et al. (2011).
Deep learning for the radiographic detection of A network approach to orthodontic diagnosis.
apical lesions. J.-Endod. 45 (7): 917–922. Orthod.- Craniofac.-Res. 14 (4): 189–197.
21 Ariji, Y., Yanashita, Y., Kutsuna, S. et al. (2019). 31 Kwak, G.H., Kwak, E.J., Song, J.M. et al.
Automatic detection and classification of (2020). Automatic mandibular canal detection
radiolucent lesions in the mandible on panoramic using a deep convolutional neural network.
radiographs using a deep learning object detection Sci.-Rep. 10 (1): 5711.
technique. 32 Xu, J., Liu, J., Zhang, D. et al. (2021).
Oral-Surg.-Oral-Med.-Oral-Pathol.-Oral-Radiol. Automatic mandible segmentation from CT image
128 (4): 424–430. using 3D fully convolutional neural network based
22 Poedjiastoeti, W. and Suebnukarn, S. (2018). on DenseASPP
Application of convolutional neural network in the and attention gates.
diagnosis of jaw tumors. Healthc-Inform.-Res. 24 Int.-J.-Comput.-Assist.-Radiol.-Surg.16: 1785–
(3): 236–241. 1794.
23 Kositbowornchai, S., Plermkamon, S., and 33 Kurt Bayrakdar, S., Orhan, K., Bayrakdar, I.S. et
Tangkosol, T. (2013). Performance of an artificial al.m(2021). A deep learning approach for dental
neural network for vertical root fracture detection: implant planning in cone-beam computed
an ex vivo study. Dent.-Traumatol. 29 (2): 151– tomography images. BMC-Med.-Imaging 21 (1):
155. 86.
CHƯƠNG 2
Thiết kế với sự hỗ trợ của máy tính (CAD)
Jun Ho Kim, Alan J.M. Costa, José Lincoln de Queirós Jr, Juliana No-Cortes, Danielle A.
Nishimura, Shumei Murakami, Reinaldo Abdala-Junior, Daniel Machado, Claudio Costa,
Otavio H. Pinhata-Baptista, Shaban M. Burgoa, Andrea Son, Lucas R. Pinheiro, Danilo M.
Bianchi, Allan R. Alcantara, và Arthur R.G. Cortes

Tóm tắt
Chương này cung cấp hướng dẫn từng bước một và các bằng chứng nghiên cứu liên quan tới
tất cả các quy trình thiết kế có sự trợ giúp của máy tính (CAD) phục vụ quy trình công việc
kỹ thuật số trong nha khoa, từ thiết lập phương pháp hình ảnh đến thiết kế và lập kế hoạch
điều trị kỹ thuật số.

2.1 Các phương pháp hình ảnh kỹ thuật số


2.1.1 Chụp cắt lớp vi tính với chùm tia hình nón
Chụp cắt lớp vi tính chùm tia hình nón (CBCT) là một kỹ thuật cho phép quan sát ba chiều
(3D) các cấu trúc liên quan đến vùng hàm mặt. CBCT sử dụng chùm tia X hình nón tròn hoặc
hình chữ nhật với cảm biến tia X hai chiều để quét, thực hiện các góc quay 180–360° quanh
đầu bệnh nhân (Hình 2.1). Trong quá trình quét, một loạt các hình chiếu được thu nhận, cung
cấp dữ liệu thô để tái tạo thể tích (3D). Chế độ định dạng lại nhiều mặt phẳng (MPR) của quá
trình tái tạo 3D cho phép nghiên cứu bất kỳ mặt phẳng được chọn nào trong chế độ xem 2D
hoặc 3D [1]. Hình ảnh CBCT là một ma trận bao gồm các đơn vị khối nhỏ được gọi là voxels
(phần tử thể tích, phiên bản 3D của pixel, được mô tả trong chương trước). Tương tự như các
giá trị pixel, mỗi số gán cho một voxel sẽ đại diện cho hệ số suy giảm tia X tuyến tính của cấu
trúc bên trong với một mức màu xám và giá trị số cụ thể (giá trị voxel) [2].

2.1.1.1 Kiến thức cơ bản


Trong những thập kỷ gần đây, các thiết bị CBCT đã được sử dụng trong nha khoa thường xuyên
hơn nhiều so với chụp cắt lớp vi tính y tế (CT). CT là một thiết bị đắt tiền thường sử dụng trong
môi trường bệnh viện. Các thiết bị CT y tế có thể có một hoặc nhiều máy dò sử dụng chùm tia
X chuẩn trực, hình quạt di chuyển theo vòng tròn 360° trong vòng cảm biến (được gọi là “giàn
tín hiệu”). Hình ảnh CT được ghi lại và hiển thị dưới dạng ma trận gồm các khối 3D riêng lẻ
là các voxel. Tương tự như CBCT, hình ảnh CT đa mặt phẳng thu được từ quét dọc trục (2D)
có thể được định dạng lại bằng phép ước lượng để hiển thị hình ảnh 3D [2].
Khi so sánh với CT y tế, CBCT có những ưu điểm như liều bức xạ thấp hơn, hình ảnh
nhanh hơn và độ phân giải không gian của xương cao hơn [3]. Các thiết bị CBCT hiện đại có
thể cung cấp trường quan sát (FOV) thấp hơn, có nghĩa là chỉ vùng quan tâm lâm sàng được
quét, dẫn đến liều bức xạ thậm chí còn thấp hơn. Việc sử dụng CBCT đã được thiết lập tốt trong
việc lập kế hoạch cấy ghép implant để đánh giá độ dày, chiều cao, mật độ xương (được ước
tính bằng các giá trị pixel) và thể tích [4–6], cũng như các lĩnh vực khác như nội nha [7], nha
chu [8], chỉnh nha [ 9], phẫu thuật miệng và hàm mặt [10], và rối loạn thái dương hàm [11].
Hình ảnh từ MPR thường có sẵn ở ba mặt phẳng trực giao khác nhau – axial (mặt phẳng
cắt ngang), sagittal (mặt phẳng đứng dọc) và coronal (mặt phẳng đứng ngang) – được sử dụng
trong chẩn đoán và lập kế hoạch điều trị. Tuy nhiên, cũng có thể thu được hình ảnh cong bằng
cách sử dụng máy quét trục để vẽ một đường cong theo hình dạng của cung răng. Những hình
ảnh này thường hiển thị các tái tạo toàn cảnh mặt phẳng đứng ngang và một tập hợp các hình
ảnh xuyên trục/cận đứng dọc đại diện cho các lát cắt của mào xương ổ răng (Hình 2.2). Những
hình ảnh cắt ngang này thường được sử dụng để lập kế hoạch cấy ghép.
Một tùy chọn khác là sử dụng hình ảnh trục CBCT thô để hiển thị các mô hình tái tạo 3D nhằm
phân tích bố cục không gian (góc, chiều dài và đường kính) của implant, vít, máng hướng dẫn
phẫu thuật hoặc nội nha, các hợp chất phục hình và các thành phần chỉnh nha. Dữ liệu thô từ
CBCT hoặc CT phải được lấy trong phần mở rộng DICOM® (Hình ảnh kỹ thuật số và Truyền
thông trong Y học) (được mô tả trong chương trước) (Hình 2.3) để đọc được trong phần mềm
và sau đó được xuất dưới dạng hình ảnh 3D trong tiện ích mở rộng Standard Tessellation
Language (STL).

Hình 2.1 Một thiết bị CBCT được tích hợp chức năng đo não và chụp toàn cảnh (Cranex® 3D,
Soredex, Tuusula, Phần Lan).

Hình 2.2 Ảnh chụp màn hình của phần mềm xem DICOM mã nguồn mở Horos (Horos
Projects), hiển thị MPR. Lưu ý tổn thương quanh chóp ở chân gần của răng cối lớn thứ nhất
nằm trong ba mặt phẳng vuông góc.
2.1.1.2 Quy trình từng bước
• Trước khi khám, bệnh nhân nên được yêu cầu tháo tất cả các đồ vật kim loại, chẳng hạn
như kính đeo mắt và đồ trang sức. Phục hình giả tháo lắp cũng nên được tháo ra trong
hầu hết các trường hợp.
• Đeo các biện pháp bảo vệ bức xạ (ví dụ: tạp dề chì, v.v., theo quy định của địa phương).
• Bệnh nhân phải luôn ở đúng vị trí trong thiết bị CBCT (Hình 2.4). Có ý kiến cho rằng
vị trí tốt nhất cho chất lượng hình ảnh của xoang, hàm dưới và hàm trên là tư thế nằm
sấp, thay vì tư thế nằm ngửa và nghiêng [12]. Khuôn mặt của bệnh nhân cần được căn
chỉnh trong máy quét với đầu được đặt giữa nguồn tia X và cảm biến. Vị trí này sau đó
sẽ được điều chỉnh thêm để đảm bảo bố trí các cấu trúc giải phẫu mong muốn trong
giới hạn của FOV đã chọn. Việc điều chỉnh như vậy thường được thực hiện với sự hỗ
trợ của các giá đỡ cằm và đầu, và với một chùm tia laser căn chỉnh chiếu một đường
sáng lên mặt bệnh nhân.
• Giải thích quy trình và yêu cầu bệnh nhân nuốt, tránh cử động trong quá trình chụp.
(Đối với các ca phẫu thuật được hướng dẫn bằng hình ảnh, điều quan trọng là bệnh
nhân phải sử dụng dụng cụ banh môi khi cắn trong quá trình chụp, điều này sẽ được
giải thích trong Chương 6.)
• Xác định các thông số hình ảnh và FOV được quét trên ảnh (Hình 2.5).
• Bắt đầu quét theo hướng dẫn của nhà sản xuất hướng dẫn.
• Lưu bản quét ở định dạng DICOM (một thư mục có một tệp trên mỗi lát cắt trục sẽ
được tạo). Bản quét này có thể mở bằng trình xem DICOM để chẩn đoán (Hình 2.2 và
2.3) hoặc phần mềm CAD dành riêng cho việc lập kế hoạch điều trị nha khoa (thảo luận
thêm trong các chương sau).

Hình 2.4 Định vị bệnh nhân với tư thế phù hợp trong thiết bị CBCT.

2.1.2 Máy quét trong miệng


2.1.2.1 Kiến thức cơ bản
Quy trình làm việc thông thường sử dụng khay và vật liệu lấy dấu đã được cải thiện trong nhiều
thập kỷ. Tuy nhiên, một nghiên cứu trước đây đã phát hiện ra rằng khoảng 50% số lần hiển thị
được gửi đến phòng thí nghiệm dẫn đến các mô hình không đầy đủ hoặc không chính xác. Điều
này có thể xảy ra bởi vì, cho đến khi kết thúc dịch vụ, nhiều vật liệu được sử dụng, mỗi vật liệu
có kỹ thuật làm việc cụ thể của nó. Cần phải phân tích cẩn thận ở mỗi giai đoạn của quy trình,
vì bất kỳ lỗi nào sẽ không được sửa chữa ở giai đoạn tiếp theo, do đó ảnh hưởng đến kết quả
cuối cùng của quy trình này.
Hiện tại, các lần hiển thị kỹ thuật số, bằng cách sử dụng chức năng quét trong miệng,
có thể tạo ra một tệp STL, đại diện cho bước đầu tiên của con đường kỹ thuật số, trong đó tình
huống lâm sàng có thể được chuyển hoàn toàn sang môi trường ảo. Tuy nhiên, khi cần thiết,
các khuôn vật lý vẫn có thể được sản xuất từ các tệp STL giống nhau bằng cách sử dụng các
công nghệ tạo mẫu nhanh.

Hình 2.5 Hình ảnh quan sát CBCT (trái) dùng để định nghĩa FOV của sản phẩm quét

Về kết quả dựa trên bệnh nhân, ấn tượng kỹ thuật số giúp bệnh nhân ít lo lắng hơn,
thoải mái hơn, ít gây buồn nôn hơn và cho phép bệnh nhân quan sát khu vực quan tâm trên màn
hình máy tính. Từ quan điểm về sự linh hoạt của quy trình so với toàn bộ quy trình từ tạo khuôn
đến phục hồi chức năng cho bệnh nhân, quy trình kỹ thuật số, với chức năng quét trong miệng,
giúp giảm bớt các bước của quy trình và thúc đẩy giao tiếp nhanh chóng với phòng thí nghiệm.
Sử dụng chức năng quét trong miệng đảm bảo xác định ngay lập tức chất lượng in; thu được
các mô hình 3D ảo của bệnh nhân, có thể lưu vào máy tính mà không cần mô hình vật lý. Điều
này giúp tiết kiệm thời gian và không gian, đồng thời cung cấp khả năng dễ dàng gửi các mô
hình đến phòng thí nghiệm bằng email, giúp giảm thời gian và chi phí. Bác sĩ lâm sàng có thể
tiết kiệm tiền mua vật liệu lấy dấu và sản xuất mô hình thạch cao; có thể lưu trữ các mô hình
ảo của bệnh nhân mà không cần phải dành một không gian bên trong phòng khám cho họ. Ít
nhất, bác sĩ lâm sàng có thể có một công cụ tiếp thị mạnh mẽ để giao tiếp hiệu quả hơn với
bệnh nhân.
Công nghệ quét trong miệng đã được phát triển rất nhanh. Hiện tại, có hơn 10 máy quét
trong miệng khác nhau trên thị trường và các công ty đang phát triển các thiết bị và phương
pháp từ hơn tám quốc gia.
● TRIOS® 4 (Hình 2.6) – 3Shape A/S (Đan Mạch).
● CEREC® Omnicam (Hình 2.7) và Primescan – Dentsply Sirona (Mỹ).
● CS 3700® – Carestream (Mỹ).
● 3D Progress – MHT SpA (Ý) và MHT Optic Research AG (Thụy Sĩ).
● iTero – Align Technologies (Mỹ).
● Bluescan®-I – A•TRON3D® GmbH (Áo).
● DPI-3D – Dimensional Photonics International,Inc (Mỹ).
● E4D – D4D Technologies, LLC (Mỹ).
● IOS FastScan – IOS Technologies, Inc. (Mỹ).
● LavaTMC.O.S. – 3M ESPE (Mỹ).
● MIA3dTM – Densys 3D Ltd. (Israel).
● DirectScan – HINT – ELS GmbH (Đức). ● Panda P2® – Pingtum Technologies
(Trung Quốc).
● Medit i700® – Medit Corp (Hàn Quốc).
● Vectra 3D – Canfield Scientific (Mỹ).

Máy quét trong miệng là một thiết bị y tế bao gồm một máy ảnh cầm tay (phần cứng),
máy tính và phần mềm. Mục đích của nó là chụp chính xác hình học 3D của một đối tượng.
Định dạng được sử dụng rộng rãi nhất của phần mở rộng tệp kỹ thuật số 3D của hình ảnh được
chụp bởi máy quét trong miệng là STL. Trong số các công nghệ chính để quét một đối tượng
là phép đo tam giác, tiêu điểm, AWS (lấy mẫu mặt sóng chủ động) và phép chụp ảnh lập thể.

Tam giác hoá


Phép đo tam giác dựa trên nguyên tắc có thể tính được vị trí của một điểm trên một tam giác,
với điều kiện là hai điểm nhìn đã biết vị trí và góc. Ví dụ về máy quét trong miệng sử dụng
công nghệ tam giác là Cerec Omnicam (Dentsply Sirona), IOS FastScan (IOS Technologies,
Inc.), Medit i700 (Medit Corp) và MIA3d (Densys 3D Ltd).

Đồng tiêu
Hình ảnh đồng tiêu dựa trên việc thu được cả hình ảnh tập trung và không tập trung từ các độ
sâu khác nhau. Công nghệ này cho phép phát hiện độ sắc nét của hình ảnh để suy ra khoảng
cách so với đối tượng, theo độ dài tiêu cự của ống kính. Mức độ sắc nét thu được trong quá
trình quét tỷ lệ thuận với sự khéo léo của người vận hành. Ví dụ về máy quét trong miệng đồng
tiêu là TRIOS 3 và TRIOS 4 (3Shape), iTero Element2 và Element5D (Công nghệ căn chỉnh)
và 3D Progress (MHT SpA).

Lấy mẫu đầu sóng chủ động (Active Wavefront Sampling-AWS)


Kỹ thuật AWS cho phép chụp ảnh bề mặt bằng máy ảnh và khẩu độ ngoài trục quang học của
mô-đun xoay quanh trục này. Thông tin về khoảng cách và độ sâu có thể được lấy và tính toán
từ kết quả của từng điểm. Một ví dụ về máy quét trong miệng AWS là Lava C.O.S. (3M ESPE).

Phép đo ảnh lập thể (Stereophotogrammetry)


Phương pháp chụp ảnh lập thể ước tính tất cả các tọa độ (x, y, z) chỉ bằng cách sử dụng thuật
toán phân tích hình ảnh. Vì cách tiếp cận này dựa vào phần mềm và phép chiếu ánh sáng thụ
động hơn là phép chiếu chủ động và phần cứng, máy ảnh tương đối nhỏ và dễ xử lý hơn, đồng
thời tạo ra hình ảnh cũng ít tốn kém hơn. Một ví dụ về thiết bị đo ảnh lập thể là Vectra 3D
(Canfield Scientific).
Sự khác biệt lâm sàng đã được báo cáo giữa các thiết bị iOS sử dụng cùng một công nghệ.
Những khác biệt này thường liên quan đến thời gian người vận hành làm quen với công thái
học và khả năng sử dụng của phần mềm cho từng máy quét trong miệng. Đáng chú ý là đường
cong học tập của quét trong miệng ban đầu có thể chậm.
Mô răng có một số bề mặt phản chiếu, chẳng hạn như tinh thể men răng hoặc bề mặt
được đánh bóng. Các bề mặt này có thể ngăn phần mềm chụp một điểm ưa thích do phơi sáng
quá mức. Để tránh điều này, các chuyên gia có thể thay đổi một chút hướng của máy ảnh hoặc
sử dụng các hệ thống sử dụng máy ảnh có bộ lọc phân cực.
Các chiến lược quét đề cập đến thứ tự các chuyển động của máy quét trong miệng liên
quan đến cung răng để tăng chất lượng và độ chính xác của mô hình ảo. Các nghiên cứu gần
đây đã chỉ ra tác động của đường quét đối với độ chính xác của các mô hình 3D thu được.
Trong quá trình quét, nên duy trì chuyển động đều đặn và liên tục, lý tưởng nhất là với khoảng
cách không đổi và tập trung vào đối tượng. Các bước tổng quát chính để quét trong miệng được
tóm tắt dưới đây.
Hình 2.6 Máy quét trong miệng TRIOS® 4 (3Shape A/S), sử dụng công nghệ đồng tiêu và cho
phép tích hợp với các chương trình phần mềm CAD và thiết bị CAM của nhà sản xuất khác

Hình 2.7 Máy quét trong miệng CEREC Omnicam được tích hợp với một thiết bị phay cán
mài từ cùng một nhà sản xuất (Dentsply Sirona).

2.1.2.2 Quy trình từng bước


Quy trình từng bước sau đây được mô tả bằng cách sử dụng thiết bị TRIOS 3 (3Shape). Tuy
nhiên, hầu hết các bước đều tương tự đối với hầu hết các hệ thống và nhà sản xuất khác.
● Kết nối máy quét trong miệng với máy tính có phần mềm cụ thể của thiết bị sẽ sử dụng, có
cấp phép hợp lệ (đối với máy quét gắn vào xe đẩy sẽ được kết nối với máy tính chuyên dụng).
● Kết nối thiết bị với nguồn điện và bật thiết bị lên.
● Trên màn hình chính, nhấp đúp chuột vào biểu tượng phần mềm máy quét.
● Trên màn hình ban đầu của phần mềm máy quét trong miệng (Hình 2.8), chọn “bệnh nhân
mới” (new patient) để đăng ký cho bệnh nhân chưa đăng ký, hoặc “trường hợp mới” (new case)
để thực hiện quét mới trên bệnh nhân đã đăng ký.
● Chọn phòng lab (hoặc địa chỉ email) để gửi (xuất) bản quét khi hoàn tất.
● Xác định trong các tùy chọn mà phần mềm cung cấp loại phục hồi sẽ được thực hiện (chỉ
quét, lập kế hoạch cấy ghép, giải phẫu, trụ, cầu, v.v.).
● Nhấp vào biểu tượng “tiếp theo” (next) để tiến hành quét.
● Thực hiện theo các bước được chỉ định trong thanh quy trình làm việc cụ thể xuất hiện trên
màn hình quét của phần mềm.
● Quét cả cung răng hàm trên và hàm dưới, luôn tuân thủ quy trình quét (Hình 2.9) và tránh
quét lặp lại cùng một vùng (Hình 2.10). Ngoài ra, thực hiện ghi dấu cắn kỹ thuật số.
● Sửa bất kỳ lỗi nào trong lưới như phần mềm chỉ ra. Sau khi quét cả cung răng và ghi dấu
khớp cắn, tiếp tục với các lần quét bổ sung khác (cùi răng, quét thân răng, v.v.), cũng như
như ghi lại quá trình quét khớp cắn.
● Sau khi quét xong, tiến hành xử lý lưới (Hình 2.11) bằng cách sử dụng các công cụ phần
mềm (một số các hệ thống tự động thực hiện một phần của quá trình này).
● Sau khi xử lý xong, chúng ta đã sẵn sàng xuất các hình ảnh quét (Hình 2.12).
● Có thể xuất hoặc gửi trực tiếp các tệp quét đến phòng thí nghiệm hoặc khách hàng sử dụng
các công cụ cụ thể của từng phần mềm. Tất cả các tệp cũng có thể được tải xuống thư mục trên
đĩa cứng máy tính hoặc thiết bị lưu trữ tạm thời (thẻ nhớ hoặc ổ cứng gắn ngoài).
● Chọn loại phần mở rộng tệp của quá trình quét sẽ được xuất (một số chương trình phần mềm
chỉ hoạt động với các tệp STL; một số chương trình khác cũng cho phép xuất tệp định dạng
polygon [PLY] hoặc tệp OBJ).

Quét trong miệng ở bệnh nhân mất răng


Kỹ thuật quét chủ yếu được khuyên dùng cho mào xương ổ mất răng là chiến lược quét “zigzag”.
Kỹ thuật này giúp duy trì tính liên tục của hình ảnh theo hướng tiền đình vòm miệng, luôn bắt
đầu từ bên trái sang bên phải hoặc ngược lại mà không làm gián đoạn và bổ sung vùng vòm
miệng trong quá trình chụp. Thông thường, hầu hết các chuyên gia chọn quét cung răng không
răng sử dụng tệp này để tạo một khay cá nhân, từ đó có thể sản xuất thủ công trên các mô hình
sản phẩm đã in, hoặc trực tiếp bằng cách sản xuất đắp lớp với nhựa đặc biệt, sau khi tạo các
bản vẽ trong phần mềm. Khay cá nhân sẽ có thể ghi lại các khu vực mà máy quét trong miệng
có thể không chụp được. So với hàm trên, hàm dưới thường khó chụp hơn do có niêm mạc di
động nhiều hơn.
Kỹ thuật quét được đề xuất sẽ đảm bảo độ chính xác cao hơn của các kết quả được thực hiện
trong quy trình làm việc hoàn toàn bằng kỹ thuật số, dựa trên các ấn phẩm sử dụng máy quét
TRIOS [13, 14] và bằng chứng khoa học liên quan, tuân theo trình tự bên dưới.

1) Lựa chọn trước dụng cụ banh môi hình chữ U có kích thước phù hợp với bệnh nhân và có
khả năng banh và ổn định các mô miệng nhưng đồng thời tránh việc kéo căng quá mức. Tốt
nhất, bác sĩ lâm sàng nên có một trợ lý để sử dụng đúng dụng cụ banh môi và có thể hút nước
bọt nếu cần. Có thể bôi một loại nhựa lỏng, cản quang dính vào niêm mạc dưới dạng các khối
cầu nhỏ (1–2mm) ở những vùng không di động tại các điểm khác nhau trong cung răng để tăng
đặc tính bề mặt, tạo điều kiện cho việc quét, nếu cần. Các khối này có thể được xóa sau trong
phần mềm lập kế hoạch hoặc trong phần mềm riêng của máy quét sau khi quá trình quét hoàn
tất.
Đối với hàm trên (Hình 2.13), đường đi máy quét được khuyến nghị có trình tự sau:
chọn một bên của cung hàm trong vùng lồi củ qua mặt nhai, hướng về phía đối diện của cung
răng. Sau đó, di chuyển vị trí của máy quét đến giữa cung răng ở phần trước, từ đó hoàn thành
toàn bộ vùng vòm miệng, đi qua vùng này từ bên này sang bên kia. Máy quét phải hoàn thành
quá trình quét một cách trôi chảy và thống nhất, đảm bảo sự thống nhất của các khu vực được
quét. Các bước sau cần cẩn thận hơn vì máy quét có thể bị mất do có phanh và dây. Do đó, máy
quét phải được định vị ở vùng răng sau, bắt đầu lại ở vùng lồi củ, nhưng chụp vùng tiền đình.
Để hoàn thành mặt còn lại, máy quét phải được tạm dừng và định vị ở vùng phía sau, chụp
tương tự như bên đã hoàn thành trước đó. Nên nghiêng máy quét một chút để có thể ghi lại quá
trình chuyển đổi từ khớp cắn sang niêm mạc tiền đình. Trên thực tế, người dùng sẽ có thể thực
hiện quét liên tục mà không làm gián đoạn máy quét, ngăn chặn mọi hình ảnh chồng chéo.

Hình 2.8 Chụp màn hình chính của phần mềm IOS.

Hình 2.9 Ví dụ về giao thức quét trong miệng đã thiết lập.

Đối với hàm dưới, đường quét được khuyến nghị có trình tự sau: chọn một bên của
cung hàm ở vùng sau răng hàm với máy quét hơi nghiêng về phía trong, chụp thường xuyên
cho tới vùng sau răng hàm ở phía đối diện, tiếp theo là nghiêng máy quét sang vùng tiền đình,
kết thúc quá trình quét theo toàn bộ tiền đình sang bên đối diện, chú ý đặt máy quét sao cho có
thể chụp được vùng khớp cắn và tiền đình, đảm bảo hình ảnh đồng nhất. Nếu bệnh nhân đã tiêu
xương ổ răng, chiến lược quét nên được phân đoạn bằng cách chụp đầu tiên ở một bên và sau
đó là bên kia. Như vậy, quá trình quét sẽ bắt đầu ở vùng tam giác hậu hàm ở một bên cho đến
giữa cung răng, tiếp tục đến vùng tiền đình ở cùng một bên, kết thúc lại ở vùng tam gíac hậu
hàm. Từ đó, máy quét sẽ được định vị lại ở giữa cung hàm, tiến tới vùng trong của bên còn
thiếu và kết thúc tại vùng ngoài cùng bên tới vùng tam giác hậu hàm. Trong thời gian nghỉ, hút
sạch nước bọt và bệnh nhân có thể nghỉ ngơi một lúc cho đến khi quá trình quét tiếp tục.
Để thực hiện ghi dấu khớp cắn và ghi lại VOD (kích thước khớp cắn theo chiều dọc),
có thể chế tạo một thiết bị liên khớp cắn phù hợp với hàm trên và hàm dưới bằng các vật liệu
như silicone nhẹ và nặng để thiết bị hoàn toàn thích ứng với sống hàm và cho phép định vị hàm
dưới lý tưởng cho khớp cắn của bệnh nhân. Thiết bị này có thể được quét bằng máy quét trong
hoặc ngoài miệng (để bàn) và sau đó tệp có thể được phần mềm lập kế hoạch sử dụng sử dụng
thuật toán phù hợp nhất để căn chỉnh một cách tốt nhất có thể từ các bản ghi hình cảnh các khu
vực tương tự. Một sự thích ứng của kỹ thuật này là ứng dụng của các phần rãnh làm dấu trong
bản ghi, cho phép hình dung ra các gờ mép của bệnh nhân và quét bản ghi trong miệng. Đối
với dấu khớp cắn, máy quét thường tìm kiếm thông tin tương tự, cuối cùng tạo ra sự liên kết
của các mắt lưới đã xác định. Kỹ thuật này dễ thực hiện hơn khi bệnh nhân còn răng hoặc đã
có phục hình; nếu không, lý tưởng nhất là bệnh nhân có dấu làm sẵn để tạo thuận lợi cho việc
ghi dấu khớp cắn.

Hình 2.10 Quy trình quét trong miệng (ảnh trên bên trái: quét hàm trên; ảnh trên bên phải: quét
hàm dưới; hình ảnh dưới cùng: đăng ký khớp cắn kỹ thuật số được thực hiện ở cả hai bên).

2) Sau khi quá trình quét kết thúc, các tệp được xử lý và kiểm tra để xác định những sửa chữa
có thể có và sau đó được xuất để sử dụng trong phần mềm lập kế hoạch.
Một giải pháp thay thế cho việc quét trong miệng, nhưng sử dụng cùng một thiết bị, sẽ
là quét phần đế phục hình của bệnh nhân. Phần mềm hiện tại cho phép đảo ngược các mắt lưới
được quét, cho phép sử dụng trong quy trình làm việc thông thường sau này.
Để lập kế hoạch và sản xuất phụchifnh, bác sĩ lâm sàng có thể chọn sử dụng hệ thống
CAD-CAM có trong phòng khám hoặc gửi các bản ghi đến phòng lab. Các bước tiếp theo sẽ
bao gồm việc tạo một khay cá nhân, gối cắn, ghi kích thước dọc, mặt phẳng cắn, nâng đỡ môi,
chiều dài của răng cửa giữa hàm trên và đường giữa phù hợp với bệnh nhân. Bước tiếp theo là
lên giá khớp với thông tin về cung mặt và mối quan hệ với hàm dưới, lên răng và các yếu tố
của phục hình. Tùy thuộc vào chuyên môn của người dùng, hầu hết các bước có thể được giảm
bớt và mô phỏng trực tiếp trong phần mềm lập kế hoạch theo các bản ghi được tạo nhờ khả
năng chồng chéo các tệp từ cùng một bệnh nhân.

Hình 2.11 Quy trình cắt lưới để loại bỏ các vùng không cần thiết khỏi quá trình quét. Điều này
dẫn đến kích thước tệp nhỏ hơn trong khi chuẩn bị hình dạng của lưới để tiếp tục tạo ra mô
hình in 3D từ quá trình quét.

Hình 2.12 Quét trong miệng đã sẵn sàng.


Bản quét của bệnh nhân mất răng cũng được sử dụng để lập kế hoạch phẫu thuật có
hướng dẫn, ngoài việc tạo ra các phục hình tháo lắp, làm cơ sở cho việc thiết kế sản xuất các
máng hướng dẫn tạm thời và phẫu thuật tức thì.
Các lần quét bổ sung như dấu khớp cắn và quét khuôn mặt có thể được thực hiện bằng
các thiết bị khác nhau để mang lại khả năng dự đoán kết quả cao hơn. Một lợi ích khác của việc
sử dụng các công cụ kỹ thuật số là khả năng sản xuất các nguyên mẫu khác nhau ở các giai
đoạn khác nhau, cho phép độ chắc chắn cao hơn trước khi sản xuất phục hình cuối cùng. Hiện
tại, phục hình hoàn chỉnh có thể được chế tạo bằng phương pháp gia công cắt gọt hoặc đắp lớp.
Trong bối cảnh này, phục hình toàm hàm bằng phương pháp phay cán vẫn là lựa chọn tốt nhất.

Hình 2.13 Sự chồng hình của hai lần quét trong miệng được thực hiện trên hàm trên không có
răng của cùng một bệnh nhân, trong cùng một phiên với cùng một máy quét (CS3600,
Carestream Health). Lưu ý các giá trị độ lệch 3D rất thấp giữa hai lần quét (vùng màu xanh lá
cây).

Các kỹ thuật được mô tả yêu cầu xác nhận lâm sàng sau đó, vì thiếu sự khác biệt của
các bề mặt sẽ gây khó khăn cho việc quét. Việc sử dụng dụng cụ banh môi là một giải pháp
tuyệt vời được đề cập trong các bài báo gần đây nhất, nhưng việc sử dụng không đúng cách có
thể gây ra tình trạng nong quá mức khiến hàm giả toàn bộ không lưu giữ. Tuy nhiên, một số
nghiên cứu đã báo cáo nhiều vấn đề gây ra bởi phương pháp đúc thông thường, chẳng hạn như
sự hiện diện của bong bóng hoặc lỗ và biến dạng liên quan đến mô hình thạch cao. Với sự gia
tăng sử dụng công nghệ quét, chúng ta có thể sẽ thấy sự tiến bộ liên tục trong cả chuyên môn
lâm sàng và phòng lab, thể hiện những tiến bộ và cải tiến về chất lượng của các tệp thu được
và công việc được thực hiện.

2.1.3 Máy quét để bàn

2.1.3.1 Kiến thức cơ bản


Việc sử dụng công nghệ kỹ thuật số hiện là một phần thiết yếu trong nhiều khía cạnh của cuộc
sống, trong sản xuất thực phẩm, xã hội, giao lưu, giải trí và đặc biệt là sức khỏe [15, 16]. Những
thay đổi mang tính cách mạng trong nha khoa chỉ có thể thực hiện được với những tiến bộ
trong công nghệ kỹ thuật số, chẳng hạn như việc sử dụng ảnh, chụp X quang kỹ thuật số, CT,
và chủ yếu bằng việc sử dụng máy quét có sự trợ giúp của máy tính liên quan đến thiết kế và
sản xuất có sự trợ giúp của máy tính (CAD - CAM) [17]. Hệ thống thương mại đầu tiên được
sử dụng để quét trong miệng có từ năm 1987; được gọi là hệ thống CERC, về cơ bản nó hoạt
động trên các nguyên tắc tam giác ánh sáng và yêu cầu một lớp phủ mờ đục.
Sự ra đời của công nghệ kỹ thuật số đã làm tăng các lựa chọn có sẵn cho điều trị nha
khoa. Các bác sĩ lâm sàng đã và đang sử dụng các mô hình thạch cao làm công cụ chính để
chẩn đoán và chế tạo phục hồi, phục hình, lập kế hoạch và truyền thông, nhưng những mô hình
này có những nhược điểm như dễ gãy, xuống cấp và mất cấu trúc bề mặt, đồng thời cần không
gian lưu trữ đáng kể [ 18, 19]. Các mô hình nghiên cứu cho phép bác sĩ lâm sàng có được một
bản sao về hình thái và mối quan hệ không gian của răng, nhưng thông tin này có thể không
chính xác do quá trình đổ khuôn [18], điều này phụ thuộc vào người thực hiện và có thể xảy ra
lỗi vật liệu. Ví dụ, sau khi sửa soạn mão để chế tạo một phục hình duy nhất theo phương pháp
thông thường, cần thực hiện một số bước trước khi sản xuất phục hồi cuối cùng, với các sai sót
có thể xảy ra như lựa chọn vật liệu, kỹ thuật đúc khuôn, quy trình khử trùng, vận chuyển, loại
thạch cao và thậm chí cả thời gian giữa các bước riêng lẻ ảnh hưởng đến độ chính xác và kết
quả cuối cùng [15].
Sự ra đời của hệ thống CAD-CAM trong nha khoa dẫn đến việc chế tạo các cấu trúc
phục hình chính xác hơn và phục hình răng chính xác hơn, và công nghệ này đã được cải thiện
từ năm 1980. Việc tự động hóa và tối ưu hóa quy trình này làm tăng chất lượng phục hình thông
qua việc sử dụng của các vật liệu tương thích sinh học mới, đặc biệt là sứ hiệu suất cao như
zirconia và lithium disilicate.
Quy trình làm việc kỹ thuật số hoàn toàn vẫn chưa trở thành hiện thực đối với nhiều
chuyên gia, có thể do chi phí thiết bị cao và nhu cầu thực hiện các quy trình mới trong thói
quen hàng ngày và sự tổ chức lại, nhưng sử dụng các công cụ quy trình kỹ thuật số có thể giảm
các bước, tăng khả năng dự đoán, tăng tỷ lệ bệnh nhân chấp nhận và, tất nhiên, cung cấp độ
chính xác cao hơn.
Máy quét trong miệng có những hạn chế trong việc lấy dấu kỹ thuật số trực tiếp, bao
gồm các bề mặt có độ phản chiếu cao, sửa soạn vùng dưới nướu rất sâu, độ ẩm và tình trạng
chảy máu, do đó, trong những tình huống này, cần phải sử dụng dấu thông thường hoặc khuôn
thạch cao theo thiết kế gián tiếp, kết hợp quy trình sử dụng vật liệu đàn hồi cho lấy dấu thông
thường và tránh những bất lợi của việc đổ mẫu thạch cao, số hóa bản thân dấu bằng máy quét
phẳng.
Ba kiểu máy quét để bàn có thể được sử dụng: máy quét cơ học có đầu dò, có thể có
nhược điểm lớn do khả năng gây biến dạng trong vật liệu, máy quét lazer và máy quét ánh sáng
trắng, được sử dụng nhiều nhất hiện nay [17]. Máy quét để bàn ánh sáng mới được phát triển
có lợi thế hơn so với máy quét lazer ở chỗ chúng có thể phân tích một mẫu với nhiều đường
sọc (streaks), trong khi máy quét laze phân tích một mẫu các đường thẳng (lines).
Về cơ bản, máy quét để bàn có một tiêu điểm mà vật kính sẽ được tiếp xúc với ánh sáng
hoặc tia laser và quá trình quét sẽ được thực hiện, tạo ra một mô hình kỹ thuật số có thể được
sử dụng trong phần mềm CAD. Ưu điểm chính của việc sử dụng quét máy tính để bàn là chi
phí thấp hơn, giảm các bước trong quy trình, khả năng dự đoán, lập kế hoạch, độ chính xác,
tốc độ (một số trường hợp thông thường cần năm bước có thể giảm xuống còn hai), khả năng
lưu trữ thông tin trên đám mây, do đó giảm nhu cầu về không gian vật lý, giao tiếp với phòng
thí nghiệm, giảm lỗi xử lý và bệnh nhân chấp nhận nhiều hơn. Nó có thể được sử dụng để có
được một mô hình chẩn đoán kỹ thuật số, tạo mão răng đơn lẻ, inlay, onlay, overlay, tạo khay
cá nhân cho hàm giả toàn bộ, phục hình trên cấy ghép, ghi lại mối quan hệ hai hàm trên với ghi
dấu cắn thông thường và quét để tạo các máng tại phòng khám. Về nhược điểm, có thể kể đến
các nghiên cứu so sánh độ tin cậy và độ chính xác của máy quét để bàn sử dụng dấu bình
thường, mô hình thạch cao và mô hình nhựa được in trên máy in 3D, với kết quả là dấu có độ
chính xác thấp nhất sự khác biệt nhỏ đáng kể [16, 17]. Một nghiên cứu đã báo cáo rằng các mô
hình đúc bằng thạch cao có thể cho thấy sự khác biệt liên quan đến các mô hình quét trong
miệng, nhưng các mô hình bằng thạch cao và nhựa không cho thấy sự khác biệt đáng kể về mặt
lâm sàng.
Máy quét để bàn có thể giúp cuộc sống của bác sĩ lâm sàng dễ dàng hơn vì nó là một
công cụ linh hoạt, dễ tiếp cận, sử dụng phần mềm trực quan, dễ học, thúc đẩy cải thiện kết quả
lâm sàng, nhưng tùy thuộc vào một số bước thông thường có thể phù hợp trong một số trường
hợp [17].

Hình 2.14 1 Thiết bị hiệu chỉnh máy quét để bàn. 2 Máy quét 3Shape để bàn tự động với thiết
bị hiệu chuẩn được trang bị phù hợp. 3 Mô hình được in bằng nhựa sẽ được quét sau đó, nhắc
lại rằng máy quét để bàn có khả năng quét các mô hình nhựa, mô hình thạch cao và các bản in
âm bản. 4 Bàn đỡ cho mô hình được điều chỉnh phù hợp bằng chất liệu silicone. 5 Mẫu được
lắp đúng cách với bề mặt khớp cắn đối diện với nguồn sáng; đèn phụ sẽ tự động bật, báo hiệu
rằng mô hình đã sẵn sàng để được quét. 6 Kích hoạt quét tự động bằng phần mềm; bảng quét
sẽ di chuyển 360° để cho phép quét tất cả các giao diện của mô hình.

2.1.3.2 Quy trình từng bước


Sử dụng máy quét để bàn có thể là một lựa chọn thỏa đáng để giúp bác sĩ lâm sàng mà
không cần phụ thuộc vào phòng tlab. Các bước cần thiết để sử dụng thiết bị này rất đơn giản;
mỗi thiết bị có thể có một số điểm khác biệt nhưng phần lớn các bước đều rất giống nhau.
Cần có một số không gian để cài đặt máy quét và một máy tính sử dụng để cài đặt phần
mềm quét, lưu trữ và có thể gửi tệp. Điều quan trọng là máy tính này chỉ được sử dụng riêng
cho chức năng này, tránh các chức năng thông thường vì có thể dẫn đến hỏng chức năng và
máy chạy chậm, gây khó khăn cho việc sử dụng thiết bị.
Bằng cách làm theo mô tả từng bước này, bác sĩ lâm sàng sẽ có thể sử dụng máy quét
để bàn mà không gặp khó khăn (Hình 2.14). Điều quan trọng là chuyên gia phải tuân theo các
hướng dẫn cụ thể cho từng kiểu máy quét, nhưng hầu hết các bước đều giống nhau.
- Lấy máy quét ra khỏi hộp và kiểm tra xem có tất cả các bộ phận đi kèm với máy không, chẳng
hạn như nguồn điện, các phụ kiện như bộ chuyển đổi cho kiểu máy và bộ phận hiệu chuẩn.
- Sử dụng UPS để kết nối máy quét với nguồn điện, kiểm tra điện áp được chỉ định. Phần lớn
các máy quét đi kèm với một đĩa CD hoặc ổ đĩa để cài đặt phần mềm trên máy tính. Một số
yêu cầu tối thiểu có thể cần thiết liên quan đến cấu hình bộ nhớ trong của máy tính được sử
dụng.
- Sau khi cài đặt phần mềm, bắt đầu hiệu chỉnh máy quét trên màn hình chính. Điều này có thể
được hệ thống yêu cầu hàng tuần, để đảm bảo độ tin cậy và độ chính xác cao hơn của quá trình
quét.
- Trong các bước nói trên, điều quan trọng là một số thông tin được cung cấp cho phần mềm
lập kế hoạch bên trong máy tính.
- Sau khi thực hiện các bước đã tạo ở Hình 2.15, chúng ta sẽ tiến hành các bước được mô tả ở
Hình 2.16.
Quá trình thu nhận hình ảnh sử dụng phần mềm cụ thể của từng máy quét cực kỳ đơn
giản và trực quan. Tuy nhiên, một số bước có thể ảnh hưởng đến kết quả cuối cùng, chẳng hạn
như hỏng khuôn, bong bóng trong thạch cao, loại thạch cao được chọn để đúc mô hình, không
định kỳ hiệu chỉnh máy quét, v.v. Tất cả những điều này có thể ảnh hưởng đến độ chính xác và
chất lượng của tác phẩm cuối cùng được tạo ra.
Có thể thực hiện các công việc sau từ quá trình quét được thực hiện trên máy quét để bàn.
- Wax up chẩn đoán kỹ thuật số.
- Các khay cá nhân cho phục hình toàn hàm.
- Nền tạm cho phục hình toàn bộ.
- Veneer, mão răng, inlay/onlay, bằng sứ, zirconia và thậm chí cả kim loại.
- Gối cắn
- Máng hướng dẫn phẫu thuật.
- Khuôn phục hình trên implant.
- Phục hình trên implant; trong những trường hợp này, khuôn quét là cần thiết, cũng như yêu
cầu thay thế toàn bộ mão trên răng, tăng độ chính xác của quá trình quét [16].
Độ chính xác của máy quét để bàn cũng được báo cáo trong tài liệu. Ngoài ra, chúng
có giá cả phải chăng và có thể cung cấp cho các bác sĩ lâm sàng cơ sở vật chất để lập kế hoạch
và thực hiện các trường hợp đơn giản và phức tạp trong quy trình lâm sàng [1].
Hình 2.15 7 Sau khi bắt đầu một dự án mới trong phần mềm 3Shape, một màn hình có tất cả
các răng sẽ được hiển thị và sau đó răng đối tượng phải được chọn. Ngoài ra, phải chọn loại
công việc sẽ được thực hiện, chẳng hạn như mão răng, veneer hoặc sáp chẩn đoán, trong trường
phía trên bên phải. 8 Một lần quét trước được thực hiện cho toàn bộ cung răng; quá trình này
mất khoảng 9 giây nhưng không có nhiều chi tiết. 9 Sau đó, chúng tôi chọn khu vực mà chúng
tôi muốn biết thêm chi tiết, chẳng hạn như một răng cụ thể. 10 Sau lựa chọn này, một lần quét
nữa được thực hiện, thời gian lâu hơn một chút, mang lại mô hình trung thực và chính xác hơn
cho thành phần được quét.

Hình 2.16 11 Đối với phục hình hoặc phẫu thuật, cần phải quét cung hàm chính và cung hàm
đối. 12 Sau khi quét yếu tố và cung hàm đối kháng, chúng ta phải ghi dấu cắn. Với mục đích
này, điều quan trọng là tạo ra một thanh dẫn hướng trong miệng, có thể bằng nhựa acrylic, bằng
sáp hoặc sử dụng silicon để ghi dấu khớp cắn. Một số máy quét thậm chí còn cho phép quét
khớp cắn ở vị trí lồng múi tối đa. 13 Sau khi chồng bản ghi khớp cắn với các mô hình làm việc
và cung đối, máy quét sẽ tự thiết lập mối quan hệ hai hàm giữa các mô hình. 14 Sau khi hoàn
thành, một tệp STL được tạo ra, tệp này có thể được xuất sang phần mềm CAD, chẳng hạn như
Inlab®, DentalCAD® hoặc thậm chí là Meshmixer®.

2.1.4 Máy quét ngoài mặt

2.1.4.1 Kiến thức cơ bản


Quét khuôn mặt ba chiều đang phát triển nhanh chóng trong nha khoa và có ứng dụng trong
nhiều lĩnh vực khác, chẳng hạn như kỹ thuật y sinh, thiết kế và hoạt hình 3D. Làm việc với một
bệnh nhân ảo cung cấp thông tin về cấu hình khuôn mặt của họ cùng với các hệ thống CAD-
CAM khác nhau đã giúp thiết kế và sản xuất phục hình hoàn chỉnh theo cách kỹ thuật số [20].
Một phương pháp phục hồi chức năng giả thông thường chỉ yêu cầu các mô hình cung
răng được gắn trên giá khớp, phim chụp X quang và ảnh chụp để có thể thu được đánh giá 2D
về vùng hàm mặt [21]. Tuy nhiên, khuôn mặt con người là một cấu trúc hình học phức tạp với
các độ sâu và kết cấu khác nhau. Rất khó để mô phỏng khuôn mặt thật với hình ảnh 2D và việc
đánh giá biến dạng khuôn mặt hoặc sự bất đối xứng của khuôn mặt cũng dễ bị sai sót do các
phân tích 2D không thể hiện được mức độ các tỷ lệ liên quan đến sự hài hòa của khuôn mặt.
Do đó, dự đoán kết quả và tiên lượng điều trị có thể bị hạn chế nếu chỉ sử dụng hình ảnh 2D
[22].
Để khắc phục các vấn đề đánh giá khuôn mặt 2D này, một số phương pháp quét khuôn
mặt 3D đã được giới thiệu như phương pháp chụp ảnh lập thể, quét laser và quét ánh sáng cấu
trúc [23–26]. Các phương pháp này cung cấp mô phỏng 3D của bề mặt cấu trúc khuôn mặt
bằng cách tạo ra một mô hình khuôn mặt kỹ thuật số có thể được đặt chồng lên các hình ảnh X
quang để phân tích khuôn mặt 3D và lập kế hoạch điều trị ảo hoặc mô phỏng phẫu thuật thực
tế [9]. Hơn nữa, dữ liệu quét được thu thập có thể được sử dụng cho các mục đích đa ngành
trong nghiên cứu, giáo dục cũng như điều trị.
Việc sử dụng quét khuôn mặt trong nha khoa đã tăng lên theo thời gian và có ứng dụng
trong các lĩnh vực cấy ghép nha khoa, thẩm mỹ, phục hình răng và nha chu. Với sự tiến bộ của
công nghệ, việc quét khuôn mặt có thể được thực hiện theo cách mà các chuyên gia có thể tiếp
cận được [27]. Việc thu nhận hì h ảnh có thể được thực hiện từ điện thoại thông minh, máy tính
bảng và máy ảnh, đồng thời sử dụng phương pháp chụp ảnh để tạo tệp 3D. Tệp quét khuôn mặt
thường được xuất ở định dạng tệp OBJ. Một nghiên cứu được thực hiện bởi Mai et al. tiết lộ
rằng độ chính xác của các mô hình khuôn mặt kỹ thuật số được tạo bởi máy quét di động không
khác biệt đáng kể so với độ chính xác của các hệ thống quét khuôn mặt cố định [22].

Hình 2.17 Quy trình làm việc quét khuôn mặt trong phục hồi chức năng răng miệng

Công dụng chính của quét khuôn mặt là để bệnh nhân ở định dạng ảo mà bệnh nhân
không cần phải có mặt tại thời điểm lập kế hoạch (Hình 2.17). Với tính năng quét khuôn mặt,
việc xếp chồng tất cả các tệp thể tích cho phép tái tạo hầu như toàn bộ bệnh nhân. Vẫn còn
nhiều tranh luận về độ chính xác của phương pháp này nhưng độ chính xác được báo cáo bởi
các nghiên cứu dường như có thể chấp nhận được về mặt lâm sàng. Vấn đề lớn là làm thế nào
các tệp này được chồng chính xác lên nhau [22].
Việc sử dụng nĩa quét khuôn mặt là một cách đáng tin cậy để xác định không gian vị trí
hàm trên khi quét khuôn mặt, giống như cung mặt xác định việc chuyển lên giá khớp bán điều
chỉnh. Chiếc nĩa có thể được thiết kế và in trên máy in 3D. Trong thẩm mỹ và phục hình răng,
quét khuôn mặt được sử dụng để xác định toàn bộ phân tích thẩm mỹ nha khoa dựa trên khuôn
mặt, chẳng hạn như vị trí răng lý tưởng, các phần giải phẫu của khuôn mặt và cấu hình mô
mềm. Trong nha chu, rất hữu ích để xác định tỷ lệ chính xác của mô và răng trong trường hợp
kéo dài thân răng lâm sàng. Trong nha khoa cấy ghép, quét khuôn mặt có thể được sử dụng để
cung cấp một kế hoạch phục hồi chức năng cho bệnh nhân mất răng một phần và toàn bộ.
2.1.4.2 Quy trình từng bước
Sử dụng ứng dụng thiết bị di động
Quy trình từng bước sau đây sử dụng một ứng dụng (được minh họa ở đây bằng ứng dụng
FaceApp) chạy trên thiết bị điện thoại di động Apple iPhone XR (Cupertino, CA). Với điện
thoại di động như iPhone X hoặc cao cấp hơn, có thể quét khuôn mặt bằng ứng dụng sử dụng
camera của thiết bị di động để chụp ảnh và hiển thị chúng thành mô hình tái tạo 3D [28]. Các
tệp được quét về cơ bản có thể được xuất ở ba định dạng: STL, PLY và OBJ. Quá trình quét
miễn phí nhưng để xuất tệp quét, bạn phải trả phí.
1) Cài đặt Bellus3D FaceApp trên thiết bị di động của bạn.
2) Đảm bảo rằng đối tượng có thể quay đầu 90° về phía bên trái và bên phải.
3) Khởi chạy ứng dụng FaceApp và chọn tùy chọn quét khuôn mặt mong muốn.
4) Thực hiện theo hướng của ứng dụng, định vị điện thoại ngay trước mặt ở một khoảng cách
làm cho hình bầu dục màu đỏ chuyển sang màu xanh lục. Khi hình bầu dục chuyển sang màu
xanh lục, hãy nhấn nút màu trắng ở cuối màn hình điện thoại để bắt đầu quá trình quét.
5) Ứng dụng sẽ yêu cầu xoay 90° sang trái, sau đó quay lại giữa, 90° sang phải, rồi quay lại
giữa. Nếu chế độ quét “MẶT + CỔ” (Face+ neck) hoặc “TOÀN BỘ ĐẦU” (Full head) được
chọn, ứng dụng cũng sẽ nhắc nghiêng đầu lên và xuống trong quá trình (Hình 2.18).
6) Sau khi quá trình quét hoàn tất, ứng dụng sẽ ghép các phối cảnh khác nhau lại với nhau để
tạo thành mô hình 3D (Hình 2.19). Bạn sẽ có tùy chọn lưu bản quét và/hoặc xuất nó ở một
trong các định dạng tệp 3D được hỗ trợ (OBJ, GLB hoặc STL; Hình 2.20). Một khoản phí áp
dụng cho mỗi hình ảnh 3D được xuất.

Hình 2.18 Quy trình quét khuôn mặt với ứng dụng dành cho thiết bị di động.
Hình 2.19 Bên trái: ảnh chụp màn hình phần mềm Bellus3D sau khi hoàn thành quá trình quét
khuôn mặt. Phải: ảnh chụp màn hình phần mềm Meshmixer hiển thị cấu trúc lưới của tệp STL
thu được.

Hình 2.20 Máy quét khuôn mặt clOner (Done3D, Ribeirão Preto, Brazil).

Sử dụng thiết bị quét khuôn mặt độc lập


Trái ngược với các ứng dụng quét khuôn mặt dành cho thiết bị di động, máy quét khuôn mặt
độc lập là thiết bị vật lý chỉ dành riêng để chụp ảnh 3D và xuất chúng dưới dạng dữ liệu 3D
như tệp STL hoặc OBJ (Hình 2.20). Quy trình này thường nhanh hơn và dễ dàng hơn so với
việc sử dụng các thiết bị di động. Một trong những lý do cho điều này là số lượng máy ảnh có
sẵn để chụp ảnh khuôn mặt cùng một lúc. Mặt khác, các thiết bị này tương đối nặng, do đó
cung cấp tính di động hạn chế. Các hình ảnh có thể được xuất ở các định dạng khác nhau (chủ
yếu là STL và OBJ) sang chương trình phần mềm CAD, được sử dụng cho mục đích lập kế
hoạch điều trị nha khoa.

Máy quét khuôn mặt tích hợp với thiết bị CBCT


Một số thiết bị CBCT đang được phát triển để cung cấp các giải pháp như quét toàn cảnh và
quét khuôn mặt tích hợp. Điều này dẫn đến khả năng chụp ảnh nhanh, dễ dàng tích hợp và
chồng các hình ảnh 3D khác nhau để tạo ra bệnh nhân ảo. Một ví dụ là thiết bị X1 (3Shape
A/S), đi kèm với các tính năng quan trọng khác như hiệu chỉnh chuyển động và kích thước
điểm ảnh ba chiều từ 75μm. Một ưu điểm quan trọng khác là các thiết bị này cũng hoạt động
với cả tệp DICOM và STL, tạo điều kiện thuận lợi cho việc kết hợp và phân tích các tệp đó.

2.1.5 Chụp ảnh lâm sàng

Chụp ảnh lâm sàng là một công cụ thiết yếu được phát triển để thực hành nha khoa thành công.
Chụp ảnh thích hợp kết hợp với chẩn đoán kỹ lưỡng cho phép bạn lập kế hoạch, thực hiện, lập
hồ sơ và lưu trữ các trường hợp lâm sàng dễ dàng hơn nhiều [29]. Cuộc cách mạng kỹ thuật số
mà chúng ta đang trải qua đã mang lại hiệu quả cao hơn trong lĩnh vực của mình, cải thiện khả
năng giao tiếp giữa các chuyên gia nha khoa và bệnh nhân. Có rất nhiều ứng dụng cho việc sử
dụng ảnh kỹ thuật số trong thực hành nha khoa [29, 30].
- Chẩn đoán, lập kế hoạch điều trị và lưu trữ các trường hợp: chụp ảnh, nếu được thực hiện
một cách chuẩn hóa, là vô giá trong quá trình chẩn đoán và lập kế hoạch. Hình ảnh sắc nét đến
từng chi tiết và hiển thị các điểm cụ thể sẽ được phân tích bởi bác sĩ lâm sàng hoặc chuyên gia.
- Tài liệu pháp lý: các hình ảnh ghi lại các điều kiện trước khi điều trị, ngoài việc theo dõi các
thay đổi và hoàn thành các điều trị đã thỏa thuận. Điều cần thiết là chuyên gia thu thập hình
ảnh để làm tài liệu, luôn được hỗ trợ bởi sự cam kết đồng ý của bệnh nhân sau khi đã được giải
thích và hiểu rõ.
- Tài liệu pháp y: nhận dạng hài cốt người, phân tích hài cốt và chấn thương liên quan đến răng
có thể hỗ trợ cung cấp độ chính xác và khả năng tái tạo chi tiết.
- Liên lạc với phòng lab: các bức ảnh cho phép truyền đạt một cách nhanh chóng và chuẩn hóa
về các đặc điểm giải phẫu. Kết hợp màu sắc cũng là một bước cơ bản mà chúng ta có thể thu
được lợi ích từ việc chụp ảnh.
- Một công cụ đa ngành: chụp ảnh có thể giúp bác sĩ lâm sàng hướng dẫn bác sĩ chuyên khoa
trong một trường hợp cụ thể.
- Giáo dục và động viên bệnh nhân: các bức ảnh kỹ thuật số định kỳ về tình trạng lâm sàng của
bệnh nhân có thể cung cấp minh họa trực quan về quá trình bệnh (sâu răng, viêm nướu, viêm
nha chu).
- Tiếp thị là giao tiếp: nhiếp ảnh là một công cụ giao tiếp mạnh mẽ, vì một hình ảnh có thể thể
hiện những cảm xúc hoặc tình huống khác nhau. Thị trường ngày càng có nhiều tranh cãi và
việc sử dụng các bức ảnh là một cách để quảng bá công việc của bạn cho các bệnh nhân khác.
Tuy nhiên, chúng ta phải luôn tôn trọng quy tắc đạo đức nghề nghiệp và bệnh nhân phải cho
phép sử dụng hình ảnh.

Chụp ảnh nha khoa đòi hỏi kiến thức cơ bản về các nguyên tắc chụp ảnh chung, nhưng
thiết bị và quy trình làm việc phù hợp cho mục đích đề xuất cũng không kém phần cần thiết.
Cần có ít nhất ba loại thiết bị để lắp ráp một bộ phù hợp để chụp ảnh nha khoa: đèn
nháy macro (tròn hoặc đôi), ống kính macro và thân máy ảnh (Hình 2.21). Ngoài ra, một số
chuyên gia có thể thích thiết lập một phòng chụp ảnh, sử dụng đèn flash làm đẹp hoặc hộp
mềm, chất lượng kém hơn so với đèn flash đôi hoặc đèn flash tròn nhưng có thể là một tùy
chọn để có những bức ảnh nghệ thuật hơn. Một lựa chọn khác gần đây là sử dụng điện thoại
thông minh có camera độ phân giải cao, luôn được hỗ trợ bởi phụ kiện chiếu sáng chẳng hạn
như đèn flash tròn loại “ring-light”, đây là những lựa chọn tiết kiệm nhưng giảm chất lượng
một chút.
- Đèn nháy tròn (Circular flash): đèn nháy tròn là lựa chọn tuyệt vời cho những ai muốn thực
tế khi chụp ảnh vì nó không yêu cầu điều chỉnh để thay đổi tỷ lệ ánh sáng.
- Đèn nháy kép (Twin flash): đèn nháy kép là tùy chọn chiếu sáng chi tiết hơn và có thể có hai
loại – có dây hoặc không dây. Nó được chỉ định cho nha khoa thẩm mỹ do khả năng chụp ảnh
chính xác.
- Ống kính macro (Macro lens): trong nha khoa chúng tôi sử dụng vật kính macro (ống kính)
có tiêu cự cố định 100 mm đối với Canon hoặc 105 mm đối với Nikon. Chúng có tính năng
khuyến mãi 1:1 tái tạo hình ảnh kích thước đầy đủ mà hầu như không bị biến dạng.
- Thân máy ảnh (Camera body): các kiểu máy cấp thấp có hệ thống DSLR là phù hợp nhất do
chi phí thấp và khả năng chụp ảnh chất lượng cao. Máy ảnh DSLR hoặc hệ thống phản xạ sử
dụng gương để tái tạo hình ảnh và phần lớn có màn hình hiển thị ở mặt sau, nơi người dùng có
thể điều chỉnh các thông số cơ bản.
Để đơn giản hóa việc áp dụng các nguyên tắc chụp ảnh trong nha khoa, chúng ta phải
hiểu những điều cơ bản để biết cách thiết lập máy ảnh.
- Khẩu độ của màng chắn (Aperture of the diaphragm): giá trị này được hiển thị là “f” và
thường thay đổi từ 2,8 đến 32. Con số này càng thấp, khẩu độ càng rộng và hình ảnh sẽ càng
sáng. Các giá trị “f” thường sẽ khác nhau giữa các bức ảnh chụp khuôn mặt và chụp trong
miệng.
- Tốc độ màn trập (Shutter speed): tốc độ này kiểm soát lượng ánh sáng chiếu vào cảm biến
trong mỗi bức ảnh.
- ISO (Tổ chức Tiêu chuẩn hóa Quốc tế) đề cập đến tiêu chuẩn về độ nhạy của cảm biến kỹ
thuật số liên quan đến việc thu thập ánh sáng. ISO có thể thay đổi từ 100 đến 3200 và ISO càng
thấp thì ảnh càng tối nhưng ảnh càng sạch; ISO càng cao thì ảnh càng sáng nhưng nhiễu hạt
càng nhiều. Bạn nên sử dụng ISO trong khoảng từ 100 đến 200.
- Cân bằng trắng (White balance WB): được sử dụng để kiểm soát mức độ trắng nhằm thu
được màu sắc chân thực trong ảnh. Lý tưởng nhất là không bao giờ để WB ở chế độ tự động.

Hình 2.21 1 Thân máy ảnh Canon DSLR. 2 ống kính macro 10 mm. 3 Đèn flash tròn. 4 Đèn
nháy kép. 5 Đèn nháy. 6 bộ chuyển đổi đèn flash làm đẹp đĩa tốc độ ánh sáng. 7 Đèn flash hộp
mềm. 8 Mẫu smartphone có camera độ phân giải cao. 9 Mẫu đèn flash để chụp ảnh với điện
thoại di động có đèn vòng.

Các thông số thường được sử dụng (luôn đặt máy ảnh ở chế độ thủ công) là:
- Chương trình máy ảnh – M hoặc thủ công
- ISO–100
- Tốc độ – 1/125
- Khẩu độ (f) – nằm trong khoảng từ 8 đến 22–32
- Cân bằng trắng (WB) – ánh sáng ban ngày hoặc 5260 và 5500 K
- Chất lượng hình ảnh – JPEG LARGE (L)
- Lấy nét ống kính – tự động (af)
- Phong cách hình ảnh trung tính.

Một công cụ quan trọng để hỗ trợ độ chính xác của ảnh là histogram (biểu đồ) (Hình
2.22). Biểu đồ trong nhiếp ảnh rất cần thiết cả khi chụp ảnh và trong quá trình hậu kỳ ảnh. Nó
không gì khác hơn là một biểu đồ định lượng độ sáng của một bức ảnh. Điều này giúp bạn tìm
thấy độ phơi sáng tốt nhất cho ảnh của mình. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng không có biểu đồ lý
tưởng. Điều này là do một số ảnh có thể có tông màu trung bình (phím trung bình), tông sáng
(phím cao) hoặc tông tối (phím thấp) chiếm ưu thế, chẳng hạn, điều này làm thay đổi cách đọc
biểu đồ.
Vì vậy, ở phía bên phải của biểu đồ trong bức ảnh, bạn sẽ tìm thấy các vùng sáng, ở
giữa, các tông màu trung tính và ở phía bên trái, các tông màu tối.
Để chụp ảnh phù hợp với yêu cầu lập kế hoạch đa dạng trong nha khoa, chúng ta phải
sử dụng các phụ kiện như banh má môi và gương (Hình 2.23).

Hình 2.22 Trái: Chụp ảnh thiếu sáng. Giữa: Chụp ảnh phơi sáng cân bằng. Đúng: Chụp ảnh
phơi sáng quá mức. Biểu đồ

- Dụng cụ banh môi má: cần thiết trong quá trình chụp ảnh khớp cắn để phân tích bề mặt khớp
cắn và vị trí không gian của các thành phần trong cung hàm; cần thiết trong lập kế hoạch chỉnh
nha, phục hình và phẫu thuật.
- Khí cụ “V”: dùng để chụp khớp cắn để đánh giá các răng sau.
- Dụng cụ banh môi “U”: dùng để chụp ảnh trong miệng phía trước và khi cử động hàm dưới.
- Gương trong miệng: để chụp ảnh khớp cắn và chụp nghiêng.
- Nền đen được sử dụng rộng rãi khi phối màu hoặc khi chụp ảnh để lập kế hoạch phục hồi
thẩm mỹ.
Hình 2.23 1 Dụng cụ banh môi má. 2 bộ banh chữ “V”. 3 banh chữ “U”. 4 Gương để chụp
ảnh bị che hoặc bên. 5 Nền đen.
Giao thức chụp ảnh được sử dụng trong quy trình làm việc kỹ thuật số trong nha khoa
yêu cầu tổng cộng tối thiểu 17 bức ảnh: sáu bức ảnh khuôn mặt (Hình 2.24 và 2.25), hai bức
ảnh nụ cười và chín bức ảnh trong miệng (Hình 2.26–2.29). Bệnh nhân tốt nhất là nên ngồi trên
đế xoay để chụp ảnh ở góc 45° và 90°. Một môi trường sạch sẽ không có nhiễu ánh sáng lớn
bên ngoài cũng cần thiết [29].
Hình ảnh khuôn mặt nên cung cấp cho bác sĩ lâm sàng một cái nhìn tổng quan về mối
quan hệ của cấu trúc khuôn mặt của bệnh nhân với sự sắp xếp nha khoa. Các bức ảnh khuôn
mặt có nụ cười sẽ giúp ích trong quá trình lập kế hoạch, dù là thẩm mỹ hay chức năng và khi
sử dụng các phương pháp như DSD hoặc SmileCloud để mô phỏng nụ cười hoặc thậm chí
trong phần mềm tẩy lông chẩn đoán.
Việc sử dụng giao thức được trình bày ở trên sẽ cho phép bác sĩ lâm sàng thực hiện lập
kế hoạch khắc phục, sử dụng phần mềm mô phỏng và chẩn đoán kỹ thuật số, ngoài việc tăng
giá trị gia tăng của quy trình, cải thiện giao tiếp với bệnh nhân và với phòng thí nghiệm; nó
cũng có thể giao tiếp với một nhóm đa ngành. Vì thế, đầu tư vào thiết bị chụp ảnh như máy ảnh
DSLR, ống kính macro 100 mm và đèn flash tròn hoặc hộp mềm sẽ giúp ích rất nhiều trong
quá trình thực hành lâm sàng, mang lại khả năng dự đoán và độ chính xác.

Hình 2.24 Hình ảnh ban đầu của bệnh nhân khi nghỉ (trái) và mỉm cười (phải).
Hình 2.25 Ảnh 45° và 90° cho bên phải và bên trái.

Hình 2.26 Chụp với môi ở tư thế nghỉ để đánh giá độ lộ của răng cửa giữa, chụp với tư thế nụ
cười không chạm vào răng và chụp với dụng cụ banh môi hình chữ U không có tiếp xúc răng
để đánh giá sự tương quan giữa các cung răng.
Hình 2.27 Chụp ảnh với banh môi MIC cùng với đánh giá về khớp cắn phải và trái và cắn
sâu ở trung tâm

Hình 2.28 Ảnh có cử động hàm dưới, đưa ra trước (trên), đưa sang bên phải và bên trái

2.1.6 Chụp cộng hưởng từ

Chụp cộng hưởng từ (MRI) là một kỹ thuật 3D có độ tương phản mô mềm tuyệt vời, là một
quy trình không xâm lấn và quan trọng nhất là không sử dụng bức xạ ion hóa. Hình ảnh MR
được hình thành từ các tín hiệu tần số vô tuyến được tạo ra từ hạt nhân của các nguyên tử hydro,
có thể tìm thấy trong nước và xương trong protein nền, nước và chất béo trong tủy xương [31].
Khi không có từ trường, các hạt nhân hydro định hướng ngẫu nhiên nhưng khi chúng được đặt
trong từ trường mạnh, chúng thẳng hàng và bắt đầu tiến động (precession). Việc áp dụng xung
tần số vô tuyến gây ra sự sắp xếp tạm thời của các proton so với trường. Sau xung, các proton
thư giãn trở lại trạng thái ban đầu của chúng trong từ trường. Một cuộn dây bên trong máy chụp
cộng hưởng từ ghi lại cường độ tín hiệu, cường độ và tốc độ giải phóng năng lượng xảy ra khi
quay trở lại vị trí thẳng hàng ban đầu (thời gian giãn T1) và dao động (tiến động) của các proton
trong suốt quá trình (thời gian giãn T2). ).
Do môi trường khác nhau xung quanh hạt nhân hydro và nồng độ tổng thể của hạt nhân
hydro, các mô khác nhau có T1 và T2 khác nhau. Trên các hình ảnh T1W, mỡ xuất hiện sáng
(cường độ cao), trong khi trên các hình ảnh T2W, chất béo xuất hiện tương đối tối (giảm tín
hiệu). Ngược lại, nước và chất lỏng xuất hiện tương đối tối trên ảnh có trọng số T1 và sáng trên
ảnh có trọng số T2. Hình ảnh T1W cho thấy giải phẫu của mô mềm và chất béo và hình ảnh
T2W cho thấy chất lỏng và bệnh lý (khối u, viêm, chấn thương). Do đó, điều quan trọng là phải
có cả hình ảnh T1W và T2W để cung cấp thông tin bổ sung.
So sánh MRI với CBCT và CT, MRI có một số nhược điểm. Nó đòi hỏi nhiều thời gian
hơn để thu được hình ảnh so với CBCT và CT. Một số kim loại sắt từ có thể ảnh hưởng xấu
đến chất lượng hình ảnh do từ trường bị biến dạng, mặc dù sự biến dạng hình ảnh này chỉ giới
hạn trong khu vực của vật liệu và không ảnh hưởng đến implant titan [32].

Hình 2.29 Hình ảnh hàm trên và hàm dướ sử dụng banh chữ U và gương trong miệng.

2.1.6.1 Các yếu tố ảnh hưởng chất lượng MRI


Việc lựa chọn giao thức hình ảnh chính xác là khía cạnh quan trọng nhất để kiểm soát chất
lượng MRI; mỗi quy trình lâm sàng cụ thể cần có sự thu nhận đối với từng chi tiết (độ mờ),
tiếng ồn và thời gian thu nhận. Chất lượng hình ảnh (độ phân giải không gian, độ phân giải
tương phản) chịu ảnh hưởng trực tiếp của từ trường. Hình ảnh MR được đo bằng cường độ của
nam châm, tính bằng đơn vị tesla (T). Tesla càng cao, nam châm càng mạnh. Phần lớn MRI
lâm sàng là 1,5 T hoặc 3 T, nhưng cũng có những T cao hơn, ví dụ 7 T, 9 T, 11 T và 15T [33].
Chất lượng của hình ảnh MR không chỉ phụ thuộc vào số lượng tesla; 3T có thể tốt hơn 1,5 T
nhưng nó cũng phụ thuộc vào cuộn dây và việc sử dụng đúng giao thức.
Tỷ lệ tín hiệu trên tạp âm (SNR) là thứ phát ra từ cơ thể bệnh nhân trong quá trình kiểm
tra và được thu nhận bởi các cuộn dây đặt gần bộ phận được tạo ảnh. Chất lượng hình ảnh tăng
tỷ lệ thuận với SNR. Các hệ thống MRI trường cao có thể dẫn đến SNR cao hơn và cho phép
thu được với độ phân giải không gian cao hơn. Tuy nhiên, các bản quét có độ phân giải cao có
thể yêu cầu thời gian chụp lâu, điều này có thể làm tăng sự khó chịu cho bệnh nhân và tạo ra
nhiều nguy cơ di chuyển hơn [34].
Khi có nhiều nhiễu trong ảnh, chất lượng sẽ thấp hơn vì nó làm giảm khả năng hiển thị
của các đối tượng tương phản và sự khác biệt giữa các mô. Hầu hết nhiễu trong hình ảnh MR
là kết quả của một dạng năng lượng RF ngẫu nhiên từ cơ thể bệnh nhân. Chúng ta có thể kiểm
soát lượng tiếng ồn từ cơ thể bệnh nhân bằng cách chọn các đặc điểm thích hợp của cuộn thu
RF nhưng lượng tiếng ồn từ cơ thể bệnh nhân thường tăng theo cường độ trường, do điều chỉnh
băng thông cho các trường cao hơn. Băng thông là phạm vi tần số (RF) mà máy thu được quy
định để nhận. Khi băng thông được tăng lên, điều này làm giảm hiện tượng dịch chuyển hóa
học nhưng nhiều nhiễu hơn sẽ đi vào máy thu.
Chi tiết trong MRI được xác định bởi kích thước của các điểm ảnh ba chiều của mô và
các pixel hình ảnh tương ứng. Kích thước của một voxel được xác định bởi tỷ lệ của trường
nhìn (FOV) và kích thước của ma trận. Nếu tăng kích thước điểm ảnh ba chiều để giảm nhiễu,
thì độ mờ sẽ tăng lên. Do đó, kích thước điểm ảnh ba chiều phải được chọn chính xác để mang
lại sự cân bằng thích hợp giữa mờ và nhiễu. FOV hình ảnh nhỏ hơn và voxels nhỏ hơn tạo ra
khả năng hiển thị chi tiết tốt hơn. Mức nhiễu xuất hiện trong ảnh phụ thuộc vào tỷ lệ cường độ
tín hiệu từ các điểm ảnh ba chiều riêng lẻ và cường độ nhiễu đến từ một vùng trên cơ thể bệnh
nhân. Tiếng ồn có thể nhìn thấy được giảm bằng cách tăng cường độ tín hiệu. Điều này có thể
được thực hiện bằng cách tăng cường độ từ trường, tăng kích thước voxel, tăng TR và giảm TE
[35].
Độ tương phản có thể được kiểm soát bởi thời gian lặp lại (TR) và thời gian phản hồi
(TE). Khi giảm TR để giảm thời gian thu nhận hình ảnh, nhiễu hình ảnh có thể tăng lên. Và khi
sử dụng TE dài, điều này cũng có thể làm tăng nhiễu hình ảnh.

2.1.6.2 Phân tích MRI giải phẫu mô mềm


Trong nha khoa, MRI được sử dụng rộng rãi như một phương pháp chính xác để đánh giá hình
ảnh mô mềm của các cấu trúc sọ mặt. Ví dụ, nó được sử dụng để kiểm tra tuyến nước bọt, khối
u mô mềm, xoang hàm trên và đặc biệt là khớp thái dương hàm.
Một ứng dụng MRI có thể được sử dụng theo nhiều cách khác nhau trong nha khoa kỹ
thuật số là đánh giá giải phẫu mô mềm. Tiến sĩ Shumei Murakami và các cộng tác viên hiện
đang nghiên cứu quá trình phát triển bình thường của từng cơ quan và mô ở vùng miệng và
hàm mặt bằng cách sử dụng dữ liệu MRI dọc trong thời thơ ấu [36, 37]. Là một phần của quá
trình này, dữ liệu trích xuất bán tự động cơ cắn, tuyến dưới hàm và tuyến mang tai và hiển thị
chúng ở dạng ba chiều bằng cách phân đoạn. Để phân đoạn, phần mềm hình ảnh y tế (Analyze
12.0) đã được sử dụng (Hình 2.30 và 2.31).
Hình 2.30 cho thấy các đường phân chia của tuyến mang tai (màu vàng), cơ cắn (màu
đỏ) và tuyến dưới hàm (màu xanh). Ngoài ra, một mô hình 3D đã được tạo ra từ những hình
ảnh này và chồng lên hộp sọ được chụp bằng CT (Hình 2.31). Đối với mô hình 3D, phần mềm
hình ảnh y tế (Osirix MD, Pixmeo) đã được sử dụng. Sử dụng phương pháp này, chúng ta có
thể kiểm tra những thay đổi theo thời gian về thể tích và vị trí trọng tâm của từng cơ quan hoặc
mô.
Một trong những nhược điểm của MRI là thời gian tạo ảnh lâu. Tuy nhiên, những tiến
bộ về phần cứng và phần mềm trong thiết bị MRI đã giúp có thể thu được hình ảnh cắt ngang
trong 0,1 giây.

2.1.6.3 Chẩn đoán các tổn thương mô mềm với MRI


Do độ tương phản cao giữa các mô mềm, MRI thường được sử dụng để chẩn đoán các tổn
thương ung thư ở mô mềm. Ví dụ, trong các khối u của tuyến nước bọt (Hình 2.32) và ung thư
biểu mô tế bào vảy ở lưỡi (Hình 2.33), chụp cộng hưởng từ rất hiệu quả [38].
Không giống như CT, MRI không có giá trị điểm ảnh ba chiều tuyệt đối tương đối. Do đó, rất
khó để tự động trích xuất hoặc chọn (phân đoạn) một bệnh mục tiêu chẳng hạn như khối u. Tuy
nhiên, nếu giá trị voxel giữa mục tiêu và mô bình thường xung quanh khác biệt đáng kể, thì
mục tiêu có thể được phân đoạn bán tự động.
Hình 2.30 Phân đoạn mục tiêu. Sau khi đặt con trỏ ở rìa giữa mục tiêu và mô xung quanh ở
chế độ phân đoạn bán tự động, đường viền sẽ tự động được tạo (màu vàng; tuyến mang tai,
màu đỏ: cơ cắn, màu xanh lam: tuyến dưới hàm).

Hình 2.31 Mô hình 3D. Sáu cơ quan (ba cặp) được hiển thị ba chiều từ sự phân đoạn trong
Hình 2.30. Một mô hình 3D của hộp sọ được tạo ra từ dữ liệu CT.
Hình 2.32 U lành tuyến nước bọt. Trái: Một trường hợp u tuyến đa hình ở tuyến dưới hàm.
Trình tự MRI được sử dụng là spin-echo T1-weighted (TR: 350, TE: 8). Đây là cái gọi là tìm
quả bóng trong tay. Phải: Một trường hợp u lympho ác tính ở tuyến dưới hàm. Trình tự MRI
có trọng số T2 spin-echo nhanh (TR: 3600, TE: 120, ETL: 16). Khối u là xâm lấn. Tuyến dưới
hàm liền kề không di lệch và không nhìn thấy đường viền.

Hình 2.33 Chẩn đoán ung thư lưỡi bằng MRI. Trái: Một trường hợp ung thư biểu mô tế bào
vảy ở lưỡi. Trình tự MRI được sử dụng có trọng số T2 spin-echo nhanh (TR: 3600, TE: 120,
ETL: 16) với sự ức chế chất béo. Phải: Một trường hợp ung thư biểu mô niêm mạc ở lưỡi. Trình
tự MRI được sử dụng có trọng số T2 spin-echo nhanh (TR: 3600, TE: 120, ETL: 16) với sự ức
chế chất béo.

2.1.6.4 Phân tích khớp thái dương hàm


Chụp cộng hưởng từ thường được áp dụng để chẩn đoán rối loạn thái dương hàm do mô tả rõ
đĩa khớp tại khớp thái dương hàm [39, 40]. Vì không có phơi nhiễm phóng xạ khi kiểm tra
MRI, nên có thể chụp lại hình ảnh và nó không chỉ được sử dụng để chẩn đoán trước khi điều
trị mà còn để xác nhận sau khi điều trị.

2.1.6.5 Phân tích MRI cấu trúc xương


Các nghiên cứu đã chứng minh rằng MRI có thể phát hiện sâu răng, bệnh lý tuỷ/quanh chóp,
tổn thương trong ống thần kinh hàm dưới, răng hàm thứ ba hàm dưới mọc ngầm và những thay
đổi sớm của xương. Gần đây, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng MRI cũng có thể được sử dụng
để lập kế hoạch cấy ghép, cho thấy mối tương quan chặt chẽ với các phép đo được thực hiện
với CBCT [41].
Trước đây, người ta cho rằng MRI không thể được sử dụng để phân tích mô xương, vì
nó không thể tái tạo hình ảnh trực tiếp từ thành phần khoáng chất của xương mà phải từ hình
ảnh của chất lỏng trong hoặc xung quanh xương (nước, chất béo và mô tạo máu). Điều này là
do xương chủ yếu bao gồm canxi hydroxyapatite, chỉ có một proton không di chuyển. Trên
MRI, xương xuất hiện dưới dạng hình ảnh giảm cường độ (màu đen), do thời gian phân hủy
rất ngắn và tín hiệu tối thiểu, trong khi chất lỏng xuất hiện dưới dạng cường độ cao (màu trắng).
Tuy nhiên, các kỹ thuật khác để phân tích xương đã được phát triển với kết quả tốt, chẳng hạn
như sử dụng “xương đen” và phốt pho-31 ở trạng thái rắn.
MRI xương đen sử dụng TR ngắn và TE ngắn kết hợp với góc lật thấp, tăng cường ranh
giới mô mềm xương bằng cách giảm thiểu tín hiệu trả về từ các mô để thể hiện giao diện mô-
xương. Nó dẫn đến độ tương phản hình ảnh cao giữa xương và mô mềm. Trong trường hợp
này, xương xuất hiện dưới dạng cường độ tín hiệu tối. Cách tiếp cận này còn được gọi là UTE
hoặc TE siêu ngắn. Kỹ thuật này cho phép phân đoạn xương để tạo ra hình ảnh tái tạo 3D của
xương sọ và các mô hình giải phẫu in 3D [42–44].
MRI trạng thái rắn Photpho-31 (31P) tạo ra hình ảnh 3D định lượng về sự phân bố phốt
pho trong mô bằng phép đo trực tiếp. 31P là một thành phần quan trọng của chất khoáng xương,
hoạt tính NMR và có động lượng góc quay hạt nhân. So sánh 31P và 1H, 31P yêu cầu một bộ
cuộn dây RF và bộ khuếch đại riêng được điều chỉnh theo tần số cộng hưởng thấp hơn này. Độ
nhạy hạt nhân và nồng độ của các chất chuyển hóa 31P thấp hơn 1H, dẫn đến tín hiệu yếu hơn.
Tuy nhiên, ngay cả ở 1,5 T, có thể đạt được phổ photpho chất lượng tốt với các đỉnh tương đối
sắc nét [45–47].

2.1.6.6 Tái tạo hình ảnh 3 chiều từ MRI

Sau khi kiểm tra, hình ảnh MR được lưu trữ ở định dạng được gọi là DICOM. Định dạng
DICOM đảm bảo rằng thông tin bệnh nhân và dữ liệu hình ảnh luôn ở cùng nhau và cung cấp
khả năng truyền thông tin đó giữa các thiết bị hỗ trợ định dạng DICOM. Sau khi thu thập dữ
liệu từ MRI, các tệp DICOM được chuyển sang phần mềm CAD để thao tác và xử lý dữ liệu,
và cuối cùng, dữ liệu được xử lý có thể được sử dụng để chế tạo cấu trúc thông qua sản xuất
có sự trợ giúp của máy tính – in 3D. Có nhiều chương trình phần mềm CAD và máy in 3D
khác nhau, mỗi loại có chất lượng và đặc điểm khác nhau.
Nhiều nghiên cứu điều tra dữ liệu CBCT và CT, sử dụng tệp DICOM của chúng để xuất
hình ảnh bệnh nhân, sử dụng dữ liệu thể tích và hỗ trợ lập kế hoạch ảo kết hợp với phần mềm
CAD-CAM. MRI rất hữu ích cho việc tái tạo 3D và in 3D và do đó cũng có thể được kỳ vọng
là sẽ ngày càng hữu ích trong các quy trình công việc kỹ thuật số cho nha khoa.

2.1.6.7 Nghiên cứu quy trình làm việc kỹ thuật số sử dụng MRI

3D MRI để lập kế hoạch cấy ghép và hướng dẫn phẫu thuật


Các nghiên cứu đã chứng minh rằng MRI có thể được sử dụng trong quy trình làm việc kỹ
thuật số để hỗ trợ lập kế hoạch cấy ghép và tái tạo 3D của hướng dẫn phẫu thuật. Hầu hết các
nghiên cứu này đã sử dụng máy chụp cộng hưởng từ 3T và cho thấy rằng có thể thực hiện phẫu
thuật cấy ghép có hướng dẫn dựa trên việc so sánh quét bề mặt với máy chụp cộng hưởng từ
và in một mẫu được thiết kế ảo với độ chính xác. Cũng có thể cung cấp thông tin chẩn đoán
thông qua hình ảnh trực tiếp của các mô mềm như dây thần kinh xương ổ răng dưới [48]. Ví
dụ, Mercado et al. đã sử dụng máy quét trong miệng, MRI và CBCT, và những hình ảnh này
được DICOM trích xuất, ăn khớp và tải lên phần mềm lập kế hoạch cấy ghép (coDiagnostiX)
[49]. Một nghiên cứu khác đã đánh giá khả năng di chuyển của vị trí cấy ghép được lên kế
hoạch ảo bằng cách sử dụng MRI; độ lệch giữa vị trí cấy ghép dự kiến và vị trí cấy ghép cuối
cùng đã được nghiên cứu và kết quả được chấp nhận cho ứng dụng lâm sàng [50].

MRI 3D để tái tạo răng


Chụp cộng hưởng từ đã được sử dụng để phát triển tái tạo răng; một nghiên cứu đã điều tra độ
chính xác của việc tái tạo bề mặt răng ở những bệnh nhân đã phục hồi răng và được chỉ định
cấy ghép nha khoa. Cả CBCT và MRI đều được đánh giá bằng cách so sánh với các mô hình
đá số hóa. So sánh CBCT và MRI, CBCT là kỹ thuật hình ảnh chính xác và đáng tin cậy hơn
đối với bề mặt răng in vivo nhưng MRI cũng cho phép tái tạo bề mặt răng với độ chi tiết thỏa
đáng và trong thời gian thu nhận có thể chấp nhận được [51].

3D MRI trong điều trị nội nha


Chụp cộng hưởng từ được sử dụng để lập kế hoạch ảo trong điều trị nội nha. Một nghiên cứu
của Drăgan et al. đã sử dụng máy chụp cộng hưởng từ 7.04 T và phần mềm InVesalius được sử
dụng để tái tạo 3D khối lượng răng được quét. Họ chỉ ra rằng chụp cộng hưởng từ có độ phân
giải cao cho phép quan sát rõ ràng giải phẫu răng và ống tuỷ chân răng [52].

3D MRI để tái tạo mô hình


Trong một nghiên cứu của Chen và các cộng sự, họ đã tạo ra một mô hình vòm miệng mềm
3D bằng cách sử dụng dữ liệu 3T MRI. Các tệp DICOM MRI đã được chuyển mã sang định
dạng Phân tích 7.5 bằng MRI Convert để chúng có thể được thao tác trong nhiều phần mềm
mô hình 3D. Mô hình 3D thu được đã tạo ra một bản trình diễn mô hình dành riêng cho bệnh
nhân cho các quyết định lâm sàng và các mục đích liên quan đến giáo dục [53]. Một nghiên
cứu khác có mục tiêu sử dụng bộ dữ liệu MRI có độ phân giải cao để phục vụ như một ấn tượng
kỹ thuật số về răng người. Hai răng đã sửa soạn được đo bằng máy MRI 1.5T. Từ dữ liệu MRI
thu được, một mô hình được xây dựng để mô tả bề mặt của răng trong bộ dữ liệu 3D, phục vụ
cho việc chế tạo CAD-CAM một phần răng giả cố định. Dữ liệu MRI đã đạt được đầy đủ để
cho phép chế tạo phục hồi răng [54].
Một nghiên cứu khác đã chứng minh tính khả thi của các mô hình 2D và 3D dựa trên
sự kết hợp hình ảnh CT-MRI để hình dung các khối u hàm. Cả dữ liệu hình ảnh CT và MRI
1.5T trước phẫu thuật đều được thu thập ở định dạng DICOM và được nhập vào phần mềm
Surgicase CMF. Sau đó, các cấu trúc được phân đoạn và tái tạo lại trong kết cấu 3D. Các hình
ảnh 2D và mô hình 3D thu được cung cấp một công cụ mạnh mẽ để hình dung các khối u hàm.
Phương pháp này có thể giúp các bác sĩ phẫu thuật lập kế hoạch trước phẫu thuật, mô phỏng
phẫu thuật và hướng dẫn phẫu thuật cho các khối u hàm [55].

2.2 Sử dụng phần mềm

2.2.1 Các loại phần mềm sử dụng trong CAD

2.2.1.1 Các chương trình phần mềm nguồn mở không nha khoa
Chương trình phần mềm
Từ “phần mềm” là bản chất của khái niệm nha khoa kỹ thuật số, bao gồm việc lập kế hoạch kỹ
thuật số cho một ca lâm sàng và biến một đối tượng ảo thành một đối tượng vật lý. Giống như
nhiều khái niệm khác trong nha khoa, CAD-CAM ban đầu xuất phát từ kỹ thuật và các lĩnh
vực liên quan. Do đó, một số chương trình phần mềm có sẵn không hoàn toàn tập trung vào
lĩnh vực của chúng ta.
Phần mềm không dùng trong nha khoa mở là các chương trình cho phép mở bất kỳ tệp
nào ở định dạng 3D (OBJ, STL, PLY, v.v.) và chuyển đổi tệp đó thành đối tượng để in hoặc
phay cán 3D. Ngoài ra, các chương trình phần mềm này thường là mã nguồn mở và miễn phí,
trừ khi phải tải xuống một mô-đun tùy chọn cụ thể để hỗ trợ thiết kế kỹ thuật số. Do đó, phần
mềm mở không có các công cụ cụ thể cho nha khoa, nhưng cung cấp các công cụ chung mà
chuyên gia có thể sử dụng cho một số nhiệm vụ nhất định.
Một ví dụ về cách chúng ta có thể sử dụng phần mềm này là trong thiết kế mão răng.
Có thể xác minh rằng có một điểm tiếp xúc gần nhất của thân răng giữa các răng liền kề, nhưng
không thể đo cường độ tiếp xúc này hoặc tự động giảm nó mà không làm mất đi cấu trúc giải
phẫu (điều mà một chương trình trả phí mới có thể làm được).
Một ứng dụng phổ biến khác của phần mềm mở ngoài nha khoa là thiết kế máng cho
chứng nghiến răng. Với tệp quét của bệnh nhân, có thể phát triển thanh nẹp giãn cơ, với các
tiếp xúc giảm đau, tiếp xúc hai bên đồng thời và tiếp xúc trước, nhưng vẫn chưa có giá khớp
ảo hiệu quả nào có thể đánh giá chuyển động nhô ra và sang bên để đảm bảo khí cụ vừa vặn
hơn trong miệng. Tuy nhiên, trong phần mềm mở, cũng có thể thực hiện wax-up từ răng nanh
đến răng nanh, sử dụng ảnh khuôn mặt của bệnh nhân và bản quét trong miệng để tạo ra một
trường hợp mô phỏng. Các máng hướng dẫn phẫu thuật như trong nha chu cũng khả thi. Đầu
tiên, bệnh nhân được thăm dò hoặc chụp cắt lớp và sau đó thực hiện wax up ảo. Nếu việc thăm
dò đã được thực hiện, wax-up sẽ tuân theo các phép đo được thực hiện ở một phần ba gần, giữa
và xa của răng đó. Nếu chụp cắt lớp đã được thực hiện, có thể tạo ra sự trùng khớp giữa răng
quét và răng chụp cắt lớp, và JEC (đường nối men-xi măng) có thể được sử dụng làm tham
chiếu cho quá trình wax-up. Sau đó, một cách đơn giản, một thanh hướng dẫn được tạo trên
lớp sáp này và một thanh hướng dẫn cao hơn dày 3 mm sẽ được để lại, tôn trọng khoảng sinh
học.
Vì vậy, có thể thực hiện phần lớn việc lập kế hoạch cho các dự án trong phần mềm mở,
nhưng điều này đòi hỏi thời gian, kiến thức về các công cụ phần mềm, và hiểu rằng có những
hạn chế đối với việc sử dụng nó, đặc biệt là khi phục hồi răng miệng và việc sử dụng tham
chiếu hàm trên-hàm dưới có liên quan.
Các chương trình phần mềm mở không dùng trong nha khoa được sử dụng nhiều nhất
và phổ biến nhất giữa các nha sĩ và kỹ thuật viên là Meshmixer® (phần mềm chính thức của
Autodesk) và Blender® (Blender Foundation).
Do tính phổ biến và dễ sử dụng, Meshmixer hiện là phổ biến nhất và là phần mềm có
nhiều mô tả nhất trong tài liệu khoa học, tìm kiếm trên internet và video về cách sử dụng nó
trên YouTube. Nó là một phần mềm phát triển, với các công cụ điêu khắc, lựa chọn, định dạng
đối tượng được xác định trước, khả năng xem các đối tượng khác nhau và màu sắc khác nhau,
đóng dấu các hình dạng và phân tích hình dạng của lưới được thực hiện, tính toán khoảng cách
giữa các điểm, khớp các mắt lưới khác nhau, căn chỉnh đối tượng, v.v.
Một trong những ví dụ cơ bản nhất về cách sử dụng Meshmixer là xây dựng mô hình
nha khoa (Hình 2.34). Sau khi nhập tệp 3D, sử dụng công cụ chọn, có thể cắt các cạnh của tệp
(tuân theo các tiêu chí tương tự được sử dụng để cắt mô hình thạch cao) và sau đó tạo đế. Sau
đó, phần đế này cần trở nên chắc chắn trước khi mô hình có thể được in hoặc phay cán 3D. Mô
hình cuối cùng có thể rỗng hoặc đặc.
Blender là một phần mềm lập trình có thể thực hiện mọi thứ mà Meshmixer thực hiện,
nhưng chỉ sau khi lập trình phần mềm để thực hiện điều đó. Một trong những cách được sử
dụng rộng rãi để tiết kiệm thời gian trong Blender là sử dụng các công cụ “đặt trước” hoặc lập
trình sẵn mà chuyên gia có thể sử dụng trong nha khoa. Vì không cần lập trình trước đó,
Meshmixer là phần mềm mở được sử dụng nhiều nhất trong số các chuyên gia nha khoa, những
người sử dụng hệ thống CAD-CAM để chỉnh sửa mắt lưới một cách miễn phí và trực quan.
Tóm lại, phần mềm mở không dùng trong nha khoa mang lại cho chúng tôi lợi thế là
cho phép lập kế hoạch và thiết kế điều trị miễn phí trong thời gian hợp lý sau khi có được kiến
thức và đào tạo CAD cần thiết.

2.2.1.2 Các chương trình phần mềm nha khoa


Các chương trình phần mềm thương mại nha khoa là một trong những tùy chọn để hoạt động
với quy trình làm việc kỹ thuật số. Việc sử dụng các chương trình phần mềm này dễ dàng hơn
và nhanh hơn so với phần mềm không dùng trong nha khoa vì nó được thiết kế đặc biệt cho
nha khoa. Phần lớn các chương trình phần mềm tương thích với nhiều loại dữ liệu ngôn ngữ
nhập và xuất khác nhau. Các công cụ tự động và các tính năng cụ thể đã được cài đặt sẵn trong
các chương trình phần mềm này, chẳng hạn như thư viện răng và điều chỉnh cung răng đối diện,
cho phép bạn tạo và thiết kế các khí cụ kỹ thuật số và phục hình một cách trực quan. Tự động
hóa đơn giản hóa trải nghiệm học tập và tạo điều kiện thuận lợi cho toàn bộ quá trình sáng tạo.
Và trên hết, nó làm cho việc giao tiếp với phòng lab hoặc với bệnh nhân nhanh hơn và đơn
giản hơn.
Có hai cách để làm việc với các chương trình phần mềm nha khoa – hoặc với một hệ sinh thái
mở hoặc một hệ sinh thái tích hợp. Các chương trình phần mềm từ một hệ thống mở, chẳng
hạn như Dental Studio (3Shape A/S), cho phép chuyên gia tích hợp quét trong miệng vào các
máy sản xuất của các công ty khác. Ngược lại với hệ thống mở, các hệ thống CAD-CAM tích
hợp yêu cầu toàn bộ quy trình kỹ thuật số được thực hiện với phần cứng và phần mềm của cùng
một công ty để đạt được khả năng tương thích để quét, thiết kế và sản xuất sản phẩm cuối cùng.
Nói chung, phần lớn các chương trình phần mềm chấp nhận giao tiếp với một loạt các chương
trình phần cứng mở khác nhau.

Hình 2.34 Mô hình nha khoa được thực hiện trong Meshmixer, mặt trước và mặt đế

Các chương trình phần mềm được đề cập chỉ là một phần trong quy trình làm việc của
giải pháp toàn hệ thống, nhưng các chương trình phần mềm nha khoa độc lập như Blue Sky và
DentalCAD (Exocad GmbH; Hình 2.35) cũng được sử dụng rộng rãi trong quy trình làm việc
kỹ thuật số nha khoa vì số lượng các công cụ hữu ích, giao diện thân thiện với người dùng cho
các chuyên gia nha khoa và tính linh hoạt [56]. Những khác biệt chung giữa các chương trình
phần mềm như vậy bao gồm chi phí giấy phép, giao diện chương trình phần mềm, đổi mới giấy
phép và/hoặc phí xuất tệp STL.

Hình 2.35 Ảnh chụp màn hình phần mềm DentalCAD đang được sử dụng trong một thí nghiệm
in-vitro.

Hình 2.36 Ảnh chụp màn hình phần mềm Modellier đang được sử dụng để phác thảo các đường
hoàn tất của cùi răng sửa soạn thiết kế mão. Các phục hình được thiết kế trong phần mềm này
có thể được chuyển sang các chương trình phần mềm CAM và thiết bị của hệ thống Zirkonzahn
để được phay cán, sử dụng quy trình làm việc kỹ thuật số tích hợp.

Phần lớn các hệ thống phần mềm nha khoa bao gồm ít nhất ba lĩnh vực quan trọng của
nha khoa: phục hình/nha khoa phục hồi, nha khoa cấy ghép và chỉnh nha. Các tính năng tự
động khác nhau được trình bày trong các chương trình tùy thuộc vào từng lĩnh vực.
Phần mềm CAD dành cho phục hình/nha khoa phục hồi có thể được sử dụng trong
phòng thí nghiệm nha khoa hoặc phòng khám (quy trình làm việc kỹ thuật số tại ghế). Một số
công việc khác nhau có thể được thực hiện với các chương trình đó bao gồm mão răng, mặt
dán sứ, trụ, in/onlay, cầu răng, mão răng tạm thời, khí cụ tháo lắp và các khí cụ nha khoa khác.
Các chương trình phần mềm CAD như ChairsideCAD của Exocad cung cấp một giao diện thân
thiện với người dùng được đơn giản hóa để các chuyên gia nha khoa thực hiện wax-up kỹ thuật
số bằng phương pháp tiếp cận từng bước. Đối với người vận hành nâng cao, các chương trình
phần mềm này cho phép làm việc với menu chính với các công cụ và tùy chọn phức tạp hơn.
Một số chương trình phần mềm này có thể là một phần của hệ thống CAD-CAM tích hợp,
chẳng hạn như phần mềm Modellier của Zirkonzhan (Hình 2.36). Trái ngược với các chương
trình phần mềm CAD không dùng trong nha khoa, các chương trình phần mềm thương mại
dành cho nha khoa có một số tính năng tự động hóa dẫn đến trải nghiệm trực quan hơn, đơn
giản hơn và nhanh hơn. Điều này cho phép bác sĩ lâm sàng cung cấp dịch vụ nhanh hơn, trong
một số trường hợp chỉ trong một cuộc hẹn với bệnh nhân.
Các chương trình phần mềm CAD dành cho cấy ghép nha khoa, chẳng hạn như
ImplantStudio (3Shape A/S), coDiagnostiX (Dental Wings) và Exoplan (Exocad GmbH), được
sử dụng để lập kế hoạch cấy ghép nha khoa (có thể điều khiển phục hình) và tạo máng hướng
dẫn phẫu thuật để định hướng vị trí khoan implant cấy ghép dựa trên kế hoạch phẫu thuật ảo.
Căn chỉnh CBCT và dữ liệu quét trong miệng cho phép lập kế hoạch phẫu thuật định hướng
phục hình, dẫn đến độ chính xác cao của vị trí cấy ghép, cũng như khả năng dự đoán và thành
công cao của các trường hợp (xem Chương 6) [57].
Phần mềm CAD dành riêng cho chỉnh nha có thể được sử dụng để thiết kế và sản xuất
khay hoặc thậm chí lên kế hoạch đặt mắc cài để sản xuất khay dán trong phần mềm Indirect
Bonding Studio. Đây là một phần mềm hệ thống mở yêu cầu mua giấy phép. Invisalign (Align
Technology) là một chương trình phần mềm khác trong đó các khay có thể được lên kế hoạch
và sản xuất nhưng trong một hệ thống khép kín. Các trường hợp của bệnh nhân được gửi đến
công ty trên trang web Invisalign, vì vậy khi kế hoạch điều trị đã sẵn sàng, nha sĩ sẽ phê duyệt
việc sản xuất khay, thanh toán cho trường hợp cụ thể đã được phê duyệt (xem Chương 9).

2.2.2 Các loại tập tin sử dụng

2.2.2.1 Giao tiếp kỹ thuật số trong y khoa (DICOM)


Với sự gia tăng các phương thức và thương hiệu thương mại cung cấp thiết bị hình ảnh kỹ thuật
số, cần phải thiết lập một tiêu chuẩn không chỉ để lưu trữ các hình ảnh y tế khác nhau mà còn
cả việc truyền tải chúng.
Các tệp DICOM được phát triển vào cuối những năm 1980, được thiết kế để cho phép
kết nối các hệ thống được sử dụng để sản xuất, lưu trữ, xem, xử lý, gửi và in hình ảnh y tế,
cũng như tối ưu hóa quy trình làm việc liên quan đến hình ảnh y tế. Tiêu chuẩn này liên tục
được duy trì và đánh giá bởi Liên minh Công nghệ & Hình ảnh Y tế (MITA). Năm 1993, Ấn
phẩm Tiêu chuẩn ACR-NEMA PS3 được phát hành, còn được gọi là DICOM 3, một tiêu chuẩn
mạnh mẽ hơn nhiều so với tiêu chuẩn đầu tiên. Hiện tại, DICOM 3 là tiêu chuẩn cho các hệ
thống lưu trữ và liên lạc hình ảnh, được hỗ trợ bởi hầu hết các thiết bị hoạt động với thông tin
y tế kỹ thuật số.
Các tệp DICOM mang thông tin như tên bệnh nhân, thiết bị đã thực hiện quét, ngày và
địa điểm chụp, các thông số chụp, v.v. Tất cả thông tin này được mã hóa và có thể được đọc
bởi bất kỳ phần mềm xem DICOM nào. Điều này duy trì tính toàn vẹn của dữ liệu có trong kỳ
thi, do đó có giá trị pháp lý và tính di động rộng rãi. Dữ liệu CBCT thô thường có sẵn dưới
dạng tệp DICOM. Do đó, những tệp này được sử dụng chủ yếu trong lập kế hoạch phẫu thuật
nha khoa (Hình 2.37).
Hình 2.37 Lập kế hoạch cấy ghép nha khoa được thực hiện trên tệp DICOM bằng phần mềm
ImplantStudio (3Shape A/S).

2.2.2.2 Ngôn ngữ Tesselation tiêu chuẩn (STL)


Tệp STL mô tả hình dạng bề mặt của một đối tượng trong không gian 3D, hiển thị các thuộc
tính phổ biến đối với các mô hình CAD (đối tượng ba chiều) (Hình 2.38). Quy trình in 3D đầu
tiên sử dụng tệp STL, kỹ thuật lập thể, được giới thiệu vào năm 1984 bởi Charles Hull, người
đã phát triển một cách để máy in 3D diễn giải chính xác thông tin hình học được mô hình hóa
trong phần mềm CAD; định dạng tệp 3D tiêu chuẩn được tất cả các nhà phát triển phần mềm
CAD công nhận, định dạng STL, cũng đã được tạo. Bộ chữ cái STL ban đầu được tạo ra không
phải là từ viết tắt mà bằng cách sử dụng một số chữ cái của từ “stereolithography” nhưng qua
nhiều năm, nó đã được chuyển thành từ viết tắt, bao gồm các nghĩa như Ngôn ngữ Tam giác
Chuẩn và Ngôn ngữ Tessellation Chuẩn.
Các tệp này thường được tạo bởi một chương trình phần mềm CAD. Tệp STL có lẽ là
mục quan trọng nhất trong bất kỳ công việc in 3D nào. Nó chứa mô hình 3D được sử dụng để
tạo một đối tượng vật lý, một mô hình để tạo nhiều tùy chọn nguyên mẫu thiết kế và dưới dạng
định dạng dữ liệu tiêu chuẩn, sử dụng một loạt các hình tam giác được liên kết để tạo lại hình
dạng bề mặt của một mô hình rắn. Các tệp này thường có kích thước tệp tương đối nhỏ. Tuy
nhiên, các tệp STL có những hạn chế. Bởi vì tessellation chỉ bao phủ bề mặt, các tệp STL là
các biểu diễn hình học bề mặt mà không biểu thị màu sắc hoặc kết cấu. Một hạn chế khác của
các tệp này là độ phân giải làm việc. Việc duy trì độ phân giải cao hoặc mã hóa các đối tượng
lớn hơn yêu cầu số lượng hình tam giác cao hơn, dẫn đến giới hạn lớn hơn của các tệp này là
độ phân giải làm việc. Giữ lại độ phân giải cao hoặc mã hóa các đối tượng lớn hơn yêu cầu số
lượng hình tam giác cao hơn, dẫn đến kích thước lớn hơn kích thước tập tin. Ngược lại, điều
này có thể khiến thời gian cần thiết để tạo lại hoặc thao tác với các tệp lâu hơn đáng kể.
Trong nha khoa, các tệp STL thường được sử dụng làm định dạng cho hình ảnh từ máy
quét bề mặt trong miệng và máy tính để bàn. Ngoài ra, các tệp DICOM của các phương pháp
CT có thể được chuyển đổi sang định dạng STL, chẳng hạn như để tạo ra một mô hình nguyên
mẫu với thông tin từ mô cứng vùng miệng và hàm mặt của bệnh nhân.
Hình 2.38 Trên: Mẫu hình ảnh tệp STL. Dưới: Lưới STL tương ứng.

2.2.2.3 Định dạng tập tin đa giác (PLY)

PLY là một định dạng tệp để lưu trữ các đối tượng đồ họa có thể được mô tả dưới dạng một tập
hợp các đa giác. Định dạng được giới thiệu lần đầu tiên vào năm 1994 bởi nhà nghiên cứu Greg
Turk và dựa trên tệp OBJ. Mục đích của tệp này là cung cấp một định dạng đơn giản, dễ thực
hiện, có thể được sử dụng bởi nhiều mô hình, ngoài ra còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao
đổi thông tin giữa các phần mềm khác nhau.
PLY có thể được định dạng con theo hai cách: ASCII (Mã tiêu chuẩn Mỹ để trao đổi
thông tin) và định dạng nhị phân nhỏ hơn. Giũa PLY được sử dụng rộng rãi trong một số lĩnh
vực, bao gồm cả nha khoa, nhưng nó chắc chắn không phải là loại được sử dụng nhiều nhất.
Tuy nhiên, nó rất quan trọng khi bạn cần kết cấu và màu sắc thực được áp dụng cho mô hình
kỹ thuật số. Đây là ưu điểm chính của tệp PLY so với STL được sử dụng phổ biến hơn. Một ưu
điểm khác là kích thước tệp nhỏ hơn một chút. Nhược điểm là một số phần mềm không đọc
được tệp PLY hoặc không nhập tệp hình ảnh có thông tin về kết cấu và màu sắc thực tế.
Do đó, công dụng chính của tệp PLY là chia sẻ các tệp mô hình kỹ thuật số với màu sắc
và kết cấu thực. Một ví dụ đơn giản là quét màu trong miệng được thực hiện bằng máy quét
trong miệng và xuất sang phần mềm CAD của bên thứ ba (Hình 2.39). Kho lưu trữ cũng đã
được sử dụng rộng rãi, gần đây hơn là trong các ấn phẩm khoa học. Một số nhà xuất bản đã sử
dụng và khuyến khích minh họa trong các mô hình 3D trong các phiên bản kỹ thuật số của các
bài báo.

2.2.2.4 Tập tin đối tượng (OBJ)


Các tệp có phần mở rộng .Obj (đối tượng) đề cập đến các đối tượng đồ họa ba chiều (vectơ 3D)
với các tọa độ không gian được xác định theo chiều cao, chiều rộng và chiều sâu. Chúng đại
diện cho các vật thể hình học độc quyền thông qua thông tin bề mặt; nghĩa là, chúng là sự tái
tạo ảo của địa hình bề mặt của các vật thể thực. Định dạng tệp này do Wavefront phát triển, lưu
trữ các đối tượng bao gồm các điểm, đường đa giác và hình dạng không có đường cong và bề
mặt, tạo bản đồ bề mặt của đối tượng thực thông qua một lưới các hình tam giác (đa giác) chẳng
hạn như STL hoặc PLY, là một phần mở rộng tệp được sử dụng rộng rãi trong các công cụ đồ
họa, bao gồm mô hình hóa và hoạt ảnh.
Tệp OBJ là một định dạng dữ liệu đơn giản chỉ thể hiện hình dạng 3D của đối tượng,
không chứa màu các định nghĩa của từng bề mặt, được tham chiếu trong tệp thư viện vật liệu
(phần mở rộng .mtl) - phải luôn đi kèm với tệp. Tập tin này mô tả đặc tính màu bóng bề mặt,
ngoài ra còn có đặc tính phản xạ ánh sáng trên từng bề mặt để có thể kết xuất đối tượng trên
máy tính (Hình 2.40).
MTL cũng chứa thông tin về môi trường màu (RGB), bên cạnh vùng khuếch tán, phản
quang và các vùng trong suốt mà cuối cùng sẽ xác định toàn bộ kết cấu bề mặt của đối tượng
3D. Là thành phần cuối cùng của tập hợp các tệp mang thông tin đầy đủ của đối tượng 3D, ánh
xạ kết cấu và màu sắc cuối cùng được sao chép từ đối tượng một cách quang học, tạo ra kết
cấu 2D “mở” trong các phép chiếu không gian khác nhau dưới dạng bản đồ mở, nghĩa là, một
loạt ảnh được ghép nối theo các hướng khác nhau xung quanh đối tượng được sao chép sẽ “bao
phủ” mô hình 3D đa giác bằng màu sắc và kết cấu được sao chép từ đối tượng ban đầu. Thông
thường tập tin này có phần mở rộng là .jpg hoặc .png. Định dạng OBJ, đã được sử dụng trong
nhiều năm trong thiết kế, hoạt hình và kỹ thuật, hiện được sử dụng nhiều nhất cho các tệp quét
khuôn mặt.
Khi nói đến quét khuôn mặt trong y học và nha khoa, cách truyền thống nhất để có được
hình ảnh 3D là thông qua chụp cắt lớp vi tính (CT), thông qua bức xạ ion hóa, cho phép tái tạo
thể tích của cả cấu trúc bên trong và bề mặt khuôn mặt. Thông tin thể tích (voxels) này có thể
lắp ráp lại cấu trúc hình học của bề mặt, nhưng không thể chứa trong các tệp DICOM thanh
ghi kết cấu và màu sắc của vải, thậm chí có được định dạng hình học giống như OBJ.
Tương tự như vậy, các tệp STL hiển thị các cấu trúc phức tạp tốt hơn OBJ, nhưng chúng
cũng không mang thông tin về màu sắc và kết cấu bề mặt, và do đó, thông tin về thể tích bề
mặt. Trước nhu cầu này, phương pháp được sử dụng rộng rãi nhất trong nha khoa ngày nay là
sự kết hợp của các cấu trúc thể tích thu được thông qua CT, với các tệp STL để quét trong
miệng và định hướng không gian bằng cách sử dụng các bức ảnh ngoài miệng, đó là phép chụp
ảnh 2D.
Phương pháp chụp ảnh hai chiều dễ tiếp cận và chi phí thấp, bao gồm thực hiện khảo
sát khuôn mặt bằng ảnh và đo tuyến tính trong phần mềm máy tính bằng cách chia tỷ lệ hình
ảnh bằng các phép đo nhân trắc học lâm sàng. Hạn chế của nó là rất lớn do biến dạng và góc
trong ảnh chụp và không thể đo thể tích. Trong quy trình chụp ảnh, có thể phát triển thành việc
thu nhận hình ảnh bề mặt 3D bằng cách sử dụng phần mềm thực hiện phân tích trên máy vi
tính các bức ảnh để đo lường trong thế giới vật chất thông qua thuật toán thị giác máy tính.
Thông qua một số bức ảnh từ các góc khác nhau của cùng một đối tượng, quá trình xử lý được
thực hiện bằng cách chụp các điểm cố định (điểm chung giữa các lần chụp) để ước tính kích
thước của đối tượng được chụp và thuật toán xử lý ảnh bằng cách xác định và đánh dấu các
điểm tham chiếu. Sau đó, có một quy trình mới để số hóa 3D để tạo ra một đám mây điểm và
hệ tọa độ 3D, thu được mô hình 3D và thậm chí trích xuất màu sắc của nó. Quá trình xử lý cuối
cùng của những hình ảnh này, được gọi là phép chụp ảnh 3D, tạo ra các tệp OBJ để sử dụng
trong phần mềm mô hình 3D.
Do đó, chụp ảnh 3D là một phương pháp thay thế cho CT để thu thập dữ liệu khuôn
mặt (quét khuôn mặt), chủ yếu là do nó ít xâm lấn hơn, ít tốn kém hơn và ít nguy cơ tác dụng
phụ hơn cho bệnh nhân nếu sử dụng nhiều lần. Nó cũng có thể là một giải pháp thay thế bổ
sung khả thi cho tái tạo xương thể tích, bổ sung cho kết cấu bề mặt khuôn mặt khi hai tệp 3D
này (OBJ + DICOM) được căn chỉnh. Trong các kế hoạch xử lý, nó có nhiều ưu điểm, chẳng
hạn như định lượng góc, diện tích bề mặt và thể tích, ngoài khoảng cách tuyến tính, định nghĩa
tọa độ không gian x, y và z như trong STL và PLY và nhiều loại phân tích thống kê về hình
dạng, ngoài khả năng thu thập dữ liệu bề mặt ở độ phân giải màu cao và tốc độ nhanh.

Hình 2.39 Trên: Mẫu hình ảnh tệp PLY. Giữa: Hình ảnh tệp PLY với kết cấu và màu sắc.
Dưới: Lưới tệp OBJ.

2.2.2.5 Tập tin từ chụp ảnh lâm sàng


Như đã giải thích trước đây trong chương này, chụp ảnh lâm sàng là điểm khởi đầu của tất cả
các phân tích thẩm mỹ và ảo cho kế hoạch điều trị của bệnh nhân. Trong bối cảnh này, các tệp
ảnh lâm sàng phải cung cấp chất lượng hình ảnh đủ tốt để tiến hành một loạt đánh giá về khuôn
mặt của bệnh nhân.
Phân tích thẩm mỹ khuôn mặt ban đầu nhằm mục đích xác định mối quan hệ của sự đối
xứng hai bên, sự hài hòa và tỷ lệ khuôn mặt. Hai đường tham chiếu đầu tiên được vẽ cho phân
tích này là đường giữa và đường giữa hai đồng tử mắt, chúng sẽ là các đường tham chiếu cho
tất cả các mối quan hệ khác của mô mềm, xương, nướu và mặt phẳng răng theo chiều dọc và
chiều ngang. Đường giữa được vẽ qua glabella, chóp mũi, nhân trung và cằm. Chiều cao của
khuôn mặt được xác định bởi khoảng cách giữa chân tóc và cằm, và chiều rộng của khuôn mặt
được xác định bởi các đường tiếp tuyến với xương gò má. Thông tin này cho chúng ta hình
dạng khuôn mặt: vuông, chữ nhật hoặc tròn.
Các đường nằm ngang song song với đường đồng tử cung cấp cho chúng ta các tham
chiếu quan trọng để xác định các phần ba của khuôn mặt. 1/3 trên được xác định bởi đường
chân mày và chân tóc; phần ba ở giữa được phân định bởi đường chân mày và đường gốc mũi
(dưới mũi), và phần ba ở dưới kéo dài từ gốc mũi đến cằm. Những đường này cung cấp cho
chúng ta thông tin quan trọng về tỷ lệ của một phần ba khuôn mặt và được thấy ở cả ảnh chụp
chính diện và ảnh chụp nghiêng.
Các đường nằm ngang khác song song với đường giữa hai đồng tử mang lại cho chúng
ta thông tin quan trọng về môi, răng và nướu: chúng là đường gờ hoặc mặt phẳng rìa cắn, đường
viền nướu và đường viền môi. Mặt phẳng của viền nướu phải song song với các đường đi qua
hai đồng tử và các mép môi; khi nó không song song với đường đồng tử, nó thể hiện sự bất đối
xứng môi. Một tham chiếu ngang quan trọng là đường cong của mép trên của môi dưới phải
song song với đường cong của cung răng (đường của các cạnh răng cửa và đỉnh của các răng
sau – cung cười).
Đôi môi mang lại cho chúng ta những tham chiếu quan trọng khi chúng được niêm
phong về độ dày và tỷ lệ giữa chúng và nâng đỡ môi, nhưng tham chiếu này thậm chí còn quan
trọng hơn khi chúng ở trạng thái nghỉ ngơi, trở thành khung của nụ cười và sự chuyển tiếp giữa
các phân tích thẩm mỹ ngoài miệng và trong miệng.
Chuyển các tham chiếu ngang và dọc của khuôn mặt sang vùng trong miệng, có thể
quan sát đường giữa răng và mặt phẳng cắn, đồng thời thiết lập tỷ lệ răng bằng toán học hoặc
đồ họa. Các bức ảnh trong nha khoa kỹ thuật số rất quan trọng không chỉ đối với việc lập kế
hoạch điều trị thẩm mỹ mà còn để tạo các tham chiếu không gian cho các mô hình chụp cắt lớp
3D (DICOM), quét trong miệng (STL) và quét khuôn mặt (OBJ). Với các công cụ căn chỉnh
phần mềm, bức ảnh cung cấp các tham chiếu của khuôn mặt so với mặt đất (với điều kiện là
các quy tắc chụp ảnh được tuân theo) và do đó độ nghiêng của các vòm so với khuôn mặt, giúp
tạo ra các tọa độ không gian (x, y và z) đối với các mắt lưới 3D, ví dụ như cho phép chúng tôi
thực hiện quét trong miệng với việc duy trì định hướng thẩm mỹ khuôn mặt đã mô tả trước đây.

JPEG hoặc JPG (Nhóm chuyên gia chụp ảnh)


Loại tệp hình ảnh này được đặt theo tên của nhóm chuyên gia nhiếp ảnh đã phát triển các thuật
toán nén cho định dạng này, vốn chiếm ít dung lượng hơn nhiều. Đây là định dạng được sử
dụng nhiều nhất do tính tương thích cao và dễ đọc của các hệ thống khác nhau, cả internet và
các thiết bị và hệ thống in ấn khác, khiến nó trở thành định dạng tiêu chuẩn cho máy ảnh.
Nó có 8 bit cho mỗi kênh màu pixel RGB (Đỏ, Xanh lục, Xanh lam) trong ảnh, cho
phép tối đa 16 triệu màu trong ảnh, giữ độ sáng rất giống với tệp gốc trước khi nén (RAW). Nó
đảm bảo các mức độ nén khác nhau, nhưng hình ảnh càng được xử lý và nén nhiều thì càng
mất nhiều chi tiết như kết cấu và độ tương phản.
Ưu điểm chính là khả năng tương thích và tốc độ ghi, ngoài kích thước giảm, nhưng nó
không hỗ trợ độ trong suốt của hình ảnh và làm giảm chất lượng, hạn chế khả năng xử lý hậu
kỳ những hình ảnh này.

RAW
Định dạng này tạo ra hình ảnh chính xác như chúng được chụp bởi bộ cảm biến của máy ảnh
kỹ thuật số mà không cần chỉnh sửa hoặc nén, như thể đó là âm bản kỹ thuật số, điều này giải
thích tên tệp "thô". Vì là tệp thô nên nó chiếm nhiều dung lượng, lớn hơn 3–4 lần so với JPEG
ở chất lượng cao và cuối cùng là thời gian ghi trên thẻ nhớ tăng lên, chẳng hạn như cản trở một
chuỗi nhiều ảnh nhanh. Vì nó vẫn là âm bản kỹ thuật số nên không thể xem ảnh trong phần
mềm tiền xử lý như Photoshop hoặc Lightroom.
Thông thường, các nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp sử dụng định dạng này, vì định dạng
này là tốt nhất để chỉnh sửa và có chứng nhận hợp pháp, và ảnh RAW thậm chí có thể được sử
dụng để làm bằng chứng tội phạm chẳng hạn. Nó có chất lượng hình ảnh cao và độ sâu màu
lớn hơn; Tệp RAW 12 bit có thể đạt được 68 tỷ màu khác nhau, trong khi định dạng RAW 14
bit có thể đạt được 4,3 nghìn tỷ màu.

TIFF
Do Microsoft phát triển, các tệp này lớn hơn JPEG nhưng có chất lượng nén cao hơn nhiều,
nghĩa là giữ được chất lượng cao hơn nhiều với 8 hoặc 16 lần truy cập và có thể chứa hàng tỷ
màu. TIFF là viết tắt của Định dạng tệp hình ảnh được gắn thẻ (tagged image file format) và là
định dạng tiêu chuẩn được sử dụng bởi ngành in ấn và xuất bản.
Nó là một định dạng cực kỳ linh hoạt và tương thích với hầu hết các phần mềm và ứng
dụng chỉnh sửa hình ảnh. Nó có thể duy trì độ trong suốt và lưu các lớp Photoshop để chỉnh
sửa thêm, giống như các tệp PSD của Photoshop. Đây là định dạng tốt nhất để lưu trữ các tệp
hình ảnh trong khi vẫn giữ được chất lượng hình ảnh. Một số máy ảnh đã tạo ảnh ở định dạng
này nhưng nói chung, hầu hết các nhiếp ảnh gia khuyên chụp ảnh ở định dạng RAW và nén
chúng ở định dạng TIFF để duy trì chất lượng tối đa và giảm kích thước tệp được lưu trữ, nhưng
định dạng tệp này có rất ít khả năng tương thích trên các hệ thống internet.

GIF (Định dạng trao đổi đồ họa)


Đây là những tệp cực kỳ nén, được phát triển đặc biệt cho internet, vì chúng là những tệp nhẹ
và hỗ trợ hình ảnh chuyển động (gif động), cũng được sử dụng cho đồ họa web, biểu tượng và
hình minh họa. Chúng có dải màu và 8 bit rất hạn chế và hỗ trợ tối đa 256 màu.

PNG (Đồ họa mạng di động)


Định dạng này dựa trên loại tệp GIF nhưng không làm giảm chất lượng nhiều. Nó cho phép
tốc độ bit cao hơn, đảm bảo hàng triệu màu, duy trì độ trong suốt của nền và giảm thiểu các
cạnh răng cưa. Đây là một loại tệp rất tốt cho ảnh, là một giải pháp thay thế tốt cho GIF để sử
dụng trên web, đặc biệt khi cần các tệp trong suốt, vì chúng nhỏ hơn một chút so với định dạng
TIFF.

Hình 2.40 Bên trái: Mẫu ảnh tệp OBJ. Phải: Lưới tệp OBJ.

2.2.2.6 Tập tin video


Phân tích thẩm mỹ của nụ cười thông qua các bức ảnh là công cụ chẩn đoán duy nhất cuối cùng
lại rất hạn chế và phân tích năng động của nụ cười trở nên cần thiết, điều mà giờ đây chúng ta
có thể đạt được thông qua các bản ghi video. Nói chung, nhiếp ảnh có thể thể hiện nụ cười xã
giao của bệnh nhân chứ không phải nụ cười tự phát, dễ tái tạo hơn trong các bản ghi video,
đảm bảo phân tích chi tiết hơn các biểu hiện của bệnh nhân trong khi cười, cho phép xác định
kiểu cười và động lực của chuyển động cơ bắp. Ngoài ra, trong khi nói và nghỉ ngơi, có thể
quan sát thấy mối quan hệ của răng trên với môi.
Có một số định dạng tệp video được đặt tên theo thương hiệu đã phát triển hệ thống, thông tin
chứa trong tệp và mục đích mà nó được phát triển.
- WMV: viết tắt của Windows Media Video, được phát triển bởi Microsoft, vì vậy nó là định
dạng chuẩn cho các tệp video trong Windows, tương thích trực tiếp với Windows Media Player
mà không cần codec, là bộ mã hóa/giải mã tệp.
- AVI: viết tắt của Audio Video Interleave, cũng do Microsoft phát triển. Định dạng này lưu trữ
các rãnh âm thanh và video được phát lại đồng bộ nhưng có thể được tách ra dễ dàng hơn. Nó
tương thích với Windows cũng như đầu đĩa DVD và Blu-ray, hỗ trợ bộ giải mã DivX.
- MOV: do Apple phát triển cho Quick Time Player (cũng có sẵn cho Windows). Nó có các
codec cụ thể cho Quicktime dành cho iPod, iPhone và iPad, đồng thời cũng có thể được sử
dụng để truyền phát video.
- MPEG (Nhóm chuyên gia về hình ảnh chuyển động): do ISO tạo ra nhằm tiêu chuẩn hóa việc
nén và truyền tải âm thanh và video. Có các tiêu chuẩn khác nhau trong định dạng này: MPEG-
1 (được sử dụng cho VCD), MPEG-2 (được sử dụng cho DVD) và MPEG-4.
- MKV: do Hiệp hội Matroska tạo ra, để lưu trữ các bản nhạc âm thanh, video và phụ đề, hỗ trợ
một số định dạng, bao gồm các tệp đính kèm như JPEG, lời bài hát và nhạc cũng như các bộ
lọc giải mã. Nó thường được sử dụng cho các video có độ phân giải cao nhưng cần phải sử
dụng một chương trình và/hoặc gói codec cụ thể tương thích với tệp.

2.2.3 Kết hợp dữ liệu: Bệnh nhân ảo

Một trong những khía cạnh quan trọng nhất của quy trình làm việc kỹ thuật số trong nha khoa
là sự chuẩn bị đầy đủ cho dự án. Dự án kỹ thuật số chứa tất cả các tệp có được (khám kỹ thuật
số) theo một mô hình toàn diện và có tổ chức, cung cấp cho bác sĩ lâm sàng một “bệnh nhân
ảo” để bắt đầu lập kế hoạch cho ca bệnh. Điều quan trọng là phải hiểu rằng nhiều bài kiểm tra
sẽ được thực hiện với các thiết bị và phương pháp đã giải thích trước đây trong chương này,
bao gồm CBCT, máy quét trong và ngoài miệng, ảnh lâm sàng, video từ máy ảnh, v.v., ở các
định dạng khác nhau như DICOM, STL, PLY, JPEG, v.v.
Một chương trình phần mềm phù hợp nên được lựa chọn theo yêu cầu của từng trường
hợp. Các chương trình phần mềm để lập kế hoạch ảo sẽ cho phép chuyên gia bắt đầu dự án
bằng cách nhập tất cả các tệp. Điều quan trọng là phải xác minh loại tệp nào tương thích với
phần mềm được sử dụng, vì một số chương trình có thể không chấp nhận nhiều định dạng tệp
khác nhau. Trong một số trường hợp, quá trình chuyển đổi tệp có thể cần thiết trước khi nhập
dữ liệu. Chẳng hạn, điều quan trọng là phải cung cấp dữ liệu CBCT dưới dạng tệp DICOM, vì
hầu hết các chương trình phần mềm đều tương thích với tiện ích mở rộng này.
Các chương trình phần mềm nha khoa thường có quy trình từng bước cụ thể để nhập
và chuẩn bị tệp. Việc chuẩn bị tệp có thể bao gồm sửa lỗi thủ công hoặc tự động, chẳng hạn
như sự bất thường trong lưới của tệp STL, căn chỉnh ảnh được chụp với mặt phẳng hai đồng tử
không song song với đường chân trời hoặc quy định ngưỡng CBCT để có được mô hình tái tạo
3D đáng tin cậy.
Sau khi chuẩn bị, bước tiếp theo là căn chỉnh. Tất cả ảnh và mô hình 3D trong dự án,
được gọi là mắt lưới, phải ở cùng một vị trí. Do đó, nếu tất cả các mắt lưới trong môi trường
3D của phần mềm được nhập ở các tọa độ khác nhau, thì việc căn chỉnh các tệp này là cần thiết
để di chuyển chúng vào cùng một tọa độ. Quá trình này cho phép tạo bệnh nhân ảo (Hình 2.41
và 2.42).
Khi bệnh nhân ảo đã sẵn sàng, chúng ta có thể tiến hành lập kế hoạch kỹ thuật số. Các loại kế
hoạch khác nhau có thể bao gồm lập kế hoạch kỹ thuật số điều khiển phục hình cho thiết kế nụ
cười 3D, lập kế hoạch phẫu thuật cho phẫu thuật có hướng dẫn [57], thiết lập chỉnh nha cho
khay, lập kế hoạch nội nha cho kỹ thuật EndoGuide (xem Chương 8), v.v. Mục đích của lập kế
hoạch kỹ thuật số là mô phỏng điều trị các tùy chọn như định vị 3D ảo của implant theo mô
hình xương và sáp ảo. Khi kế hoạch cuối cùng được xác định, các mô hình 3D sẽ được sản xuất
sẽ được thiết kế. Như đã giải thích trước đây, đây sẽ là giai đoạn CAD. Người lập kế hoạch
hoặc kỹ thuật viên CAD có thể thiết kế các loại mô hình 3D khác nhau như hướng dẫn phẫu
thuật, thanh, chốt, mão răng, trụ cầu, v.v. Những mô hình 3D này sẽ được xuất ở định dạng tệp
được máy in 3D và máy phay cán nhận dạng.
Hình 2.41 Lập kế hoạch phẫu thuật được thực hiện trên một bệnh nhân ảo.

Hình 2.42 Lập kế hoạch phẫu thuật tương tự như Hình 2.40, sau khi loại bỏ hình ảnh quét
CBCT, cho phép chuyên gia đánh giá và hình dung kế hoạch cấy ghép nha khoa liên quan đến
giải phẫu của bệnh nhân và phục hình toàn hàm trong tương lai.

Tài liệu tham khảo


(ed. S.C. White and M.J. Pharoah), 245–
264. St Louis: Mosby.
2 Candemil, A.P., Salmon, B., Freitas, D.Q.
1 Frederiksen, N.L. (2004). Specialized et al. (2018). Mettalic materials in the
radiographic techniques. In: Oral exomass impair cone beam CT voxel values.
Radiology: Principles and Interpretation, 5e Dentomaxillofac. Radiol. 47: 20180011.
3 Abramovitch, K. and Rice, D.D. (2014). quality, contrast-to-noise ratio and figure of
Basic principles of cone beam computed merit value in the maxillofacial region.
tomography. Dent. Clin. North Am. 58: Dentomaxillofac. Radiol. 46 (6): 20160418.
463–484. 13 Griseto, N.T. and Gallucci, G.O. (2021).
4 Bornstein, M., Brugger, O.E., Janner, Digital maxillomandibular relationship
S.F.M. et al. (2015). Indications and registration for an edentulous maxilla: a
frequency for the use of cone beam dental technique. J. Prosthet.Dent. 125 (6):
computed tomography for implant 858–861.
treatment planning in a specialty clinic. Int. 14 D’Arienzo, L.F., D’Arienzo, A., and
J. Oral Maxillofac. Implants 30: 1076–1083. Borracchini, A. (2018). Comparison of the
5 Delgado, C.C., Espona, J., Lorente- suitability of intra-oral scanning with
Gascón, M. et al. (2016). Digital implant conventional impression of edentulous
impression by cone-beam computerized maxilla in vivo. A preliminary study. J.
tomography: a pilot study. Clin. Oral Osseointegr. 10 (4): 115–120.
Implants Res. 27: 1407–1413. 15 Runkel, C., Güth, J.F., Erdelt, K., and
6 Kang, S.R., Bok, S.C., Choi, S.C. et al. Keul, C. (2020). Digital impressions in
(2016). The relationship between dental dentistry – accuracy of impression
implant stability and trabecular bone digitalisation by desktop scanners. Clin.
structure using cone-beam computed Oral Invest. 24 (3): 1249–1257.
tomography. J. Periodontal. Implant. Sci. 16 Joós-Kovács, G., Vecsei, B., Körmendi,
46: 116–127. S. et al. (2019). Trueness of CAD/CAM
7 McClammy, T. (2014). Endodontic digitization with a desktop scanner – an in
applications of cone-beam computed vitro study. BMC Oral Health
tomography. Dent. Clin. North Am. 58: 19 (1): 1–14.
545–559. 17 Jeon, J.H., Lee, K.T., Kim, H.Y. et al.
8 Bayat, S., Talaeipour, A.R., and Sarlati, F. (2013). White light scanner-based
(2016). Detection of simulated periodontal repeatability of 3-dimensional digitizing of
defects using cone-beam CT and digital silicon rubber abutment teeth impressions.
intraoral radiography. Dentomaxillofac. J. Adv. Prosthodont. 5 (4): 452–456.
Radiol. 45: 220160030. 18 Nowak, R., Wesemann, C., Robben, J. et
9 Kapila, S.D. and Nervina, J.M. (2015). al. (2017). An in-vitro study comparing the
CBCT in orthodontics: assessement of accuracy of full-arch casts digitized with
treatment outcomes and indications for its desktop scanners. Quintessence Int. 20:
use. Dentomaxillofac. Radiol. 44: 667–676.
20140282. 19 Su, T.S. and Sun, J. (2015). Comparison
10 Wolff, C., Mucke, T., Wagenfpfeil, S. et of repeatability between intraoral digital
al. (2016). Do CBCT scan alter surgical scanner and extraoral digital scanner: an in-
treatment plans? Comparison of vitro study.J. Prosthodont. Res. 59 (4): 236–
preoperative surgical diagnosis using 242.
panoramic versus cone-beam CT images.J. 20 Hassan, B., Gimenez Gonzalez, B.,
Craniomaxillofac. Surg. 44: 1700–1705. Tahmaseb, A. et al. (2017). A digital
11 Arayasantiparb, R., Mitrirattanakul, S., approach integrating facial scanning in a
Kunasarapun, P. et al. (2020). Association CAD-CAM workflow for complete-mouth
of radiographic and clinical findings in implant-supported rehabilitation of patients
patients with temporomandibular joints with edentulism: a pilot clinical study. J.
osseous alteration. Clin. Oral Invest. 24: Prosthet. Dent. 117 (4): 486–492.
221–227. 21 Gibelli, D., Pucciarelli, V., Cappella, A.
12 Koivisto, J., van Eijnatten, M., Järnstedt, et al. (2018). Are portable
J. et al. (2017). Impact of prone, supine and stereophotogrammetric devices reliable in
oblique patient positioning on CBCT image facial imaging? A validation study of
VECTRA H1 device. J. Oral Maxillofac. 31 Nishimura, D.A., Choi, I.G.G., Arita,
Surg. 76: 1772–1784. E.S., and Cortes, A.R.G. (2021). Estimating
22 Mai, H.N., Kim, J., Choi, Y.H., and Lee, bone mineral density using MRI in
D.H. (2020). Accuracy of portable face- medicine and dentistry: a literature review.
scanning devices for obtaining three- Oral Radiol. 37 (3): 366–375.
dimensional face models: a systematic 32 Cortes, A.R.G., Abdala, R., Weber, M.
review and meta-analysis. Int. J. Environ. et al. (2015). Influence of pulse sequence
Res. Public Health 18 (1): 94. parameters at 1.5 T and 3.0 T on MRI
23 Plooij, J.M., Maal, T.J., Haers, P. et al. artefacts produced by metal-ceramic
(2011). Digital three-dimensional image restorations. Dentomaxillofac. Radiol. 44
fusion processes for planning and (8): 20150136.
evaluating orthodontics and orthognathic 33 Cortes, A.R.G., Cohen, O., Zhao, M. et
surgery. A systematic review. Int. J. Oral al. (2018). Assessment of alveolar bone
Maxillofac. Surg. 40: 341–352. marrow fat content using 15 T MRI. Oral
24 Aswehlee, A.M., Elbashti, M.E., Surg. Oral Med. Oral Pathol. Oral Radiol.
Hattori, M. et al. (2018). Feasibility and 125 (3): 244–249.
accuracy of noncontact three-dimensional 34 Firbank, M.J., Harrison, R.M., Williams,
digitizers for geometric facial defects: an in E.D., and Coulthard, A. (2000). Quality
vitro comparison. Int. J. Prosthodont. assurance for MRI: practical experience. Br.
31:601–606. J. Radiol. 73: 376–383. 35 Sinha, N. and
25 Bakirman, T., Gumusay, M.U., Reis, Ramakrishnan, A.G. (2010). Quality
H.C. et al. (2017).Comparison of low cost assessment in magnetic resonance images.
3D structured light scanners for face Crit. Rev. Biomed. Eng. 38 (2): 127–141.
modeling. Appl. Optics 56: 985–992. 36 Andersen, T.N., Darvann, T.A.,
26 Koban, K.C., Perko, P., Etzel, L. et al. Murakami, S. et al. (2018). Accuracy and
(2020). Validation of two handheld devices precision of manual segmentation of the
against a non- portable three-dimensional maxillary sinus in MR images – a method
surface scanner and assessment of potential study. Br. J. Radiol. 91 (1085): 20170663.
use for intraoperative facial imaging. J. 37 Yoo, E., Murakami, S., Takada, K. et al.
Plast. Reconstr. Aesthet. Surg. 73: 141–148. (1996). Tongue volume in human female
27 Bohner, L., Gamba, D.D., Hanisch, M. adults with mandibular prognathism. J.
et al. (2019). Accuracy of digital Dent. Res. 75 (12): 1957–1962.
technologies for the scanning of facial, 38 Murakami, S., Fuchihata, H., Yoon, S.
skeletal, and intraoral tissues: a systematic et al. (1999). Usefulness of fat-suppressed
review. J. Prosthet. Dent. 121: 246–251. Gd-enhanced MR imaging of tongue cancer.
28 Cortes, A.R.G., Galea, K., No-Cortes, J. Oral Radiol. 15 (1): 19–26.
et al. (2020). Use of free CAD software for 39 Murakami, S., Takahashi, A.,
3D printing individualized face masks Nishiyama, H. et al. (1993). Magnetic
based on face scans. Int. J. Comput. Dent. resonance evaluation of the
23 (2): 183–189. temporomandibular joint disc position and
29 Terry, D.A., Snow, S.R., and McLaren, configuration. Dentomaxillofac. Radiol. 22
E.A. (2008). Contemporary dental (4): 205–207.
photography: selection and application. 40 Kitai, N., Kreiborg, S., Murakami, S. et
Compend. Contin. Educ. Dent. 29 (8): 432– al. (2002). A three-dimensional method of
436. visualizing the temporomandibular joint
30 McLaren, E.A. and Schoenbaum, T. based on magnetic resonance imaging in a
(2011). Digital photography enhances case of juvenile chronic arthritis. Int. J.
diagnostics, communication, and Paediatr. Dent. 12 (2): 109–115.
documentation. Compend. Contin. Educ. 41 Laurino, F.A.R., Choi, I.G.G., Kim, J.H.
Dent. 32: 36–38. et al. (2020). Correlation between magnetic
resonance imaging and cone-beam imaging. Int. J. Oral Maxillofac. Implants
computed tomography for maxillary sinus 34 (2): 529–534.
graft assessment. Imaging Sci. Dent. 50 (2): 50 Probst, F.A., Schweiger, J., Stumbaum,
93–98. M.J. et al. (2020). Magnetic resonance
42 Eley, K.A., Watt-Smith, S.R., and imaging based computer- guided dental
Golding, S.J. (2017). “Black bone” MRI: a implant surgery – a clinical pilot study. Clin.
novel imaging technique for 3D printing. Implant Dent. Relat. Res. 22 (5): 612–621.
Dentomaxillofac. Radiol. 46 (3): 20160407. 51 Hilgenfeld, T., Juerchott, A.,
43 Kralik, S.F., Supakul, N., Wu, I.C. et al. Deisenhofer, U.K. et al. (2019). in vivo
(2019). Black bone MRI with 3D accuracy of tooth surface
reconstruction for the detection of skull reconstruction based on CBCT and dental
fractures in children with suspected abusive MRI – a clinical pilot study. Clin. Oral
head trauma. Neuroradiology 61 (1): 81–87. Implants Res. 30 (9): 920–927.
44 Eley, K.A., Watt-Smith, S.R., Sheerin, 52 Drăgan, O.C., Fărcăşanu, A.Ş.,
F., and Golding, S.J. (2014). “Black bone” Câmpian, R.S., and Turcu, R.V.F. (2016).
MRI: a potential alternative to CT with Human tooth and root canal morphology
three-dimensional reconstruction of the reconstruction using magnetic resonance
craniofacial skeleton in the diagnosis of imaging. Clujul Med. 89 (1): 137–142.
craniosynostosis. Eur. Radiol. 24 (10): 53 Chen, H., Fels, S., Pang, T. et al. (2012).
2417–2426. Three- dimensional reconstruction of soft
45 Seifert, A.C. and Wehrli, F.W. (2016). palate modeling from subject-specific
Solid-state quantitative (1)H and (31)P magnetic resonance imaging data. Sleep
MRI of cortical bone in humans. Curr. Breath. 16 (4): 1113–1119.
Osteoporos. Rep. 14 (3): 77–86. 54 Boldt, J., Rottner, K., Schmitter, M. et
46 Moore, J.R., Garrido, L., and Ackerman, al. (2018). High-resolution MR imaging for
J.L. (1995). Solid state phosphorus-31 dental impressions: a feasibility study. Clin.
magnetic resonance imaging of bone Oral Invest. 22 (3): 1209–1213.
mineral. Magn. Reson. Med. 33 (3): 293– 55 Dai, J., Wang, X., Dong, Y. et al. (2012).
299. Two- and three-dimensional models for the
47 Wu, Y., Ackerman, J.L., Chesler, D.A. visualization of jaw tumors based on CT-
et al. (1998). Evaluation of bone mineral MRI image fusion. J. Craniofac. Surg. 23
density using three- dimensional solid state (2): 502–508.
phosphorus-31 NMR projection imaging. 56 No-Cortes, J., Son, A., Ayres, A.P. et al.
Calcif. Tissue Int. 62 (6): 512–518. (2020). Effect of varying levels of expertise
48 Flügge, T., Ludwig, U., Hövener, J.B. on the reliability and reproducibility of the
et al. (2020). Virtual implant planning and digital waxing of single crowns: a
fully guided implant surgery using preliminary in vitro study. J. Prosthet. Dent.
magnetic resonance imaging – proof of S0022-3913 (20): 30552–30557.
principle. Clin. Oral Implants Res. 31 (6): 57 Costa, A.J.M., Teixeira Neto, A.D.,
575–583. Burgoa, S. et al. (2020). Fully digital
49 Mercado, F., Mukaddam, K., Filippi, A. workflow with magnetically connected
et al. (2019). Fully digitally guided implant guides for full-arch implant rehabilitation
surgery based on magnetic resonance following guided alveolar ridge reduction.
J. Prosthodont. 29 (3): 272–276.
Chương 3
Chế tạo với sự hỗ trợ máy tính (CAM)
Mayra T. Vasques, Gabriel S. Urbano, Ivan O. Gialain, Jacqueline F. Lima, Fábio Andretti,
Ricardo N. Kimura, Danilo M. Bianchi, Dionir Ventura, Fabricio L. Gebrin, Adriano R.
Campos, và Arthur R.G. Cortes

Tóm tắt
Chương này cung cấp hướng dẫn từng bước và bằng chứng nghiên cứu về tất cả các quy trình
sản xuất có sự hỗ trợ của máy tính (CAM) liên quan đến quy trình công việc kỹ thuật số trong
nha khoa.

In ba chiều (3D), còn được gọi là chế tạo đắp lớp (additive manufacturing) và tạo mẫu nhanh,
còn tương đối mới trong nha khoa. Ngoài thiết bị và phần mềm, in 3D đòi hỏi kiến thức chuyên
sâu, đòi hỏi phải học tập để đạt được mức độ thành thạo. Chương này đề cập đến loại công
nghệ in 3D chính được sử dụng trong nha khoa và các đặc tính và vật liệu quan trọng nhất được
sử dụng.
Nhìn chung, chế tạo hay sản xuất đắp lớp hoạt động bằng cách phân tầng các hạt kết
dính thông qua các quy trình khác nhau cho đến khi thu được đối tượng 3D mong muốn. Không
giống như quy trình cắt gọt (subtraction processes) khi các vật liệu dư không còn sử dụng lạ
được nữa, công nghệ này giúp tiết kiệm vật liệu và tạo ra ít rác thải hơn do chỉ sử dụng đúng
lượng vật liệu cần thiết. Thông thường, đối tượng được in từ định dạng tệp STL hoặc OBJ,
nhưng cũng có nhiều biến thể tuỳ thuộc vào phần mềm và trang thiết bị sử dụng. Các tệp này
thu được từ quá trình quét và chụp cắt lớp vi tính chùm tia hình nón (CBCT) và được xử lý
trong phần mềm thiết kế có sự hỗ trợ của máy tính (CAD). Sau khi lấy được tệp STL cuối cùng,
phần mềm sẽ thực hiện quá trình cắt để được gửi in trên máy 3D.
Thiết bị in ba chiều này là một công cụ hữu ích trong những năm gần đây và đã nhanh
chóng phát triển để sử dụng trong nha khoa. Điều này tạo ra sự cạnh tranh lớn giữa các nhà sản
xuất thiết bị và chạy đua để phát triển công nghệ hợp lý hơn để phục vụ các lĩnh vực khác
nhau.Ngoài ra, máy in 3D đã trở thành thiết bị thiết yếu trong các phòng thí nghiệm nha khoa
và nhanh chóng có mặt tại các văn phòng và phòng khám.
Máy in ba chiều được chỉ định để sử dụng trong nha khoa bao gồm các công nghệ FDM
(Mô hình hóa bằng phương pháp nóng chảy lắng đọng), SLS (thiêu kết laze chọn lọc) và SLA
(chụp ảnh lập thể) – công nghệ sau này được sử dụng nhiều nhất hiện nay.
Máy in FDM 3D, còn được gọi là máy in sợi, là công nghệ đơn giản nhất, với thiết bị
và vật tư giá cả phải chăng nhất, có sẵn nhiều nhãn hiệu và mẫu mã khác nhau. Nó sử dụng vật
liệu nhựa nhiệt dẻo để tạo ra các vật thể bằng cách lắng đọng vật liệu thông qua quá trình ép
đùn tự động ở nhiệt độ cao, với độ dày lớp dao động từ 100 đến 300μm. Loại máy in này còn
được gọi là FFF (chế tạo dây tóc hợp nhất). Nó sử dụng nhiều loại vật liệu khác nhau. vật liệu
như ABS (acrylonitrile butadiene styrene), ASA(acrylonitrile styrene acrylate), PLA (axit
polylactic), PETG (polyethylene terephthalate glycol) và nylon, ở dạng sợi được bán ở dạng
cuộn và sẵn sàng đưa vào máy. Mặc dù lợi ích về giá thành, việc sử dụng nó trong nha khoa
chỉ giới hạn trong việc sản xuất các mô hình không yêu cầu độ nét và độ phức tạp cao, chẳng
hạn như mô hình nghiên cứu và mô hình sinh học, mô hình rỗng để nghiên cứu về chỉnh nha,
và các công cụ như bộ banh miệng, giá đỡ và khay làm sẵn. Các vật liệu được sử dụng nhiều
nhất để in những sản phẩm này là ABS và PLA, vì chúng giảm chi phí, dễ xử lý, nhiều màu sắc
và cài đặt sẵn cho phần lớn máy in FDM trên thị trường.
Công nghệ thiêu kết laser chọn lọc (SLS) sử dụng tia laser công suất cao để tổng hợp
các hạt bằng cách thiêu kết (sintering). Quá trình thiêu kết có thể được định nghĩa là một quá
trình vật lý nhiệt được kích hoạt bởi nguồn laze, làm cho một tập hợp các hạt của vật liệu đặc
biệt nối với nhau, đạt được cấu trúc mong muốn với độ bền cơ học cao. Vật liệu được sử dụng
cho loại in 3D này được tìm thấy ở dạng bột trong các hợp chất polyme, kim loại và gốm sứ đa
dạng. Các vật liệu này bao gồm nylon, PEEK (poly-etheretherketone), kim loại như titanium,
và sứ. Trong nha khoa, phương pháp này có thể dùng để sản xuất các cấu trúc cho phục hình
cố định, hàm giả trên implant, hàm giả tháo lắp bán phần, implant và mão răng. Lợi ích của
quy trình này là không cần trang bị nhiều, tỉ lệ rác thải thấp, đặc tính cơ học vật liệu tuyệt với
với độ chính xác cao, giúp cho công nghệ trở nên đầy hứa hẹn.Tuy nhiên, giá trị cao của thiết
bị và vật tư, nhu cầu sử dụng lao động chuyên môn để bảo trì, kích thước lớn của thiết bị và độ
phức tạp cao của các hoạt động của máy móc khiến nó không được sử dụng thường quy trong
nha khoa và phòng lab.
Trong số tất cả các công nghệ sản xuất đắp lớp, công nghệ được sử dụng nhiều nhất
hiện nay trong nha khoa là SLA. Theo định nghĩa, kỹ thuật in lập thể là công nghệ in 3D sử
dụng quang hóa học, nghĩa là các thành phần hóa học được xử lý bằng nguồn sáng, từng lớp,
nhờ đó ánh sáng khiến các monome và oligomers liên kết chéo thành polyme tạo thành cơ thể
3D.
Có nhiều công nghệ SLA khác nhau nổi bật hiện nay trong nha khoa, công nghệ chính
là laser (khuếch đại ánh sáng bằng phát xạ kích thích), DLP (xử lý ánh sáng kỹ thuật số), và
LCD (màn hình tinh thể lỏng) (Bảng 3.1). Thông thường, tất cả đều sử dụng các nguồn sáng
có bước sóng có thể nằm trong khoảng từ 380 đến 405nm.
Máy in laser thường chỉ được gọi là SLA vì chúng là loại để bàn có giá phải chăng đầu
tiên trên thị trường. Tuy nhiên, danh pháp chính xác sẽ là SLA-laser. Chúng được đặc trưng
bằng cách sử dụng chùm tia laser cực tím (UV) và một hệ thống động cơ và gương di chuyển
kết hợp để đạt được thiết kế của từng lớp. Do tính năng này, chúng thường chậm hơn khi tạo
ra một số vật thể, vì chúng cần phải di chuyển trên toàn bộ lớp, không giống như các máy in
DLP và LCD chiếu toàn bộ dữ liệu một lớp tại một thời điểm. Kết quả in rất tuyệt vời và độ
nét phụ thuộc vào kích thước và tốc độ tiêu điểm laze. Chúng có giá thành cao, đồng thời chi
phí bảo trì và các bộ phận thay thế cũng có giá trị cao.
Máy in 3D SLA-DLP sử dụng công nghệ DLP được phát triển lần đầu tiên vào năm
1987 bởi Larry Hornbeck của Texas Instruments, dựa trên công nghệ vi cơ điện tử quang học
bao gồm các thiết bị gương siêu nhỏ kỹ thuật số. Ban đầu, kỹ thuật này được sử dụng cho các
mục đích khác như máy chiếu của rạp chiếu phim, rạp phim tại nhà, máy chiếu cho lớp học và
tivi. Vào những năm 1990, công nghệ DLP bắt đầu được sử dụng cho việc chế tạo đắp lớp.
Máy in DLP đầu tiên sử dụng máy chiếu đèn thủy ngân và, sau khi cải tiến công nghiệp, máy
chiếu mini sử dụng đèn LED UV (đi-ốt cực tím phát sáng). Các thiết bị có giá từ trung bình
đến cao, mang lại độ nét và độ hoàn thiện tuyệt vời, đồng thời các máy in hiện nay cũng cung
cấp tính lặp lại, độ an toàn và bảo trì thấp, nhưng với các bộ phận thay thế có giá trị cao. Bình
chứa của chúng cũng sử dụng màng PDMS silicone hoặc ethylenepropylene flo hóa (FEP) lót
đáy.
Máy in SLA-LCD 3D sử dụng nguồn ánh sáng LCD và LED UV để tạo ra các lớp in.
LCD ban đầu không được thiết kế cho mục đích sử dụng này và đã được sử dụng trong màn
hình TV, điện thoại di động, màn hình hiển thị, đồng hồ, radio và các thiết bị khác kể từ khi
chúng được tạo ra vào giữa những năm 1960. Ý tưởng về LCD dựa trên TFT (thin-film
transistor - bóng bán dẫn màng mỏng) do Bernard Lechner của Phòng thí nghiệm RCA hình
thành vào năm 1968. Nguồn sáng được đặt bên trong máy in, ngay bên dưới màn hình LCD.
Khi chiếu hình ảnh của từng lớp, màn hình LCD giải phóng ánh sáng đi qua và polyme hóa
nhựa. Số lượng đèn LED và thấu kính khác nhau tùy theo nhãn hiệu và kiểu máy, màu sắc, kích
thước tính bằng inch và độ phân giải khác nhau (full HD, 2, 4 và 8K). Các thiết bị này có mức
giá hấp dẫn và chi phí bảo trì thấp nên thường là lựa chọn hàng đầu của những ai muốn bước
vào thế giới in 3D SLA. Tuy nhiên, chúng dễ hỏng hơn và do vị trí của LCD đặt ngay bên dưới
bể chứa nên có xu hướng bị vỡ khá thường xuyên.

Bảng 3.1 Công nghệ và máy in chính sử dụng trong nha khoa, từ đồng nghĩa, ưu nhược điểm

Công nghệ Máy in 3D Đồng nghĩa Ưu điểm Nhược điểm


SLA Laser SLA Độ chính xác cao, Cần bảo trì chuyên dụng,
lặp lại được, kích giá thiết bị, giá linh kiện
cỡ bàn in, ít bị giãn cao, tốc độ in chậm đối
hình với số lượng lớn đối
tượng, nhựa công thức
độc đáo, thường được
khoá cấu hình
DLP Máy in Độ chính xác cao, Bảo trì chuyên dụng, giá
chiếu lặp lại được, tốc độ thiết bị, giá phụ tùng
tuyệt vời, thiết bị cao, một số thiết bị khoá
bền, kích cỡ bàn in, cấu hình
ít bị giãn hình
LCD MSLA Giá thấp, phụ tùng Bị vỡ thường xuyên hơn
rẻ, cấu hình mở cho và có nhiều biến dạng
tất cả các loại nhựa, hơn ở các góc của màn
tốc độ tốt, kích hình
thước bàn in, nhiều
loại nhựa hơn, nhỏ
và nhẹ
FDM FDM FFF Đầu vào và thiết bị Thời gian in lớn, độ nét
giá thấp, vật liệu có kém đối với hầu hết các
thể tái chế chỉ định nha khoa, thiếu
vật liệu đã đăng ký để sử
dụng trong miệng, bảo
trì liên tục, tiêu thụ năng
lượng

Nhựa SLA bao gồm các hợp chất composite lỏng chủ yếu là các oligomers và monome,
nhưng chúng cần các chất phụ gia khác để hoạt động trong từng loại thiết bị, chẳng hạn như
chất chặn tia cực tím, chất ức chế, chất phân tán, sắc tố, chất kích hoạt ảnh và các loại chất độn
khác. Công thức của từng loại nhựa phụ thuộc độc quyền vào chỉ định và thiết bị sẽ được sử
dụng, bước sóng, độ bền uốn, độ bền kéo, khả năng chống va đập, chu kỳ, độ nhớt, khả năng
tương thích sinh học, màu sắc, mùi, v.v. Ví dụ, chúng ta có thể đề cập đến loại nhựa được sử
dụng để chế tạo mão răng tạm thời và vĩnh viễn, sử dụng tải trọng tương tự như vật liệu tổng
hợp trong văn phòng, chẳng hạn như thủy tinh, sứ. Nhựa sử dụng cho máy in SLA trong nha
khoa được chia làm hai nhóm lớn, tương hợp sinh học và không tương hợp sinh học, minh hoạ
trong bảng 3.2.
Hầu hết các thành phần của nhựa 3D SLA là các nguyên tố nhiệt rắn có nguồn gốc từ
dầu mỏ, không giống như nhựa nhiệt dẻo, không thể tái chế ở trạng thái rắn (sau khi in). Yếu
tố này gây ra rủi ro đáng kể cho môi trường do in 3D ngày càng tạo ra nhiều chất cặn sẽ tồn tại
trong hệ sinh thái trong thời gian dài. Ngoài ra, ở dạng lỏng, sự ô nhiễm rất có hại cho môi
trường nước sau khi rửa hoặc xử lý chai, đặc biệt là đối với các loại nhựa phân cực hỗn hợp,
được gọi là “hòa tan trong nước”, vì chúng phân tán dễ dàng hơn trong nước, mang lại độc tính
đáng kể hơn và tạo ra các vật liệu có thể phân hủy sinh học, đồng thời người dùng cuối phải
nhận thức được việc thải bỏ có trách nhiệm. Một số công ty đã và đang phát triển các dự án
bền vững trong lĩnh vực này, chẳng hạn như Makertech Labs, công ty đầu tiên của Brazil trong
3Dresins, nhận vật liệu từ các khách hàng lớn nhất của mình, biến chúng thành bột tại chỗ bằng
máy nghiền và pha vào vật liệu xây dựng dân dụng, giảm thiểu tác động môi trường.

Bảng 3.2 Các loại vật liệu sử dụng cho máy in nhựa và sợi 3D, và chỉ định trong nha khoa

Vật liệu Chỉ định (nha khoa)


Nhựa tương hợp sinh học Máng hướng dẫn phẫu thuật, máng nhai,
máng duy trì, các răng tạm, máng gắn chỉnh
nha, nền hàm giả tháo lắp và toàn bộ, khay cá
nhân, miếng bảo vệ hàm
Nhựa không tương hợp sinh học Mẫu hàm nghiên cứu, mẫu hàm đúc đai, mẫu
hàm làm việc, mẫu hàm sinh học, nướu giả
cho mẫu hàm, các thành phần để đúc kim
loại, các thành phần để bơm lithium disilicate
Sợi Mẫu hàm và mẫu hàm sinh học để nghiên
cứu, mẫu hàm rỗng dùng trong chỉnh nha,
banh miệng để chụp hình, các máng định vị
và khay lưu trữ

3.1 Công nghệ in 3D FDM

3.1.1 Kiến thức cơ bản

Công nghệ tạo mô hình lắng đọng nóng chảy, còn được gọi là FFF, là một quy trình sản xuất
bồi đắp trong đó vật liệu nhiệt dẻo (được trình bày dưới dạng sợi) được nung nóng thành trạng
thái bán rắn để tạo thành, từng lớp, hình học a3D. Quy trình in FDM liên quan đến các thành
phần chung, chẳng hạn như giường in, động cơ trục ( X, Y, và Z), động cơ đùn, và máy đùn
nhiệt.
Nguyên tắc cơ bản của in FDM là sợi nhựa nhiệt dẻo nóng lên bên trong máy, và động
cơ máy đẩy dây tóc qua vòi phun của máy đùn. Máy đùn, vòi phun và quạt làm mát di chuyển
qua các trục X, Y và Z. Bốn động cơ điều khiển quá trình lắng đọng vật liệu (X, Y, Z, và máy
đùn) trên bề mặt in. Vật liệu được in chồng lên nhau thành từng lớp, hợp nhất lớp mới trên lớp
cuối cùng. Sau thời gian làm mát, tất cả các lớp lắng đọng, tạo thành một đối tượng 3D.
Trong khi chuẩn bị in, người ta nên cẩn thận đặt tất cả các bộ phận lên trên bệ in
(printing bed) hoặc lớp đã in trước đó. Nếu có bất kỳ bộ phận chờm ra ngoài nào, phần mềm
tiền xử lý có thể tạo ra các giá đỡ bổ sung mà quá trình hậu xử lý sẽ loại bỏ nó.
Hầu hết các máy in FDM và sợi đều tiết kiệm chi phí so với các công nghệ in 3D khác,
giúp phương pháp này rất phù hợp với các phòng khám nha khoa, đặc biệt là đối với những
người mới bắt đầu trong quy trình làm việc kỹ thuật số. Ưu điểm khác của công nghệ này là
hoạt động tương đối đơn giản và thời gian xử lý hậu kỳ thấp.
Mặt khác, nhược điểm chính của FDM là độ phân giải in thấp hơn (ví dụ như so với
SLA và DLP), tức là khoảng 100μm trên trục Z. Mặc dù một số máy in FDM độ phân giải r
cao có thể đạt được độ phân giải lớp Z 20–50μm, những máy in này đắt hơn. Những nhược
điểm khác là độ chính xác về kích thước và khả năng tái sản xuất. Vì công nghệ FDM sử dụng
vật liệu nhiệt dẻo (Bảng 3.3), quá trình khử trùng bằng nồi hấp có thể không đạt được đối với
hầu hết các vật liệu có sẵn, nhưng có thể sử dụng các phương pháp khử trùng ở nhiệt độ thấp.
Phần lớn các bản in FDM cho mục đích nha khoa sử dụng vật liệu ABS và PLA, nhưng
các vật liệu khác, chẳng hạn như TPU (polyurethane nhiệt dẻo), PC (polycarbonate), PETG và
các polyme khác có thể được sử dụng. Ưu điểm chính của ABS là chi phí (rẻ hơn PLA), khả
năng gia công (bộ phận cuối cùng có thể kết hợp quy trình sản xuất đắp lớp và cắt gọt), và có
thể được tái chế. Mặt khác, PLA có khả năng phân hủy sinh học (thường được làm từ bột ngô),
cần nhiệt độ in thấp hơn và độ co rút thấp hơn.

Bảng 3.3 Các vật liệu sử dụng cho in 3D sợi

Vật liệu Chỉ định Ưu điểm Nhược điểm


ABS Chế tạo mẫu hàm Vật liệu cứng và bền, chi Sản xuất khí độc trong khi in,
sinh học, khay lấy phí thấp, có thể tái chế nhiệt độ in cao, cong vênh dễ
dấu, máng hướng dàng
dẫn phẫu thuật
PLA Phân hủy sinh học, cong
Hấp thụ nước, độ bền va đập
vênh thấp, in ở nhiệt độ
thấp, vòi phun có thể tắc
thấp, dễ in nghẽn
PETG Hoàn thiện mịn, an toàn
Chống mài mòn thấp, nhiệt độ
thực phẩm, chống ẩmin cao, không có nhiều tùy
chọn như PLA và ABS
PC Khả năng chịu nhiệt, cơ Nhiều thách thức hơn để in,
học nhiệt độ in cao, giá cao hơn
TPU Mô phỏng mô Tính linh hoạt, chống mài Nhiều thách thức hơn để in,
mềm cho mẫu mòn, kháng hóa chất (dầu) nhiệt độ in cao, giá cao hơn
hàm sinh học

Hình 3.1 (a) Hiệu chuẩn máy in 3D sợi. ( b - d ) Sản xuất mô hình nha khoa.
Một số polyme sinh học và các sợi khác đang được phát triển và các nghiên cứu sâu
hơn có thể chứng minh các ứng dụng khác nhau trong nha khoa, bao gồm các vật liệu dẻo. Các
vật liệu sợi khác có thể có sẵn để sử dụng FDM, nhưng chúng chủ yếu được sử dụng cho mục
đích nghệ thuật hoặc kỹ thuật.
Trong nha khoa cấy ghép, máy in FDM chủ yếu được sử dụng để chế tạo mô hình sinh
học nghiên cứu và làm việc (Hình 3.1), khay lấy dấu cá nhân, nguyên mẫu cho máng hướng
dẫn khung tái tạo xương và máng hướng dẫn phẫu thuật.

3.1.2 Quy trình từng bước

Quy trình làm việc với máy in FDM có bốn quy trình chính: hiệu chuẩn, tiền xử lý, in và xử lý
sau in.

3.1.2.1 Hiệu chuẩn (Calibration)


- Mỗi máy in có quy trình hiệu chỉnh riêng, nhưng trong hướng dẫn từng bước này, máy in
FDM chi phí thấp (Anycubic) sẽ được sử dụng.
- Sau khi lắp ráp máy in (nếu cần), hãy kiểm tra xem khung có vuông góc không và tất cả các
dây đai đều được căng đúng cách. Nếu có vấn đề gì xảy ra, bản in sẽ không có độ chính xác về
kích thước.
- Tất cả các bộ phận của máy in phải được làm sạch và bôi trơn (nếu cần) để tránh ma sát quá
mức giữa các bộ phận và để quạt làm mát hoạt động đúng chức năng.
- Cân chỉnh khay: thường có bốn nút bấm dưới khay in điều chỉnh chiều cao của khay sao cho
song song với chuyển động X và Y. Một số máy in có tính năng cân bằng khay tự động giúp
đảm bảo việc cân bằng khay chính xác. Kỹ thuật phổ biến nhất được sử dụng để cân bằng
giường là đặt đầu phun ở nhiều điểm khác nhau trên khay (ở cùng một khoảng cách Z) và điều
chỉnh khoảng cách cho đến một mảnh giấy bình thường nằm giữa đầu phun và khay. Kỹ thuật
này thường sử dụng phổ biến (nhưng không chính xác lắm) để điều chỉnh chiều cao khay,
nhưng các kỹ thuật tiên tiến hơn sẽ sử dụng thiết bị và công cụ, chẳng hạn như máy đo điện tử
an toàn. Nếu đầu phun quá xa khay in, bản in có thể tách ra khỏi khay in và nếu đầu phun quá
gần, dây tóc có thể tạo ra một dòng in có vật liệu dư thừa ở hai bên (hiệu ứng chân voi).
- Vòi phun và ống dây tóc phải thông thoáng không bị tắc nghẽn. Nếu có bất kỳ dây tóc nào bị
tắc nghẽn, nó có thể ảnh hưởng đến việc tạo ra kết cấu chính xác và gây ra lỗi in. Có một loại
kim chuyên dụng để thông tắc nghẽn và quy trình này phải được thực hiện với máy đùn tại
nhiệt độ in.
- Động cơ của tất cả các trục phải được hiệu chuẩn. In thử một bản trống để kiểm tra hiệu chuẩn
X, Y và Z (thường là khối hiệu chuẩn có kích thước đã biết) và khối in phải được đo đạc lại.
Nếu có bất kỳ sai lệch nào, bước/chuyển động phải được điều chỉnh. Đối với bản in nhỏ hơn
tệp 3D, các bước/mm phải được tăng lên bằng cách sử dụng phép tính tỷ lệ đơn giản và điều
chỉnh này phải được thực hiện cho cả ba trục.
- Sau đó, vòi phun phải được đặt ở nhiệt độ in để hiệu chỉnh động cơ đùn và tạo một vĩnh viễn
ở khoảng cách 110 mm so với lối vào của động cơ đùn. Sau khi tạo dấu, ra lệnh cho máy in
đùn ra khoảng cách nhỏ hơn dấu (100 mm). Khoảng cách còn lại giữa dấu và lối vào của máy
đùn phải là 10 mm. Theo hướng dẫn hướng dẫn tương tự đối với X, Y, và Z, các bước/mm của
máy đùn nên được hiệu chỉnh.
- Mỗi vật liệu phải được in với dữ liệu nhiệt độ cụ thể, nhưng nhiệt độ in có thể thay đổi đôi
chút, thậm chí giữa các lô của cùng một vật liệu và nhà sản xuất. Để có kết quả tốt hơn, có sẵn
bản in thử để kiểm tra một số nhiệt độ in trong một lần in và người dùng có thể chọn nhiệt độ
tốt nhất cho từng tình huống. Thông thường, các nhà sản xuất sẽ khuyến cáo phạm vi nhiệt độ
để in với từng vật liệu.
- Có nhiều quy trình hiệu chỉnh nâng cao hơn, nhưng đây là những bước đầu tiên để in bằng
máy in FDM.

Sau khi hiệu chỉnh máy in FDM, bước tiếp theo là điều chỉnh hình học trong phần mềm
CAD. Trong ví dụ này, phần mềm mã nguồn mở sẽ được sử dụng (Autodesk Meshmixer®,
phiên bản 3.5.474) để chuẩn bị mô hình sinh học nghiên cứu hàm trên. Đây là các bước cho
giai đoạn tiền xử lý.
- Nhập tệp STL được tạo từ quá trình quét trong miệng.
- Vì tệp có thể có các phép đo cạnh không mong muốn, nên nó phải làm sạch. Quá trình này
đạt được bằng cách chọn các lát cắt sẽ không được in và xóa chúng.
- Sau khi làm sạch các phần không mong muốn, mô hình phải được chuyển đổi thành khối kín
kể từ máy in 3D phần mềm nhận ra các mắt lưới khép kín. Để đóng hình học với một bề mặt
phẳng, các đường biên có thể được làm mịn và ép đùn (bằng cách chọn các tam giác viền và
sử dụng các công cụ "đường bao mịn" và "đùn"), và cuối cùng tạo một lưới kín bằng công cụ
"tạo khối".
- Xuất tệp STL sẵn sàng cho máy in và mở phần mềm cắt. Trong ví dụ này, máy cắt Ultimaker
Cura (phiên bản 4.6.1) đã được sử dụng và mô hình đã được xoay để tạo chỗ cho vật liệu hỗ
trợ.
- Chọn các tham số in được điều chỉnh cho vật liệu in và sợi in và lưu tệp G-code. Trong ví dụ
này, sợi nhựa PLA được sử dụng với nhiệt độ đầu phun là 200°C, chiều cao lớp là 200μm và
chất độn 20% (chất độn rắn sẽ mất nhiều thời gian và vật liệu hơn nhưng không làm tăng chất
lượng in). Tổng thời gian in khoảng 1 giờ 55 phút, sử dụng dây tóc 12g (hoặc 4,12m).

3.1.2.2 In và quy trình sau đó


Khi tệp G-code đã sẵn sàng, nó được gửi tới máy in qua thẻ micro-SD hoặc sử dụng kết nối
wi-fi. Máy in sẽ tự động điều chỉnh nhiệt độ khay và đầu phun và in theo đối tượng mà không
gặp bất kỳ sự cố nào. Sau khi hết thời gian in, các bộ phận hỗ trợ phải được gỡ bỏ bằng máy
cắt và mẫu cuối cùng đã sẵn sàng.

3.2 Màn hình tinh thể lỏng (LCD)

3.2.1 Kiến thức cơ bản

Màn hình tinh thể lỏng là một công nghệ quang trùng hợp trong thùng được gọi là thiết bị in
litô lập thể có mặt nạ (MSLA). Nó bao gồm một mảng LED và một màn hình LCD hoạt động
như một mặt nạ động, cho phép ánh sáng chiếu tới đó thông qua các pixel của nó, tạo thành
thiết kế của lớp in. LCD là một phần của thế hệ thứ hai của SLA sử dụng hình chiếu của toàn
bộ lớp ánh sáng để xử lý nhựa thay vì một chùm tia laze duy nhất, làm cho công nghệ này
nhanh hơn đáng kể so với SLA ban đầu [1].
Trong thiết bị này, thùng nhựa được đặt trên bề mặt LCD với bộ phim FEP tiếp xúc trực tiếp.
Vì đèn LED là nguồn sáng yếu nhất trong in 3D thùng, nên nó phải càng gần nhựa trùng hợp
càng tốt.
Công suất ánh sáng là đặc tính thiết yếu vì nó có thể làm hỏng các điểm ảnh LCD. Một yếu tố
khác là nguy cơ rò rỉ nhựa từ thùng có thể làm hỏng vĩnh viễn bề mặt LCD [2].
Tuổi thọ của màn hình LCD được kéo dài bằng cách giảm quá trình polyme hóa của từng lớp
xuống mức tối thiểu cần thiết để làm cho vật liệu cứng và duy trì kích thước đối tượng mà
không bị biến dạng. Xem xét các bộ khởi tạo quang, việc sử dụng nhựa có công thức đặc biệt
cũng hỗ trợ hiệu suất của máy in LCD. Máy in LCD có thể sử dụng hầu hết các vật liệu được
sử dụng bởi máy in DLP, nhưng thời gian tiếp xúc với ánh sáng phải cao hơn để đạt được kết
quả như nhau. Do đặc tính này, bắt buộc phải hoàn tất quá trình polyme hóa trong buồng ánh
sáng tia cực tím để đạt được các đặc tính vật liệu tốt nhất [3].
Độ phân giải LCD là yếu tố thiết yếu đối với độ chính xác của đối tượng được in, xem xét nó
được hình thành bởi các pixel vuông, làm cho đường cong thực tế không thể được tạo ra. Một
màn hình có độ phân giải cao giảm thiểu hiệu ứng hình học [4,5].
Ưu điểm đáng kể nhất của LCD là giá thấp hơn, vì nguồn sáng rẻ hơn so với các loại khác.Công
nghệ LCD là lựa chọn hàng đầu cho người mới bắt đầu.Các bộ phận của thiết bị được thể hiện
dưới dạng sơ đồ trong Hình 3.2.

3.2.2 Quy trình từng bước

Như với bất kỳ quy trình nha khoa nào, in 3D yêu cầu quy trình từng bước để thực hiện công
việc. Phần này mô tả cách in 3D được thực hiện trên máy in LCD phổ biến nhất trên thị trường.
In màn hình tinh thể lỏng đã phổ biến việc in 3D bằng nhựa. Với sự xuất hiện của nhiều
nhà sản xuất, in 3D trở nên hiệu quả và rẻ tiền, cho phép nhiều nha sĩ và kỹ thuật viên bước
vào thế giới nha khoa kỹ thuật số. Hoạt động của những máy in này khá đơn giản và giá cả
phải chăng. Nói ngắn gọn, LCD là màn hình có bộ lọc ánh sáng UV, có thể bật hoặc theo yêu
cầu của phần mềm.
Phía dưới cùng của máy in là một nguồn ánh sáng UV phát ra màn hình LCD phía trên.
Lúc này, màn hình LCD tắt, không cho ánh sáng xuyên qua. Ngay sau khi đọc tệp được yêu
cầu in, nó sẽ mở hình ảnh của lớp in được yêu cầu trong tệp ngay lúc đó. Bằng cách này, ánh
sáng tia cực tím đi qua màn hình LCD và polyme hóa vùng lát cắt được xác định trước trong
phần mềm cắt.
In ba chiều bao gồm năm bước: Thu thập tệp STL, cài đặt trong phần mềm, cắt lát, in
đối tượng, rửa/xử lý sau in.

3.2.2.1 Sự thu nhận


Định dạng STL là phần mở rộng phổ biến của các đối tượng 3D và có thể được nhận
dạng bởi tất cả các phần mềm phát triển (Meshmixer, Blender®, DentalCAD®, v.v.).
Việc thu nhận hình ảnh có thể được thực hiện với máy quét trong miệng hoặc một máy
quét bệ phẳng (bench-top scanner).

3.2.2.2 Cài đặt phần mềm CAM


Sự phát triển tệp đối tượng yêu cầu sẽ phụ thuộc vào phần mềm nào sẽ được sử dụng
và mục đích (in hoặc phay cán cán). Do loại hình sản xuất, cần phải hiểu độ dày tối thiểu cần
có. Bởi vì in 3D được thực hiện theo cách đắp lớp, chúng ta sẽ có sản phẩm có độ dày mỏng
hơn so với phương pháp cắt gọt (trường hợp này xảy ra với phay cán). Vì vậy, cần phải ghi nhớ
những gì sẽ được thực hiện với đối tượng đó để tránh sự biến dạng và tối đa hóa sự rõ nét.

3.2.2.3 Cắt lớp


Một đối tượng in 3D có thể được so sánh với một cuốn sổ tay, ở chỗ nó bao gồm nhiều tờ giấy
(các lớp). Hệ thống sẽ đưa vật liệu thành nhiều lớp. Các tờ giấy là các lớp/lát in 3D và sổ tay
là đối tượng được in. Do đó, tất cả hoạt động in 3D (dù là nhựa hoặc sợi) đều được tạo ra từ sự
kết hợp của một số lớp chồng lên nhau, có thể có độ dày và thời gian trùng hợp khác nhau. Đó
là những gì phần mềm cắt thực hiện – cắt đối tượng được trùng hợp thành mỗi lớp tại mỗi thời
điểm, và cấu trúc nó theo bản vẽ.
Có một số chương trình phần mềm cắt lát trên thị trường và mỗi chương trình tạo ra
một phần mở rộng tệp có thể đọc được bởi máy in. Hai trong số các phần mềm cắt lớp nổi tiếng
nhất cho máy in LCD là Chitobox Basic® (CBD-Tech, Thâm Quyến, Trung Quốc) và Photon
Workshop®, cả hai đều miễn phí (Hình 3.3).
Tiếp tục với ví dụ sổ ghi chép, hãy tưởng tượng về quá trình sản xuất các tờ giấy: mỗi
tờ giấy có thể có độ dày khác nhau. Các tờ giấy dày hơn, mặc dù có độ bền cao hơn, nhưng
được cắt nhanh hơn và “độ hoàn thiện” của chúng có thể kém hơn. Mặt khác, các tờ mỏng hơn
mất nhiều thời gian hơn để cắt và “độ hoàn thiện” (sự rõ nét) của chúng có xu hướng tốt hơn.

Hình 3.2 Sơ đồ trình bày các bộ phận của máy in LCD

Trong in 3D, chúng ta có thể thực hiện theo lý luận tương tự. Khi cắt lát một vật thể,
cần phải thông báo cho phần mềm biết độ dày của từng lớp sẽ được thực hiện. Độ dày phổ biến
nhất trong nha khoa là 100 và 50μm. Ngoài ra, cần phải cho phần mềm biết thời gian tiếp xúc
với ánh sáng của mỗi lớp sẽ là bao nhiêu. Lớp càng dày thì thời gian tiếp xúc càng lớn, vì ánh
sáng phải đi qua độ dày lớn hơn. Tuy nhiên, thời gian phơi sáng không tỷ lệ thuận với giá trị
độ dày. Ví dụ: nếu mất 2 giây để in 50μm, điều đó không có nghĩa là cần 4 giây để in ở 100μm.
Vì vậy, in ở 100μm nhanh hơn nhiều so với in ở 50μm hoặc thậm chí là in ở 25μm. Tuy nhiên,
lớp càng dày thì độ sắc nét của đối tượng càng nhỏ.

Hình 3.3 Ảnh chụp màn hình dự án đã sẵn sàng để được cắt lát, hiển thị độ dày của các lớp đối
tượng và cài đặt thời gian phơi sáng.
Trong thực tế, khi thực hiện in 3D, nhất thiết phải nghĩ đến mục đích của việc in. Khi
in mẫu để llàm khay tẩy trắng (Hình 3.4), không cần in mẫu có độ nét quá cao, chỉ cần in mẫu
sao cho trung thực hình dạng của răng đã quét là đủ. Do đó, có thể được in ra một mẫu 100μm.
Mặt khác, nếu ý định là thực hiện mock-up, cần thiết có độ nét cao hơn để phân tích các khu
vực phản chiếu, kết cấu, hình dạng và vị trí của vùng cổ răng và các rãnh phát triển, thì tốt nhất
là bản in ở 50μm.
Khi việc phân lớp xác định in 3D, số lượng các lớp càng cao thì càng mất nhiều thời
gian để in đối tượng đó. Sau khi đối tượng được cắt lát, nó phải được xuất sang máy in (xem
chủ đề tiếp theo).

Hình 3.4 Chế độ xem từ mặt nhai của mô hình in 3D ở 50 μm, với khay tẩy trắng được tạo
hình chân không.

Một khía cạnh thiết yếu khác mà chúng tôi sẽ đề cập đến là vật liệu in, trong trường
hợp này là nhựa in. Mỗi loại nhựa đều có các đặc tính quang học (màu sắc và độ trong suốt),
đặc tính độ bền cơ học và các mục đích cụ thể. Có nhiều loại nhựa trên thị trường với các mục
đích khác nhau: cho mẫu hàm, máng chống nghiến, máng dẫn hướng phẫu thuật, nhựa dẻo,
nhựa cho hàm giả, nhựa hàm tạm, và của các thương hiệu khác nhau. Mỗi sản phẩm đều có
thời gian phơi sáng chính xác được thiết lập trong quá trình hiệu chuẩn để vật thể in trung thực
với thiết kế. Do đó, thời gian phơi sáng sẽ phụ thuộc vào độ dày các lớp, màu nhựa, loại nhựa.
Nhựa có chất độn trong thành phần của chúng cần thời gian phơi sáng lâu hơn nhựa mô hình,
loại nhựa không cần độ kháng.
Người ta có thể thấy rằng cần một số bước trước khi in để có được dấu tốt. Điều cần
thiết là thiết kế trong phần mềm, cắt lát, rồi in. Do đó, tất cả các thông số này phải được tính
đến trước khi quá trình in được thực hiện.

3.2.2.4 In vật phẩm


Mặc dù có vô số tùy chọn trên thị trường, với chi phí ngày càng thấp và hiệu suất ngày càng
cao hơn khi so sánh máy in LCD và SLA/DLP, hầu hết các máy in đều có cùng một hệ thống
in, chỉ thay đổi bố cục.
Sau khi xuất tập tin đã cắt, nó có thể được truyền tới máy in thông qua bộ chuyển
đổi/cổng USB hoặc wi-fi.
Khi lấy bản in ra khỏi khay in, thường yêu cầu một lực đáng kể, vì vậy, mỗi khi bản in
được thực hiện, trục Z cần hiệu chỉnh để khay in song song với LCD, tùy thuộc vào loại máy
in. Cần phải vặn vít van điều tiết trục Z, hạ thấp khay về vị trí “home” hoặc “idle” (không hoạt
động) và làm cho nó song song với LCD. Sau khi thực hiện, hãy vặn chặt lại vít.
3.2.2.5 Rửa/ Chiếu đèn
Sau khi quá trình in kết thúc, cần phải rửa và xử lý đối tượng đã in.

Rửa
Bước này có thể được thực hiện thủ công hoặc sử dụng một thiết bị có chuyển động rung. Cách
phổ biến nhất là cho cồn vào máy siêu âm hoặc thậm chí là nồi và khuấy trên máy rung thạch
cao. Một cách khác cũng trở nên phổ biến hiện này là sử dụng máy rửa và sấy có chế độ rửa và
sau đó là chế độ sấy khô. Bất kể phương pháp làm sạch nào được sử dụng, nó nên được thực
hiện tối đa trong 5–10 phút, vì nhựa sẽ hòa tan trong cồn.Do đó, rửa trong cồn hơn 10 phút có
thể làm biến dạng vật liệu in.
Sau khi rửa, cần đợi cho vật thể khô hoàn toàn. Sau khi đồ vật được in, lớp bên ngoài
vẫn còn sền sệt, dính, hoặc nhớt. Điều này là do lớp ngoài bị ức chế bởi oxy. Không nên làm
khô bằng giấy, chất thấm hút khác, hoặc thậm chí là ống tiêm. Cồn được sử dụng là loại tuyệt
đối; có điểm sôi thấp, để khô tự nhiên hoặc sử dụng buồng nhiệt. Một khi bề mặt bóng trở nên
lì, không thể xử lý sau in.

Xử lý sau in
Quá trình xửa lý sau in phải được thực hiện sao cho đối tượng được polyme hóa hoàn toàn.
Quy trình sẽ phụ thuộc vào đó được sử dụng. Thời gian xử lý thay đổi từ 15 đến 45 phút và
phải được thực hiện trong một thiết bị phát ra tia UV có bước sóng từ 385 đến 410nm, công
suất trên 36W. Do đó, cần đảm bảo buồng sáng có các tính năng này (Hình 3.5).

3.2.26 Kết luận


Tóm lại, in 3D được thực hiện trong nha khoa đòi hỏi độ nét và chất lượng phù hợp với mọi
nhu cầu.Do đó, cần phải cân bằng giữa độ phân giải và tính thực tế. In 3D phải dễ thực hiện,
khách quan và thoải mái khi thực hiện. Khả năng ứng dụng in 3D trong nha khoa rất hấp dẫn
và đã trở thành một thực tế hàng ngày trong thực hành lâm sàng và lab.

Hình 3.5 Máng nhai in được đặt trong buồng sáng

3.3 In lito lập thể (SLA)

3.3.1 Kiến thức cơ bản


Quy trình SLA là quy trình sản xuất đắp lớp lâu đời nhất, được cấp bằng sáng chế vào năm
1988, quy trình này chỉ được sử dụng rộng rãi sau khi bằng sáng chế hết hạn vào đầu những
năm 2000 [6]. Quy trình này bao gồm quá trình polyme hóa từng lớp một của nhựa lỏng nhạy
cảm với ánh sáng, thông qua chùm tia laze UV. Trong quá trình này, nhựa được phân tán trong
một bể chứa, và chùm ánh sáng chiếu vào nhựa chính xác nơi vật thể sẽ được hình thành trên
nền tảng xây dựng/tấm bản dựng (building platform). Bằng cách sử dụng hai điện kế gương
chuyển động, một ở trên trục X và một ở trên trục Y, chùm tia laser có thể chiếu tới toàn bộ nền
in. Bằng cách kết hợp chuyển động của các gương, tia sáng sẽ được truyền tới từng phần của
lớp hiện tại cho đến khi được in hoàn toàn. Độ tới của ánh sáng này cung cấp đủ năng lượng
để bắt đầu phản ứng polyme hóa, tạo thành một lát nhỏ của vật thể trên tấm bản dựng. Sau đó,
tấm bản dựng di chuyển lên trên hoặc xuống dưới, tùy thuộc vào loại máy in SLA, tùy theo độ
dày của lớp tiếp theo. Quá trình này lặp lại cho đến khi vật thể được định hình đầy đủ [7]. Bảng
3.4 trình bày vật liệu chính được sử dụng cho máy in SLA.
Sau khi quá trình in hoàn tất, vật thể sẽ trải qua quá trình xử lý sau in, bao gồm ba bước
cơ bản [6]. Vật thể cần được rửa trong dung môi nhựa (thường là cồn isopropyl) để loại bỏ
nhựa chưa được xử lý khỏi bề mặt của nó [7], sau đó, sau khi vật thể khô hoàn toàn (dung môi
bay hơi), nó phải được tiếp xúc một lần nữa với nguồn ánh sáng tia cực tím nhưng bây giờ là
bên trong buồng để hoàn tất quá trình polyme hóa [ 8]. Cuối cùng, cẩn thận tháo các giá đỡ để
tránh làm hỏng đối tượng [8].
Ưu điểm chính của in SLA là độ chính xác và độ nhẵn bề mặt của đối tượng in so với
các kỹ thuật khác. Độ dày tối thiểu của mỗi lớp là 0.025mm (hay 25μm), cho phép sự chuyển
tiếp mượt mà giữa các lớp; bên cạnh đó, độ hoàn thiện nhẵn có thể đạt được do ánh sáng được
chiếu theo dạng chùm tia hình tròn, cho phép các đường cong sắc nét hơn, không giống như
pixel vuông được sử dụng trong các kỹ thuật in khác [9].
Cuối cùng, các quy trình mới hơn, chẳng hạn như DLP và MSLA, chiếu một lớp ánh
sáng có hình dạng của vật thể trùng hợp và linh hoạt hơn.Vì lý do tương tự, số lượng các bộ
phận trong thiết bị sẽ nhỏ hơn, giúp giảm chi phí thiết bị [9].

3.3.2 Quy trình từng bước

Hướng dẫn sau đây là ví dụ về cách làm việc với máy in 3D SLA.

3.3.2.1 Thiết lập máy in


Vị trí lắp đặt phải được bảo vệ khỏi ánh nắng mặt trời, vị trí đó cũng phải được thông gió, cho
phép làm mát thiết bị một cách thích hợp và tránh nồng độ hơi từ nhựa trong môi trường. Nhiệt
độ phòng ổn định (khoảng 25°C) được khuyến nghị cho kết quả có thể dự đoán được của quy
trình in 3D.

3.3.2.2 Điều chỉnh thiết bị


Bề mặt mà thiết bị được lắp đặt phải được cân bằng theo chiều ngang và đảm bảo sự ổn định
trong quá trình di chuyển của máy in.

3.3.2.3 Trang bị bảo vệ cá nhân (PPE)


Tấm bản dựng phải được cài đặt trên giá đỡ máy in một cách chắc chắn để ngăn chặn chuyển
động. Phải kiểm tra độ cân bằng của nó nếu phát hiện lỗi về độ bám dính của máy in.
Bể chứa bên trong có bề mặt trong suốt, và điều quan trọng là phải đảm bảo tính toàn
vẹn và độ trong suốt của vật liệu để duy trì chất lượng in. Trước khi bắt đầu in, người ta phải
kiểm tra chắc chắn không có cặn, vết ố hoặc vùng mờ. Cũng phải đánh giá tính lưu động, tính
đồng nhất và sự vắng mặt của các mảnh nhựa polyme hóa nằm trong bể chứa. Sau khi in, không
nên để nhựa trong bể chứa trong thời gian dài vì nó có thể làm hỏng bề mặt , gây nứt bể chứa
và thủng màng nhựa dẻo. Quá trình vệ sinh nên được thực hiện bằng bay dẻo có đầu mút tròn
để tránh làm hỏng bể chứa.

3.3.2.4 Sửa soạn khoang chứa nhựa (Vat) và thiết lập tấm
Tấm nền dựng phải được cài đặt trên giá đỡ máy in một cách chắc chắn để ngăn chặn chuyển
động. Phải kiểm tra độ cân bằng của nó nếu phát hiện lỗi hiện tại về độ bám dính của máy in.
Bể chứa bên trong có bề mặt trong suốt, và điều quan trọng là phải đảm bảo tính toàn vẹn và
độ trong suốt của vật liệu để duy trì chất lượng in. Trước khi bắt đầu in, người ta phải kiểm tra
xem không có cặn, vết ố hoặc vùng mờ. Cũng phải đánh giá tính lưu động, tính đồng nhất và
sự vắng mặt của các mảnh nhựa polyme hóa nằm trong bể chứa. Sau khi in, không nên để nhựa
trong bể chứa trong thời gian dài vì nó có thể làm hỏng bề mặt , gây nứt bể chứa và thủng màng
nhựa dẻo Quá trình vệ sinh nên được thực hiện bằng thìa linh hoạt có đầu mút tròn để tránh
làm hỏng bể chứa.

3.3.2.5 Các loại nhựa


Nhựa để in 3D sử dụng kỹ thuật SLA dựa trên các oligomer polymethyl methacrylate, chất
quang hóa, thuốc nhuộm và chất độn vô cơ. Một số loại nhựa đã được phát triển cho các ứng
dụng như tạo mẫu mô hình, làm phục hình một phần và toàn bộ, các thiết bị linh hoạt như máng
dán mắc cài chỉnh nha và nướu nhân tạo trong các mô hình, máng nhai, máng hướng dẫn phẫu
thuật, v.v.. Bảng 3.4 đưa ra các chỉ định và lợi thế của các loại nhựa SLA được sử dụng nhiều
nhất.

3.3.2.6 Chuẩn bị nhựa


Trước khi đổ nhựa vào bình chứa đó, chúng tôi khuyên bạn nên khuấy chai nhựa để đồng nhất
chất lỏng và tránh lỗi in do các thành phần có thể lắng xuống, chẳng hạn như các sắc tố tạo
màu cho nhựa. Luôn tuân thủ theo hướng dẫn của nhà sản xuất.

3.3.2.7 Phun nhựa


Bình chứa nhựa thông thường có các chỉ định về mức tối thiểu và tối đa. Thiếu nguyên liệu có
thể dẫn đến các bộ phận không hoàn chỉnh, trong khi thừa có thể dẫn đến tràn, làm hỏng máy
in. Một số máy in có hệ thống nạp nhựa tự động luôn duy trì ở mức cao nhất trong suốt quá
trình.

3.3.2.8 Các thông số in


Các thông số của máy in (Hình 3.6) phải được quan sát để tránh bị biến dạng và hỏng hóc được
trình bày dưới đây.
- Định hướng đối tượng phù hợp sẽ ngăn ngừa các thể tích rỗng hoặc bọt trong mô hình. Lực
hút tạo ra có thể gây ra sự tách biệt giữa các lớp in, khiếm khuyết về cấu trúc, cong vênh và lỗi
in. Việc nghiêng các bề mặt phẳng 10–20° cũng làm giảm lượng tiếp xúc của bản in với hộp
chứa và tăng tỷ lệ thành công.
- Tạo phần nâng đỡ (generating supports) cho các khu vực quan trọng không được nâng đơ tối
thiểu và phần nhô ra (các khu vực không có hệ thống tự hỗ trợ và mở rộng trên thân chính).

3.3.2.9 Tải công việc


Sau khi xác định các tham số của máy in, phần mềm sẽ cắt đối tượng thành nhiều lớp theo độ
dày đã chọn và sẽ chuyển đổi tất cả các cài đặt thành một chuỗi lệnh cho máy in, sau đó sẽ
được tải lên thiết bị (sử dụng bộ nhớ wi-fi hoặc thẻ nhớ)

3.3.2.10 In
Máy in sẽ bắt đầu xây dựng vật thể được thiết kế, từng lớp một cho đến khi vật thể được hoàn
thành và sẵn sàng để lấy ra (Hình 3.7).Tại thời điểm này, các lớp được polyme hóa một phần
và bề mặt được bao phủ bởi nhựa chưa xử lý. Vật thể sau đó sẽ cần được làm sạch và xử lý sau
in.
Hình 3.6 Chụp màn hình phần mềm in 3D. (a) Mão răng được đặt ở trung tâm của bệ in. (b)
Các thanh hỗ trợ được tạo ra đối diện với phần khớp cắn để tránh ảnh hưởng đến phần bên
trong. (c) Loại nhựa và độ dày từng lớp. (d) Chi tiết về cài đặt in.

3.3.2.11 Bỏ tấm đỡ
Cần bảo vệ người vận hành khỏi tiếp xúc với nhựa lỏng với găng tay, khẩu trang và kính bảo
hộ. Nếu nhựa tiếp xúc với da, hãy rửa ngay bằng xà phòng và nước, đồng thời tham khảo Bảng
thông số kỹ thuật của vật liệu. Nếu nhựa bị đổ ra ngoài, hãy làm sạch ngay trước khi nhựa làm
hỏng thiết bị, chẳng hạn như cửa sổ kính quang học.
Vật thể phải được dính chặt vào tấm dựng và có thể khó lấy vật thể ra, điều này có thể yêu cầu
sử dụng thìa kim loại hoặc kìm.

3.3.2.12 Bỏ nhựa chưa đông


Vào cuối quá trình in, đối tượng được phủ bởi nhựa chưa được xử lý và phải loại bỏ phần nhựa
này. Sản phẩm phổ biến nhất được sử dụng cho quy trình này là cồn isopropyl, mặc dù một số
loại nhựa gốc nước đã được phát triển gần đây.
Quy trình bao gồm rửa các phần đã in trong hai bước bằng cách sử dụng các bình chứa cồn độc
lập. Bình thứ nhất nhận phần vừa được lấy ra khỏi máy in và chuyển qua bình thứ hai - chứa
"cồn sạch hơn". Thời gian tiếp xúc với dung môi sẽ thay đổi tùy theo nhãn hiệu và loại nhựa
được sử dụng, và điều cần thiết là luôn luôn tìm kiếm thông tin từ nhà sản xuất. Sử dụng thiết
bị siêu âm hoặc thiết bị tạo ra dòng xoáy để khuấy cồn được cho là thúc đẩy việc làm sạch cao
hơn so với việc chỉ đơn giản ngâm vật thể vào dung môi. Vào cuối quá trình này, vật thể phải
để khô hoàn toàn.

3.3.2.13 Xử lý sau in
Quá trình xử lý sau in là cần thiết để kết thúc quá trình trùng hợp đối tượng nhằm đảm bảo các
đặc tính tốt nhất của vật liệu, theo thông số kỹ thuật của nhà sản xuất.
Bằng cách sử dụng một buồng sáng phát ra ánh sáng tia cực tím (bước sóng trong
khoảng từ 385 đến 405nm), vật thể này có thể được polyme hóa đồng nhất; quá trình này phụ
thuộc vào thời gian và nhiệt độ cũng như thay đổi theo vật liệu, theo hướng dẫn của nhà sản
xuất.
Sau quá trình chiếu đèn, tháo các phần đỡ để đảm bảo độ ổn định về kích thước, sử
dụng nhíp loại kìm mũi nhỏ tinh tế cho phép vặn nhẹ các thanh giá đỡ, tách nó ra khỏi bề mặt
vật thể mà không gây hư hại.Nếu cần, có thể đánh bóng bề mặt, nâng cao hơn nữa chất lượng
bề mặt cuối cùng

Hình 3.7 Nguyên mẫu mão răng được in thành công, treo trên tấm dựng

3.3.2.14 Lọc nhựa


Phần còn lại trong bể chứa cần được xử lý cẩn thận trước khi được lưu trữ trong chai một lần
nữa. Người ta sẽ lọc nhựa qua bộ lọc dầu hoặc sơn có lưới mịn hoặc 190μm để tránh ô nhiễm
nhựa với nhựa đông một phần hoặc các tạp chất khác phân tán trong đó trong bể chứa.
Điều quan trọng không kém là bình chứa được sử dụng để lưu trữ. Nên sử dụng bao bì
gốc hoặc chai trong suốt để bảo vệ bên trong khỏi ánh sáng.

3.3.2.15 Vật liệu nhựa và chất tan


Nhựa chưa trùng hợp sử dụng trong in 3D là chất độc hại và không bao giờ được vứt bỏ ở trạng
thái ban đầu, vì nó có thể gây ô nhiễm đất và nước. Điều cần thiết là phải polyme hóa nó hoàn
toàn trước khi thải bỏ, chỉ bằng cách tiếp xúc với ánh sáng mặt trời (hoặc nguồn sáng tia cực
tím khác) cho tới khi đông hoàn toàn. Cần cẩn thận tương tự với các vật liệu được sử dụng để
làm sạch và làm khô các vật thể in, chẳng hạn như dung môi, khăn giấy và các bộ phận tiêu
hao như chai nhựa và bể chứa nhựa.
Nên lưu trữ dung môi trong một chai trong vài ngày để đợi các hạt lắng xuống. Sau đó,
phần còn lại của chất lỏng có thể được lọc và sử dụng lại trong bể chứa ban đầu, và phần dưới
cùng phải được phơi dưới ánh nắng mặt trời trước khi thải bỏ.
Luôn bảo vệ người vận hành khỏi tiếp xúc với các chất hoá học bằng cách sử dụng găng
tay, khẩu trang, và kính bảo hộ để tránh các tổn hại sức khỏe có thể xảy ra.

3.3.2.16 Bảo trì phòng ngừa


Bảo trì phòng ngừa là hoạt động cần thiết để lường trước các sự cố tiềm ẩn, ngăn thiết bị dừng
đột ngột và tránh biến dạng in.
Cần phải kiểm tra tính toàn vẹn của bình chứa nhựa và tấm dựng, cũng như độ sạch của
cửa sổ kính quang học trước mỗi quy trình in.
Có thể sử dụng các tệp hiệu chuẩn để in kiểm tra chất lượng in. Tần suất của quy trình
này khác nhau tùy theo nhà sản xuất máy in và nhà sản xuất nhựa. Hãy tham khảo các tài liệu
hỗ trợ của nhà sản xuất để biết thêm thông tin.

Hình 3.8 Một máy in DLP 3D (FlashForge Hunter).

3.4 Quy trình ánh sáng kỹ thuật số (DLP)

3.4.1 Kiến thức cơ bản

Máy in 3D xử lý ánh sáng kỹ thuật số là một trong số các máy sản xuất đắp lớp trong dòng
máy quan trình hợp thùng (Vat photopolymerization) [10]. Các máy này sử dụng áy chiếu tích
hợp hàng trăm ngàn hoặc hàng triệu gương mini chuyển động bởi năng lượng điện tĩnh, với
chức năng là phản xạ và điều hướng ánh sáng UV tới thùng máy in (printer’s vat) [11].
Công nghệ in ba chiều thông qua DLP là một trong những công nghệ phù hợp nhất cho
những người dùng cần khối lượng sản xuất cao (Hình 3.8). Tuổi thọ lâu dài của động cơ ánh
sáng – máy chiếu được sử dụng trong loại máy in 3D này – có ưu điểm là số lượng can thiệp
bảo trì ít hơn, không giống như máy in MSLA sử dụng nguồn sáng màn hình LCD và nguồn
sáng LED (Hình 3.9).
Loại máy này thường cao hơn máy in SLA hoặc MSLA, vì cần phải có không gian trống
để chứa máy chiếu và khoảng cách để vừa với kích thước hình chiếu đến vùng có thể in. Trên
máy có vùng in lớn hơn, máy chiếu thường ở xa hơn và ở các vùng nhỏ hơn, nó gần vùng in
hơn.
Ưu điểm chính của máy in 3D DLP là tốc độ in, độ chính xác, độ tin cậy và độ phân giải cao
[12]. Tuy nhiên, chúng thường là thiết bị đắt tiền hơn so với máy in SLA hoặc MSLA 3D.

Hình 3.9 Động cơ nhẹ của máy in 3D DLP. Gương nhỏ kỹ thuật số [14] được tích hợp vào
máy chiếu.

3.4.2 Quy trình từng bước

Quy trình cài đặt của máy in 3D DLP tương đối giống với các loại máy in 3D khác đã
đề cập trước đây trong chương này. Tuy nhiên, máy in DLP thường không cần phải hiệu chỉnh,
mặc dù các thông số in phải được đặt cụ thể cho từng loại nhựa được sử dụng. Hướng dẫn từng
bước sau đây dựa trên quy trình được sử dụng cho một máy in 3D cụ thể (Hunter®, FlashForge
Corporation).

1) Nhập các tệp STL sẽ được in vào phần mềm máy in.Trong ví dụ này, phần mềm được sử
dụng là FlasDLPrint [13]. Sau khi các tệp 3D được đưa vào phần mềm, các công cụ di chuyển
và xoay đối tượng được sử dụng để sắp xếp các tệp trong khu vực xây dựng (Hình 3.10)
2) Các cấu trúc hỗ trợ được tạo ra, có tính đến thể tích của khối in và dạng hình học của nó.
3) Tệp sẽ được cắt lát tùy theo đặc điểm của vật liệu sẽ được sử dụng trong quy trình in. Mỗi
loại nhựa có các thông số cụ thể về thời gian phơi sáng, cường độ ánh sáng máy chiếu và điều
chỉnh kích thước khi có sự co lại của vật liệu (Hình 3.11).
4) Tệp được cắt lát được gửi đến máy in 3D thông qua internet không dây, cáp hoặc bộ nhớ
USB. Lúc này không phải là tệp STL nữa; chúng trở thành G-codes, một tiện ích mở rộng được
sử dụng rộng rãi để điều khiển máy CNC trên toàn thế giới
5) Đổ nhựa vào thùng máy in. Phần mềm CAM xác định số lượng cần thiết. Chọn mô hình để
in và bắt đầu quá trình in 3D.
6) Rửa sạch mô hình với cồn isopropyl để loại bỏ nhựa chưa đông (Hình 3.12).
7) Xử lý mẫu in 3D dưới ánh sáng UV có cùng bước sóng như ánh sáng của động cơ (Hình
3.13).

Hình 3.10 Các tệp STL được tổ chức trong phần mềm với các cấu trúc hỗ trợ được biểu thị
bằng màu xanh lục.

Hình 3.11 Các tệp được cắt trong phần mềm, sẵn sàng để gửi đến máy in.

3.5 Phay cán/ mài (Milling)


3.5.1 Kiến thức cơ bản

Sản xuất gia công cắt gọt là kỹ thuật tổng hợp được áp dụng để đạt được hình học mong muốn
từ việc loại bỏ vật liệu khỏi vật thể ban đầu (thường là một khối). Loài người đã sử dụng một
số phương pháp để tạo ra các công cụ và thiết bị bằng cách loại bỏ vật liệu, chẳng hạn như đầu
mũi tên bằng đá và gỗ. Cắt gọt có thể quan sát thấy trong nhiều dạng thức nghệ thuật, đặc biệt
trong điêu khắc. Những thiên tài nghệ thuật như nhà điêu khắc người Ý Michelangelo hay nhà
điêu khắc người Brazil Aleijadinho đã biến những khối đá cẩm thạch, gỗ, đá xà phòng thành
những tác phẩm nghệ thuật trị giá hàng triệu tỷ đồng trên toàn thế giới. Cắt gọt có thể đạt được
bằng các dụng cụ cầm tay hoặc máy cơ học.
Với các máy chạy bằng hơi nước và sau này là các thiết bị điện, cuộc Cách mạng Công
nghiệp đã thay đổi thời gian và nguồn nhân lực cần thiết để sản xuất các đồ vật và công cụ từ
kim loại hoặc các nguyên liệu thô khác. Máy móc được đặc biệt thiết kế để đạt được mục đíhc
này, ví dụ như máy tiện cơ khí, máy khoan và máy phay. Những cải tiến công nghệ hơn nữa đã
tạo ra máy tính là bộ điều khiển thiết yếu của quy trình. Thay vì điều chỉnh và định vị thủ công,
các tệp kỹ thuật số kiểm soát mọi chuyển động nhỏ, tăng khả năng tái tạo với độ tin cậy và độ
chính xác cao. Công nghệ này được gọi là điều khiển số máy tính (CNC) và bao gồm sự kết
hợp giữa phần mềm và phần cứng, tạo ra một đối tượng vật lý từ hình học ảo với độ chính xác
và chi tiết cao.
Phay cán có thể được giải thích là hành động loại bỏ vật liệu (sản xuất cắt gọt) bằng
cách sử dụng một công cụ quay, hoặc xoay khối vật liệu hoặc bằng cách xoay dụng cụ cắt (dao
phay ngón). Dụng cụ cắt được định vị theo chiều dọc hoặc chiều ngang với vật liệu thô. Sự đa
dạng của các dao phay ngón cho phép máy phay cán đạt được hình dạng và độ mịn mong muốn
của sản phẩm cuối cùng. Máy phay cán có thể sử dụng dao cắt quay và thực hiện chia lưới bằng
cách sử dụng các dụng cụ phủ kim cương. Vì mục đích hàn lâm, trong phần này, phương pháp
này sẽ nhất quán được đặt tên là “phay cán”.
Các vật liệu khác nhau có thể được sử dụng để chế tạo các khối thô bằng máy phay cán
nha khoa, chẳng hạn như sứ, nhựa, sáp, hoặc kim loại. Làm việc với CNC cho phép chế tạo
inlay, onlay, một hoặc nhiều mão, trụ kim loại hoặc sứ, v.v. mà không cần phải hoàn thiện hoặc
đánh bóng. Tuy nhiên, một số khối sứ có thể vẫn cần nhuộm đặc tính hoặc tráng men để có tính
thẩm mỹ và độ nhẵn bề mặt tốt hơn. Có sẵn nhiều kích cỡ và hình dạng khối vật liệu khác nhau,
cho phép chuyên gia chọn kích thước tốt nhất để chế tạo một mão hoặc nhiều phục hình với
một khối vật liệucos sẵn. Một trở ngại lớn của quy trình phay cán là lãng phí vật liệu cao; công
việc cuối cùng có thể chỉ cần khoảng 10% khối lượng khối ban đầu.
Các máy này thường hoạt động với dụng cụ cắt trục xoay dọc hoặc ngang quay, nhưng
bác sĩ có thể không hiểu khái niệm về đơn vị phay cán bốn hoặc năm trục. Khối vật liệu có thể
được di chuyển bên trong máy phay cán theo ba trục tuyến tính (X, Y, Z), nhưng cũng có thể
thực hiện chuyển động theo ba trục khác (A, B, C), đại diện cho chuyển động quay trong các
mặt phẳng X, Y và Z. Có sáu trục chuyển động có thể có nhưng hầu hết các máy phay cán hoạt
động theo bốn hoặc năm trục (X, Y, Z và một hoặc hai trục quay). Các đơn vị phay cán trong
phòng lab thường được chuẩn bị cho sản xuất quy mô lớn và các thiết bị nhỏ hơn được thiết kế
để sử dụng cho phòng khám nha khoa (bên ghế). Các chuyên gia nha khoa sở hữu thiết bị phay
cán bên ghế có thể chế tạo và phục hồi trực tiếp trong cuộc hẹn của bệnh nhân, do đó giảm số
lần hẹn, can thiệp và thực hiện thủ thuật.

3.5.2 Quy trình từng bước

3.5.2.1 Phay cán tại lab


Các hệ thống CAD/CAM dựa trên ba thành phần cơ bản: thu nhận hình ảnh (máy quét), phần
mềm CAD và các hệ thống sản xuất (đắp lớp hoặc cắt gọt) có sự trợ giúp của máy tính. Chúng
được sử dụng chủ yếu trong nha khoa để sản xuất các phục hình cố định như mão răng, cầu
răng và mặt dán sứ.
Sau khi quét khu vực quan tâm (cùi răng sửa soạn), cho dù sử dụng máy quét trong
miệng hay mô hình quét, hình ảnh sẽ được chuyển sang chương trình vẽ có sự trợ giúp của máy
tính (Exocad's Dental CAD Galway, Amann Girrbach's Ceramill Mind®, Zirkonzahn's
Modellier®, hoặc Dentsply Sirona's InLab SW®, hoặc một số khác), sau đó người vận hành
có thể lấy cấu trúc phục hình từ hình dạng ảo. Ở giai đoạn này, điều bắt buộc là phải tạo đúng
thứ tự công việc, chọn loại phục hình và vật liệu được sử dụng, cũng như độ dày tối thiểu,
khoảng gắn xi măng và các thông số khác. Bước này rất quan trọng, vì mỗi vật liệu phục hình
có các đặc tính cụ thể và phần mềm phay cán cần tphải lập chiến lược gia công chính xác. Bất
kể hệ thống là gì, trình tự công việc sẽ hướng dẫn phần còn lại của dự án cho đến khi hoàn
thành.
Có nhiều vật liệu có sẵn để phay cán, nhưng được sử dụng nhiều nhất là các khối đúc
sẵn bằng lithium disilicate, sứ lai, nhựa gián tiếp, sứ fensspathic, các loại zirconia, titan và nhựa
acrylic (PMMA). Một ưu điểm của hệ thống này là khả năng làm việc với các vật liệu rất cứng,
chẳng hạn như zirconia. Hiện tại, zirconia là loại sứ bền nhất hiện có để sử dụng trong nha
khoa, được chỉ định để chế tạo các cầu răng lớn và các phục hồi cố định toàn miệng.
Chương này sẽ trình bày một báo cáo trường hợp lâm sàng, từ việc nhận tệp STL đến
khi hoàn thành một phục hồi bằng zirconia, tập trung vào các khía cạnh sản xuất (phay cán) tại
phòng lab.

Hình 3.12 Các vật thể in 3D được rửa bằng cồn isopropyl và được xử lý bằng tia UV.
Khi cần thực hiện các phục hình trên impalnt, cần phải sử dụng các trụ quét. Thương
hiệu trụ impalnt, mẫu (nền tảng) và số đo của các trụ trung gian (intermediate abutments) là
thông tin cần thiết để thu nhận, thiết kế chính xác và cuối cùng là điều chỉnh các phục hình.
Trong giai đoạn này, cũng cần xác định liệu zirconia sẽ được mài cán trực tiếp ở mức implant
hay liệu phải sử dụng một liên kết trung gian, trên đó gắn phục hình zirconia.
Các bản quét bổ sung của cung răng đối diện và phục hình tạm thời có tầm quan trọng
đặc biệt vì chúng là cơ sở để xác định tất cả các điều chỉnh thẩm mỹ và chức năng.
Sự thẳng hàng chính xác và sự trùng khớp của các mắt lưới liên quan đến sản phẩm sẽ
quyết định sự thành công của việc điều trị. Do đó, ở giai đoạn này, không được phép xảy ra sai
sót.

Hình 3.13 Các mô hình in 3D đã hoàn thành, được rửa sạch và xử lý sau in.

Ở giai đoạn này, cần phải thông báo tất cả các đặc điểm của phục hồi sẽ thực hiện.
Trong trường hợp này, thông báo chính xác vị trí của implant, nhịp cầu răng, khoảng gắn xi
măng, nướu nhân tạo, loại vật liệu được mài, mẫu tham chiếu và các thông tin khác có liên
quan đến dự án.
Vào cuối quy trình, phần mềm thiết kế sẽ tạo ra hai tệp: STL với thiết kế ba chiều của
cấu trúc và tệp thông tin xây dựng cho phép tự động chia sẻ thông tin như đường hoàn tất,
hướng implant và dạng hình học giao diện implant trực tiếp với phần mềm CAM của bên thứ
ba (Ceramill Match 2®, Amann Girrbach).

3.5.2.2 Hiệu chuẩn và thử nghiệm thiết bị phay cán


Nói chung, việc cài đặt một thiết bị phay cán mới sẽ được thực hiện theo một nhóm quy trình
ban đầu, chẳng hạn như hiệu chuẩn và thử nghiệm thiết bị. Hiệu chuẩn sẽ đảm bảo rằng chất
lượng sản xuất sẽ được tiêu chuẩn hóa hợp lý cho mọi quy trình phay cán do máy thực hiện.
Trong bối cảnh này, một số thiết bị phay cán có tính năng hiệu chỉnh tự động trong các chương
trình phần mềm của chúng. Hướng dẫn sau đây đưa ra ví dụ về các bước chính của quy trình
hiệu chuẩn thiết bị phay cán (Hình 3.14–3.22).
1) Kiểm tra lắp đặt: kiểm tra xem tất cả các dây cáp có được kết nối đúng cách không. Đảm
bảo máy làm sạch chân không được kết nối đúng cách với thiết bị. Kiểm tra bộ điều khiển mài
xem nguồn cung cấp nước, cần thiết cho việc làm mát khi xử lý titan và sứ thuỷ tinh (như
lithium disilicate). Thiết lập áp suất khí (máy nén khí được yêu cầu cung cấp áp suất 6-8 bar).
2) Bắt đầu hiệu chuẩn (nhấp vào nút ở cuối màn hình).
3) Lắp tấm hiệu chuẩn và khóa nó bằng các đòn bẩy nhỏ.
4) Sử dụng tuốc-nơ-vít để cố định vít.
5) Kiểm tra xem có cảnh báo nào không.
6) Làm theo các bước trên màn hình (xóa danh sách mũi khoan).
7) Đảm bảo tấm nền hoàn toàn sạch sẽ trước khi hiệu chuẩn (cả hai bên sẽ được cung cấp bởi
máy để làm sạch).
8) Kiểm tra hiệu chuẩn bằng cách chạm vào tấm nền (nháy đèn).

Hình 3.14 Hình ảnh bên trong của thiết bị Hình 3.15 Chốt kim loại được sử dụng để
phay cán Zirkonzahn M1. hiệu chuẩn Zirkonzahn M1.

Sau khi phay cán, cần thêm các chi tiết và đặc điểm hoàn thiện thẩm mỹ. Phục hình
được lấy ra khỏi khối, hoàn thiện, làm sạch và thiêu kết trong lò nung đặc biệt để nung zirconia
trong khoảng 12 giờ ở nhiệt độ 1480°C. Sau khi nung kết, thanh ổn định và các phần thừa được
loại bỏ. Trong trường hợp này, tạo lớp mặt ngoài với bột nhão tạo hiệu ứng và men cũng như
tạo nướu bằng sứ. Vì thế hệ mới nhất của zirconia nhiều lớp kết hợp độ bền và tính thẩm mỹ,
có thể thực hiện các phục hồi rộng rãi mà không cần phủ sứ bằng các bộ vẽ và lên màu cho
zirconia.
Hình 3.23–3.32 minh họa quy trình phay cán các phục hình toàn bộ trên implant, được
chế tạo bằng zirconia với lớp phủ sứ trên bề mặt bên ngoài, men răng và nướu.

3.5.2.3 Quy trình phay cán tại ghế


Phay cán là một quy trình gia công sử dụng các dụng cụ cắt để loại bỏ vật liệu. Đây là một
phương pháp sản xuất cắt gọt mà phòng lab hoặc bác sĩ lâm sàng có thể sử dụng để chế tạo các
phục hình gián tiếp. Quy trình phay cán thay thế các kỹ thuật chế tạo sứ thủ công, giảm chúng
các lớp bề mặt nhiều hơn và các quy trình tạo bóng hoặc nhuộm màu, cuối cùng là tiết kiệm
thời gian mà không làm giảm chất lượng của tác phẩm.
Một tệp định dạng STL được tạo thông qua phần mềm CAD được sử dụng để thực hiện
quá trình phay cán, tệp này sẽ được mở thông qua phần mềm CAM và được sản xuất theo vật
liệu đã chọn.
Hình 3.16 Quy trình hiệu chuẩn

Hình 3.17 Theo dõi quy trình hiệu chuẩn trong phần mềm CAM của Zirkonzahn
(Frasen).

Các máy phay cán hiện tại có sẵn với động cơ bốn trục hoặc năm trục, khác nhau về tốc
độ phay cán và các giới hạn xử lý. Nói chung, cả hai loại thiết bị đều cung cấp độ chính xác
tương đương, nhưng máy phay cán năm trục có thể phay cán các khối cát, do đó cho phép sản
xuất các công đoạn phục hồi lớn hơn và phức tạp hơn, chẳng hạn như các giao thức và cấu trúc
kim loại. Sự lựa chọn giữa bốn trục hoặc bốn trục máy phay cán năm trục cuối cùng liên quan
đến các yêu cầu chuyên nghiệp, nhưng người ta chấp nhận rằng máy phay cán bốn trục là thiết
bị tiêu chuẩn.
Bất kể loại máy phay cán nào được sử dụng, có rất nhiều loại vật liệu có sẵn trên thị
trường, bao gồm lithiumdisilicate, sứ feldspathic, nhựa làm phục hình tạm thời (PMMA),
zirconia, sáp, kim loại (coban, crom) và PEEK.
Tóm lại, lithium disilicate thường được sử dụng trong các phục hình phía sau và các tác
phẩm nguyên khối có tối đa ba thành phần. Ngược lại, feldspathic được sử dụng trong các phục
hồi đơn lẻ phía trước hoặc phía sau ở những bệnh nhân không có tiền sử gãy răng hoặc nghiến
răng do độ bền cơ học của vật liệu này thấp hơn so với disilicate. Nhựa PMMA được sử dụng
cho các phục hình tạm thời và cho các lần thử sáp.
Thời gian phay cán thay đổi tùy theo kích thước của bộ phận, vật liệu được sử dụng và
thậm chí cả chính thiết bị. Một số thương hiệu cung cấp thiết bị phay cán mão sứ trong vài phút
để bác sĩ hoặc các chuyên gia, được trang bị máy quét trong miệng, phần mềm CAD-CAM, và
lò thiêu kết, có thể thực hiện điều trị mà không cần phải rời khỏi bệnh nhân, loại bỏ nhu cầu
thực hiện phục hình tạm thời. Trong các phòng khám nha khoa, phay cán tại ghế đã trở thành
một thực tế hằng ngày. Nói chung, điều trị này bao gồm sứ lithiumdisilicate, feldspathic, và
thậm chí cả zirconia nguyên khối, trong đó nhiều loại công việc được cung cấp có liên quan
đến kinh nghiệm của người vận hành.
Thực hành trên ghế có những ưu điểm tuyệt vời, vì nó rất thuận tiện cho cả bệnh nhân
và nha sĩ, tiết kiệm nhiều thời gian mà không làm giảm chất lượng điều trị.
Phần giải thích sau đây về quy trình phay cán cạnh ghế từng bước sử dụng thiết bị chế
tác Cerec®MCXL.

Hình 3.18 Vật liệu phay cán và mũi khoan Hình 3.19 Thiết bị phay cán sẵn sàng nhận
được sử dụng trong Zirkonzahn M1. đĩa phay.

Phần mềm mở rộng phay cán


Để thực hiện quy trình phay cán của một tệp tin bên ngoài trong STL, cần phải sử dụng phần
mềm CAM, hoạt động như một phần mở rộng của máy phay cán.

Kết nối máy phay cán


Đối với quy trình chế tác, máy phay cán phải được kết nối với cùng một mạng cục bộ như máy
tính đã cài đặt phần mềm, hoặc có thể được kết nối trực tiếp với máy tính thông qua mạng cáp.
Trong trường hợp sau, người ta cũng phải đặt Địa chỉ IP và Netmask theo cách thủ công cả trên
máy phay và trên máy tính để giao tiếp bằng giao thức TCP/IP.

Bắt đầu quá trình phay cán


- Điền vào hồ sơ bệnh nhân.
- Chọn thiết bị sẽ được sử dụng.Đây là một bước quan trọng nếu có nhiều hơn một máy kết nối
với mạng.
- Tạo một tác vụ mới bằng cách nhập tệp STL.
- Mỗi chương trình phần mềm sẽ có cách hiểu - thực hiện riêng các chi tiết của nhiệm vụ, nhưng
cần điền đầy đủ để đáp ứng tất cả các yêu cầu của công việc sẽ được thực hiện.
- Chọn đúng “loại công việc” (mão, inlay, veneer, v.v.) là bước quan trọng để phần mềm xác
định chính xác tệp STL.
- Chọn nhà sản xuất và vật liệu sẽ được sử dụng. Việc sản xuất một vật liệu khác với vật liệu
được chọn trong phần mềm không có lợi cho máy phay cán. Lỗi này có thể làm mất hiệu chỉnh
khả năng đọc và nhận dạng của cảm biến theo thời gian, gây ra lỗi trong quá trình phay cán.

Hình 3.20 Bộ sắp xếp dụng cụ, để đảm bảo


rằng các mũi khoan được đưa vào đúng thứ
tự trước khi thực hiện quy trình.

Hình 3.22 Giá đỡ mũi khoan được đặt vào Hình 3.21 Quy trình phay cán đang được
thiết bị phay cán. tiến hành (Zirkonzahn M1).

Giới hạn đường viền


- Ở giai đoạn này, chi tiết được nhập vào STL phải được đánh dấu đường viền bằng công
cụ do phần mềm cung cấp. Một đường kẻ sẽ được tạo ra để làm rõ phần bên trong và
bên ngoài của chi tiết, cho phép máy phay cán cảm biến tính toán chính xác đề xuất
(Hình 3.33).
- Đường viền được đánh dấu kém có thể làm giảm khả năng đọc của cảm biến, từ đó gây
ra lỗi trong quá trình phay cán, trong đó phổ biến nhất của các lỗi này là chất lượng
kém của phần bên trong của bộ phận.

Kiểm tra kích thước khối và các vị trí phần thừa


Với phần đường viền/ lề được vạch ra, cần phải định vị phần ảo trong khối hoặc trên đĩa vật
liệu, tránh để lại phần thừa (sprue) (vật liệu còn sót lại sau quá trình phay cán) ở phần giữa và
phần xa của phục hồi, sao cho nó không làm thay đổi độ chính xác của các tiếp xúc gần và sự
ăn khớp của phục hình đạt được trong phần mềm CAD (Hình 3.34).

Hình 3.23 Tệp STL từ bản quét hàm trên trong miệng với các trụ quét ở đúng vị trí.

Hình 3.24 Tệp STL chụp cung răng đối và phục hình tạm thời phía trên của bệnh nhân sẽ dùng
làm tài liệu tham khảo cho việc thiết kế phục hình mới bằng zirconia.
Di chuyển khối trên máy phay cán
- Kiểm tra để đảm bảo rằng kích thước khối và vật liệu được chọn trong phần mềm CAM không
khác với khối trên phần mềm. Chú ý kiểm tra sự bắt buộc giống nhau giữa các hình ảnh trên
đĩa chế tác, trên máy phay cán năm trục.
- Sau đó, quá trình phay cán sẽ sẵn sàng bắt đầu.

Hình 3.25 Trục dài của trụ quét liên quan đến răng đối diện thể hiện độ nghiêng chính xác của
implant.

Hình 3.26 Ảnh chụp màn hình cửa sổ tạo dự án trong phần mềm (DentalCAD, Exocad)

Hoàn thiện phục hình


- Sau khi phay cán, chuyên gia đánh giá loại hoàn thiện cần thiết cho lớp ngoài được chế tạo
bằng kỹ thuật bên ghế. Thông thường, chỉ cần đánh bóng, sau đó tráng men là đủ để quá trình
xử lý thành công. Trong trường hợp này, chỉ mất vài phút trong lò nung an toàn để sản phẩm
được hoàn thiện.
- Trong sản xuất lithium disilicate, ngoài việc đánh bóng, vật liệu cần phải nung trong lò vì
khối có sẵn ở dạng kết dính sẵn. Quy trình này mất khoảng 40 phút, từ khi vào lò cho đến khi
làm nguội sản phẩm.
- Zirconia kháng axit, có nghĩa là quá trình gắn đạt được bằng cách liên kết cơ học. Thời gian
ăn mòn axit (10% sứ axit flohydric) của khối sản phẩm thay đổi tùy theo vật liệu. Các loại sứ
kháng axit hơn, chẳng hạn như feldspathic, cần 2 phút xử lý trong khi với disilicate, 30 giây là
đủ. Xi măng nền glassionomer thường có các đặc tính polyme hóa kép (hóa học và quang hoạt
hóa), do đó quá trình trùng hợp hóa học được kích hoạt từ amin bậc ba. Xi măng này không
thể được sử dụng với mão răng và phục hình bằng lithium disilica, vì chất xúc tác có thể phản
ứng với sứ và làm đổi màu phục hình.

Hình 3.27 Ảnh chụp màn hình được chụp trong bước CAD. Lưu ý việc giảm cấu trúc trước
khi chế tạo bằng zirconia.

Hình 3.28 Ảnh chụp màn hình chiến lược CAM được tổ chức trong phần mềm (Ceramill Mind).
Hình 3.29 Cấu trúc Zirconia được nghiền trước khi thiêu kết

Hình 3.30 Khung Zirconia được lấy ra khỏi phôi và sẵn sàng đi đến lò thiêu kết trong khoảng
12 giờ ở 1480 °C. Lưu ý các khu vực cắt răng cửa và má
Hình 3.31 (a,b) Ví dụ về cấu trúc sau khi thiêu kết, sẵn sàng để áp dụng vật liệu sứ.

Hình 3.32 (a–d) Khía cạnh cuối cùng của phục hình được hỗ trợ bởi implant toàn vòm (Ventura
Lab, Curitiba, Brazil).
Hình 3.33 Phân định lề của tệp khôi phục STL đã nhập (inLab CAM SW 18.1

Hình 3.34 Định vị phục hình bên trong một khối lithium disilicate (e.Max CAD, C14, Ivoclar
Vivadent) sẽ được phay cán (inLab CAM SW 18.1, máy phay cán inLab MC XL, Dentsply
Sirona).
Tài liệu tham khảo

You might also like