You are on page 1of 279

[ebook©vctvegroup]

ĐỒNG THOẠI ĐEN

—★—
Tác giả: Otsuichi
Người dịch: Ngọc Quang
Phát hành: IPM
Nhà xuất bản Hồng Đức 2018
Eye’s Memory (1)

Sở dĩ con quạ ấy nói được tiếng người, là bởi tổ của nó tình cờ nằm ở
ngay rầm hiên rạp chiếu phim. Từ hồi còn là quạ non, nó đã vừa nhấm nháp
những con sâu được cha mẹ mang cho, vừa ngắm nhìn màn hình trong rạp
qua lỗ thủng nhỏ trên bức tường. Khác với các anh em của mình, con quạ
ấy mê phim ảnh lắm. Cứ thích thú nhẩm theo lời thoại, ngày qua tháng lại,
nó nói được tiếng người tự lúc nào chẳng biết.
Con quạ gặp cô bé vào cái ngày rạp chiếu phim bị người ta phá dỡ và nó
buộc phải lìa xa chốn quê nhà thân thuộc. Đến lúc này quạ cũng đã trưởng
thành, chững chạc và đủ lông đủ cánh. Cha mẹ, anh em hối hả kéo nhau đi
biệt xứ, để lại nó một mình lang thang trong thành phố.
Ở dưới chân núi có một biệt thự lớn lắm. Tường màu xanh lam, vườn
rất rộng, tất cả nằm gọn phía sau một cánh cổng khổng lồ. Cạnh biệt thự có
một cái cây cao. Hôm ấy, quạ đã quyết định dừng chân trên những cành cây
mọc chĩa ra mời gọi như chỉ để chờ một cánh chim đáp xuống.
Cách chỗ nó đậu một khoảng ngắn đến mức chỉ hơi vươn cánh là chạm
tới được, chính là cửa sổ tầng hai của biệt thự. Thoạt đầu nó không nhận ra
bên cửa sổ có một cô bé đang ngồi. Căn bản là bởi một người bình thường
mà thấy quạ lại gần hẳn đã hét toáng lên vì hốt hoảng rồi. Nhưng cô bé này
lại khác, trông cô không có vẻ gì là nhận ra sự tồn tại của sinh vật đang ở
sát bên mình cả.
Con quạ quyết định quan sát cô bé một lúc. Đây là lần đầu tiên nó
chiêm ngưỡng một con người ở cự li gần đến nhường ấy. Khuôn mặt nhỏ
nhắn, môi như trái dâu tây, cô ngồi trên chiếc ghế đặt bên khung cửa sổ, cứ
thẩn thơ chẳng làm gì cả.
Quạ nghĩ đến việc đập cánh để thu hút sự chú ý của cô, nhưng rốt cuộc
nó không làm thế. Bởi vì nó đã học được một cách còn tốt hơn để khiến
người ta phải để ý đến mình.
“E hèm,” quạ cố tình hắng giọng.
“Ai vậy?” Cô bé giật mình, đáp lại bằng một giọng lí nhí vừa bối rối
vừa nhuốm bất an.
Giờ thì quạ đã hiểu, tại sao từ nãy đến giờ cô bé không phát hiện ra dù
nó lù lù ngay trước mặt cô. Bình thường, ở khoảng cách gần thế này, bộ
dạng đen đúa của nó đã đập vào mắt người ta rồi. Nhưng thật đáng tiếc, hai
hốc mắt cô bé hoàn toàn trống rỗng, không tồn tại thứ gì có vẻ là nhãn cầu.
Chỉ đơn giản là hai lỗ thủng trên khuôn mặt nhỏ bé. Chẳng trách không
nhìn thấy gì.
Đúng là cơ hội tốt. Con quạ nghĩ thầm. Nếu như cô bé không nhìn thấy
hình dáng này, thì chắc chắn cô sẽ chịu bầu bạn, trò chuyện với nó.
Kể từ khi nói được tiếng người, đã không biết bao nhiêu lần nó cố gắng
bắt chuyện với người ta. Nó muốn thực hành từ ngữ đã học, nhưng cứ nhớ
đến bi kịch bị biến thành món rán của các đồng loại tội nghiệp, nó lại không
dám tiếp cận con người.
Nhưng nếu không nhìn thấy hình dạng của nó, cô bé sẽ không biết nó là
chim, và như thế đôi bên có thể trò chuyện.
“Ôi, tiểu thư đó ơi, hôm nay cô thế nào?” Quạ mở lời hơi kiểu cách.
“Ai vậy? Ai ở đằng ấy thế?”
“Đừng lo, tôi không phải đối tượng khả nghi đâu. Tôi chỉ muốn hỏi
chuyện cô một chút thôi.”
Cô bé nhỏm dậy khỏi ghế, vươn đôi tay nhỏ bé đi vòng quanh phòng,
hẳn là muốn tìm chủ nhân của giọng nói lạ, đoán chừng phải ở đâu đó
quanh đây.
“Đâu vậy? Bạn ở đâu thế?”
Quạ đập cánh hai, ba lần, rồi bay vào phòng theo lối cửa sổ để mở. Đây
là một căn phòng tuyệt đẹp, bày rải rác rất nhiều búp bê xinh xắn. Giấy dán
tường in họa tiết hoa. Giường đệm mềm mại. Giữa phòng kê một chiếc bàn
hình tròn. Con quạ nhẹ nhàng hạ cánh xuống lưng tựa ghế.
“Xin cô đừng cố tìm kiếm nữa. Tôi chỉ mong được trò chuyện với cô
mà thôi.”
Cô bé buông thõng tay ra chiều bỏ cuộc, rồi ngồi ghé vào mép giường.
“Giọng bạn nghe lạ quá đi. Không giống giọng bất kì ai mà mình đã
gặp. Một thanh âm lạ lùng. Nhưng này, bạn chẳng biết phép tắc gì hết. Lúc
vào phòng người ta ấy, bạn phải gõ cửa trước chứ.”
“Ôi, cho tôi được nói lời xin lỗi. Thân mọn này chẳng biết sử dụng dao
dĩa, cả phép lịch sự học cũng chưa tới chốn tới nơi.”
“Ô, nếu vậy thì bạn dùng bữa thế nào?”
“Dĩ nhiên là tôi lấy mỏ gắp rồi, đâu cần dùng đến tay.”
“Bạn… lập dị thật đấy nhỉ.” Lần đầu tiên lúm đồng tiền lộ ra trên má cô
bé. “Mình ấy, chẳng có ai để chuyện trò. Bạn đến đây làm mình vui lắm, dù
bạn là ai đi chăng nữa.”
Từ hôm đó, hễ rảnh là con quạ lại tìm đến trò chuyện cùng cô bé. Ban
đầu nó chẳng có mục đích gì khác ngoài dùng thử ngôn ngữ con người,
nhưng một tuần qua đi, nó dần dần cảm thấy nói chuyện cũng là một niềm
vui.
Quạ nhận ra cô bé có điểm không giống những con người khác, những
con người thường kéo bè kéo cánh, lấy đá sỏi ném giống loài của nó. Cô
luôn ngồi một mình bên cửa sổ, yên phận với làn gió mát lành lùa vào
phòng phớt trên gò má. Ngắm bóng hình ấy từ cành cây cao, không hiểu
sao con quạ cảm thấy cô bé thật cô đơn.
Và nó cất tiếng gọi, “Tiểu thư ơi.”
Tức thì nét mặt cô bé trở nên hoan hỉ, như vừa đón làn gió ấm xua tan
lạnh lẽo mùa đông.
“Ôi, bạn thật là hư quá. Lại quên gõ cửa nữa rồi.”
Giọng cô không mảy may phật ý, mà giống một lời chào hỏi thân mật
hơn. Về phần mình, con quạ sung sướng vô cùng, một cảm giác tuyệt vời
nó chưa từng nếm trải kể từ khi phá vỏ trứng chui ra. Lý do là vì mẹ chỉ
mớm sâu cho nó ăn thôi, không bao giờ âu yếm hát ru, còn anh em nó cũng
chẳng có gì hơn ngoài những bản năng tự nhiên vô tri của chim chóc.
Quạ lục lại trong óc những bộ phim chiếu rạp từng xem, từ đó chế biến
ra những câu chuyện làm cô bé thích thú. Cuộc đối thoại giữa nó và cô
thuần một chuỗi nội dung tự sáng tác như thế. Ngay từ đầu quạ đã quyết
định sẽ không chia sẻ gì về bản thân mình, và dĩ nhiên cũng giấu nhẹm sự
thật rằng nó vốn không phải con người mà chỉ là một loài chim tầm thường,
không hơn không kém. Cứ thế, dựng nên một thân phận toàn là dối trá, nó
bồi đắp cho mình một cuộc đời nhạt nhẽo, nhưng cũng đáng được gọi là
“con người”.
“Tiểu thư ơi, tại sao trên khuôn mặt cô lại không có mắt vậy?” Một
ngày kia, quạ tò mò hỏi.
Và cô bé trả lời rất bình thản, như thể đang nói chuyện phiếm, “Chuyện
xảy ra từ hồi mình còn rất nhỏ, nhỏ hơn bây giờ. Một ngày Chủ nhật, ba mẹ
dắt mình đến nhà thờ nọ. Cửa sổ nơi ấy lắp kính màu đẹp lắm, mình cứ mê
mẩn ngắm mãi thôi. Bởi nó đẹp đến thế, nên mình cố trừng mắt cho to, để
ngắm nhìn được nhiều hơn rõ hơn. Bỗng nhiên, tấm kính vỡ tung thành
muôn vàn mảnh vụn. Không hiểu tại sao nữa. Có lẽ tại ai đó ném đá, hay
một thiên thạch tí hon đụng phải. Nhưng lúc ấy mình chẳng nghĩ được gì
hết, chỉ biết những mảnh kính màu kia đột nhiên tan tành và rào rào trút
xuống, sao mà đẹp đẽ quá chừng.”
Con quạ nhớ về những hạt bụi lấp lánh, trôi lơ lửng trong chùm sáng
giữa bốn bề rạp phim tối om.
“Chỉ trong tích tắc, những mảnh kính đã xuyên vào cả hai mắt mình.
Mắt phải là kính xanh, mắt trái là kính đỏ. Mình được đưa đến bệnh viện
ngay tức khắc, nhưng ngoài việc cầm máu và lấy nhãn cầu mình ra, họ
chẳng làm gì khác. Cảnh cuối cùng mình nhìn thấy là khoảnh khắc kính
màu đổ xuống như mưa, lung linh trong muôn vàn tia sáng. Một cảnh tượng
tuyệt đẹp.”
Đúng lúc ấy, có tiếng gõ cửa phòng.
“Tiểu thư, rất cảm ơn cô đã kể chuyện cho tôi nghe. Bây giờ tôi phải đi
rồi.”
Mặc kệ cô bé lên tiếng níu kéo, con quạ vội vã tung cánh bay ra khỏi
cửa sổ. Nhưng nó không bay đi xa, mà sà xuống cành cây ngay cạnh biệt
thự. Từ vị trí này người trong phòng không thể trông thấy nó, nhưng nó lại
nghe rõ họ đang nói chuyện gì với nhau.
Cửa mở, và ai đó đi vào.
“Mẹ vừa nghe tiếng nói chuyện, là ai thế hả con?”
Ra là mẹ của cô bé.
Quạ không nhìn thấy tận mắt, nhưng đoán chừng cô bé khá bối rối vì
không trả lời được. Một thực thể lặng lẽ xâm nhập phòng cô rồi lại ra đi, chỉ
tồn tại trong những thanh âm. Quạ tự hỏi, rốt cuộc cô bé nghĩ thế nào về
mình nhỉ?
Quạ cất cánh bay vút lên trời cao. Bên dưới bầu trời đầy mây là thị trấn
nhuộm màu xám xịt.
Nó muốn cho cô bé thấy thế gian. Chẳng biết tự bao giờ, trong trái tim
quạ không còn mối quan tâm nào khác ngoài cô bé.
Cô kể về nguyên nhân mù lòa với thái độ bình thản. Cô hành xử như thể
việc “không nhìn thấy” là lẽ dĩ nhiên. Nhưng hễ nghe quạ kể chuyện (nó tự
sáng tác) về những thảo nguyên xanh mênh mông hay về những sinh vật kì
diệu, cô bé lại tỏ ra mơ màng như muốn nói “Ước gì mình được thấy tận
mắt nhỉ!”.
“Gần đây, đến những giấc mơ đêm của mình cũng chỉ toàn một màu
đen.”
Quạ nhớ có lần cô bé thổ lộ như thế, giọng hơi trầm đi. Nhưng rồi cô lại
quay về chất giọng vui vẻ để nó khỏi buồn, và cô nói lảng sang những thứ
chạm thử gần đây, cùng xúc giác khoan khoái nhất mà chúng mang lại. Nếu
như cô bé cũng có một thú vui, thì có lẽ đó là được thử sờ vào vật này vật
kia, và cảm nhận sự thoải mái của chúng trên da thịt mình, giống như người
ta đưa ly rượu vang lên miệng mà nhâm nhi vậy.
“Tiểu thư ơi, cô có sợ màu đen không?”
Sau một lúc suy nghĩ, cô bé rụt rè gật đầu.
Vừa bay dưới vòm trời phủ đầy mây thấp như sắp đổ mưa, quạ vừa hồi
tưởng.
Nếu nó có thể giúp cô bé cảm nhận được ánh sáng và màu sắc một lần
nữa, thì dẫu cho thế giới có nhuốm đầy máu đỏ cũng chẳng sao.
Nhưng để nhìn được thì cần phải có mắt. Quạ đập đôi cánh đen bóng,
bỏ lại biệt thự sau lưng, lao về phía thị trấn.
Nó đi tìm “mắt”.

Con quạ hạ cánh trên nóc tiệm bánh mì và nhìn xuống dưới.
Trong khoảnh vườn đằng sau tiệm có một cái cây xanh um tùm, chĩa ra
những cành to bản nom như cánh tay của một người khổng lồ lực lưỡng. Từ
một cành như thế có sợi thừng thòng xuống, treo lơ lửng một cái lốp xe hơi
làm xích đu. Chủ tiệm bánh đã treo nó lên vào một ngày Chủ nhật nọ để
mừng sinh nhật lần thứ năm của con trai, một cậu ấm dễ thương với đôi má
hồng hào và mái tóc xoăn tít.
Lúc này cậu ấm ngồi trên đu, một chân đạp đất để đong đưa qua lại.
Quạ đang chăm chú quan sát cảnh tượng ấy thì có tiếng phụ nữ từ trong
tiệm vọng ra.
“Đến giờ ngủ trưa rồi đấy con. Dừng chơi rồi lên tầng hai ngay cho
mẹ!”
Cậu nhóc nhảy tót khỏi xích đu và chạy ào vào nhà.
Quạ nhẹ nhàng di chuyển từ mái nhà sang cành cây treo chiếc lốp. Vị trí
này vừa vặn nhìn thẳng vào cửa sổ tầng hai, nắm bắt được động tĩnh trong
phòng. Quạ nhìn thấy cậu ấm đi vào và nằm xuống giường.
Được, lấy mắt của đứa trẻ đó thôi. Để cho chắc chắn, quạ chờ đến khi
cậu bé ngủ hẳn. Cuối cùng, trong tròng mắt đen của nó hiện lên lồng ngực
cậu bé phập phồng đều đặn.
Nó bay êm như ru vào phòng qua cánh cửa sổ để mở. Trong nhà toàn
mùi bánh mì nướng thơm phức. Cậu ấm vẫn ngủ ngon lành, không phát
giác ra con chim màu đen đang tới rất gần mình.
Quạ móc lấy nhãn cầu phải từ dưới mi mắt vẫn đang nhắm nghiền của
đứa trẻ. Đây là món quà dành cho cô bé, vì thế nó cặp vào mỏ thật cẩn thận
để không làm nát. Đúng lúc ấy, cậu ấm tiệm bánh choàng tỉnh. Cậu nhìn
quạ bằng con mắt còn lại, thét lên thảng thốt, “Mẹ ơi! Có quạ ăn mắt con!”
Lập tức, đằng cầu thang vọng lại tiếng chân chạy thình thịch. Cậu ấm
giận lắm, quyết tâm tóm quạ cho bằng được. Quạ đập mạnh đôi cánh, lao
thật nhanh ra ngoài cửa sổ trước khi bị bắt.
Vẫn ngậm nguyên cầu mắt trẻ con trong chiếc mỏ đen, quạ phóng vút
qua bầu trời, bay về phía biệt thự. Vừa lao vào trong qua cửa sổ để ngỏ, nó
liền thấy cô bé đang úp mặt xuống giường khóc rưng rức.
Quạ toan lên tiếng thì sực nhớ miệng vẫn ngậm con mắt. Nó tạm nhả
nhãn cầu bê bết máu xuống chiếc bàn tròn giữa phòng, “Tiểu thư, vì sao cô
khóc?”
Cô bé nâng mặt lên từ bờ vai run rẩy và nhìn về phía giọng nói, “Ôi xấu
hổ quá, để bạn bắt quả tang mình khóc rồi.”
Những giọt lệ lung linh đang dồn ứ trong hai cái lỗ trên mặt cô bé. Cô
hơi nghiêng mặt khiến lệ trào ra từ hốc mắt, rơi lã chã như nước trong ly bị
người ta rót quá đầy. Quạ thấy cảnh tượng ấy mới kì diệu làm sao.
“Mình đang gặp chuyện buồn lắm. Bạn có thấy chiếc bàn tròn giữa
phòng không?”
Quạ nhìn chiếc bàn nơi nó vừa thả tròng mắt hình cầu nhuốm máu
xuống.
“Trên bàn có một lọ hoa, và trong lọ có cắm hoa, đúng không? Từ trước
đến giờ, mình luôn nghĩ rằng những bông hoa cắm trong lọ ấy, phải là
những bông hoa xanh biếc tươi tắn nhất trên đời.”
Quạ trông thấy những bông hoa mà cô bé nói tới. Màu đỏ và đã héo
khô.
“Mẹ lừa mình đó. Trước giờ mình cứ tưởng những bông hoa ấy màu
xanh. Bởi vì mẹ đã nói thế.”
“Tiểu thư thích hoa màu xanh sao?”
Cô bé gật đầu, “Là màu đỏ thì cứ bảo là đỏ thôi, nói dối làm gì. Phải
đến hồi nãy, ba lên phòng có nói ‘Mấy bông hoa đỏ này chết khô rồi’, mình
mới phát hiện ra…”
Quạ không muốn nhìn cô bé khóc nữa, “Tiểu thư hãy nín đi, tôi mang
quà đến cho cô đây.”
“Quà ư?”
“Tôi để trên bàn luôn đấy.”
Cô bé lau nước mắt, bước đến bên chiếc bàn ở giữa phòng. Dường như
trong đầu cô đã ghi nhớ vị trí đặt đồ đạc trong phòng. Cô dừng chân đúng
phóc bên chiếc bàn cắm lọ hoa khô héo và con mắt nhuốm máu, không
thiếu hay thừa dù chỉ một li.
Cô bé mò mẫm trên bàn, và chạm tay vào một phần thân thể của cậu ấm
tiệm bánh.
“Nào, cô đã biết nó có hình dạng thế nào chưa?”
“Nó tròn quá. Còn mềm nữa.”
“Cô thử đặt nó vào một trong hai cái lỗ trên mặt mình đi.”
Cô bé rụt rè cầm vật thể tròn trịa và mềm mại ấy lên, định nhét vào hốc
mắt. Chợt cô dừng tay, và hỏi lại.
“Bên trái à? Hay bên phải?”
“Bên nào cũng được, cứ thử đi.”
Cô bé nhồi nó vào lỗ rỗng bên trái trên mặt mình. Nhưng do không
chỉnh kĩ nên phần tròng đen bị lệch so với trục chuẩn. Dù vậy thì cầu mắt
cũng khá khớp với khuôn mặt của cô bé.
“Bây giờ, cô cảm thấy thế nào?”
“Không hiểu sao, mình thấy thoải mái hơn rồi. Món quà của bạn rốt
cuộc là gì vậy? Cứ như đồ nhồi bông ấy…”
“Việc tôi tặng nó cho cô là một bí mật, đừng tiết lộ với ai nhé, kể cả ba
hay mẹ cô. Khi tiếp xúc với người khác cô hãy tháo nó ra, giấu dưới gầm
giường để không bị phát hiện. Bây giờ thì, tiểu thư ơi, cô hãy nằm xuống
giường nghỉ ngơi một lát đi. Khóc cũng làm người ta mệt mỏi mà.”
Cô bé gật đầu, ngáp dài và lấy tay dụi mắt. Vì thế nhãn cầu vừa gắn
xoay chệch đi nửa vòng.
“Chúc ngủ ngon nhé, ai-đó. Cảm ơn bạn vì món quà.”
Vừa nằm lên giường, cô bé đã phát ra những tiếng thở đều đặn, báo hiệu
giấc ngủ bắt đầu.
“Chúc cô ngủ ngon.”
Quạ nói rồi bay ra khỏi cửa sổ, hướng về phía thị trấn.
Nó đi tìm con mắt còn lại.
Ngày hôm sau, quạ ngậm một món quà mới trong mỏ, bay đến phòng cô
bé. Nó tạm dừng chân trên cành cây, xác nhận trong phòng không có ai
ngoài cô bé thì mới nhẹ nhàng lướt vào qua cửa sổ. Nó đặt cầu mắt mới lên
bàn tròn, rồi cất tiếng gọi, “Tiểu thư ơi!”
“Ai-đó à, mình bảo này!” Cô bé hoan hỉ nói với quạ. “Đêm qua, mình
mơ đấy! Một giấc mơ có hình ảnh đàng hoàng! Đã rất lâu rồi mình mới lại
được nhìn thấy màu sắc thực sự. Thật là một giấc mơ tuyệt vời!”
Đoạn cô kể tường tận về những gì đã mơ.
“Trong lúc ngủ, mình là con của một nhà làm bánh mì.”
Cô bé nhắm nghiền mi mắt, rủ rỉ như đang hồi tưởng về giấc mơ tuyệt
vời đêm qua. Dù đã tháo món quà quạ tặng, nhưng những hình ảnh ấy vẫn
còn lưu lại trong tâm trí cô bé.
“Mình là con trai. Ba mình nhào bột. Mẹ nặn bột thành những chiếc
bánh mì. Còn mình thì chơi trong tiệm, khách khứa ai cũng mỉm cười với
mình. Rồi mình ra sau nhà, nhảy lên chơi với chiếc xích đu. Một chiếc xích
đu làm từ lốp xe, treo lủng lẳng trên cành cây.”
Cô bé đã phải ở trong thế giới chỉ có âm thanh và bóng tối quá lâu, nên
rất phấn khởi khi mơ một giấc mơ có hình khối sắc màu. Thấu hiểu điều ấy,
quạ cũng vui lây.
“Vì giấc mơ tuyệt vời quá, mình đã để ‘món nhồi bông’ bạn tặng ở
trong mắt khá lâu. Đến khi tỉnh lại rồi, mình vẫn không chịu tháo ra. Nhưng
bạn đừng lo. Khi nhận thấy có người đang lên thang, mình tháo ra cất ngay.
Mình đang để nó trong lọ thủy tinh, giấu dưới gầm giường. Khi còn một
mình trong phòng, mình lại lắp món nhồi bông ấy vào, và mơ. Ban đầu, chỉ
khi ngủ mình mới quan sát được thế giới tuyệt vời của tiệm bánh đó thôi.
Song dần dần, cả lúc tỉnh mình cũng lờ mờ nhìn thấy. Chắc hẳn mình đã
quen rồi nhỉ.”
“Tiểu thư ơi, hôm nay tôi lại mang quà tới đấy.”
“Thật ư?”
Quạ cho biết đã đặt trên bàn tròn một món nhồi bông mới, đựng đầy
những giấc mơ. Khuôn mặt cô bé rạng rỡ vì kì vọng, cô cầm lấy món đồ
tuyệt diệu đẫm máu ấy, lắp vào hốc mắt của mình.
“Mình thấy rồi, mình nhìn thấy rồi, ai-đó ơi! Cứ như một bức tranh màu
nước tươi sáng đang dâng tràn cả thế giới này.”
Sau khi đẩy con mắt vào cái lỗ, cô bé nắm chặt hai tay trước ngực, thì
thầm như cảm tạ thần linh.
“Chẳng khác nào một trận hồng thủy sặc sỡ! Màu xanh tuôn trào từ bên
trong vật nhồi bông, và lan tỏa khắp tâm trí mình!”
Cầu mắt mà quạ mang đến hôm đó là của một bà lão sống trong ngôi
nhà giữa cánh đồng hoa. Sau khi nghe cô bé kể là thích hoa màu xanh, quạ
đã nghĩ ra một điều. Nó muốn cho cô bé được thỏa thuê ngắm những hình
ảnh cô yêu thích. Và để thực hiện mục đích đó, thì phải tìm một người mà
ngày nào cũng ngắm nhìn, cũng bầu bạn với những bông hoa màu xanh.
Đang bay trên trời thì tình cờ thay, nó trông thấy một cánh đồng hoa
màu xanh. Giữa cánh đồng ấy là một ngôi nhà nhỏ, chủ nhân là một bà lão
làm nghề đan len. Hình như bà có rất nhiều cháu, và đang tự đan tay quần
áo cho từng đứa một.
Quạ chọn vị trí quan sát từ một cành cây có tầm nhìn rõ ràng vào nhà.
Bên cửa sổ có một lồng chim, trong lồng là một con chim bạch yến. Bà lão
đeo kính, ngồi đan trên ghế bập bênh. Bất chợt bà dừng tay, gỡ kính đặt
xuống chiếc bàn cạnh đấy rồi lấy hai tay dụi mắt cho đỡ mỏi. Khi bà lão bắt
đầu ngủ gật, quạ bay vào qua cửa sổ, nhẹ nhàng đáp xuống tay vịn chiếc
ghế bập bênh. Sức nặng của nó làm chiếc ghế hơi chao đi, nhưng bà lão vẫn
tiếp tục giấc mơ xem chừng rất khoan khoái của mình. Trong lồng, con
bạch yến bắt đầu gây náo loạn, quạ len lén đưa mỏ mình lại gần mặt bà lão.
“Ôi, vườn hoa xanh biếc mới đẹp làm sao!” Cô bé cảm thán. “Và chưa
hết, trong thế giới của món đồ nhồi bông này, mình đang ngồi đan len! Mà
mình đã biết đan bao giờ đâu.”
Cần nhiều hơn! Nhiều hơn nữa! Quạ nghĩ. Nó muốn lấy thêm nhiều
mắt, cho cô bé chiêm ngưỡng thêm nhiều cảnh vật trên thế gian. Nếu nó
làm được như vậy, cô bé hẳn sẽ vô cùng hạnh phúc.
Và để đạt đến mục đích đó, nó sẵn sàng khoét mắt cả nhân loại. Nhìn
những giọt lệ xúc động của cô bé, quạ tự hứa với lòng, rằng sẽ lấp đầy chiếc
lọ thủy tinh mà cô bé đang dùng để giấu những con mắt.
1

Đây là chuyện tôi được nghe kể lại sau này, còn bản thân tôi không nhớ
những sự kiện xảy ra ngày hôm đó. Hôm đó, bầu trời u ám đổ tuyết lả tả
suốt từ sáng sớm. Tuyết lặng lẽ rơi giữa những tòa nhà cao tầng, dòng
người ngược xuôi che ô bước đi thật nhanh. Giữa cảnh nhộn nhạo, tôi quỳ
gối trên nền đất. Tôi cuộn mình, ghé mặt sát mặt đường, sục sạo tìm kiếm.
Tôi dùng cả hai tay để chống đỡ trọng lượng cơ thể, chiếc ô bị vứt chỏng
chơ gần đó.
Trên đường tấp nập người qua kẻ lại. Ai cũng chỉ nhìn thoáng qua tôi
rồi bước thẳng. Không ai muốn dính dáng gì tới tôi cả. Nhưng cuối cùng đã
có một người đàn ông thân thiện ra chiều băn khoăn trước bộ dạng của tôi.
Trông anh như đang trên đường đi làm về. Một tay xách cặp đen, tay kia
cầm ô cũng màu đen. Em đang tìm cái gì à, anh hỏi.
Bấy giờ tôi không nghe thấy tiếng anh, và cũng không mảy may phản
ứng.
Hay em làm rơi kính áp tròng? Để tôi tìm cho nhé? Người đàn ông lại
hỏi.
Không, không phải. Không phải kính áp tròng. Tôi vừa cật lực tìm kiếm
thứ đánh mất vừa trả lời, giọng bối rối tột độ, nghẹn ngào như sắp khóc.
Cuối cùng, người đàn ông cũng nhận ra biểu hiện bất thường ở tôi.
Tôi không đeo găng, lòng bàn tay trần trụi áp xuống mặt đường phủ đầy
tuyết, những ngón tay đỏ bầm vì băng giá. Nhưng tôi không lộ vẻ gì lo lắng
rằng tay có thể bị bỏng lạnh. Lưng tôi đã phủ một lớp tuyết mỏng, không
biết tôi đã ở trong hoàn cảnh này bao lâu rồi. Tôi đánh đuổi mọi thứ xung
quanh khỏi tâm trí, chỉ chăm chăm tìm kiếm. Và bầu không khí ấy làm
người đàn ông cảm thấy bất an.
Thật tình, không biết mình làm rơi ở đâu rồi nhỉ… Giọng tôi the thé vì
nóng ruột. Người đàn ông chợt nhận ra. Nền tuyết quanh tôi lấm tấm những
chấm đỏ. Là máu.
Em vẫn ổn chứ?
Nghe hỏi, tôi ngẩng mặt lên nhìn anh. Chắc với bộ dạng như người mất
hồn.
Tôi đã tìm kiếm cật lực mà không thấy. Mắt trái của tôi vừa rơi ra, đâu
đó quanh đây thôi… Mặt tôi nhầy nhụa máu từ chỗ đáng lẽ có nhãn cầu cho
đến tận cằm. Rồi tôi gục xuống, và bất tỉnh.
Người ta tìm thấy mắt trái của tôi trên mặt đường, cách đó một quãng,
đã biến dạng, bê bết bùn và tuyết vì gót giày người lại qua. Bao nhiêu người
che ô đi san sát nhau. Tôi vốn cũng là một thành phần trong đoàn người ấy,
nhưng đen đủi làm sao, tôi bị một chiếc ô của ai đó đập trúng mặt. Mũi
nhọn của ô ngẫu nhiên xuyên vào giữa mi mắt và nhãn cầu trái của tôi, cắt
đứt dây thần kinh thị giác. Nhãn cầu bị móc ra và rơi xuống mặt đường. Tôi
cuống cuồng tìm lại nó. Đây là những phát hiện của cảnh sát trong quá trình
điều tra.
Ngay lập tức tôi được đưa đến bệnh viện, được chữa trị. Từ thẻ học sinh
trong ví, người ta biết tên tôi là Shiraki Nami.
… Trên đây là toàn bộ sự cố xảy ra hồi trung tuần tháng Giêng, khiến
tôi mất đi kí ức.
Sau khi mở mắt, phải mất một lúc tầm nhìn của tôi mới rõ nét lại. Trần
nhà và tường đều trắng toát. Tôi đang nằm trên giường, dưới tấm chăn ai đó
đắp cho. Bên cạnh tôi là một phụ nữ, ngồi trên ghế, đọc tạp chí. Tôi nhìn bà
một lúc. Ngoài việc mở mắt, tôi không hề động đậy, cũng không lên tiếng.
Cuối cùng, trong một lần lật trang bà vô tình liếc về phía tôi, rồi đứng
phắt dậy làm tạp chí rơi xuống, hét toáng lên, “Có ai không, lại đây! Nami
tỉnh rồi!”
Tôi được dẫn đi gặp bác sĩ, được hỏi vài câu. Người phụ nữ vừa gọi y tá
cũng ngồi nghe bác sĩ chẩn đoán cùng tôi.
“Làm gì mà thần người ra thế, Nami?” Bà nói. “Đừng nhìn quanh quất
nữa, trả lời câu hỏi của bác sĩ đi.”
Tôi nhìn bàn tay mình, thấy băng gạc quấn đến tận đầu ngón tay. Đầu
tôi cũng bị bông băng bắt tréo. Mắt trái tôi không nhìn thấy gì. Tôi định
giằng bông băng ra. Bác sĩ và y tá đưa tay cản lại.
“Nami…?”
Người phụ nữ nghiêng đầu gọi. Tôi hiểu Nami là tên người. Tôi giải
thích rằng mình không có chút khái niệm nào về cái tên ấy.
“Nami là tên của cháu,” bác sĩ vừa nói vừa trỏ người phụ nữ đứng bên
cạnh tôi. “Cháu có nhớ đây là ai không?”
Tôi nhìn kĩ khuôn mặt bà ta, đoạn lắc đâu, “Không nhớ.”
“Mẹ của cháu đấy.”
Bác sĩ giải thích. Tôi lại nhìn kĩ người phụ nữ lần nữa. Bà đưa tay bưng
miệng, giật lui ra sau như muốn tránh xa tôi. Tôi được giải thích là mình đã
bị thương ở mắt trái. Bác sĩ nói rằng vì cú sốc tâm lý này mà giờ tôi đang
gặp trở ngại về trí nhớ.
Tôi được đưa lên ô tô, dẫn về nhà. Mẹ ngồi cạnh tôi. Ở ghế lái là một
người đàn ông. Tôi được giải thích rằng đây là cha mình.
Mẹ kể rất nhiều chuyện, nét mặt trông ngóng tôi trả lời. Khi tôi im lặng
vì không hiểu đâu vào với đâu, khuôn mặt ấy lộ rõ thất vọng.
“Con trầm lặng hẳn đi đấy,” cha nói.
Tôi không thấy thân quen gì với ngôi nhà này. Trên tấm bảng tên trước
cửa có ghi Shiraki, nhắc tôi nhớ lại rằng đây chính là họ của mình. Tôi tháo
giày và tiến vào cửa chính. Nhưng rồi bối rối không biết đi đâu nữa. Mẹ kéo
tay tôi qua phòng khách và gian bếp.
“Chắc hẳn con phải nhớ gì chứ?”
Tôi lắc đầu trước câu hỏi của mẹ. Tôi được dẫn qua các phòng trên tầng
hai. Có một chiếc đàn dương cầm. Tôi nhận ra đây là phòng con gái.
“Con nghĩ sao?” Mẹ hỏi.
Con nghĩ đây là một căn phòng đẹp. Tôi trả lời, và nghe giới thiệu rằng
đây là phòng của tôi. Nó đã là phòng của tôi từ rất lâu rồi. Vì mệt mỏi, tôi
hỏi liệu mình có được ngồi xuống giường không.
“Đây là phòng của con mà, con muốn làm gì cũng được.” Mẹ nói. Đến
giờ tôi mới nhận ra, rằng bà đang khóc.
Cha mang quyển album và chiếc cúp đến phòng cho tôi. Trên bệ đỡ
chiếc cúp có ghi “Giải nhất cuộc thi dương cầm”.
“Con không nhớ gì sao?”
Tôi gật đầu trước câu hỏi của ba. Trong album mà ba mang đến, phần
lớn là ảnh chụp một cô bé. Cô bé đang ngồi trong sân chơi cát, tay cầm
xẻng xúc, nước mắt lưng tròng. Tôi chỉ tấm ảnh và hỏi cha có phải hồi nhỏ
mình bị bắt nạt không.
“Người mà Nami đang chỉ, là bạn gái thân với con hồi nhỏ. Con là đứa
đang cười sau lưng bạn ấy kìa.”
Cha giải thích. Tiếp theo ông còn cho tôi xem thêm nhiều thứ nữa.
Nhưng tôi tuyệt nhiên không nhớ điều gì. Cha chìa ra một lọ hoa tôi tự làm,
nhưng đây là lần đầu tiên tôi trông thấy nó. Đến cả cái tên con thú nhồi
bông mẹ mua cho, tên bộ phim yêu thích tôi cũng đã quên mất.

Trong sinh hoạt gia đình, ban đầu tôi phải hỏi cha mẹ từ những điều vụn
vặt nhất. Tôi không biết đồ vật nào để ở đâu. Trước mỗi hành động tôi đều
xin phép. Nhưng cha nhấn mạnh rằng không cần.
Tôi gặp khó khăn trong mọi việc định làm. Buổi tối, leo cầu thang
chẳng nhìn thấy gì, tôi định bật đèn. Nhưng không biết công tắc ở đâu. Đến
khi tìm ra thì lại có quá nhiều công tắc, chưa rõ phải nhấn cái nào. Mẹ đang
ngồi trong phòng khách, tôi hỏi về công tắc đèn cầu thang.
“Trời ạ! Chẳng phải công tắc kia sao!” Mẹ nói với giọng hơi gay gắt.
“Con xin lỗi,” tôi nói.

Mẹ kiên quyết hơn cha trong việc khôi phục trí nhớ cho tôi. Ngày nào
tôi cũng được nghe kể về bản thân mình trước thời mất kí ức. Đa số là
những kỉ niệm giữa mẹ và tôi.
“Có nhớ cái lần con bị cảm lạnh, ngủ li bì không?”
Không ạ.
“Mẹ chăm sóc Nami ân cần đến thế cơ mà. Còn gọt táo cho ăn nữa,
chắc cái này thì nhớ chứ?”
Không ạ. Con xin lỗi.
“Sao phải xin lỗi. Nami không ngại ngùng lặt vặt như thế đâu. Hồi học
mẫu giáo, con còn cùng mẹ đi mua sắm nữa. Bao giờ con cũng xách hộ mẹ
túi đựng bánh mì, không nhớ sao?”
Tôi lắc đầu. Không.
“Sao con lại khóc? Việc gì mà phải khóc chứ?”
Mỗi khi tôi làm hỏng việc, hay làm điều gì trái phép tắc, mẹ lại lẩm bẩm
“Nami không bao giờ hành động như thế. Nami cẩn thận, chỉn chu hơn cơ”.
Thời gian đầu tôi cứ ru rú ở nhà, nhưng dần dần đã ra ngoài đi dạo. Có
lần tôi còn nghe mấy người hàng xóm gọi tên nữa.
“Hôm qua, bác Saito gọi con ngoài phố à?” Trong bữa cơm, cha nhắc.
“Thế mà con chẳng chào hỏi gì bác cả.”
Vì con đang cố nhớ lại trong đầu ạ.
“Hàng xóm đang rỉ tai nhau, là con cứ nhìn trân trối vào mặt người ta
với vẻ vô hồn, làm họ khó xử. Con phải ý tứ một chút chứ.”
“Xấu hổ chết đi được,” mẹ cáu kỉnh nói. “Cũng may là hàng xóm đều
biết con mất trí nhớ sau tai nạn, nên còn tạm giải thích được. Mọi người đều
đang quan tâm đến con, mặt quấn bông băng rất nổi bật mà, nên cư xử cho
phải phép vào. Ôi, giá kí ức quay lại sớm thì tốt. Từ giờ đến lúc đó, con liều
liệu thế nào cho giống Nami trước kia thì liệu.”
Đêm xuống, tôi nghe tiếng cha mẹ nói chuyện.
“Dạo này em nặng lời với Nami quá đấy.”
“Thì anh bảo, làm sao em chịu nổi. Con bé bây giờ cứ như là con nhà
người khác vậy!” Mẹ vừa nói vừa khóc.

Tôi quyết định đến trường. Sau bữa tối, cha hỏi, “Con đang học tại
trường cấp ba của tỉnh. Chắc là cũng không nhớ mặt bạn học đâu nhỉ?”
Tôi gật đầu.
“Cha đã gọi điện cho thầy rồi. Trường sẵn sàng nhận con vào học lại
như trước kia. Thầy nói con đến lúc nào cũng được.”
Tôi bắt đầu đi học lại hai ngày sau đó, tức là thứ Hai. Nghe nói lớp tôi
là lớp 11-1. Tôi mặc thử đồng phục trong phòng riêng. Mở sách giáo khoa
và sổ tay học sinh ra xem nữa. Cả hai đều hoàn toàn xa lạ.
Có những dòng ghi chú nhỏ trong sách. Là do tôi trước kia viết. Nhưng
vì thiếu vắng kí ức, nên với tôi chúng giống như nét chữ của người lạ.
Thứ Hai. Trong phòng tôi có một chiếc túi xách màu trắng, tôi quyết
định cho sách giáo khoa vào đó và mang đi. Nhưng vừa thấy chiếc túi, mẹ
đã nhíu mày, “Nami thường đi học bằng ba lô đen. Con cũng nên làm như
vậy.”
Tôi xin lỗi, và mẹ lấy chiếc túi đi. Tôi không biết trường ở đâu, nên
sáng hôm đó cha đưa tôi đến trường. Khuôn viên rất rộng. Cha dẫn tôi đến
phòng giáo vụ. Tôi rảo bước thật nhanh để không tụt lại đằng sau.
Vào tới phòng giáo vụ, tôi chào hỏi thầy Iwata chủ nhiệm.
“Lâu lắm mới gặp em,” thầy nói, rồi im lặng như sực nhớ. “À quên,
chắc em cũng chẳng biết là đã lâu hay chóng nhỉ.”
Cha cúi chào thầy Iwata rồi đến chỗ làm. Các thầy cô khác đều ngoái
nhìn tôi.
“Chắc là em khó chịu lắm, nhưng đừng để ý nhé. Ai cũng biết Shiraki
mất trí nhớ mà.”
Thầy Iwata len lén nhìn chỗ mắt trái của tôi. Nơi từng chứa mắt trái, từ
sau tai nạn chỉ còn là một lỗ rỗng. Giờ tôi đang đeo băng mắt để che lại.
Tôi hỏi thầy xem trước kia mình là một học sinh như thế nào.
“Em nghiêm túc trong cuộc sống hằng ngày, học giỏi và chơi thể thao
cũng cừ. Là ngôi sao của lớp đấy. Không cần phải tỏ ra hoang mang thế
đâu. Nào, giờ học buổi sáng sắp bắt đầu rồi.”
Nghe thầy Iwata giục, tôi rời khỏi phòng giáo vụ, theo thầy đi dọc hành
lang. Nếu tách ra chắc tôi lạc đường mất. Đến trước phòng học có ghi lớp
11-1, thầy quay lại hỏi tôi, “Không sao chứ?”
Tôi lắc đầu. Khi chúng tôi bước vào phòng, tiếng nhộn nhạo bên trong
lắng xuống. Mọi người đều đổ dồn mắt vào tôi. Thầy Iwata trỏ một chiếc
bàn. Là bàn chính giữa lớp. Tôi ngồi xuống đó.
Thầy giải thích về hoàn cảnh của tôi. Về vụ tai nạn, về tình hình hiện
tại. Nhưng nghe chừng mọi người đã biết hết rồi.
“Nami…!”
“Tớ lo cho cậu quá!”
“Ổn chưa?”
Tôi lúng búng trong miệng vì không thể trả lời, khiến mọi người nhao
nhao, “Nami, hồi trước lúc nào cậu cũng pha trò, cười phớ lớ cơ mà? Sao
mặt mày u ám thế?”
Tớ xin lỗi.
Cô bạn ngồi bàn phía trước nói với tôi, “Cậu thực sự không nhớ gì cả
à?”
Ừ.
“Thế thì tớ sẽ chỉ cho. Cứ giao cho tớ. Tớ vẫn còn chưa trả ơn bé Na
cho tớ chép bài tập về nhà mà. Ủa, bản mặt này là sao thế?”
… Tớ không biết tên cậu.
“Thật không thể tin được! Chúng mình là bạn thân nhất quả đất cơ
mà!?”
Tớ xin lỗi.
“Thôi được rồi. Tớ là Katsura Yuri. Thật tình, cố nhớ lại nhanh lên
nhé.”
Cảm ơn cậu.
Cô bạn kể cho tôi nghe về chính tôi hồi trước. Tôi xuất hiện như một
người khác trong câu chuyện của bạn ấy. Với giọng cực kì nghiêm túc, cô
bạn giải thích rằng tôi hồi trước là một con người tuyệt vời.
“Cậu là tâm điểm để mọi người xoay quanh. Cậu cười là mọi người
thoải mái theo. Còn nhớ Kamata không? Ông thầy dạy tiếng Anh đáng ghét
đấy!”
Tôi lắc đầu.
“Cậu nói tiếng Anh khiến ông ta chào thua còn gì? Lúc ấy cậu đã khiến
mọi người cực kì hả hê!”
Vào giờ học, tôi hoàn toàn ngơ ngác. Các giáo viên đều mỉm cười với
tôi, nhắc lại rằng tôi trước kia là một học sinh thông minh nhường nào. Rồi
yêu cầu tôi trả lời câu hỏi. Nhưng tôi không trả lời được.
“Đơn giản thế này mà cũng không giải được sao…” Họ thất vọng lẩm
bẩm.
Trên tàu điện tan học về, tôi xem lại bài ghi trong vở. Tôi còn không
nhớ tên ga gần nhà nhất, hay địa chỉ nhà nữa.
Tôi có ông ngoại. Được biết ông giữ vị trí quan trọng trong một công ty
lớn và có quan hệ rộng rãi với nhiều giới. Dường như ông cưng chiều tôi
hơn bất kì ai khác. Vì thế ông rất đau buồn khi biết tình hình hiện tại của
tôi.
“Nami, ông bảo sẽ cố tìm cách chữa chạy cho mắt trái của con đấy.”
Vẫn cầm chiếc điện thoại không dây, cha nói, “Ông bảo sẽ tìm mắt để ghép
cho con.”
Được thế thì bề ngoài của tôi sẽ trở lại như trước kia. Nếu thực hiện thủ
thuật nối dây thần kinh thị giác thì thị lực sẽ phục hồi, nghe nói vậy.

“Nami, sao lại ủ rũ thế. Phải trò chuyện nhiều hơn chứ.”
Ở trường, mọi người nói với tôi như thế. Càng ngày càng ít bạn học bắt
chuyện với tôi. Có một bạn định hỏi tôi về chương trình trên ti vi ngày hôm
qua. Nhưng một đứa khác đã nắm tay bạn ấy và kéo ra xa tôi.
“Nami không còn là Nami trước kia nữa, nhàm chán lắm.”
Tôi nghe thì thào như thế.

Chỉ mình Katsura Yuri là vẫn tán gẫu với tôi. Cô bạn kể về Nami trong
kí ức với vẻ hoài niệm. Tất nhiên đó không phải tôi, mà là một người tôi
không quen. Cô kể nhưng mắt không hề nhìn tôi.
Không chỉ Yuri. Hễ thấy tôi không trả lời nổi những câu hỏi đơn giản,
các thầy cô lại hồi tưởng học sinh ưu tú Shiraki Nami ngày xưa.
“Nami dạo trước là một đứa cái gì cũng làm được, khác hẳn cậu bây
giờ.”
Thật ư?
“Và dễ thương hơn nữa. Không, mặt mũi thì cũng giống nhau thôi,
nhưng vẻ mặt cậu bây giờ thiếu sinh động lắm. Nói chuyện cũng chẳng
hứng thú gì hết. Cứ như nói với không khí ấy.”
Tớ xin lỗi. Tôi nói với Yuri.

Sâu trong tiềm thức mọi người đã hình thành một sự phân biệt giữa tôi -
học sinh chậm tiến hiện nay, và Nami - học sinh ưu tú ngày trước. Hai đối
tượng này cứ như hai cá thể khác nhau vậy.
Tôi nhận ra ánh mắt mẹ nhìn mình mỗi ngày một lạnh lùng. Nghe cha
kể hồi tôi chưa mất trí nhớ, mẹ và tôi thân thiết như hai chị em.
Cha bước vào phòng giữa lúc tôi học bài, “Lần đầu tiên cha bắt gặp con
học bài đấy. Hồi trước chẳng thấy cầm quyển sách bao giờ, vậy mà thành
tích vẫn xuất sắc.”
Tôi hỏi, nếu con học hành tiến bộ hơn, trở nên giống như con trước kia,
thì liệu mẹ có yêu thương con không?
“Cha… cũng không biết nữa. Thôi lau nước mắt đi.” Cha bối rối trả lời.

Trước ngày phẫu thuật, ông ngoại đến nhà tôi, “Nami, cháu chơi đàn
cho ông nghe nhé? Cho dù mất kí ức, cơ thể hẳn phải còn ghi nhớ chứ.”
Tôi bị bắt ngồi vào đàn dương cầm. Mọi người vây quanh tôi. Ba mẹ,
ông ngoại, bác, dì, còn anh họ nữa. Mắt họ đổ dồn vào tôi. Khuôn mặt họ
đều mong chờ một màn trình diễn.
Dù tôi đã ngồi trước những phím đàn, âm nhạc vẫn không tuôn chảy.
Tôi ngồi im thin thít, và hiểu rằng đã làm mọi người thất vọng.
Ông ngoại thở dài.
Tôi xấu hổ đến đỏ cả mặt. Ước gì chạy trốn được khỏi đây.
Mọi người bắt đầu chuyện trò về Nami đáng tự hào. Nami chơi dương
cầm điêu luyện, không bao giờ làm ai thất vọng. Họ trao đổi ý kiến về khác
biệt giữa bây giờ và trước kia, cố tình nói cho tôi nghe thấy. Mẹ còn liệt kê
những khuyết điểm của tôi hiện tại.
Tôi không ngẩng nổi mặt lên, chỉ muốn tìm lỗ nẻ mà chui xuống. Cảm
giác y như lúc ở trường. Ai cũng trông ngóng tôi hồi còn kí ức. Tôi của
ngày nay không có chỗ dung thân. Những người bắt chuyện với tôi cũng
không phải người tôi quen biết, mà đều là người quen của Nami.

Hôm sau, tôi được đưa tới bệnh viện. Người ta gây mê và phẫu thuật
cấy ghép mắt trái cho tôi. Đây không phải bệnh viện tôi thường đến, mà là
một bệnh viện nhỏ nằm ở ngoại ô thành phố.
Tôi hỏi cha sao không đến bệnh viện mọi khi.
“Chuyến này lấy mắt trái cho con không theo kênh thông thường, nên
phải phẫu thuật ở bệnh viện nhỏ. Nhưng bác sĩ vẫn có trình độ nên không
cần lo đâu.”
Ngay trước cuộc phẫu thuật, tôi nhìn thấy nhãn cầu ngâm dịch lỏng
đựng trong bình thủy tinh. Từ trong bình, nó cũng nhìn lại tôi.
Phẫu thuật chỉ một loáng là xong.

Nhãn cầu của một người khác được cấy vào hốc mắt tôi, thần kinh thị
giác của đôi bên được nối bằng những sợi chỉ nhỏ. Sau phẫu thuật, tôi phải
quấn băng suốt ba ngày, bị cấm sờ vào mắt trái, cũng không được đảo mắt
bừa bãi.
Phẫu thuật chưa được bao lâu, một cảm giác bất thường bắt đầu hiện
hữu rõ rệt trên nửa mặt trái của tôi. Rất nặng nề, như bị ấn xuống. Nhiều lúc
nhận ra thì đầu đã ngoẹo hẳn về bên trái rồi.
Bốn ngày sau cuộc phẫu thuật, tôi vẫn phải nằm viện, nhưng đã được
phép tháo băng. Bấy giờ cảm giác bất thường ở mắt trái cũng biến mất.
“Mới tháo băng, có thể mắt chưa nhìn rõ. Vừa nối lại dây thần kinh thị
giác mà. Nhưng sẽ quen ngay thôi. Quen là sẽ nhìn rõ. Trong thời gian này
cháu không được dụi mắt đâu đấy.” Bác sĩ dặn.
Thời gian đầu, khung cảnh nhìn qua mắt trái giống như nhìn qua một
lớp kính mờ. Một màu trắng nhòa nhạt. Sáng chói quá mức, dường như mắt
vẫn chưa điều tiết được độ sáng.
Trên tường phòng bệnh của tôi có tờ lịch ảnh. Nửa dưới là các ngày tiếp
nối nhau, còn nửa trên là ảnh. Ảnh chụp một chiếc xích đu không người
trong công viên rực nắng.
Vì lịch treo đối diện giường nên cả ngày tôi chỉ ngắm nó. Thời gian đầu
nhìn tờ lịch bằng mắt trái, các nét đều rất mờ. Nhưng hai ngày sau khi tháo
băng, tôi đã xác định được cả những sợi xích của chiếc đu.
Một tuần sau phẫu thuật, tôi được xuất viện.
Mẹ đến đón. Trước đó mẹ chưa vào phòng bệnh lần nào. Chỉ có ông
ngoại đến thăm một lần. Nhưng vì không tìm được chuyện gì để nói, ông
phát chán và chẳng mấy chốc đã bỏ về.
“Mắt trái đã nhìn được chưa?” Mẹ hỏi. “Lúc trước con có mỗi một mắt
nên trông không giống Nami hồi xưa, nhưng bây giờ đủ cả hai mắt rồi nên
cảm giác chắc sẽ khác.”
Tôi ngó vào gương. Màu con ngươi bên trái hơi khác so với bên phải.
Quan sát kĩ sẽ thấy con mắt trái mới ghép của tôi có màu nâu trong trẻo.
Mẹ săm soi khuôn mặt đủ hai mắt của tôi, gật đầu mãn nguyện.
“Bề ngoài đã giống với Nami trước kia rồi. Tuyệt vời!” Mẹ khoanh tay,
nói như nhắc nhở. “Cố mà nhớ lại chuyện ngày xưa đi nhé. Bởi vì con bây
giờ cứ như không phải là Nami vậy. Làm sao có chuyện thế này được chứ?
Làm sao con gái lại quên sạch sành sanh kỉ niệm với mẹ đẻ được…”
Mẹ rời khỏi phòng để hoàn tất thủ tục xuất viện. Tôi ngồi trên giường,
tiếp tục nhìn lịch. Tôi cảm nhận được dây thần kinh đang kết nối suôn sẻ
nhãn cầu và bộ não. Tôi đã tạm quen rồi. Nhưng vì đang khóc nên hình ảnh
trên lịch hơi nhòe đi. Tôi lấy một miếng khăn giấy chấm nhẹ khóe mắt, chú
ý không dụi thẳng vào nhãn cầu.
Cảm giác áy náy làm lồng ngực tôi muốn vỡ tung. Tôi nhớ lại lời mẹ và
bạn cùng lớp. Họ đều thiết tha yêu quý tôi ngày trước. Nhưng tôi của bây
giờ chỉ là một kẻ vô dụng. Khi ai đó bắt chuyện, tôi thường bối rối không
biết phản ứng sao cho phải. Tôi hiểu, khi nhìn tôi lúng búng không nói nên
lời, họ lại so sánh sự khác biệt ở tôi lúc chưa và đã mất kí ức. Dù cố không
bận tâm nhưng tôi vẫn nhận ra, nếu kẻ này không phải là tôi-chậm-tiến, mà
là Nami-ưu-tú, thì ai nấy sẽ rất hạnh phúc.
Tôi vừa ngẫm nghĩ vừa nhìn cô bé ngồi xích đu trong ảnh.
Định sẽ dọn dẹp đồ đạc xung quanh trước khi mẹ quay lại, nên tôi rời
mắt khỏi tờ lịch mà mình đã nhìn từ nãy đến giờ.
Đúng lúc ấy, tôi cảm thấy có điều không đúng. Từ đầu tôi đã có cảm
giác bất thường, nhưng bây giờ mới nhận ra sự thật, và phát hoảng.
Tấm ảnh trên tờ lịch treo ở bức tường đối diện vốn chụp một chiếc xích
đu trống không. Nhưng chẳng biết tự bao giờ, trên xích đu đã có một cô bé
đang ngồi.
Tôi rên rỉ, đặt tay lên nửa trái mặt mình. Và cảm thấy sức nóng. Con
mắt cấy ghép đang tăng nhiệt. Không nóng đến mức thiêu đốt, nhưng dây
thần kinh thị giác cứ dộng bưng bưng.
Chiếc xích đu cùng cô bé trong ảnh vừa đung đưa. Tôi đang cố thuyết
phục bản thân rằng chỉ là nhìn nhầm, thì nó lại đung đưa lần nữa.
Tôi hoảng loạn nhắm nghiền mắt. Những tưởng tất cả sẽ tối đen, nhưng
không phải. Dù mi mắt đã nhắm kín, cô bé vẫn không biến mất. Ngược lại
còn trở nên rõ nét hơn. Nhờ vậy tôi nhận ra chiếc xích đu cùng cô bé trong
suốt, có thể nhìn xuyên qua được. Đó là hình ảnh chỉ mắt trái tôi nhìn thấy.
Nhắm mắt phải lại càng khiến hình ảnh ấy nổi bật.
Tôi nghĩ đến một giả thuyết lạ lùng, rằng đây chỉ là một giấc mơ. Tôi
đang mơ giữa ban ngày. Khung cảnh trong ảnh mỗi lúc một lớn, vây bọc
tôi, lấn át tầm mắt tôi, phòng bệnh biến thành một công viên lạ hoắc.
Tôi vừa nhìn quanh vừa siết chặt tấm ga để xác nhận rằng mình vẫn
đang ngồi trên giường bệnh. Cô bé tụt xuống khỏi xích đu. Trông rất nhỏ,
có lẽ còn chưa vào tiểu học. Mái tóc dài rung rinh theo mỗi chuyển động
của cô.
Xích treo đu đã gỉ sét, hậu cảnh là một khu rừng.
Vạn vật chao đảo trong cảnh mộng của mắt trái. Dù chắc chắn đây
không phải hiện thực, tôi vẫn có cảm giác cơ thể mình nghiêng ngả theo. Cô
bé lại gần tôi, nở nụ cười. Khoảnh khắc ấy giống như sóng rút ra khơi xa,
hình ảnh trong mơ lặng lẽ biến mất. Phản chiếu vào mắt trái tôi lại là tờ lịch
ban đầu. Chiếc xích đu bất động, trống không.
Tôi thấy hơi buồn nôn. Chuyện vừa rồi là sao? Là mơ? Nhìn nhầm? Ảo
giác? Lúc tôi tưởng là tấm ảnh đột nhiên động đậy, là lúc mắt trái của tôi đã
có một giấc mơ?
Tôi nhìn kĩ lại tấm ảnh. Có những chi tiết khác biệt so với giấc mơ hồi
nãy. Sợi xích trên đu không bị gỉ. Và hậu cảnh là biển.
Cửa mở, và mẹ bước vào phòng.
Tôi xuất viện, vẫn giữ nguyên những kí ức kì lạ. Tôi muốn mang tờ lịch
về nhưng không dám đề xuất.
Nụ cười của cô bé liên tục tái hiện trong tâm trí tôi. Nụ cười như công
nhận mọi khía cạnh của tôi, như chấp thuận và chào đón tôi. Tim tôi ngập
tràn cảm giác ấm áp sảng khoái. Từ khi mất đi kí ức, tôi chưa được ai ban
cho niềm hạnh phúc nhường này.
Khi rời khỏi bệnh viện, mẹ nhìn tôi với vẻ nghi ngờ, “Làm sao con
khóc?”
Tôi không trả lời được. Vì đã lỡ nhận ra. Sự yên bình mà nụ cười của cô
bé mang lại đã khiến tôi vỡ lẽ từ trước tới giờ mình hoang mang, lo lắng và
khổ sở nhường nào…

Sau chuỗi ngày nằm viện, tôi quay về với cuộc sống bình thường. Đi
học, nghe giảng. Hầu như không có ai để trò chuyện. Tôi cô độc.
Khi tỉnh dậy và nghe thông báo là mình đã mất trí nhớ, thoạt tiên tôi
không hiểu ất giáp gì cả. Tưởng như mình chỉ đứng ngoài lắng nghe những
cuộc hội thoại xung quanh. Chỉ gật đầu, không suy nghĩ, cũng không cảm
nhận.
Nhưng bây giờ tôi đã lờ mờ ý thức được cảm xúc của mình trong từng
khoảnh khắc. Tôi ngồi trên lớp, nghe mọi người bàn tán về Nami-ưu-tú
trước kia. Dù đã được cấy ghép mắt trái, đã tháo băng, địa vị của tôi trong
lớp vẫn không thay đổi.
“Bé Na hồi trước rất giỏi ăn nói và biết khuấy động để mọi người vui
vẻ, khác hẳn cậu bây giờ.”
Nghe như không phải tớ vậy…
“Đúng thật. Cứ như là một người khác ấy. Tài giỏi hơn cậu nhiều lắm.
Trong giờ thể dục, lớp mình thua bóng chuyền là tại cậu đó. Phải như bé Na
trước kia thì đã xỉa bóng bôm bốp giành chiến thắng về rồi.”
Trên sân bóng chuyền, tôi đã nếm trải cảm giác bị bỏ rơi. Tôi mắc lỗi
liên tục, rốt cuộc không ai chuyền bóng cho tôi nữa. Mọi người trong đội
nhìn tôi bằng ánh mắt căm ghét. Chẳng có nơi nào chịu chứa chấp tôi.
Lớp học ồn ào quá. Đến giờ nghỉ rồi. Âm thanh xôn xao vui vẻ. Tôi
ngồi một mình ở bàn, chờ tiết học tiếp theo. Giải lao là lúc nhàm chán nhất.
Cũng là lúc tôi thấy mình thảm hại nhất.
Tôi nhắm mắt, nhớ về giấc mơ trong phòng bệnh, về cô bé đã mỉm cười
với mình. Trái tim tôi chợt bình yên hơn. Như thể có người nhẹ nhàng nắm
lấy tay kẻ bị vứt bỏ trong bóng tối này. Mỗi khi cô đơn, hồi tưởng giấc mơ
ấy là cách để tôi tìm đến thanh bình.
Rốt cuộc cô bé đó là gì? Đơn thuần là một giấc mơ ư? Từ ngày tỉnh dậy
trong bệnh viện, biến thành cái tôi tệ hại bây giờ, tôi chưa từng mơ dù chỉ
một lần. Nếu mơ là cách người ta tổ chức lại kí ức, thì có lẽ cô bé đó cũng
là một mảnh trong quá khứ của tôi.
Tôi hỏi, mẹ có biết cô bé nào tóc dài, cùng cái xích đu ở nơi có rừng bao
quanh không ạ?
“Không biết.” Mẹ lắc đầu.
Tiếc quá! Giá như tìm lại được kí ức, tôi sẽ không phải buồn bã nữa.
Tôi bây giờ sẽ biến mất, sẽ quay lại làm Nami được mọi người yêu quý.

Tan học về, tôi mơ giấc mơ thứ hai tại nhà ga. Bấy giờ tôi đang đứng ở
sân đợi tàu, vừa đá ngón chân vào gờ chống trượt màu vàng trên nền gạch,
vừa nhìn hai đường ray song song. Xung quanh cũng có rất nhiều học sinh
tan học về. Một nhóm con trai cấp ba cười nói đi ngang qua tôi. Khi tiếng
cười vang to hơn, tôi sợ hãi không biết có phải họ đang cười mình không.
Mất một lúc tàu mới đến nơi. Mắt trái ấm lên. Tôi đang cho rằng đó chỉ
là tưởng tượng, thì hơi ấm rõ rệt dần. Các mạch máu trong mắt bắt đầu co
bóp, khiến tôi bất thần tự hỏi phải chăng trong hốc mắt trái mình là một quả
tim.
Tôi dừng mọi cử động, tập trung tinh thần theo dõi động tĩnh. Ánh nhìn
của tôi vẫn gắn chặt vào đường ray. Ban nãy nửa trên thanh ray còn lấp lánh
ánh thép. Nhưng bây giờ, nó đã khuất dạng dưới một lớp gỉ nâu cũ kĩ.
Là mơ. Tôi tin chắc như vậy và nhắm nghiền mắt lại. Từ kinh nghiệm
hồi ở phòng bệnh, tôi biết rằng nhắm mắt sẽ khiến giấc mơ rõ nét hơn.
Đường ray dần dần trượt xuống lòng đất, lại như thể tôi đang từ từ
ngước mắt lên. Nhưng khung cảnh trước mặt tôi không phải là sân ga tắm
mình trong ánh hoàng hôn nữa, mà là một cánh rừng khổng lồ lấp đầy tầm
mắt.
Phủ kín mặt đất là thảm cỏ xanh lục. Một toa tàu điện bỏ hoang chìm lút
phân nửa vào cây cối trong rừng. Từ hình dáng toa tàu, tôi tạm đoán đây là
một mẫu tàu điện đã hoàn thành nhiệm vụ từ lâu lắm rồi. Khung cửa sổ méo
mó, kính không còn khớp, cỏ mọc đầy trên nóc, toa tàu bất động như đã
biến thành một phần của khu rừng. Ánh mặt trời phản chiếu trên thảm thực
vật. Có lẽ đang là mùa hè.
Khung cảnh đẹp đến mức tôi phải nín thở. Tôi không có kí ức về chiêm
ngưỡng rừng sâu hay đường chân trời bất tận. Tôi không nhớ mình đã nhìn
thấy những gì trong mười bảy năm qua. Thế nên cảnh tượng này mới mẻ
biết bao, in hằn trong tâm trí như tờ giấy trắng của tôi.
Đó là một giấc mơ trong mơ. Tôi mở mắt phải, ngoái cổ nhìn quanh.
Hình như không ai khác trông thấy đường ray gỉ sét. Mắt phải tôi nhìn thấy
một nhân viên công sở đang đọc báo.
Khi tôi di chuyển tầm nhìn ngang dọc, hình ảnh toa tàu trong mắt trái
vẫn không thay đổi. Dù ngẩng lên hay quay ra sau, toa tàu luôn án ngữ
trước mặt tôi. Mắt trái và mắt phải như đang ở hai nơi khác nhau. Đột
nhiên, tôi thấy lố nhố bóng mấy đứa trẻ bên cửa sổ toa tàu. Đó là sân chơi
của bọn chúng sao? Còn có đứa cầm cành cây đập rầm rầm vào thân tàu
nữa. Tôi không nghe được âm thanh. Chỉ có hình ảnh thôi. Nhưng lại cảm
giác như nghe ra cả tiếng gió và tiếng côn trùng.
Cảnh vật trong mắt trái lại chao đảo. Rung lắc lên xuống theo một nhịp
điệu nhất định. Tôi đang đứng yên trên sân ga này thôi, nhưng tưởng chừng
mình đang bước đi. Cảm giác thăng bằng bị rối loạn, tôi chú ý để không ngã
khỏi sân ga.
Con tàu trong mơ lớn dần, lại gần tôi hơn. Những đứa trẻ đưa mắt về
phía tôi. Góc nhìn của tôi thấp quá. Tôi nhận ra trong giấc mơ này, mình
cũng là một đứa trẻ. Tôi dừng lại ở quãng giữa bên hông con tàu, nhìn lên
cửa sổ. Với một đứa trẻ con như tôi lúc này, toa tàu thật to lớn và đáng sợ.
Chỉ có mấy chỗ hiếm hoi chưa tróc sơn trên bề mặt tàu là không bám đầy gỉ
sét.
Những đứa trẻ có vẻ ngang tàng ấy nhìn xuống tôi qua khung cửa sổ.
Một cánh tay nhỏ bé vươn ra từ mé dưới bên phải giấc mơ. Tôi hiểu đó là
tay của chính mình, được nhìn qua mắt trái. Bàn tay bé xíu của trẻ con. Tôi
đưa tay về phía cửa sổ. Nhưng vì khung cửa ở trên cao nên tất nhiên tôi
không với tới.
Một khuôn mặt thoáng thò ra khỏi cửa sổ. Bẵng đi một lúc, nó lại xuất
hiện, ném một hòn đá nhỏ vào tôi. Trên sân ga, tôi bất giác “Á” một tiếng.
Người đàn ông đứng bên cạnh giật mình quay sang nhìn. Trong mơ, đứa bé
trai ném vào tôi cành cây nãy giờ dùng để đập thành toa tàu. Tôi vội đưa
cánh tay trẻ con lên che mặt.
Rồi tôi nhận ra mình đang làm đúng như thế trên sân ga ngoài hiện thực.
Con tàu lướt qua đường ray đến bến. Giấc mơ kết thúc, và mắt trái tôi trở
lại bình thường.
Về đến nhà, tôi chép ra giấy những cảnh nhìn thấy trong mơ ở ga tàu.
Tôi bổ sung vài hình vẽ đơn giản, miêu tả địa điểm và lũ trẻ con. Còn chú
thích mơ ở đâu, vào lúc nào nữa. Tôi có linh cảm mai này mình sẽ gặp
những giấc mơ tương tự.
Lần đầu tiên là cô bé trên chiếc xích đu. Lần thứ hai là toa tàu hòa vào
rừng cây. Tôi không biết các lần tới là gì. Biết đâu đó chính là những khung
cảnh mà tôi nhìn thấy hồi chưa mất kí ức, nhìn thấy trên phim chẳng hạn.
Chợt tôi nhận ra rằng loạt giấc mơ này có nguyên tắc kì lạ. Đó là luôn
hài hòa với tình huống ở hiện thực của tôi. Lần đầu tiên là chiếc xích đu.
Lần thứ hai là đường ray tàu. Khi những hình ảnh mờ nhạt đồng nhất với
hiện thực, đó là lúc cuốn phim giấc mơ bắt đầu quay với máy chiếu là con
mắt trái của tôi.
Đúng vậy, chỉ mắt trái của tôi nhìn thấy giấc mơ ấy. Các hình ảnh chỉ
phản chiếu vào con mắt mới cấy ghép này. Tôi tự hỏi liệu nó có phải là một
chiếc hộp nhỏ chứa giấc mơ không nữa. Bình thường chiếc hộp bị khóa, và
chỉ hoạt động như một con mắt. Nhưng khi vặn chìa vào và xoay, những
giấc mơ sẽ được giải phóng. Chìa khóa đó có thể là chiếc xích đu, hay
đường ray tàu hỏa.
Tôi cho tờ giấy A4 tập hợp những điều liên quan đến giấc mơ vào một
cặp đựng tài liệu và đóng lại. Tôi cứ nhớ mãi đến giấc mơ ở ga tàu. Tôi là
một đứa trẻ con, với tay đến những đứa trẻ ở bên kia khung cửa sổ. Nhưng
chúng lại cầm đá và cành cây ném tôi… Đây chỉ là phỏng đoán thôi, nhưng
có lẽ tôi trong giấc mơ muốn được mọi người cho chơi cùng, nhưng bị cự
tuyệt.
Cảnh tượng nhìn thấy ở ga tàu làm tôi băn khoăn đến tận đáy lòng. Nó
thấm vào tim tôi như một kỉ niệm thời thơ ấu. Khi nhớ về giấc mơ ấy, tâm
trạng tôi chợt buồn da diết. Sân chơi trong toa tàu bỏ hoang, hay cả việc
không được cho chơi cùng, đều là những hình ảnh mới mẻ tôi nhìn thấy lần
đầu.
Tôi thèm khát kỉ niệm. Tôi không nhớ được bất cứ điều gì về thời điểm
trước khi tỉnh lại trong phòng bệnh. Tâm hồn trống rỗng và khô cằn tựa cát.
Kẻ thiếu vắng quá khứ như tôi cũng mông lung cả trong hiện tại, không có
lấy một điểm tựa vững chắc.
Và đó là lúc những giấc mơ kì lạ xuất hiện, cùng những cảnh tượng,
những trải nghiệm tôi chưa từng gặp. Chúng thấm sâu vào tâm khảm, khiến
tôi bình yên, luồn lách như làn nước ấm vào từng ngóc ngách trái tim tôi.
Đã một tuần trôi qua kể từ lần tôi mơ trên sân ga. Quyển nhật kí bằng
tranh ghi chép nội dung những giấc mơ đã lên đến hai mươi trang. Đúng
như linh cảm, sau lần đó tôi còn gặp không biết bao nhiêu giấc mơ khác.
Về điều kiện khiến giấc mơ xuất hiện, thì ví von của tôi về chiếc hộp và
ổ khóa tỏ ra khá chính xác. Những hình ảnh tôi vô tình bắt gặp, trông thấy
trên ti vi hay sách báo… đều trở thành chìa khóa, rút dần những cuộn phim
khỏi mắt trái tôi. Ví dụ đã có lần chìa khóa là hộp sữa bò đổ ngang, hay
khuôn mặt của con mèo con giật mình. Khi nhìn thấy chúng, mắt trái đột
ngột nóng lên. Tôi không chọn lựa được thời gian hay địa điểm. Trạng thái
ấy xảy ra khi mắt trái bắt gặp một xúc tác thích hợp làm chìa khóa.
Và như thế, chiếc hộp giấc mơ mở ra. Những đoạn phim trong hộp
không theo một trình tự gì. Có lần tôi đứng ở nơi kính vỡ tung tóe, nhìn
xuống những mảnh vụn dưới chân mình. Hay có lần tôi bị chó đuổi. Và còn
có một khung cảnh cô đơn, tôi bị bỏ lại trơ trọi ở nơi trông giống trường
học… Càng ngày tần suất mơ càng cao.

Một ngày nọ, tôi ngồi trong lớp, đang thẩn thơ ngắm cục tẩy thì mắt trái
bắt đầu nóng lên, tôi tự nhủ lại sắp mơ. Những lúc thế này, tim tôi bắt đầu
đập dồn vì mong chờ. Nói ra kể cũng lạ, nhưng nôn nao như thể sắp được
ngắm mình lần đầu trong cuốn album quá khứ.
Buổi chiếu phim trong mơ kéo màn, với cục tẩy là tấm vé vào cửa. Một
thế giới trong suốt, với mỗi mắt phản chiếu một cảnh tượng khác nhau. Khi
tôi nhắm cả hai mắt, hình ảnh cố định vào giấc mơ đang chiếu bên mắt trái.
Trong mơ, tôi ở lớp học, bạn bè xung quanh đều là học sinh cấp hai, nên
chắc tôi cũng tầm tuổi đó. Tuổi của tôi mỗi giấc mơ mỗi khác.
Hình như chúng tôi sắp thi. Một người đàn ông trông giống giám thị
đang phát tờ đề cho từng bàn. Tay phải tôi cầm bút chì. Là tay con trai. Tôi
biết được qua ống tay áo đồng phục màu đen. Trong mơ tôi thường xuyên là
con trai. Tôi cầm cây bút chì vót nhọn, bắt đầu điền tên mình vào ô trống.
Cái tên “Fuyutsuki Wazuya” được viết bằng những nét chữ vụng về. Bên
cạnh ô điền tên tôi nhìn thấy dòng chữ “Đề thi chuyển cấp” cùng với tên
một trường cấp ba.
Ánh nhìn của tôi chợt lướt ra xung quanh. Cạnh tôi là cửa sổ kính. Bên
ngoài u ám, trời đang mưa. Vì thế khuôn mặt tôi phản chiếu trên lớp kính
cửa sổ. Dù là một khuôn mặt không quen biết, nhưng tôi hiểu đây chính là
bản thân mình trong giấc mơ này.
Đến đây thì giấc mơ kết thúc.
Wazuya. Tôi tranh thủ viết cái tên vào một tờ giấy A4 đề phòng lại mất
đi kí ức. Tôi còn ghi lại cả thời điểm gặp giấc mơ và tên ngôi trường cấp ba
trên đề bài, rồi đóng cặp tài liệu lại.
Tối hôm đó, tôi vừa xem ti vi trong phòng khách, vừa nghĩ về những
giấc mơ giữa ban ngày do con mắt của mình mang lại. Cha vẫn chưa đi làm
về, trong nhà chỉ có tôi và mẹ. Bầu không khí giữa tôi và mẹ không được
thân mật cho lắm. Mẹ thường nhìn tôi bằng ánh mắt xa lạ, chỉ gọi tôi là
“con”, còn nhắc đến tôi trước khi mất đi kí ức thì gọi bằng “Nami” để phân
biệt.
Sau bữa tối, tôi đã tính đến việc về lại phòng mình. Nhưng nghĩ cho kĩ,
vừa ăn xong đã lỉnh luôn thì dửng dưng quá, nên tôi quyết định nán lại với
mẹ một lúc. Tôi cảm thấy áy náy vì chỉ quây quần cùng mẹ vào giờ ăn cơm.
Tôi không phải là Nami mà mẹ hằng mong muốn, nhưng tôi vẫn muốn ở
bên bà hết mức có thể.
Ti vi đang phát chương trình đặc biệt về tìm kiếm người mất tích. Bên
dưới màn hình hiển thị một số điện thoại, để người xem có thể cung cấp
thông tin. Không một chương trình nào quen thuộc với tôi. Kể cả những
chương trình nổi tiếng chiếu liên tục từ hồi tôi còn bé cũng đã chạy trốn
khỏi kí ức.
Tấm ảnh một cậu bé mất tích vài tháng trước xuất hiện trên màn hình.
Vừa nhìn tấm ảnh, tôi vừa nhớ lại giấc mơ trong mắt trái hồi trưa. Cậu bé
tên Wazuya, chính là tôi khi mơ. Giấc mơ thể hiện qua điểm nhìn của
Wazuya, một thước phim chỉ có hình ảnh, không âm thanh, các diễn biến
trôi qua trước đôi mắt của cậu. Ngẫm cho kĩ thì quả thật các cảnh mộng bắt
gặp khi trước cũng đều là cảnh vật thể hiện qua điểm nhìn của ai đó, các
hình ảnh lay động như thể tôi đang bước đi, rồi thoắt tối sầm giống như vừa
chớp mắt. Đó đều không phải là góc nhìn người thứ ba từ trên cao nhìn
xuống.
Tôi cảm thấy nôn nao trong ngực. Từng có vài giấc mơ mà trong đó tôi
đang nói chuyện với người khác. Nhưng vì không có âm thanh nên tôi
không biết mình đang được gọi bằng tên gì. Từ lúc biết cái tên Wazuya, các
giấc mơ bỗng cụ thể hẳn lên.
“Mẹ thu dọn bát đĩa đây, con vẫn muốn xem ti vi à?”
Mẹ đứng dậy.
Vâng ạ, tôi trả lời.
Trên màn hình xuất hiện tấm ảnh một cô bé. Có lẽ tầm tuổi học sinh tiểu
học, hoặc cấp hai. Trong ảnh, cô bé đang nấu ăn cùng vài đứa trẻ khác ở
ngoài trời, chắc là đi dã ngoại. Khuôn mặt những đứa trẻ khác đã bị làm
mờ.
Mắt trái tôi giật giật và nóng rực lên. Dấu hiệu quen thuộc trước mỗi lần
mơ, nhưng chưa bao giờ dữ dội nhường này. Mạch máu trong mắt tôi co
giật y như quả tim đập dồn sau một quãng đường dài chạy hết tốc lực. Dây
thần kinh thị giác nối mắt trái của tôi với não như đang gào thét.
Tôi hoảng hốt, bối rối. Không tài nào nhắm được mắt. Tôi bất động, ánh
mắt dán chặt vào cô bé trên màn hình. Chiếc hộp trong mắt tôi mở ra. Mồ
hôi chảy đầm đìa trên lưng. Thứ gì đó đen tối ẩn trong mắt trái tôi đang cố
lao ra ngoài. Tôi có linh cảm đây sẽ là một cơn ác mộng.
Đột ngột màn hình tối sầm, tấm ảnh chụp cô bé biến mất. Sức nóng
trong mắt trái nguội đi rất nhanh, và tôi được giải phóng khỏi sự tê liệt. Tôi
thở hắt ra, nhìn mẹ đang cầm chiếc điều khiển.
“Mẹ tắt ti vi đi nhé?”
Tôi gật đầu.

Saori đang nói chuyện với ông chủ quán… Còn tôi, không, còn Wazuya
đang ngồi chống cằm trên quầy, quan sát hai người đó. Cạnh quầy có một
cái lọ cắm những bông hoa màu trắng. Khi quay người lại, Saori đã làm đổ
lọ hoa ấy. Nước bắn tung tóe trên mặt quầy, nhưng không có lấy một tiếng
động.
Giấc mơ mắt trái của tôi kết thúc ở đây. Tôi mở cả hai mắt và gấp tạp
chí lại, lục cặp lấy một tờ giấy A4, ghi chép về giấc mơ vừa đến với mình.

Ngày mơ: 10/3.


Nhân vật xuất hiện: Saori, và ông chủ quán cà phê.
Hoàn cảnh dẫn đến giấc mơ: Đang đọc tạp chí trong phòng riêng. Mắt trái phản
ứng với bông hoa trắng trong tấm ảnh ở mục quảng cáo.
Nội dung giấc mơ: Saori nói chuyện với ông chủ. Saori hốt hoảng vì làm đổ lọ hoa
tại quán cà phê chị đang làm thêm. Nước loang trên mặt quầy. Nước đọng thành vũng
quanh tách cà phê trước mặt tôi…

Trong giấc mơ, Wazuya đang ở quán cà phê Rừng Trầm Uất.
Tôi cho tờ giấy viết xong vào cặp. Suốt hai tuần nay, tôi đã tập thói
quen viết nhật kí giấc mơ. Tài liệu mỗi lúc một dày, nặng nề đến mức việc
mang nó theo trở nên phiền toái.
Saori là tên chị gái của Wazuya. Chị đang làm việc tại quán cà phê.
Trong những giấc mơ ban ngày của tôi, mỗi nhân vật thường xuất hiện vài
lần. Vì thiếu vắng âm thanh nên nói chung tôi không biết tên họ là gì, trừ
chị gái này, vì tên chị có ghi trên tấm biển trước cửa nhà từng lóe qua trong
mắt trái tôi.
Saori xuất hiện rất nhiều lần. Tôi lờ mờ hiểu được rằng Saori là chị của
tôi… à không, của Wazuya. Có những lần chị là trẻ nhỏ, cũng có lần chị đã
thành người lớn, khiến điểm nhìn của tôi thấp đi hoặc cao lên. Không phải
giấc mơ nào cũng ghi nhận khoảnh khắc chúng tôi còn thơ ấu. Nhưng
gương mặt chị Saori gần như không thay đổi, ánh nhìn hướng về tôi luôn
chan chứa dịu dàng. Cô bé tôi bắt gặp trên chiếc xích đu trong giấc mơ đầu
tiên chính là Saori.
Kiểu tóc và trang phục của Saori thay đổi tùy theo độ tuổi của chị. Có
lúc chị để tóc dài tết lại, có lúc chỉ nuôi đến ngang vai. Nhưng chị có một
đặc điểm nổi bật không lẫn đi đâu được: mũi đỏ tấy, gần như lúc nào cũng
thế. Hễ nhìn thấy nó thì sẽ biết ngay đây là Saori. Không hiểu là bệnh mãn
tính từ nhỏ hay do dị ứng phấn hoa nặng mà mũi chị rất hay chảy ra những
dòng chất lỏng trong suốt. Xong lại chùi khăn giấy lia lịa nên mũi mới đỏ
tấy lên.
Tôi rất hay thấy chị Saori lau mũi. Có lần chị như bị chôn vùi giữa một
núi khăn giấy vo tròn. Tôi còn từng thấy chị ôm hộp khăn giấy đi mua đồ,
hay vừa lau mũi vừa tiếp khách tại quán cà phê nữa. Nếu không vì cái tật
này thì chị cũng là một người con gái đẹp, nhưng thỉnh thoảng chị lại đưa
cục khăn giấy vo tròn lên chấm mũi, không đếm xỉa đến ánh mắt người ta.
Trong mơ tôi hay quấn quýt bên chị, khi đi tản bộ, lúc chụm đầu chơi
bài. Hồi nhỏ có lần chúng tôi còn đánh nhau để tranh giành thứ gì đó nữa,
và đứa nào cũng mếu máo. Khuôn mặt chị Saori bấy giờ không biết miêu tả
bằng từ ngữ gì khác hơn là nước mắt nước mũi nhoe nhoét.
Saori thường có vóc dáng cao hơn tôi, nhưng cũng đôi lần tôi thấy cậu
em Wazuya lớn đuổi kịp và vượt cả chị. Trong những giấc mơ như thế, góc
nhìn được đặt ở vị trí còn cao hơn tôi ngoài đời thực, cho phép tôi chứng
kiến thế giới xung quanh ở một tầm mức vô cùng mới mẻ.
Thế giới trong giấc mơ của tôi thống nhất ổn định. Không có chuyện đột
ngột chiến tranh, hay con người di cư lên vũ trụ. Chỉ có cuộc sống bình
thường. Tôi cố hết sức hấp thu những giấc mơ ấy vào mình. Chúng thay thế
cho kí ức đã qua, cho những chặng đường đời mà tôi không có được.

Ngày mơ: 12/3.


Nhân vật xuất hiện: Fuyutsuki Saori cùng ba mẹ.
Hoàn cảnh dẫn đến giấc mơ: Mắt trái phản ứng với phần tua rua màu trắng gắn ở
đầu cây ngoáy tai nhìn thấy trên giá.
Nội dung giấc mơ: Saori thời thơ bé (ở lứa chắc chưa vào tiểu học) gối đầu lên đùi
mẹ để mẹ ngoáy tai cho. Tôi vừa chơi một mình gần đó vừa nhìn chị. Tay tôi nắm chặt
một chiếc đầu máy xe lửa. Saori hình như không thích ngoáy tai, lần nào cũng cau có,
nước mũi chảy ra dây bẩn cả đùi mẹ. Ba đi qua đằng sau hai người.

Ngày mơ: 14/3.


Nhân vật xuất hiện: Ba và đồng nghiệp.
Hoàn cảnh dẫn đến giấc mơ: Mắt trái phản ứng khi trông thấy chiếc xe tải chờ đèn
đỏ. Cũng vì theo dõi giấc mơ mà tôi bỏ lỡ đèn xanh, không qua được đường.
Nội dung giấc mơ: Ba đang đeo găng tay, làm việc tại xưởng gỗ. Từ độ cao của
điểm nhìn, tôi đoán được lúc này Wazuya vẫn đang là trẻ con. Bộ đồng phục của ba
lấm tấm vết dầu máy. Những thân cây vừa đốn chất đầy trên chiếc xe tải lớn, một người
đàn ông trẻ đang làm việc gần đó. Anh mặc đồng phục giống ba nên tôi nghĩ họ là đồng
nghiệp. Tôi đang định đến gần thì cha giơ tay ngăn lại. Có lẽ ông đang ra dấu “Nguy
hiểm lắm, con đừng lại đây.” (?)

Ngày mơ: 15/3.


Nhân vật xuất hiện: Saori và hai bác.
Hoàn cảnh dẫn đến giấc mơ: Mắt trái phản ứng với tàn thuốc lá của cha.
Nội dung giấc mơ: Tôi và Saori đang ở nhà bác. Bác trai đã say bí tỉ, vung tay đánh
rơi chiếc mâm bác gái mang tới. Bát đũa vung vãi trên sàn nhà. Nét mặt Saori căng
thẳng.

Thế giới của Wazuya và Saori nằm sâu trong một vùng núi hẻo lánh.
Đập vào mắt tôi thường là những ngọn núi cao chót vót, hay vực sâu thăm
thẳm ở mé ngoài rào chắn của con đường mòn. Nhà Fuyutsuki gồm ba, mẹ,
Saori và Wazuya. Chưa lần nào tôi trông thấy ông hay bà. Khi điểm nhìn
của Wazuya đạt đến một độ cao nhất định, ngay cả ba mẹ cũng không còn
xuất hiện nữa. Có lẽ anh đã dọn ra sống một mình.
Tôi cần mẫn cóp nhặt vô số khung cảnh đã thấy trong những giấc mơ.
Đó là một hoạt động thú vị. Ba mẹ đầm ấm, nâng niu ôm ấp tôi. Cho dù
cảm giác rất thoải mái, nhưng tôi cũng thấy có lỗi với mẹ mình ngoài đời.
Thật không bình thường khi ở với cha mẹ ảo lại yên ả hơn ở với người mẹ
dứt ruột đẻ ra mình.
Dù ở nhà hay ở trường, tôi đều nhấp nhổm bất an, và chỉ nguôi ngoai
được khi mường tượng lại những giấc mơ. Tôi đau đớn phát hiện ra, mình
đang dựa vào mộng ảo để lẩn tránh hiện thực. Hễ mẹ hay bạn bè nhắc đến
Nami trước kia, trái tim tôi lại nhức nhối. Tôi không dám nhìn thẳng vào
mắt ai khi nói chuyện, từ giáo viên chủ nhiệm cho đến những người quen
biết bản thân ngày trước. Bước chân tôi run rẩy chỉ chực chạy trốn khi
hoang mang nghĩ rằng ôi thôi mình lại sắp hậu đậu làm hỏng việc.
“Nami, hôm nay cậu trực nhật đấy, xóa bảng đi.”
À, ừ, tớ hiểu rồi…
Những cuộc trò chuyện với bạn bè, dù chỉ dừng lại ở mức độ như thế,
cũng làm đầu óc tôi muốn vỡ tung. Mình phát âm có ngọng nghịu quá
không? Mình cười thế đã đủ tươi chưa? Mình có làm mọi người mất tự
nhiên không? Những nghi vấn dồn dập đẩy tôi vào trạng thái sợ hãi và lo
lắng triền miên. Cho đến bây giờ, mỗi khi nhìn thấy cây đàn dương cầm, tôi
lại hồi tưởng màn trình diễn thất bại lúc trước và nghẹn ngào muốn khóc.
Mọi sự đều trở nên đáng sợ, trói buộc tất thảy cử động của tôi.
Những lúc ấy, trong đầu lại nảy ra một ý nghĩ mà chính tôi cũng biết là
không nên không phải. Rằng, từ bỏ nỗ lực làm con người ở hiện thực này
đi, thay vào đó, hãy là một cư dân trong thế giới giấc mơ của con mắt trái,
thế giới của Wazuya. Vì không còn kí ức, tôi sẽ không bao giờ trở thành
Nami được. Dù có cố gắng, tôi cũng không thể đánh đàn dương cầm, học
giỏi và được thầy cô yêu mến như người ấy. Không biết tự bao giờ, tôi đã
nghiễm nhiên coi mình không phải là Nami.
Không chỉ có vậy. Tôi bây giờ cũng không còn giống cái tôi mù tịt mọi
chuyện hồi mới mất kí ức nữa. So với kẻ đã rơi rụng tất cả và phải bắt đầu
lại từ số không ấy, con tim tôi giờ đây ôm ấp biết bao cảnh tượng. Đó
không thể nào là kí ức của Nami, đứa con một sinh ra và lớn lên giữa thành
phố.
Tôi bây giờ đâm ra sợ chó. Tôi luôn giữ khoảng cách nhất định với
chúng vì sự bị cắn. Lúc đầu tôi cũng không hiểu tại sao lại như vậy.
“Nami vốn thích chó cơ mà…” Nghe mẹ nói, rốt cuộc tôi cũng nhận ra,
biến đổi khởi sinh từ kí ức trong mắt trái. Tôi từng ghi vào tài liệu một đoạn
thế này.

Ngày mơ: 26/2.


Nhân vật xuất hiện: Chó to.
Hoàn cảnh dẫn đến giấc mơ: Mắt trái phản ứng với con chó được chủ dắt đi, nhìn
thấy trên đường đến trường.
Nội dung giấc mơ: Chạy trốn vì bị chó đuổi. Cuối cùng tôi bị cắn, và giấc mơ kết
thúc.
Tôi cho rằng mình bắt đầu cảnh giác với chó là từ giấc mơ trên. Như
vậy là những hình ảnh nhìn thấy trong thân phận Wazuya có ảnh hưởng đến
tinh thần của tôi ở hiện thực.
“Nói sao nhỉ, cậu như biến thành người khác hẳn rồi.” Trên lớp, Katsura
Yuri nói với tôi. “Nhưng vẫn ăn hại toàn diện như mọi khi. Thật tình, lo mà
lấy lại kí ức sớm đi. Cứ thế này là cậu sẽ đội sổ đấy.”
Nghe cô bạn nói, tôi chỉ biết gật đầu. Tôi đúng là một đứa ăn hại, không
làm được bất cứ việc gì. Sức nặng của Nami do mọi người chất lên làm tôi
muốn chết cho xong. Tôi không thể nào bắt chước người đó được.
Mẹ cho tôi xem đoạn băng quay tôi hồi còn kí ức, tức là quay Nami. Kế
hoạch của mẹ là muốn tôi nhớ ra phần nào, nhưng tốn công vô ích. Băng
bắt đầu chạy, cho thấy một Nami vận trang phục tuyệt đẹp đứng trên sân
khấu. Cô cúi đầu chào quan khách rồi ngồi xuống trước cây đàn dương cầm
và bắt đầu biểu diễn. Giai điệu thật tuyệt vời. Tôi nhắm mắt lại, cảm nhận
những cơn rung trong màng nhĩ, và một thế giới trong suốt mở ra. Những
ngón tay của Nami tinh tế nhảy múa, cứ như một phép màu.
Trong một cuốn băng khác là bữa tiệc sinh nhật hồi tiểu học. Địa điểm
là phòng khách nhà tôi. Nami ở giữa vòng bao bọc của bạn bè, sôi nổi
chuyện trò không ngơi nghỉ. Phải nhiều gấp mười lần số từ tôi nói trong
một tuần ở trường bây giờ. Cô chí chóe với bạn bè, khoe lúm đồng tiền,
thỉnh thoảng còn phồng má làm trò chọc cười mọi người xung quanh. Cô
gái trong đoạn băng như tỏa hào quang rực rỡ. Dù vẫn mang khuôn mặt
giống tôi, nhưng đó là một người hoàn toàn khác.
Tôi cảm thấy mình như bị giam cầm trong bóng đêm.

Ngày mơ: 21/3.


Nhân vật xuất hiện: Ba mẹ, người làm ở xưởng gỗ.
Hoàn cảnh dẫn đến giấc mơ: Mắt trái phản ứng với lưỡi cưa xoay vòng tại cửa
hàng đồ gia dụng.
Nội dung giấc mơ: Ba mẹ gặp tai nạn.

Tôi ra cửa hàng đồ gia dụng để mua cái compa dùng ở trường. Nhưng
rồi bị lạc, không vào khu văn phòng phẩm mà lại sang khu dụng cụ lao
động vốn chẳng liên quan gì. Trong số các dụng cụ bày trên giá có một
chiếc máy cưa xoay vòng cỡ nhỏ, lưỡi tròn. Mới lướt qua nó, mắt trái của
tôi đã nóng lên. Tôi khựng lại, chăm chú nhìn chiếc máy cưa ấy. Dù không
ai đụng đến nhưng chẳng biết tự bao giờ lưỡi cưa đã bắt đầu xoay, không hề
phát ra tiếng động. Hiện thực trong mắt phải và hình ảnh trong mắt trái của
tôi bắt đầu chồng lên nhau, kẹp giữa là chiếc máy cưa. Biết rằng giấc mơ đã
bắt đầu, tôi nhắm hai mắt lại.
Trong mơ, những mảnh vụn gỗ đang bắn tung tóe quanh chiếc cưa xoay.
Lưỡi cưa tròn quay lông lốc với tốc độ cao, như hút lấy và cắt đôi tấm ván
màu trắng. Đây là xưởng gỗ nơi ba làm việc. Chỉ có hình ảnh thôi. Nhưng
tôi lại cảm giác như mình đang nghe thấy tiếng gỗ cắt, đang ngửi thấy mùi
gỗ hăng đến điếc mũi. Các công nhân miệt mài dùng cưa điện để cắt những
tấm gỗ. Còn tôi chằm chằm quan sát họ, từ bên hông xưởng. Cổng vào rất
lớn để xe tải nhập xuất hàng dễ bề ra vào. Độ cao của điểm nhìn cho thấy,
lúc này Wazuya vẫn còn là thiếu niên.
Bất giác tôi lướt mắt nhìn quanh, và phát hiện ra ba mẹ đang đứng bên
nhau. Mẹ rất hay dẫn tôi đến thăm xưởng gỗ nơi ba làm việc. Bây giờ hai
người đang đứng cạnh một chiếc xe tải lớn. Những thân cây to bản được
buộc cố định bằng dây trên thùng chở hàng. Ba vẫy tay gọi. Tôi bắt đầu tiến
lại gần. Đột ngột, những cây gỗ chất trên xe tải… tuột ra. Chúng lăn thẳng
xuống đầu ba mẹ đang đứng đó.
Tôi thét lên kinh hoàng giữa cửa hàng đồ gia dụng. Mắt trái tôi thu lấy
hình ảnh hai người bị chôn vùi dưới đống gỗ. Tôi muốn chấm dứt giấc mơ
này ngay lập tức. Nhưng không đủ khả năng. Dù mở hay nhắm mắt, giấc
mơ vẫn ngoan cố trôi. Cũng không thể nhìn ra hướng khác được.
Trong mơ tôi đứng như trời trồng, bất động cho đến khi bao nhiêu người
làm trong xưởng đổ xô tới. Tôi lặng thinh nhìn bóng ba mẹ lấp ló dưới đống
gỗ. Người ta mau chóng bê những thân cây lớn đè hai người ra. Nhưng tôi
biết họ không thoát nạn. Ba mẹ vắng mặt trong những giấc mơ khi Wazuya
trưởng thành, có lẽ chính vì lý do này.
Máu chảy ồng ộc từ đầu ba nằm sõng soài trên đất. Đến đây kí ức trong
mắt trái dừng lại, quang cảnh trở về bình thường. Tôi ngồi sụp xuống giữa
hai giá để hàng. Nhân viên chạy tới vì nghe thấy tiếng thét của tôi.

Cuối tháng Ba, tôi đến bệnh viện từng cấy ghép mắt cho mình để kiểm
tra định kì. Từ khi ra viện tôi vẫn thường xuyên quay lại tái khám, nhưng
trong tháng Ba thì đây là lần đầu tiên. Vì đã nhớ đường nên tôi không cần
cha mẹ đưa nữa mà tự mình bắt xe buýt đi.
Đến trước cổng bệnh viện, tôi nhìn ngắm vẻ ngoài của nó một lần nữa.
Tòa nhà khá nhỏ, nằm khuất nẻo ở ngoại ô thành phố. Trước đây tôi chưa
từng để ý đến, nhưng nơi này toát ra một thứ hơi hướm thật lạ lùng. Thứ
nhất là không có bảng tên. Cổng chính thì ẩn sau bụi cây. Chắc hẳn đa số
mọi người đều đi lướt qua mà chẳng hề nhận ra đây là bệnh viện.
Tại cửa vào, tôi thay sang đôi dép đi trong nhà màu xanh lục. Tôi cố tìm
một đôi chưa rách, nhưng không có.
Ngoài tôi ra, hình như không có bệnh nhân ngoại trú nào khác. Trực tiếp
tân là một y tá đã ở tầm tuổi có thể gọi là “bà già”, khuôn mặt đanh lạnh.
Không chỉ mỗi phòng chờ mà chỗ nào trong tòa nhà cũng tối om om. Nơi
này thật đáng ngờ, vậy mà hồi trước nằm ở phòng bệnh tầng hai tôi chưa
từng nhận ra. Có lẽ chính tôi đã thay đổi rồi.
Nghe bà y tá gọi tên, tôi vào phòng khám bệnh. Một căn phòng vô hồn.
Chỉ có bàn ghế, và giường nằm ngăn cách bằng tấm bình phong. Bác sĩ là
một ông trung niên lún phún ria mép, đang hí hoáy viết bên bàn. Tôi cúi
đầu chào.
“Mời cô ra kia chờ.”
Bác sĩ ngẩng lên nhìn tôi, dứt lời lại cúi gằm xuống đống tài liệu. Tôi
nằm lên giường chờ khám. Ngắm trần nhà một lúc, tôi liếc sang ngang và
thấy trên tường treo một tấm gương lớn. Chiếc giường tôi đang nằm phản
chiếu vào quãng giữa tấm gương. Tôi nhớ lại cuộc phẫu thuật cấy ghép con
mắt. Lúc đó tôi cũng được gây mê trên chiếc giường giống thế này.
Đó cũng là lúc tôi gặp gỡ con mắt hiện đang ở góc trái mặt tôi bây giờ.
Trước đó tôi thiếu mất một mắt, và nơi ấy chỉ là một lỗ rỗng. Sau phẫu
thuật, mặc dù vẻ ngoài đã giống với Nami thời chưa mất kí ức, nhưng ngoài
ra không có gì thay đổi. Phẫu thuật cấy ghép không cho tôi thứ gì ngoài một
vẻ ngoài đàng hoàng hơn. Tôi nghĩ mà tiếc nuối.
Thời gian đầu nhìn tôi đã đủ hai mắt, mẹ rất vui.
“Khuôn mặt của Nami đây rồi.”
Mẹ hoan hỉ nhìn ngắm tôi từ chính diện, đưa tay vuốt má tôi và cười rất
tươi. Tôi bất ngờ đến mức muốn nhảy cẫng lên. Và vô cùng hạnh phúc. Khi
vui vẻ mẹ mới tuyệt vời làm sao. Nhưng rồi, sự thật rằng tôi không phải là
Nami đã trở nên không thể chối cãi. Mỗi khi tôi có những hành vi, những
lỗi lầm mà Nami trước kia không bao giờ phạm phải, mẹ lại cau có. Bởi vì
khuôn mặt bây giờ giống nhau, nên bà lại càng không thể chấp nhận tôi. Tôi
nghĩ vậy.
Bác sĩ sắp xếp lại đống tài liệu có lẽ đã xem xong. Sắp khám rồi.
Nhìn vào tấm gương trên tường, tôi cảm thấy mắt trái nóng lên. Dấu
hiệu quen thuộc cho thấy giấc mơ sắp đến. Khung cảnh phản chiếu trong
gương hẳn sẽ trở thành chìa khóa, mời gọi giấc mơ.
Nhưng rốt cuộc, mặc cho tôi chờ đợi đến mấy, giấc mơ ban ngày vẫn
không đến. Cả Wazuya thời niên thiếu lẫn Saori và khu rừng lần này đều
lẩn trốn tôi. Mắt trái chỉ đơn thuần phản chiếu chính tôi đang nằm ngửa trên
giường bệnh, nhìn lên trần nhà thôi.
Không, không phải vậy. Tim tôi bất chợt đập nhanh hơn. Có điều gì đó
lạ lùng ở đây. Và rồi khoảnh khắc tiếp theo, tôi nhận ra điểm bất thường
trong quang cảnh trước mắt mình. Tôi không thể nào trông thấy bản thân
nằm ngửa trên giường và nhìn lên trần nhà được. Tôi đang soi thẳng vào
gương, nên hình ảnh phản chiếu trong đó phải là chính diện khuôn mặt tôi
chứ. Làm sao lại là khuôn mặt trông nghiêng được.
Nghĩ đến đây, tôi nhận ra một điểm không tự nhiên khác. Tầm nhìn của
tôi đang mờ đi. Giống như chìm dưới nước. Và mọi đường nét định hình sự
vật đều méo mó.
Tôi lập tức hiểu ra. Thứ tôi đang nhìn thấy không phải là phòng khám
bệnh. Mà là phòng phẫu thuật. Tôi đang nhìn thấy chính mình nằm trên
giường, trước khi cuộc phẫu thuật bắt đầu.
Đầu óc bất thần rối loạn. Tôi nhắm cả hai mắt lại xem sao. Cảm giác
lệch lạc dai dẳng rốt cuộc đã biến mất, chỉ còn khung cảnh phòng phẫu
thuật được chiếu từ mắt trái hiện lên rõ ràng sau mi mắt khép kín của tôi.
Sao tôi lại nhìn thấy cảnh này trong giấc mơ nhỉ? Đây đâu phải là thế giới
của Wazuya.
Tôi cố hết sức nhớ lại những điều xảy ra ngay trước cuộc phẫu thuật.
Chính xác là ở bên cạnh tôi, có một lọ thủy tinh đựng mắt. Nếu lấy góc nhìn
là con mắt trong lọ lúc đó, thì đúng là sẽ nhìn thấy tôi như thế này rồi.
Đáp án đã đến với tôi. Các đường nét méo mó bởi vì đây là góc nhìn từ
bên trong thành thủy tinh. Hình ảnh mờ nhạt là vì con mắt đang bị ngâm
trong dung dịch. Đây không phải giấc mơ. Những gì tôi nhìn thấy chính là
những gì mà con mắt trái đã từng nhìn thấy. Tôi chưa từng có một giấc mơ,
hay ảo ảnh nào cả. Tất cả đều là kí ức chân thực. Các hình ảnh lưu giữ trong
chiếc hộp nhỏ của mắt chính là quá khứ đã hằn sâu vào võng mạc ngày
trước.
“Xin lỗi đã bắt cô đợi, chúng ta khám nhé?”
Chẳng biết từ bao giờ bác sĩ đã đứng bên cạnh. Tôi ngoảnh cổ lại, nhỏm
thân trên ngồi dậy. Nhưng tôi trong mắt trái vẫn ở trạng thái nằm. Khuôn
mặt e sợ đầy bất an nhìn lên trần nhà… bỗng quay sang nhìn thẳng vào tôi.
Bây giờ tôi mới nhận ra khuôn mặt trông nghiêng nãy giờ là nhìn từ bên
phải. Vì nhìn từ chính diện, hốc mắt trái chỉ là một cái hố màu đen sâu
hoắm.

Sau khi phát hiện sự thật về những hình ảnh xuất hiện trong mắt trái,
suốt lúc khám bệnh tôi không nghĩ ngợi được gì khác. Hình như bác sĩ có
hỏi mấy câu. Nhưng tôi không nhớ mình trả lời thế nào. Rồi thoáng chốc
buổi khám bệnh kết thúc, tôi rời khỏi bệnh viện. Trên đường về, tôi ghé vào
hiệu sách, tìm kiếm ở chỗ giá xếp san sát những tài liệu cần cho thi vào cấp
ba, lựa lấy một cuốn cẩm nang dày liệt kê các trường cấp ba trong cả nước,
dò tên ngôi trường mà Wazuya thi vào. Và tìm thấy ngay. Hóa ra ngôi
trường ghi trên bài làm trong mơ lại thực sự tồn tại.
Vì chưa bao giờ nghe tên trường này, tôi những tưởng đó chẳng qua là
một cái tên hư cấu, không ngờ ở đất nước này quả nhiên có một ngôi trường
như vậy.
Nếu cho rằng những gì tôi đã nhìn thấy qua mắt trái là sản phẩm của trí
tưởng tượng, thì phải lý giải thế nào về kết quả này? Hay tôi đã từng vô
thức nghe thấy tên trường, nên nó mới xuất hiện trong giấc mơ? Không, tôi
nghĩ không phải như vậy. Kết quả này chính là minh chứng cho tính chân
thực của những hình ảnh xuất hiện trong mắt trái.
Ngày trước, con mắt này thuộc sở hữu của một nhân vật có thật mang
tên Wazuya. Rồi con mắt lạc chủ, cuối cùng được ghép cho tôi. Những gì
tôi nhìn thấy qua nó là những gì Wazuya từng thấy và từng ghi nhớ. Cặp tài
liệu mà tôi đặt tên Cảnh mộng hóa ra bị gọi sai bản chất. Phải là Cảnh thực
mới đúng.
Tâm trạng tôi rối bời. Cảm xúc xâm chiếm cõi lòng lúc này có lẽ là
mông lung. Tôi đã tưởng thế giới ấy không tồn tại. Tôi đã tưởng mình chỉ
hóa thân thành nhân vật giả tưởng mang tên Fuyutsuki Wazuya như là một
ảo mộng để thoát khỏi cuộc sống gia đình chán ngán. Tôi đã hấp thụ những
hình ảnh từ con mắt trái, mở lòng đón chúng vào để thay thế cho những kí
ức mất mát. Tôi đã lấp đầy đầu óc như tờ giấy trắng của mình bằng những
trải nghiệm của Wazuya. Cứ như đang sống thay cuộc đời của anh vậy. Cứ
như tôi không còn là Nami nữa, mà đã trở thành Wazuya mất rồi.
Nhưng Wazuya lại không phải là nhân vật giả tưởng. Saori và tất cả, đều
không thuộc về một xứ sở sinh ra bên trong tôi, mà hiện hữu thực sự trên
đời. Đây chính là nguyên do khiến lòng tôi rối bời. Đột nhiên tôi cảm thấy
bất an. Nếu toàn bộ chỉ là mơ, thì Saori cũng giống như nhân vật trên phim
điện ảnh. Nhưng khi phim điện ảnh biến thành phim tài liệu, thì cảnh vật,
con người, sự kiện sẽ mang ý nghĩa nặng nề hơn.
Tuy nhiên, bất an không phải là cảm xúc duy nhất ở tôi lúc này. Ngược
lại, lòng tôi còn ngập tràn kì vọng. Biết được rằng những hình ảnh truyền
dũng khí, cảm hứng cho kẻ mất kí ức này thật ra đang sinh sống hoạt động
ở một nơi nào đó xa xôi, tôi lại háo hức đến nỗi không ngồi yên được. Mặt
đất dưới chân tôi có mối liên hệ với những cảnh tượng mà tôi tưởng chỉ
hiện diện trong mơ. Bầu trời trên đầu tôi cũng trải rộng trên đầu chị Saori,
có khi bây giờ chị đang ngắm nhìn cùng một điểm trên bầu trời ấy như tôi.
Từ những kí ức trong mắt trái, tôi đã cắt ra được vài mảnh rời rạc: tên
trường Wazuya từng theo học, tên ga, tên vùng đất. Những dòng chữ tản
mát đều được tôi ghi chép đầy đủ. Sau hôm đến bệnh viện, tôi bắt đầu tra
cứu từng tên một. Cũng không phải công việc khó khăn gì. Chỉ trong một
ngày tôi đã xác định được Saori và Wazuya sống ở đâu trên đất nước này.
Nơi ở của hai chị em cách nhà tôi chừng nửa ngày đi tàu Shinkansen. Tôi
tra cứu về nơi đó trong quyển át-lát địa lý Nhật Bản, và tìm ra tên thị trấn
mình thoáng thấy trong mắt trái được in bằng phông chữ nhỏ trong sách. Nó
nằm ở một vùng đồi núi cách xa biển. Tôi ngắm nhìn trang sách chứa thông
tin đó một hồi lâu.
Không biết con mắt của Wazuya đã được gửi đến bệnh viện theo quy
trình nào nhỉ? Vì tò mò, tôi nảy ra ý định hỏi thử ông ngoại về việc này. Tôi
quyết định gọi điện cho ông. Trong lúc bấm số điện thoại nhà ông, vì e sợ
nên tôi đã dập máy định thôi biết bao nhiêu lần. Tôi mới chỉ nói chuyện với
ông một lần hôm ông đến bệnh viện thăm tôi. Không nhớ rõ hai ông cháu
nói những gì, chỉ nhớ được cảm giác áy náy vì không thể hầu chuyện ông
cho đến đầu đến đũa.
Sau mấy hồi chuông, cuối cùng ông ngoại đã nhấc máy.
“Mắt trái của cháu sao rồi? Kí ức đã quay lại chưa?”
Ông hồ hởi hỏi tôi. Vì không khí có vẻ nhẹ nhàng nên cảm giác bất an
của tôi cũng vơi đi phần nào. Tuy kí ức vẫn chưa quay về, nhưng mắt cháu
ổn cả rồi ạ, tôi trả lời. Sau một lúc nhắc đến cha mẹ, tôi quyết định vào đề.
Tôi hỏi ông về nguồn gốc của con mắt.
“Cháu muốn biết làm sao ông có được nó à?”
Qua đường dây, tôi vẫn cảm nhận được sự cảnh giác của ông.
“Nami, mấy chuyện đó cháu không cần phải biết đâu…”
Tuy ông ngoại không nói rõ ràng, nhưng dường như con mắt của
Wazuya được ghép vào mặt tôi không theo những thủ tục thông thường.
Người cung cấp nhãn cầu lúc còn sống có thể nộp đơn cho cơ quan có thẩm
quyền để đăng kí thủ tục hiến mô, tạng. Khi người đó chết, các phần cơ thể
tương ứng sẽ được lấy đi với sự cho phép của thân nhân. Cơ quan y tế sẽ
tiếp nhận số mô, tạng đó và cấy ghép cho người có nhu cầu.
Ông ngoại tôi đã nhờ cậy một người có chức vụ trong cơ quan trên để
lấy được con mắt thông qua những thủ tục phi pháp. Có rất nhiều người cần
cấy ghép nhãn cầu. Nếu chờ đợi bình thường thì có lẽ phải mất vài năm mới
đến lượt. Và tất nhiên những người đã mất cả hai mắt sẽ được ưu tiên so với
người còn một mắt như tôi. Nếu không vận động theo kênh riêng thì không
thể có cầu mắt cho tôi được.
Đáng lẽ con mắt này đã được ghép cho ai đó khác, chứ không phải tôi.
Tôi cảm thấy tội lỗi. Tôi đã dùng thủ đoạn để cướp đi thị lực từ người thực
sự cần đến nó.
“Cháu có giận ông không?” Ông hỏi dò.
Làm sao cháu giận được… Nhưng mà, cháu nghĩ làm vậy là không
phải, tôi trả lời, nửa biết ơn vì ông đã xoay xở tìm cầu mắt cho tôi, nửa
trách cứ vì hành động sai trái rõ ràng ấy. Rồi tôi nghĩ ra một ý hay. Tôi rụt
rè hỏi ông ngoại qua ống nghe, để bù đắp tội lỗi, cháu muốn nhờ ông một
việc…
“Nếu như ông có thể làm được.”
Tôi hồi hộp, lo lắng vì biết đâu sẽ bị ông chối từ. Nhưng tôi vẫn nghĩ
đây là một ý hay. Lần này sẽ đến lượt tôi và ông đi hiến mô, tạng. Chúng tôi
sẽ nộp đơn đăng kí, để tặng cầu mất của mình cho ai đó sau khi chết…
Đầu dây bên kia lặng đi một lúc lâu. Tôi hối hận, đáng lẽ đừng nên nói
ra thì hơn. Đúng lúc đó, tôi nghe tiếng ông trả lời, kèm theo nụ cười.
“Thú vị đấy. Ông sẽ nghiêm túc xem xét.”
Mặt tôi đỏ ửng lên vì bất ngờ. Và rồi một cảm xúc lạ lùng, viên mãn lan
rộng trong trái tim. Sau khi dập máy, cảm xúc ấy vẫn vương vấn một thời
gian. Trong thâm tâm tôi thầm cảm ơn ông rất nhiều, cảm ơn vì ông đã chịu
nói chuyện với tôi.

Hiện tại Wazuya đã chết rồi. Không thể nào sai được. Chắc là vì nguyện
vọng cá nhân, anh đã kí giấy tờ cho phép lấy nhãn cầu của mình sau khi
chết. Rồi chuyện bất hạnh xảy ra, và Wazuya trút hơi thở cuối cùng. Con
mắt được lấy khỏi cơ thể anh và ghép vào khuôn mặt của tôi. Tôi đã quan
sát kí ức ấu thơ của Wazuya, hấp thụ vào mình niềm vui và nỗi buồn. Tôi đã
ở sát bên, cùng chia sẻ nhiều trải nghiệm với anh ấy. Có lẽ còn chia sẻ
những cảm xúc nữa. Dù chỉ có hình ảnh đơn điệu, những tình cảm của
Wazuya cũng đã truyền sang tôi theo một cách nào đó. Cả hạnh phúc lẫn
đớn đau, thảy đều trở thành một phần con người tôi.
Tôi yêu mến Wazuya. Tôi thích nhìn ngắm thế giới trong tư cách của
anh. Giờ biết rằng cái chết đã ập xuống đầu anh, tôi không khỏi buồn bã.
Chẳng rõ Saori đang sống ra sao, sau khi mất đi cả ba mẹ và em trai? Tôi
mở trang đang đánh dấu trong tập át-lát. Không biết đây đã là lần thứ mấy
rồi. Trong lúc nhìn ngắm trang sách này, tôi không để ý đến thời gian trôi
nữa.
Tôi muốn gặp Saori. Tôi chưa rõ mình nên nói chuyện gì mới phải.
Nhưng ít nhất, chỉ cần nhìn thấy mặt thôi cũng được. Nghĩ đến đây, lồng
ngực tôi thắt lại đau đớn.
Kể cả khi nhận ra đây không phải là giấc mơ, mỗi ngày tôi vẫn bắt gặp
ảo ảnh một, hai lần. Ngày nào nhiều phải năm lần. Mắt trái tôi nóng lên và
quay cuộn phim, trình chiếu theo thứ tự ngẫu nhiên tất cả những gì mà một
con người nhìn thấy trong suốt cuộc đời mình. Thật đáng tiếc là hình ảnh
nào đã xuất hiện thì sẽ không xuất hiện lại nữa. Mỗi cuộn phim chỉ chiếu
một lần. Lỡ rồi là mất hẳn. Tôi quyết định sẽ chú ý theo dõi từng hình ảnh,
ghi chép kĩ càng từng chi tiết.
Chưa bao giờ tôi thấy nhàm chán với hoạt động này. Thậm chí, tôi còn
thèm khát. Tôi muốn biết nhiều hơn. Mỗi ngày qua đi tình cảm tôi dành cho
Wazuya và Saori càng lớn lao hơn, trong lúc đó ấn tượng về cha mẹ và
trường học cứ mờ dần đi khỏi tâm trí tôi.
“Gần đây con làm sao thế? Trường gọi điện về nhà này. Hình như con
không lên lớp à?”
Tôi ngồi đọc sách ở quán cà phê suốt. Hoặc ngủ gà ngủ gật ở thư viện.
Cũng có khi tôi đứng ngắm vịt cả ngày trên cây cầu bắc qua ao trong công
viên.
Trái tim tôi bị cảm giác ăn năn chiếm lĩnh, nhưng tôi sợ đi học, cứ đến
cổng trường là hai chân tê liệt, không cử động nổi. Nếu là Nami thì chắc
chắn đã thoải mái bước qua cánh cổng, chạy đến phòng học vui vẻ nơi mọi
người đang mong chờ. Nhưng tôi bây giờ không có bất kì một nơi nào để
đi.
“Sao con không đến trường? Hồi trước con thích học lắm cơ mà?”
Mẹ chất vấn tôi. Hành vi trốn học bại lộ, tôi cảm thấy cơ thể mình như
co rút lại. Tôi đã phản bội mẹ. Và điều đó làm tôi đau đớn.
Mẹ vẫn không quên được Nami, nên mới trách cứ tôi bây giờ. Bà nghĩ
rằng nếu chấp nhận tôi của hiện tại thì Nami sẽ thực sự tan biến mất.
“Con chán đi học à? Đừng có cúi gằm mặt nữa, trả lời mẹ đi!”
Tôi cảm thấy lồng ngực mình nghẽn lại.
“Con xin lỗi vì đã giấu mẹ… về việc không đến trường.”
Tôi cương quyết nhìn thẳng vào mắt mẹ mà nói. Nhưng rồi vì buồn bã,
vì hoang mang, tôi không ngăn nổi giọng mình run rẩy. Tôi đã cố gắng học
hành, còn tập cả dương cầm, nhưng không thể nào được như bản thân trước
kia. Tôi còn cố học cười. Nhưng luôn kém cỏi hơn người ta, chỉ làm cho
xung quanh chán nản. Tôi thấy mình đúng là một đứa đáng lẽ đừng nên sinh
ra trên đời.
Nhưng con vẫn yêu mẹ lắm, con sẽ giúp mẹ làm việc nhà, chỉ mong mẹ
hãy yêu quý con bây giờ… Tôi nói với mẹ như vậy. Mẹ đáp lại bằng cái
nhìn lạnh lùng, rồi xăm xăm bỏ ra khỏi phòng. Từ lúc đó bà không nói
chuyện với tôi nữa. Đây là giọt nước làm tràn ly giữa mẹ và tôi, không thể
nào cứu vãn được.

Hôm sau, tôi quyết định sửa sang lại phòng mình. Thay đổi cách bài trí
nội thất sao cho bản thân thoải mái. Tôi di chuyển cái giường và ti vi, mua
luôn rèm cửa có họa tiết mới. Bao nhiêu poster dán trên tường tôi cũng xé
hết xuống, thay đổi hoàn toàn không gian do Nami tạo ra. Bộ mặt căn
phòng của Nami sẽ không còn nữa. Cha sang hỏi thăm vì nghe tiếng ồn.
“Con Yoikoro[1] ở đây đâu rồi?”
Cha trỏ lên giá để đồ. Yoikoro là cái tên đặt cho con lợn nhồi bông từng
để ở đó.
“Con cất vào tủ quần áo rồi ạ…”
“Không thể tin được! Con mà lại cất con thú nhồi bông đó đi á!” Cha
bối rối nhìn tôi, lắc đầu. “Cha không thể tán thành, gì thì gì nhưng mà
chuyện này…”
Tôi hoang mang lo lắng. Có lẽ nên đổi về lại phòng Nami ban đầu thì
hơn. Tôi còn đang ngập ngừng thì cha đã cầm tập tài liệu trên bàn lên.
“Cái gì đây?”
Cha vừa hỏi vừa lật từng trang. Chúng là những mảnh dệt nên cuộc đời
Wazuya.
“À ừm… như kiểu bài tập về nhà thôi ạ.”
Tôi trả lời mà ruột nóng như lửa đốt. Cha ngán ngẩm nói “Vậy à” rồi
đưa nó lại cho tôi. Sức nặng trên tay cho tôi thêm dũng khí. Nhớ về những
kí ức từng thấy trong mắt trái, tôi nói, “Cha ơi, con muốn sắp xếp lại căn
phòng này theo ý riêng. Những thứ trước kia được trân trọng, giờ với con
cũng chẳng còn ý nghĩa gì nữa ạ.”
Cha suy nghĩ mông lung, rồi gật đầu, “Cũng được vậy.”

Buổi chiều tôi đến thư viện. Tôi định đọc báo cũ để tìm thông tin về tai
nạn gây ra cái chết của Wazuya. Tôi không biết gì liên quan đến cái chết
của anh ấy cả. Không biết anh đã trút hơi thở cuối cùng lúc nào, ở đâu,
trong hoàn cảnh ra sao. Tôi nghĩ rằng khó mà tìm được trên báo cũ một bài
cáo phó nào viết về ai đó giống Wazuya. Nhưng tôi cũng không thể chẳng
làm gì. Ở thư viện thành phố có lưu bản cứng của báo chí xuất bản trong ba
năm trở lại đây.
Không biết nên bắt đầu tra cứu từ thời điểm nào thì được, tôi đứng thần
người một lúc lâu trước đống báo khổng lồ bày trên kệ. Wazuya mất từ bao
giờ nhỉ. Tôi suy nghĩ. Tôi nghe nói mô tạng lấy ra từ người hiến là phải
khẩn trương cấy ghép. Một con mắt cũng không thể bảo quản suốt hàng
tháng trời được. Như thế thì tôi chỉ cần tìm trong các số báo phát hành trước
cuộc phẫu thuật một thời gian thôi. Wazuya qua đời không thể đến vài năm,
mà chắc chắn mới cách đây không lâu.
Cuộc phẫu thuật của tôi diễn ra vào ngày 15 tháng Hai. Tôi chuyên tâm
lần ngược lại từ ngày này, lật từng trang báo, chú ý đến những bài viết về
tai nạn giao thông, về tên tuổi nạn nhân. Khi mắt đuổi theo những hàng chữ
in, tôi nhận ra dưới mỗi tên người có một con số khoanh tròn. Chắc là tuổi.
Không biết khi chết đi, Wazuya bao nhiêu tuổi nhỉ? Trong kí ức của tôi,
không có hình ảnh nào mà trên mặt chị Saori hiện nếp nhăn cả. Mắt tôi
không bắt được một thời kì nào ở độ tuổi trung niên hay đã về già. Chắc
hẳn anh ấy đã chết yểu khi vẫn còn tương đối trẻ.
Trong hình ảnh trưởng thành nhất của Wazuya mà mắt trái tôi đã thấy,
chị Saori trông cũng chỉ gần ba mươi tuổi thôi. Như vậy thì lúc chết
Wazuya tầm hơn hai mươi tuổi.
Tôi ở thư viện đọc báo đến hai tiếng liền. Tôi lấy những tờ báo phù hợp
điều kiện từ giá sách và mang ra bàn, xem xét từng con chữ nhỏ. Đó là một
công việc rất mỏi mắt, nên giữa chừng tôi phải tạm dừng để cho mắt nghỉ
ngơi. Xét chi li ra thì mắt trái của tôi đang phải tìm cáo phó cho thân thể
nguyên chủ của nó. Một nhiệm vụ thật kinh khủng.
Cố tìm đến mấy tôi cũng không thấy cái tên Fuyutsuki Wazuya. Hay là
tôi soát sót, nhưng chắc không phải vậy đâu. Anh ấy vốn cũng sống ở nơi
rất xa đây. Cái tên đó khó mà xuất hiện trong báo chí vùng này được. Dù
tiếc nuối nhưng cuối cùng tôi đành bỏ cuộc và đem cất trả những tờ báo vừa
lấy đọc. Chúng được lưu trữ theo thứ tự ngày tháng, nên tôi phải đi tìm giá
sách đúng đã. Tình cờ, mắt tôi dừng lại ở một chồng báo. Đây là nơi xếp
các số báo phát hành khoảng một năm trước. Ngẫu nhiên trên cùng là một
trang có ảnh, và nó đập vào mắt tôi.
Bài viết về một cô bé bị mất tích, kèm ảnh chân dung. Không phải vụ
việc đình đám gì cho lắm, việc tôi phát hiện ra nó hẳn là do tác động của cái
gọi là số phận.
NỮ SINH CẤP HAI 14 TUỔI MẤT TÍCH
Hàng chữ được in với khổ hơi lớn.
“Hôm qua, em Aizawa Hitomi (14 tuổi) đã mất tích sau khi rời khỏi nhà
cùng bạn…”
Tôi nhìn ảnh cô bé. Chụp chính diện, là ảnh màu. Trông như được cắt ra
từ ảnh chụp cả lớp hay gì đó. Tôi cảm giác mình đã thấy khuôn mặt này ở
đâu rồi.
Đột nhiên, mắt trái tôi giật mạnh chưa từng có. Nhãn cầu tròn căng, co
đập trong hốc mắt, đau khủng khiếp, cảm giác nó sắp vỡ tung ra.
Tôi đã từng gặp tình huống tương tự hôm ngồi xem ti vi. Lúc đó cũng
đang chiếu chương trình tìm kiếm người mất tích.
Tôi nhớ lại. Tấm ảnh trên báo này cũng chính là cô bé tôi đã thấy trên ti
vi. Tôi nhìn như dính vào khuôn mặt cô. Mắt trái giật đùng đùng, mao mạch
co rút, máu bắt đầu chảy ngược. Trong chiếc hộp ở mắt tôi tồn tại một kí ức
đáng nguyền rủa. Kí ức đó đang cố tự giải phóng. Không được. Tôi phải rời
mắt khỏi tấm ảnh.
Nhưng, cứ như bị nam châm hút, mắt trái tôi vẫn trân trân hướng về
phía tấm ảnh, không xê xích đi đâu được. Cô bé có đôi mắt rất to. Đột
nhiên, cô chớp mắt. Không, không phải cô bé trong ảnh. Nó đã bắt đầu.
Chiếc hộp kí ức mở ra, những hình ảnh tuôn trào từ con mắt trái. Bức chân
dung Aizawa Hitomi đã trở thành chìa khóa, lôi kéo những hình ảnh trong
suốt tương đồng với nó. Một khi tình hình này đã bắt đầu thì cho đến khi
cuộn phim tự kết thúc, tôi không trốn tránh vào đâu được nữa.
Khi nhắm mắt lại, hình ảnh trong mắt trái đã lan rộng, phủ lấp toàn bộ
tâm trí tôi, cuốn tôi theo dòng kí ức của Wazuya. Cách anh một quãng là
gương mặt của một cô bé. Tôi nhận ra, chính là khuôn mặt của Aizawa
Hitomi. Cô bé đang nằm trên sàn nhà, cách tôi một lớp kính cửa sổ. Cô bé
thẫn thờ nhìn tôi, rồi lại chớp mắt. Góc nhìn của tôi lướt đi, quan sát xung
quanh. Tôi đang ở ngoài một biệt thự lớn, tọa lạc tại một cánh rừng nào đó.
Bức tường xây bằng gạch nung trần màu xanh lam. Một ngôi nhà kiểu Âu.
Wazuya đang ở bên hông, hoặc là đằng sau căn nhà ấy.
Góc nhìn của tôi lại quay về khung cửa sổ nơi có Aizawa Hitomi. Cửa
sổ trổ ở tầm thấp, rất gần mặt đất dưới chân tôi. Có lẽ là một căn tầng hầm
chăng? Khung cửa chữ nhật bé nhỏ bao quanh lớp kính bám bẩn. Trong
phòng tranh tối tranh sáng, tôi không nhìn thấy gì rõ ràng ngoài khuôn mặt
của Aizawa Hitomi, do hứng sáng từ ánh nắng chiếu vào qua cửa sổ.
Tôi chứng kiến khung cảnh ấy với tâm trạng không thể nào tin nổi. Tại
sao cô bé đang mất tích lại ở căn phòng dưới lòng đất? Và tại sao Wazuya
lại có mặt ở đó? Lòng rối bời, nhưng đầu óc lại nảy ra một giả thuyết. Có
khả năng Aizawa Hitomi đã bị một kẻ nào đó giam cầm trong căn phòng
ngầm ấy. Nếu vậy thì Wazuya đã lỡ gặp phải một vụ kinh khủng rồi.
Tôi đứng chết trân trong góc thư viện. Điểm nhìn của mắt trái đã
chuyển từ cửa sổ sang đám cỏ rậm mọc xung quanh. Tôi cảm nhận được nỗi
lo lắng khiến Wazuya chú ý đến bụi cỏ, và gần như nghe được cả tiếng thở
của anh, có lẽ anh sợ bị chủ nhân biệt thự (hẳn là kẻ giam giữ Aizawa
Hitomi) phát hiện ra. Giữa tòa nhà hai tầng và những bụi cỏ là một con
đường mòn khá hẹp. Xung quanh là rừng, san sát những thân cây trụi lá chỉ
còn trơ cành. Xem chừng đã sang mùa lạnh.
Chẳng biết tự bao giờ trên tay Wazuya đã nắm chặt một chiếc tuốc nơ
vít hai cạnh loại lớn. Có lẽ là đồ để sẵn trong túi áo khoác. Anh quỳ xuống
nền đất, ghé mặt lại gần cửa sổ căn phòng nhốt Aizawa Hitomi. Anh quan
sát kĩ càng khung cửa. Tôi hiểu ý định của anh. Nhưng khung cửa sổ bị gắn
chặt vào tường, không thấy một con vít nào có thể tháo ra được cả. Wazuya
cảnh giác nhìn quanh lần nữa, rồi cố chọc tuốc nơ vít vào khoảng trống giữa
bức tường và khung cửa. Dường như anh định dùng sức để nạy cửa sổ ra.
Nhưng rồi bàn tay ấy dừng lại. Wazuya vừa nhận ra điều gì đó. Một
khoảnh khắc sau, cả tôi cũng nhận ra. Aizawa Hitomi đang nằm sõng soài,
đầu đặt trên sàn, mặt ngoảnh ra phía chúng tôi. Tôi cảm thấy có điều không
ổn trong trang phục của cô bé. Không, không thể gọi là “trang phục” được
nữa. Chỉ đơn thuần là một cái túi làm bằng vải. Cô bé bị nhét trong đó, chỉ
lộ ra ngoài từ phần cổ trở lên. Quanh cổ cô bé tròng một dải dây, như để
thắt miệng túi lại.
Kích cỡ cái túi cũng không bình thường. Một linh cảm tệ hại xâm chiếm
tâm trí tôi. Vì phòng không đủ sáng nên tôi đã không nhận ra. Chiếc túi mà
cô bé bị nhét vào rõ ràng là quá nhỏ. Không đủ để nhét vừa cả một con
người. Thoạt tiên tôi tưởng cô bé đang nằm ôm gối trong cái túi. Nhưng
như vậy thì cái túi phải phình ra, phải tròn trịa hơn. Còn chiếc túi đang chứa
cô bé chỉ đủ lớn để bao bọc phần thân của một con người, không gì khác.
Không thể nào, tôi nghĩ. Và lập tức cự tuyệt khả năng đó. Biết đâu cô bé
này bẩm sinh đã không có tay chân, và như thế thì thừa sức nằm gọn trong
túi như tôi đang thấy. Nhưng rồi, ghê sợ chính mình vì đã nghĩ đến điều đó,
tôi đưa tay bịt miệng.
Đúng lúc ấy, hình ảnh trong mắt trái chuyển động dữ dội. Nó nhấp nhô
nhanh chóng theo chiều dọc. Wazuya đang vùng chạy khỏi khung cửa. Anh
ngoặt vào một góc biệt thự, nép mình vào bức tường gạch xanh, tập trung
nghe ngóng sự tình. Tôi không nghe thấy bất cứ âm thanh nào. Nhưng nhất
định Wazuya đã cảm nhận được tiếng bước chân của kẻ nào đó. Vì vậy anh
mới chạy trốn.
Bức tường gạch xanh của biệt thự choán hết nửa tầm nhìn của tôi. Tôi
đang đứng ngay sát một góc của biệt thự. Đằng kia chính là vị trí lúc nãy
của Wazuya. Bây giờ một cái bóng đang đổ xuống nền đất. Có người đứng
đó. Tôi không thở được vì sợ hãi. Wazuya lùi ra sau, định chạy trốn trước
khi bị phát hiện. Góc nhìn của tôi di chuyển, giờ anh đang dõi mắt xuống
dưới, tay hấp tấp cất chiếc tuốc nơ vít hai cạnh vào lại túi áo khoác.
Và đó là lúc bất hạnh ập đến. Chiếc tuốc nơ vít loại lớn bị mắc vào một
góc quần áo của Wazuya, tuột khỏi tay anh. Rồi rơi tự do ngay trước mắt
chúng tôi. Dọc tường biệt thự có một cái rãnh bê tông. Không nắp. Lá rụng
thành thảm dày và thối rữa dưới đó. Nếu cái tuốc nơ vít rơi thẳng vào rãnh
thì có lẽ đã êm xuôi. Nhưng trước hết, nó đập vào phần bê tông trên thành,
rồi mới lăn vào lòng rãnh. Chỉ có hình ảnh, không có một âm thanh gì.
Nhưng tôi như nghe được trong đầu tiếng bê tông và kim loại chạm nhau
đanh lạnh.
Góc nhìn của tôi rung lắc khủng khiếp. Wazuya đang chạy hết tốc lực.
Vào cánh rừng phía sau tòa nhà. Có một trảng dốc rậm rạp cây cối. Mặt đất
toàn lá rụng. Wazuya chạy vụt qua, mắt thoáng đánh lại đằng sau. Giữa vạn
vật chao đảo, nhoang nhoáng bóng kẻ đuổi theo. Tôi chưa nắm bắt được
khuôn mặt hay vóc dáng kẻ đó. Nhưng rõ ràng là một con người.
Tôi rùng mình. Hai tay nắm chặt giá sách chất đống những báo. Wazuya
chạy xuyên qua giữa những thân cây đan kết chằng chịt, anh cúi đầu để
tránh cành lá, nhấc chân nhảy qua những rễ cây. Những cành nhỏ mắc vào
thân người đang chạy thục mạng. Anh vừa gỡ vừa chạy tiếp. Chạy đến đâu
cũng chỉ thấy rừng cây. Tránh cây này lại gặp cây khác. Tôi cảm giác như
đang mắc kẹt trong một vòng lặp vĩnh cửu.
Cuối cùng, chủng loại cây thay đổi. Không còn là những thân cây thâm
thấp héo khô như trước, mà là một rừng cây vươn thẳng to như cột nhà.
Rừng cây lá kim. Wazuya chạy len lỏi qua những thân cây đó.
Bất chợt hình ảnh trong mắt trái tôi lộn vòng. Trên và dưới đổi chỗ cho
nhau. Dường như Wazuya trượt chân, vì trảng rừng đột ngột dốc đứng lên.
Anh lăn lông lốc xuống dốc, làm tan tác đám lá rụng. Đột nhiên rừng cây
xung quanh biến mất. Wazuya nhổm dậy. Mặt đất trải nhựa. Ra đến đường
cái rồi. Ngay trước tầm mắt tôi là một chiếc ô tô màu trắng, thanh chắn ở
mũi xe đang lao đến rất gần.
Tôi thét lên giữa thư viện. Mạch máu trong cầu mắt trái co giật dữ dội.
Wazuya bị xe đâm. Chỉ dựa vào hình ảnh tôi không biết được chấn động
mạnh đến mức nào. Nhưng tôi biết anh đã nằm vật ra trên mặt đường, và
góc nhìn cũng bất động. Cả thế giới vừa chao đảo mạnh mẽ đến thế, bây giờ
tĩnh lặng như thể đã mất hết sức lực. Mắt anh vẫn mở trừng trừng…
Sức nóng trong mắt trái dịu đi. Những hình ảnh mờ nhạt dần, kí ức về
Wazuya sắp kết thúc như một màn sương đang tan biến. Đúng lúc đó, tôi
cảm giác có ai lấp ló trên triền dốc Wazuya vừa lao ra. Người đó đang nấp
sau bóng cây, như đề phòng cái xe đã đâm Wazuya.
Đến đây hình ảnh trong mắt trái chấm dứt hoàn toàn. Tôi đầm đìa nước
mắt. Vừa rồi là thời khắc tử vong của Wazuya. Anh đã chết vì bị xe đâm
phải. Nhưng hoàn cảnh xoay quanh đó thì không bình thường chút nào. Bởi
vì anh đã lỡ nhìn thấy. Lỡ nhìn thấy cô bé bị bắt cóc, bị giam cầm. Nếu tôi
không nhìn nhầm, thì cô bé không có chân tay. Nhưng trên ti vi lúc trước, tứ
chi cô bé còn đầy đủ mà…
Wazuya đã lỡ phát hiện ra nơi giam cầm cô bé. Anh định cứu cô, nhưng
bị thủ phạm phát hiện… Tôi căm hận kẻ đó. Có khác gì chính hắn đã giết
Wazuya. Xem ra người ta đã xử lý cái chết của anh như một vụ tai nạn giao
thông. Tôi không thể nào chấp nhận được điều đó.
Chắc chắn chị Saori phải đau khổ lắm. Biết bao nhiêu kí ức, bao nhiêu
kỉ niệm, đã chấm dứt một cách phũ phàng. Tôi đứng thất thần giữa thư viện.
Sau khi chiếu hết đoạn băng kí ức, mắt trái trở lại là một bộ phận cơ thể
bình thường, cứ như thể những lần phát sốt trước đây chưa từng tồn tại.
Mình phải tìm đến nơi Wazuya thiệt mạng, tôi tự nhủ. Bởi vì Aizawa
Hitomi vẫn đang bị giam cầm, trong căn biệt thự gần đó.
2

Miki đã từng mơ thấy người ta rơi từ trên trời xuống. Trong mơ, y
đang đứng trên sân thượng tòa nhà ở một thị trấn nào đó, phóng tầm mắt ra
xa. Y thấy rất rõ những bóng người đang rơi tự do. Ai cũng mặc đồ công sở
màu đen. Có đàn ông, đàn bà. Những chấm đen hình người trải rộng khắp
bầu trời như những vì sao.
Họ cắm đầu rơi xuống, càng lúc càng to, càng rõ nét, cuối cùng chạm
đất như những hạt mưa, lộp bà lộp bộp, lộp bà lộp bộp. Nhưng không một
ai trong số họ lộ vẻ gì sợ hãi, cứ như thể đều đang ngủ rất sâu.
Miki đứng trên nóc nhà nhìn xuống dưới. Hằng hà sa số con người đập
bẹt vào mặt đường, vào mái nhà, loang lổ những vệt màu đỏ thắm. Những
cơ thể méo mó vì chấn động chồng chất khắp phố phường. Nhưng riêng
mái nhà Miki đang đứng thì không có ai rơi xuống cả.
Đến đây, y tỉnh dậy. Dường như y đã ngủ thiếp đi khi ngồi trên ghế đọc
lại bản thảo mình đang viết dở. Giấy tờ rơi vung vãi trên thảm. Y cúi xuống
nhặt nhạnh chúng.
“A, Miki tỉnh rồi à?” Cô bé trên sofa nghiêng đầu, cất tiếng hỏi. “Ngủ
đến một tiếng rồi đấy. Làm em chẳng có việc gì làm.”
Miki sắp xếp tập bản thảo lại trên mặt bàn. Chiếc bàn này là một món
đồ cổ, do người ở trước để lại. Bàn bằng gỗ, với nhiều chi tiết chạm trổ tinh
xảo.
Y ngó ra ngoài qua cửa sổ. Ngày đã bắt đầu tàn. Khu rừng đen tuyền
trải rộng dưới bầu trời đỏ rực. Miki đóng rèm lại. Cả tấm rèm cũng là di vật
của người ở đây trước y. Chất vải màu đen, dày cui như rèm sân khấu.
“Nè, kể chuyện gì cho em nghe đi.” Cô bé nói, vẫn nằm lăn trên sofa.
“Mà em bảo nhé, em chán ngấy cái truyện đồng thoại về quạ khoét mắt
mang cho cô bé rồi. Kể chuyện khác đi.”
Câu chuyện đồng thoại mà cô bé vừa nói chính là “Eye’s Memory”, một
tác phẩm đã xuất bản của Miki. Y thường đọc to thành tiếng mỗi khi rảnh
rỗi.
“Đúng rồi, hay Miki kể về thời thơ ấu cho em nghe đi? Em nghĩ đó là ý
tưởng thú vị đấy. Bị bắt đến biệt thự này cũng được một thời gian rồi nhưng
em chưa biết gì về Miki cả.” Nói đoạn cô bé nhếch môi, nở nụ cười. “Mà
Miki Shun có phải là tên thật không thế?”
Y lắc đầu. Miki chỉ là bút danh khi viết sách. Y ngồi xuống sofa, đặt tay
lên đầu cô bé. Sau khi được chỉnh lại mái tóc, cô bé nhắm mắt. Còn Miki
nhớ về chuyện ngày xưa.

Miki sinh ra trong một gia đình thầy thuốc. Cha y là bác sĩ ngoại khoa,
và ngôi nhà y ở chính là một bệnh viện lớn. Điều đầu tiên mà Miki nhớ đến
khi được hỏi về thời thơ ấu của mình bao giờ cũng là những bệnh nhân lui
tới nhà y. Thuở nhỏ có lần Miki chạy chơi với chiếc ô tô trong hành lang, và
chợt nhìn thấy những người ấy đang nằm trên giường bệnh, đằng sau cánh
cửa phòng để mở. Có người quấn bông băng toàn thân, kẻ bị treo ngược tay
chân lên cố định, đều hướng mắt ra ngắm khung cảnh ngoài cửa sổ. Khi
thấy Miki đang chơi đùa, họ quay sang chằm chằm nhìn y với ánh mắt thất
thần, làm người ta liên tưởng đến những hố sâu trống rỗng.
Thời tiểu học, y hay đi bắt côn trùng với lũ trẻ hàng xóm. Ở khá gần nhà
y có một khu đất trống không rõ chủ nhân, mọc um tùm cỏ dại. Đám trẻ con
rẽ lối qua những bụi cỏ cao ngang tầm mắt, tìm bắt châu chấu hay dế mèn.
Y nhớ đó là hồi lớp Bốn. Một cậu bạn phát minh ra trò chơi dùng mũi kim
đâm chết châu chấu. Cậu nhóc lấy một mảnh gỗ rơi dưới đất, khâu vô số
châu chấu lên đó, rồi giơ cho Miki xem. Lũ châu chấu bị kim đâm giần giật
cẳng chân, cuối cùng lịm đi.
Bắt chước bạn, Miki đặt con châu chấu y bắt lên miếng gỗ, đâm xuyên
thân nó bằng những cái kim người ta dùng để đánh dấu khi khâu mà y đã
mang từ nhà đi. Nhưng rốt cuộc nó không chết. Y cũng không lấy làm ngạc
nhiên. Chắc là tại mình vô tình đâm không trúng chỗ chí mạng? Nghĩ thế, y
tiếp tục đâm thêm vài mũi nữa. Vào cổ, vào ngực, vào thân, dù cả ba bộ
phận đều đã bị đâm, nhưng con châu chấu vẫn không ngừng cục cựa. Sáu
cẳng chân của nó quẫy đạp trong không trung, như thể chưa có chuyện gì
xảy ra. Nó cựa quậy liên hồi như muốn thay đổi góc tiếp xúc của những
chiếc kim, để cho dịch nhầy rỉ ra thêm từ chỗ bị đâm vậy.
Rốt cuộc, phải đến lần đâm thứ mười hai, khi cơ thể đã chi chít kim, con
châu chấu mới chịu chết. Tàn tích trên miếng gỗ không còn ra dáng một con
châu chấu nữa, mà giống một đống bầy nhầy cắm đầy kim.
Tình hình tương tự cũng xảy ra với những loài côn trùng khác. Miki
từng ném một con xén tóc vào tường không biết bao nhiêu lần, nhưng nó
sống dai dễ sợ. Dù cẳng chân đứt lìa, lớp vỏ cứng vỡ nát, cặp sừng của nó
vẫn tiếp tục động đậy.
Y tưởng côn trùng vốn là giống loài như thế. Y còn từng lấy kéo cắt ve
sầu làm đôi, nắm sừng bọ hung nhổ đầu ra, nhưng nó vẫn đạp chân, vẫy
cánh một lúc lâu. Mãi mà không chịu chết cho ta nhờ. Miki nghĩ côn trùng
đúng là loài sinh vật có sức sống bền bỉ.
Nhưng lẽ thường không phải là như vậy. Dần dần y nhận ra rằng không
một đứa trẻ nào xung quanh đánh giá về côn trùng như mình cả. Có lẽ tại
mình đã giết phải những con có sức sống đặc biệt. Tuy từng đặt giả thuyết
như thế, nhưng khi nhìn đôi bàn tay mình, Miki lờ mờ hiểu rằng điều đó
không phải là sự thật.
Mình sở hữu một năng lực kì lạ.

Trong một thời gian, có một đứa trẻ trạc tuổi Miki nằm ở bệnh viện nhà
y. Những khi cửa phòng để mở, y đã chạm mắt với đứa trẻ đó. Từ dạo ấy,
mỗi lần vào thăm phòng bệnh y lại nghĩ cách bắt chuyện với nó. Miki vốn
không có nhiều bạn bè. Cả cậu nhóc cùng bắt côn trùng ngày trước cũng đã
chơi với những đứa khác thú vị hơn, rồi trở nên xa cách với Miki. Vì vậy
mà mỗi ngày từ trường tiểu học về, y lại tìm đến người bạn nằm viện để trò
chuyện.
Mỗi lần thấy Miki đến thăm, khuôn mặt đứa trẻ lại vỡ òa vì vui sướng.
Nó luôn vẫy cánh tay quấn bông băng gọi y vào. Cả hai cánh tay đều cụt từ
cùi chỏ trở đi. Nghe nói nó bị tai nạn khi đang chơi bên đường ray tàu hỏa.
Nó thò tay lên đường ray đúng lúc đoàn tàu tốc hành chạy qua.
“Tớ muốn thử xem nếu làm vậy sẽ thế nào.” Đứa trẻ vừa nói vừa nhìn
hai tay mình. “Thời khắc đoàn tàu chạy qua, tớ nghe đứt ‘phựt’ một cái ở
khuỷu.”
Y rất thích việc hằng ngày được nói chuyện với đứa trẻ ấy. Miki thường
bắt nó nghe về những lần mình bị cha đánh, hay bị mẹ sỉ vả. Và cả những
câu chuyện mà y sáng tác.
Đứa trẻ ấy luôn lắng nghe với khuôn mặt nghiêm túc những câu chuyện
do Miki tưởng tượng ra. Một ngày nọ, Miki đang nói chuyện với nó thì
bệnh viện có ca cấp cứu. Hai người đẩy ca bệnh đến cửa phòng phẫu thuật,
xem xét một lượt vết thương nghiêm trọng đến mức nào. Y tá và cha mẹ
của Miki chuẩn bị phẫu thuật. Họ quan sát bệnh nhân nằm trên chiếc
giường bánh xe. Là một người đàn ông trẻ, không có vết thương nào trên
người, trông như đang ngủ.
Nhưng anh ta đã chết trên bàn phẫu thuật.
Người đàn ông chỉ ngã xe đạp thôi, không có vết thương ngoài da nào.
“Nhưng lại tổn thương đúng chỗ hiểm,” cha giải thích với Miki.
“Chỗ hiểm ư… là chỗ nào nhỉ?” Người bạn cụt hai tay thắc mắc, “Nếu
bảo vệ được chỗ ấy, phải chăng sinh vật có thể bất tử?”
Không biết trên đời này có tồn tại loại tài năng giúp người ta vô thức
tránh bị thương vào chỗ hiểm khi gặp tai nạn không nhỉ? Miki đặt câu hỏi.
“Hừm, cái đó thì không ai biết được.”
Người bạn trầm ngâm, toan làm động tác khoanh tay trước ngực. Nhưng
vì từ cùi chỏ trở đi không có gì nên đành chịu.

Miki đi bắt châu chấu, nghiên cứu xem chúng sẽ chết ở mức độ thương
tích thế nào. Thời gian đầu chúng chết tương đối nhanh. Nếu bị nhiều mũi
kim xuyên qua thì chúng không trụ nổi một phút. Nhưng càng lặp lại thí
nghiệm, y có cảm giác thời gian dẫn đến cái chết càng dài. Đã từng có con
xén tóc sống được một tuần dù nửa thân dưới bị đập nát. Nhưng nếu đập vỡ
đầu hay cắt đôi thì lũ côn trùng chết ngay lập tức. Miki còn giải phẫu ếch,
mổ bụng cá moi nội tạng ra. Sau khi gây thương tích thì thả xuống ao,
chúng lại bơi lội như bình thường suốt một lúc lâu. Con ếch bị thương nhảy
bập bõm trên mặt nước, kéo ruột gan lòng thòng theo sau.
Miki còn thử nghiệm cả trên động vật có vú. Lần đó y dùng mồi nhử để
dụ con mèo hay lảng vảng cạnh nhà mình. Trong nhà kho vắng người lui tới
đằng sau bệnh viện, Miki chặt ngang con mèo bằng dao làm bếp. Con mèo
vẫn sống tiếp. Và đó là lúc y nhận ra một điều. Dường như những sinh vật
bị y hành hạ không cảm nhận được đau đớn.
Con mèo không nhận ra bản thân đã bị cắt làm hai. Dù không còn thân
dưới, nó vẫn cố liếm láp chân sau theo thói quen. Miệng vết cắt hầu như
không chảy máu, và con mèo vẫn biết thèm ăn. Những thứ nó ăn vào trôi
tuột khỏi dạ dày đã sổ tung. Sau một tuần nó bắt đầu yếu dần, cuối cùng ra
đi êm đềm như đang ngủ.
Miki lại thử nghiệm trên một con mèo khác. Lần này nó sống sót được
đến hai tuần, trong tình trạng không được cho đồ ăn thức uống. Miki muốn
cho người bạn cụt tay đã thân thiết ở bệnh viện biết kết quả những cuộc thí
nghiệm này. Đứa trẻ tuy đã xuất viện, nhưng nhà nó chỉ cách đây ba mươi
phút đạp xe, đoạn gần trường tiểu học. Tan trường về Miki thường đến chơi
chuyện trò với người bạn ấy.
Y dừng xe đạp trước cửa nhà, và bấm chuông. Người ra mở cửa là bà
mẹ.
“Nó mới chết hôm kia.” Bà ta nói mà không tỏ vẻ gì là đau buồn. “Bị
ngã cầu thang trong nhà. Nó hay trượt thành cầu thang lắm, lần này chắc
cũng vậy. Có lẽ khi ngồi lên rồi mới nhận ra, bây giờ có mất thăng bằng
cũng không còn tay để bám lại nữa. Nó quên béng là mình cụt tay rồi hay
sao ấy.”

Lần đầu tiên Miki giết người là vào mùa thu năm lớp Mười một. Đó là
một ngày lạnh lẽo, trời nhiều mây. Miki đang phóng xe máy trên đường núi,
đi lang thang không vì mục đích gì cụ thể. Đường núi này ở khá gần nhà y,
có một đoạn nhô ra khỏi vách đá tương đối rộng rãi để đỗ ô tô, trang bị cả
máy bán hàng tự động. Lúc Miki đến thì không thấy ô tô nào đậu ở đây, y
dừng xe, nhìn ngắm vùng chân núi. Sườn núi dốc đứng như bờ vực. Khi
nhìn xuống, Miki nhận ra bên dưới là một bức tường đá trơ trọi. Gần chỗ y
đứng có một đoạn không lắp rào chắn bảo vệ, mở ra cầu thang dẫn xuống
sâu hơn.
Miki ngắm nhìn cảnh vật mùa thu một hồi lâu. Trời nhiều mây nên
trước mắt chỉ toàn một màu xám xịt. Đang vào mùa lá rụng đỏ thắm, nhưng
có cảm giác màu đỏ ấy chỉ làm cho cảnh sắc này nghèo nàn hơn. Miki quay
lại khi chợt nghe tiếng ô tô sau lưng mình. Một chiếc xe vừa vào bãi đỗ.
Người lái bước ra, đó là một cô gái trẻ. Không còn ai trên xe nữa. Cô gái
mặc quần áo cùng bộ, tay cầm bản đồ. Cô ta vừa co rúm hai vai vì lạnh vừa
tiến dần về phía Miki.
“Xin lỗi, có thể cho tôi biết con đường gần nhất để đến thành phố được
không…”
Cô ta liếc nhìn xe máy của Miki.
“Chiếc xe đẹp nhỉ. Nhưng chạy nó trong thời tiết này mà không lạnh
sao?”
Cô gái đặt tay lên thanh chắn, khẽ kêu, lạnh quá! Miki thử đẩy cô ta từ
đằng sau. Cô gái ngã lộn qua thanh chắn rồi rơi xuống triền núi. Miki ngó
nghiêng xung quanh để chắc chắn là không ai trông thấy mình. Rồi nhìn
theo hướng cô gái ngã xuống thì thấy mái tóc dài của cô ta ở dưới một gốc
cây mọc tít dưới kia. Y theo cầu thang để đi đến đó.
Dù va đập mạnh với nền đất nhưng cô gái vẫn sống. Tay chân vặn vẹo
theo những góc độ quái gở. Miki ngắm nhìn mắt và khuôn mặt cô. Tấm bản
đồ hồi nãy cô ta cầm trên tay giờ rơi trơ trọi bên cạnh. Miki nhặt nó lên. Rồi
y ngước nhìn triền núi gần như dốc đứng, trông thấy mỏm đá mà cô gái đã
va phải trên đường rơi xuống, cao hơn nữa là màu trắng tí hon của thanh
chắn bảo vệ.
Miki kéo lê cô gái vào một góc khu rừng để người bên trên không nhìn
thấy. Trong suốt khoảng thời gian đó, miệng cô ta vẫn mấp máy yếu ớt. Một
cành cây to xuyên qua ngực đã khiến cô ta không thể nói thành tiếng được
nữa. Khi Miki nhổ nó lên, một lỗ thủng lớn xuất hiện ở ngực cô gái. Phần
xương sườn gãy nát hơi lộ ra, bên trong là lá phổi xẹp lép đang rò không
khí ra ngoài. Ngoài ra còn có một thứ màu đỏ thắm vẫn đang co đập liên
tục.
Trong tình cảnh ấy mà khuôn mặt cô gái hoàn toàn không nhăn nhó rúm
ró, cứ như không cảm thấy đau. Nhưng cũng không động đậy được. Phần
lớn xương cốt đã gãy nát vì chấn động từ cú rơi vừa rồi. Cô gái chỉ còn máy
mắt và miệng mà thôi.
Khi trả lời “Có” thì chớp mắt hai lần. Khi trả lời “Không”, một lần.
Miki đặt ra ám hiệu như thế, rồi hỏi lại cô gái kia xem như vậy có được
không. Cô ta chớp mắt hai lần. Xem ra đôi tai vẫn nghe được.
Miki hỏi cô gái, có đau không. Chớp mắt một lần. Tức là không.
Miki hỏi cô, có sợ không. Cô gái làm vẻ mặt khó hiểu. Rồi đưa mắt
nhìn theo tấm bản đồ trên tay Miki.
Miki đưa tấm bản đồ lại gần cô gái, chỉ cho cô ta đường ngắn nhất đến
thành phố. Rồi hỏi cô, có hiểu không. Cô gái chớp mắt hai lần.
Khi Miki nói lời tạm biệt và chuẩn bị rời đi, cô gái nhìn y với ánh mắt
băn khoăn, rõ là bối rối không biết từ giờ bản thân sẽ phải làm gì. Nhưng
Miki mặc kệ, lại leo cầu thang và ngồi lên yên chiếc xe máy. Chiếc ô tô của
cô gái vẫn đang nổ máy. Miki mở cửa phía ghế phụ lái, với tay vào vặn chìa
tắt máy. Rồi lau chùi chỗ mình vừa chạm phải.
Ngày hôm sau, Miki trở ra chỗ hẻm núi. Chiếc xe vẫn ở nguyên tình
trạng như hôm qua. Miki xuống cầu thang, đi xem tình hình cô gái dưới bờ
vực.
Cô ta vẫn sống. Khi nhìn thấy Miki, khuôn mặt cô ta giãn ra, tỏ vẻ nhẹ
nhõm.
Miki hỏi cô ta cảm thấy thế nào. Cô gái nháy mắt một lần, là không sao.
Miki lại nhìn vào cái lỗ lớn ở ngực cô gái, nơi từng cắm cành cây. Tim vẫn
đập. Gần như không xuất huyết. Nếu có thì chỉ là lượng rất nhỏ.
Miki nhận ra một điều lạ lùng. Tuy vẫn chưa đến mức lạnh lẽo như mùa
đông, nhưng nhiệt độ hôm nay còn thấp hơn cả hôm qua. Vậy mà trông cô
gái không giống người đang cóng rét. Môi và mặt đã trắng bệch, nhưng rõ
ràng không cảm nhận được cái lạnh.
Miki hỏi cô ta có lạnh không. Cô gái suy nghĩ một chút, rồi nháy mắt
một lần. Miki lục túi áo cô gái lấy ví, kiểm tra tên tuổi và địa chỉ.
Trong suốt ba ngày sau đó, Miki vẫn tìm đến chỗ cô gái kia để trò
chuyện. Lần nào Miki định rời đi, cô gái đều lộ vẻ buồn rầu. Đến ngày thứ
ba, chiếc ô tô của cô ta biến mất.
Dường như những người thân thiết đã làm ầm ĩ lên về vụ mất tích.
Người ta đã tìm kiếm chiếc xe, và phát hiện ra nó nằm chỏng chơ bên bờ
vực.
Ngày thứ tư, Miki vừa đến thăm thì cô gái đánh mắt lia lịa xuống dưới
như muốn bảo y xem cái gì đó. Miki lần theo ánh mắt cô gái, điểm đến cuối
cùng là cái lỗ rộng hoác trên ngực. Có thứ gì đang ẩn mình trong đó. Miki
nhìn kĩ thì nhận ra là một con rắn. Nó đang cuộn tròn trong lồng ngực gãy
nát của cô gái, mắt nhìn Miki chằm chằm, cái lưỡi đỏ hỏn thò ra thụt vào.
Có lẽ vì thân nhiệt cô gái này ấm áp hơn xung quanh chăng. Con rắn áp sát
thân thể nổi đầy vảy của mình vào trái tim vẫn đập, dường như đang soạn
sửa ngủ đông.
Miki kéo con rắn ra. Đã đến lúc nói lên câu giã từ, Miki rút dao đâm
vào cái lỗ, xuyên qua quả tim. Cô gái nhắm mắt lại như đang ngủ, và ngừng
thở.
Một thời gian sau, báo đưa tin về việc phát hiện ra thi thể của cô. Lớp
tuyết tan phô ra cơ thể giờ chỉ còn là bộ xương trắng toát.
Tại sao mình lại đẩy cô ta từ trên hẻm núi xuống? Miki chưa bao giờ
đắn đo nhiều về nguyên nhân. Có lẽ cũng cùng lý do khiến y châm kim vào
lũ côn trùng thôi. Bởi vì mình có thể làm như vậy, nên mình đã làm. Và bởi
vì mình muốn nhìn xem điều gì sẽ xảy ra, nên mình xem.
Trong khi nghe chuyện đời tư của Miki, cô bé ngủ thiếp đi lúc nào
chẳng biết. Bất chợt có tiếng chuông reo trong thư phòng. Chiếc điện thoại
trên mặt bàn đang gióng giả từng hồi. Nhấc máy thì hóa ra là biên tập viên.
“Chúng tôi đang mong chờ tác phẩm tiếp theo lắm đó.”
Người ta gọi không phải để giục bản thảo, mà giống như muốn xác nhận
Miki còn sống hay không thôi. Vốn dĩ tốc độ viết lách của Miki cũng chưa
bao giờ gọi là nhanh cả. Làm tác giả chỉ là nghề tay trái của y. Khi có thời
gian rảnh rỗi y mới bắt đầu sáng tác đồng thoại. Và y chủ yếu là làm việc
độc lập chứ cũng không mấy khi liên lạc chi tiết với biên tập viên. Đợi hoàn
thành bản thảo thì nộp cho người ta thôi.
Miki nhận giải thưởng sáng tác đồng thoại hồi học lớp Mười hai. Tác
phẩm đoạt giải là một câu chuyện y nghe cậu bạn cụt tay kể, coi như chép
lại hoàn toàn, chỉ chỉnh sửa giọng văn sao cho giống y mà thôi. Tác phẩm
đầu tiên ấy kể về cánh quạ chao lượn, thu thập nhãn cầu của loài người.
Tác phẩm thứ hai là về vị bác sĩ gắn phéc mơ tuya vào sau lưng bệnh
nhân, để việc phẫu thuật được dễ dàng hơn. Chỉ cần mở phéc mơ tuya là sẽ
thấy được nội tạng bên trong, không cần rạch ra vá vào làm gì cho phiền
phức. Thế nhưng, bệnh nhân lại quên kéo phéc mơ tuya, làm nội tạng phòi
hết ra ngoài, cuối cùng cả người chỉ còn là một cái bị da đựng xương.
Các tác phẩm đó của Miki được tập hợp vào một cuốn, gọi là Đồng
thoại đen, cũng có một lượng người hâm mộ nhất định. Vốn ban đầu y
không có ý định trở thành tác giả. Y đã nghĩ rằng khi dùng hết những câu
chuyện người bạn thuở nhỏ kia kể cho, chắc mình sẽ không viết được nữa.
Nhưng mạch cảm hứng chảy ra từ lồng ngực y chưa hề có dấu hiệu khô cạn.
“Lần này, có thể cho tôi gặp mặt trò chuyện trực tiếp được không?”
Miki cố tình không đáp lại đề nghị của biên tập viên. Y gần như không
bao giờ gặp ai bên xuất bản. Y từ chối mọi cuộc phỏng vấn, cũng không
xuất hiện tại những buổi tiệc tùng. Chỉ đơn giản là sáng tác đồng thoại, rồi
gửi đi. Bên kia tiếp nhận, xuất bản rồi chuyển tiền vào ngân hàng. Tất cả
chỉ có vậy.
Đã có những người nghi ngờ sự tồn tại của tác giả mang tên Miki Shun.
Nhưng y cho rằng như thế cũng chẳng sao. Sau khi dập máy, Miki bế cô bé
đang nằm trên sofa lên rồi rời khỏi thư phòng. Cơ thể cô bé rất nhẹ. Có lẽ
chỉ tầm mười cân.
Y và cô bé này gặp nhau trong thị trấn. Lúc đó cô đang bối rối vì lạc
bạn bè, Miki bèn dẫn cô về nhà mình. Cô xưng tên là Aizawa Hitomi.
Miki vẫn nhớ như in những chuyện xảy ra khi tháo băng bịt mắt cho cô
bé, tại căn phòng dưới lòng đất.
“Mấy cái chân tay ma nơ canh ở đằng kia là gì thế?” Hitomi nghiêng
đầu, nhìn đống tứ chi vứt chỏng chơ trong góc phòng. Rồi cô bé nhận ra
những thứ đáng lẽ phải có ở vai và hông mình bây giờ không còn nữa. “Đó
là… của em sao?”
Miki đã dùng một chiếc cưa cho việc cắt rời. Tuy không có thuốc an
thần, nhưng khuôn mặt bị quấn vải của cô bé không cho thấy một chút đau
đớn nào. Cũng chẳng có thuốc cầm máu, nhưng hầu như cô không bị xuất
huyết. Miệng vết thương cho đến bây giờ vẫn chưa lành, vẫn còn một màu
đỏ tươi nguyên.
Hitomi không thể mặc quần áo bình thường được nữa. Vì vậy Miki đã
làm một chiếc túi vừa vặn với thân thể, để cô bé nhét phần dưới cổ của
mình vào. Y làm những chiếc túi có họa tiết hình hoa hay hình kẻ ca rô,
nhưng cô bé không thích.
“Nó cứ ngưa ngứa ở quanh cổ em, ghét lắm.”
Cuối cùng cô bé đã chọn cái túi làm từ vải màu xanh nhạt, dài vừa vặn
đến cổ, để lộ đầu ra. Miệng túi được buộc lại bằng một chiếc cà vạt màu đỏ.
Miki ẵm cô bé đang ngủ bước xuống cầu thang biệt thự. Y cảm thấy
lồng ngực mình ươn ướt ở chỗ gò má Hitomi ấp vào. Có đôi khi cô bé khóc
vì nhớ ba mẹ.
Cửa căn phòng tầng hầm nằm dưới gầm cầu thang, ở một góc tầng trệt.
Cánh cửa có màu giống hệt tường, chỉ nhìn thoáng qua thì không thể phát
hiện được. Chính vì thích thú với căn phòng ngầm nên y mới thuê căn biệt
thự kiểu Âu nằm sâu trong núi này. Y bật công tắc đèn, bước xuống cầu
thang. Phòng ngầm là một không gian trơ trụi với tường bằng gạch trần.
Nhiệt độ thấp, hơi thở phả ra biến thành màu trắng toát. Trần nhà tuy thấp,
nhưng nếu chỉ đi đứng bình thường thì cũng không vấn đề gì. Cả căn phòng
là một hình chữ nhật khổng lồ. Ánh đèn quá yếu không thể bao phủ toàn bộ
không gian rộng lớn, nên về phía xa lại là một màn đêm sâu thẳm. Giữa căn
phòng là rất nhiều giá để đồ, đều do người ở trước để lại. Trên giá có những
chiếc hộp chứa các dụng cụ và quần áo cũ. Giường của Hitomi nằm ở ngay
phía trước chiếc giá gỗ. Miki đặt cô bé xuống ngủ ở đó.
“Này…” Tiếng Hisamoto Shinichi vang lên bên kia dãy giá. Miki rời
mắt khỏi Hitomi, ghé nhìn sang qua khe hở bé tí tẹo giữa những chiếc hộp,
và bắt gặp ngay con mắt của Hisamoto đang chằm chằm nhìn lại y.
Phía bên kia dãy giá để đồ, ở nơi ánh sáng gần như không lọt tới, có
tiếng cựa quậy của một thứ gì to lớn. Khi mắt Hisamoto biến khỏi khe hở
giữa những chiếc hộp, một con mắt khác liền thế chỗ, ti hí nhìn y. Đó là mắt
Mochinaga Yukie.
“Trông bác cứ ốm yếu làm sao ấy. Đến xem thử đi.”
Bác là cái tên thân thương được đặt cho một trong bốn người ở phòng
ngầm. Tên thật của ông là Kaneda Tadashi.
Khi Miki gật đầu, mắt Yukie liền biến khỏi khe hở. Còn nghe thấy cô
thở hắt ra một tiếng dài.
“Phải rướn mặt lên tít cái khe trên đó, mệt nhọc kinh khủng…” Cô cất
tiếng giữa bóng tối bên kia giá để đồ.
Miki đắp chăn cho Hitomi đang ngủ trên giường. Mặc dù biết những
người bị mình tra tấn không còn cảm nhận được nóng hay lạnh nữa, nhưng
y vẫn làm vậy. Họ không chỉ mất đi sự nhạy cảm với biến đổi nhiệt độ, mà
đến cả những phản ứng của cơ thể cũng biến mất. Họ không bao giờ lo chết
cóng. Và được giải thoát luôn khỏi cái đói và bệnh tật. Những người bị bàn
tay Miki giày vò vẫn tiếp tục sống, như thể dòng thời gian đẩy họ đến với
cái chết đã không còn tuôn chảy. Năng lực ban sinh mệnh. Cây kéo cắt đứt
lực hút của nam châm cái chết. Miki hiểu rằng mình đang sở hữu thứ sức
mạnh như vậy.
Mochinaga Yukie cất tiếng hát trong bóng tối. Là một bài hát tiếng Anh
mang âm hưởng trầm buồn. Cô vốn là một giáo viên dạy tiếng Anh với khả
năng phát âm tuyệt vời. Không gian trống rỗng trở nên đầy đặn nhờ giọng
hát run rẩy, thanh nhã của cô.
Đúng lúc ấy, Hitomi khẽ rên rỉ. Cô bé gặp ác mộng. Môi cô giần giật,
như thể đang cố nói điều gì. Miki ghé tai lại gần. Lời nói mê của cô bé
không hoàn chỉnh, nhưng y vẫn mang máng hiểu được vài phần. Hitomi đã
nói thế này.
“Quạ…”
3

Quạ đung đưa trong không gian. Chiếc móc chìa khóa mang hình con
chim đáng yêu với bộ lông đen tuyền ấy treo lủng lẳng chỗ kính chiếu hậu
trong xe. Nó lúc lắc bên nọ bên kia trước mắt tôi, hòa vào những nhịp rung
của ô tô.
“Cô quen ai ở thị trấn này à?” Người đàn ông trẻ đang lái xe lên tiếng
hỏi. Tôi lắc đầu vì lo lắng. Chui vào xe của một người hoàn toàn xa lạ, là
một hành động gan to bằng trời. Nhưng từ đây đến Kaedecho nơi tôi muốn
tới chỉ có hai chuyến xe buýt một ngày, bây giờ mới chập tối mà đã lỡ
chuyến thứ hai. Vì thế tôi mới quyết định đi nhờ xe của một người có cùng
điểm đến với mình.
Tôi rời mắt khỏi chiếc móc chìa khóa hình quạ, và nhìn ra ngoài cửa sổ.
Bầu trời màu xám xịt trải dài vô tận. Con đường ngoằn ngoèo uốn lượn trên
sườn ngọn núi ngay trước mắt. Tôi ngắm nhìn sườn núi phủ một lớp cỏ khô
màu trắng bệch. Cảm giác lạnh giá bất thần xâm chiếm tâm hồn.
Xe dừng lại giữa rừng tuyết tùng rậm rạp. Trước mắt chúng tôi là thanh
chắn tàu màu vàng và đen ngăn ngang đường, tiếng chuông báo vang lên
ngắt quãng, inh ỏi trong tai. Đường ray cắt qua lộ trình của chúng tôi. Chờ
đợi một lúc mới thấy một toa tàu màu đỏ lẻ loi đi qua đoạn đường ray ấy.
Người đàn ông giải thích với tôi rằng đó là tàu điện do thành phố vận hành.
Người này rất hăng hái bắt chuyện với tôi. Nhưng tôi e sợ, không biết
phải tiếp xúc như thế nào với một người hoàn toàn xa lạ.
Do đang đi nhờ xe, bụng bảo dạ không nên làm anh ta phật ý, tôi bèn
bồn chồn cố nghĩ ra cái gì đó để nói. Nhưng vô ích. Mất đi kí ức tức là mất
đi quá khứ, mất mọi trải nghiệm. Tôi không có được một cuộc đời đáng đề
cập đến, ngay cả khi anh ta hỏi về thân thế cũng không trả lời rành rọt được.
Tôi không hứng thú với việc tâm sự rằng mình đã mất trí nhớ.
Những người mới gặp lần đầu chắc chắn sẽ không biết gì về tôi, nên tôi
nghĩ rằng cứ bịa bừa vài câu là được. Nhưng tôi lại không có cái tài nói dối
mọi lúc mọi nơi, cuối cùng chỉ biết lúng búng trong miệng nói chẳng nên
lời do lo lắng và bất an đè ép. Tất cả những gì làm được là gật đầu phụ họa
người đàn ông đang vừa lái xe vừa trò chuyện với mình.
Trường cấp ba của tôi đã vào kì nghỉ xuân. Nghỉ hay không thì cũng
chẳng liên quan đến tôi lắm nữa, vì tôi đã trốn học từ trước cả lễ bế giảng
rồi. Dù thế, vào những ngày mọi người còn lên lớp bình thường, lòng tôi
vẫn không khỏi lợn cợn vì chỉ riêng mình không đến trường.
Bởi vậy khi vào kì nghỉ thực sự, tâm trạng tôi cũng trở nên thoải mái
hơn đôi chút. Tôi đã tự thuyết phục bản thân rằng mình cũng có quyền gây
phiền phức cho người khác, nhờ đó đã thu thập đủ dũng khí để dứt khoát đi
dạt nhà. Tôi có để lại một bức thư cho cha mẹ, nói rõ rằng tôi bỏ nhà ra đi,
và hứa gọi điện về nhà hằng ngày để báo bình an.
Mấy hôm trước, tôi đã rút sạch tiền trong sổ tiết kiệm của Nami. Tôi
mang cuốn sổ mang tên mình ra ngân hàng vào một ngày cũng không phải
ngày nghỉ. Cuốn số này vẫn nằm sâu trong góc hộc bàn bấy lâu. Chứa số
tiền tôi dành dụm được trước khi mất đi kí ức.
Tôi không biết mật khẩu mở sổ. À, phải nói “Biết nhưng quên rồi” chứ
nhỉ. Tôi định bụng sẽ giải thích như thế cho nhân viên ngân hàng. Tôi mang
theo cả thẻ học sinh lẫn con dấu cá nhân, nên chắc chắn sẽ chứng minh
được tư cách của mình.
Nhưng tôi vẫn cảm giác sổ tiết kiệm của Nami như là thứ gì đó không
phải của mình. Có cảm giác rút tiền của người khác nên tôi không muốn
gây chú ý. Vì vậy tôi đã quyết định gõ thử mọi dãy số có thể vào máy ATM
để xem có rút được tiền không. Đầu tiên là ngày tháng năm sinh. Tôi đã học
thuộc ngày tháng năm sinh của chính mình sau khi hỏi ba mẹ.
“1021.”
Không được rồi. Tôi lo lắng chẳng biết có bị nhân viên bảo vệ để ý
không. Tôi gõ thử một dãy số khác.
“4156.”
Chính xác. Xem ra tôi có thể chân thành đem lòng yêu thương con thú
nhồi bông Yoikoro đã bị tống vào tủ quần áo rồi. Với tâm trạng áy náy, tôi
rút lấy toàn bộ số tiền mà Nami khi trước hẳn đã kì công tích cóp, vẫn
không thể nhồi vào đầu suy nghĩ đằng nào cũng là tiền của mình sao phải
lăn tăn.
Tôi chuẩn bị quần áo, chờ đợi để cho quyết tâm của mình vững chắc
hơn. Rồi xem bản đồ và lộ trình của các tuyến xe lửa, suy nghĩ xem mình sẽ
đi tuyến nào. Thị trấn Kaedecho nơi Wazuya sinh ra và lớn lên nằm ở một
vùng núi hẻo lánh, gần ranh giới tỉnh tôi đang sống. Chắc hẳn đó là một thị
trấn thưa thớt dân cư. Tên của nó trên bản đồ được viết bằng cỡ chữ tí hon
đến mức không chú ý là sẽ nhảy cóc qua luôn.
Trong thời gian chuẩn bị lên đường, những hình ảnh bên mắt trái tôi
cũng quay lại, và đưa tôi về thời thơ ấu của Wazuya. Nhưng từ hôm ở thư
viện và biết anh đã chết, thì ngay cả những kí ức vui vẻ nhất cũng khiến tôi
nghẹn ngào mỗi lần xem xong.
“Sao cô lại muốn đến cái thị trấn khỉ ho cò gáy ấy?” Người đàn ông hỏi
tôi với vẻ hào hứng.
“Ở đó có một người quen rất quan trọng với tôi.”
“Nhưng cô vừa bảo chẳng quen ai ở thị trấn đấy cơ mà…”
“À vâng, là vì…” Rồi tôi lặng thinh vì không nghĩ được câu trả lời nào
hợp lý.
Cảnh vật ngoài xe càng lúc càng giống kí ức trong mắt trái. Tôi cảm
thấy mảnh đất chôn rau cắt rốn của Wazuya và chị Saori đang ở rất gần.
Rừng cây lá kim, rồi những tòa tháp sắt cao chọc trời kia, đều đã từng
xuất hiện trong mắt trái. Da tôi sởn gai ốc như bị nhiễm tĩnh điện. Tôi đứng
ngồi không yên. Tuy đã sang xuân nhưng cảnh vật vẫn như đang ở giữa
mùa đông vậy. Không thấy đâu màu xanh tươi mát của thực vật. Chỉ có cỏ
cây chết khô, cùng rừng cây lá kim gần như đã ngả hẳn sang màu đen. Khí
lạnh bên ngoài len lỏi vào xe qua khe hở trên cửa sổ. Lạnh đến mức giả như
tuyết rơi cũng không có gì quá lạ lùng.
Xe dừng lại ở chỗ đèn tín hiệu. Không thấy xe cộ nào trờ tới. Mé trái
đường là quảng trường, mặt đất trắng phớ khô khốc. Những chiếc xe tải gỉ
sét đậu im lìm cùng mấy cái lốp cũ rích vứt chỏng chơ. Đằng sau quảng
trường là khu rừng rậm rạp. Cạnh đèn tín hiệu sừng sững một tấm biển to
tướng.
Mắt trái của tôi ấm dần lên. Ôi, đây là…
“Xin lỗi, anh có thể dừng chờ thêm một lúc không ạ?”
Tôi lấy hết dũng khí để yêu cầu, người đàn ông lộ vẻ nghi hoặc. Đèn
chuyển sang màu xanh. Mắt phải tôi nhìn thấy thế.
“Sao vậy?” Người đàn ông hỏi. “Không lẽ cô bị dị ứng phấn hoa?”
Tôi lau nước mắt. Chiếc hộp kí ức trong mắt trái đóng lại.
“Tôi có thể xuống xe một chút được không? Tôi hứa sẽ quay lại ngay.”
Tôi mở cánh cửa phía ghế phụ rồi bước ra. Không khí ngoài này lạnh
lẽo khác hẳn trong xe có máy sưởi. Tôi tiến lại gần phía tấm biển khổng lồ.
Nó được dựng trên hai cột kim loại, trông như một vách đá sừng sững khi
nhìn từ dưới lên.
Trên biển vẽ một thinh không tươi mát cùng những đám mây vũ tích.
Bầu trời ngoài hiện thực thì đang chìm trong mây mù u ám, nên tôi có cảm
giác mùa hè đã được cắt ra và đóng hộp vào không gian hình chữ nhật trên
tấm biển này. Đây chắc là biển quảng cáo cho công ty nào đó.
Tôi lần mò bên dưới tấm bảng, gõ gõ vào cột, thử nhìn lên nó từ phía
sau. Rồi chợt nhận ra mình đang mỉm cười.
Người đàn ông quan sát tôi từ ghế lái. Nghĩ rằng không nên bắt anh ta
chờ lâu, tôi quay lại.
“Từ rất lâu rồi, người quen của tôi đã vui chơi dưới tấm biển ấy. Hồi nó
còn dựng dở cơ…”
Ở kí ức trong mắt trái tôi, ông chú già mặc bộ đồ công nhân đang di
chuyển cây chổi quét sơn, vẽ nên bầu trời xanh trên tấm biển. Wazuya thì
thẫn thờ nhìn theo, rồi vụng về vấp chân vào thùng sơn để dưới đất. Vì tầm
nhìn khá cao nên tôi cho rằng đây là kí ức vào lúc anh đã tương đối trưởng
thành. Thế mà khi đánh đổ thùng sơn, anh bỏ chạy như một đứa trẻ. Nhớ lại
cảnh tượng ấy, trong tôi như rộn lên tiếng cười. Nhưng rồi không hiểu sao
lại thoáng chút đau buồn.
Chiếc xe tiếp tục chạy. Tôi lấy cặp tài liệu từ túi đeo chéo mang theo
người, ghi lại cảnh tượng mình vừa thấy. Tôi đang đứng ở cùng một nơi với
kí ức trong mắt trái. Niềm hạnh phúc tràn ngập trái tim, khi đứng trước tấm
biển tôi cảm nhận được cảnh tượng trong mắt trái hòa làm một với thực tế.
Cứ nghĩ đến sự thật rằng tôi và Wazuya là hai người khác nhau, sinh ra và
lớn lên ở hai miền đất cách nhau rất xa, thì đây quả là một điều kì diệu.
“Sắp đến Kaedecho rồi đó.”
Người đàn ông vừa lái xe vừa nói. Tôi dán mắt vào cảnh vật trải rộng
ngoài cửa sổ.
“À này, tôi muốn ghé vào chỗ này trước, nên giờ tôi đánh xe qua đó
nhé?”
Tôi không phản đối. Vốn dĩ tôi cũng không xác định được cụ thể về nơi
mình phải đến. Mục đích đầu tiên chỉ là Kaedecho, nơi có Wazuya và Saori
sinh sống mà thôi. Tiếp theo làm gì thì tôi chưa tính đến.
Đầu tiên là phải tìm được một nơi ở trọ qua đêm. Đó sẽ là cứ điểm của
tôi, để tìm kiếm chị Saori chắc chắn vẫn còn sống. Wazuya hẳn là mới mất
hai, ba tháng trước thôi. Chị Saori chưa thể chuyển nhà đi đâu xa được.
Cuối cùng thì thị trấn nhỏ bé giữa những rặng núi cao đã hiện ra bên
ngoài cửa sổ. Đường quốc lộ chạy xuyên qua giữa thị trấn như động mạch
trong thân thể người. Một thị trấn thanh bình vắng vẻ. Tôi không nhìn thấy
tòa nhà cao tầng nào lướt qua bên ngoài cửa sổ. Chỉ có nhà dân hay vài cửa
hàng lúp xúp xen kẽ những trảng đất hoang toàn cỏ cây khô héo mà thôi.
Đây đó có những con chó hoang gầy guộc ngẩng cổ hít ngửi mùi rác rưởi.
Trên đường đi, chúng tôi lướt qua một chiếc xe tải lớn chạy ở làn bên
kia. Thùng xe chất đầy những thân cây lá kim bị phạt đổ. Theo như người
đàn ông kể thì lâm nghiệp là nguồn sống chính của thị trấn này, trên núi có
khu khai thác tuyết tùng. Tôi vẩn vơ nghĩ, nếu vậy chẳng phải những người
bị dị ứng phấn hoa sẽ khổ sở lắm sao? Tuy mất đi gần hết kí ức, tôi vẫn giữ
lại được vài mảnh kiến thức vụn vặt về phấn hoa tuyết tùng. Chị Saori lúc
nào cũng lòng thòng nước mắt nước mũi, có khi là vì chứng dị ứng phấn
hoa.
Có một siêu thị mà nhìn qua tôi cũng đâm lo, chẳng biết họ được mấy
khách hàng. Lớp sơn trên bảng hiệu đã phai mờ, để lại một thứ sắc màu ủ
rũ. Ở bãi đỗ có một chiếc xe tải hạng nhẹ cũ kĩ và gỉ sét, một ông chú quấn
khăn quanh đầu đang chật vật vác những thùng rượu trên xe xuống.
Một nơi chốn thiếu sức sống. Đến không khí cũng cảm thấy loang
loãng, cả thị trấn mờ nhạt dưới bầu trời đầy mây mù, làm nhòe nhoẹt cả
những tấm biển chỉ đường. Tuy chỗ này cách ga tàu chưa đến hai mươi phút
chạy xe, nhưng cảm giác hiu quạnh cứ in hằn trong tâm trí tôi.
Suốt thời gian ngồi trên xe, đã mấy lần tôi suýt buột miệng hét toáng
lên. Những cửa tiệm, phong cảnh, con đường mà tôi từng nhìn thấy trong
mắt trái, giờ đang lướt qua tôi ngoài hiện thực.
Không còn nghi ngờ gì nữa, đây chính là thị trấn nơi Wazuya từng tồn
tại. Mỗi lần phát hiện ra một thứ gì quen thuộc, tôi lại muốn dừng xe lao ra
ngoài. Nhưng vì không thể làm phiền người đàn ông chủ xe nên tôi đành
kiềm chế. Tôi áp cả hai tay và trán lên kính cửa sổ, tập trung quan sát thị
trấn.
“Tôi đi đưa đồ cho một quán hàng, cũng sắp đến nơi rồi.”
Cuối cùng chiếc xe rời khỏi quốc lộ. Nhà cửa hai bên đường thưa dần,
cũng không còn thứ gì tôi quen thuộc nữa. Tôi chưa hết tiếc nuối thì xe đã
dừng tại bãi đỗ của quán xá nào đó. Người đàn ông rời khỏi ghế lái, ôm
chiếc hộp để ở băng sau từ nãy đến giờ.
“Đợi xong việc ở đây, tôi sẽ đưa cô đến nơi cô muốn đến.”
Anh ta hứa, nhưng tôi nhận ra điều đó không còn cần thiết nữa. Tôi rời
khỏi ghế phụ, nhìn ngắm ngôi nhà mà người đàn ông vừa đi vào.
Đó là một quán cà phê có thiết kế tròn trịa, làm tôi thoáng nhớ đến
những căn nhà gỗ xứ lạnh. Trên biển ghi dòng chữ “Rừng Trầm Uất”. Là
quán cà phê nơi chị Saori làm việc, đã xuất hiện trong mắt trái tôi biết bao
nhiêu lần.
Tôi đẩy cánh cửa gỗ và tiến vào trong, hơi ấm của phòng bật máy sưởi
nhẹ nhàng ôm lấy tôi. Nhìn từ cửa vào, bên trái là quầy thức uống, bên phải
là bàn ghế. Tất cả đều rất quen thuộc.
Theo mỗi bước đi, giày của tôi lại va đập với mặt sàn, tạo nên một âm
hưởng kì diệu. Tôi ngồi xuống ghế trước quầy.
“Chào quý khách.”
Chủ quán bước ra từ một góc và cất tiếng. Lồng ngực tôi như rít lên.
Con người này đã xuất hiện trong mắt trái của tôi bao nhiêu lần rồi. Bộ ria
rậm rạp làm khuôn mặt ông nhìn cứ như một con gấu. Phải mục kích tận
mắt tôi mới thấy hết tạng người vĩ đại của ông, tự dưng đâm lo không biết
diện tích trong quầy có quá chật chội với ông không nữa.
“Cô làm sao thế?”
Tôi đang bất giác nhìn chằm chằm vào mặt ông.
“Không có gì đâu ạ, cháu xin lỗi.”
Tôi ngượng ngùng nhìn đi chỗ khác, đảo mắt một vòng quanh quán. Lọ,
hoa, và đồ trang trí quen thuộc. Bàn ghế đều làm bằng gỗ. Không gian trong
tiệm ngập tràn một thứ ánh sáng vàng ấm áp, y như màu sắc từng xuất hiện
trong mắt trái tôi.
“Cô muốn uống gì nào?”
Tôi vội mở thực đơn, gọi luôn thứ đầu tiên đập vào mắt mình, “Cho
cháu một café au lait[2] nóng ạ.”
Người đàn ông cho tôi đi nhờ bước ra từ một góc quán. Dường như anh
chỉ có nhiệm vụ chuyển đồ đến đây thôi. Anh nói chuyện thân mật với ông
chủ, xem chừng họ có quen biết nhau. Tôi thầm nghĩ có khi anh là mối quen
biết cá nhân của ông chủ quán, và chính ông đã nhờ anh đi mua đồ hộ. Anh
ta đang nhìn quanh quất trong quán, như muốn tìm kiếm bóng dáng ai đó.
Trong quán có hai khách. Một là phụ nữ, tóc bạc trắng, tuổi cũng phải
tầm sáu mươi. Bà ngồi ghế cạnh cửa sổ, vừa nhấm nháp đồ uống vừa đọc
một quyển sách bìa cứng. Bàn tay đầy nếp nhăn lật giở từng trang sách.
Trang phục của bà may bằng vải tốt. Có lẽ là người sống quanh đây chăng?
Dáng vẻ thong dong làm tôi có cảm giác bà là khách quen của quán.
Khách còn lại thì ngồi tít trong góc, ngoài tầm ánh đèn, phải mất một
lúc tôi mới nhận ra chỗ đó có người. Nam giới thì phải, gần như hòa làm
một với bóng tối vì bộ quần áo màu đen.
Người đàn ông lái xe đưa mắt lại chỗ quầy tôi đang ngồi, cho biết anh
sẽ rời khỏi đây bây giờ. Suy nghĩ chốc lát, tôi quyết định.
“Tôi sẽ ở lại đây. Cảm ơn anh đã cho đi nhờ.”
Trước khi vẫy tay chào và rời khỏi Rừng Trầm Uất, anh ta còn ngoái lại
nhìn tôi vẻ lo lắng. Tôi có cảm giác mình đã từng thấy dáng vẻ này ở đâu
rồi. Chưa biết chừng anh đã từng xuất hiện trong kí ức của con mắt trái.
Trông anh có vẻ quen thuộc với quán, nên khả năng đó là cao. Vì tập tài
liệu bây giờ đã dày cộp những ghi chép, nên sẽ có vài giấc mơ mà tôi không
nhớ rõ.
Chủ quán mang tách café au lait ra cho tôi.
“Để cô phải đợi lâu.”
Giọng nói của ông y như tôi từng mường tượng. Đây là cơ hội để tôi
được quan sát ông ở cự li gần. Tôi vẫn không thể nào tin được, rằng con
người này đang hiện hữu ngay trước mắt mình.
Wazuya rất hay ghé thăm Rừng Trầm Uất, có lẽ vì đây là nơi chị Saori
làm việc chăng? Tôi biết chắc chắn thế, bởi vì nơi này thường xuyên xuất
hiện trong mắt trái. Wazuya đã có mặt vào ngày quán khai trương. Bấy giờ
anh đang học cấp hai. Chủ quán là một người khác, một ông bác còn già
hơn cả ông chủ bây giờ.
Khoảnh khắc nhìn thấy tách cà phê ở nhà, nhãn cầu trái của tôi đã nóng
bừng lên, và chứng kiến hình ảnh đó. Dạo ấy quán mới toanh, giống như bộ
quần áo bảnh chọe người ta vừa mua về. Qua những buổi trốn học ngồi
trong góc quán cà phê mà vẫn mặc nguyên đồng phục, hình ảnh ông bác tóc
bạc trắng đứng sau quầy đã in hằn vào mắt của Wazuya.
Vạn vật trên thế gian đều chứa đựng một quá khứ riêng. Tôi đã nhận ra,
một cách nghiêm túc, rằng chính quán cà phê này cũng vậy. Có lẽ ở đây, tôi
là kẻ duy nhất không sở hữu quá khứ của chính mình.
Tôi đang mang theo một tập tài liệu, ghi chép những mảnh ghép kí ức
về con người và thị trấn này. Nhưng trên thực tế, không có gì trong số
chúng gợi cho tôi cảm giác thân quen. Thật là một cảm giác lạ lùng.
“Bác ơi…”
Tôi cất tiếng gọi chủ quán. Nhưng nửa chừng, tôi lại lạc lối, không biết
phải nói chuyện gì. Mặc dù ông là người mà tôi quen, nhưng với ông, tôi
chỉ đơn giản là một vị khách mà thôi.
Ông nhíu mày, làm điệu bộ như muốn hỏi “Cô gọi tôi có việc gì
không?”.
“Cháu xin lỗi vì đã đường đột, nhưng mà…” Tôi thu hết quyết tâm, hỏi
ông điều mà mình đã bận tâm nãy giờ. “Xin cho cháu biết tên của bác ạ…”
Những hình ảnh trong mắt trái tôi không đi kèm âm thanh, nên có
những cái tên mãi mà tôi vẫn không biết được. Ít nhất tôi cũng phải hỏi
được tên của ông.
Khuôn mặt ông chủ quán thảng thốt thấy rõ.
“Là Kimura, nhưng sao…?”
“Ch… cháu cảm ơn bác…”
Tôi cảm thấy má mình nóng lên vì vừa làm một việc ngượng ngùng.
Còn ông Kimura thì thay đổi thái độ, dường như hơi hiểu chuyện gì đang
xảy ra rồi.
Ông chống cùi tay xuống quầy, rướn người lên làm bộ nhìn mặt tôi cho
rõ hơn. Cơ thể đồ sộ nhường ấy, chỉ cần một động thái nhỏ là đã khiến tôi
cảm thấy bị áp đảo. Ông toét miệng cười như con gấu khoe hàm răng. Ông
không cười thành tiếng vì còn để ý đến những khách khác, nhưng như thế
cũng đã đủ để tôi sợ hãi, suýt chút nữa thì hét lên.
“Sao cô lại muốn biết tên tôi?”
Tôi không biết trả lời thế nào.
“Chuyện là thế này ạ… Hồi trước cháu đã từng đến đây, từng nghe nhắc
đến tên bác, nên là muốn hỏi thử cho chắc thôi ạ…”
Giọng tôi mỗi lúc một lí nhí, vì tôi cũng chẳng hiểu chính mình đang
nói cái quái gì nữa.
“Hồi trước là trước đến mức nào?”
“Khoảng hai năm trước ạ.”
Toàn là bịa đặt cả. Ông Kimura khoanh tay trước ngực, ném cho tôi ánh
mắt nghi ngờ.
“Đừng có mà nói xạo nhé, ai đã đến đây tôi đều nhớ mặt cả.”
“Cháu không nói dối.” Tôi la lên trong lúc hoang mang.
“Hừm, thế à…” Ông Kimura suy nghĩ một lúc. “Trong quán này, có một
thứ tôi mới thêm vào gần đây. Cô đoán thử xem là thứ gì. Ngoài nó ra thì
đều giống hệt hai năm trước cả.”
Nghe vậy, người phụ nữ luống tuổi ngồi cạnh cửa sổ lên tiếng, “Kimura
này, anh làm khó con bé quá đấy. Đoán thế nào nổi. Đến tôi còn chẳng biết
cơ mà.”
Hóa ra bà đang nghe chúng tôi nói chuyện. Ôi, xấu hổ chết thôi.
“Gì chứ, chị nghe lén bọn tôi hả Kyoko?”
Ông Kimura quay về hướng cửa sổ. Bà bác tên Kyoko gấp sách, nhìn
ông Kimura như trách móc.
“Mà cũng đúng, câu hỏi này có hơi khó th…”
Tôi nhìn một vòng trong cửa tiệm.
“Cháu biết rồi.”
Tôi tuyên bố, rồi chỉ tay vào bức tranh treo trên tường. Là tranh vẽ một
hồ nước, lấp lánh giữa rừng cây tối đen, chưa từng xuất hiện trong mắt trái
của tôi, nên tôi cho rằng nó mới được treo lên gần đây. Nếu giở tập tài liệu
ra xem, chắc chắn sẽ có ghi chép chi tiết về nội thất quán, nhưng tôi chẳng
cần dùng đến.
Nhìn ông Kimura trợn tròn mắt vì ngạc nhiên, tôi biết mình đã trả lời
đúng.
Người đàn ông ngồi trong góc quán đứng dậy. Hồi nãy vì khuất trong
bóng tối nên tôi không nhìn rõ, giờ mới biết đó là một chàng trai có khuôn
mặt tuấn tú. Anh đeo kính, để tóc dài. Chiếc áo choàng màu đen lướt qua
bên tôi. Cử động nhẹ nhàng đến mức còn không nghe được tiếng chân chạm
xuống mặt sàn. Hình như anh đang ra tính tiền.
“Tôi xin chịu thua.”
Kimura gãi đầu nhìn tôi, rồi bước đến chỗ thanh toán. Ông nhận tiền từ
người đàn ông kia, trả lại tiền thừa. Hình như anh ta có ngoái nhìn tôi trước
khi rời khỏi Rừng Trầm Uất. Tôi biết là anh cũng nghe thấy màn đối đáp
giữa tôi và ông Kimura rồi.
“Bức tranh ấy, là do cậu họa sĩ vừa đi ra vẽ đó.” Ông chủ quán nói.
“Cậu ta tên là Shiozaki, cô có biết không nhỉ?”
Tôi lắc đầu.
“Thế à, chắc tại không lưu trong kí ức.”
Tôi cảm thấy cách nói “không lưu trong kí ức” mới chính xác với mình
làm sao.
“Chẳng hiểu sao anh ta lại chuyển nhà đến cái chỗ khỉ ho cò gáy này.
Còn cô nữa, đến đây có việc gì à?”
Tôi suy nghĩ xem nên trả lời thế nào. Hay là cứ nói quách sự thật ra cho
rồi nhỉ. Rằng có cô bé bị bắt cóc. Tìm kiếm sự trợ giúp có khi sẽ tốt hơn.
Nhưng chẳng biết ông có chịu tin tôi không? Tôi không thấy phần trăm
đảm bảo nào. Con mắt trái cấy ghép lại cho tôi thấy những hình ảnh từng in
trong võng mạc của nó ư, ai nghe mà không cho là nói dối chứ. Lại còn cô
bé bị giam cầm nữa, tôi sẽ bị cười nhạo mất thôi.
“Cháu đang đi tìm người.”
Tôi giải thích với ông như thế. Cũng không phải là không đúng. Tôi
đang đi tìm Saori và Aizawa Hitomi, cả tên thủ phạm nữa.
“À đúng rồi, có cô gái nào làm việc ở quán này không ạ?”
Ông Kimura mỉm cười, “Cô cũng đến vì Saori sao?”
Tôi thoáng chốc giật mình. Đây là lần đầu tiên tôi được nghe tên của chị
từ miệng người khác.
“Đến vì?”
“Con bé đó có fan hâm mộ mà. Là thằng ngốc cho cô đi nhờ xe đến đây
ấy, nó toàn ghé lại quán để tìm gặp con bé thôi. Hôm nay vừa nghe bảo
người ta bị cảm không đến làm, thế là bỏ đi luôn kìa. Bố cái thằng, đáng lẽ
cũng phải gọi gì mang về chứ.” Ông Kimura nói với vẻ ấm ức.
Biết Saori không có ở đây, cảm giác an tâm và tiếc nuối cùng lúc tràn
ngập trong tâm trí tôi. Nếu chị đường đột xuất hiện trước mắt, tôi sẽ bối rối
lắm. Trái tim tôi vẫn chưa sẵn sàng. Nhưng qua những gì nhìn thấy trong
mắt trái, tôi tin rằng chị vẫn đang làm việc tại Rừng Trầm Uất.
Tiếng nhạc du dương như làn nước nhẹ trôi trong quán cà phê. Âm
lượng nhỏ đến mức gần như không nghe được. Tôi vừa lắng nghe vừa đưa
tách café au lait lên miệng. Ngày xưa, Wazuya cũng đã từng nhấm nháp
hương vị giống như thế này.
Tôi vuốt ve mặt quầy. Là nơi Wazuya từng ngồi. Chiếc ghế mà anh từng
tiếp xúc. Tôi hết đứng lên rồi ngồi xổm xuống, quan sát quán theo như
đường nét đã thấy trong mắt trái. Ông Kimura và bà Kyoko nhìn tôi với vẻ
khó hiểu. Không muốn kích động họ hơn nữa, tôi ngoan ngoãn yên vị nhâm
nhi tách café au lait.
Đúng lúc đó, một cô gái xuất hiện từ góc khuất của quán, “Cháu đổ rác
về rồi đây.”
Cô gái mặc áo len, tóc dài buộc lại sau lưng. Hai tay vỗ vỗ vào nhau,
mũi và hai má đỏ ửng, hình như là do đã ở bên ngoài một lúc khá lâu.
“Hồi nãy là tôi lừa thằng kia thôi,” ông Kimura nói với tôi.
Cô gái kia lấy hộp khăn giấy từ sau quầy, rồi xì mũi. Nhận ra tôi đang
dõi theo, chị mắc cỡ vì điệu bộ của mình không được đàng hoàng.
“Xin lỗi nhé, bẩm sinh mũi tôi nó đã thế này…”
Hình như không phải chị bị dị ứng phấn hoa. Lần đầu tiên tôi được nghe
giọng nói ấy. Đúng như tôi đã tưởng tượng, là một giọng khìn khịt vì ngạt
mũi, nhưng vẫn tuyệt vời và rất hợp với chị.
“Chị Fuyutsuki Saori… ạ?”
Cô gái nghiêng đầu. Nét mặt lạ lùng vì không hiểu sao tôi lại biết tên
chị.
“Rất vui được làm quen với chị, em là…” Không hãm lại được rồi. Tôi
đã buột miệng lúc nào không hay, “Bạn của Wazuya ạ.”
Saori và ông Kimura nín thở.
Sự thật là… không phải hôm nay mới làm quen. Em đã biết chị từ rất
lâu rồi. Tôi có cảm giác như mình đã ở bên người này suốt cả thời thơ ấu.
Tuy ngoài mặt vẫn phải tươi tỉnh, nhưng trong thâm tâm, tôi chỉ muốn òa
khóc.

“Vậy thì mời em đến nhà chị.”


Sau khi nghe tôi trình bày rằng tối nay mình không có nơi nào để ngủ
lại, chị Saori đã trả lời như thế. Tôi có tiền để thuê trọ, nhưng ở Kaedecho
dường như không có khách sạn hay nhà nghỉ nào phù hợp. Mặc dù áy náy
nhưng tôi vẫn chấp nhận đề nghị của chị Saori. Nói thật thì tôi đã hơi mong
muốn câu chuyện diễn ra theo chiều hướng này, và cũng vui vui khi nghĩ sẽ
được nhìn thấy nhà chị ở hiện thực.
“Vẫn chưa đến giờ đóng cửa, em chờ chị chút nhé?”
Tôi gật đầu. Vì công việc có vẻ không bận rộn nên Saori ngồi nói
chuyện với tôi. Tôi vẫn chưa hoàn toàn tin được rằng mình đang chứng kiến
chị bằng xương bằng thịt cử động, nói năng. Thành ra tôi cứ nhìn chằm
chằm vào mặt chị. Chắc chắn đây là cảm giác khi được gặp lại một người
ruột thịt đã phải chia ly trong thời gian dài. Với một kẻ không có mấy điều
để hồi tưởng như tôi, thì hình bóng về chị lưu giữ trong mắt trái là những kí
ức thân thương gần như duy nhất.
Nhưng đối với chị, tôi vẫn chỉ là một con người đột nhiên xuất hiện. Tôi
cứ hay quên đi điều này. Sau khi bà Kyoko tính tiền và rời khỏi cửa hàng,
ông Kimura lên tiếng.
“Hôm nay dọn hàng được rồi đấy. Chắc cũng chẳng còn khách nữa đâu.
Cháu dắt cô bé này đi luôn đi. Lâu lắm mới có bạn của Wazuya đến chơi…”
Cách ông nói nhuốm đầy lo nghĩ cho Saori. Tôi hiểu rằng cái chết của
Wazuya vẫn còn lưu lại ảnh hưởng rất rõ nét ở cõi đời này.
Tôi cùng chị Saori rời khỏi Rừng Trầm Uất. Đây là lần đầu tiên chúng
tôi sóng bước bên nhau, nhưng trong kí ức thì tình huống này đã lặp lại
không biết bao nhiêu lần. Tôi vẫn nhớ rõ những hình ảnh đó.
Ngoài trời rất lạnh, vừa bước chân ra tôi đã thấy toàn thân lạnh cóng.
Đôi má được phòng có máy sưởi làm cho mềm mại giờ căng cứng như vừa
bị tát bằng cả hai tay. Tà dương đang lặn, trời đã sập tối. Bức tường và biển
hiệu quán cà phê được thắp sáng, nổi bật giữa vùng u ám xung quanh. Con
đường cắt qua rừng tuyết tùng tối tăm và yên tĩnh.
“Chỗ chúng ta sắp đến, thật ra là nhà anh trai mẹ chị.” Saori vừa cọ cọ
cái mũi vừa nói.
“Em nghe Wazuya kể rồi.”
Sau khi ba mẹ mất, hai chị em được gia đình người bác gần đó nhận
nuôi. Mắt trái đã cho tôi biết.
“Bây giờ chỉ còn bác trai với chị thôi.”
“Bác gái đâu ạ…?”
“Bác đã ra đi vì cảm lạnh, ít lâu trước khi Wazuya mất.”
Thông tin này không có trong mắt trái của tôi. Tôi nhận ra vẫn còn rất
nhiều điều mà mình chưa biết. Những hình ảnh nhìn thấy trong mắt trái mới
chỉ là một mảnh nhỏ giữa bao nhiêu trải nghiệm mà Wazuya đã có trên đời
này.
Xung quanh hiu quạnh, không có được mấy ngôi nhà. Từ quán cà phê
đến nhà bác chị, chúng tôi đã đi bộ mười lăm phút. Răng tôi đánh cầm cập
vì lạnh. Hai bên đường rất nhiều cây cối. Tôi nhìn thấy một đống khổng lồ
màu gỉ sét, tạo thành từ rất nhiều ô tô phế thải chồng chất lên nhau. Có một
căn chòi nhỏ không người, bên trong ngập tràn bóng tối.
Có tiếng chim chóc đập cánh. Bóng tối làm tôi không nhìn rõ, nhưng
phía trên rừng cây lá kim có một con gì đó trông giống quạ. Tôi nhớ lại diễn
biến sau khi tôi cất tiếng gọi chị Saori, tại quán cà phê Rừng Trầm Uất.
“Wazuya không có ở đây đâu.”
Đầu tiên Saori nói như vậy. Câu nói khuấy động trong tôi một cảm giác
lạ lùng. Cứ như thể em trai chị chỉ đang tạm đi ra ngoài có việc, nên không
có mặt ở đây vậy. Cảm giác đau buồn rất mờ nhạt, câu nói gần với một lời
giải thích hơn.
“Em đã biết bạn ấy bị tai nạn giao thông rồi ạ.”
“Thế à…” Chị cụp mắt.
“Chị có thể cho em biết hoàn cảnh lúc Wazuya mất không?”
Sau đó tôi đã biết cái chết của Wazuya được chính thức xử lý như thế
nào.
Cách ngày hôm nay hai tháng về trước, Wazuya bị xe tông khi đang
băng qua đường. Tài xế lập tức gọi cấp cứu, nhưng Wazuya đã trút hơi thở
cuối cùng trên đường đi. Saori đã nhìn thấy thi thể anh ở bệnh viện. Tưởng
tượng đến khung cảnh đó, lòng tôi thắt lại. Đối với chị Saori, Wazuya là
máu mủ duy nhất còn lại sau khi ba mẹ mất đi.
Bi kịch xảy ra ngay trước khi tôi được phẫu thuật cấy ghép. Hiện trường
tai nạn là một con đường núi, cách chỗ này chừng mười phút đi xe.
Ở một nơi gần với hiện trường ấy, chắc chắn phải có căn biệt thự kiểu
Âu màu xanh lam của thủ phạm đã bắt cóc Aizawa Hitomi. Nếu như có ai
phải chịu trách nhiệm cho cái chết của Wazuya, thì chính là kẻ đó. Tôi cho
rằng mình phải đến hiện trường tai nạn, tìm ra thủ phạm ngay lập tức. Bởi
vì chuyện xảy ra mới tầm hai tháng, có lẽ Aizawa Hitomi vẫn còn sống.
Đọc báo cũ tôi biết được cô bé bị bắt cóc gần một năm nay. Còn Wazuya
nhìn thấy cô bé vào hai tháng trước, ứng với thời điểm anh qua đời. Suốt
mười tháng mà thủ phạm vẫn không cướp đi mạng sống của Aizawa
Hitomi, thì có khả năng bây giờ cô bé vẫn an toàn.
Nhưng tôi tự trấn tĩnh. Muốn giải cứu Aizawa Hitomi, thì phải tìm ra
căn biệt thự, lấy được chứng cứ rồi báo cảnh sát. Vừa sóng bước với Saori,
tôi vừa hạ quyết tâm ngày mai sẽ bắt đầu hành động cụ thể để tìm ra thủ
phạm. Nhưng tôi vẫn sợ. Bất an không biết mình có thể làm được không.
Trong lúc miên man suy nghĩ, chúng tôi về đến nhà bác tự lúc nào. Mắt
trái đã cho tôi biết chuyện xảy ra vào ngày Saori và Wazuya được gia đình
người bác nhận nuôi. Trước cửa ra vào có tấm bảng đề tên “Ishino”. Đây là
họ của bác ấy.
Bấy giờ điểm nhìn của Wazuya vẫn còn thấp, suy ra anh vẫn còn là trẻ
con. Chị Saori dắt tay anh bước lên nhà. Cảm giác bồn chồn truyền đến tôi
qua con mắt. Wazuya nắm chặt tay chị mình, ngước mắt nhìn những bức
tường, những món đồ không quen thuộc.
Rồi chị nhìn vào mắt tôi… Không, mắt của Wazuya, và mỉm cười.
Không sao đâu, em đừng lo lắng nhiều. Nhưng lúc đó chính Saori vẫn còn
trẻ con, hẳn là bất an không kém. Nhưng chị đã cho tôi dũng khí. Và cuộc
sống của hai chị em tại nhà Ishino bắt đầu. Bác là một người không quan
tâm đến trẻ con. Tôi từng nhìn thấy bác lái xe tải. Nên tôi tạm đoán nghề
của bác có lẽ là lái xe chở hàng. Nhưng mắt trái chưa bao giờ được chứng
kiến bác mỉm cười với hai chị em Saori và Wazuya. Bao giờ người chăm
sóc cho hai chị em cũng là bác gái.
“Đây là nhà bác chị, là nơi Wazuya đã từng sống đó.”
Chị Saori nói và bước vào trước. Có lẽ chị đi báo với bác là có tôi đến
chơi. Tôi đứng chờ trước cửa nhà. Hoàn toàn không có cảm giác nhàm
chán. Tôi lùi hẳn ra ngoài cổng, ngắm nghía ngôi nhà một lượt. Xốn xang
đến mức khó mà chịu đựng được. Hòm thư báo. Cánh cổng nhỏ bé. Một
ngôi nhà rất bình thường.
Tôi không nhớ gì nhiều về tâm trạng mình lúc tỉnh lại ở bệnh viện, và
trở về nhà cha mẹ. Có lẽ tôi chẳng cảm thấy gì cả. Nhưng khi đứng trước
ngôi nhà Wazuya từng sinh sống, hoài niệm lại ngập tràn làm cho tôi khó
thở. Đây là lần đầu tiên tôi đến đây, nhưng cảm giác như đã thân quen từ rất
lâu rồi.
Tôi cũng có vô vàn kỉ niệm với thềm nhà kia. Là những điều tôi từng
trải nghiệm qua mắt trái. Wazuya từng bước đi ở đây. Từng đến trường tiểu
học cũng từ đây, tay còn vung vẩy chiếc cặp sách. Rồi hồi cấp ba, trên
đường về nhà anh ghé vào trung tâm trò chơi, tối mịt mới chịu về, bị chị
Saori mắng mỏ cũng tại bậc thềm này.
“Nami ơi, vào nhà đi em.”
Chị Saori gọi tôi từ trên thềm. Dáng hình người chị đứng chống nạnh
quát mắng trong kí ức, và người con gái vẫy tay gọi tôi bây giờ cứ hòa lẫn
vào nhau.
“Có chuyện gì vui lắm sao?” Chị hỏi tôi, vẻ khó hiểu.
Cứ ngỡ là vào nhà người lạ sẽ phải hồi hộp lắm, nhưng kì lạ làm sao tôi
hoàn toàn không có cảm giác ấy. Sự thoải mái khi bước vào một chỗ thân
quen cứ âm ỉ trong tâm trí, tôi bước lên thềm, vào cửa chính bé nhỏ rồi đi
dọc hành lang. Tại một góc rẽ hơi gấp có cầu thang, tôi biết đi lên trên đó là
phòng của Wazuya.
Phòng khách là căn phòng kiểu Nhật rộng cỡ tám chiếu, giữa phòng có
bàn sưởi, trên bàn và xung quanh vương vãi nào tạp chí, cam quýt và điều
khiển ti vi. Một người đàn ông tóc bạc mặc áo khoác cúi đầu khi nhìn thấy
tôi. Bác Ishino đây mà.
“Chào cháu.”
Giọng ông cao hơn tôi nghĩ. Có lẽ khoảng sáu mươi tuổi. Trước khi gặp
tôi đã nghĩ ông hẳn là ghê gớm tầm vóc lắm. Bởi vì trong kí ức của
Wazuya, lúc nào ông cũng quát mắng bác gái thôi.
Thế nhưng ông già cúi đầu trước mắt tôi đây lại nhỏ bé hơn tôi nghĩ.
Tóc cũng đã bạc trắng, ông nở một nụ cười yếu ớt. Người mà tôi nhìn thấy
trong kí ức không biết là ông của bao nhiêu năm trước rồi? Người bác bây
giờ khác hẳn với những gì tôi nhớ. Không chỉ là tuổi tác cao hơn, mà còn
tàn úa mỏi mòn, chẳng có nét gì đáng gọi là sức sống nữa.
Hình như bác vẫn làm công việc giống như trước kia. Chị Saori phụ
trách mọi sinh hoạt trong nhà, cả cơm nước nữa.
“Thật tình, xin lỗi em vì nhà cửa bừa bộn nhé. Nami vẫn chưa ăn cơm
nhỉ?”
Tôi ngồi xuống bên bàn sưởi, về phần mình, làm việc gì tôi cũng có xu
hướng co rúm hai vai, như muốn giấu biệt bản thân, như e sợ sự có mặt của
mình gây phiền phức cho người khác. Phải chăng đó chính là cảm giác yếu
thế khi so sánh với Nami? Nhưng trong ngôi nhà này, thói quen xấu đó đã
cải thiện hẳn. Tôi bị cám dỗ bởi khao khát táo bạo là khua khoắng những
giá hay ngăn để đồ quen thuộc kia, là sờ soạng nhìn ngắm mọi thứ cho thỏa
thích.
Theo lời mời của chị Saori, tôi quyết định dùng bữa tối ở đây. Trong khi
chị chuẩn bị cơm nước, tôi ngồi nói chuyện với bác.
“Cháu đến thị trấn này… để thăm mộ Wazuya à?” Bác hỏi tôi.
“Vâng ạ, dù bây giờ thì hơi muộn rồi…”
Tôi đã nghĩ như vậy từ khi quyết tâm bắt đầu hành trình này.
“Thế thì cứ để Saori chỉ đường cho.”
Có tiếng chị Saori lịch kịch chén đĩa trong bếp. Gian bếp và phòng
khách chỉ ngăn cách nhau bằng một cánh cửa kéo.
“Bác ơi… Cháu đã nghe Wazuya kể rất nhiều, về chị gái của bạn ấy, và
về cả bác nữa.”
“Thế à? Tôi chẳng nghe Wazuya bảo có bạn bè nào như cháu cả.”
“Tại vì…” Tôi ấp úng.
“Cảm ơn cháu đã đến thăm.”
Nói đoạn, ông cúi đầu. Cảm xúc này lạ lùng quá. Trong kí ức mắt trái,
gần như không bao giờ người bác cười nói với Wazuya. Nhưng lời vừa rồi
của ông rõ ràng là chân thành. Tôi chẳng bao giờ tưởng tượng được là có
ngày mình sẽ cùng chị Saori và bác quây quần bên mâm cơm. Vừa nhận lấy
chén cơm tôi vừa thầm bối rối, không biết mình nên cảm kích hay là hoang
mang lúc này đây.
Bác và chị nghĩ gì về tôi nhỉ? Liệu có thấy tôi thật vô duyên vì chẳng ai
mời mà dẫn xác đến không? Nhưng rốt cuộc chẳng ai tỏ chút thái độ gì
giống vậy, đều tập trung dùng bữa, không nói câu nào. Y như thể không biết
đến sự hiện diện của nhau. Dù thực tế có ba người, nhưng cảm giác như chỉ
có một mình vậy.
Trong kí ức của tôi, bữa cơm gia đình tươi sáng hơn thế này. Chắc là vì
lúc đó bác gái vẫn còn khỏe mạnh, còn đủ bốn người bên mâm cơm chăng?
Bác và chị bây giờ trông cứ mệt mỏi tiều tụy. Tôi không cảm nhận được vị
thức ăn nữa, chỉ thấy mình buồn lòng khi quan sát hai người lẳng lặng ăn
uống mà chẳng nói năng gì như thế.
Giữa bầu không khí u uất nặng nề ấy, tôi quyết định hỏi xem Wazuya là
người thế nào.
“Là một thằng nhóc nhát gan và nhiễu sự. Học hành làng nhàng, chơi
thể thao phọt phẹt… Một đứa em trai chẳng có điểm gì đáng khen cả.” Chị
Saori trả lời.
Dù thế, sau khi tốt nghiệp cấp ba Wazuya vẫn xoay xở vào được đại
học. Xong, có lẽ học hành khó khăn quá nên anh bỏ dở giữa chừng. Trong
suốt một năm trước vụ tai nạn, anh chỉ ở thị trấn này, chẳng nghề ngỗng gì.
“Nhưng nó là một đứa trẻ tốt bụng.”
Tuy gật đầu, tôi nhận ra mình không biết gì nhiều về Wazuya. Hình ảnh
trong con mắt trái luôn là từ điểm nhìn của chính anh. Tôi chỉ nhìn thấy mặt
anh mỗi khi may mắn có một cái gương hay tấm kính phản chiếu gần đó.
Nhưng từ những mảnh vụn của kí ức, tôi biết anh không phải học sinh xuất
sắc. Và cũng không quảng giao đến mức được mọi người vây quanh. Tôi lờ
mờ cảm giác rằng anh là bản thể đối lập hoàn toàn với tôi trước khi mất đi
kí ức, tức là với Nami.
Và tôi còn cho rằng có thể đại khái nắm bắt được chân dung một người,
tùy theo ánh mắt người đó thường xuyên hướng về những thứ gì. Giống như
là cùng một khung cảnh nhưng được chụp qua máy ảnh của nhiều người, thì
mỗi tấm ảnh rửa ra sẽ khác nhau vậy.
Vậy thì thứ mà Wazuya thường xuyên hướng tới là cái gì? Tôi không
thể đưa ngay ra câu trả lời.
Tôi đứng dậy, bước về phía nhà vệ sinh. Tôi tranh thủ rửa mặt, và nhìn
vào chiếc gương đặt trên bồn. Có lẽ con mắt không được chôn cất cùng
Wazuya này đã xốn xang hoài niệm khi được quay lại đây chăng? Bên cạnh
bồn rửa mặt là bàn chải đánh răng của Wazuya, hai tháng qua không ai
động đến. Tất nhiên chi tiết vụn vặt như vậy chưa hề xuất hiện trong kí ức
của mắt trái, nhưng không hiểu sao tôi vẫn cảm giác đây là đồ vật anh từng
dùng.
Khi quay trở lại phòng khách, tôi thấy bác và chị nhìn mình bằng vẻ
ngạc nhiên.
“Cháu giỏi thật nhỉ, biết được cả nhà vệ sinh. Thường ai đến nhà này
cũng bị lạc cả.”

Tôi xin được ngủ ở phòng khách. Chị Saori mở tủ quần áo lấy chăn.
Nhưng có một việc tôi muốn làm trước khi đi ngủ. Còn đang bối rối chưa
biết mở lời thế nào, chị Saori đã hỏi, “Em làm sao thế?”
Nhờ vậy mà rốt cuộc tôi đã thu đủ quyết tâm để lên tiếng, “Xin hãy cho
em xem phòng của Wazuya ạ.”
Chị Saori tròn mắt ngạc nhiên, rồi nở nụ cười.
Phòng của Wazuya vẫn được giữ nguyên trạng như tôi từng thấy.
“Chị đang quét dọn lại.” Chị Saori nói trong khi tôi nhìn quanh quất.
“Còn phơi phóng chăn chiếu nữa, dù biết làm thế cũng có để làm gì đâu…”
Có một bộ trò chơi xếp hình lớn. Tấm ảnh xếp hoàn chỉnh là một đứa
trẻ con ngồi trên yên xe máy, ôm con dê nhồi bông. Nhìn thấy nó, mắt trái
của tôi bất giác nóng lên. Chiếc hộp kí ức mở ra, và thứ Wazuya từng nhìn
thấy sống dậy.
“Bộ xếp hình này bị thiếu mất một mảnh ghép, có hồi cả nhà cứ nháo
nhào lên…”
Tôi vô thức thì thầm thành tiếng. Chị Saori gật đầu.
“Rốt cuộc nó ở trong máy hút bụi. Cũng tại chị tự tiện dọn dẹp phòng
này.”
Vậy sao, hóa ra đó là lý do họ cãi nhau à. Tôi vỡ lẽ. Trong mắt trái của
tôi, Wazuya đang ỏm tỏi với chị Saori bấy giờ vẫn còn phảng phất đường
nét trẻ con. Do không có âm thanh nên tôi không biết được cả hai đang nói
những gì.
Chị Saori xì mũi bằng hộp khăn giấy để trong phòng, buồn bã nói,
“Wazuya kể cho em nhiều chuyện quá nhỉ.”
Kí ức về trò chơi xếp hình kết thúc, mắt trái chiếu sang kí ức khác ngay.
Hàng loạt kí ức sống lại cùng lúc, mặc kệ ý muốn cá nhân của tôi. Chiếc
bàn, quyển sách, thảy đều trở thành chìa khóa, thu hút những hình ảnh bay
túa ra khỏi chiếc hộp. Những lúc cười vui và cả những ngày giận dữ, cứ thế
thấm dần vào lồng ngực tôi.
Các hình ảnh không nhoang nhoáng như ánh chớp, mà được phát với
tốc độ bằng thời gian ngoài hiện thực. Vì vậy tôi cùng lúc chứng kiến cả
quá khứ và hiện tại của căn phòng. Trong mắt trái, Saori thời thơ ấu đang
mỉm cười, nhưng trong mắt phải chị lại đang buồn bã.
Chị Saori ngồi xuống giường Wazuya, “Ai nói cho em biết là em trai chị
chết thế?”
Tôi bối rối. Nên trả lời là ai bây giờ? Trong khi tôi đang tìm kiếm một
câu trả lời nghe thật tự nhiên, chị Saori đã nói tiếp, “Cảnh sát bảo, có khi là
nó tự sát.”
Tôi không tin vào tai mình. Tôi đã đoán cái chết của Wazuya sẽ được xử
lý như một vụ tai nạn giao thông, nhưng đến mức này thì thật không tưởng
tượng được.
“Tài xế đâm vào Wazuya có nói, đột nhiên nó lao thẳng ra giữa đường.
Với lại trước vụ tai nạn ít lâu, trông thằng bé cũng kì lạ lắm. Nó cứ ôm đầu
như thể suy nghĩ mông lung. Xem chừng tâm trạng không được thoải mái.”
Chị Saori nhìn tôi như mong chờ. “Chị chỉ nghĩ biết đâu Wazuya đã tâm sự
với em, rằng nó đang phiền não chuyện gì…”
Lồng ngực thắt lại, tôi đoán được một điều có thể là phiền não của
Wazuya. Hẳn là do anh đã biết về cô bé bị bắt cóc. Con mắt của Wazuya
cho tôi thấy kí ức về Aizawa Hitomi. Hình ảnh anh cố chạy trốn, rồi bị xe
hơi tông phải. Chắc hẳn anh đã ấp ủ suy nghĩ về cô bé bị giam cầm trong
biệt thự từ vài ngày trước biến cố đó rồi. Dường như anh không chia sẻ với
ai về Aizawa Hitomi. Có lẽ anh cũng giống tôi bây giờ, đang chờ thu thập
bằng chứng vững chãi để báo cảnh sát. Vì vậy mới có thái độ không tự
nhiên. Tôi nghĩ như vậy.
“Không phải là tự sát đâu ạ.”
Tôi nói dứt khoát. Saori nhìn chằm chằm vào mắt tôi. Đầu tiên là vẻ
kinh ngạc. Nhưng cũng chỉ trong khoảnh khắc, rồi vẻ kinh ngạc tan biến.
Chị Saori thở dài thườn thượt.
“Ừ, làm sao mà nó tự sát được.” Chị nhìn xuống dưới, nói với giọng
như thì thầm. “Chị… không biết tại sao nữa, nhưng lúc Wazuya mất đi chị
đã không khóc. Đến tận bây giờ, vẫn không có chút buồn bã ghê gớm nào.
Mọi người xung quanh đều khóc cơ mà, tại sao chị là chị của nó mà lại thản
nhiên cơ chứ? Tại sao lại thế nhỉ?”
Từ lúc nào chị đã mân mê thứ gì đó trong tay. Nhìn kĩ hơn thì đó là
chiếc đồng hồ đeo tay mà Wazuya đã rất trân trọng. Đồng hồ màu vàng
kim, dây đeo đã hỏng. Nhận ra tôi đang nhìn, chị Saori bèn nói.
“Đây là món quà mà chị tặng, vào ngày lễ trưởng thành của thằng bé.”
Có lẽ chị không biết, Wazuya rất trân trọng chiếc đồng hồ này. Đến cả
khi dây đeo đã hỏng, anh vẫn bỏ trong túi mang theo mình.
“Lúc tai nạn xảy ra, nó đã dừng lại. Mãi mãi chỉ vào thời khắc Wazuya
chết.” Chị Saori đưa chiếc đồng hồ cho tôi, “Hay là em giữ nó đi?”
Tôi lắc đầu.
“Em muốn chị Saori giữ nó ạ.”
Chắc chắn Wazuya muốn thế. Hơn nữa, tôi vốn đang nắm giữ một kỉ vật
quý giá của Wazuya rồi.
Chị Saori đứng dậy.
“Ngày mai mình đi thăm mộ Wazuya nhé.”
Tôi gật đầu. Tôi muốn đi xem thế nào.
Chúng tôi rời khỏi phòng anh, bước xuống cầu thang. Nửa chừng, Saori
quay sang nói với tôi, “Hồi nãy nhìn thấy mắt em, chị giật cả mình. Sao mà
lại giống Wazuya đến thế…”
Anh yên nghỉ ở cùng một khu mộ với ba mẹ mình. Nghĩa trang đó nằm
cách xa thị trấn, từ nhà bác phải đi bộ một giờ đồng hồ mới tới nơi.
“Nếu em muốn đi ô tô thì để chị nhờ người quen có bằng lái…”
Chị Saori chưa có bằng lái xe. Tôi đề nghị cả hai đi bộ.
Vô số những ngôi mộ tô điểm chân một ngọn núi có phong cảnh đẹp. Vì
số lượng mộ quá nhiều nên tôi không thể biết được cái nào là của Wazuya.
Con đường đá sỏi len lỏi đi qua những ngôi mộ được sắp đặt đúng quy
tắc. Chị Saori chọn đúng một nhánh của con đường đó mà đi, không hề do
dự. Dù không có một dấu mốc nào nhưng chị vẫn biết đâu mới là đường
đúng. Tôi cũng vội rảo chân theo để không bị tụt lại.
Khu mộ của nhà Fuyutsuki nằm ở rìa ngoài nghĩa trang. Chị Saori quét
dọn đống lá rụng. Rồi chúng tôi chắp tay, cúi lạy trước bia mộ của anh. Tôi
thầm cảm ơn Wazuya từ tận đáy lòng mình. Cảm ơn anh vì đã cho tôi con
mắt.
Những kí ức của anh thực sự đã cứu rỗi tôi. Đối với một kẻ không có gì
như tôi, những kí ức ấy gần như là tất cả.
Tôi nhớ lại khoảnh khắc ba mẹ anh ra đi. Là kí ức đau thương tôi đã
nhìn thấy khi ở khu vực bán dụng cụ.
“Số phận ba mẹ chị bạc bẽo lắm.” Trên đường từ nghĩa trang về, chị
Saori vừa xì mũi vừa nói. “Sợi dây thừng buộc đống gỗ to tròn trên xe… tự
nhiên đứt phựt ra.”
Chúng tôi hướng đến quán cà phê Rừng Trầm Uất, cắt ngang đoạn quốc
lộ chạy qua giữa thị trấn, dọc hành trình có vài địa điểm từng xuất hiện
trong mắt trái tôi.
“Wazuya đã phải chứng kiến khoảnh khắc hai bác gặp tai nạn nhỉ…”
Chị Saori khựng lại, sửng sốt quay sang nhìn tôi, “Nó nói với em như
thế à?”
Bối rối trước biểu cảm của chị, tôi gật đầu.
“Theo lời những người có mặt ở đó, thì đúng là như vậy. Nhưng thằng
bé có nhớ đâu. Nó khăng khăng bảo là mình không nhìn thấy lúc ba mẹ gặp
tai nạn. Chị nghĩ có lẽ vì kí ức quá kinh khủng, nên tiềm thức nó đã quên đi
như một cơ chế tự vệ.”
Tôi hiểu ý chị. Bởi vì tôi cũng thế. Nhưng dù đầu óc lãng quên, hình
ảnh ăn sâu vào võng mạc vẫn không thể nào tẩy xóa được.
“Nguyên nhân gây ra cái chết của ba mẹ chị, là vì cậu trai trẻ mới vào
xưởng gỗ làm mùa đó.”
“Cậu trai trẻ…?”
“Người buộc dây thừng là một cậu con trai vừa tốt nghiệp cấp ba.
Nhưng cách buộc của cậu ta quá vụng về…”
Chị Saori không hề lộ vẻ căm hận người đó. Mà dường như còn mang
chút thương cảm, rằng anh ta cũng là một người tội nghiệp trong vụ việc.
Từ nghĩa trang đến Rừng Trầm Uất lại mất tiếp một tiếng đi bộ.
Đường phố hết sức quen thuộc dù tôi mới đi qua lần đầu. Cửa hàng văn
phòng phẩm hay hàng bán gạo vẫn không thay đổi gì so với kí ức của
Wazuya. Tôi còn nhìn thấy cả hàng bánh kẹo. Trong nhà tối om đến mức
chẳng biết có đang kinh doanh hay không. Trên giá vẫn sắp những gói kẹo,
nên hẳn là nơi này chưa sập tiệm. Nhưng tôi cảm giác trên mỗi gói kẹo đều
bám một lớp bụi mỏng.
“Ghé vào không? Ngày xưa chị với Wazuya cũng hay đến đây mua kẹo
lắm.”
Khi chúng tôi bước vào cửa hàng, từ góc nhà có một bà lão đi ra. Hình
như bà đang ngồi đó xem ti vi.
“Bà ơi, vẫn y như xưa nhỉ.”
Chị Saori toét miệng cười tinh quái. Nếu phải miêu tả thì khuôn mặt chị
lúc này nhìn giống hệt một con mèo. Còn bà lão thì trông không già hơn
chút nào so với kí ức hồi thiếu niên của Wazuya. Chúng tôi mua vài cây kẹo
que ở cửa hàng, rồi vừa mút mát vừa đi tiếp.
Chị Saori xì mũi, vai run lẩy bẩy. Cục giấy xì xong bị chị ném toẹt
xuống đường.
“Rác vứt bừa bãi thế có sao không chị?”
“Chị tin là rồi nó sẽ trở về với đất mẹ.”
Một kiểu lý lẽ không đầu không cuối, được chị nói ra với mục đích là
thuyết phục tôi. Còn tôi thì hiểu rằng đơn giản là chị lười không muốn cầm
về nhà.
Tôi ngắm nhìn mấy cây cột điện đứng san sát nhau giữa đồng cỏ khô.
Đang đi, thỉnh thoảng chị Saori lại cúi đầu chào người đi ngang qua. Ánh
mắt bọn họ liếc đến tôi đều mang vẻ lạ lẫm kiểu “Không biết con bé kia là
ai nhỉ?”.
Về phần mình, tôi có cảm giác như đã sống ở thị trấn này từ rất lâu rồi.
Bởi vì xung quanh đều là những khung cảnh quen thuộc. Nên phải đến lúc
chứng kiến biểu cảm ấy trên khuôn mặt người ta, tôi mới được nhắc nhở
rằng đối với thị trấn này, mình chỉ là một người khách vãng lai.
Khách vãng lai. Cụm từ ấy thấm dần vào lòng tôi. Tôi nhận ra bản thân
mình giống một người lữ hành lang bạt, đã từ nơi nào đó lạc vào thế giới
này vì một sai lầm trong quá khứ. Bởi vì mặc dù tôi chính xác là Nami,
nhưng tôi lại cảm giác rằng mình không phải là con người ấy. Vậy thì tôi là
cái gì? Tôi từ đâu đến? Có đôi lúc những suy nghĩ như vậy lại manh nha
trong tâm trí tôi. Vì một sự ngẫu nhiên nào đó mà tôi đã tìm đến thế giới
này, và hiện đang có mặt tại Kaedecho. Tôi là khách vãng lai.
Mây phủ kín đặc bầu trời, chỉ le lói vài tia nắng yếu ớt. Giữa ban ngày
mà tiết trời vẫn ảm đạm. Cảm giác như sắp có tuyết rơi.
Toàn thị trấn chìm trong im lặng. Bầu không khí lạnh lẽo phủ lên những
con đường khô ráo. Gió nhẹ luồn lách qua hàng lưới mắt cáo bằng kim loại,
làm rung rinh những cành cây cằn cỗi. Chúng tôi chỉ thấy thưa thớt người,
và cũng hiếm có ai đang cười nói.
Một cảm giác hiu quạnh. Như thể sinh khí sẽ tan biến đi, và tất cả đờ
đẫn tiến dần đến cái chết. Một thị trấn màu sương khói, có thể về với hư vô
bất cứ lúc nào.
Còn khoảng năm phút nữa là đến Rừng Trầm Uất, chị Saori đứng lại,
“Mình đi đằng này một tí nhé.”
Chúng tôi rẽ sang một đường nhánh, tiến về phía ngọn núi. Đường
nhánh xuyên qua một triền núi thoai thoải, càng đi tới lại càng cao hơn thị
trấn. Một bên đường là rừng cây, bên kia cũng là rừng, nhưng lắp thêm rào
chắn bảo vệ. Không khí đặc quánh vì mùi của cây cối. Tôi ngẩng đầu lên,
thấy những cây tuyết tùng hai bên đứng sừng sững chọc thẳng lên bầu trời
xám xịt.
Đi được một lúc thì chị Saori dừng lại. Chị hạ ánh mắt xuống mặt
đường phủ bê tông, và im lặng. Bây giờ thì tôi đã hiểu ra. Đây chính là nơi
chấm dứt sinh mệnh của Wazuya.
Khuôn mặt chị Saori không có một chút cảm xúc nào. Tôi cũng không
biết được mắt chị đang nhìn thứ gì trên mặt đường. Tôi nhớ lại lời kể của
chị, rằng đã không khóc khi trông thấy thi thể của Wazuya. Mọi người đều
đau buồn, chỉ riêng bản thân mình là không rơi một giọt nước mắt…
Theo tôi cảm nhận, trái tim chị đã như một cái lỗ to trống hoác. Bởi vì
tất cả đã rời xa, không còn gì khác ngoài màn đêm thăm thẳm vô đáy. Phải
chăng chị Saori chưa bao giờ thoát khỏi cú sốc vì mất em trai? Trông chị
mới mong manh làm sao, như thể sẽ tan biến ngay trong giây phút này. Khi
tôi nắm chặt tay chị Saori, chị quay sang nhìn tôi với ánh mắt kinh ngạc.
Tôi không biết mình đang đau buồn vì chuyện gì, vì cái chết của
Wazuya hay vì chị Saori? Chỉ biết cơn đau vẫn cứ âm ỉ trong lồng ngực.
Tôi nhìn lên phía trên ngọn núi. Nếu tiếp tục đi dọc theo triền dốc, chắc
sẽ tìm thấy căn biệt thự xây bằng gạch trần màu xanh lam. Kí ức trong mắt
trái của tôi là như vậy.
Chúng tôi lặng lẽ đứng bên nhau, không ai nói với ai một lời. Rừng
tuyết tùng dày đặc bao trùm lấy nơi Wazuya mất đi mạng sống của mình.

Khi chúng tôi mở cửa quán cà phê, tiếng chuông reo vang vọng bên
trong ngôi nhà. Bầu không khí được ủ ấm bằng máy sưởi khiến chúng tôi
nhẹ nhõm hẳn.
“Đang ở ngoài lạnh tự nhiên vào chỗ ấm thế này, nước mũi tan ra hết
rồi.” Chị Saori vừa nói vừa cúi đầu chào ông Kimura chủ quán.
“Nước mũi mà cũng tan được sao?”
“Thì nói chung có cái gì đó như nước cứ chảy ròng ròng.”
Dứt lời, chị hỉ mũi. Vì đang ở trong quán nên chị phải vứt vào sọt rác.
Người đàn ông đưa tôi đến đây hôm qua giờ đang ngồi bên quầy. Ban
đầu anh ta cúi gằm mặt, đưa chiếc cốc lên miệng nhâm nhi, nhưng thoáng
thấy Saori anh ta đã ngồi thẳng dậy.
“Chị Saori!” Anh ta vẫy tay với nét mặt tươi tỉnh.
“A, chào quý khách.” Chị Saori đáp lại.
Sau đó tôi được biết người đàn ông tên là Sumida. Hình như là bạn của
chị Saori. Lúc còn sống Wazuya chỉ giao thiệp với anh ta được chừng một
năm nên không có nhiều hình ảnh hằn vào võng mạc. Ít lâu sau, tôi nhìn
thấy hai người đó đi chơi với nhau.
Sumida và Wazuya quen biết vào năm ngoái. Sumida đã dìu Wazuya
say mèm trước cửa nhà ga đến quán này, nơi chị Saori làm việc. Nghe bảo
hôm đó hai người tình cờ chạm mặt tại quán rượu, và nói chuyện rất tâm
đầu ý hợp.
Sau khi Wazuya qua đời, Sumida vẫn thường qua lại Rừng Trầm Uất.
“Bên trường đại học có sao không thế?” Chị Saori cất tiếng hỏi Sumida.
“Không sao đâu. Hôm nay là ngày nghỉ mà.”
Mặt anh ta đỏ lựng. Từ ngoài nhìn vào mới thấy con người này ruột để
ngoài da đến mức nào.
“Rất cảm ơn anh vì hôm qua ạ.”
Tôi chào hỏi anh ta. Sau khi biết anh là bạn của Wazuya, tôi cảm thấy
anh gần gũi hơn nhiều.
“Chuyện của cô tôi đã nghe bác chủ quán nói rồi.” Sumida nở nụ cười
cầu tài.
Tôi ngồi vào bàn, quan sát chị Saori và Sumida nói chuyện với nhau
qua quầy hàng. Ông chủ quán giống-con-gấu Kimura mang cốc sữa nóng
đến cho tôi. Uống sữa xong, người tôi ấm áp hẳn lên.
Lúc nói chuyện với Sumida, chị Saori khác hẳn hồi nãy, không còn cúi
gằm mặt xuống nữa. Giọng nói và thái độ tươi tỉnh như thể đã quên béng
đứa em trai. Tuy khá bối rối, nhưng tôi cũng cảm thấy chị cứ thế này thì tốt
hơn.
Người đàn ông tên Shiozaki ngồi trong góc quán hôm qua nay chẳng
thấy đâu, nhưng bà bác Kyoko thì đang ngồi ở vị trí quen thuộc của mình.
Khi mắt chúng tôi giao nhau, bà mỉm cười vẫy tay gọi, “Cháu là bạn gái của
em trai Saori đúng không?”
“Dạ?”
“Kimura bảo với tôi thế mà.”
Hiểu rồi. Câu chuyện đã tam sao thất bản thành như vậy.
“Cháu… chỉ bảo mình là bạn của bạn ấy thôi mà…”
Tôi không dám nhìn thẳng vào mắt bà. Vì chính tôi cũng biết là mình
đang đỏ mặt, nên không muốn bị ai trông thấy cả.
“Tôi mới chuyển nhà đến Kaedecho, cũng mới lui tới quán này được vài
tháng thôi, chưa có dịp nói chuyện nhiều với cậu Wazuya.”
Tôi tự hỏi không biết bà Kyoko đã từng xuất hiện trong kí ức của con
mắt trái chưa. Nhưng hiện ra trước tiên chỉ toàn là những con người thân
thuộc, như bác trai hay ông chủ quán.
“Ông trời thật không có mắt. Cháu cố gắng lên nhé. Con tôi ở nhà cũng
tầm tuổi cháu.”
Bà Kyoko nắm chặt tay tôi. Những ngón tay thô ráp đầy nếp nhăn.
Tôi ngồi uống sữa ở quán thêm một lúc. Rồi ra tính tiền để chuẩn bị rời
đi.
“Không cần đâu, quán đãi.” Ông Kimura nói.
“Nami, em đi đâu thế?”
“Đi dạo quanh một chút thôi ạ.”
“Nhớ đừng thành trẻ lạc nhé.”
Trước vẻ lo lắng thực sự của chị Saori, tôi cười gật đầu. Chị đã nói rằng
tôi có thể ở lại nhà bác đến bao giờ cũng được.
Tôi bước chân ra khỏi quán. Thân nhiệt được làm ấm nhờ máy sưởi
trong quán bây giờ lại dần dần lạnh đi. Tôi hướng đến hiện trường tai nạn
của Wazuya mà hồi nãy chị Saori đã chỉ chỗ. Trên đường đi, tôi suy nghĩ về
cuộc đời của anh. Đã từng có kí ức mà trong đó, anh đứng khóc một mình
giữa sân trường rộng lớn. Vòm trời cùng cây cối xinh đẹp từng vây quanh
anh, giờ sống lại trong tâm trí tôi.
Tôi rất yêu mến Wazuya. Bao nhiêu hình ảnh anh từng nhìn thấy đã
cuồn cuộn chảy sang tim tôi. Trong một cuộc đời, người ta có thể ghi vào
mắt mình bao nhiêu hình ảnh?
Tôi phải tìm ra thủ phạm. Và cho kẻ đó biết. Rằng trong những cuộc đời
hắn cướp đi, đã tồn tại một thứ giá trị đến mức nào.
Nơi Wazuya trút hơi thở cuối cùng có nhiệt độ thấp hơn hẳn những địa
điểm khác. Trên đầu là rừng tuyết tùng phủ kín, lại thêm mây mù nên khung
cảnh thành ra tranh tối tranh sáng. Thỉnh thoảng có tiếng chim đập cánh
vang vọng từ những góc xa của khu rừng.
Người tôi run rẩy. Hai tháng trước, Wazuya ngã gục trên mặt đường
này. Tôi đã chứng kiến khoảnh khắc anh chết đi. Nhìn thấy tên thủ phạm
đuổi theo trốn dưới bóng cây, trong khi Wazuya thoi thóp vì bị ô tô tông
phải.
Dù vẫn sợ hãi, nhưng tôi cố ép mình phải dũng cảm. Từ hiện trường tai
nạn tôi ngoặt vuông góc khỏi con đường, đặt chân lên triền dốc có rừng
tuyết tùng, hướng đến đỉnh núi. Mặt đất mềm mại vì phủ dày lá tuyết tùng
rụng. Trong kí ức của Wazuya, anh đã mất đà ngã trên triền dốc, vì thế mới
lao ra giữa đường. Và tôi đang lần ngược lại con đường mà có lẽ anh đã đi.
Mãi mà căn biệt thự gạch trần xanh lam không chịu xuất hiện trước mắt
tôi. Vô số cây tuyết tùng trước mặt cản trở tầm nhìn của tôi, y như những
cột trụ san sát vậy. Tôi đi xuyên qua khoảng cách giữa chúng. Tôi đã tưởng
cứ vận động thế này thì cơ thể mình sẽ ấm lên, và cái lạnh thấu xương sẽ
tan biến, nhưng hóa ra không phải vậy. Cứ mỗi bước chân, không khí rét
buốt lại cướp đi thân nhiệt của tôi, tưởng như rừng tuyết tùng trầm mặc
đang hút lấy hơi ấm của tôi cho bản thân nó.
Tôi đút hai bàn tay nắm chặt vào túi áo khoác. Trong đó có chiếc máy
ảnh chụp lấy ngay. Tôi sẽ dùng nó để chụp ảnh bằng chứng, rồi đưa cho
cảnh sát. Không biết còn nhìn thấy Aizawa Hitomi qua cửa sổ phòng ngầm
như Wazuya từng nhìn thấy không nhỉ?
Đúng lúc đó, tôi vấp phải một chuyện không thể nào tin nổi. Tôi đã
tưởng rằng từ hiện trường tai nạn đi thẳng lên dốc thì sẽ đến được căn biệt
thự nơi có kẻ thủ ác kia. Thế nhưng, trước mắt tôi là một bức tường bê tông
cao phải đến ba mét. Trên bờ tường là thanh chắn bảo vệ. Nghĩa là ở đó có
đường xe chạy. Tôi nhìn sang trái, rồi sang phải, chỉ thấy tường trải xa tít
tắp.
Tôi bối rối. Trong kí ức của Wazuya thì mọi chuyện như thế nào nhỉ?
Anh đã lao ra đường vì bị ngã trên triền dốc sau chặng chạy vào cánh rừng
bên hông biệt thự. Thế anh có chạy xuyên qua một con đường nữa, nhảy
qua thanh chắn bảo vệ và rơi xuống khỏi tường bê tông không? Trong kí ức
rõ ràng không có cảnh tượng nào như thế cả.
Nơi đây là đâu thế này? Hết cách, tôi đành chầm chậm đi dọc theo bức
tường, tìm một chỗ có thể leo lên con đường phía trên. Lồng ngực thắt chặt
vì ức chế, như muốn nói rằng không thể có chuyện thế này được. Căn biệt
thự đã biến mất, và thay vào đó là bức tường bê tông. Tôi không có thời
gian để suy ngẫm lý do.
Cuối cùng sau mười phút đi bộ, bức tường dần thấp xuống, con đường
phía trên cũng gần với mặt đất tôi đang đứng hơn, ngoằn ngoèo xuyên vào
rừng tuyết tùng. Dường như nếu cứ tiếp tục đi thẳng trên con đường
Wazuya gặp nạn, thì sẽ dẫn tới con đường trên bức tường này.
Tôi trèo lên mặt đường từ chỗ tường chỉ còn thấp ngang hông mình,
khom người chui qua thanh chắn bảo vệ. Tôi đã bỏ lỡ căn biệt thự của thủ
phạm. Theo thời gian, dần dần tôi hiểu ra đó là một sai lầm chí mạng đến
mức nào.
Cứ thế này thì tôi sẽ không thể đến được nơi có Aizawa Hitomi. Nói về
cách tìm ra căn biệt thự, tôi mới chỉ nghĩ đến việc lần ngược theo hướng
Wazuya đã đi tính từ hiện trường tai nạn của anh thôi. Đáng lẽ cứ làm như
vậy thì tự nhiên sẽ đến được biệt thự. Nhưng thực tế thì không thấy đâu. Tôi
không biết phải làm sao, đành tạm bước theo con đường dọc triền dốc
hướng về phía thị trấn.
Hôm đó, tôi loanh quanh trong thị trấn cho đến khi mặt trời lặn. Mắt trái
tôi nóng lên trước nhiều cảnh vật, như trước máy bán hàng tự động cũ đã
hỏng, và mang về những kí ức của Wazuya thời niên thiếu. Nhưng tôi
không còn manh mối gì về căn biệt thự có kẻ thủ ác, và cũng chẳng có một
ý tưởng hợp lý nào về tình trạng không ăn khớp giữa hiện thực và kí ức của
Wazuya.
Chỉ có một tin đồn của lũ trẻ con cấp một, mà tôi nghe được tại chỗ bán
kẹo trong siêu thị, là khiến tôi lưu tâm. Bởi vì đó là một câu chuyện là lạ.
“Nói thật mà, em họ tớ thấy từ lâu lắm rồi!”
Đứa trẻ vừa nắm chặt túi đựng kẹo, vừa khẳng định với bạn mình. Từ
ngoài nhìn vào tôi cũng biết tất cả còn đang bán tín bán nghi. Giọng nói
phấn khích của lũ trẻ cứ tự nhiên tìm đến tai tôi, trong khi tôi còn đang phân
vân không biết nên mua sô cô la loại gì.
“Con chó ấy bị xe chẹt mất nửa thân dưới, thế mà mãi vẫn không chết
đấy!”
“Đừng xạo. Làm sao có chuyện như thế được.” Một trong mấy đứa
đang nghe phản bác.
“Nhưng nó bảo tớ là thấy thật mà. Con chó ấy bò đi bằng hai chân
trước, nét mặt vẫn tươi tỉnh như chẳng có gì xảy ra. Ruột gan cứ phòi ra
từng cục, từng cục, rơi thẳng xuống mặt đường. Còn mỗi đầu và tim, con
chó đó vẫn sống được gần hai tiếng đồng hồ, mãi đến khi bị chiếc mô tô đi
tới cán nát tim nó mới chết…”
4

Tỉnh giấc vì tiếng bước chân ngoài hành lang, tôi bò ra khỏi tấm đệm
trải trong căn phòng kiểu Nhật của nhà Ishino. Căn phòng trống không, chỉ
có chiếu lót nhà, chăn và cái ba lô tôi mang theo người. Tôi vừa dụi mắt
vừa đi ra phòng khách, thấy bác Ishino đang ở đó.
“Cháu chào bác…”
Nói xong, tự nhiên tôi thấy ngượng ngùng chẳng vì lý do gì cả. Lúc này,
tôi cảm giác như bác là một người họ hàng thực sự của mình. Nhìn thấy tôi,
bác giật mình, những nếp nhăn đột ngột hiện ra trên mặt cứ như bị ám khói
thuốc lá.
“Cháu mặc bộ quần áo ấy, làm tôi tưởng thằng Wazuya quay về.”
Bác trỏ bộ đồ ngủ tôi đang mặc. Chị Saori đã chuẩn bị cho tôi, chính là
quần áo Wazuya từng mặc vào hồi lớp Bảy.
Công việc bác làm là chất những thân tuyết tùng bị chặt hạ lên xe tải,
rồi chở đến xưởng chế biến gỗ. Hôm nào bác cũng đóng bộ đồ bảo hộ lao
động cũ kĩ rung rúc, lái chiếc ô tô nhỏ đến chỗ làm. Tôi gọi bác lại khi bác
đang chuẩn bị lên xe.
“Cháu có thứ này muốn bác xem ạ.”
Tôi lấy ảnh Aizawa Hitomi ra, đưa cho bác xem. Tôi đã tự tiện cắt nó từ
tờ báo cũ tìm được trong thư viện.
“Bác đã bao giờ thấy cô bé này ở quanh đây chưa ạ?”
“Cháu tìm người à?” Bác rời mắt khỏi tấm ảnh, rồi nhìn tôi.
“Cũng gần gần như thế ạ.”
“Tôi chưa thấy bao giờ…”
Bác gãi gãi mái tóc bạc trắng, lắc đầu. Tôi hỏi cả chị Saori. Lúc đó chị
đang dọn dẹp sau bữa sáng, vẫn để ti vi bật, nhưng chị cũng không biết gì
về người trong tấm ảnh.
“Thế em định làm gì cho qua ngày hôm nay?” Chị nói.
“Em sẽ đi lòng vòng quanh mấy nơi mà Wazuya hay kể.”
“Em muốn ở lại đến bao giờ cũng được. Không hiểu sao chị chẳng thể
nào coi em như người ngoài. Cứ như Wazuya vẫn đang ở đây ấy. Từ cách đi
đứng đến ăn uống đều giống cả.”
“Chị Saori hôm nay cũng làm ở quán cà phê ạ?”
Chị vừa vặn vòi nước vừa gật đầu, “Từ ngày Wazuya mất, chị chỉ loanh
quanh từ nhà đến quán thôi. Chẳng làm gì khác cả. Tuần một lần chị cũng
đi đưa hạt cà phê cho những nhà đặt hàng, nhưng đều không thò chân ra
khỏi thị trấn.”
Chị Saori dừng tay, thẫn thờ nhìn nước máy chảy xuống thành dòng. Ti
vi đang bật, phát chương trình buổi sáng. Khi đến góc bói toán, chị tắt vòi
nước, chạy vội đến trước màn hình ti vi.
“Ôi bỏ mẹ. Cung Xử nữ hôm nay vận khí xấu quá.”
Chị vừa hỉ mũi vừa nói. Sau khi giao chìa khóa sơ cua của nhà cho tôi,
chị lên đường đến Rừng Trầm Uất.
“Chị tin người lạ thế này có ổn không đấy?” Tôi hỏi chị khi nhận chìa
khóa.
“Thử thó đồ xem, biết tay chị ngay!”
Nói cái gì vậy trời, tôi nghĩ trong lúc tiễn chị đi, xong quay lại chỗ lò
sưởi, bắt đầu phân tích xem tại sao hôm qua không thể đi từ hiện trường tai
nạn đến biệt thự. Tôi cố hồi tưởng cảnh tượng đã thấy tại thư viện một lần
nữa. Là hình ảnh được hồi sinh nhờ chân dung của Aizawa Hitomi, kéo dài
cho đến khi Wazuya bị xe đâm. Đã mười ngày từ lúc chứng kiến những sự
kiện ấy. Tôi lấy tập tài liệu ra, đọc lại những ghi chép liên quan.
Đầu tiên Wazuya nhìn vào cửa sổ gần mặt đất của phòng ngầm. Anh
nhìn thấy Aizawa Hitomi ở bên trong. Rồi ngó một lượt xung quanh, biết
được rằng đây là một căn biệt thự xây bằng gạch trần màu xanh lam.
Đến đây tôi nhận ra là mình chưa bao giờ nhìn thấy toàn cảnh biệt thự.
Không biết mái nhà với cửa chính của nó có hình thù thế nào?
Cứ quay lại vấn đề chính đã. Wazuya dùng chiếc tuốc nơ vít để cố mở
cửa sổ căn phòng nhốt Aizawa Hitomi, nhưng rồi anh phát hiện có ai đó
đang tới. Hành động bại lộ, anh phải chạy trốn vào khu rừng ở bên hông
biệt thự.
Từ đoạn này mới là vấn đề. Anh đã nhảy khỏi bức tường bê tông ngăn
cách đường tôi đi hôm qua chăng? Nhưng ở đây chẳng có ghi chép gì như
thế cả. Anh đã lao vào khu rừng từ sát cạnh biệt thự, chạy qua rừng, rồi bị
ngã ở triền dốc. Hiện trường tai nạn là ở đó.
Cân nhắc một lúc, tôi nhận ra một khả năng. Xác Wazuya đã bị thủ
phạm di chuyển vì một lý do nào đó. Nếu thế thì có thể giải thích mâu thuẫn
giữa kí ức trong mắt trái và hiện trường tai nạn mà mọi người nói cho tôi
ngoài hiện thực.
Không, không phải. Tôi đến phát chán với sự ngốc nghếch của mình.
Tài xế đâm phải Wazuya đã gọi xe cấp cứu ngay tại đó. Thủ phạm làm gì
thì tài xế phải biết ngay chứ. Hắn không thể lộ mặt để di chuyển xác chết
được.
Tôi bắt đầu nghĩ đến khả năng trước đây không có bức tường bê tông.
Tức là lúc Wazuya mất, nơi đó vẫn chỉ là một triền núi bình thường. Vì vậy
Wazuya mới chạy thẳng xuống theo rừng tuyết tùng được. Sau khi anh chết
đi người ta mới xây dựng, làm đường trải nhựa chạy xuyên qua rừng, có
thanh chắn và bên dưới là bức tường bê tông.
Tôi cho rằng chỉ cần đi hỏi là sẽ kiểm tra được suy đoán của mình ngay.
Cứ hỏi xem hai tháng trước đã có con đường đó chưa. Sau khi sắp xếp lại
dòng suy luận, tôi đến quán cà phê để hỏi cho chắc. Những người tôi quen
biết trong thị trấn này đều ở nơi đó cả. Xem đồng hồ mới biết thời gian qua
nhanh hơn mình nghĩ, đã sắp trưa rồi.
Tôi đi đến Rừng Trầm Uất. Tiện thể cũng ăn trưa luôn. Khi tôi mở cửa,
bầu không khí trong quán vẫn ngập tràn ấm áp như mọi khi. Mọi suy nghĩ
đen tối về thủ phạm bay biến khỏi đầu óc tôi, thay vào đó là hạnh phúc. Tôi
cười toe toét lại ngồi bên quầy. Trong quán chỉ có mỗi ông Kimura.
“Saori đang ra ngoài có việc rồi.”
Ông nói. Tôi gọi bữa trưa. Trong khi chờ đồ ăn mang ra, tôi ngắm nhìn
những bộ đồ trà bày biện trong quán. Không hề bám bụi, rõ ràng phải có ai
đó lau chùi rất tỉ mỉ. Chẳng hiểu sao tôi nghĩ rằng người đó là chị Saori, vì
ngón tay ông Kimura khá thô.
“Đều là do tôi lau cả đó.”
Ông Kimura nhìn mặt tôi và nói, cứ như thể đọc được ruột gan tôi, cảm
giác ông muốn phản đối kiểu sao lại khinh nhau quá thế.
Khi thức ăn được mang ra, tôi bắt đầu vào đề.
“Từ chỗ Wazuya gặp nạn, nếu cứ theo đường đó mà đi thì sẽ gặp một
đoạn ngoằn ngoèo dẫn lên núi, nó được xây dựng từ lúc nào ạ?”
Ông Kimura ậm ừ. Tôi biết là ông đang lục lọi trong kí ức. Nhưng rốt
cuộc câu trả lời không giống như kì vọng của tôi.
“Xây lâu lắm rồi. Tôi còn chẳng nhớ nữa. Phải hơn hai mươi năm trước
ấy.”
Tôi hơi thất vọng, bèn đưa cho ông xem ảnh Aizawa Hitomi.
“Vậy bác đã từng thấy cô bé này chưa ạ?”
Ông Kimura xem xét tấm ảnh, lên tiếng “Cứ như cảnh sát hỏi cung ấy
nhỉ”, rồi lắc đầu, “Chưa hề, lạ hoắc lạ huơ.”
“Vậy sao ạ… Thế khu vực này đã từng có ai khác mất tích chưa bác?”
“Nghe nói có một ông già tứ cố vô thân, một ngày kia đột nhiên biến
mất.”
Tên ông ấy là Kaneda, vốn sống ở khu vực này nhưng dạo gần đây thì
không thấy nữa.
“Nghe bảo ông ta chẳng được ai ưa, lại còn nợ nần nữa, nên chắc là trốn
đi xa rồi.”
Tôi nghĩ chuyện này chẳng liên quan gì tới mình.
“Vậy bác có biết căn biệt thự xây bằng gạch trần nào không ạ?”
“Chẳng biết có thể gọi là biệt thự không, nhưng bà Kyoko bữa trước nói
chuyện với cô cũng sống trong nhà gạch trần đó.”
“Nhưng gạch của nhà này màu xanh lam cơ ạ.”
“Gạch xanh à…” Ông chủ quán gật đầu như đang suy nghĩ mông lung.
“Cũng không phải là tôi không biết.”
Tôi giật mình trước câu trả lời không ngờ tới, “Thật ạ!? Bác nói cho
cháu biết đi!”
Tôi phấn khởi đến mức muốn đứng bật dậy, nhưng ông chủ quán kìm
tôi lại, “Vì sao cô lại muốn đến căn biệt thự đó?”
Suy nghĩ một hồi, tôi nhận ra “Có thể một cô bé đang bị giam ở đó” là
một điều rất khó nói thành lời.
“Cháu nghe đồn tòa nhà rất đặc biệt, nên muốn đi xem một lần.”
“Shiozaki sắp đến rồi đấy. Hằng ngày anh ta đều ăn trưa ở đây. Anh ta
cũng biết về nơi đó, cô cứ nhờ dẫn đi là được.”
Tôi ngắm nhìn bức tranh cảnh hồ do Shiozaki vẽ treo trên tường. Rừng
cây phản chiếu xuống mặt nước phẳng lặng. Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng
mình sẽ tìm thấy căn biệt thự gạch xanh theo cách này. Tôi sẽ nhờ Shiozaki
đưa đến nơi, nhưng sau đó thì sao đây?
Không, tôi không thể nhờ anh ta đưa đến tận biệt thự được. Bởi vì mục
đích của tôi là đi vòng quanh tòa nhà mà không để ai phát hiện, dùng máy
ảnh này để chụp những thứ có thể làm bằng chứng. Nếu không bảo anh ta
cho xuống xe cách xa nơi đó một chút, thì việc tôi đến nhòm ngó sẽ bị thủ
phạm sống trong biệt thự phát hiện mất. Tôi phải phòng tránh bằng được
khả năng này.
Chẳng may thủ phạm biết được có kẻ đang nghi ngờ mình, thì hẳn sẽ
làm gì nhỉ? Đến cả Aizawa Hitomi có lẽ còn sống cũng sẽ lâm vào cảnh
nguy hiểm.
Rốt cuộc cánh cửa quán mở ra, Shiozaki xuất hiện và lập tức tiến vào
góc trong cùng. Đây là khu vực tối tăm nhất quán, nơi ánh sáng thường
xuyên không rọi tới. Dường như ngoài ghế đó ra anh ta không ưa thích một
chỗ nào khác.
Ông chủ quán mang đồ ăn đến. Ngày nào Shiozaki cũng tới vào giờ này,
chính xác đến mức kì quặc, và luôn gọi cùng một thực đơn chay tịnh cho
bữa trưa. Shiozaki không ăn thứ gì khác ngoài rau củ, vì theo anh ta, thịt có
mùi vị của máu.
Tôi biết ông Kimura đang nói với Shiozaki về mình. Đang quan sát thì
thấy anh ta quay sang, mắt chúng tôi giao nhau. Ánh mắt sắc lạnh ấy làm
tôi phải cúi mặt vì bồn chồn.
“Anh ta bảo ăn xong sẽ lấy xe đưa cô đi.”
Ông Kimura cho biết. Nghe bảo Shiozaki phải mất một tiếng mới ăn
xong bữa trưa, tôi quyết định giết thời gian bằng cách đọc mấy quyển tạp
chí trong quán.
Từ khi mất kí ức, tôi đã đọc khá nhiều tiểu thuyết. Không còn đến
trường nữa, tôi chuyển sang làm quen với con chữ in tại những quán cà phê.
Không chỉ tiểu thuyết, tôi còn đọc cả truyện tranh và tạp chí, nói chung
không kén chọn gì cả. Và đương nhiên tất cả đều là những nội dung tôi mới
đọc lần đầu.
Chẳng rõ trước khi mất trí nhớ, tôi đã đọc những sách gì? Liệu có rơi lệ
vì những cuốn tiểu thuyết cảm động? Có tài ghi nhớ và ngâm vịnh những
bài thơ?
Lòng tôi ăn năn vô vàn, vì đã đánh mất một quá khứ đẹp đẽ đến nhường
ấy. Lý trí tôi chỉ rõ không cần băn khoăn, vì lãng quên đâu phải là lỗi của
tôi. Nhưng vào thời khắc thay đổi cách bài trí phòng riêng để phân biệt bản
thân với Nami, tôi đã phản bội tất cả những kí ức ấy, đã vứt bỏ chúng trong
một xó xỉnh nào đó mất rồi.
Tôi vừa đọc tạp chí vừa suy nghĩ vẩn vơ. Trong khi tìm kiếm trên giá
sách xem có thứ gì khác để đọc không, tôi phát hiện ra một quyển sách kì
lạ. Khổ nhỏ, số trang cũng không phải là nhiều. Lúc cầm lên tay, tôi nhận ra
nó vẫn còn khá mới, là truyện đồng thoại, nhan đề “Eye’s Memory”. Bên
trên tên truyện có dòng chữ nhỏ Đồng thoại đen. Tôi lật nhanh đến hết sách,
và thấy cứ cách vài trang lại chèn một bức tranh minh họa. Những đường
nét thanh mảnh nhằng nhịt trên giấy, trông đen ngòm, gây cho tôi cảm giác
khó chịu.
Trong tranh, một con quạ đang dùng mỏ lấy cầu mắt trên mặt một đứa
trẻ con. Nội dung hắc ám đến mức khiến người ta phải do dự ngay cả việc
chạm vào trang giấy. Biết thế mà tôi vẫn không thể rời mắt. Cuốn sách sở
hữu một sức thu hút y như ma thuật.
Tôi đang định đọc đàng hoàng từ đầu thì Shiozaki đã ăn xong. Tôi trả
quyển sách về lại giá.
“Đi chưa?”
Shiozaki cộc lốc hỏi tôi bấy giờ đang đứng trước giá sách, rồi mặc vào
mình chiếc áo khoác màu đen. Dù còn lo âu, tôi vẫn lên xe anh ta và ngồi ở
ghế phụ lái. Ông Kimura đứng trước cửa quán vẫy tay tiễn chúng tôi đi.
Chẳng hiểu sao ông lại mỉm cười. Dù rất thắc mắc, tôi cũng tươi cười vẫy
tay chào lại ông.
Ô tô di chuyển trong im lặng. Là một chiếc xe con màu đen. Tôi vốn là
đứa mù tịt về xe cộ, chỉ thấy mấy chiếc ghế quanh mình sạch bóng và có vẻ
là hàng cao cấp. Mùi nước thơm xịt phòng thoang thoảng trong không khí.
“Chờ tôi ghé thị trấn mua ít đồ nhé? Sẽ xong ngay thôi.”
Tôi gật đầu.
“Em đến thị trấn này để viếng mộ cậu Wazuya nhỉ?”
“Anh biết Wazuya ạ?”
“Có thấy mặt vài lần.”
“Vậy là anh mới tới đây sao…?”
“Tôi dọn đến từ năm ngoái.”
Shiozaki chuyển sang nói chuyện về tranh. Tôi cũng mù tranh chẳng
kém gì mù xe cộ, không biết anh ta có phải là một họa sĩ nổi tiếng không
nhỉ? Nghe kể bức tranh hiện treo trong quán cà phê là do Shiozaki vẽ lúc
đang ở nước ngoài.
“Vẽ xong tôi đem tặng cho quán ấy, cũng chẳng vì lý do gì đặc biệt.”
Anh ta nói, tay nắm chặt vô lăng. Không biết bức tranh đó có giá trị
ngần nào nhỉ? Và tại sao Shiozaki lại quyết định sống ở thị trấn này? Dù rất
muốn hỏi nhưng rốt cuộc tôi lại im lặng. Bởi vì trông anh ta cũng không
phải mẫu người hay chuyện, tôi chỉ sợ lắm mồm gây phiền cho người ta.
Chiếc xe dừng lại ở một cửa hàng bán nông cụ. Tôi không rời khỏi xe.
Shiozaki bảo vào mua sắm rồi sẽ ra ngay mà. Tôi chống cùi chỏ lên cửa sổ
bên ghế phụ lái, gối cằm nhìn vào gương chiếu hậu. Trong gương, Shiozaki
đang chất đồ vừa mua trong cửa hàng lên thùng xe.
“Bây giờ tôi đưa em đến biệt thự.”
Anh ta nói lúc quay trở về ghế lái. Tôi gật đầu với vẻ ngần ngại.
Ở nơi đó có kẻ thủ ác, và Aizawa Hitomi. Tôi sẽ bảo Shiozaki cho tôi
xuống xe lúc vừa nhìn thấy biệt thự. Chỉ cần biết địa điểm và đường đi là
được rồi.
Xe lăn bánh, chúng tôi chạy một lúc trên con đường quốc lộ xuyên qua
thị trấn. Tiếp đó xe rẽ vào đường nhánh, hướng về phía đỉnh núi.
“Anh vừa mua gì thế ạ?”
“Sau trận động đất gần đây, tôi phát hiện ra tường nhà mình bị nứt.”
Shiozaki trả lời, mắt vẫn chong chong nhìn thẳng ra trước. “Nên bây giờ
phải mua đồ về sửa tường.”
Đây là lần đầu tiên tôi nghe nói vùng này có động đất. Hình như là ngay
trước ngày tôi đến Kaedecho. Nhắc mới nhớ, từ khi tỉnh dậy ở bệnh viện,
tôi chưa từng nếm trải một trận động đất thứ thiệt nào cả.
Vừa suy nghĩ vẩn vơ, tôi vừa nhìn ngắm cảnh vật chạy vụt qua ngoài
cửa sổ. Đột nhiên, tôi hét lên vì phát hiện ra địa điểm quen thuộc.
“A, có công viên!”
Tôi xuống xe và chạy vụt đi. Có một trảng đất rộng bị vùi lấp quá nửa
giữa khu rừng nhỏ bé. Cổng vào quàng sợi xích gỉ sét, trên đó treo tấm bảng
ghi “Cấm vào”. Công viên có vẻ đã bị bỏ hoang vì một lý do nào đó. Đất
đai um tùm những cỏ dại.
Nhưng vẫn sót lại cầu trượt với bộ khung leo của trẻ con. Và một chiếc
xích đu, gỉ sét bám đầy đến mức không nhận ra màu sơn ban đầu nữa. Tôi
đã nhìn thấy nó hồi mới cấy ghép mắt, do tấm ảnh trong tờ lịch làm chìa
khóa.
Tôi dừng chân trước xích đu, Shiozaki lại gần.
“Ngày xưa, Wazuya và chị Saori đã chơi đùa ở đây đó.” Tôi giải thích
cho anh ta, đồng thời háo hức quan sát xích đu từ nhiều góc độ. “Đúng là nó
đây rồi.”
Cảm giác vui sướng tràn ngập lòng tôi. Từ khi đến thị trấn này, tôi đã
bắt gặp bao nhiêu cảnh vật đời thực đã từng chứng kiến trong mắt trái. Thế
nhưng việc tìm thấy chiếc xích đu này, nơi chị Saori có hồi tươi cười ngồi
lên, vẫn làm tôi đặc biệt hạnh phúc.
Tôi thử đung đưa trên chiếc xích đu đầy gỉ sét. Rồi nhận ra Shiozaki cứ
chòng chọc nhìn mình, tôi đâm ngượng, thật chẳng ra sao cả, và tự dặn lòng
phải cư xử ra dáng người lớn hơn.
“Từ nãy đến giờ hành động của em kì lạ quá.” Shiozaki nhận xét.
“Nhưng mà cũng thú vị.”
Anh ta nhìn vào mắt tôi. Thoạt tiên chỉ nhìn phớt qua, rồi như phát hiện
điều gì, Shiozaki khựng lại.
“Anh làm sao thế?”
“Chẳng biết có phải tôi nhìn nhầm không. Cảm giác hai mắt em khác
màu nhau. Khác biệt rất nhỏ, gần như không thể nhận ra…”
Tôi cười xòa để lấp liếm. Vì nếu tiết lộ là tôi đã làm phẫu thuật, một bên
mắt là nhãn cầu của người khác, thì sẽ phải giải thích phiền phức lắm.
Chúng tôi lại trở vào xe, và lên đường. Suốt hành trình Shiozaki vẫn để ý
đến mắt tôi. Chắc hẳn sinh vật gọi là “họa sĩ” này có hứng thú với những
biểu hiện dị thường, tôi chọn cách giải thích đơn giản ấy để bản thân thoải
mái hơn.
Từ lúc nào chẳng biết, chúng tôi đã đến một con đường quen thuộc. Hai
bên lề là rừng tuyết tùng, dù giữa ban ngày mà vẫn âm u.
“Đây là nơi Wazuya đã…?”
Shiozaki vừa đánh tay lái vừa gật đầu. Chính là con đường có hiện
trường tai nạn của Wazuya. Đúng là căn biệt thự gạch xanh nằm trên đường
này rồi, tôi nhẹ cả người. Hình ảnh trong mắt trái của tôi không sai lệch quá
nhiều. Chỉ là có vài mâu thuẫn nhỏ với hiện thực.
Chúng tôi đi qua nơi Wazuya gặp tai nạn. Ngồi ô tô đi qua nơi anh bị
chính ô tô đâm thật là một trải nghiệm không dễ chịu gì. Tôi nhắm nghiền
mắt lại, bất chợt sống lưng lạnh toát.
Đi thêm một lúc, mé trái con đường xuất hiện một lối rẽ. Vì vậy cuối
cùng chúng tôi lại đi theo hướng ngược lại với hướng vừa đưa mình đến. Từ
ghế phụ lái có thể nhìn thấy mấy thanh chắn bảo vệ. Bên ngoài thanh chắn
không có mặt đất, chỉ có vách tường bê tông đổ xuống bên dưới, nơi rừng
tuyết tùng chót vót vươn lên. Phía đó chính là nơi hôm qua tôi đã tìm đến.
“Con đường này có từ bao giờ ạ?” Tôi hỏi Shiozaki đúng câu đã hỏi ông
Kimura.
“Tôi cũng không biết nữa, từ lúc tôi dọn nhà đến đây đã thấy nó rồi.”
Lại có một lối rẽ.
“Đi theo hướng đó sẽ đến nhà bà Kurozuka Kyoko.” Shiozaki nói.
Tiếp đó, con đường lại ngoặt sang phải. Một lát sau, Shiozaki dừng xe,
bảo tôi ngó ra cửa sổ. Ghế phụ lái có tầm nhìn trực tiếp lên sườn núi. Tôi áp
trán vào cửa sổ, ngước mắt trông. Tuyết tùng mọc san sát tuy cản trở tầm
nhìn, nhưng giữa những thân cây thẳng đứng ấy, tôi đã nhìn thấy cái màu
đó. Màu xanh lam. Không phải tươi sáng như da trời, mà đậm như đáy biển,
có thể nhầm thành màu đen được.
Đích đến của mình đang tọa lạc bên kia rừng tuyết tùng. Một nỗi bất an
nhức nhối dậy trên da thịt tôi. Nhìn từ xa thế này không thể biết được tường
tòa nhà có xây bằng gạch trần hay không. Nhưng màu xanh thì trùng khớp
với kí ức trong mắt trái.
Thủ phạm đang ở đó. Đang giam cầm Aizawa Hitomi. Không biết hắn
là người thế nào? Dù đã cố không nghĩ đến, tôi vẫn nhớ lại hình bóng của
Aizawa Hitomi. Có thể là do tôi nhìn nhầm, nhưng xem ra cô bé không còn
tứ chi nữa. Vậy số chân tay đó đi đâu mất rồi? Nếu hành động này cũng do
thủ phạm đang tâm gây ra, thì hắn phải tàn bạo và đáng sợ đến mức nào
chứ?
“Anh có biết gì về biệt thự kia không?”
Tôi hỏi Shiozaki. Anh ta bèn kể cho tôi mọi điều mình biết về tòa nhà
đó.
Tôi xuống xe.
“Biết tòa nhà tồn tại là tôi đã mãn nguyện rồi. Đây chỉ là trò cá cược của
tôi với Wazuya thôi. Bởi vì tôi không tin là nó có thật trên đời.”
“Nếu em định về luôn thì để tôi chở đến quán cà phê cho.”
“Cảm ơn anh rất nhiều. Tôi nhớ đường rồi. Lát nữa tôi sẽ đi bộ về
quán.”
Tôi cúi đầu chào. Shiozaki nhìn tôi vẻ nghi hoặc, rồi đánh xe đi mất.
Anh ta có nhận ra giọng tôi đang run rẩy không nhỉ? Chẳng biết tôi đã
hành động tự nhiên hết mức có thể chưa?
Vì anh ta đã nói với tôi thế này, về căn biệt thự.
“Ông Kimura bảo là em muốn đến thăm ngôi nhà đó, thế giờ lên uống
cốc trà nhé?” Shiozaki nhìn thẳng vào mắt tôi. “Không cần phải khách sáo
đâu. Tôi sống ở đây mà.”

Xe Shiozaki chạy đi, tôi dừng lại trong rừng cây lá kim một lúc. Tôi do
dự chưa muốn lại gần biệt thự. Nếu có thời cơ nào để tiếp cận, thì phải là
lúc đối tượng đã lên nhà, đang thư giãn không cảnh giác.
Anh ta chính là người sống trong căn biệt thự đó. Là thủ phạm. Vậy mà
tôi không hề hay biết, còn ngồi cùng xe, trò chuyện với anh ta. Bây giờ nghĩ
lại mới thấy không thể tin được.
Tôi nhớ đến nụ cười của ông Kimura lúc chúng tôi rời quán cà phê. Ông
đã giấu không cho tôi biết Shiozaki chính là chủ nhân biệt thự. Tôi hơi bực
vì trò chơi khăm này. Nhưng tất nhiên, tức giận với ông cũng chẳng để làm
gì cả.
Ba mươi phút sau, tôi quyết định tiến về phía tòa nhà. Tôi đã củng cố
quyết tâm của mình. Rất ít xe đi qua con đường trước mặt. May lắm mười
phút mới được một xe. Nếu đi xuôi theo con đường này sẽ đến hiện trường
tai nạn của Wazuya, nhưng sự cố xe đâm khi lao ra đường không thể nói gì
hơn ngoài vô cùng bất hạnh. Bởi vì anh bị Shiozaki truy đuổi, và va chạm
với một chiếc xe trên con đường cực kì vắng vẻ này.
Tôi phân vân không biết nên chọn đường xe đi hay băng qua rừng tuyết
tùng để tiếp cận biệt thự. Rốt cuộc, vì tính đến chuyện nếu chọn đường ô tô
lại bắt gặp Shiozaki đang lái xe thì sẽ phải giải thích rất phiền phức, nên tôi
chọn cách đi xuyên qua rừng.
Cũng giống như nơi Wazuya bị tai nạn, cánh rừng tuyết tùng nằm trên
triền dốc đứng tiếp xúc với con lộ. Dường như mấy con đường qua núi
quanh đây đều như vậy thì phải. Một bên là sườn núi dốc, còn bên kia là
bức tường ngăn cách có thanh chắn bảo vệ.
Tôi leo lên sườn dốc, chú ý để không bị ngã. Thảm lá rụng phủ trên mặt
đất càng làm người ta dễ trơn trượt hơn. Lên gần đến đỉnh thì độ dốc cũng
giảm dần.
Càng lại gần biệt thự, càng nhiều loài cây khác ngoài tuyết tùng. Là
những thân cây cằn cỗi vươn cành khẳng khiu như xúc tu. Giống kí ức
trong mắt trái. Khi chạy trốn vào rừng, Wazuya đã phải vật lộn với những
cành cây một lúc lâu.
Cái lạnh thật kinh khủng. Hơi thở phả ra từ miệng tôi trắng xóa rồi tan
biến vào rừng. Mỗi lần chạy qua một cái cây mới, tôi lại đếm thứ tự, và đập
vào thân cây bằng lòng bàn tay đeo găng. Khi số cây đã chạy qua vượt quá
năm mươi, tôi bắt đầu phát chán với trò tiêu khiển này.
Cuối cùng, căn biệt thự xanh lam đã hiện ra sừng sững trước mặt tôi.
Tòa nhà có hai tầng, các bức tường đúng là để gạch trần. Đối với tôi, trông
nó y hệt một sinh vật khổng lồ đang cuộn tròn mình để ôm ấp bóng tối bên
trong. Một sinh vật đáng nguyền rủa ẩn mình trong góc sâu khu rừng, khi
thì dõi mắt trông xuống con người bên dưới qua khe hở giữa những thân
tuyết tùng, lúc lại nheo mắt rình mò quan sát. Khi đứng gần như thế này, tôi
cảm giác như nó đang nhìn mình với tâm trạng có chút u uẩn.
Tôi đứng thần người, ngước nhìn bức tường, chìm trong ảo giác rằng
căn biệt thự đang hít thở. Những bức tường đang lặng lẽ co rút, giống như
buồng phổi phập phồng của động vật khi hô hấp. Hai chân tôi tê liệt. Tôi
biết rằng mình đang hành động rất nguy hiểm. Chẳng may bị phát hiện thì
sẽ ra sao đây? Dù không muốn nghĩ đến nhưng tình huống xấu nhất cứ
quanh quẩn trong tâm trí tôi, khiến tôi không dám lại gần hơn nữa.
Tôi nhắm nghiền mắt, đợi cho đến khi mình có đủ can đảm. Tôi nhớ về
Wazuya, và về Aizawa Hitomi. Tôi thò tay vào túi áo, lấy ra cái máy ảnh.
Và vẫn ẩn mình trong rừng cây, tôi thám thính động tĩnh xung quanh để
chắc chắn rằng Shiozaki không ở gần đây.
Tôi di chuyển dưới bóng những thân cây khô héo, cuối cùng bước chân
ra khỏi cánh rừng. Tôi áp sát người vào tường tòa nhà, đặt tay lên nó.
Không còn nghi ngờ gì nữa rồi, đây chính là cảnh tượng tôi đã nhìn thấy
qua mắt trái. Dù đang mang bao tay, mặt tường vẫn đủ lạnh giá để làm tinh
thần tôi rét cóng.
Tôi ngửa cổ ngước nhìn. Biệt thự cao sừng sững vươn thẳng lên những
đám mây xám xịt. Tôi di chuyển dọc theo bức tường, vừa đi vừa nhìn
xuống chân. Cửa sổ phòng ngầm ở đâu đây thôi.
Xung quanh biệt thự là rừng cây. Giữa tường nhà và rừng có một
khoảng trống đủ cho người qua lại. Mặt đất trần trụi không lát gạch hay đá,
còn hơi trơn trượt nữa. Có vài bồn cây đắp sát chân tường, cũng xây bằng
gạch nung xanh lam, bên trong không có thứ gì mọc được ngoài ít cỏ dại đã
héo khô.
Chỉ màn cửa chính là không có rừng cây bao bọc. Vì không muốn bị
phát hiện nên tôi không tiến về phía đó. Tôi lật lại những kí ức trong mắt
trái. Cửa sổ phòng ngầm không nằm ở phía cửa chính. Wazuya đã trốn vào
một góc tường, tức là cửa sổ kia cũng phải nằm gần một góc tường nào đó.
Rồi Wazuya lao vào rừng theo hướng chạy xuống dốc, có nghĩa là góc
tường ấy nằm ở phía nhìn xuống chân núi.
Tôi mau chóng phát hiện ra một nơi gần giống với hình ảnh trong mắt
trái. Là góc tường phía Tây Nam của tòa nhà. Đến cả khung cảnh xung
quanh cũng gần như trùng khớp. Chỉ có hình thù của cây cối và bóng đổ
dưới chân chúng là hơi khác biệt, có lẽ là do thay đổi theo thời gian chăng?
Nhưng tôi không sao tìm được thứ gì trông giống cửa sổ phòng ngầm. Ở
nơi mà tôi cho rằng Wazuya đã tìm thấy cửa sổ, bây giờ chỉ có một bồn cây
bằng gạch cùng ít cỏ héo khô. Chắc hẳn Shiozaki xây nó ở đây để giấu đi
cửa sổ phòng ngầm. Wazuya thiệt mạng đã được hai tháng, thời gian như
vậy là quá đủ để xây vài cái bồn cây.
Nếu như đập vỡ bồn cây này, biết đâu sẽ tìm được cửa sổ đằng sau.
Nhưng lớp gạch trông kiên cố quá.
Thế là mất cửa sổ phòng ngầm. Tôi không thể chụp được tấm ảnh làm
bằng chứng nữa. Tuy vẫn còn ấm ức, nhưng đến đây tôi phải tạm quay về
thôi. Bởi muốn đi vòng quanh biệt thự để tìm bằng chứng, cần có một thần
kinh thép, kiên cường hơn tôi bây giờ nhiều.
Tôi nhìn ra sau biệt thự. Có một nhà kho cũ bằng gỗ dựng sát vào
tường. Nhắc mới nhớ, hôm nay Shiozaki vừa mua gì đó ở cửa hàng nông
cụ. Anh ta bảo là để sửa tường. Có khi bây giờ đống đồ đó đang cất trong
kia. Tôi quyết định nếu không làm gì khác thì cũng phải xem thử cái nhà
kho, và định tiến lại gần.
Đúng lúc ấy, có tiếng cửa sổ tầng hai bật mở. Tôi giật mình đứng lại, ép
người vào tường, cố gắng di chuyển ra xa mà không gây tiếng động, chỉ sợ
Shiozaki có thể thò đầu ra ngoài cửa sổ bất cứ lúc nào. Ra được một khoảng
an toàn, tôi lao mình vào rừng, chạy theo đúng tuyến đường mà Wazuya
ngày trước có lẽ đã chạy. Khi ngoái lại đằng sau, tôi không thấy Shiozaki
đuổi theo. Thế nhưng sâu trong tâm trí tôi, vẫn tồn tại ám ảnh về một kẻ săn
lùng nào đó, dai dẳng mãi không thôi.
Cuối cùng tôi cẩn thận lao xuống triền dốc và chạy ra đường. Phải đến
đây mới được buông tha khỏi nỗi sợ hãi, và tôi bật khóc.
5

Yngắm nhìn con ruồi đã gần như nát bét trên lòng bàn tay mình. Nó
chính là nguyên nhân gây phiền nhiễu cho Aizawa Hitomi không-chân-tay
từ nãy đến giờ.
“Sao lại có cái giống khó chịu đến như thế chứ…” Cô bé lên tiếng từ
trên sofa, với giọng điệu như vừa cất đi được một gánh nặng, “Mà có muốn
cũng chẳng xua đuổi được nữa.”
Ruồi tìm đến Aizawa Hitomi không phải là do miệng vết thương của cô
bé thối rữa. Bởi vì khái niệm “phân hủy” không tồn tại trên những xác thịt
bị Miki hành hạ. Chỉ đơn giản là con ruồi vô tình lại gần cô bé mà thôi.
Miki giơ tay đập khi nó đậu trên túi đựng Hitomi. Nền túi vẫn còn vết ố
nhỏ, do chất dịch từ cơ thể con ruồi ngấm vào mà thành.
Y nhìn con ruồi giập nát nằm bẹp trên lòng bàn tay mình. Đã đến mức
này mà nó vẫn không chịu ngừng động đậy.
“Phiền phức quá đi. Có mỗi con ruồi nhép mà mãi không giết được.”
Miki đi đến gần cửa sổ thư phòng. Y định vứt nó ra bên ngoài. Đối với
những loài côn trùng có hại, y chỉ có cách giã nát cho đến khi chúng nằm
im, hoặc vô hiệu hóa cử động và ném bỏ.
“Con ruồi ấy rồi cũng sẽ bị lũ kiến ăn sống thôi nhỉ.” Hitomi nói.
Vừa đẩy mở cửa sổ, Miki chợt khựng lại. Y cẩn thận thò đầu ra ngoài,
quan sát xung quanh.
“Có ai ở ngoài ạ?”
Cửa sổ thư phòng thông ra đằng sau biệt thự. Có khoảng trống giữa bức
tường và khu rừng bao quanh. Miki cảm giác như mình vừa nghe thấy âm
thanh phát ra từ đó. Nhưng không thấy ai cả. Tưởng tượng thôi chăng?
“Chắc là người ta đến cứu em đây mà. Hẳn đã có ai đoán ra ở đây có tên
tội phạm bắt cóc.”
Miki để Hitomi ở yên trên ghế, và rời khỏi thư phòng.
“Ơ, đi đâu thế?” Hitomi hỏi. Rồi một lát sau, cô bé nói tiếp như đã tự
hiểu ra. “À, đúng rồi. Còn phải chôn cất cho bác nhỉ.”

Kaneda Tadashi đã chết trong căn phòng dưới lòng đất không lâu trước
đó.
“Trông bác cứ ốm yếu làm sao ấy.” Đó là câu Mochinaga Yukie nói với
Miki, khi y bế Hitomi xuống chiếc giường ở phòng ngầm.
Bấy giờ, ở một góc phòng, tử thần đã đến sát bên Kaneda.

Miki cầm chiếc xẻng mới mua và ra ngoài. Y bước dọc theo bức tường
gạch trần, vòng lại đằng sau tòa nhà. Rồi láo liên quan sát. Sự hiện diện ban
nãy y cảm thấy bây giờ đã không còn. Rừng cây rộng lớn xung quanh vẫn
lặng lẽ như mọi khi. Miki rẽ lối qua những cành cây khô chằng chịt, tiến
vào rừng. Mới đi một lúc, y đã tìm được chỗ đất phù hợp để chôn cất
Kaneda. Y ghé mũi xẻng xuống nền đất, tuy đã hơi đông lại vì lạnh nhưng
vẫn chưa cứng đến mức không thể đào huyệt được.

Miki gặp Kaneda lần đầu không lâu sau khi chuyển đến biệt thự. Y còn
nhớ, lúc ấy là hai tuần trước ngày y bắt Mochinaga và Hisamoto vào phòng
ngầm.
Bấy giờ Miki chưa quen biết một ai ở khu vực này cả. Vì biệt thự nằm
sâu trong núi, nếu người trong nhà không chủ động thì chẳng ai muốn mất
công tìm đến làm gì. Miki cũng quyết định ẩn thân, làm ra vẻ như đây là
một ngôi nhà hoang không có ai sinh sống. Vì vậy phải mãi về sau y mới
biết đến Kaneda, dù họ ở cùng một địa phương.
Lần đầu tiên đến thăm biệt thự, ông đã nhìn Miki như nhìn một sinh vật
lạ.
“Tôi không biết là trong nhà này cũng có người ở đấy.”
Y thử mời ông vào nhà. Dù hơi do dự, nhưng Kaneda cũng chịu bước
qua ngưỡng cửa.
“Tôi đi giày vào được không? Ái chà, cứ như là lâu đài ấy nhỉ.”
Kaneda là một người đàn ông nghèo khó, đã lùn xủn lại còn gù lưng, tóc
hói già nửa. Ông có vẻ quan tâm đến cuộc sống của Miki, cả việc y làm gì
để kiếm tiền nữa.
Ngoài trời mưa bắt đầu rơi. Miki rời mắt khỏi Kaneda, bước chân lên
thư phòng để khép cánh cửa sổ vẫn đang mở nãy giờ. Đúng lúc ấy, từ tầng
một vọng lên tiếng hét của ông già. Hình như ông đã tự ý mở tủ lạnh khi
không có mặt chủ nhà, và lỡ nhìn thấy những cái tai cùng ngón tay bị cắt lìa
đặt lần lượt trong khay lõm vốn để đựng trứng gà. Chúng là hành lý mà
Miki mang theo khi chuyển đến đây.

Miki đâm con dao làm bếp vào bụng Kaneda, nhân lúc ông già còn run
rẩy. Y trói ông lại bằng cuộn băng dính đặt gần đó, rồi dìu ông xuống phòng
ngầm.
“Cảm giác kì lạ thật.”
Kaneda đã xúc động nói thế, khi nhìn con dao cắm vào ổ bụng mình, vẻ
hoan hỉ thoáng hiện lên trong mắt ông. Hình như ông đã quên béng câu hỏi
quan trọng hơn, là “Tại sao mình không cảm thấy đau?” rồi.
Miki bắt ông dựa vào bức tường trong phòng ngầm, và hỏi ông lựa chọn
như thế nào. Muốn sống, hay muốn chết?
Giả như ông muốn chết thì chỉ cần cứa cổ là xong. Từ kinh nghiệm
trong quá khứ, y biết rằng cái chết sẽ tới nếu cắt đứt đường nối giữa tim và
não. Hoặc là chờ vết thương trên bụng ông lành lại. Khi vết thương do Miki
gây ra đã khép miệng, thì sức sống mà y ban cho nạn nhân cũng biến mất.
Rồi ông sẽ bị bỏ rơi, sẽ chết vì đói khát hay tuổi già mà thôi.
Nhưng Kaneda đã chọn “muốn sống”.
Miki bèn rạch dọc bụng ông, cứa đứt lớp da bên ngoài, xẻ cơ thịt bên
trong để xương sườn và nội tạng lộ ra. Đến lúc này thì Kaneda không còn
nói được nữa.
Miki lộn trái cơ thể của Kaneda từ trong ra ngoài. Y cắt rạch, tạm thời
moi hết nội tạng. Sau đó đổi chỗ, những gì vốn ở mặt ngoài thì đem gắn vào
trong, và những gì vốn ở trong lại được sắp xếp ngay ngắn ra ngoài.
Tay và chân được chuyển vào trong, rồi bọc bằng da và gân cơ. Từng
lóng xương một bị cưa rời, đảo hướng và cố định bằng đinh vít. Nội tạng
được đính gắn ở bên ngoài cơ thể như trang trí. Bởi vì nhìn chúng bấp bênh
chỉ chực rơi xuống khi không còn gì nâng đỡ xung quanh, nên y đã dùng
dây thép để buộc chúng lại.
Trong suốt quá trình đó, Kaneda không chết, và cũng chẳng mất đi ý
thức. Con dao mổ mà Miki mang từ nhà cha mẹ đến đã khéo léo tránh khỏi
phần lớn các mạch máu, nên Kaneda gần như không xuất huyết. Cho dù có
chảy máu thì cũng mau chóng tự cầm lại. Nội tạng phơi ra ngoài của
Kaneda, lạ lùng thay hoàn toàn không khô ráp, vẫn duy trì được bề mặt
bóng bẩy tươi rói.
Cuối cùng, phần cơ thể từ cổ trở xuống đã được lộn trái hoàn chỉnh, đổi
chỗ giữa mặt trong và mặt ngoài. Số nội tạng trần trụi hoặc là đung đưa
dưới những sợi dây thép, hoặc là bị buộc chặt để không rơi xuống. Kaneda
không còn khả năng tự chống đỡ cơ thể nữa, nếu bị bỏ mặc chắc hẳn sẽ bị
nghiền nát bởi sức nặng của chính mình. Vì vậy Miki đã thòng rất nhiều
dây cước kèm móc câu từ trên trần phòng ngầm xuống, móc vào nội tạng
hoặc dây thép để giữ Kaneda trong tư thế đứng. Ở nửa dưới tấm thân đã lộn
tùng phèo ấy lia chia thò ra những ngón tay của đôi cánh tay đã bị nhét vào
trong bụng, cùng hai cẳng chân chịu chung số phận. Thi thoảng, chúng co
giật như con ếch đang bật nhảy.
Kaneda vẫn ý thức được mọi việc, qua ánh mắt có thể phán đoán được
cảm xúc của ông. Trong mắt người đàn ông già bây giờ thấp thoáng nỗi
kinh hãi. Những giọt nước mắt ròng ròng chảy ra, nhưng Miki biết rằng đó
chỉ là tại thần trí đang mông lung mà thôi.
Nhân thể nhìn lại, y mới thấy cái mũi và đôi môi trên khuôn mặt thành
phẩm mới thật thừa thãi làm sao. Y bèn rạch dọc khuôn mặt của ông ta, lộn
hết da và gân thịt ra sau gáy. Vậy là chính diện chỉ còn phần xương sọ ôm
ấp nhãn cầu và ý thức, cùng vài mẩu thịt dính vào lợi mà vì lười Miki đã
không cạo bỏ. Mí mắt đã biến mất, đôi nhãn cầu nằm gọn trong hốc mắt dõi
theo từng cử động của Miki.
Cơ thể đó bây giờ đứng được là nhờ những sợi dây câu buông xuống từ
trần nhà nâng đỡ. Nhưng phần từ cổ trở lên lại kiệt quệ gục xuống. Là tại
Miki không tìm được chỗ nào để móc dây câu trên hộp sọ trần trụi ấy.
Do đó, rốt cuộc Miki đã quyết định đóng thẳng đinh vào đỉnh hộp sọ
của Kaneda. Y biết rằng có động chạm não bộ một chút cũng không chết
được, nên đã lựa chọn đinh loại dài. Với mỗi nhát đập bằng cái búa sắt, đầu
Kaneda lại rung lên vì chấn động. Cái đinh được đóng ngập đến nửa, dùng
để buộc sợi dây cước thòng xuống từ trần nhà, giữ cho đầu Kaneda không
ngoẹo xuống.
Đến đây, Miki quyết định dừng lại.
Dù không còn mí mắt mà chớp nữa, nhưng nhãn cầu Kaneda vẫn duy trì
được độ ẩm nhất định. Ông đã mất khả năng nói chuyện, nhưng vẫn có thể
truyền tải ý đồ của mình qua cử động của con mắt, và bộc lộ cảm xúc qua
những co giật của cẳng chân thò ra từ phần dưới cơ thể.
Trong hình hài mới này của Kaneda, Miki không nhìn ra được chỗ nào
là hèn kém nhếch nhác như trước. Một bộ sưu tập nội tạng được treo lủng
lẳng dưới trần nhà, ở trung tâm là khối vật chất ánh đỏ như vầng thái dương
đang động đậy, co bóp theo một tốc độ nhất định. Nó đưa máu đi nuôi toàn
thân. Những mạch máu lỡ đứt ra đã phục hồi, chẳng mấy chốc đã lại phủ
khắp cơ thể. Một thứ ánh sáng thiêng liêng tỏa rạng từ quả tim trần trụi.
Qua những món đồ tùy thân của Kaneda, Miki biết được ông là dân
trong vùng.

Đào huyệt xong, Miki vứt luôn xẻng ở đó rồi quay vào biệt thự. Y còn
phải mang xác Kaneda ra đây nữa.
Có tiếng chim chóc đập cánh. Miki ngẩng lên, liền trông thấy một con
quạ đen đậu trên nóc biệt thự. Rừng cây trụi lá không khác gì những khúc
xương trơ trọi. Từ kẽ hở giữa những thân cây, y có thể cảm nhận được ánh
nhìn lạnh lẽo của nó.
Đằng sau biệt thự có một căn nhà kho, chứa đồ đạc do người ở đây
trước kia để lại. Miki móc ngón tay vào chỗ lõm trên cánh cửa, dồn sức kéo
mạnh. Vì chất gỗ đã mục nát nên không làm thế này thì không mở được.
Cửa kéo kẽo kẹt trượt sang ngang, làm lộ ra tay chân của Kaneda đang
để bên trong. Ngoài tay chân, tất cả những phần khó khuân vác đều bị nhét
vào túi rác. Ông đã được đưa ra khỏi phòng ngầm và đặt tạm trong nhà kho
này.
Nguyên nhân cái chết là do lũ chuột trong phòng ngầm. Chúng đã bò
lên thân thể lộn nội tạng của Kaneda, và gặm hỏng mất quả tim. Đến khi
Hisamoto Shinichi và Mochinaga Yukie nhận ra điều bất thường thì Kaneda
đã tắt thở.
Miki kéo lê túi rác đựng đầy nội tạng ra khỏi cửa nhà kho. Đúng lúc ấy,
y chững tay lại vì thoáng nhìn thấy một thứ không quen thuộc. Có một vật
rơi tênh hênh trên mặt đất cách xa y một chút. Miki nhặt lên xem thử.
Không phải đồ của mình. Miki nhớ lại sự hiện diện của ai đó mà hồi nãy y
cảm thấy khi mở cửa sổ.
Đúng là đã có ai ghé qua đây. Miki tin chắc như thế. Y tin vào trực giác
của mình.
Thỉnh thoảng vẫn có những người đến nhòm ngó vì phát hiện ra tội ác
của Miki, hay chỉ đơn giản là nghi ngờ những hành động của y. Chúng lén
lút đánh hơi xung quanh ngôi nhà của y. Miki quy những kẻ như vậy vào
nhóm khách vãng lai.
Trước đây từng có một chàng trai trẻ đến điều tra biệt thự này. Hôm ấy
y cũng có cảm giác đang bị theo dõi.
Không lẽ lại thêm kẻ nào đó đã tìm được bằng chứng rồi sao? Nếu vậy
thì phải bịt miệng hắn ngay mới được. Giống như những vị khách vãng lai
tiền nhiệm của căn biệt thự này.
Eye’s Memory (2)

Một ngày kia, trong khi ngồi trên chiếc ghế kéo sát ra cửa sổ, cô bé đã
nói thế này, “Mình sợ lắm…”
Giọng run rẩy, hai cái lỗ trên mặt đang gắn hai món đồ “nhồi bông” mà
quạ cho, mỗi món nhìn lung tung một hướng, nhưng cô bé vẫn cảm nhận rõ
ràng những tia sáng chúng nắm bắt từ xưa.
“Cô sợ gì cơ, hỡi tiểu thư?”
Quạ nhả món quà đẫm máu mới mang tới ra khỏi mỏ.
“Khi lắp món đồ nhồi bông bạn tặng, những giấc mơ tuyệt đẹp lại ngập
tràn tâm trí mình. Đó là trải nghiệm rất quý giá, nhất là với một người
khiếm thị. Nhưng, trong những món nhồi bông bạn mang tới còn lẩn khuất
cả những thứ khủng khiếp nữa. Phải đến gần đây mình mới nhận ra điều
này.”
“Thứ khủng khiếp ư?”
Lúc cô bé gật đầu, một con mắt tuột ra khỏi hốc mắt. Cô bé nhặt lên và
thả vào lọ thủy tinh chuyên dùng để bảo quản nhãn cầu. Chiếc lọ đã sắp đầy
đến miệng.
Quạ gặng hỏi về thứ khủng khiếp lần nữa. Nhưng cô bé chỉ lắc đầu,
“Mình không biết nữa. Nó xuất hiện chớp nhoáng lắm. Trông như quái vật
ấy, không hiểu sao mình tự nhiên hiểu được nó chính là thứ khủng khiếp đó.
Nhưng mà nhé…”
Vẻ bất an trên gương mặt đột ngột biến mất, cô bé hướng về phía quạ và
mỉm cười.
“Bạn không phải lo đâu. Những món quà bạn mang tới cho mình đều rất
tuyệt vời. Mình luôn cô độc trong bóng tối, chỉ có ánh sáng, màu sắc bạn
mang tới mới an ủi được cõi lòng mình thôi. Bạn không thể hình dung được
chúng đã cứu rỗi mình đến mức nào đâu…”
Cô bé vươn cả hai tay về phía quạ đang đậu trên bàn tròn. Không lẽ cô
bé muốn bắt tay sao, quạ nghĩ. Trong bộ phim nó yêu thích cũng có một
cảnh giống thế này. Nhưng cánh tay và khuôn mặt cô bé lại hướng lên trên
một chút. Nếu nó không phải quạ, mà là một con người, thì có lẽ bàn tay cô
bé sẽ ấp lấy hai má nó chăng?
“Ai-đó chẳng chịu cho mình biết tên ơi… Bạn có thực sự tồn tại không
thế? Mình còn chưa bao giờ được chạm vào tay bạn…”
Quạ cảm thấy lồng ngực mình như bị xé toạc. Làm sao nó để cho cô bé
chạm vào mình được. Bởi vì nó chỉ là một con chim thôi. Nếu sự thật này
bại lộ, chắc hẳn cô bé sẽ đau khổ lắm.
“Tôi xin lỗi, thưa tiểu thư. Tôi không thể nào bắt tay cô được. Trong
một chuyến du lịch nước ngoài nhiều năm trước, tôi đã mắc phải một căn
bệnh truyền nhiễm kinh hoàng. Chỉ cần chạm vào người tôi thôi là bị lây
rồi. Tiểu thư ơi, khoảnh khắc cô chạm vào tôi, cô sẽ nấc cụt không ngừng
lại được đấy.”
Dứt lời, quạ bay vút ra ngoài cửa sổ. Nó nghe loáng thoáng cô bé nói gì
đó sau túm lông đuôi[3] của mình, nhưng vẫn mặc kệ mà tiếp tục đập cánh.
Một nỗi đau giằng xé bên trong những thớ thịt lồng ngực của loài chim đã
trưởng thành. Rốt cuộc cảm giác này là gì vậy? Quạ không biết câu trả lời.
Cứ như vậy nó tiến về thị trấn, để truy tìm món quà mới cho cô bé. Đây
là một công việc vô cùng cam go. Bởi vì gần đây con người đã bắt đầu cảnh
giác hơn với loài quạ.
Đã có vài lần quạ bị người ta bắt quả tang khi đang tấn công mục tiêu.
Vì thế toàn thể cư dân thị trấn đã biết về loài chim chóc màu đen chuyên đi
khoét mắt người. Người lớn thì cầm súng đi bắn chết quạ trong thị trấn, còn
trẻ con đi học thì bịt cả hai mắt vì sợ bị tấn công.
Bản thân quạ cũng từng ở trước họng súng một lần, ngẫu nhiên thay
người đó ngắm trượt nên nó đã thoát được. Nhưng kể từ lần đó, mỗi khi bay
trên bầu trời thị trấn, nó phải duy trì độ cao ở mức không một ai nhìn thấy
được. Và để an toàn lấy mắt cho cô bé, quạ đã dời địa bàn sang một thị trấn
khác ở rất xa, nơi lời đồn vẫn chưa lan tới.
Nó cũng đã cân nhắc nhiều cách để lấy được cầu mắt. Tại một vùng
đông dân cư nọ, may mắn thay quạ đã tìm được một bức tường có lỗ rỗng.
Cái lỗ vừa đủ lớn để người ta ghé mắt nhòm vào. Quạ trốn đằng sau bức
tường ấy, cứ thấy ai đi qua con đường bên ngoài, nó lại cao giọng gọi bằng
tiếng người.
“Này, ai đó đằng kia ơi, xin hãy dừng chân một chút. Và thử nhìn vào
cái lỗ này đi. Nếu vậy, người sẽ thấy được báu vật trân quý ở đằng sau bức
tường đó!”
Khi người kia mắc lừa và ghé mắt lại gần cái lỗ, quạ đã rình sẵn bèn
chớp ngay lấy thời cơ. Nó thọc mỏ vào lỗ, và khi mũi dao cong màu đen sắc
lẻm ấy luồn sâu vào mặt người kia, thì chỉ khoảng một giờ sau nó đã có thể
nhìn thấy gương mặt hoan hỉ của cô bé rồi.
Dù có bị người ta lấy gậy vụt thừa sống thiếu chết, hay bị truy đuổi
bằng những hòn đá nặng mài sắc, quạ vẫn tiếp tục lại gần con người, nhuộm
đỏ cái mỏ dài của mình. Vẫn tiếp tục quan sát họ từ những cành cây hay
mái nhà, chực chờ sơ hở để lao xuống.
Nó đột ngột xuất hiện trước mặt người ta, dang rộng đôi cánh đen tuyền
to lớn. Rồi lao thẳng vào khuôn mặt người đó, vào hai con mắt đang mở to
vì kinh hoàng. Từng có lúc nó phải vật lộn hồi lâu, để rồi lấy được con mắt
trong trạng thái nửa mê nửa tỉnh. Có lần mỏ nó vô thức nghiền nát cầu mắt,
sau khi lĩnh gọn một nắm đấm của con người. Lại có bận nó lỡ nuốt chửng
cầu mắt vào bụng, trước khi kịp tặng cho cô bé nữa.
Một ngày kia, cô bé đặc biệt vui mừng khi nhận được cầu mắt. Dường
như chủ nhân của cầu mắt này là một người thường đi du lịch nước ngoài.
Cô bé kể rằng có biết bao nhiêu điều thú vị đang tuôn trào từ món đồ nhồi
bông ấy.
Sau khi rời khỏi biệt thự, quạ vô tình bay qua một nghĩa trang. Khu vực
đó nằm trên một ngọn núi không cao lắm, xung quanh chẳng có nhà cửa gì.
Mặt trời đang lặn dần, chỉ còn ánh trăng soi tỏ vạn vật cùng màu trắng nhờ
nhờ phát ra từ những tấm bia mộ san sát dưới màn đêm.
Dường như người ta đang mai táng. Một người đàn ông cầm xẻng đào
huyệt mộ. Quạ đậu trên cành khô, quan sát tình hình. Nằm bên cái huyệt là
một hình người đắp chăn phủ kín thân thể. Quạ nhận ra mảnh quần áo lấp ló
ở rìa chăn. Thi thể này chính là của con người mà lúc trước đã bị nó ăn
cướp cầu mắt. Chắc hẳn người đó đã mất mạng vì chấn động khi con mắt
đột nhiên bị móc ra.
Đợi thi thể nằm yên dưới mộ rồi, quạ đập đôi cánh đen tuyền, rời khỏi
cành cây khô héo. Bóng tối mịt mùng đã ập đến xung quanh, chỉ còn lại ánh
trăng mong manh, yếu ớt.
Càng về đêm, con người lại càng cảnh giác.

“Này, nghe mình nói nhé. Mình… đã quyết định sẽ phẫu thuật rồi đấy.”
Một ngày nọ, cô bé nói với quạ.
Tất cả những cuộc phẫu thuật trước đây đều không thể khiến cô bé nhìn
lại được, nhưng dường như y học đã tiến bộ với một tốc độ nhanh chóng
đến không ngờ.
“Nếu mắt mình khôi phục được thị lực, thì sẽ nhìn thấy bạn rồi.” Cô bé
nói với vẻ vui sướng.
“Vậy thì tốt quá, thưa tiểu thư. Xin chúc mừng cô.”
Dù nói vậy nhưng thực tâm, quạ đang bối rối. Nếu thị lực quay về với
cô bé, chắc hẳn cô sẽ thất kinh khi nhận ra kẻ cùng nói chuyện với mình
trước nay lại không phải con người. Và sẽ biết rằng thứ được gọi là đồ nhồi,
thực chất lại là cầu mắt khoét ra từ những con người khác.
Quạ chưa bao giờ bận tâm đến sống chết của ai, miễn là có lợi cho cô
bé. Nó biết thừa hành động của mình là xấu xa, nhưng tiếc thay, trong trái
tim loài chim ấy chưa hề có chút ý niệm nào về “cảm giác tội lỗi”.
Thế nhưng cô bé hiền lành này, nếu biết rằng vì mình mà một người
khác phải chết đi, thì chắc chắn sẽ dằn vặt bản thân. Rồi trách móc hành
động của quạ. Nó không thể chịu đựng nổi viễn cảnh đó. Mình sẽ phải làm
sao nếu bị cô bé căm ghét đây? Nỗi sợ hãi khi nghĩ đến điều này làm cho nó
không thể nào ngủ được.
Ôi, giá như ta được sinh ra làm người chứ không phải chim chóc, thì sẽ
tuyệt vời hơn biết bao nhiêu!
Trong khi quạ miên man suy nghĩ, thì cô bé ở trước mặt nó đang ngắm
nhìn những hình ảnh của món nhồi bông gắn trong hốc mắt mình.
Đột nhiên, cô thét lên một tiếng thảm khốc.
“Tiểu thư, cô làm sao thế!?”
Quạ giật mình vội hỏi, và cô bé trả lời, giọng run rẩy.
“Mình nhìn thấy quái vật. Thứ khủng khiếp luôn luôn xuất hiện ở đoạn
cuối những cuốn phim. Nó mang màu của bóng tối. Một con quái vật đen
ngòm. Mỗi lần nó xuất hiện, mọi hình ảnh đều chấm dứt, tắt ngóm đi. Con
quái vật báo hiệu kết thúc. Khi giấc mơ gần đến đoạn kết, con vật màu đen
ấy lại lao đến tấn công mình. Khuôn mặt nó đáng sợ lắm…”
Cô bé ôm lấy bờ vai mảnh mai, mặt cắt không còn giọt máu. Đôi môi
như quả dâu tây giờ chuyển màu trắng bệch.
Quạ vỡ lẽ. Con quái vật màu đen làm cô bé sợ hãi từ tận thâm tâm…
chính là nó chứ không ai khác! Sinh vật ma quái mà cô bé nhìn thấy, chính
là hình ảnh của quạ được ghi lại trong những cầu mắt này!
Phải làm sao bây giờ? Rất sớm thôi cô bé sẽ làm phẫu thuật, và đôi mắt
sẽ nhìn lại được. Rồi cô sẽ biết, rằng kẻ đang trò chuyện với mình lại chính
là con quái vật đen ngòm đã khiến mình run rẩy từ góc sâu thẳm nhất của
tâm can.
Đừng phẫu thuật là xong. Nhưng quạ không dám nói thế, trong khi cô
bé rất mong chờ đến ngày con mắt sáng lại.
“Mình sợ phẫu thuật lắm…” Cô bé nói. “Nhưng mình sẽ cố chịu đựng,
để có thể nhìn thấy bạn.”
Để có thể dùng ánh mắt đón chào sinh vật bí ẩn kia, sinh vật ngày nào
cũng tìm đến mình trong tiếng nói. Mong muốn đó chính là cội nguồn dũng
khí thúc đẩy cô bé chấp nhận phẫu thuật.
“Tối ngày mai, để làm phẫu thuật, mình sẽ phải đi đến một thị trấn rất
xa. Nên là hãy đến đây trước lúc đó nhé. Mình muốn được nói chuyện với
bạn.”
Quạ rời khỏi biệt thự, trong tai còn vọng vang lời dặn của cô bé.
Cuối cùng thì ngày đó cũng đến. Trong cái đầu nhỏ bé của mình, quạ
tiếp tục suy nghĩ về cô. Đã bao nhiêu lần nó nghĩ đến việc nói lời tạm biệt
và bay về phương Nam rồi nhỉ? Hoặc là chẳng phải nói năng gì nhiều, miễn
đừng bao giờ đến thăm cô bé nữa là xong.
Nhưng quạ không làm thế. Nếu nó đột nhiên biến mất, chắc hẳn cô bé
sẽ buồn bã lắm. Và bản thân nó cũng sẽ đau khổ, còn hơn bất kì ai khác.
Sau khi nghe tin về cuộc phẫu thuật, quạ vẫn tiếp tục mang quà đến cho
cô bé như thường lệ. Nhưng việc lấy cầu mắt càng lúc càng gian nan. Người
ta bảo vệ mắt rất cẩn thận, có người còn đeo cặp kính đặc chế cứng như đá
nữa.
Con người đâu thể phân biệt được quạ nào với quạ nào. Vì thế đã có bao
nhiêu con chim màu đen vô tội bị súng đạn bắn hạ không hề cân nhắc. E
rằng trong số đó có cả cha mẹ anh em của quạ nữa.
Nỗi khiếp sợ chồng chất càng kích thích tinh thần cảnh giác của người
ta, và quạ chẳng tìm được sơ hở nào để lấy thêm cầu mắt.
Trước hôm cô bé đi phẫu thuật, quạ bay mòn mỏi miệt mài để tìm cầu
mắt. Nó đã lân la đến cả thị trấn ở rất xa mà trước giờ chưa bao giờ lui tới.
Cuối cùng bốn bề tối đen, rồi bình minh tới, báo hiệu ngày cô bé rời đi.
Nhưng quạ vẫn chưa có một cơ hội nào để lấy được mắt cả.
Sau khi cuộc phẫu thuật kết thúc, những món quà sẽ chẳng còn ý nghĩa
gì, nhưng đó là việc duy nhất trong khả năng của quạ.
Mình không biết làm gì khác ngoài tặng cầu mắt cho cô bé, để làm cô
hạnh phúc. Đó là tất cả đối với mình. Trước khi cô bé thực hiện phẫu thuật,
dù chỉ một lần nữa thôi, mình vẫn muốn cô được hạnh phúc. Dù phải mất
mạng cũng thỏa. Quạ mong ước mãnh liệt như vậy.
Nó bị người ta ném đá trúng, nứt cả mỏ. Nó bị người ta rình bắt, tóm lấy
cánh. Mặc dù thoát nạn trong gang tấc, lông cánh nó cũng rụng gần hết. Lúc
bị người ta quật gậy, những móng vuốt mà nó vô cùng tự hào đã long ra. Dù
vậy nó vẫn cố gắng lấy cầu mắt, và dù vậy vẫn không lấy được.
Quạ đập đôi cánh đã tả tơi, tiếp tục bay. Chỉ cần mất tập trung là nó có
thể rơi xuống bất kì lúc nào. Rốt cuộc nó không kiếm được mắt về cho cô
bé. Nghĩ đến đây, nó cảm giác bản thân là một thứ gì đó mới thảm hại làm
sao, và chợt thấy mình rơm rớm nước mắt.
Mặt trời đã lặn, sắp đến lúc cô bé phải đi. Màn đêm thẫm dần, thẫm dần,
mặt trăng bắt đầu rót đầy nhân gian thứ ánh sáng trắng ngà của mình. Dưới
ánh trăng nhễ nhại, quạ chợt nhìn thấy “thứ đó”. Một cái xác đang mai táng
ở nghĩa trang. Khi quạ bay ngang qua khu mộ, người đào huyệt vẫn đang
cần mẫn làm việc.
Một ý tưởng lóe lên trong đầu quạ.
“Này, ở đây vẫn còn người chết đấy…!”
Từ một điểm cách đó không xa lắm, quạ hướng về phía người đào
huyệt, cất tiếng gọi bằng ngôn ngữ con người. Người đào huyệt lộ vẻ kinh
ngạc, hạ xẻng nhìn về phía có tiếng gọi. Cuối cùng ông rời khỏi thi thể, đi
về hướng quạ đang đứng.
Thấy vậy, quạ bay lên từ một vị trí kín đáo để không bị nhìn thấy. Nó
bay vụt qua đầu người đào huyệt, hạ cánh xuống bên cái xác đang nằm cạnh
chiếc hố đào dở.
Quạ đưa mỏ gỡ tấm chăn phủ trên cái xác. Là một cô gái. Quạ chẳng
quan tâm cô ta đã chết theo cách nào. Có không biết bao nhiêu là vết
thương trên gương mặt và thân thể cô. Mũi và miệng đã bị cắt bỏ, một bên
mắt nát bét không còn giá trị gì nữa. Nhưng con mắt bên kia dường như vẫn
bình yên vô sự.
Quạ hạ chiếc mỏ nhuộm màu đỏ máu từ bao nhiêu hành vi tội lỗi trước
đây xuống, chọc vào khuôn mặt của xác chết.

“Ôi ai-đó ơi, mình đã tưởng hôm nay bạn sẽ không tới chứ.”
Khi quạ đến được biệt thự, cô bé đã chuẩn bị đầy đủ để lên đường. Cô
sắp lên ô tô đi rất xa, để trải qua cuộc phẫu thuật.
“Mình sẽ vắng mặt một thời gian. Xong việc mình lại về.”
Quạ đặt cầu mắt lấy từ thi thể lên chiếc bàn tròn. Trên bàn, ngoài lọ hoa
còn một chiếc lọ bằng thủy tinh nữa. Bên trong là tất cả những con mắt mà
nó từng mang đến cho cô. Dường như cô bé định mang cái lọ theo để làm kỉ
niệm.
“Tiểu thư ơi. Chắc chắn phẫu thuật sẽ thành công thôi. Cô phải cố lên
nhé.”
Trên mặt cô bé hiện lên hai lúm đồng tiền duyên dáng, “Cảm ơn bạn.”
“Tôi mang món quà cuối cùng đến rồi đây. Nó đang ở trên bàn ấy, cô
thử đeo vào và mơ đi nhé.”
Quạ cảm thấy tan nát cõi lòng. Nhưng nó đã quyết định rồi. Hôm nay,
vào lúc rời khỏi căn phòng này, nó sẽ nói với cô bé, tiểu thư ơi, từ giờ tôi
không tới đây nữa đâu.
Và nó không bao giờ được nhớ tới cô bé nữa.
Cô bé nhặt con mắt trên bàn, và gắn vào cái lỗ trên khuôn mặt mình.
“Tiểu thư ơi…”
Lời giã biệt nửa chừng của quạ bị cắt ngang vì tiếng thét của cô bé.
Sau tiếng thét kéo dài sắc nhọn, cô giơ móng tay cào cấu mặt mình,
miệng nôn trôn tháo, nằm vật ra sàn nhà co giật chân tay. Hai tay nắm chặt
lấy mái tóc rối tinh rối mù, kéo giật ra như thể không chịu đựng nổi cơn đau
này nữa.
Chiếc lọ thủy tinh đựng nhãn cầu bị đổ nghiêng, đống tròng mắt lăn
lông lốc ra phòng. Có những con đã thối rữa đến mức không giữ được hình
thù, lại có những con còn mới, mềm mại, tất cả la liệt quanh cô bé.
Rốt cuộc, cùng một tiếng kêu the thé như thú hoang hấp hối, cô bé
ngừng cử động. Quạ lại gần, áp tai lên ngực cô bé. Tim đã ngừng đập, cô
chết mất rồi. Khuôn mặt méo mó như vừa chứng kiến một cảnh tượng vô
cùng thảm khốc. Cả mái tóc đen bóng lẫn đôi môi đỏ tựa dâu tây đều
chuyển màu trắng bệch.
Quạ đã không biết được. Rằng thi thể mà nó vừa lấy mắt vốn thuộc về
một con người đã bị tra tấn, chịu bao nhiêu cực hình cho đến lúc chết, đã in
hằn biết bao khổ đau trên nhân gian vào tầm mắt của mình.
Và rồi cô bé đã lỡ nhìn thấy. Địa ngục trần gian mà chủ nhân trước của
con mắt đã phải trải qua, và khoảnh khắc mà người đó lìa đời.
Quạ áp đầu mình lên ngực cô bé. Tấm thân lần đầu nó được chạm tới,
giờ đang lạnh ngắt đi.
Khi bà mẹ bước vào để thông báo sắp đến giờ khởi hành, thì chỉ còn
thấy thi thể con mình trên sàn, giữa vô số cầu mắt, và xác quạ đang gối đầu
lên ngực cô bé, cả hai không còn chút hơi ấm nào.
6

Miki từng mơ thấy con người ta biến thành hình cầu.


Khởi đầu giấc mơ là thế này. Địa điểm là một căn phòng chật chội ở đâu
đó, diện tích khoảng sáu chiếu, có một chiếc ti vi nhỏ và tủ quần áo. Miki
đang đứng đối diện với một người khác trong căn phòng đó.
Người kia đang bị thương ở tay. Là một vết cắt dài vài phân. Miki cầm
lấy cánh tay đó, nhẹ nhàng xoa lên vết thương. Kì lạ thay, y vừa làm vậy thì
da thịt người kia mềm dẻo biến hình như đất nặn, bề mặt cánh tay trở nên
bóng loáng không tì vết. Cả vết thương cũng biến mất như bị tô đè lên.
Miki điềm tĩnh ngắm nhìn dấu vân tay của người kia. Khi y xoa lên
những đường nét lồi lõm phức tạp, bề mặt liền phẳng ra như thể bị người ta
dùng cái muôi cán dẹt.
Cứ như thế, Miki lấy đi những chỗ lồi lõm từ người kia, giống như đang
nhào một viên đất nặn. Y nắm chặt lấy những ngón tay của người ta. Nắm
ngón tay ban đầu bị bóp mạnh, biến thành một “ngón tay” duy nhất. Khi
Miki dồn sức nhào nặn hơn nữa, cơ thể người đó lõm lại, càng lúc càng
mang dáng dấp của hình tròn.
Từ đầu đến cuối, người kia vẫn duy trì ý thức. Tuy không nói gì nhưng
ánh mắt tỉnh táo cứ hướng về Miki. Cuối cùng cơ thể người ta gần như
không còn một phần nào nhô ra nữa, mà đã biến thành một khối cầu bóng
loáng. Khối cầu ấy trắng và nhẵn đến đáng sợ. Những túm lông đen mọc rải
rác như để thông báo đây từng là một con người. Và trên bề mặt khối cầu
còn sót lại lẻ loi một con mắt không bị nhào nhuyễn như những bộ phận
khác.
Con mắt đó chớp chớp, đuổi theo dáng hình Miki đang dạo bước. Còn
bản thân người kia không động đậy được nữa, vì đã biến thành một khối
cầu hoàn chỉnh. Ngay cả khi y bước ra khỏi căn phòng rộng sáu chiếu,
người ta cũng chỉ còn cách chằm chằm nhìn theo bằng con mắt bé nhỏ mà
thôi.
“Ôi, Miki lại ngủ quên mất rồi.”
Aizawa Hitomi nhận xét khi thấy y mở mắt ra. Cô bé đang nằm trên
chiếc sofa trong thư phòng, giết thời gian bằng cách dùng cơ bụng để bật
nhảy phần thân nằm gọn trong chiếc túi vải. Cơ thể tí hon ấy nảy tưng tưng
nhờ lực đàn hồi của sofa. Cô bé có vẻ thích thú lắm.
Miki sắp xếp lại tập bản thảo đang viết dở rồi nhìn ra cửa sổ. Bầu trời
phủ đầy mây. Chắc là sắp mưa rồi. Miki vặn lửa trong lò sưởi to hơn, rồi
nhấc ấm nước đang tỏa hơi nóng để pha cà phê.
“Cà phê thơm quá nhỉ.” Hitomi bình luận. “Sao Miki lại phải bật lò
sưởi? Trời có lạnh lắm đâu?”
Miki giải thích cho cô bé rằng những người bị y hành hạ xong mà
miệng vết thương còn chưa lành lại, thì gần như không cảm nhận được
nóng lạnh.
“Vậy là vết thương của em vẫn chưa lành sao?”
Miki lại giải thích rằng cô bé đã bị chặt cả hai tay hai chân, đến tận bây
giờ miệng vết thương vẫn còn đỏ hỏn.
Y cầm tách cà phê lại bên cửa sổ, trông ra nơi chôn cất Kaneda. Những
cành cây khô cản trở làm y không nhìn được xuống tận mặt đất. Từ cửa sổ
tầng hai có thể bao quát toàn bộ khu rừng. Quanh biệt thự có rất nhiều cây
cối chết khô. Ra xa một chút thì sẽ đến rừng tuyết tùng.
Ở ngọn núi mãi đằng kia, Miki trông thấy một ngôi nhà khác cũng xây
gạch trần, rất giống biệt thự của mình. Đến hình dáng mái nhà cũng giống,
chỉ có duy nhất một điểm khác biệt, chính là màu sắc.
“Miki lại thấy có ai ở ngoài đó à?” Hitomi hỏi.
Đã bốn ngày trôi qua kể từ khi Kaneda Tadashi được chôn cất ở sau
nhà.
Miki rời khỏi cửa sổ, mở ngăn kéo bàn. Trong đó có thứ rơi gần biệt thự
mà y nhặt được.
“Mình đang bị người ta theo dõi nhỉ. Bằng chứng rành rành đây mà.
Còn không thì làm sao có chuyện đồ sở hữu của ai đó lại từ trên trời rơi
xuống được cơ chứ.”
Nhưng vấn đề là Miki chưa nhìn thấy tận mắt. Cần phải xác định được
ai là kẻ đã nghi ngờ mình đến mức lần mò quanh biệt thự này. Y vừa nhìn
thứ bên trong ngăn kéo, vừa suy nghĩ xem đây có thể là đồ của ai. Liệu có
phải là người y quen biết không nhỉ?
“Thế sau đây Miki định làm gì? Còn em thì muốn gặp lại mẹ quá. Em
muốn về nhà.” Hitomi vẫn nằm trên sofa, chỉ xoay đầu về phía Miki. Mái
tóc dài đen nhánh che kín khuôn mặt cô bé. “Em nghĩ rồi cũng nên ra đầu
thú đi thôi. Bên cảnh sát sẽ tha lỗi cho mà.”
Miki giải thích với Hitomi rằng mình không có ý định ra đầu thú.
“Thế tức là em vẫn chưa về nhà được rồi…”
Cô bé nói với giọng ỉu xìu. Miki bèn đề nghị kể chuyện cho Hitomi
nghe.
“Truyện gì cơ?”
Miki chọn bừa vài quyển trên giá sách. Một trong số đó là sách do y tự
viết.
“Đồng thoại đen chứ gì. Hồi trước em nghe kể rồi. Nội dung như là
cảnh ngộ của anh Shinichi với chị Yukie ấy.”
Đó là một câu chuyện đồng thoại mang tên “Vòng xoắn người”. Truyện
kể về một nhóm người bị bắt đứng lên khay, bị ác ma khổng lồ bóp nghiến
giữa hai lòng bàn tay. Kết quả là những người đó biến thành một khối thịt
khổng lồ và rối rắm, tay chân gãy nát vặn vẹo, phần thân thì bị kéo căng ra,
cổ và gót chân gặp nhau một chỗ. Nhóm người ấy cố gắng vùng vẫy gỡ rối
đống tay chân ngoắc vào nhau, cứ thế sống nốt phần đời còn lại.
Hitomi cảm thấy tình cảnh ấy rất giống với Hisamoto Shinichi và
Mochinaga Yukie trong căn phòng ngầm.
“Thôi kể truyện khác đi. Cuốn sách bỏ túi kia kìa. Không phải, quyển
đang cầm bên tay phải ấy.”
Cuốn sách mà Hitomi muốn được đọc cho, là một tuyển tập truyện ngắn
khoa học viễn tưởng từ lâu lắm rồi. Miki ngồi xuống sofa, đọc cho cô bé
nghe câu chuyện được chọn làm tên sách. Vì là truyện ngắn nên chỉ một
loáng đã đọc hết.
“Kết thúc cứ buồn buồn sao ấy.”
Khuôn mặt Hitomi tái xanh, như thể choáng váng vì câu chuyện vừa
nghe. Quả thật đoạn kết truyện ngắn này không được có hậu cho lắm.
“Nếu rơi vào hoàn cảnh của nhân vật chính trong truyện ngắn vừa rồi,
thì Miki sẽ làm thế nào?”
Hitomi đặt câu hỏi. Đại khái có thể phân tích được thành những điều
kiện và câu hỏi như sau.
Điều kiện:
- Bạn đang ở một mình trên con tàu vũ trụ cỡ nhỏ.
- Con tàu đang vận chuyển hàng hóa đến một hành tinh nào đó. Kiện
hàng là huyết thanh, nếu không đến đích thật nhanh thì sẽ có rất nhiều
người chết.
- Vì ưu tiên mang thật nhiều hàng hóa, nên nhiên liệu trên tàu bị giới
hạn đến mức tối thiểu. Nói cách khác là chỉ đủ nhiên liệu để tăng tốc động
cơ, và dừng tàu lại khi hạ cánh xuống hành tinh mà thôi.
- Trong trường hợp có “hành khách” đi lậu trên tàu, bắt buộc phải đẩy
người đó ra khoảng không vũ trụ. Bởi vì trọng lượng của hành khách sẽ làm
tàu nặng thêm, dẫn đến không đủ nhiên liệu tối thiểu để dừng tàu lại. Không
được phép ném bỏ lượng hàng hóa bằng trọng lượng người khách đó hay
phá nổ luôn con tàu vũ trụ.
Câu hỏi: Nếu hành khách đi lậu là một cô gái trẻ tuổi dễ thương, bạn có
đẩy người đó ra ngoài vũ trụ không?[4]

“Tất nhiên là không được phép quay tàu lại. Trên hành tinh đang có rất
nhiều người chờ kiện hàng đến. Nếu không đẩy người đi lậu ra bên ngoài,
phi thuyền sẽ không đủ nhiên liệu để giảm vận tốc, và không thể thuận lợi
hạ cánh xuống đích đến. Giống y như trong truyện ngắn kia. Chẳng lẽ
không có cách nào để cứu cô ấy sao?”
Hitomi nhắm mắt lại và bắt đầu suy nghĩ. Miki cũng nghĩ ngợi một
chút, rồi giải thích rằng tùy vào tình hình, hoàn toàn có thể giải cứu được.
Nghe vậy khuôn mặt Hitomi sáng bừng lên, cô bé cao giọng đầy thích thú.
“Thực sự có thể được sao? Có thể cứu được cả cô gái đó, lẫn những
người đang chờ huyết thanh sao?”
Miki trả lời là có thể, nếu như những điều kiện về trang thiết bị và hệ
thống điều khiển trên tàu, cùng với trọng lượng của cô gái đi lậu và người
phi công (tức là chính mình) đều thuận lợi.
Đầu tiên phải có dụng cụ để tách bỏ tay chân của cô gái. Tức là phải có
thứ gì dùng để cắt được.
“Trên tàu vũ trụ không có rìu đâu.” Hitomi nói.
Cần phải chặt tay chân cô gái để giảm trọng lượng hết mức có thể.
Những phần bị cắt đem quăng ra ngoài vũ trụ. Việc hành khách đi lậu là trẻ
con sẽ trở thành yếu tố có lợi cho giải pháp này. Phù hợp nhất là hành khách
thấp bé nhẹ cân, còn phi công thì to lớn nặng nề.
Sau khi cô gái chỉ còn lại đầu và thân, cần phải cắt xén cơ thể của chính
mình rồi vứt ra bên ngoài tàu để bù nốt cho trọng lượng của cô. Cuối cùng
tổng trọng lượng còn lại trên phi thuyền sẽ được giảm xuống, đủ để sử dụng
lượng nhiên liệu tối thiểu và đáp xuống hành tinh an toàn.
“Nhưng mà, đã cắt cơ thể mình đi rồi thì làm sao mà lái tàu được nữa?
Nếu hai chân bị chặt bỏ để làm tàu vũ trụ nhẹ hơn bằng đúng phần của cô
gái kia, thì không đạp được phanh đâu.”
Tuy Hitomi phản đối như vậy, nhưng nhìn nét mặt, thì có vẻ cô bé cũng
tạm tán đồng với Miki.
“À, nhưng mà còn một điều nữa Miki quên tính đến rồi. Phải có thuốc
an thần nữa chứ. Cô gái bị chặt chân tay có thể sẽ chết vì sốc. Còn bản thân
mình thì không điều khiển nổi tàu vì đau đớn. Ưm, tất nhiên là thế rồi. Trời
ạ, đừng có nghĩ bất kì cô bé nào cũng có thể giữ vẻ tỉnh queo khi bị cắt mất
tay chân chứ.” Rồi Hitomi nhìn cơ thể mình, nói tiếp. “Tất nhiên là… trừ
em ra.”
Y bế Aizawa Hitomi đã ngủ quên xuống phòng ngầm. Tầng hầm của
biệt thự vừa tối tăm vừa ẩm thấp. Nước bám thành giọt trên những bức
tường gạch, phản chiếu ánh sáng lờ mờ của chiếc đèn. Ở trong một góc
phòng ngầm, vẫn còn vài chục sợi dây cước đang buông lủng lẳng. Đầu mỗi
sợi dây đều có gắn móc câu, và trên mỗi cái móc vẫn còn dính mấy mẩu thịt
đỏ hỏn. Là một phần nội tạng của Kaneda. Rồi chúng cũng sẽ sớm thối rữa
thôi.
Khi Miki đặt cô bé xuống giường, Hitomi cựa quậy trong chiếc túi đựng
thân thể, và nói mê, “Mẹ ơi…”
Miki quay lưng về phía cô bé, dợm bước đi. Đúng lúc ấy, có tiếng
Hisamoto Shinichi vang lên từ phía bên kia dãy giá để đồ, “Cậu đã bao giờ
hỏi chuyện gia đình của Hitomi chưa?”
Căn phòng ngầm được các giá gỗ chia thành nhiều gian nhỏ. Thân thể
Yukie và Hisamoto vẫn đang lấp ló đằng sau một trong các giá ấy như mọi
khi. Khi Miki di chuyển đến chỗ hai người đó, y thấy đầu Hisamoto đang
nhìn thẳng vào mình. Còn đầu Yukie chìm trong bóng tối nên không nhìn
rõ, nhưng có vẻ như cô đang ngủ.
“Con bé thường kể chuyện ngày xưa với chúng tôi, gọi với qua cái giá
này này. Như là hồi đi cắm trại với gia đình. Rồi còn chuyện bao giờ nó
cũng được giải nhất thi chạy ma ra tông, nào là nó vốn ghét xúc xích Đức,
mà lần nào đi tham quan mẹ cũng cho vào cơm hộp…”
Hitomi rất hay kể về quá khứ của mình. Cô bé hoài niệm về cuộc sống
bình thường khi còn đầy đủ chân tay. Những buổi sáng tự mình cầm lược,
tự chải mái tóc bù xù, tự cầm cốc sữa bò lên uống, rồi đá chân với bạn bè
dưới gầm bàn ở lớp nữa. Mỗi lần kể chuyện, Hitomi đều động đậy tứ chi đã
không còn để miêu tả hành động của mình lúc đó.
“Đoán xem em đang làm gì đi?”
Có lần Hitomi đã nói với Miki như thế, bấy giờ cô bé đang ngồi trên
sofa. Ánh mắt cô hướng xuống khoảng không trước ngực mình, còn bả vai
trái bọc trong chiếc túi thì bận rộn di chuyển lên xuống.
“Không đoán ra à? Tất nhiên là làm trứng ốp lết rồi.”
Miki hiểu rằng tay trái cô bé đang cẩn thận đong đưa chiếc chảo rán vô
hình, chắc là cố lật mặt trứng.
“Hitomi được nuôi lớn trong tình yêu thương.” Hisamoto hỏi. “Còn cậu,
đã bao giờ yêu thương ai chưa?”
Miki trả lời rằng mình không biết.
“Trước đây cậu từng kể cho tôi nghe rồi nhỉ. Kỉ niệm về người bạn thân
thuở ấu thơ. Chắc cậu phải yêu thương người đó chứ?”
Miki nghiêng đầu.
Mặt Hisamoto nhăn nhúm vì đau khổ. Anh hạ thấp giọng, nói như đang
thì thầm vào tai ai đó.
“Lồng ngực tôi đau quá. Cứ nghĩ về cô ấy là tôi lại không biết phải làm
sao. Bản thân mình thì bất lực đến thế này, chỉ muốn chết quách đi cho
xong.”
Anh yêu Mochinaga Yukie. Nhưng luôn cố gắng hết sức để giấu giếm
lòng mình. Chỉ những khi cái đầu của cô đã ngủ, anh mới dám âm thầm thổ
lộ cảm xúc ấy với Miki.
Hisamoto di chuyển cơ thể khổng lồ. Phần thân dài hơn hẳn so với
người bình thường, phải đến một mét rưỡi. Ở hai phía xa nhau là hai cái đầu
của anh và Yukie. Đây là kết quả cuộc phẫu thuật của Miki. Hai người này
giờ dùng chung thân thể. Ban đầu họ là hai cá nhân hoàn toàn tách biệt.
“Cậu đã biến chúng tôi thành cái dạng này để thử nghiệm năng lực kì
diệu trú ngụ trong bản thân mình. Tôi không biết mình nên cảm ơn, hay là
nguyền rủa cậu nữa.” Hisamoto rống lên thống khổ.
Sẽ ra sao nếu thử nối kết con người lại với nhau? Miki đã tiến hành
phẫu thuật để tìm lời giải cho câu hỏi đó.
Đầu tiên y cắt trụi cánh tay phải của Hisamoto từ cùi chỏ trở đi. Tay trái
của Yukie cũng tương tự, sau đó y thử nối hai cánh tay đó với nhau tại chỗ
vừa bị chặt. Xương cốt được giữ cố định bằng nẹp sắt, còn mạch máu và
gân thịt thì nối lại bằng chỉ. Miki gần như không có kiến thức về y học. Y
chỉ mới đọc qua những cuốn sách của cha. Nhưng rồi vết cắt cầm máu, và
hai cánh tay tách biệt được nối liền. Mạch máu cũng phục hồi mà không
gặp phải vấn đề gì. Dòng máu chảy trong người Hisamoto được đẩy đi từ
tim, hướng ra tay phải, rồi chảy vào huyết quản của Yukie tại chỗ vết cắt.
Cơ thể hai người đã dùng chung một dòng máu. Nhóm máu của hai người
này giống nhau, nhưng Miki không cho rằng điều đó ảnh hưởng đến kết
quả. Cho dù nhóm máu có khác nhau thì chắc cũng thành ra thế này thôi.
Hơn nữa, cả gân thịt và dây thần kinh của người này cũng đang dần ăn
sâu vào cơ thể người kia qua vết cắt, mặc dù tốc độ tương đối chậm rãi.
Ranh giới giữa hai cơ thể từ từ bị xóa nhòa.
Cả hai còn nguyên ý thức. Họ biết được sự tồn tại của người kia, cũng
biết luôn cơ thể của mình đang biến đổi thế nào. Cặp đôi gặp nhau lần đầu
tại phòng ngầm này. Một người lảng vảng gần biệt thự, còn người kia vốn là
độc giả trung thành của Miki, đã gửi cho y một lá thư ám chỉ bản thân mình
sắp tự sát, nên Miki gọi luôn đến nhà.
Miki tiếp tục cắt rời và chắp dính những bộ phận khác trên cơ thể hai
người đó. Thân thể của Hisamoto và Yukie bây giờ trông giống một khối
thịt kì lạ. Phần thân mỗi người bị cắt rạch hai đến ba chỗ, sau đó lại cho
dính với nhau. Vùng ổ bụng giờ đây giống hệt một cái túi trương phềnh,
chức năng duy nhất là bảo vệ nội tạng của họ hòa hợp bên trong. Còn tay và
chân thì được khâu vào vị trí khác với bình thường.
Cặp tay chân bị cắt rời của Aizawa Hitomi cũng được đem gắn cho cơ
thể hai người này. Nhưng từ xương cốt cho đến gân thịt đều không chịu kết
nối. Chỉ có động mạch chủ là chịu hòa làm một với huyết quản của hai
người kia, để dòng máu có thể lưu thông bình thường.
Những con người bị Miki tra tấn không phải chịu số phận phân hủy thối
rữa, nhưng những phần cơ thể bị cắt rời thì khác. Nói chính xác hơn là
những bộ phận bị cắt rời khỏi cái đầu và quả tim, là nơi mà Miki cho rằng ý
chí của sinh mệnh luôn trú ngụ. Những bộ phận đó sẽ rữa dần, cuối cùng trở
về với đất mẹ như con người bình thường.
Đáng lẽ tay chân của Aizawa Hitomi cũng phải chịu chung số phận. Thế
nhưng từ khi được nối kết vào cơ thể của Hisamoto và Yukie, có dòng máu
tuần hoàn chảy qua, nó không bộc lộ dấu hiệu gì đáng ngại. Bộ phận mới
gắn vào này ban đầu thì im lìm, thế nhưng về sau đã hơi động đậy được,
không biết là nhờ ý chí của Hisamoto hay Yukie.
Chẳng biết tự bao giờ một thứ vật chất cứng cáp như xương cốt đã hình
thành trong cơ thể hai người, hỗ trợ cho phần xương có sẵn trong cặp tay
chân vốn thuộc về Aizawa Hitomi. Về hình dáng trông nó giống với khớp
xương bình thường, nhưng thực chất là một cơ quan hoàn toàn mới. Cả gân
thịt và dây thần kinh cũng dần ăn sâu vào cơ thể, giống như thực vật bám
rễ, cặp chân tay mới này cũng hòa làm một với khối thịt kia.
Thời gian đầu chỉ có mắt là đung đưa được, nhưng qua một thời gian,
đến cả đầu ngón tay cũng đã có thể cử động đàng hoàng, một cách có chủ ý.
Miki đã hỏi hai người đó xem não bộ của ai đang điều khiển chân tay
Hitomi.
“Không biết nữa. Có thể là tôi, mà cũng có thể là anh ấy. Bây giờ mọi
thứ đều mông lung, tôi cũng sắp không còn biết gì nữa rồi…”
Trong ánh nắng, Yukie nói với vẻ mặt đờ đẫn như đang gà gật ngủ.
Trong khối thịt chứa cả não bộ của Hisamoto và Yukie, khó mà phân
biệt chính xác ý chí của bên nào đang điều khiển hành động. Nhưng lạ lùng
thay, trông họ cũng không có vẻ gì là bận tâm.
“Chúng tôi thường xuyên trò chuyện với nhau. Kể lại cái lúc bị cưa xẻ
làm trăm ngàn mảnh, lòng bẽ bàng đến mức nào, buồn đau đến mức nào…”
Hisamoto nói. Anh vốn là trẻ mồ côi, không họ hàng thân thích. Vì thế
dường như anh cảm nhận được hơi ấm từ Yukie, người không bao giờ có
thể rời xa mình. Anh ra sức động viên Yukie, vốn đã tuyệt vọng với cuộc
sống và quyết định tự sát, từ một vị trí gần gũi hơn bất kì ai khác.
“Nhưng mà, như thế này mới tàn ác làm sao…” Hisamoto thốt lên với
vẻ mặt như sắp khóc. “Đã đến nước này rồi, sao không khâu cổ chúng tôi
lại gần nhau hơn một chút…”
Cổ và đầu hai người bị nối vào hai cực đối diện nhau của phần thân.
Khối thịt ấy lăn lộn, oằn oại trước mắt Miki. Dưới ánh điện, cái bóng của
họ in lên to tướng trên tường phòng ngầm.
“Đã tỉnh rồi cơ à? Tôi cứ tưởng là cô ấy đang ngủ.”
Cái đầu của Hisamoto lên tiếng. Và một giọng khác vang lên từ phía đối
diện với anh, ở nơi anh không nhìn thấy do bị thân thể mình che khuất.
“Thì tại vì, mãi mà tôi vẫn chưa tìm ra được…” Là giọng nói khó nhọc
của Mochinaga Yukie. “Chẳng lẽ không có lấy một dáng nằm nào tiện lợi
sao?”
Hai người này luôn luôn cố tìm tư thế sao cho thoải mái nhất. Khi
Hisamoto ngẩng mặt lên, thì má Yukie lại bị áp xuống sàn nhà. Còn khi
Yukie nằm thoải mái, thì cái cùi chỏ thò ra của Hisamoto lại bị sức nặng của
hai người đè lên, làm anh kêu rên đau đớn. Cứ như thế, họ ngọ nguậy hàng
giờ liền, cố tìm kiếm một tư thế thoải mái cho cả hai người. Nhưng bao giờ
cũng phải có một trong hai chịu hi sinh, phải chịu cảnh bị người kia chèn
ép.
Chắc hẳn vì nhìn thấy tình cảnh này, mà Aizawa Hitomi mới bảo họ
giống với nhân vật trong “Vòng xoắn người”.
“Rốt cuộc sức mạnh đó là cái gì thế?” Hisamoto hỏi Miki. “Theo lẽ
thường thì chúng tôi đã phải chết rồi. Không thể nào sai được, chắc chắn
cậu là con của thần linh. Những thứ bị cậu giày vò hành hạ, từ thời khắc đó
đã lệch khỏi vòng quay luân hồi. Tôi có thể cảm nhận dòng chảy sinh mệnh
đang tràn ngập ở miệng vết thương. Mâu thuẫn mới đáng sợ làm sao. Cậu
có khả năng bắt người ta phải tiếp tục sống. Giải phóng họ khỏi thứ luân lý
tự nhiên đáng ra đã đưa tất cả về với cái chết…”
Miki quay gót khỏi Hisamoto và Yukie. Lúc dợm bước ra khỏi phòng
ngầm, y liếc về phía đống gỗ và gạch chất đầy một góc phòng. Có lẽ sắp
đến lúc phải lấp cửa phòng ngầm lại rồi. Nguyên liệu đã chuẩn bị đầy đủ.
Vẫn còn thừa một ít gạch dùng từ hồi xây biệt thự. Nếu như không bắt được
vị khách vãng lai nhòm ngó biệt thự này, thì bắt buộc phải làm như vậy.

Vài ngày sau, Miki có khách đến thăm nhà…


7

Dù tin chắc Shiozaki là thủ phạm, tôi vẫn không đủ bằng chứng để
khởi tố anh ta. Chẳng biết tôi đã nghĩ đến chuyện gọi điện cho cảnh sát bao
nhiêu lần rồi. Tôi cứ liên tục nhấc ống nghe lên, rồi lại đặt xuống. Tôi
không nghĩ rằng sẽ có ai tin vào những điều tôi đã trải nghiệm, hay là kết
luận cuối cùng của tôi. Bởi vì tôi không có bằng chứng vững chắc để thuyết
phục mọi người.
Trong suốt một tuần, tôi cố gắng thu thập thông tin về Shiozaki. Nói là
“thu thập” thôi, chứ tôi cũng không thể trực tiếp hỏi chuyện ai đó, nhờ họ
cho mình biết về anh ta được. Tôi không muốn tiến hành lộ liễu quá. Nếu
anh ta biết tôi đang nghi ngờ, nhỡ đâu Aizawa Hitomi sẽ gặp nguy hiểm.
“Tôi nghe nói, hồi trước người đó từng kết hôn rồi.” Một ngày kia,
Sumida nói với tôi như vậy tại Rừng Trầm Uất. Anh ta lại ngồi bên quầy
như mọi khi, chăm chú nhìn chị Saori pha cà phê.
“Sumida này, em không cần lên trường à?” Giọng chị Saori nghe như
nói với một đứa trẻ khó bảo.
“Thế chị nghĩ giữa đến đây với cả đi học, việc nào quan trọng hơn?”
Sumida đáp lại bằng nét mặt không hiểu nổi tại sao chị Saori lại hỏi như
thế. Lần nào tôi cũng ngồi bên cạnh quan sát, khi anh ta trả lời kiểu đó thì y
như rằng ông Kimura sẽ nổi quạu. Ông sẽ gõ đầu anh bằng cái khay tròn
màu bạc. Nhưng tất nhiên đó không phải cơn thịnh nộ thực sự, bởi vì trên
gương mặt ông lúc đó phảng phất nụ cười đùa.
“Shiozaki từng có vợ ạ?”
Nghe tôi hỏi, Sumida trỏ bức tranh treo trên tường, “Nhìn cho kĩ nhé. Ở
trên bờ hồ, có một chấm màu đỏ gần như không thấy được đúng không?”
Tôi đưa mặt lại gần bức tranh Shiozaki vẽ. Trước giờ tôi chưa từng nhận
ra, nhưng đúng như anh Sumida nói, có một chấm màu đỏ không tự nhiên.
“Theo tôi thì cái chấm đó nhìn giống hình bóng một người phụ nữ đang
ngắm cảnh hồ. Khi hỏi thử Shiozaki, ảnh nói đấy là nơi người phụ nữ kết
hôn với ảnh từng đứng.”
Chấm đỏ tương đối nhỏ nếu so với toàn thể bức tranh, không ghé sát
mặt lại thì không nhìn rõ được. Tôi cũng thấy khá giống một người phụ nữ
đang đứng. Người phụ nữ mặc quần áo màu đỏ, được vẽ với kích cỡ to
bằng đầu ngón tay.
Bất thần, hồ nước và rừng cây biến mất. Mắt tôi dính chặt vào người
phụ nữ chấm đỏ. Tôi cảm giác rằng tất cả cảnh vật xung quanh được vẽ chỉ
để tôn cô lên. Cả cánh rừng hay hồ nước, đều là một khu vườn rộng lớn
dâng hiến cho người con gái bị giam giữ trong bức tranh này.
“Còn họ có kết hôn thật không thì tôi cũng chẳng rõ.” Sumida nhún vai.
Tôi không có thông tin giá trị gì, như gia đình hay lai lịch Shiozaki. Ai
đã giới thiệu căn biệt thự cho anh ta nhỉ? Và tại sao anh ta lại cất công
chuyển đến sống ở một nơi khỉ ho cò gáy thế này nữa? Không ai biết được.
Tôi ở nhờ nhà Ishino trong suốt thời gian điều tra về Shiozaki. Tôi ăn
sáng cùng bác và chị Saori, đi lướt qua nhau trong hành lang, đá chân vào
nhau dưới chân bàn sưởi. Mặc dù còn hơi ngại ngùng, nhưng đôi lúc tôi đã
có thể sống thân mật đến mức suồng sã, trong gia đình vốn là của Wazuya.
Ngày nào tôi cũng gọi điện về cho cha mẹ. Tôi nói lời xin lỗi, và ăn năn
vì tội đã bỏ nhà ra đi.
“Con hồi trước đâu có tùy tiện thế này chứ…”
Giọng cha ở đầu dây bên kia bao giờ cũng đầy vẻ phiền muộn. Còn mẹ
thì không chịu nói chuyện với tôi, cho dù chỉ là qua điện thoại. Cả tôi và bà
đều im lặng, để rồi rốt cuộc mẹ lại chuyển máy cho cha.
“Con cũng lo về sớm đi. Còn phải lên viện kiểm tra định kì nữa mà.”
Cha dặn.
Những lúc tạm rời khỏi băn khoăn về Shiozaki, thư thái hơn về mặt tinh
thần, tôi lại cùng chị Saori rửa bát, cả ở quán lẫn ở nhà bác, tôi và chị đeo
tạp dề đứng bên nhau, vừa vô tư tán chuyện vừa tắm đống cốc chén trong
một bể toàn bọt xà phòng. Tôi nhớ có lần chị ôm một chồng bát đĩa rất to
bằng cả hai tay.
“Á, nó rơi mất nó rơi mất…!”
Chị Saori kêu oai oái. Nước mũi chị lòng thòng, nhưng chẳng còn tay
nào để đưa lên lau nữa.
“Đây, thế này được chưa ạ?”
Tôi đưa khăn giấy lên chùi hộ, rồi chị Saori cảm ơn tôi bằng cái giọng
nghẹt mũi đến thương, nghe cứ như một đứa trẻ con.
Một ngày dông bão, khi không khí bên ngoài rên lên ầm ầm, chúng tôi
ngồi trong nhà chơi bài cho qua buổi tối. Chỉ có bàn sưởi với lò sưởi thì
không đủ chống lại cái lạnh, nên hai đứa đều mặc thêm áo bông dày, ngồi
thu lu đối diện nhau. Không nghe thấy bất kì âm thanh nào ngoài tiếng gió,
làm tôi có cảm giác thế gian này chỉ còn mình và chị.
Vừa đánh ra con Át bích, chị vừa hỏi chuyện giữa tôi và Wazuya.
Dường như chị muốn tìm hiểu một khía cạnh chị chưa từng biết tới ở cậu
em. Trong lúc tôi cố đánh trống lảng thì chị đột ngột phá lên cười. Tôi thầm
nghĩ, bà chị này đúng là chẳng biết đâu mà lần.
“Chị vừa nhớ lại hồi Wazuya ăn bộ bài tây.” Chị Saori vừa chia bài vừa
nói. “Lúc đó nó còn nhỏ lắm. Chị đã nghĩ rằng mình thân là chị lớn, phải
chăm sóc đứa trẻ ấy thật cẩn thận.”
Lúc Wazuya đưa quân bài bằng giấy lên miệng nhai rau ráu, chị đã
không biết phải làm sao. Chị hạnh phúc kể cho tôi về kí ức khi ấy.
Tôi cười khì gật đầu, lồng ngực chợt se lại vì cảm thấy chị Saori và
Wazuya mới đáng yêu làm sao. Đến mức làm cho tôi muốn òa khóc.
“Chị Saori còn nhớ đám tang ba mẹ không?” Tôi hỏi khi đến lượt mình
xào bài. “Em nghe Wazuya kể kì lạ lắm. Trong tang lễ, chị Saori và Wazuya
cùng đứng bên nhau trên ngọn núi cách xa nhà một chút. Còn có thể nhìn
thấy rất nhiều người mặc tang phục màu đen đứng bên dưới nữa…”
Đây là hình ảnh mà tôi đã thấy trong mắt trái. Có một thanh niên mặc
đồ đen tiến lại gần hai chị em. Anh ta nói gì đó khiến chị Saori rơm rớm
nước mắt. Đến ánh mắt của anh cũng đượm buồn.
Tôi muốn biết chính xác điều anh ta đã nói. Con mắt trái của tôi không
truyền tải được âm thanh. Chị Saori bấy giờ còn bé con, đã ôm lấy anh ta
mà khóc.
“Có chuyện như thế cơ à… Nhưng chị chỉ nhớ mang máng thôi.” Chị
Saori gối cằm lên hai tay, nhắm mắt lại. “Người thanh niên ấy chính là
nguyên nhân gây ra tai nạn của ba mẹ chị. Là cậu con trai đã không buộc
chặt kiện hàng hôm đó…”
Chị Saori đã từng nói rằng chàng thanh niên ấy cũng đáng thương. Bây
giờ nghĩ lại, lúc đó anh ta còn non dại, vừa mới tốt nghiệp cấp ba. Anh đã
xin lỗi chị Saori và Wazuya biết bao nhiêu lần, đã kể cho hai chị em nghe
cảnh ngộ tha hương cầu thực của mình, và về cha mẹ mình nữa…
“Sao anh ta lại kể cho chị Saori nhiều chuyện như vậy?”
“Chắc là, muốn có người lắng nghe.”
Hai tuần sau tang lễ, chàng thanh niên treo cổ tự tử. Trong di thư, anh
thú nhận không chịu đựng nổi cảm giác tội lỗi.
Chị Saori lặng lẽ kể với tôi như thế.

Trong lúc nghỉ giải lao giữa cuộc điều tra Shiozaki, tôi cho tập tài liệu
ghi kí ức mắt trái vào trong cặp đeo và đi dạo quanh thị trấn. Tài liệu bây
giờ nặng trịch, vừa ôm nó vừa đi, tôi có cảm giác mình giống nhà sư khổ
hạnh.
Mặc dù cần phải tìm bằng chứng về vụ bắt cóc và cầm tù, tôi vẫn không
thể ngăn bản thân lần theo những dấu chân của Wazuya. Tôi đi quanh thị
trấn, đứng giữa những khung cảnh mà anh từng nhìn thấy. Tôi còn đến ngôi
trường tiểu học của Wazuya, để bản thân đắm mình vào hoài niệm.
Trên đường quốc lộ xuyên qua thị trấn có một siêu thị, và đằng sau nó
có một khoảng trống giữa tường nhà và tấm lưới mắt cáo. Hồi thiếu niên
Wazuya hay dạo chơi ở đây. Tôi cũng đang bước đi ở đó. Về điểm nhìn
đương nhiên tôi bây giờ cao hơn anh hồi đó nhiều, nên cảnh vật cũng không
tương đồng hoàn toàn. Nhưng lồng ngực tôi vẫn xốn xang, cảm giác như
mình được hóa thân thành Wazuya thời niên thiếu.
Tôi đi dọc con đường dưới những cây cột điện, dừng chân tại một công
viên vắng vẻ, hiu quạnh và chăm chú lắng nghe.
Thị trấn này có nghề làm gỗ. Tôi nghe thấy tiếng cưa máy vang vọng
trong không gian, thấy người ta đang đốn một thân cây. Người đàn ông mặc
đồng phục nhấn lưỡi cưa xoay cao tốc ăn sâu vào gốc cây, mùn cưa bắn
tung tóe xung quanh. Tôi định nhìn kĩ hơn thì bị xua ra xa, vì lý do nguy
hiểm. Cuối cùng tiếng răng rắc của cành gãy vang lên, và thân cây đổ sập
xuống.
Tôi lấy tập tài liệu từ túi đeo chéo, vừa nhìn nó vừa đi dạo trong thị trấn.
Nó đang thực hiện vai trò của sách hướng dẫn du lịch.
Tôi đỡ những ghi chép về mắt trái bằng một tay, còn tay kia lật từng
trang. Vì tôi đang đeo găng nên việc này khá khó khăn. Tay đỡ quyển sổ
của tôi còn bị sức nặng đè xuống đau nhức.
Cứ bước đi trong những cơn gió lạnh hun hút như thế, rốt cuộc tôi tìm
thấy một đường ray bỏ hoang, cách xa khu dân cư một chút. Phía trên ngọn
núi mọc đầy cỏ khô là con đường toàn đá sỏi, và tuyến đường ray đỏ chót
kéo dài đến vô tận.
Tôi cất tập tài liệu vào cặp, bước hai chân lên một bên ray, cố đi cân
bằng để khỏi ngã. Hình như tôi hồi chưa mất trí nhớ có thần kinh vận động
tuyệt hảo. Nhưng tôi bây giờ chưa đi được mấy mét đã lảo đảo, ngã xuống
khỏi thanh ray mất tiêu rồi.
Từ trên đỉnh ngọn núi có đường ray bỏ hoang này, có thể nhìn thấy toàn
cảnh Kaedecho nằm giữa núi non. Thị trấn đã thay đổi nhiều kể từ hồi
Wazuya còn chứng kiến. Có những con đường đã biến mất, có những công
trình được xây lên. Có cảnh vật thấy giống trong mắt trái, nhưng ngay đằng
sau lại là mấy ngôi nhà chưa hề được ghi chép.
Mắt trái vẫn lưu giữ kí ức về những quang cảnh mà giờ không còn nữa.
Tôi cảm giác con mắt mà Wazuya cho mình giống như một khối tròn kết
tinh quá khứ. Giống như một viên kẹo nhẹ nhàng tan ra, ngấm vào dây thần
kinh của tôi.
Đến gần cánh rừng, đường tàu bỏ hoang chấm dứt. Đây chính là nơi tôi
đã trông thấy trên sân ga ngày nào. Trong kí ức thì đằng sau toàn là cây
khô, chắc vì khác mùa chăng. Nhưng toa tàu bỏ hoang thì vẫn còn nguyên
đó. Gió lạnh hun hút, không có tiếng trẻ con chơi đùa. Khối gỉ sét khổng lồ
vẫn trầm mặc, chẳng di chuyển lấy một li so với kí ức trong mắt trái.
Tôi vừa thở khói trắng vừa chạy đến cạnh toa tàu, và bước vào bên
trong. Gió bị bốn bức tường ngăn lại, nên cảm giác trong này ấm áp hơn
bên ngoài một chút. Nhưng cũng trống trải hơn tôi nghĩ, đến ghế ngồi cũng
đã bị tháo ra. Lúc nhìn qua mắt trái tôi không biết được, hóa ra toa tàu chỉ
còn lớp vỏ rỗng không. Chẳng hiểu sao tôi thấy hơi buồn bã.
À đúng rồi, đây chính là nơi Wazuya bị bạn bè xua đuổi. Anh không
được tham gia chơi cùng đám bạn. Tôi đã nhớ ra điều đó. Wazuya thường
lủi thủi một mình. Cũng có đôi lúc chơi cùng bạn bè, nhưng thường xuyên
nhất là cô độc dạo bước.
Sau đó tôi tìm đến xưởng làm gỗ. Vì do dự không dám bước vào, nên
tôi chỉ đứng ngoài xưởng, nhìn nơi ba làm việc, và nơi ông đã lìa đời. Toàn
khuôn viên xưởng được bảo vệ bởi hàng lưới mắt cáo, nhưng mùi hương
ngào ngạt của gỗ vẫn tỏa rộng ra xung quanh. Tôi vùi nửa dưới mặt vào cái
khăn chị Saori cho mượn, rồi vừa giậm chân chịu đựng cái lạnh vừa tưởng
tượng khung cảnh bên trong xưởng. Chắc hẳn trong kia toàn là mạt cưa, tôi
tự ý cho rằng như vậy.
Và rồi, thật ngẫu nhiên, khi tôi đang nhìn cánh cửa dẫn vào nơi hình
như là văn phòng quản lý, một cô gái tôi đã quen mặt bước ra. Là chị Saori.
Khi tôi cất tiếng vẫy tay gọi, nét mặt chị lộ rõ vẻ ngạc nhiên.
“Chị cũng chẳng đến đây mấy đâu. Chỉ là tình cờ có chuyện muốn hỏi
về ba mẹ.”
Chị Saori nói. Các đồng nghiệp của ba ngày trước giờ vẫn làm việc ở
đây, chắc hẳn chị đã được nghe họ kể rất nhiều kỉ niệm.
Tôi và chị Saori cùng quay lại Rừng Trầm Uất. Nhìn dáng vẻ trầm ngâm
của chị, tôi đoán chị đang nhớ về cái chết của ba mẹ, về chàng thanh niên
đã tự sát vì bị giày vò bởi trách nhiệm cho vụ tai nạn ấy.
Chúng tôi mở cửa quán, bước vào trong. Tôi nhìn thấy ngay ông
Kimura, cùng vài người khách không quen biết. Quán không nổi tiếng lắm,
nhưng nói chung vẫn có người qua kẻ lại.
Đang chuẩn bị ngồi xuống cạnh quầy, tôi chợt khựng lại. Bầu không khí
ấm áp từ máy sưởi, cùng ánh đèn vàng dịu nhẹ… tất thảy bỗng như biến
mất. Shiozaki đang ngồi bất động trong góc tối, hai khuỷu tay chống lên
bàn, các ngón đan vào nhau, cảm giác như anh ta không ở cùng một thế giới
với những vị khách khác.
Tôi giật mình thon thót, chỉ muốn rời khỏi quán luôn cho rồi, nhưng
mới bước vào đã lỉnh ngay thì ngại quá. Tôi đành lặng lẽ ngồi xuống bên
quầy.
“Nami ơi?”
Phải mất một lúc tôi mới nghe thấy chị Saori gọi mình. Chị vừa buộc
dây tạp dề vừa hỏi tôi.
“Em đã ăn trưa chưa? Hay là gọi món gì nhé?”
Tôi trả lời là muốn ăn.
Mặc dù đã tự dặn lòng không được nhìn về hướng Shiozaki, nhưng rốt
cuộc tôi vẫn không kiềm chế được. Dùng xong bữa trưa, tôi liếc thấy
Shiozaki cũng đã đứng dậy. Tiếng giày của anh ta giậm xuống sàn nhà.
Thời khắc cảm nhận được âm thanh ấy chạy dọc sống lưng mình, tôi bất
giác nín thở. Tiếng giày đi lướt qua sau lưng tôi một đoạn, rồi dừng lại.
“Em Shiraki, lâu rồi không gặp nhỉ.”
Tôi gật đầu thật mạnh khi nghe anh ta nói. Tâm trí xẹt qua hình ảnh
Aizawa Hitomi bị cầm tù, và Wazuya chết thảm khốc. Cơn thịnh nộ sôi sục
trong tôi, nhưng rồi lại bị nỗi sợ hãi lấn át. Tôi chợt thấy mình giống loài
động vật bé nhỏ, chỉ biết nhắm mắt nín thinh chờ dã thú đi khỏi mà thôi.
Lúc Shiozaki rời khỏi cửa tiệm, tôi thở hắt ra, thầm oán trách sự hèn
nhát của mình.
Bà Kyoko bước vào quán, đi lướt qua Shiozaki ở cửa. Một tay bà cầm
quyển sách bìa cứng, nhìn thấy tôi liền giơ tay kia vẫy chào. Bà ngồi vào vị
trí quen thuộc, cất tiếng gọi chị Saori đang đứng đằng sau quầy.
“Saori ơi, cho bác một cà phê blend[5]!”
“Vâng…”
Chị đáp lại bằng giọng hơi ỉu xìu. Bà Kyoko mở cuốn sách ra đọc trên
chiếc bàn cạnh cửa sổ.

Mỗi khi chị Saori lặng thinh, tức là hình ảnh những người đã khuất đang
hiện về trong tâm trí chị. Chị chưa bao giờ nói rõ ràng như thế với tôi,
nhưng tôi vẫn lờ mờ cảm nhận được.
Giống như lần chị ngồi thơ thẩn trong phòng khách, nhìn ra ngoài cửa
sổ. Nhà Ishino vốn xây trên nền đất dốc, nên từ chỗ chị ngồi có thể nhìn
thấy con đường bên dưới. Cho dù thực tế bây giờ trên đường đang không
một bóng người, nhưng trong mắt chị Saori vẫn còn đó hình ảnh Wazuya đi
học, hay ba đang trên đường đến chỗ làm.
Một lần khác chị đứng thẫn thờ, nhìn cái máy giặt quay tít phát ra
những tiếng kêu trầm đục. Chắc hẳn trong ý thức của chị Saori, mẹ vẫn
đang đứng phía bên kia máy như ngày nào. Ánh mắt chị nhắc cho tôi nhớ
rằng, ngôi nhà đang sống với bác hiện nay khác xa mái nhà xưa có ba mẹ ở
bên.
Tôi không bao giờ dám cất tiếng gọi chị vào những thời điểm đó. Bóng
lưng ấy nhìn từ đằng sau mới thật buồn bã, mong manh và mệt mỏi làm sao.
Tôi chứng kiến quá khứ trong mắt trái mình. Còn chị Saori lại giữ gìn
những cuộn phim ấy trong tâm tưởng. Giống như tôi theo đuổi những cảnh
tượng mà Wazuya nhìn thấy xưa kia, chị cũng đang dành tình cảm cho
những người không còn nữa.
“Đã hơn hai tháng qua đi mà chị vẫn không có cảm giác là Wazuya đã
chết. Sao lại thế nhỉ? Có lẽ nào tại chị không buồn được chăng…”
Sau bữa tối ở nhà bác Ishino, chị Saori thủ thỉ với tôi như thế. Bác về
muộn nên chỉ có chúng tôi ngồi ăn với nhau. Không khí tĩnh lặng của buổi
hoàng hôn trong căn phòng đã tắt ti vi làm cho tiếng nói, tiếng xì mũi của
chị vang vọng hơn bình thường. Tôi ngắm nhìn chiếc cốc mà khi còn sống
Wazuya vẫn dùng, giờ đang đặt trên bàn sưởi.
“Em nghĩ là ngược lại đó. Chẳng phải vì không ý thức rằng Wazuya đã
chết, nên chị mới không thấy buồn sao?”
Nghe tôi nói, chị nghiêng đầu ngạc nhiên, “Nami kì lạ thật đấy nhỉ. Mà
cũng đúng, cứ như thể đứa em trai vẫn đang ở bên chị, ngay lúc này vậy.”
Chị vừa nói vừa xua tay lia lịa như muốn bảo tôi quên luôn đi, đừng để
ý.
“Nhắc mới nhớ, em đã biết chưa nhỉ? Mắt của Wazuya được đem cấy
cho người khác rồi đó.”
Đây là chủ đề mà tôi vô cùng quan tâm.
“Chỉ có một bên thôi, lúc Wazuya bị tai nạn người ta đã lấy cầu mắt của
nó rồi đem đi. Đây là nguyện vọng của thằng bé mà.”
“Bạn ấy muốn vậy hả chị?”
“Chuyện phải từ một năm trước rồi, Wazuya vào bệnh viện để cắt mộng
thịt trong mắt. Rồi phải đeo băng che mắt một bên, cũng chẳng lâu lắm. Hết
ba ngày là tháo ra.”
Hình như lúc ở viện Wazuya đã đọc tờ giới thiệu về cấy ghép mắt. Rồi
quyết định trở thành người hiến tặng.
“Wazuya là đứa trẻ có đôi mắt rất đẹp. Đồng tử nó to tròn, nhìn đăm
đăm vào mọi thứ.” Chị Saori thì thầm như đang hồi tưởng. “Không biết
trong suốt cuộc đời này, thằng bé đã nhìn thấy những gì?”
Chị cứ mãi theo đuổi hình bóng những con người đã chết. Mỗi khi
Sumida hào hứng bắt chuyện ở quán cà phê, chị lại đối đáp bằng một nụ
cười. Thời gian đầu chỉ có vậy thôi. Thế nhưng ở bên cạnh quan sát chị một
thời gian, tôi càng lúc càng cảm giác như trái tim chị đang lắng nghe người
đã khuất. Trong khi đang nói chuyện, thỉnh thoảng chị Saori lại đưa mắt
nhìn chỗ Wazuya hay ngồi ngày trước.
Quá khứ cứ mãi trôi xa. Người ta chết, và rồi tan biến. Giống như
những tuyến đường, những ray xe lửa từng chạy qua thị trấn này thuở xa
xưa, con người cũng không phải ngoại lệ. Thế gian sẽ thay đổi, khác biệt ít
nhiều so với trước kia, duy chỉ có chị Saori là cứ miên man về những người
không còn ở đây, như thể dòng thời gian đã dừng chảy.
Kỉ vật Wazuya để lại là một chiếc đồng hồ đeo tay màu vàng kim đã
hỏng. Tôi chợt nhớ đến nó khi chứng kiến thế giới đình trệ thời gian của chị
Saori.
Cả bác cũng vậy.
Trong căn phòng bên cạnh phòng tôi ngủ, ngăn cách bằng một cánh cửa
kéo fusuma[6], có đặt một bàn thờ Phật. Trên bàn thờ bày biện di ảnh của
Wazuya và ba mẹ anh, cùng với người hẳn là bác gái Ishino.
Một buổi sáng lạnh lẽo nọ, tôi đang cuộn mình trong chăn, gặm nhấm
niềm hạnh phúc mang tên “ấm áp” thì nghe lịch kịch ở phòng bên, bèn ngồi
dậy xem thử. Lồm cồm bò ra kéo cửa trong bộ dạng nhìn chán đời kinh
khủng, và thấy bác đang loay hoay dọn dẹp bàn thờ rồi chắp hai tay vào
nhau.
“Tôi làm cháu mất giấc à?”
Bác hỏi khi nhìn thấy tôi. Tôi lắc đầu, từ từ bò đến ngồi xếp bằng bên
cạnh. Hình như bác nghĩ tôi vẫn đang nửa tỉnh nửa mơ.
“Hồi vợ tôi còn sống, tôi đã từng đánh bà ấy.” Bác nói một cách yếu ớt.
“Cũng không nhớ lý do nữa. Chẳng hiểu sao, hồi đó lúc nào tôi cũng cộc
cằn.”
Bác nhìn lên di ảnh vợ. Bác gái lìa đời sau một cơn cảm lạnh.
Sau lần đó, thỉnh thoảng tôi vẫn thấy bác lau dọn bàn thờ. Vì không tiện
lên tiếng nên tôi chỉ im lặng, quan sát bóng lưng gầy gò ấy.
Nỗi hối hận ăn sâu vào bác.
Một ngày kia, tôi phụ việc trong quán cà phê. Vì chị Saori có việc phải
đi đâu đó nên tôi bị ông Kimura “trưng dụng” luôn. Nói vậy thôi, ngày hôm
đó Rừng Trầm Uất gần như không có khách. Công việc của tôi chỉ đơn giản
là nghe ông Kimura cằn nhằn, và hãm phanh ông lại để đừng trêu chọc
Sumida quá mức.
Rốt cuộc cả ông Kimura cũng biến đâu mất tiêu.
“Anh Sumida, trông quán hộ tôi cái.” Tôi đưa tạp dề cho anh ta rồi chạy
đi tìm ông Kimura.
“Hả, đợi đã… Tôi phải làm cái gì mới được chứ?” Anh Sumida trợn
tròn mắt bối rối.
Ông Kimura đang ở đằng sau quán, tưởng làm gì hóa ra đang phơi rất
nhiều giày. Tất cả đều cũ mèm, tổng cộng có đến ba mươi đôi, xếp ngay
ngắn thành một hàng dưới nắng. Chủng loại thì vô vàn, có từ cỡ nhỏ cho trẻ
con tiểu học đến những cỡ to hơn.
“Cái gì đây hở bác?”
“Là giày của bạn tôi để lại. Ngày xưa tôi có một thằng bạn kì quặc,
không bao giờ vứt giày đi mà toàn giữ lại. Bây giờ bạn thì cũng mất rồi, chỉ
còn lại mỗi đống giày thôi.”
Những lúc rảnh, ông Kimura lại xếp lô giày ra nền đất để phơi khô. Tôi
thầm nghĩ, hóa ra người đàn ông có bề ngoài như con gấu này lại có tâm
hồn nhạy cảm phết.
“Tôi xếp theo đúng thứ tự mà tên đó từng đi. Bên trái là giày hồi nhỏ.
Ngoài cùng bên phải là đôi giày đi đến trước lúc lâm chung. Còn đôi giày
cỏ này, xỏ lúc tôi và hắn gặp nhau.”
Ông Kimura chỉ vào đôi giày cỡ nhỏ nằm ở mé ngoài cùng bên trái. Rồi
ông chỉ vào đôi giày khác, sau khi nhảy cóc qua không biết bao nhiêu đôi
về phía bên phải.
“Hắn đi đôi giày này vào thời Rừng Trầm Uất vừa khai trương. Lúc đó
tôi vẫn chưa là chủ quán. Quán vốn do người bác họ hàng với tôi mở mà.”
Cả một lịch sử quánh quện trong những đôi giày xếp cạnh nhau. Cứ như
niên biểu vậy.
Rồi ông Kimura trỏ đôi giày ở mé bên phải mà tôi nghĩ là mới nhất.
“Người bạn đó đã cởi đôi giày này ra, và nhảy từ cầu tàu hỏa xuống tự
sát. Giày vẫn để nguyên ở cửa chính trong nhà. Tức là vào cái đêm tự sát
ấy, hắn đã đội gió lạnh đi chân trần từ nhà ra cầu.”
Nghe ông nói vậy, tôi vội chạy vào lấy tập tài liệu đang để trong cặp đeo
chéo xách theo ra quán. Bởi vì câu chuyện của ông Kimura gợi cho tôi nhớ
về một hình ảnh kì lạ, mà tôi từng thấy trong mắt trái.
“Cô làm cái gì thế?”
Sumida đang thắt tạp dề vào cơ thể mảnh khảnh, cất giọng hỏi tôi vẻ
quan tâm. Hóa ra anh ta mặc tạp dề lại hợp hơn tôi nghĩ. Xem chừng sau
này sẽ thành một bà nội trợ tốt đây.
“Tuyệt mật, còn lâu tôi mới cho anh xem.”
Tôi vừa giấu tập tài liệu không để anh ta nhìn thấy, vừa lén xác minh lại.
Tôi đã tưởng là mình nhớ nhầm, nhưng hóa ra không phải vậy. Đây là cảnh
tượng mà con mắt của Wazuya đã nhìn thấy, vào một đêm nọ.
Wazuya đi trên con đường tối tăm, từ trường cấp hai về nhà. Anh đang
dắt xe đạp. Anh chỉ dùng xe đạp để đến trường vào hồi cấp hai thôi.
Wazuya đi lướt qua một người đàn ông dưới ngọn đèn đường. Người đó
vừa đi vừa ngước lên nhìn trời, hoàn toàn không để ý đến anh.
Và lạ lùng thay, người đàn ông đó đi chân trần.

Có một số sự kiện có thể gọi là khởi đầu hoặc căn nguyên của tất cả, đã
xảy ra với Wazuya.
Đó là lúc tôi đang băn khoăn không biết có nên đến biệt thự của
Shiozaki để điều tra một lần nữa không. Tôi đang đi trên đường dốc ngoằn
ngoèo dẫn tới đó. Sau khi đi qua nơi Wazuya lìa đời, tôi nhìn thấy đường
nhánh rẽ vào nhà bà Kyoko. Hai bên đường đều là rừng tuyết tùng im lặng,
những hàng cây trải dài bất tận như hấp hút tất cả âm thanh.
Từ phía sau, một chiếc xe tấp lại gần tôi. Tôi đã cứng đờ cả người vì
tưởng đó là xe của Shiozaki, hóa ra là một chiếc ô tô cỡ nhỏ tôi chưa thấy
bao giờ.
Chiếc xe đỗ lại phía trước tôi, và một người đàn ông thò mặt ra từ cửa
sổ ghế lái.
“Xin lỗi, cô cho tôi hỏi đường với?”
Đang dợm bước để lại gần chiếc xe, bất chợt tôi thấy mắt trái mình
nóng lên. Có một chiếc xe đang đỗ cạnh rừng trúc, và tôi đang tiến lại gần.
Khung cảnh này tương đồng với hình ảnh giấu trong mắt trái của tôi.
Từ ngày đến thị trấn này, tôi đã trải nghiệm tình huống kí ức trong mắt
trái sống dậy không biết bao nhiêu lần. Vì vậy tôi cũng đã quen với những
đoạn phim chiếu đột ngột này, và có thể lại gần tài xế ngoài hiện thực mà
không hề lúng túng.
“À… Tôi không biết rõ đường quanh đây lắm ạ. Tôi xin lỗi.”
Tôi nói như vậy với người đàn ông trong mắt phải của mình.
Còn trong mắt trái, Wazuya đang đi bộ trên con đường bọc giữa rừng
tuyết tùng. Có khi đó chính là con đường mà tôi đang đứng bây giờ. Một
chiếc ô tô dừng lại trước mặt anh. Vị trí đỗ y hệt chiếc xe tôi đang nhìn thấy
ngoài thực tại. Anh lại gần chiếc xe, và đi ngang qua bên hông nó.
Hễ cảnh tượng giữa mắt trái và mắt phải xung đột nhau, tôi lại chóng
mặt, bải hoải chân tay, vì vậy mỗi lần kí ức hồi sinh bên mắt trái tôi thường
nhắm nghiền cả hai mắt, nhưng vì bây giờ đang đứng trước mặt người ta
nên không làm như vậy được.
“Ồ… Thế… cứ đi thẳng đường này, chắc sẽ sang được tỉnh lân cận
đúng không?”
Đang gật đầu cho câu hỏi trên, một cảm xúc thoáng qua làm tim tôi như
ngừng đập. Là tại chiếc xe Wazuya nhìn thấy trong mắt trái. Khi đi lướt qua
bên nó, anh đã nhìn bâng quơ vào cửa sổ băng ghế sau. Ở đó có một cô bé
đang ngủ. Dù cô bé nhắm nghiền mắt, tôi vẫn nhận ra chính là Aizawa
Hitomi, người mà tôi đã xem ảnh bao nhiêu lần và khắc sâu khuôn mặt vào
tâm trí.
Hình như Wazuya không để ý lắm, vì anh lập tức rời mắt khỏi cửa sổ và
lại nhìn về phía trước. Không nhìn được ghế lái hay là biển số xe.
Đến đây thì kí ức trong mắt trái kết thúc.
Tôi không nghe thấy tiếng của người đàn ông hỏi đường nữa. Đầu óc tôi
trắng xóa ra vì sửng sốt, đến mức không thể hiểu được câu hỏi. Cuối cùng
người đàn ông như đã bỏ cuộc, bèn dừng nói chuyện với tôi, cho xe chạy
tiếp.
Wazuya đã vô tình chứng kiến chiếc xe chở Aizawa Hitomi. Chắc lúc
đó anh vẫn chưa biết cô bé là ai. Không hiểu trong kí ức vừa rồi, tay chân
của Hitomi như thế nào nhỉ? Tôi đã không nhìn kĩ được chi tiết đó.
Và về sau chắc là Wazuya đã nhìn thấy chân dung Aizawa Hitomi qua ti
vi hoặc báo chí. Chẳng biết việc này xảy ra không lâu kể từ vụ bắt cóc, hay
mới chỉ hai tháng trước đây thôi. Nhưng nói chung khi nhìn thấy tấm ảnh,
hẳn anh đã nhớ đến cô bé ngủ ở ghế sau ngày nọ.
Phải chăng Wazuya đã biết xe đó là của Shiozaki? Chiếc ô tô mà tôi vừa
nhìn thấy trong kí ức không phải chiếc Shiozaki đang lái hiện tại. Không
biết là anh ta mới mua, hay có sẵn hai xe từ đầu?
Có khả năng nơi Wazuya bắt gặp chiếc xe chính là con đường dẫn đến
nhà Shiozaki. Biết đâu đây chính là manh mối, giúp chỉ ra rằng căn biệt thự
xây bằng gạch xanh là nhà của thủ phạm.
Tôi định sẽ khảo sát con đường dẫn đến biệt thự của Shiozaki. Biết đâu
sẽ có một vị trí trên đường đó giống với những hình ảnh vừa rồi. Nhưng
đường nào quanh đây cũng có tuyết tùng vây quanh, khó mà xác định được
đâu mới là nơi trong kí ức của Wazuya. Rốt cuộc tôi đành quay lại Rừng
Trầm Uất mà chưa tìm hiểu được điều gì mới.
Trên đường về, tôi bắt gặp chị Saori đi ra từ đường rẽ vào ngôi nhà của
bà Kyoko. Nghe tiếng tôi gọi, chị quay sang nhìn tôi với vẻ mặt hơi bất
ngờ.
“Hôm nay là ngày chị giao hạt cà phê.”
Và nói với tôi như thế.

Một ngày kia, Shiozaki bỏ quên áo khoác trong quán cà phê. Ông
Kimura đã phát hiện ra nó vẫn đang vắt chỏng chơ trên lưng ghế.
Sau một hồi đấu tranh tư tưởng, cuối cùng tôi lấy hết dũng khí tuyên bố,
“Cháu sẽ mang đến nhà cho Shiozaki ạ.”
“Không cần đâu, đằng nào mai anh ta chẳng quay lại.”
Dù ông Kimura đã nói như thế, tôi vẫn nghĩ mình không được bỏ lỡ cơ
hội này. Trước giờ tôi gần như không tìm được một lý do nào để đường
đường chính chính tìm đến nhà anh ta. Nếu như đem trả đồ bỏ quên, biết
đâu tôi sẽ vào được trong biệt thự mà không bị nghi ngờ là đang nhòm ngó.
Rốt cuộc thì tôi được giao mang trả cái áo thật.
Sumida đã nghe đầu đuôi câu chuyện, và quyết định đưa tôi đến căn biệt
thự gạch xanh. Anh lái xe qua cổng nhà Shiozaki, tiến vào khuôn viên. Sẽ
không bị xét nét gì cả đâu. Hiểu rõ như thế, nhưng khi lại gần biệt thự, nỗi
lo lắng lại phủ xuống tôi.
Phía trước biệt thự là một khoảng sân rộng lát sỏi. Chiếc xe con màu
đen của Shiozaki đỗ ở đây, ngoài ra không còn xe cộ nào khác. Sumida
đánh xe vào đỗ bên cạnh.
Tôi rời khỏi ghế phụ lái, ngẩng mặt lên ngắm tòa nhà. Không đến mức
đồ sộ như lâu đài. Có khi mấy cái cây chết khô trồng dày đặc xung quanh
còn cao hơn. Những cành cây khẳng khiu trụi sạch lá trông cứ như những
sợi tóc mọc ngược chĩa thẳng lên trời. Tất cả bao quanh căn biệt thự.
Mặt trời đổ bóng xuống thẳng phía trước tòa nhà. Tương phản màu quá
mạnh khiến bức tường gạch xanh như bị nhuộm đen, khiến cả biệt thự
giống một cái bóng khổng lồ, một cái hố sâu đột ngột toạc ra trong không
gian. Bóng tối trong cái hố nhắc nhở tôi rằng, giả như có một lỗ hổng ở
giữa thế gian này, thì đằng sau nó sẽ là một màn đêm không đáy và trống
rỗng.
Aizawa Hitomi đang ở dưới tầng hầm biệt thự này. Nghĩ đến đây, người
tôi bất chợt run lên.
“Chắc cô chỉ vào một chút thôi nhỉ.”
Sumida ngồi yên ở ghế lái. Tôi nhận ra mong muốn mạnh mẽ của anh
ta, là không phải rời khỏi chiếc xe bật máy sưởi để bước ra ngoài trời lạnh
giá. Nhưng nếu có anh ở cạnh thì chưa chừng tôi sẽ được tiếp thêm dũng
khí.
“Anh cũng đi cùng đi.”
Sumida giả vờ không nghe thấy tôi. Hết cách, tôi đành ôm cái áo khoác
và đi một mình vào. Tôi đã kín đáo lục các túi áo thật cẩn thận để không bị
ai phát hiện, nhưng trong đó chẳng có gì cả. Tôi đến cửa chính, cố kìm nén
nỗi hồi hộp trong lòng. Cánh cửa làm bằng gỗ màu đen tuyền, tay nắm màu
vàng kim.
Tôi bấm chuông gọi cửa. Đứng ở ngoài này cũng nghe thấy tiếng
chuông điện trong trẻo vang vọng khắp nhà. Một lát sau Shiozaki đi ra. Anh
ta đeo cặp kính gọng nhỏ, nhìn xuống tôi bằng ánh mắt sắc lẹm. Nhịp tim
tôi đập nhanh hơn, đến ăn nói cũng không được trôi chảy. Bằng cái cổ họng
khô rang, cuối cùng tôi cũng diễn đạt được là mình đến trả lại cái áo khoác.
“Cảm ơn em.” Anh ta nói vậy, rồi nhìn chiếc xe đang đỗ sau lưng tôi.
“Kia là xe của cậu Sumida nhỉ. Cậu ta cũng đến à.”
Chưa bao giờ tôi cảm thấy vững tâm vì biết có người bên mình như vậy.
Shiozaki sẽ không thể làm gì tôi được.
“Đằng nào cũng đã mất công chạy một chuyến, tôi mời em vào nhà
uống cà phê.”
Tôi gật đầu trước lời đề nghị của Shiozaki. Tôi quay trở lại xe, nói với
Sumida về lời mời đó. Anh ta chui ra khỏi xe với ánh mắt ngái ngủ. Chúng
tôi tiến vào biệt thự. Là nhà kiểu Tây, đi vào không cần bỏ giày.
Lần đầu tiên tôi nhìn thấy bên trong ngôi nhà này. Tường và sàn thiết kế
giản dị. Không có đèn chùm treo trên tường hay thảm đỏ, mà chỉ có bầu
không khí tĩnh mịch như trong các tu viện hay trường học ngày xưa.
Tôi cảm nhận sự u buồn toát ra từ lối kiến trúc cũ kĩ của biệt thự. Không
có ánh sáng trắng của đèn huỳnh quang, mà chỉ có bóng đèn dây tóc lờ mờ
chiếu sáng. Tất cả mọi chi tiết bên trong căn nhà này như nhẹ nhàng chạm
đến và chơi đùa với sợi chỉ bất an trong đáy lòng tôi.
Trên tường treo một bức tranh đóng khung màu đen, tôi hỏi thì được trả
lời là tranh do Shiozaki vẽ. Trong tranh là một cụ già đang ôm túi đựng đầy
táo.
Shiozaki mang cà phê ra. Tôi nhìn quanh quất nhiều chỗ trong phòng,
để xem mắt trái có nóng lên phản ứng với chi tiết nào không. Nhưng chiếc
hộp kí ức không chịu mở ra. Vậy là Wazuya chưa bao giờ bước chân vào
căn phòng này sao?
“Đồ đạc cũ quá nhỉ.” Sumida vừa nói vừa vuốt ve chiếc sofa bị lõm
trong phòng khách. “Cái ghế này to quá, chắc cho vào phòng tôi đang ở thì
không vừa.”
“Phần lớn đồ nội thất ở đây đều là do người thuê trước để lại.” Shiozaki
nói.
“Tức là người sống ở đây trước anh, cũng nhận đồ để lại từ người ở
trước nữa ư?”
Nghe tôi hỏi, Shiozaki nghiêng đầu lúng túng.
“Tôi chưa gặp họ bao giờ nên cũng không biết được.”
Anh ta vào ở biệt thự này từ nửa năm trước. Aizawa Hitomi thì mất tích
từ một năm trước, nên hẳn là anh ta đã mang theo cô bé khi đến đây.
Trong khi Shiozaki và Sumida nói chuyện, tôi giả vờ đi vệ sinh. Sau khi
được Shiozaki chỉ cho vị trí, tôi rời khỏi phòng khách. Tôi cảm giác mình
có thể dễ dàng cố tình “quên” vị trí toilet đã được chỉ, và mở cửa phòng
khác mà không bị mất tự nhiên.
Tôi đi dọc theo hành lang, thử mở cửa một căn phòng sau khi đảm bảo
không có ai ở gần. Tôi muốn đi vào trong để điều tra cho chi tiết, nhưng
cuối cùng lại không dám vì lo chưa biết sẽ bị Shiozaki phát hiện lúc nào.
Tôi chỉ ghé mắt nhìn, và đóng cửa ngay khi cảm thấy không có gì đặc biệt.
Có phòng hình như được dùng làm xưởng vẽ, và cũng có phòng chẳng bày
tí đồ đạc nào.
Biệt thự rất rộng. Hành lang ngoằn ngoèo như cơ quan tiêu hóa của một
loài động vật khổng lồ. Tuy kiến trúc không phải phức tạp, nhưng cứ mỗi
lần đến nơi hành lang tách làm hai, tôi lại cảm giác như sắp quên mất luôn
mình đang ở đâu. Vừa bước chân trên những tấm ván gỗ đen tuyền, tôi vừa
hoa mắt không biết liệu hành lang này có chợt lề mề cử động, giống như
ruột người co bóp hay không.
Aizawa Hitomi đang ở đâu đó trong biệt thự này. Nghĩ thế, tôi lại khó
thở. Cô bé đang ở rất gần rồi, nhưng mình không thể lao vào giải cứu ngay
bây giờ. Cảm giác thật bất lực.
Ở chính giữa biệt thự có cầu thang dẫn lên tầng hai, thiết kế thông tầng
nên đứng ở đây thấy rõ hành lang với lan can trên kia. Không biết trên ấy có
gì nhỉ? Nhưng quả thật tôi không đủ dũng khí để bước lên. Nếu bị phát hiện
đang loanh quanh ở tầng hai, trăm phần trăm tôi sẽ bị nghi ngờ.
Tôi lại mở thêm cửa một phòng nữa, lòng nôn nóng vì cảm giác cần
phải khẩn trương quay lại chỗ Shiozaki và Sumida.
Bên trong căn phòng vừa mở cửa, tôi nhìn thấy… Một bộ quần áo giống
của phụ nữ đang treo trên tường. Áo khoác màu nâu giản dị đi kèm váy đen.
Đang nghĩ ngợi thì cảm thấy có ai đang đứng sau lưng mình, tôi quay phắt
lại, Shiozaki đang đứng lù lù ở đó.
“Phòng để các di vật của vợ tôi.”
Người đã khuất nhưng đồ đạc thì vẫn không nỡ quăng bỏ. Anh ta giải
thích như vậy.
“Xin lỗi, tại tôi bị lạc đường…”
Tôi vội vã biện hộ. Vì quá sợ hãi nên không dám nhìn vào mắt anh ta.
“Nami, về thôi.” Sumida cất tiếng gọi.
Shiozaki tiễn chúng tôi ra, và chiếc xe của Sumida xuất phát, đi xuống
triền dốc giữa rừng tuyết tùng, bỏ căn biệt thự gạch xanh lại sau lưng.
“Nhắc mới nhớ, Shiozaki từng mua một ít dụng cụ, nghe bảo là để sửa
lại chỗ nứt trên tường nhà…”
Tôi lẩm bẩm. Đúng là anh ta đã giải thích bức tường bị nứt do động đất.
“Sửa chữa á…?”
Sumida vừa đánh vô lăng vừa nhắc lại. Tôi bèn hỏi xem gần đây có trận
động đất nào như thế không.
“Có thì cũng gọi là có, nhưng chỉ rung lắc tí xíu thôi.”
Theo những gì chúng tôi đã nhìn thấy, ở căn biệt thự đó không có chỗ
tường nào nứt nẻ, dù là nhỏ nhất.
8

Miki nhìn khách rời khỏi biệt thự. Y đóng cửa chính, cài khóa rồi lên
cầu thang đến thư phòng ở tầng hai.
“Khách về mất rồi ạ?” Hitomi hỏi từ sofa. “Là người khách vãng lai
rình rập nhà mình gần đây sao?”
Miki lắc đầu ra dấu “Không biết”.
“Là người như thế nào vậy?”
Miki toan giải thích, nhưng thấy phiền phức quá nên thôi.
“Nè, em không kêu cứu chẳng phải vì muốn bảo vệ Miki đâu nhé. Đừng
có hiểu lầm. Nếu hồi nãy em thét lên, hẳn là Miki sẽ giết luôn khách đúng
không?” Dứt lời, Hitomi lập tức tự chữa. “Xin lỗi em nhầm, họ sẽ không bị
giết đâu. Bởi vì giết hại sinh vật vốn là việc khó khăn với Miki mà.”
Miki giải thích rằng thật ra cũng không phải như thế. Vì muốn giết ai thì
chỉ cần cắt đứt đầu là xong.
“Nhưng nếu người ta tìm thấy xác chết thì chẳng phải mình cũng tiêu
đời à?”
Phải an bài cho giống tai nạn. Miki trả lời như thế.
Y có thể đẩy nạn nhân từ trên cao xuống hay là dùng máy móc cắt rời
người ta, nhưng như thế cũng không đủ cướp được mạng sống của họ. Dù y
không trực tiếp ra tay, đối tượng vẫn không thể chết được, có lái xe cán qua
cũng vậy.
Nhưng tình hình sẽ khác nếu chuốc say họ hoặc bắt uống thuốc an thần
rồi để họ tự lao ra trước mũi xe người khác, không thì dẫn ra biển và chờ họ
tự sa chân đuối nước. Trong trường hợp trước, người giết hại không phải
Miki mà là tài xế của chiếc xe chạy ngang qua. Trong trường hợp sau, là
nạn nhân tự sát. Chỉ cần không phải do Miki gây ra, thì năng lực diệu kì kia
sẽ không kích hoạt.
“Vậy là đã từng thử nghiệm rồi sao?”
Miki lặng thinh không trả lời, Hitomi liền tỏ rõ vẻ mặt rằng đó đã là câu
trả lời đầy đủ nhất rồi.
Miki nhớ lại cuộc trò chuyện với khách. Liệu người khách vãng lai tìm
đến nhà này hôm trước có phải là người vừa rồi không? Hồi nãy y chỉ trao
đổi những chuyện phiếm bình thường. Y không biết liệu đối phương có
nghi ngờ mình không.
Tùy trường hợp, có khi y sẽ phải bỏ căn biệt thự này, lại tìm nơi khác
mà sống. Nhưng trước khi sự việc đến nông nỗi ấy, liệu y có thể tìm ra vị
khách vãng lai nọ và bịt miệng họ không? Nếu được thì không cần chuyển
chỗ ở nữa.
9

Tôi phải về nhà một thời gian. Cha đã dặn là phải lên viện tái khám, bản
thân tôi cũng cảm thấy nếu còn nán lại lâu hơn thì sau này chẳng còn mặt
mũi nào mà quay về nữa.
Nói thật thì… tâm trạng tôi nặng trĩu. Tôi chẳng bới ra được kỉ niệm
nào vui vẻ từ khi tỉnh dậy ở bệnh viện đến lúc sinh sống tại ngôi nhà đó.
Chiếm giữ đầu óc tôi bao giờ cũng là những khung cảnh Wazuya đã nhìn
thấy, là chị Saori, là quá khứ của thị trấn này.
“Thế là đúng đấy. Em vẫn còn cả cha lẫn mẹ cơ mà.”
“Em có thể quay lại đây không ạ?”
“Bao giờ?”
“Bốn ngày nữa.”
Chị nhìn tôi bằng vẻ mặt kinh ngạc, “Em ghét ở nhà đến thế sao?”
Tôi thực sự nghiêm túc muốn quay về thị trấn này ngay lập tức. Bởi vì
tôi còn nhiệm vụ quan trọng là giải cứu Aizawa Hitomi. Cho đến bây giờ,
tôi vẫn chưa tìm ra biện pháp nào để xử lý vấn đề này. Tôi đang suy nghĩ rất
lung xem phải làm sao mới tìm được bằng chứng, qua đó vạch mặt
Shiozaki.
“Nami ơi…” Chị Saori nói bằng giọng nghiêm túc. “Em chưa từng kể
về gia đình cho chị nghe. Thành ra chị lại lo, không biết có phải quan hệ
giữa em và họ tệ lắm không, có phải em trốn nhà để đến ở gia đình này
không. Nhưng mà… như thế là không được đâu em ạ.”
Tôi lo sợ, hỏi lại chị Saori, “Chị không muốn em tới đây nữa sao?”
“Không phải. Chị muốn em hãy nói chuyện tử tế với cha mẹ, sau đó
hẵng quay lại.”
Tôi nhờ Sumida lấy xe chở ra ga. Tôi lại ngắm nhìn cảnh vật thị trấn từ
ghế phụ, y hệt ngày mới đến nơi này. Rừng tuyết tùng, những tòa tháp sắt,
và cây cầu bắc qua hẻm núi, khi tất cả những cảnh vật ấy đã lướt qua cửa
sổ, cuối cùng chúng tôi cũng đến cửa nhà ga. Nơi đây được chăm chút xây
dựng hơn, có cả trường đại học, bệnh viện thành phố, cùng nhiều hàng quán
san sát nhau.
“Chắc cô còn đến đây chứ nhỉ?” Sumida dừng xe tại một ô đất trước ga,
rồi nói với tôi. “Lúc đó gọi điện cho tôi nhé. Tôi sẽ ra đón. Hồi cô chưa
xuất hiện, trông chị Saori cô đơn lắm. Từ khi cô đến quán cà phê, mọi
chuyện lại tốt đẹp y như hồi Wazuya còn sống”
“Tốt đẹp là sao cơ?”
“Thì giống như là… cô khớp vừa vặn vào vị trí Wazuya để lại ấy.”
Tôi hỏi thăm Sumida về Wazuya. Hai người họ đã là bạn trong năm
cuối đời của Wazuya.
“Gần một năm về trước, một tối nọ, tôi vác Wazuya say mèm đến quán
cà phê.”
“Chuyện này tôi đã nghe rồi. Hôm đó là lần đầu tiên anh gặp Wazuya và
chị Saori nhỉ.”
“Ừ. Nhưng Wazuya tỉnh rượu xong thì chẳng nhớ gì cả, nên cũng quên
béng tôi luôn.” Anh ta cười khùng khục.
“Sau đó chắc anh với bạn ấy hay ra cửa ga chơi, rồi còn xem phim với
nhau nữa nhỉ.”
Vào một ngày hè nóng nực, Sumida và Wazuya đã cùng trèo lên đỉnh
đồi phủ đầy cỏ xanh. Anh Sumida thì bùng tiết ở đại học, Wazuya bấy giờ
cũng thôi học giữa chừng, chỉ lông bông ở quê nhà. Cả hai không làm gì
đặc biệt cả, chỉ đơn giản chơi ném đá vào mấy cái lon rỗng.
“Giờ cô nói tôi mới nhận ra, bọn tôi chẳng làm gì ra hồn cả. Suốt ngày
ném đá thôi… cứ như là hai thằng ăn hại.” Sumida lẩm bẩm, xem chừng bị
sốc vì nhận ra sự thật.
“Không có chuyện ấy đâu ạ, tôi ghen tị với hai người lắm.”
Tôi nghĩ khoảng thời gian được ở bên nhau mà chẳng làm gì cả, như
Sumida vừa kể, mới tuyệt vời làm sao. Thuần túy ngồi dưới nắng hè và cảm
nhận thời gian qua đi, tôi thấy điều đó cũng không có gì là nhàm chán.
“Cảm ơn anh vì đã làm bạn với Wazuya.”
Tôi rời khỏi xe Sumida. Tôi vẫy tay chào anh rồi bước tới cửa vào sân
ga.
Nhìn cái móc chìa khóa hình con quạ lúc lắc trong xe Sumida, tôi sực
nhớ cuốn truyện đồng thoại ở Rừng Trầm Uất. Bức tranh vẽ con quạ móc
mắt đứa trẻ ấy gây ấn tượng thật mạnh mẽ. Lần sau quay lại tôi phải đọc thử
mới được.
Mất mấy tiếng đi tàu Shinkansen, đến khi tàu cập bến gần nhà tôi nhất
thì trời đã xế chiều. Lúc tôi đi qua cửa soát vé để ra khoảnh sân trước cửa
ga, vùng trời phía Tây đã nhuộm một màu đỏ rực. Những mái nhà san sát
nhau trong khu phố buôn bán như được thắp sáng dưới một bóng đèn màu
khổng lồ.
Suốt từ đó cho đến khi về đến trước cửa nhà, tôi bước đi với tâm trạng
nặng trĩu. Dù chị Saori bảo tôi phải nói chuyện với cha mẹ, nhưng tôi
không biết nói gì cho phải. Đã bao nhiêu lần tôi dừng chân toan quay lại
Kaedecho, bảo là mình đã về nhà rồi đi. Nhưng tôi đã lỡ báo với cha rằng
hôm nay sẽ về, tôi không muốn thay đổi lịch trình.
Đến trước cửa ngôi nhà gắn biển ghi “Shiraki”, tôi ngẩng đầu lên ngắm
nghía với tâm trạng bỡ ngỡ, hóa ra nhà mình có hình dáng thế này. Chỉ đơn
giản là một ngôi nhà màu trắng, xuất hiện nhan nhản trong các khu dân cư.
Nghe tiếng chuông reo, mẹ ra mở cửa. Vừa nhìn thấy tôi, nụ cười trên
khuôn mặt bà tắt ngấm, thay vào đó là một biểu cảm phức tạp.
“Con về rồi ạ.”
Mẹ tránh nhìn vào mắt tôi, im lặng gật đầu rồi dẫn tôi vào nhà.
Tôi không biết mình phải làm gì, phải nói gì mới được. Vừa đi theo
bóng lưng mẹ dọc hành lang, tôi vừa phải kiềm chế để không bật khóc.
Tôi không ghét mẹ. Nhưng tôi biết là mẹ ghét tôi. Tôi không thể cứ im
lặng, phải lên tiếng bắt chuyện với bà. Dù suy tính như thế, nhưng thực tế
thì mọi ngôn từ đều bị nỗi sợ bóp nghẹt, không thể nào thoát ra được. Bởi vì
tôi nghĩ có khả năng mẹ sẽ mặc kệ, làm như không nghe thấy tiếng tôi.
“Mừng con trở về.” Cha nói vọng ra từ phòng khách.
“Con xin lỗi… vì đã tự tiện bỏ nhà đi.”
Khuôn mặt cha lộ rõ vẻ khó xử, nhưng rồi ông trấn an, “Bất đắc dĩ thôi
mà.”
Ba chúng tôi dùng bữa tối với nhau. Lúc đầu tôi và mẹ đều im lặng. Cha
cố gắng bắt chuyện để giải tỏa không khí ngột ngạt, thỉnh thoảng tôi cũng
gật đầu đáp lại. Tôi thấy mình có lỗi với ông vô cùng.
“Thế con đi đâu đến tận bây giờ vậy?”
Cha hỏi. Lúc ở trên điện thoại, tôi không nói cho ông địa chỉ chính xác.
“Con đến nhà bạn ạ. Ở miền núi.”
Tôi kể về chị Saori và quán cà phê Rừng Trầm Uất, về ông Kimura và
anh Sumida.
Tôi kể về lần đánh bài với chị Saori, hay chuyện anh Sumida toàn bị
ông Kimura gõ cái khay vào đầu. Cứ thế tâm trạng tôi vui vẻ dần lên, đến
mức không thể ngăn được nụ cười hiện ra trên mặt. Dù không biết tại sao,
nhưng nếu kể về những con người ấy, về những điều mình đã trải qua, thì
tôi có thể nói mà không biết điểm dừng.
Say sưa nói, mãi mới nhận ra cha đang chống một cùi chỏ lên bàn, bàn
tay đỡ lấy cằm, chăm chú nhìn tôi.
“Vậy là tốt rồi. Thấy con vui vẻ thế này cha cũng bớt lo. Dù con không
còn là con trước đây, nhưng cười nói được như trước thì cha cũng vui.”
Mẹ khó chịu đứng dậy, bắt đầu dọn dẹp chén đĩa.
Đêm đó, khi ra khỏi phòng, tôi nghe tiếng cha mẹ cãi vã ở tầng một. Tôi
không biết chính xác nội dung, nhưng có linh cảm nguyên nhân chính là tôi.
Những từ ngữ như “Nami” hay “con bé” xuất hiện rải rác suốt cuộc cãi vã.
Tôi ngồi trên cầu thang tối đen, lắng nghe hai người tranh luận hồi lâu.
Nhưng rồi, nó đã chấm dứt trước khi tôi kịp nắm bắt nội dung, và đèn dưới
chân cầu thang cũng tắt. Ngôi nhà thực sự bị bóng đêm và tĩnh lặng thống
trị.
Dù trời lạnh nhưng tôi vẫn ngồi nguyên ở đó. Tôi còn cha mẹ, một sự
thật hiển nhiên, nhưng lại khiến tôi phải suy nghĩ.
Từ trước đến giờ, tôi vẫn cảm thấy cha mẹ trong ngôi nhà này không
phải cha mẹ thực sự của mình. Vì kí ức đã mất nên có lẽ nghĩ như vậy cũng
là điều tất nhiên. Cả lúc nghe chị Saori bảo phải về nói chuyện với cha mẹ,
tôi cũng đã nghĩ, không lẽ họ quan trọng đến thế sao?
Nay hai người ấy cãi nhau vì tôi. Vì họ vẫn còn quan tâm đến tôi theo
cách riêng của mình, nên mới lấy tôi làm chủ đề bàn bạc. Nội dung cuộc trò
chuyện ấy có thể sẽ mang lại hạnh phúc, hoặc bất hạnh, cho tôi. Nhưng chỉ
riêng việc họ còn nhắc đến tôi đã là đáng kể rồi. Tôi tưởng tượng cha mẹ
đang lo lắng cho mình, dù vẫn phảng phất đôi chút xa lạ. Đúng là bây giờ
chưa nhớ ra, nhưng sự thật tôi là con của hai người họ.

Bác sĩ nói với tôi rằng, kí ức hoạt động rất kì lạ.


Tôi đến bệnh viện để kiểm tra lại con mắt. Vẫn là bệnh viện mọi khi,
nơi ông ngoại đã thu xếp cuộc phẫu thuật không chính quy ấy. Lòng đầy
hoài niệm, tôi ngồi đối diện với ông bác sĩ trạc tứ tuần để ria mép.
Bác sĩ đặt ngón cái vào phía dưới mắt trái tôi, bảo tôi vạch mi mắt
xuống và thè lưỡi ra. Rồi giữ nguyên tình trạng ấy, ông bảo tôi đảo mắt nhìn
lên xuống trái phải. Mặc dù tôi đã sử dụng mắt trái cấy ghép vào những
mục đích không bình thường, nhưng thật may là chẳng có vấn đề gì cả.
“Cô không gặp những cơn đau đột ngột chứ?”
Tôi gật đầu trước mọi câu hỏi đại loại như vậy.
“Kí ức thì sao?”
“Vẫn chưa quay lại ạ.”
“Thế à. Rồi cô sẽ dần dần nhớ ra thôi.”
Tôi giật mình. Tôi gần như đã không nghĩ gì đến chuyện một lúc nào đó
kí ức sẽ quay lại nữa.
“Bộ não vốn là thứ khó chiều mà.”
Đến đây ông bác sĩ kể cho tôi nghe về một ca bệnh mà bạn của ông là
một bác sĩ khoa thần kinh đã tiếp nhận. Bệnh nhân mất kí ức sau một tai
nạn xe máy, quên sạch mọi việc xảy ra với mình suốt mười năm trước đó.
Anh ta đành phải bắt đầu cuộc sống mới trong trạng thái như vậy, nhưng
khoảng hai năm sau vụ tai nạn, những kí ức bị mất bắt đầu lục tục quay về.
“Có những người chỉ một lần là nhớ ra tất cả. Có người thì kí ức sống
lại dần dần, từng mảnh từng mảnh một. Tất nhiên cũng có trường hợp mãi
mãi không nhớ ra. Còn có người quên luôn cả tình nhân, rốt cuộc dẫn đến
chia tay cơ. Nhưng cô vẫn còn trẻ, một lúc nào đó sẽ nhớ ra chuyện ngày
trước thôi.”
Tôi suy nghĩ kĩ một lần nữa, để xem nếu thực sự khôi phục trí nhớ thì sẽ
ra sao. Tôi sẽ quay lại làm Nami trước kia. Không thể nào tưởng tượng nổi.
Tôi nhớ lại hình ảnh chính mình hồi còn kí ức, mà tôi được xem qua cuốn
băng ghi hình. Cô gái điêu luyện bên cây đàn dương cầm. Âm thanh tràn
ngập từ những ngón tay lướt trên phím đàn. Tôi không thể tưởng tượng
được một kẻ hậu đậu như mình lại có thể trở thành con người như thế.
Tôi lo lắng. Nếu chuyện đó thực sự xảy ra, thì tôi bây giờ sẽ ra sao đây?
Sẽ đột ngột biến mất một khi kí ức quay về chăng? Tôi đã thử hỏi bác sĩ
như vậy.
“Chuyện này thì, tôi không thể nói chắc được.”
Ông vừa vuốt ria mép, vừa nói vẻ bối rối.
Đại khái theo lời ông, thì cùng với việc khôi phục kí ức, có lẽ dần dần
người ta sẽ quay trở lại với bản thân mình lúc trước. Nhưng những kỉ niệm
mới đã trải qua trong khoảng thời gian mất kí ức cũng sẽ không biến mất đi.
Tôi an tâm hơn một chút. Tức là dù có lấy lại kí ức ngày xưa, tôi cũng sẽ
không quên chị Saori và Wazuya.
“Vậy nếu mình-lúc-còn-kí-ức và mình-không-còn-kí-ức lại có những
suy nghĩ khác hẳn nhau thì sao ạ?”
“Trường hợp đó tôi cũng đã từng nghe đến.”
Bác sĩ mào đầu, rồi bắt đầu kể chuyện, về một người đàn ông tính cách
rất lạc quan, khi mất kí ức thì biến thành một con người bi quan khác hẳn,
khi kí ức quay về, anh ta lại tái sinh thành con người lạc quan xưa kia. Bấy
giờ anh ta đã tổng kết, “Cứ như là một giấc mơ vậy.”
Anh ta nhớ rõ và hiểu rõ suy nghĩ của mình khi là người bi quan. Nhưng
tất cả với anh giờ chỉ giống một giấc mơ.
“Bởi vì nếu so sánh với khoảng thời gian từ khi cô sinh ra đến khi cô
gặp sự cố, thì khoảng thời gian lúc cô tạm mất trí nhớ này rất nhỏ nhoi thôi.
Giống một lớp vụn mỏng trên cả khối kí ức khổng lồ. Khi kí ức sống lại và
cạo mất lớp vụn ấy đi, thì có lẽ tất cả những gì tồn tại bây giờ sẽ chỉ giống
một cơn mộng dài.”
Từ bệnh viện về, tôi nghĩ mãi những điều bác sĩ nói. Kí ức mà trở lại,
tôi sẽ biến thành cái gì đây? Khi đã tái ngộ với bản thân học giỏi, biết đánh
đàn, được mọi người yêu quý, thì số phận của một “tôi” đang lo âu bây giờ
sẽ như thế nào?
Không biết tôi trước kia đã bao giờ cảm nhận nỗi cô đơn khi cúi gằm
mặt, đi một mình giữa trời gió lạnh chưa? Đã bao giờ căm ghét chính mình
vì làm gì cũng thất bại, đến mức chỉ muốn chết đi cho rồi chưa? Đã bao giờ
ganh ghét, đố kị với những kẻ được người khác yêu quý chưa?
Nami nắm giữ quá khứ kéo dài khoảng mười bảy năm. Còn tôi chỉ có
chưa đầy hai tháng rưỡi. Nếu kí ức quay lại, thì có lẽ cái tôi đang băn khoăn
bây giờ cũng chỉ như nhân vật chính trong một giấc mơ, bé nhỏ, ngu ngơ
không biết gì thôi nhỉ.
Thời gian đầu, tôi không mơ gì trong khi ngủ. Nhưng gần đây thì đã
khác. Những giấc mơ có mặt chị Saori, và anh Sumida. Có lần còn mơ
mình bị xe đụng nữa. Khi tôi mở mắt ra giữa màn đêm tăm tối, thì đã thấy
mình đang lăn lông lốc xuống triền dốc, lao ra giữa đường xe chạy. Cơn ác
mộng ấy vô cùng chân thực và đáng sợ. Giấc mơ bị đâm bởi chiếc xe màu
xanh đậm ấy hằn in trong con mắt tôi, đến mức suốt mấy ngày sau tôi chỉ
toàn nghĩ về nó.
Nhưng thường thì tỉnh dậy, tôi quên luôn nội dung của giấc mơ. Lúc kí
ức quay lại, liệu tôi có quên luôn bản thân mình bây giờ giống như thế
không? Liệu ý thức về sự tồn tại của cái tôi đang vò đầu bứt tóc bây giờ có
phai mờ dần theo năm tháng? Tôi luôn có cảm giác Nami là một người nào
khác chứ không phải mình. Nhưng tôi cũng biết sự thật không phải như thế.
Hai ngày qua đi, tôi vẫn không thoát khỏi tâm trạng bất ổn. Suốt thời
gian đó, tôi hồi tưởng nhiều chuyện mình đã trải qua, ví như nỗi thất vọng
khi không thể chơi dương cầm thành thạo, tôi thở hắt một hơi dài, đó quả là
lần thất bại đau đớn nhất.
Nhắc mới nhớ, không biết Katsura Yuri ngồi bàn trước tôi ở trường thế
nào rồi? Cô bạn đó suốt ngày chỉ nói về tôi của ngày xưa. Tôi nhớ lại nỗi
buồn xâm chiếm mình mỗi khi nghe cô kể chuyện.
Và rồi những lần mắt trái đột ngột nóng lên. Và những khung cảnh
Wazuya đã nhìn thấy. Trong bao nhiêu điều tôi nhớ được, phần lớn là kí ức
mà Wazuya tặng cho. Tôi yêu thương tất cả những gì anh từng chứng kiến
trong quãng thời gian sống trên cõi đời này. Tôi yêu quá khứ của anh, và
yêu cả bản thân anh, người nắm giữ con mắt nhìn vào năm tháng ấy.
Anh đã in khoảnh khắc chú chim đập cánh vào cầu mắt mình. Đã ngắm
bầy cá ngoi lên mặt nước đòi ăn. Đã cho tôi thấy thời khắc chiếc lá khô
rụng xuống, hay hộp sữa tươi bị đổ. Tôi cảm thấy Wazuya gần gũi với mình
hơn bất kì ai khác.
Mỗi khi nhớ đến những hình ảnh từng nhìn thấy, từng cảm nhận trong
hai tháng rưỡi vừa qua, tôi lại buồn bã. Kỉ niệm vui vẻ đến đâu cũng vẫn
làm lồng ngực tôi quặn thắt.
Một tối nọ, chỉ có tôi và mẹ trong nhà. Cha về muộn vì bận tăng ca.
Không khí giữa chúng tôi cực kì ngột ngạt. Cả hai không ai nói câu nào.
Tôi không biết những lúc thế này nên nói gì mới được. Chắc mẹ cũng
vậy. Tôi muốn nghĩ rằng do mẹ thấy khó mở lời chứ không phải vì căm
ghét tôi. Dần dà, nỗi bất an không thể giải tỏa cứ đè nén cả hai mẹ con.
Tôi ngắm nhìn bóng lưng mẹ trong khi bà chuẩn bị bữa ăn. Tôi cảm
giác đây là lần đầu tiên mình làm vậy, kể từ khi tỉnh lại ở bệnh viện.
Lưng mẹ gầy gò, mái tóc đã lẫn vài sợi bạc. Bà đang mặc áo len, cầm
dao thái cà rốt nghe cạch cạch nhát một. Chỉ có vậy thôi, nhưng đã làm cho
lồng ngực tôi muốn vỡ tung vì buồn bã.
“Mẹ ơi…”
Tôi cất tiếng gọi. Mẹ khựng lại, hai vai khẽ run lên.
“Con biết là… mẹ rất yêu quý con trước kia, nên mới căm ghét con bây
giờ, không còn kí ức và cũng chẳng làm được gì nên hồn…”
Nghe tôi nói, mẹ không trả lời. Nhưng như vậy cũng được rồi, tôi nghĩ.
“Hôm trước, con nghe bác sĩ bảo có khả năng kí ức sẽ quay về đấy ạ.
Tuy ông ấy làm chuyên khoa mắt, nhưng có biết rất nhiều ca thoát cảnh mất
trí nhớ sau vài năm. Ông bảo con có thể trở về như cũ.”
Tôi chỉ mong được mẹ lắng nghe. Tôi bây giờ là một đứa bỏ đi, ăn hại
toàn diện so với trước kia. Dù vậy tôi cũng đã tự mình chứng kiến nhiều
điều, tự suy nghĩ được cho bản thân.
Nếu khôi phục trí nhớ, chắc hẳn tôi sẽ quên mất tại sao mình lại phải
phiền não, phải đau buồn trước những chuyện vụn vặt thế này thôi. Nhưng
đối với tôi bây giờ, bản thể hiện tại chính là tất cả.
Thời gian đầu, tôi cực kì căm ghét chính mình vì quá vô dụng. Nhưng
bây giờ thì khác. Dù cho kí ức có quay lại, tôi tuyệt đối không muốn quên
đi bản thân mới. Tôi muốn mãi mãi nhớ đến con người lo âu, mong manh
tổn thương vì những chuyện nhỏ nhặt này.
Tôi yêu quý tôi của bây giờ. Và tôi cũng muốn được mẹ công nhận.
“Con xin lỗi mẹ, từ ngày mai con sẽ lại bỏ nhà đi. Con thực sự xin lỗi.”
Tôi chỉ nói vậy, rồi rời đi và lên phòng mình ở tầng hai. Sáng hôm sau
tôi dậy thật sớm, cốt để rời khỏi nhà mà không phải chạm mặt ai cả.

Đến cửa ga, tôi gọi điện nhờ Sumida mang xe ra đón.
“Cô đi về nhanh quá nhỉ.”
“Tôi vẫn còn nhiều chuyện phải làm ở thị trấn này mà. Chị Saori khỏe
không anh?”
“Chẳng biết nữa, gần đây nhìn cứ ỉu xìu.” Sumida vừa lái xe vừa lẩm
bẩm.
Ngày hôm đó, tôi lại được nghe Sumida kể nhiều chuyện vui vui về hồi
còn mồ ma Wazuya. Mục đích sống của tôi bây giờ gần như là thu thập tất
cả thông tin về Wazuya, không để thiếu một mảnh nào.
Trước khi đến Kaedecho, chúng tôi ghé lại căn hộ chung cư của
Sumida. Hình như anh quên không hẹn giờ thu băng video cho ti vi. Căn hộ
nơi anh ở khá gần ga, nằm trong một tòa nhà hai tầng trông còn khá mới.
Tôi hỏi thăm thì biết nó được xây chưa đầy một năm trước.
Sumida đang là sinh viên năm ba một trường đại học cách ga chừng hai
mươi phút chạy xe. Hình như cho đến hết năm hai anh còn sống ở xa hơn
nữa, nhưng vì chán cảnh ngày nào cũng phải chạy xe đường dài đi học, nên
một năm trước đã chuyển về đây.
Trong khi Sumida chạy lên nhà đặt giờ thu băng, tôi ngồi đợi dưới xe.
Vừa quay về ngồi vào ghế lái, anh đã nhìn lên cửa sổ căn hộ và nói,
“Wazuya cũng hay đến nhà tôi chơi lắm.”
“Thật ạ? Bạn ấy ở lại luôn hả anh?”
“Ừ, cái hồi nó bị chị Saori đuổi khỏi nhà.” Sumida nhún vai, nét mặt
thoải mái.
“Tôi… rất muốn nghe chuyện đó ạ.”
Tôi thận trọng lựa chọn từ ngữ, nhưng hình như vẫn sốt sắng hơn dự
tính, làm anh Sumida phì cười, rồi kể cho tôi nghe kỉ niệm về Wazuya, trên
chiếc xe đang tắt máy.
Cho đến hết hồi cấp hai, Wazuya vốn là một học sinh thông minh.
Nhưng khi vào cấp ba anh đột ngột không theo kịp chương trình, thành tích
học tập cũng sa sút. Nói vậy chứ Sumida cũng chỉ quen biết anh từ lúc lên
đại học, nên biết được chuyện này đương nhiên là do nghe Wazuya kể lại.
Mặc dù trầy trật để vào được đại học (một trường khác với trường
Sumida) nhưng Wazuya không còn ý chí học hành.
“Từ hồi bỏ ngang đại học, thằng ấy chẳng làm cái gì nữa cả.”
Dù vậy Wazuya vẫn không lộ vẻ sốt ruột hay lo lắng. Anh không đến
trường nữa, thích gì làm nấy cho qua ngày, y như thể thời gian đã dừng lại
vậy. Mà dù nói là “thích gì làm nấy”, nhưng thật ra anh cũng không làm gì
đặc biệt. Sau khi bỏ học, Wazuya mất hết quan hệ với bạn bè. Trước hồi
quen biết Sumida, nghe nói anh không bao giờ có điện thoại gọi đến, cũng
chẳng được ai cùng tuổi đến chơi. Anh chỉ đi lang thang một mình quanh
Kaedecho, hành xử tùy hứng, như hôm thì trèo núi ngắm cảnh, hôm lại leo
lên bộ khung xếp trong trường tiểu học.
“Mặt nó lúc ấy nhìn cứ như mấy ông ẩn sĩ.”
Sumida nói với vẻ ái ngại. Đến khi bị chị Saori quát mắng vì lối sống
lông bông, Wazuya đã trốn sang nhà anh ở.
Tôi thấy mắt mình như sắp hoa hết cả lên. Trên đường đến Kaedecho,
tôi chỉ toàn nghĩ về Wazuya. Mỗi lần anh Sumida hỏi chuyện, tôi cũng chỉ
trả lời lấy lệ, nên rốt cuộc anh ta nhún vai theo kiểu “Kệ cô vậy” rồi im
lặng.
Tôi tưởng tượng trong đầu mình cảnh Wazuya tản bộ giữa Kaedecho
vào mùa hè, thời điểm ánh sáng phủ trùm vạn vật trên mặt đất. Anh đi lướt
qua, khẽ lấy tay chạm vào những ngọn cỏ cao đến thắt lưng. Và còn ngắm
nhìn lũ chim hót ríu rít ở mái hiên nhà người ta e sợ bay mất mỗi khi có ai
lại gần. Tôi nghĩ rằng tản bộ một mình như thế, chứng kiến, cảm nhận cơn
gió trên làn da, giống như ta đang đối thoại một-một với cả thế gian này.
Khuôn mặt tôi phản chiếu trong gương chiếu hậu của xe. Tôi nhìn chằm
chằm vào mắt trái của mình.
Tôi yêu mến Wazuya. Nhưng tôi cố không phân tích xem rốt cuộc đó là
tình cảm thế nào. Có lẽ là giống tình yêu người ta dành cho những ai gần
gũi với mình, tôi tự thuyết phục bản thân như thế. Nếu là tình cảm gì khác
thì sẽ đau khổ lắm. Vì anh đã chết rồi mà.
Ngoài cảm xúc ngọt ngào dành cho anh, trong tôi còn tồn tại suy nghĩ kì
lạ, rằng “Wazuya = mình” nữa. Đôi lúc tôi còn nghĩ biết đâu linh hồn của
Wazuya đã nhập vào thân xác rỗng tuếch này. Đương nhiên chỉ là tại tôi hấp
thu quá nhiều hình ảnh anh từng thấy mà thôi. Tôi cũng không cho rằng đó
là chuyện tệ hại. Nhưng rồi đầu óc tôi lại rối bời khi vấp phải câu hỏi quan
trọng: Vậy thì mình là con người thế nào?
Rốt cuộc tôi là cái gì đây? Không có kí ức nên không phải là Nami. Tuy
giống Wazuya nhưng cũng không phải là anh.
Trên hành trình liều lĩnh tìm đến Kaedecho để trả thù cho Wazuya này,
liệu tôi sẽ còn được là chính mình cho đến bao giờ?
Cuối cùng xe cũng vào tới thị trấn. Trời đã xế chiều, tôi rời nhà đã trọn
một ngày.
Rừng Trầm Uất lại một lần nữa hiện lên trước mắt. Ông chủ quán
Kimura với vẻ ngoài trông như con gấu. Chị Saori viêm mũi kinh niên, lúc
nào cũng đứng sau quầy xì mũi.
“Mừng em trở về.”
Chị mỉm cười chào đón, làm tôi thấy nghẹn ngào. Dù có lấy lại trí nhớ,
tôi vẫn không muốn quên đi cảm xúc này.
“Nami à, em đã nói chuyện tử tế với cha mẹ chưa?”
“Ừm… cũng tàm tạm ạ.” Tôi trả lời mập mờ.
“Mà chẳng phải sắp vào năm học rồi à? Em cứ ở đây mãi có sao
không?”
“Ừ thì… Chắc là nhiều sao đấy ạ. Nhưng thôi không phải lo đâu…”
Chị Saori chống cùi chỏ xuống bàn, tựa đầu lên tay, lườm tôi, “Đừng
bảo chị là em tính không đi học nhé?”
Tôi giật mình, lấy tay che trên tim, “Chị biết đọc tâm can người ta à!”
Càng nói chuyện với mọi người, tôi lại càng sợ đánh mất những ngày
tháng này. Không, làm sao mà mất cho được. Còn chẳng biết kí ức có thực
sự quay lại không, mà giả như là có thì tôi cũng sẽ không quên kỉ niệm với
chị Saori, với mọi người.
Nhưng sau khi trở thành Nami trước kia, biết đâu tình cảm sâu đậm mà
tôi dành cho mọi người bây giờ sẽ thay đổi. Điều đó mới đáng sợ làm sao.
Sau bữa tối tại nhà bác, tôi kể cho chị Saori thành tích bùng học của
mình, và cả quan hệ không suôn sẻ lắm với mẹ. Nhưng tôi không kể tại sao
cơ sự lại thành ra thế.
“Rồi mọi chuyện sẽ tốt đẹp lên thôi.” Chị Saori nhẹ nhàng an ủi tôi.
“Người ta vẫn bảo ‘Thời gian là thầy thuốc tốt nhất’ còn gì?”
“Em nghĩ ông thầy thuốc ấy đang đi nghỉ mát rồi.”
Thật ra tôi muốn kể cả chuyện mất trí nhớ với chị. Nhưng đã lỡ nói dối
mình là bạn của Wazuya, nên không tiện thổ lộ nữa.
Đến khi làm xong mọi việc, tôi sẽ nói cho chị biết… lý do tại sao tôi ở
đây.

Đêm hôm đó, tôi đang đánh răng chuẩn bị chui vào chăn, chợt có tiếng
lịch kịch ở cửa chính. Tôi vội nhổ bọt trong miệng rồi chạy ra, nhưng không
thấy đôi giày cũ mèm của bác Ishino đâu cả. Cửa nhà bác là kiểu cửa kéo,
có tấm kính đục gắn vào khung kèm theo chấn song. Tôi thấy bác đang
đứng bên kia cánh cửa.
Tôi không nghĩ gì nhiều, định mở cửa chào bác rồi quay vào nhà ngủ.
Đoạn từ cửa chính đến cổng nhà là một dãy bậc thang, tôi thấy bác đang
ngồi đó. Tấm lưng bác nhỏ bé, cong lại thành một khối tròn, trông tàn úa,
thiếu sinh khí, khác hẳn với hình ảnh Wazuya từng nhìn thấy.
Trông thấy tôi mở cửa đi ra, bác nở nụ cười yếu ớt và hơi cúi đầu.
“Chà…”
“Bác ơi, cháu đi ngủ đây ạ. Chúc bác ngủ ngon.” Nói một lèo xong,
trước khi quay vào nhà, tôi tiện miệng hỏi. “Bác đang làm gì đấy ạ?”
Dường như bác thấy khó trả lời. Tôi lo lắng, chẳng biết câu hỏi này có
vô lễ quá không.
“Tôi đang nghĩ đến bà ấy.”
Nói đoạn, bác hướng mắt nhìn giàn phơi quần áo cạnh nhà. Quanh
khoảng này, là nơi bác gái đã ngã vật xuống, rồi mất.
“Cháu xin lỗi, vì hỏi vớ vẩn…” Tôi như muốn khóc.
“Không sao đâu. Chỉ là, tự nhiên tôi lại nghĩ đến nhiều thứ…”
Bên ngoài trời lạnh buốt, không một tiếng động. Màn đêm tăm tối rọc
xé mọi hơi ấm yếu ớt, kể cả thân nhiệt của con người. Hình như nãy giờ bác
ngồi ở đây, là để bắt bản thân phải chịu một hình phạt nào đó. Bác đang
sám hối trước người vợ của mình. Hồi còn sống bác gái đã phải chịu cảnh
bạo hành. Chính nỗi hối hận vì hành động đó đã khiến bác trai thành ra như
ngày hôm nay.
Bác Ishino tiếp tục suy nghĩ giữa cái rét giá băng. Tôi cảm giác mình
không được phép cản trở nghi lễ thần thánh này. Nhưng đôi chân tôi lại
không chịu di chuyển. Tôi nói với bác, người nãy giờ vẫn quay lưng về phía
cửa.
“Cháu đã nghe Wazuya kể về bác gái rồi ạ.”
Mắt trái của tôi từng có lần chứng kiến. Đêm tối, bác trai uống rượu say
mèm và ngủ quên trong phòng khách. Bác gái đắp cho bác cái chăn với nét
mặt đầy thương cảm. Chỉ có vậy thôi, một khung cảnh không có gì đặc biệt.
Nhưng vẻ mặt bác gái lúc đó lại chan chứa yêu thương dành cho bác
trai. Tôi không biết làm thế nào mà người phụ nữ ấy lại có được vẻ mặt như
thế.
Tôi kể cho bác về tình cảm ấy, dưới hình thức câu chuyện nghe kể từ
Wazuya.
“Bác gái không căm hận hay oán trách gì bác đâu… Wazuya đã nói vậy
đó ạ.”
Bác Ishino im lặng. Tôi rời mắt khỏi bác, định quay vào nhà.
“Cảm ơn cháu…”
Hẳn là bác gái cũng đoán trước được rồi, tôi vẫn suy nghĩ miên man
ngay cả khi đã chui vào trong chăn, rằng bác mà nằm xuống, bác trai sẽ
thành ra thế này. Vì thế mới có được vẻ mặt ấy. Bác gái hiền lành nhẫn nhịn
như thế, là vì hiểu thấu tính cách của chồng mình.
Tức là bác gái có thể nhìn trước cả tương lai. Không biết đã có bao
nhiêu người nhận ra điều đó nhỉ? Tôi biết là Wazuya đã không hờ hững bỏ
qua. Trong bao nhiêu khung cảnh được chứng kiến, anh lại lựa chọn hình
ảnh đó của bác gái để in vào nhãn cầu mình, liệu có phải là ngẫu nhiên
không? Tôi nghĩ là không. Wazuya đã nhận ra vẻ đẹp của cảnh tượng ấy,
nên mới chăm chú quan sát.

Tôi vẫn chưa tìm ra bằng chứng đủ vạch mặt Shiozaki. Aizawa Hitomi
vẫn đang ở căn biệt thự xây bằng gạch xanh của anh ta. Nhưng tôi lại chưa
thể trình báo được.
“Gần đây tôi không thấy em đâu, hóa ra là về nhà cha mẹ à.”
“Ừm.” Tôi trả lời trong khi con tim gào thét. Đây chính là kẻ đã khiến
cho Wazuya gặp tai nạn. Tôi bồn chồn. Và uất ức. Vừa kiềm chế nỗi sợ hãi
vừa lo lắng không biết mình trả lời có thiếu tự nhiên không. Nhưng anh ta
chỉ đi lướt qua tôi, rồi ngồi vào góc xa của quán, cuối cùng tôi đã có thể thở
phào nhẹ nhõm.
Lắm lúc tôi ngồi ở Rừng Trầm Uất đến tận khi mặt trời lặn, và quán
đóng cửa. Rồi đi với chị Saori trên con đường buổi tối. Để về đến nhà bác
chúng tôi bắt buộc phải băng qua con đường tối đen, len lỏi giữa rừng cây
ấy. Chị Saori thì bảo là không sao đâu, nhưng tôi sợ con đường này lắm.
Ngày hôm đó cũng không phải là ngoại lệ. Tôi ngồi trong quán nói
chuyện hay đọc sách cho nhanh hết thời gian. Tôi nhìn thấy quyển đồng
thoại lúc trước, vẫn để ở vị trí cũ trên giá tạp chí và truyện tranh. Sách có
nhan đề “Eye’s Memory”. Tôi nhớ lại cảm giác đáng nguyền rủa toát ra từ
bức tranh minh họa. Không biết có phải vì lý do đó không, mà như bị ai chi
phối, chẳng biết tự bao giờ tôi đã cầm quyển sách lên tay.
Tôi ngồi xuống ghế, bắt đầu đọc. Khi giở qua trang bìa, bầu không khí
của sách như bủa vây ngay trước chóp mũi tôi. Tôi bị tấn công bởi một linh
cảm kì lạ. Giống như sắp nhìn thấy một thứ nguy hiểm, xấu xa vậy.
Nhân vật chính của truyện là một con quạ biết nói. Càng đọc tôi càng
thấy diễn biến trong truyện giống với trải nghiệm của mình. Cô bé lắp cầu
mắt mà quạ tặng. Rồi mơ thấy những cảnh tượng đã in hằn trong con mắt.
Tôi cảm thấy các đoạn miêu tả quạ móc mắt người để đem cho cô bé
hơi tàn khốc. Thế này làm sao cho trẻ con đọc được.
Đọc hết truyện, hình ảnh quạ ngậm cầu mắt lướt qua nền trời ám ảnh rõ
rệt vào đầu óc tôi. Cảm giác mạnh mẽ đến mức tôi tưởng như nghe thấy cả
tiếng đập cánh.
Quạ không muốn cô bé biết được tội ác của mình. Nó không muốn cô
biết bản chất mình không phải là người. Vì thế mà nó đau buồn. Rồi dẫn
đến kết thúc đó.
“Tuy biết là không phải kết thúc có hậu, nhưng thế này thì tội cho ba mẹ
cô bé quá…”
Tôi nói với chị Saori. Chị đang chờ tôi phát biểu cảm tưởng sau khi đọc
xong cuốn đồng thoại kia.
Chị Saori làm ngón tay thành hình súng lục, rồi nói, “Chị đồng ý.”
“Ông Kimura thích thể loại này ạ?”
“Không phải là chủ quán mua đâu. Ai bỏ lên giá sách từ bao giờ ấy.”
Tôi giở lại sách, lần này chợt phát hiện ra một điểm. Như ở đoạn đầu
câu chuyện chẳng hạn, lúc quạ móc mắt cậu ấm nhà làm bánh mì. Thấy quạ
ngậm cầu mắt của mình, đầu tiên cậu giật thót, sau đó nổi giận. Chỗ này
thật quái đản. Bình thường, bị móc mắt ra thì phải đau chứ? Tác giả đã bỏ
quên cảm giác “đau” ở đâu rồi?
Tôi nhìn tên tác giả. Là Miki Shun. Hình như người viết cuốn sách này
là đàn ông.

Chúng tôi run rẩy vì lạnh trên đường đi bộ về nhà. Mọi khi chị Saori rất
hay chuyện, nhưng hôm nay lại im lặng như bận nghiền ngẫm chuyện gì.
Đang băn khoăn chẳng hiểu tại sao, tôi lại nhớ đến lời anh Sumida.
“Chị nghĩ gì vậy ạ?”
“À ừm… Là chuyện của bà Kyoko.”
Chị Saori ậm ừ. Một câu trả lời nằm ngoài dự đoán. Sao chị lại nghĩ đến
bà Kyoko nhỉ?
“À đúng rồi, hôm trước em có thấy chị trên đường đến nhà bà ấy…”
“Thì chị đến giao hàng mà. Có việc muốn hỏi nữa.”
Tôi hỏi là chuyện gì, chị Saori chỉ cười chứ không trả lời. Chúng tôi im
lặng đi thêm một đoạn nữa, cuối cùng về đến nhà của bác.
“Lúc Wazuya tỏ ý muốn hiến cầu mắt, chị Saori không phản đối gì ạ?”
“Hơi hơi thôi. Nhưng chị cũng không để ý lắm.”
“Sao lại thế ạ?”
“Thì bởi em chị muốn vậy mà. Với lại, bây giờ mắt thằng bé vẫn sống ở
đâu đó, như thế chẳng phải rất thú vị sao?”
Chị Saori cười. Rồi chị kể cho tôi về vụ kí giấy đồng ý hiến tặng.
“Chị từng bảo với em là một năm trước Wazuya phải đi khám mắt nhỉ.
Từ bệnh viện về, nó có cầm theo tờ giới thiệu về cấy ghép mắt.”
Ngay trước mặt chị Saori, anh đã điền giấy chấp thuận ghép mắt mình
sang cho ai đó khi mình chết đi. Bởi vì hiến mô tạng cần sự đồng ý của gia
đình, nên chị Saori cũng kí tên vào. Tôi cảm kích vô cùng. Nếu như
Wazuya và chị không làm thế, thì chẳng biết tôi đã ra sao rồi? Chắc chắn là
không ở đây. Không sao có được những kỉ niệm thân thương này. Cũng
chẳng thể biết tới nỗi đau vì không muốn quên đi khi kí ức quay về và tính
cách tôi thay đổi.
Tôi tưởng tượng ra hình ảnh Wazuya lúc điền giấy tờ. Chắc là anh và
chị Saori viết giấy đồng ý trong phòng khách nhà bác chăng? Thật tiếc là
mắt trái của tôi chưa bao giờ chứng kiến thời khắc trọng đại đó. Có lẽ tôi sẽ
sớm nhìn thấy thôi. Thực sự tôi rất mong đợi.
Đến đây tôi chợt nhận ra.
“Chị ơi, lúc điền mấy thứ giấy tờ đó, Wazuya vẫn đeo băng mắt ạ?”
“Sao em lại hỏi thế?” Chị Saori vừa nhìn tôi với vẻ khó hiểu, vừa xác
nhận là sự việc đúng như vậy. “Thằng bé phải đeo băng ba ngày, chị nhớ là
bấy giờ nó cũng đeo.”
“Ở bên mắt trái ạ? Hay là mắt phải?”
“Chính xác là… mắt trái.”
Tức là anh đeo băng che đúng con mắt mà sau này sẽ ghép cho tôi. Vậy
thì tôi không bao giờ có thể chứng kiến cảnh anh chuẩn bị giấy tờ rồi. Mắt
trái bị băng kín, làm sao nhìn thấy gì được.
Tôi chợt nhận ra một khả năng. Có thể ngăn chặn việc hình ảnh được in
vào mắt trái, nếu như bịt con mắt đó lại… Dựa theo ý tưởng này, xem
chừng có thể hiểu ra tại sao đường từ hiện trường tai nạn đến nhà Shiozaki
lại mâu thuẫn giữa kí ức và hiện thực đến vậy.
Ví dụ như, sau khi nhìn vào cửa sổ phòng ngầm nhốt Aizawa Hitomi,
Wazuya đã bỏ chạy khỏi biệt thự nhưng giữa đường bị thứ gì đó che mắt,
hoặc là anh nhắm mắt lại. Trong khoảng thời gian mắt trái bị mất tầm nhìn,
anh đã băng qua một con đường, nhảy qua rào chắn và hạ cánh xuống dưới
chân tường bê tông. Từ đoạn này thị giác được khôi phục, anh chạy trong
rừng tuyết tùng, trượt chân ngã lăn xuống triền dốc và gặp nạn.
Trong thời gian mắt trái bị che, có lẽ hình ảnh sẽ thành màu đen thui.
Lúc chứng kiến kí ức trong thư viện, tâm trạng tôi đang xao động nên
không để ý đến khoảng thời gian tối tăm ấy. Anh cũng chỉ băng qua một
con đường, chạy xuống cầu thang thôi. Tính ra chưa đến năm giây.
Và thế là một bí ẩn dai dẳng đã được giải đáp.
Aizawa Hitomi đang ở trong nhà Shiozaki. Căn biệt thự bằng gạch xanh
mà Wazuya nhìn thấy đúng là nhà của anh ta rồi.
Do dự một hồi, tôi quyết định dùng điện thoại nhà bác gọi cho cảnh sát.
Vì là điện thoại kéo dài nên tôi có thể nói chuyện ở nơi mà chị Saori và bác
không nghe thấy. Lỡ bị hỏi đang nói gì thì khó giải thích lắm. Chị và bác
vẫn tưởng là tôi gọi điện về cho cha mẹ.
Tôi bấm ba con số quan trọng: 110. Suy luận của mình không có gì sai
lầm. Nhờ thuyết phục bản thân như thế, nên tôi mới thu được chút dũng khí
cuối cùng để bấm số. Từ trước đến giờ tôi luôn nghĩ rằng có gọi cho cảnh
sát cũng vô dụng, nhưng bây giờ tôi muốn thử một lần xem sao.
Đầu dây bên kia là giọng một người đàn ông trung niên. Giọng nói đó
cho tôi biết đây là đồn cảnh sát. Tôi lập tức vào đề, nhắc tới cô bé mất tích
mang tên Aizawa Hitomi.
“À vâng… Bên bác có biết gì về cô bé không ạ?”
Người đàn ông bảo là không biết.
“Là cô bé mất tích hơn một năm về trước…”
Rồi tôi trình bày rằng có thể bây giờ cô đang bị giam trong nhà một
người nào đó.
Từ đầu dây bên kia, tôi nghe thấy một tiếng “Hả…”, gần như trả lời
chiếu lệ. “Được rồi, phía chúng tôi sẽ xem xét vấn đề này. Khi có thông tin
tôi sẽ liên lạc lại với cô, nên xin cho biết số điện thoại.”
Người đàn ông yêu cầu. Tôi im bặt. Số điện thoại ở đây là số máy nhà
Ishino. Lỡ người nhận điện của cảnh sát mà lại là bác hay chị Saori, thì tôi
sẽ bị coi là kẻ thế nào đây? Lời nói dối cùng sự thật rằng tôi không phải
người quen của Wazuya sẽ bại lộ theo cách tệ hại nhất. Tôi không muốn
như thế.
“Thực sự… cô không thể cho chúng tôi biết số điện thoại à?”
Giọng nói bên kia đột ngột trở nên gay gắt. Tôi nhận ra việc không cho
số điện thoại đã làm đối phương mất tin tưởng. Nhưng đã quá muộn rồi.
Ông ta hỏi có phải tôi đang gọi điện phá quấy không. Tôi một mực khẳng
định là không phải, và cuộc gọi kết thúc mà chẳng mang lại kết quả nào.
Ngày hôm sau, tôi củng cố quyết tâm và đi đến Rừng Trầm Uất.
Ngày nào Shiozaki cũng đến đây vào lúc 1 giờ chiều. Trong lúc chờ đến
khoảng thời gian đó, tôi ngồi nói chuyện với bà Kyoko.
“Không biết cô Saori nghĩ sao về cậu em đã mất của mình nhỉ?” Giữa
cuộc hội thoại, bà Kyoko rất tự nhiên chuyển chủ đề.
Chị Saori vẫn chưa thể chấp nhận việc Wazuya đã chết. Ít nhất là tôi
nghĩ như vậy, nhưng khó mà nói rõ thành lời.
“Chị ấy vẫn hay nhớ về Wazuya lắm ạ.”
Tôi kể với bà Kyoko rằng chị còn giữ chiếc đồng hồ đeo tay màu vàng
Wazuya đem theo lúc gặp tai nạn, để làm kỉ vật.
“Đồng hồ đeo tay à?”
“Vâng, nó bị hỏng rồi không chạy được nữa, kim vẫn chỉ đúng thời gian
tai nạn.”
Tôi chợt nhớ câu chị Saori nói trên đường về nhà hôm trước. Không
biết chị đã hỏi bà Kyoko điều gì nhỉ? Tuy tò mò nhưng tôi vẫn ngần ngại
chưa dám mở lời.
Đồng hồ trong quán chỉ 1 giờ chiều. Cửa mở, tiếng chuông trong trẻo
vang lên báo hiệu có khách đến. Shiozaki bước vào quán, vẫn mặc cái áo
khoác đen mọi khi. Từng bước chân của anh ta chia khoảng cách đều chằn
chặn không sai lệch. Anh ta đi lướt qua quầy, rồi lại ngồi vào chỗ tối tăm
trong góc tiệm.
Tôi cúi mặt xuống, tập hợp dũng khí của mình. Tôi sợ lắm. Nhưng trong
hoàn cảnh đã bị cảnh sát cho là phá quấy thế này, tôi không còn nghĩ ra
được phương pháp nào khác nữa.
“Cháu làm sao thế?” Bà Kyoko nghiêng đầu.
“Không, không có gì đâu ạ.” Tôi khẽ cười rồi đứng thẳng dậy, tiến về
phía bàn Shiozaki đang ngồi.
Tôi lục túi lấy mảnh cắt từ tờ báo cũ. Là mảnh có hình chân dung
Aizawa Hitomi.
“Anh Shiozaki.”
Tôi dừng lại trước bàn anh ta, và lên tiếng. Đôi mắt híp lại thành khe dài
của anh ta ngước lên nhìn tôi.
“Chào em.”
Tôi cảm thấy người mình run bắn lên. Nếu muốn rút lui thì có lẽ chính
là bây giờ đây. Nhưng tôi không còn con đường nào khác nữa.
“Tôi có chuyện muốn hỏi anh.” Tôi đưa ảnh Aizawa Hitomi ra trước
mặt anh ta. “Tôi đang tìm cô bé này. Anh có thông tin gì không?”
Tôi cố hết sức để giấu đi giọng nói đang run rẩy của mình. Shiozaki lấy
mảnh báo từ tay tôi. Ngón tay chúng tôi chạm nhau trong một khoảnh khắc.
Cảm giác lạnh buốt đáng sợ ấy giống như bị đổ băng đá lên khắp người vậy.
Shiozaki nhìn tấm ảnh của Hitomi một lúc, rồi lại ngẩng lên nhìn tôi.
“Tôi không biết.” Anh ta nói, rồi trả mảnh báo.
Suốt cả ngày hôm đó trong tiệm, tôi không trao đổi thêm lời nào với anh
ta nữa. Tôi đã đoán trước là Shiozaki sẽ trả lời như thế mà. Và nếu anh ta
thực sự là thủ phạm bắt cóc, thì không thể nào bình chân như vại khi tôi
chìa ra tấm ảnh.
Anh ta sẽ băn khoăn, tại sao tôi lại tìm kiếm Hitomi, tại sao lại chọn anh
ta mà hỏi? Để biết được lý do đó, hoặc cũng có thể để bịt miệng tôi và giấu
kín manh mối về Hitomi, có khả năng anh ta sẽ dùng đến phương pháp bạo
tàn.
Và như thế thì càng tốt. Tôi nghĩ vậy. Bởi vì khoảnh khắc đó sẽ là cơ
hội duy nhất giúp tôi lột trần chân tướng con người này.
10

“Miki đang ngộ biến tòng quyền phải không?” Aizawa Hitomi nói
vọng ra từ chỗ sofa. “Hay đang cho rằng dẫn dụ vị khách đó đi, hãm hại,
hành hạ người ta là quá liều lĩnh nguy hiểm?”
Miki tất bật sắp xếp hành lý, thu dọn mọi thứ nhìn thấy xung quanh.
Lúc chuyển đến đây y cũng không mang nhiều đồ đạc. Cơ bản chỉ có ít sách
vở và quần áo. Nhưng còn phải lo liệu vài việc khác nữa nên mất mấy ngày
mới xong.
“Cái lần em bảo muốn ngắm phong cảnh bên ngoài, mình chẳng đã đi
chơi còn gì. Và có người nhìn thấy em.” Hitomi phát biểu ý kiến về vụ xe
cộ. “Có đổi xe mới cũng vô dụng thôi. Người ta nhớ mặt mất rồi. Cả tên
nữa. Không thể chạy trốn được đâu. Miki sẽ bị bắt ngay tại đây.”
Hitomi nheo mắt, lặng lẽ mỉm cười. Cô bé thùi lùi ngồi trên sofa nhìn
chẳng khác gì một con búp bê.
Miki để mặc Hitomi ở đó rồi đi xuống tầng hầm. Phần lớn các phòng
đều đã được dọn dẹp sạch sẽ. Chỉ còn lại phòng ngầm mà thôi. Vừa xuống
tầng hầm, y đã nghe thấy tiếng hát của Mochinaga Yukie. Vẫn là bài ca
tiếng Anh buồn thảm mọi khi. Âm thanh vang lên từ một góc tối tăm nơi
ánh đèn không rọi tới, dội lại trên bốn bức tường gạch trần trụi, và tràn ngập
khắp phòng.
Miki di chuyển núi gạch chất đống ở góc phòng ra chân cầu thang dẫn
từ cửa xuống. Phải đi đi lại lại bao nhiêu lần y mới vận chuyển được hết.
Yukie ngưng tiếng hát. “Từ giờ mọi chuyện sẽ ra sao đây?” Tiếng cô gái
vọng ra từ sâu trong bóng tối. Tiếp đó là tiếng rên đau đớn. “Chân toàn dây
thần kinh mà lại đạp phải chỗ đá sắc, đau quá.”
“Tôi xin lỗi.” Giọng Hisamoto Shinichi. Rồi tiếng thân thể hai người di
chuyển.
Miki trình bày rằng y sắp rời khỏi biệt thự. “Ừm, tôi hiểu.” Dù tối om
nhưng y vẫn nhận ra Hisamoto vừa gật đầu. “Sắp đến lúc tạm biệt rồi nhỉ.”
“Nghĩa là sao cơ…?” Câu hỏi của Yukie.
“Tôi sẽ giải thích cho cô sau,” Hisamoto trả lời.
Miki rời khỏi phòng ngầm, về lại thư phòng tầng hai với Aizawa
Hitomi.
Vừa nhìn thấy Miki, khuôn mặt cô bé trong túi đã xịu xuống buồn bã.
“Miki không định cho em đi theo, tức là em chỉ có thể bị giết ngay tại đây,
hay bị đem giấu ở nơi mãi mãi không ai tìm thấy thôi nhỉ. Và phương án
thứ hai có vẻ hấp dẫn hơn. Nghe nè, vào lúc cuối cùng, em muốn được
thong thả ngắm ánh sáng.”
Y bế bổng Hitomi lên. Vì cô bé chỉ còn lại phần thân và đầu, nên có thể
nhẹ nhàng mang đi được. Mái tóc lấp lánh như ướt nước bị gió thổi, rung
rinh theo từng cử động của Miki.
“Lúc người ta đến bắt, em sẽ nói là Miki đã đối xử với em rất tốt.”
Miki đặt Hitomi nằm xuống, cạnh cửa sổ.
11

Từ khi đưa bức ảnh Aizawa Hitomi cho Shiozaki xem, tôi phải vật lộn
với nỗi sợ hãi thường trực, rằng mình có thể bị tấn công bất cứ lúc nào. Tôi
suy nghĩ như vậy.
Trong nhà bếp của Rừng Trầm Uất có đủ thứ vũ khí, dao làm bếp từ nhỏ
đến to phải chừng năm loại. Nhưng tôi không dám cầm theo con dao nào
trong số đó cả. Tôi thấy việc giấu nó trong ví sẽ bất tiện cho cuộc sống hằng
ngày. Hơn nữa, giả sử bị khóa cứng bất ngờ từ đằng sau, tôi cũng không tự
tin mình sẽ đâm trúng anh ta được.
Rốt cuộc, tôi chỉ mượn tạm con dao gấp gọt hoa quả tìm thấy trong góc
tủ kê cạnh cửa. Một con dao gấp cỡ nhỏ. Chẳng biết thực tế có làm được
tích sự gì không nữa. Nhưng tôi vẫn cần một thứ sắc nhọn để củng cố tinh
thần.
Tôi viết một lá thư đề tên chị Saori và bác Ishino. Chẳng may tôi có
mệnh hệ gì, chắc chắn hai người sẽ xem qua hành lý của tôi, tìm thấy thư,
biết được lý do khiến tôi đến Kaedecho, và tại sao tôi lại đột nhiên biến
mất.
Nếu như đến cả tôi cũng mất tích, chắc chắn cảnh sát sẽ không thể ngồi
yên. Chuyện Shiozaki tôi đã viết sẵn trong thư. Chỉ cần anh ta tấn công tôi,
là tôi sẽ thắng.
Mỗi sáng thức dậy, tôi lại kiểm tra xem mình còn sống không. Mỗi khi
ra đường, hay chỉ còn một mình trong nhà, tôi lại chăm chú quan sát xung
quanh, tập trung lắng nghe. Tim tôi lúc nào cũng trong trạng thái hồi hộp.
Chỉ cần một tiếng động nhỏ nhất là tôi đã muốn hét toáng lên rồi.
Nhưng Shiozaki không đến “thăm hỏi” tôi. Thậm chí anh ta còn chẳng
xuất hiện ở Rừng Trầm Uất nữa.
Mọi việc cuối cùng đều phải đi đến kết thúc. Nhưng không biết được
liệu đó có phải là kết thúc có hậu hay không.
Đã là ngày thứ ba kể từ khi tôi cho Shiozaki xem bức ảnh.
Và cũng trở thành ngày cuối cùng của “vụ án” tôi đang mắc vào.

Sáng hôm đó trời lạnh buốt. Khi thức giấc, đầu ngón tay ngón chân tôi
dù ủ trong chăn mà cũng cóng hết cả lại. Đặc biệt chân gần như mất cảm
giác, sờ vào chỉ thấy tê tê nhột nhạt. Tôi cuộn mình trong chăn, đưa tay xoa
bóp ngón chân cho ấm lại. Lạ lùng thay, cử động ấy khiến tôi thấy thật thoải
mái, và hiểu được thời khắc này quý giá nhường nào.
Dần dần, nhịp tim tôi đập nhanh hơn. Tôi mở mắt, một linh cảm xuyên
thấu qua tâm trí. Linh cảm ấy tuy mù mờ, nhưng lại liên quan đến vụ án tôi
đang theo đuổi. Rằng tất cả sẽ phải hạ màn. Và điều đó sẽ xảy ra vào một
sáng rét buốt giống như hôm nay. Dù không biết tại sao, nhưng tôi tin chắc
như vậy.
Tôi miên man nghĩ đến Wazuya, nghĩ đến cô bé Aizawa Hitomi, cuối
cùng đã bò ra khỏi chăn tự lúc nào.

“Đã tháng Tư rồi cơ mà…”


Bác Ishino càu nhàu, run rẩy xỏ tay vào cái áo khoác cũ mèm và đi đến
công ty. Sau khi tiễn bác, tôi cùng chị Saori đến quán cà phê.
Trong lúc đi cạnh chị, thoạt tiên tôi cứ lo lắng không biết nếu Shiozaki
xuất hiện thì sẽ phải làm sao. Không khéo liên lụy đến cả chị Saori mất, mà
chị có dính dáng gì đâu. Thực tế là trong suốt hai ngày đầu tiên tôi đã cố đi
đứng một mình, tách rời khỏi chị Saori nếu có thể.
Nhưng gần ba ngày chờ đợi mà không thấy động tĩnh gì từ phía
Shiozaki, tinh thần cảnh giác của tôi cũng tản mát. Tuy còn băn khoăn về
linh cảm hồi sáng, nhưng tôi nghĩ chỉ đi cùng chị thì chắc cũng không sao.
“Sắp hết kì nghỉ xuân rồi nhỉ.” Chị Saori nói, hơi thở trắng toát phả ra
từ miệng. Mũi chị thì đỏ chót, cứ sụt sà sụt sịt suốt.
“Đúng thật, em nhớ là năm học mới sẽ bắt đầu từ ngày kia.”
“Thế thì Nami cũng sắp thi đại học rồi nhỉ.”
Liệu tôi có nên đến dự lễ khai giảng không đây? Tôi không muốn về
nhà trong khi mọi việc vẫn dở dang thế này.
“Em muốn ở lại đây thêm một thời gian nữa.”
Chị Saori nhìn tôi với nét mặt khó xử.

Quán có lắp cái máy sưởi rất to. Tôi ngang nhiên chọn chiếc bàn gần nó
nhất, ngồi đọc lại cuốn “Eye’s Memory”. Ngay cả khi kim đồng hồ chỉ
đúng giữa trưa, vẫn chưa thấy vị khách nào xuất hiện.
Trước tầm trưa một chút, chị Saori rời khỏi Rừng Trầm Uất. Chị cởi tạp
dề, dặn tôi bấy giờ đang ngồi trước máy sưởi ngẫm nghĩ về Shiozaki.
“Chị sang nhà bà Kyoko một lát. Xin phép bác chủ giùm chị nhé.”
Tôi gật đầu. Lúc đó ông Kimura đang ở dưới bếp, khi ông trở ra, tôi
nhắn lại liền.
Ông xoa xoa chòm râu, lẩm bẩm, “Hôm nay có phải ngày giao hàng đâu
nhỉ…”
Ngày nào Shiozaki cũng đến quán lúc 1 giờ chiều. Nhưng tới giờ mà
vẫn chưa thấy bóng dáng. Tâm trạng tôi lẫn lộn, cứ trăn trở giữa an tâm và
thấp thỏm.
Mà đúng ra là khó chịu. Tôi không biết anh ta đang nghĩ gì, hay giờ này
đang ở đâu. Có khi cuốn gói rồi cũng nên. Càng suy xét, tôi càng cảm thấy
đó là đáp án đúng.
“Thiếu mất một vị khách quen nhỉ… Chẳng biết anh ta bị làm sao?”
Ông Kimura lẩm bẩm vẻ tiếc nuối khi Shiozaki không đến. Dường như còn
có phần lo âu nữa.
“Cháu cũng không nghe bảo là anh ta đi du lịch hay làm gì cả.”
Sumida lúng búng nói trong lúc ngậm nguyên cái ống hút. Cốc nước
cam trước mặt anh đã vơi đi nhiều, giờ chỉ còn toàn đá. Chị Saori đi được
chừng một tiếng thì anh đến. Chắc là để gặp chị đây mà. Khi nghe bảo chị
ra ngoài rồi, anh gục đầu xuống buồn nản thấy rõ.
Tôi nghiền ngẫm thêm về phỏng đoán của mình, rằng Shiozaki đã chạy
trốn. Nếu vậy thì căn nhà anh ta ở bây giờ ra sao? Có lẽ anh ta đã xóa bỏ hết
bằng chứng rồi mới rời khỏi biệt thự chăng? Mà bằng chứng thì có thể là
cái gì nhỉ? Là thứ cần thiết để giam cầm Hitomi chăng?
Đầu tiên phải kể đến y phục. Quần áo cho Hitomi mặc… Tôi đã nhìn
thấy bộ đồ nữ ở nhà Shiozaki. Nhưng Hitomi mà tôi biết qua mắt trái không
có tay chân, phần thân bọc trong cái túi lớn. Với tình trạng ấy thì cô bé
không thể mặc quần áo bình thường được.
Có khi thứ tôi nhìn thấy trong nhà khi đó là quần áo Hitomi đã mặc khi
bị bắt cóc cũng nên.
Đến đây, tôi chợt nhận ra một yếu tố khác cần cho việc giam cầm.
Chính là địa điểm. Nếu Shiozaki đã phá hủy hết bằng chứng trước khi trốn
đi, thì phòng ngầm hẳn cũng bị xóa sổ rồi? Cửa sổ căn phòng đã bị bít kín
bằng một bồn cây xây gạch gần hai tháng nay. Chỉ cần bịt nốt cửa ra vào là
chẳng còn ai biết đến sự tồn tại của căn phòng đó nữa.
Tôi đứng phắt dậy. Bất thần phát cáu với sự ngu dốt của bản thân. Và
rồi cảm thấy sợ hãi. Chẳng phải Shiozaki có một thứ vô cùng quan trọng,
không được để bất cứ ai phát hiện ra sao?
Chính là Aizawa Hitomi, chính bản thân cô bé! Nếu như cô bé được cứu
sống, thì đây sẽ là đòn chí mạng với Shiozaki. Vậy thì anh ta sẽ làm gì?
Một là dẫn cô bé đi theo, hai là làm cho cô mãi mãi không lên tiếng
được nữa.
Tôi nhận ra mình cần phải đến biệt thự của Shiozaki ngay lập tức.

“Anh đánh xe ra đi!”


“Ớ, đi đâu cơ?”
Sumida ngớ người trước điệu bộ nôn nóng của tôi.
“Thì anh cứ đứng dậy đi đã!” Tôi kéo ống tay áo khoác của Sumida, gần
như ép anh đứng dậy. “Vào xe rồi tôi sẽ bảo là đi đâu!”
Từ trong quầy, ông Kimura quan sát chúng tôi với vẻ thích thú.
“Thì cứ chở em nó đi xem nào.”
Ông ra lệnh cho anh Sumida, giọng thủng thẳng. Tuy sắc thái ấy còn
khiến tôi sốt ruột hơn, nhưng tôi vẫn biết ơn vì ông đã nói hộ mình.
Tôi đẩy lưng Sumida vừa đủng đỉnh đứng dậy vươn vai, đi thật nhanh ra
khỏi quán. Còn quên chưa trả tiền, nhưng vì thời gian cấp bách lắm rồi nên
tôi quyết định sẽ trả sau.
Xe con của Sumida đang đỗ trước quán, tôi mở cửa phía ghế phụ lái,
chui vào xe.
“Cô cứ bình tĩnh đi đã.” Sumida nghiêng mình ngồi vào ghế lái, nói như
trấn an tôi. “Kéo dãn cả tay áo tôi rồi đây này.”
“Tôi xin lỗi.” Tôi hít thở sâu. “Nhưng mà chuyện gấp lắm. Anh phóng
thật nhanh đến nhà Shiozaki đi.”
Sumida giật mình thắc mắc, “Để làm gì?”
“Lý do trên đường tôi sẽ nói sau. Tôi xin anh đấy, cứ nổ máy đi đã.”
Sumida im lặng tra chìa vào, xoay một vòng để khởi động xe. Chúng tôi
rời khỏi bãi đỗ của Rừng Trầm Uất, hướng về phía biệt thự của Shiozaki.
“Rồi, giờ cho tôi biết lý do đi. Sao cô lại bảo tôi lái xe đến nhà
Shiozaki?”
Tôi phân vân, không biết có nên nói ra chuyện Aizawa Hitomi không.
Đầu óc đã hơi bình tĩnh lại, tôi mới nghĩ ra rằng không nên lôi thêm Sumida
vào vụ này.
Nhưng cuối cùng tôi vẫn quyết định kể với anh, rằng có khả năng
Shiozaki là kẻ bắt cóc.
“Nghe rồi đừng giật mình nhé.”
“Giật mình làm sao được nữa. Lần đầu tôi thấy mặt cô Nami khủng
khiếp đến vậy.”
“Anh chú ý nghe này.”
“… Ừm.”
Sumida gật đầu, vẫn tập trung quan sát đoạn đường phía trước. Tôi chợt
cảm thấy mình can đảm hơn. Đúng là thay vì đi một mình, thì có thêm anh
ta sát cánh vẫn tốt hơn.
Tôi kể cho anh về Aizawa Hitomi, về phòng ngầm trong biệt thự gạch
xanh, và suy đoán của tôi rằng cô bé đang bị nhốt dưới đó. Nhưng tôi loại
bỏ đoạn Shiozaki là nguyên nhân gây ra cái chết của Wazuya. Nếu bị lục
vấn về mắt trái của mình thì sẽ phiền phức lắm.
“Ba ngày trước, tôi cho Shiozaki xem một mảnh cắt từ báo ra. Trên đó
in chân dung của Aizawa Hitomi…”
Tôi giải thích rằng mình đã chờ Shiozaki tấn công, nhưng hồi nãy lại đi
đến kết luận rằng có thể anh ta đã tìm cách bịt miệng Hitomi và chạy trốn.
Sumida nghe từ đầu tới cuối mà không ngắt lời một lần nào. Đợi tôi nói
hết, anh mới lẩm bẩm bằng giọng yếu ớt, mặt tái xanh, “Nhưng mà, anh
Shiozaki đó á…? Không thể nào tin nổi…”
“Tôi xin anh… hãy tin tôi đi.”
“Nhưng mà…”
Chiếc xe chạy theo con đường ngoằn ngoèo dẫn tới biệt thự. Đang lên
dốc, hai bên đường là rừng tuyết tùng. Chúng tôi đi qua nơi Wazuya gặp tai
nạn.
“Tôi hiểu rồi, anh không tin cũng đúng thôi. Tôi sẽ vào biệt thự một
mình. Anh Sumida ở lại xe nhé. Khả năng Shiozaki còn ở trong đó là khá
cao. Chắc sẽ khá nguy hiểm. Nếu không thấy tôi quay ra, anh hãy đi báo
cảnh sát.”
Tôi thể hiện quyết tâm của mình. Tuy lòng ngập tràn sợ hãi, tôi vẫn
không thể ép buộc anh được.
“Nguy hiểm lắm à?”
“Chắc vậy. Nhưng tôi trang bị vũ khí đây rồi. Dao gấp gọt hoa quả.”
Tôi có cảm giác khi nghe câu đó, mặt Sumida còn tái xanh tái xám hơn
nữa.
“Nhưng nếu thế thì… đã đến nước này tôi không thể để cô đi một mình
được.”
Được lời như cởi tấm lòng, tôi muốn òa khóc vì biết ơn.
Chiếc xe ngoặt ở một khúc cua, đi qua chỗ rẽ vào nhà bà Kyoko.
Cuối cùng, trong rừng tuyết tùng lạnh lẽo mọc ở triền núi trên cao, đã
bắt đầu lác đác những thân cây thâm thấp héo khô. Cái lạnh tàn khốc giam
cầm mọi sinh vật, không nhìn thấy một thứ gì di chuyển. Tưởng đâu cả
cánh rừng đều làm bằng đá tảng.
Một đám mây la đà che mất mặt trời, khiến bốn bề ủ dột hẳn đi trong
cảnh tranh tối tranh sáng.
Cuối cùng, căn biệt thự gạch xanh đã hiện ra trên núi. Tôi thấy sống
lưng mình lạnh toát như vừa trúng cơn gió độc.
“Anh đừng cho xe vào sân nhà. Cứ dừng ở ngoài rồi đi bộ vào thôi.”
Tôi đề nghị.
“Tại sao?”
“Nếu Shiozaki còn ở trong nhà, thì lái thẳng vào sẽ bị phát hiện.”
Trước khi mở cửa vào biệt thự, tôi còn muốn quan sát xung quanh thêm
một lần nữa.
Xe chạy theo triền dốc. Tôi nhắm mắt lại, cố đánh bật nỗi sợ hãi đang
ập đến, cả người run lên. Không phải vì lạnh. Tôi vòng cả hai tay ôm ghì
lấy thân mình, nghiến răng chịu đựng, thầm gửi lời cầu xin đến con mắt trái
của Wazuya.
Lúc tiếp cận biệt thự để giải cứu Hitomi, không biết anh đã phải chịu
đựng nỗi kinh hoàng khủng khiếp đến mức nào?
Xin hãy cho tôi dũng khí.
Đúng lúc đó, xe dừng lại bên mép đường, cách cổng biệt thự một đoạn
ngắn.
“Sẵn sàng chưa?” Sumida hỏi, mặt xanh mét.
Tôi gật đầu rồi xuống xe.

Hai cây cột cao quá đầu tôi đứng sừng sững hai bên đường vào nhà
Shiozaki. Cánh cửa đầy gỉ sét đã mở sẵn. Tôi và Sumida thận trọng lom
khom đi qua khoảng trống đó.
Đi hết con đường mòn bọc trong bụi cỏ rậm rạp, căn biệt thự gạch xanh
đã hiện ra trước mắt chúng tôi. Tuy chỉ có hai tầng, tầm vóc thua xa rất
nhiều công trình trên đời, nhưng với tôi nó to lớn đến mức tưởng chừng che
kín cả bầu trời. Mái nhà hình tam giác chọc thẳng lên trên, hướng tới những
đám mây la đà xám xịt.
Trông nó như con quái vật đang ấp ủ và sinh nở bóng tối. Trước mặt nó,
phần sâu thẳm nhất trong tâm can tôi run lên vì bất lực. Một người có hạnh
phúc hay đĩnh đạc đến mấy, vào khoảnh khắc đối diện với nó, cũng sẽ nhận
ra mình chỉ là một con người trơ trọi tột cùng thôi.
Bầu trời mang màu của hắc ám và cô đơn. Lặn xuống dưới mặt biển
xanh, rốt cuộc người ta lại chạm đến đáy sâu không biết tới ánh sáng mặt
trời. Màu xanh của mặt biển thực chất cũng chính là nhờ bóng tối thăm
thẳm bên dưới. Căn biệt thự trước mắt nhắc nhở tôi về sự thật ấy.
Bây giờ đang là ban ngày, nhưng những đám mây che lấp ánh nắng làm
bốn bể tối đen. Ở trong phòng có lẽ phải bật đèn. Nhưng mọi khung cửa sổ
mặt tiền đều ngập tràn bóng tối tĩnh mịch. Không cảm nhận được là có
người.
Phía trước biệt thự là một khoảnh sân rộng lát sỏi để đỗ xe. Chiếc xe
con màu đen của Shiozaki đang đậu ở đó. Anh ta chỉ có độc một chiếc xe
này thôi.
“Chắc Shiozaki… vẫn còn trong nhà nhỉ?” Tôi hỏi Sumida, nhận ra
giọng mình cứ lí nhí dần vì căng thẳng.
“Có khi vứt xe lại rồi đi cũng nên.” Sumida trả lời.
Chúng tôi hơi giấu mình vào cánh rừng bao quanh khuôn viên tòa nhà.
Bốn bề im ắng đến mức tôi nghe được cả tiếng ong ong trong tai. Chỉ thỉnh
thoảng mới có tiếng chim đập cánh vọng lại từ đâu đó.
Giữa bầu không khí oằn xuống dưới sự tĩnh lặng ấy, tôi nhìn thấy trên
mái nhà có con quạ. Một chấm đen sì, tưởng chừng ai lấy đầu kim chọc
thủng một lỗ trong không gian vậy. Mắt nó sáng quắc, cái cổ màu đen ngó
nghiêng xung quanh như muốn dò tìm kẻ xâm nhập.
“Anh tìm bên phải, tôi kiểm tra phía bên trái nhé.” Chúng tôi quyết định
tách ra hai hướng để xem xét một vòng tòa nhà.
“Có gì thì phải gọi tôi đấy.”
Sumida dặn với vẻ ái ngại rồi bắt đầu di chuyển, vẫn giấu mình giữa
những thân cây. Tôi cũng di chuyển dọc theo khu rừng bao quanh, nhắm
đến mé trái biệt thự. Khi tách khỏi Sumida hành động độc lập, tức là chỉ
còn một mình, tôi bỗng lại hoang mang. Tất nhiên anh ta cũng không có vẻ
khỏe khoắn gì cho cam, thậm chí cái lưng và cẳng tay gầy gò ấy còn gây
cho người ta cảm giác yếu ớt. Thế nhưng tôi nhận ra, chỉ cần có một người
khác bên cạnh là tinh thần mình đã bớt căng thẳng hơn nhiều.
Bức tường gạch xanh sừng sững vươn thẳng trên nền đất. Cứ gần thêm
một bước, tôi lại cảm nhận rõ thêm áp lực của nó trên thân thể mình. Tới sát
hông biệt thự, tôi ngẩng mặt nhìn qua khe hở giữa những cành cây khô, và
thấy bức tường đã che khuất hơn một nửa bầu trời bên trên.
Lặng lẽ quan sát bức tường một hồi, rốt cuộc mắt tôi mất điểm nhìn, và
đâm ra chóng mặt. Những viên gạch trần xếp ngay ngắn đúng quy cách lấp
đầy tâm trí tôi. Tôi có thể cảm nhận được tiếng kêu khóc, gào thét hay rên rỉ
của con người từ bên trong vọng ra.
Nỗi bất an ập đến làm tôi buồn nôn. Tôi chống tay lên thân cây cạnh đó,
nhắm mắt cố trấn tĩnh. Hơi thở nghẽn lại, tôi thở gấp để lấy thêm dưỡng
khí.
Toàn thân tôi thấm đẫm không gian của cánh rừng và biệt thự. Không
khí như ngón tay lạnh toát vuốt ve gò má tôi. Cái rét và nỗi cô đơn dần
ngấm vào da thịt tôi vốn đang bị kéo căng ra vì khủng hoảng.
Có lẽ ngày xưa Wazuya cũng thế này chăng? Lúc xem xét quanh biệt
thự để giải cứu Aizawa Hitomi, phải chăng anh cũng cảm thấy nỗi sợ hãi
muốn nhấn chìm mình?
Khả năng cao là trước ngày tìm cách phá cửa sổ để cứu Hitomi, anh đã
từng thăm dò tòa nhà. Bởi vì anh cầm theo cả dụng cụ trong túi áo cơ mà.
Bây giờ tôi cũng đang hành động như anh. Tôi đang kế thừa tâm nguyện
của anh, thực hiện đúng kịch bản “giải cứu Hitomi”.
Tôi cố thở đều trở lại, rồi mở mắt. Vốn tôi mới nhắm mắt đứng yên
được khoảng mười giây. Nhưng ngần ấy thời gian đã cấp đủ dũng khí để
bước chân tôi tiến về phía trước.
Tôi ló mình ra khỏi rừng cây, áp sát tường biệt thự. Tôi di chuyển dọc
theo bức tường, cố gắng không gây ra tiếng động.
Con quạ đen trên nóc nhà đập cánh, bay vút lên trời. Nó cảm nhận được
sự hiện diện của tôi chăng?
12

Miki đang ở thư phòng. Hành lý đã chuẩn bị xong xuôi, giờ chỉ còn
bưng bít phòng ngầm là có thể lên đường. Ngôi nhà này y sẽ giao lại cho
người quen, để sau này nó lại tìm đến một vị chủ nhân mới. Bàn ghế, đồng
hồ, rèm cửa đều bị bỏ lại. Hiện trạng gần giống lúc y mới chuyển tới. Chỉ
có những thứ thuộc về Miki là sẽ mất đi.
Bất chợt, y mở ngăn kéo bàn như sực nhớ điều gì. Y lấy thứ cất giữ
trong đó, ngắm nhìn một lúc. Là món đồ mà vị khách vãng lai đánh rơi cạnh
biệt thự hôm nào.
Đúng lúc đó, y nghe thấy tiếng chim đập cánh bên ngoài. Giả như bình
thường thì y chẳng mấy bận tâm. Nhưng vào cái lúc sắp lên đường tẩu thoát
này, âm thanh đó làm tâm tư y xao động.
Y thả vào túi áo món đồ vừa lấy khỏi ngăn kéo, rồi nhìn ra ngoài qua
cửa sổ thư phòng. Không có gì bất thường.
Y rời khỏi phòng, đi dọc hành lang tầng hai. Vì thiết kế thông tầng nên
đứng đây có thể nhìn bao quát hành lang tầng một. Hành lang gấp khúc,
cuối mỗi khúc lại trổ cửa sổ.
Miki lại gần một khung cửa sổ như thế, áp đầu vào lớp kính. Đây là
hướng Nam của biệt thự. Vì không muốn gây tiếng động, y không mở cửa
sổ, và vì thế không nhìn được khoảng không ngay dưới khung cửa. Nhưng
trong một khoảnh khắc, ở một góc rất hẹp không bị bậu cửa che khuất, y đã
trông thấy bờ vai ai đó di chuyển. Vị khách vãng lai đây rồi. Người đó đang
áp mình vào tường gạch để xem xét dọc theo sườn nhà.
Miki bắt đầu hành động. Y lặng lẽ bước xuống cầu thang. Chân cầu
thang có đặt mấy cái túi đựng đầy gạch và vữa. Là thứ mà y đã khuân ra từ
phòng ngầm, từng chút từng chút một.
Ngẫu nhiên thay, Miki tìm thấy một chiếc búa sắt. Y đã để sẵn hộp dụng
cụ dưới chân cầu thang vì nghĩ sẽ dùng đến trong khi bịt phòng ngầm.
Chiếc búa sắt cũng nằm trong đó. Phần đầu đã gỉ sét già nửa, nhưng vẫn
còn đủ nặng, và thích hợp để phá hoại.
Nắm chặt cán búa bằng gỗ, Miki lên đường săn tìm vị khách vãng lai.
13

Tôi tiến lên dọc theo tường biệt thự. Tôi nghĩ rằng nếu dán sát thân
mình vào tường thì sẽ khó mà bị phát hiện từ cửa sổ tầng hai. Vai và hai bàn
tay tôi áp hẳn vào mặt tường gạch xanh lạnh toát và khô cứng. Hơi thở
trắng toát từ miệng tôi phả nhẹ vào những viên gạch hình chữ nhật, rồi biến
mất.
Căn biệt thự này không phải là hình hộp chữ nhật vuông chằn chặn. Có
những chỗ tường lồi do phòng ốc nhô ra bên ngoài. Mỗi lần rẽ ở góc tường
là tôi lại nín thở, chỉ sợ Shiozaki lù lù xuất hiện ngay trước mắt.
Tôi cẩn thận nhòm vào từng khung cửa sổ một. Hầu như phòng nào
cũng buông rèm. Đúng là Shiozaki không ở đây. Bầu không khí mang chất
trống rỗng đặc trưng của những căn nhà không có người ở.
Dọc theo sườn nhà xây rải rác mấy bồn cây bằng gạch. Phần lớn đều
chẳng trồng trọt gì cả, chỉ có cỏ dại úa tàn đã ngả màu nâu nhạt. Nhưng
thỉnh thoảng lại có mấy cành cây còi cọc khô héo chĩa ra như muốn thông
báo ở đây đã từng trồng cây cối. Nhưng bây giờ thì đám cây đó đã chết
sạch, lá cũng rụng hết cả rồi.
Phía Tây Nam tòa nhà là chỗ giống nhất với nơi mà tôi trông thấy trong
mắt trái. Lần trước tìm đến biệt thự, tôi đã tin chắc đây chính là nơi Wazuya
từng đứng.
Và giờ tôi lại đứng ở vị trí đó. Nhưng quả thật không thấy khung cửa sổ
ngày xưa đâu cả. Ở chân tường không có khung cửa nào hết, thay vào đó là
một bồn cây.
Tôi tính đào thử một ít đất trong bồn ra. Nhưng đất đã đông cứng vì
lạnh. Dùng tay mà đào rõ ràng không phải một ý tưởng sáng suốt. Những
viên gạch xây nên bồn cây cũng được cố định bằng vữa, khó mà gỡ nổi.
Chắc chắn cái bồn này mới xây vội trong hai tháng gần đây thôi. Phải có
điểm yếu ở đâu đó chứ. Nhưng với mắt tôi thì không thể nhìn ra được.
Tôi quyết định bỏ cuộc. Không nên lưu lại đây quá lâu.
Tôi đi vòng ra sau biệt thự, và bắt gặp nhà kho ở đó. Lần trước đến đây
tôi cũng đã phát hiện ra rồi. Chắc hẳn nó tồn tại từ lúc biệt thự mới xây.
Những tấm ván gỗ định hình đã cũ, bắt đầu có dấu hiệu mục ruỗng. Xem
chừng ban đầu nó được sơn màu trắng, nhưng bây giờ lớp sơn đã tróc lở,
chỉ còn màu ẩm ướt của nước mưa ngấm vào.
Mấy tấm ván gỗ đã long ra, cho phép tôi nhìn vào nhà kho tối om. Tôi
nắm lấy tay nắm cửa, định mở xem bên trong nhưng cửa không động đậy.
Tôi dùng sức kéo mạnh. Bên trong trống rỗng, không có gì cả.
Đến đây tôi phát hiện ra khung cửa sổ.
Cạnh nhà kho, ở vị trí phải ngước lên một chút, có một chỗ lõm hình
chữ nhật trên tường. Hình như không đóng rèm. Tất nhiên là không đóng
thôi, chứ không phải không có. Tấm rèm đang xếp lại ngay ngắn hai bên
cửa sổ. Từ đó tôi có thể nhìn vào biệt thự mà không bị rèm cửa che mắt.
Tôi ngó nghiêng xung quanh để đảm bảo không có ai khác.
Khung cửa sổ ở khá cao. Do biệt thự xây trên nền dốc, nên dù là cửa sổ
của cùng một tầng, nhìn từ bên ngoài độ cao của chúng lại khác nhau.
Tôi định sẽ đứng lên nhà kho để nhòm vào khung cửa sổ đó. Tôi móc
chân vào cái cây bên hông căn phòng, bám lấy gờ cửa sổ và đu mình lên.
Bây giờ thì nó đã ở ngay trước mặt tôi. Tôi dõi mắt vào trong.
14

Miki ra khỏi cửa, đi dọc theo tường nhà. Bóng người mà y thoáng thấy
từ tầng hai hình như đang đi dọc theo phía Nam biệt thự. Tức là y đang đuổi
theo sau người đó. Miki đã phân tích về thứ sinh vật mang tên khách vãng
lai này. Trước kia từng có kẻ tương tự xuất hiện rồi. Chúng đánh hơi được
bí mật mà Miki đang cất giữ.
Cũng tại y đâu có chu đáo gì trong việc giấu giếm tội ác của mình.
Không hề chuẩn bị, tự nhiên y đẩy cô gái hỏi đường từ trên bờ vực xuống.
Lần giết người đầu tiên đã như thế rồi. Sau này nghĩ lại, y cũng không hiểu
nổi hành động của mình. Y chưa bao giờ nghĩ đến việc chịu tội nếu bị phát
hiện. Mà thật ra chịu tội thì cũng chẳng sao, y tự nhủ.
Thế nhưng, nếu vẫn có thể chạy trốn thì y sẽ chạy. Nếu vẫn có thể bịt
miệng những vị khách vãng lai nhòm ngó biệt thự của mình, thì y sẽ bịt.
Miki siết chặt cây búa sắt trong tay, lặng lẽ bước đi. Vòng qua mấy góc
lồi, y dừng bước. Vị khách lần này đang ở đó. Y đã nhìn thấy quần áo
người ta lấp ló bên kia góc tường. Vị khách vãng lai vẫn chưa nhận ra bản
thân đang bị chủ nhân biệt thự theo dõi thì phải. Miki nín thở, bí mật tiến
lên.
Hành vi này rất đỗi bình thường đối với y. Không biết đây đã là người
thứ bao nhiêu tìm đến y rồi nhỉ? Ngay cả ở nơi trú ngụ trước khi chuyển
vào biệt thự này cũng vậy. Y hồi tưởng lại. Khách vãng lai lần ấy là một bà
nội trợ. Khi trông thấy Miki đang tản bộ bên ngoài, bà ta đã nhìn y với vẻ
nghi ngờ. Chắc vì y tuyệt đối loại bỏ mọi giao du với hàng xóm, nên người
ta cảm thấy khó chịu chăng?
Trong thời gian sống tại ngôi nhà đó, y đã chôn hai người vào núi. Y
từng cho rằng đây là nguyên nhân khiến mình bị nghi ngờ. Tất nhiên y luôn
có sẵn lựa chọn là giết hại bà nội trợ kia, nhưng y chưa bao giờ động tay. Vì
y đã linh cảm là nếu bà ta đột nhiên biến mất, gia quyến sẽ làm ầm lên. Rốt
cuộc y quyết định, chuyển nhà đi chỗ khác còn đỡ rầy rà hơn là đợi bằng
chứng có tính quyết định bị phanh phui.
Và thế là Miki đến Kaedecho.
Y áp đầu và vai vào tường, xác nhận lại hành trạng của vị khách vãng
lai một lần nữa. Người đó đang vừa phả hơi màu trắng, vừa ghé mặt lại gần
cửa sổ để nhìn vào biệt thự. Miki lục tìm kí ức, cố nhớ xem, từ vị trí kia có
thể nhìn thấy thứ gì. Rồi y sực nhớ ra “một thứ”, và quyết định phải ra tay
càng nhanh càng tốt.
Hitomi nói rằng muốn nhìn thấy ánh sáng.
Nếu cô bé không nói thế, thì có lẽ y không cần bịt miệng vị khách vãng
lai này. Chỉ cần bịt phòng ngầm rồi bỏ biệt thự mà đi là xong.
Hitomi đang ở cạnh khung cửa sổ ấy. Chính tay Miki hồi nãy đã đặt cô
bé ngủ tại đó.
Vị khách vãng lai nhìn thấy rồi.
Một tiếng hét kinh hãi vang lên, dù rất nhỏ do cố nén.
15

Gần như không có gì trong phòng cả. Chỉ có một cái giá sách, trên đó
xếp đầy sách khổ lớn. Có khi là sách tranh ảnh. Bên hông tủ sách là mấy
bức tranh dựng chỏng chơ, không treo lên để trang trí. Shiozaki dùng phòng
này để chứa đồ chăng?
Tôi nhảy xuống khỏi nhà kho với tâm trạng nửa nhẹ nhõm nửa bối rối.
Có lẽ Shiozaki không còn trong nhà nữa.
Đột nhiên có bóng người từ đằng trước đi đến. Suýt nữa tôi hét toáng
lên. Khi nhận ra là Sumida, người tôi bải hoải xuội lơ, như thể mất hết sức
lực.
“Cô tìm thấy gì không?”
Tôi lắc đầu trước câu hỏi của anh.
Chúng tôi quyết định vào bên trong. Đã kiểm tra cửa chính, vì có bắt
khóa nên không mở được. Nhưng theo Sumida thì ở phía Bắc biệt thự có
cửa phụ. Cửa này thì không khóa, tôi chỉ mới vặn tay nắm nó đã lặng lẽ mở
ra.
Bên trong tối om. Trời đã nhiều mây, mà căn phòng còn ở hướng Bắc,
chỉ nhìn được lờ mờ. Tôi muốn bật đèn nhưng lại phân vân. Làm vậy mà
Shiozaki đang ở đâu đó quanh đây thì nguy hiểm lắm. Ai ngờ Sumida
chẳng thèm cân nhắc, lập tức với tay gạt công tắc.
“Không sao đâu, chắc chắn không có ai đâu mà.”
“Mình vẫn phải cẩn thận đấy.”
Tuy nói vậy nhưng tôi vẫn thầm an tâm vì có người bên mình.
Cửa phụ thông vào bếp. Cái tủ lạnh cũ cùng chạn bát hiện ra dưới ánh
đèn lờ mờ. Bầu không khí lặng ngắt làm nổi bật cả tiếng chạy trầm đục của
cái tủ lạnh.
Bồn rửa bát không thấy sót lại rác bẩn, cũng không có dấu vết nào
chứng tỏ gần đây anh ta đã nấu ăn. Căn bếp này không phải là được dọn
dẹp sạch sẽ, mà là chưa hề sử dụng thì đúng hơn.
Chúng tôi kiểm tra từng phòng. Không phòng nào có người.
Trong một căn phòng hình như dùng làm xưởng vẽ còn vương vãi mấy
bức tranh dang dở. Vẽ khoảnh vườn của biệt thự này. Trên mặt bàn lem
nhem vì đồ mỹ thuật có đặt chiếc cốc thủy tinh, trong đó cắm cây cọ vẽ.
Bộ quần áo mà Shiozaki khẳng định là của vợ mình vẫn để nguyên
trạng. Mấy bộ đồ nữ khác được gấp gọn gàng, xếp trong chiếc tủ đựng
trong suốt. Nhìn kích cỡ thì không hợp để cho Aizawa Hitomi mặc, toàn là
những món có lẽ do một phụ nữ trưởng thành chọn mua. Sau khi nhòm vào
buồng tắm trống không, Sumida nói với tôi, “Chẳng thấy ai cả.”
Tôi không cảm thấy một chút lo lắng nhỏ nhất nào trong anh. Và dường
như anh ta còn đang bắt đầu nghi ngờ suy đoán của tôi, về việc Aizawa
Hitomi đang bị giam cầm dưới ách Shiozaki. Tuy không thể khẳng định rõ
ràng, nhưng giọng điệu của anh ta dẫn tôi đến phán đoán đó.
Chúng tôi đi dọc hành lang tối tăm, tìm xem còn cánh cửa nào chưa mở.
Chắc chắn phải có cửa phòng ngầm ở đâu đó. Thế nhưng tôi không tìm thấy
cánh cửa nào giống thế cả.
“Về thôi cô Nami ơi. Chắc cô hiểu lầm rồi.”
Giọng Sumida từ giữa hành lang vọng lại. Tôi đau đớn. Không phải như
vậy. Nhưng họng nghẹn tắc, tôi không thể đáp trả được gì.
“Chưa xem tầng hai mà.”
“Tôi không đi đâu.”
Sumida đưa tay chống nạnh, ra điều mình sẽ chỉ đứng ở đây thôi.
Tôi lên cầu thang một mình. Nhà thiết kế thông tầng, hành lang chạy
vòng quanh không gian mở, có nhiều cánh cửa san sát nhau.
Một phòng hình như được Shiozaki dùng làm phòng ngủ. Một phòng
khác chỏng chơ mấy chiếc bàn cũ bằng gỗ. Tại căn phòng ấy, tôi càng thêm
bất an. Không nơi nào có manh mối gì cả.
Hồi nãy, khi Sumida tỏ ý nghi ngờ, tôi đã bất bình. Nhưng bây giờ thì
tôi nghĩ, thái độ ấy cũng là tất nhiên.
Càng lục lọi từng phòng, cảm giác kinh hãi mà tôi từng dành cho biệt
thự này càng mờ nhạt. Nhìn từ bên ngoài, tôi đã tưởng nó phải là một hang
động ma quái che giấu một thứ gì dị thường lắm. Nhưng khi nhìn bức tranh
con chó chạy trên thảo nguyên do Shiozaki vẽ, hay cái ti vi đặt trong phòng
khách, cùng những cuốn băng được thu lại và dán nhãn đầy đủ, nỗi sợ hãi
không tên của tôi dần tan biến.
Tại sao lại không tìm thấy cửa xuống phòng ngầm? Sao không có một
thứ gì đủ mạnh để làm bằng chứng? Tôi vừa băn khoăn vừa đi loanh quanh.
Ánh mắt tôi chợt dừng lại ở cửa sổ. Và rồi phát hiện ra ở triền núi đằng
xa, có một căn biệt thự nữa khá giống với tòa nhà tôi đang đứng.
Biệt thự bên ấy cũng xây gạch trần, hình dáng mái nhà giống hệt. Chỉ có
màu tường là khác. Biệt thự của Shiozaki xây bằng gạch xanh lam, còn tòa
nhà tôi đang nhìn thấy qua cửa sổ thì lại là gạch đỏ.
Có lẽ đó là nhà của bà Kyoko. Lúc trước đúng là ông Kimura đã nói
như vậy. Ông bảo là bà Kyoko cũng sống trong nhà gạch trần…
Và căn nhà đó cũng ở khu vực này. Trước giờ tôi chưa có dịp lại gần
nhà bà Kyoko, nên đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy nó.
Trong đầu tôi chợt nảy ra một giả thuyết. Điều mà từ trước đến giờ tôi
chưa từng nghĩ đến.
Nếu như, vào ngày đi cứu Aizawa Hitomi, Wazuya đeo kính râm màu
xanh thì sao?
Nếu vậy thì cho dù bức tường có không phải màu xanh, có lẽ cũng sẽ
mang màu sắc đó khi in vào con mắt trái thôi.
Không, không thể thế được. Trong hình ảnh mắt trái ghi lại, có dấu hiệu
gì chứng tỏ Wazuya đã đeo kính râm không? Tôi phủ định khả năng đó.
Tuy nhiên niềm tin chưa đủ vững chắc để có thể cười nhạo, loại bỏ hoàn
toàn giả thuyết này. Mà ngược lại, nỗi bất an của tôi càng lớn hơn.
Đúng rồi. Căn biệt thự trong kí ức Wazuya có phòng ngầm. Nhưng căn
nhà này lại không có. Chỉ có mấy bồn cây thôi.
Tôi đã khăng khăng cho rằng nó mới được xây gấp gáp trong hai tháng
gần đây. Nhưng đám cỏ khô trong bồn chẳng lẽ cũng mới mọc chừng hai
tháng sao? Hai tháng vừa rồi là mùa đông, thế mà chúng vẫn sinh trưởng
được từ chỗ đất cằn cỗi, rồi kịp khô héo à? Nếu câu trả lời là “Không”, thì
việc bồn đất ấy có sẵn từ trước là khả năng hợp lý hơn nhiều.
Tôi đứng chết trân trong căn phòng tầng hai. Nếu như khung cửa sổ mà
Wazuya nhìn thấy thật ra lại thuộc về phòng ngầm nhà bà Kyoko, thì tôi đã
phạm một sai lầm rất nghiêm trọng.
Tôi rời khỏi căn phòng. Và dù hậm hực, vẫn phải bước xuống cầu
thang. Tôi vươn người ra khỏi chỗ lan can vòng quanh không gian mở, nhìn
xuống hành lang tầng một.
“Anh Sumida ơi!”
Nghe tôi hét, anh bước tới, ngẩng lên, nghiêng đầu nhìn tôi, “Cô bỏ
cuộc rồi à?”
“Đánh xe ra đi anh! Mình phải đến nhà bà Kyoko ngay!”
Anh ta lại trợn tròn mắt ngạc nhiên.
“Lý do tôi sẽ nói sau!”
Dù chưa hiểu đầu cua tai nheo gì, Sumida vẫn chạy biến ra cửa chính.
Tôi cũng lao xuống cầu thang, đầu óc miên man suy nghĩ. Căn biệt thự mà
Wazuya nhìn thấy không phải ở đây. Mà là tòa nhà bên kia, cũng xây bằng
gạch trần. Nếu vậy thì chị Saori gặp nguy hiểm rồi. Hồi trưa chị đã bảo sẽ
đến nhà bà Kyoko.
Phải gấp rút lên thôi. Tôi nhảy cóc một mạch qua mấy bậc cầu thang
cuối cùng.
16

Không biết bên kia cửa kính, Aizawa Hitomi đang có biểu cảm thế nào
nhỉ? Miki nghĩ. Chắc hẳn vị khách vãng lai đã nhìn thấy chỗ chân tay bị cắt
lìa của cô bé rồi. Cảnh tượng cô bé bò lổm ngổm trong cái túi hẳn mới kì
quái làm sao.
Tiếng thét kinh hãi của vị khách vừa vang lên đã tắt ngấm. Giống như
dè chừng xung quanh và buộc bản thân phải im lặng vậy.
Miki bắt đầu nhấc chân tiến về hướng vị khách. Đúng lúc đó, trong túi y
vọng ra tiếng kim loại va nhau. Trong túi y hiện tại có chìa khóa ô tô và một
chiếc đồng hồ đeo tay màu vàng kim. Chính là thứ mà vị khách vãng lai đã
đánh rơi đằng sau biệt thự.
Âm thanh phát ra rất nhỏ. Nhưng đã quá đủ để thông báo sự hiện diện
của y.
Lịch kịch! Vị khách kia bỏ chạy.
Miki lao vụt ra từ góc nhà y đang ẩn mình. Y phải đuổi theo và bịt
miệng người kia lại.
17

Tôi chạy xuống hết cầu thang, hướng về phía cửa chính. Tôi cần phải
khẩn trương ra ngoài, chắc Sumida đã nổ sẵn máy xe, nhanh giây nào hay
giây ấy.
Đúng lúc đó, một sự việc không thể đoán trước xảy ra. Nếu bấy giờ tai
tôi không nghe thấy gì, chắc tôi đã không đứng lại rồi.
Văng vẳng có tiếng ai hát. Tôi dừng chân dưới mấy bậc cầu thang.
Giọng hát mới yếu ớt làm sao, yếu đến nỗi gần như không thể nghe thấy. Là
một giọng nữ, mong manh và run rẩy. Ca từ có vẻ là bằng tiếng Anh.
Là tiếng ti vi hay đài vọng ra từ một phòng nào đó. Mặc kệ nó mà sang
nhà bà Kyoko cho nhanh. Dù nghĩ vậy, nhưng một phần trong tôi vẫn muốn
tìm nguồn gốc của âm thanh này.
Đúng. Bây giờ bình tĩnh lại tôi mới thấy ý kiến đó hợp lý. Cứ cho là anh
Wazuya đeo kính râm xanh đi, thì cũng làm sao mà cả một bức tường nhà
đỏ quạch lại chuyển màu được. Đơn giản như vậy mà tôi không nghĩ ra…
Khi rời xa khỏi chân cầu thang một chút, giọng hát lập tức yếu hẳn đi.
Tôi mau chóng tìm ra nguồn gốc của nó. Tủ tường kê ở gầm cầu thang là
chỗ âm thanh nghe rõ nét nhất.
Dưới gầm cầu thang chỉ có một chỗ tường lõm, kê một tủ tường cũ bằng
gỗ. Tôi áp tai mình vào cánh cửa kéo của cái tủ, và nhắm mắt lại.
Có tiếng hát từ đằng sau tủ tường. Bây giờ thì tôi tin chắc rồi. Cái tủ
tường này được đặt ở đây với mục đích che giấu.
Cảm giác rùng mình chạy suốt cơ thể. Tôi không nghĩ gì về việc đến
nhà bà Kyoko nữa.
Tủ tường trống không. Tôi nghĩ rằng thủ phạm đã bỏ hết đồ đi để di
chuyển cho dễ dàng. Tủ rất nhẹ, ngay như tôi chỉ cần dùng sức là kéo được.
Khi nhích tủ ra, thì thấy một lỗ rỗng trên tường.
Chắc hẳn ban đầu ở đây cũng được dán giấy dán tường màu trắng sữa
như các tường khác của ngôi nhà. Nhưng lớp giấy dán đã bong gần hết, chỉ
sót lại một phần nhỏ. Cái lỗ đủ to cho người chui vừa, rìa lỗ là gạch vỡ. Ban
đầu hẳn có cửa ra vào lắp ở chỗ gạch vỡ này. Và trên cánh cửa có đắp một
lớp gạch với mục đích che mắt. Sở dĩ nói vậy là bởi tôi nhìn thấy bản lề vẫn
sót lại ở phần gạch vỡ.
Cái lỗ thông với một cầu thang dẫn xuống bên dưới. Không gian dài và
hẹp khiến tôi liên tưởng đến cổ họng một loài sinh vật nào đó, với nguồn
sáng duy nhất là bóng đèn điện yếu ớt treo trên trần. Tiếng hát từ dưới kia
vọng lên. Tôi tin chắc không phải tiếng đài, mà là âm thanh do một con
người phát ra.
Đây chính là phòng ngầm. Nó tồn tại thật mà.
Tôi cẩn trọng bước xuống từng bậc cầu thang. Tâm trạng hoang mang
đến mức không đủ bình tĩnh điều chỉnh nhịp thở. Tôi cảm nhận tim mình
đang đập dữ dội trong lồng ngực.
Cả hai bên đều là tường gạch trơ trọi. Tôi bám tay lên tường mà đi để
không vấp ngã. Càng xuống dưới không khí càng mang mùi ẩm mốc. Bầu
không khí nhớp nháp ấy như bám dính, đè ép thân thể tôi. Đặc quánh và
đục ngầu đến mức tôi cảm giác mình không thở nổi. Cứ như đang ngập
ngụa trong một bể bóng đêm đã được chuyển hóa thành chất lỏng vậy.
Dưới cùng cầu thang là một căn phòng tối tăm. Những thanh dầm nhà
chạy ngang dọc trên trần, chống đỡ cho sàn tầng một bên trên. Chỉ có độc
một bóng đèn treo lủng lẳng, phát ra ánh sáng mong manh từ trước cả khi
tôi bật công tắc. Thỉnh thoảng nó nhấp nháy chớp tắt, xem ra sắp cháy đến
nơi rồi. Ánh sáng không chạm được đến những góc xa của căn phòng, làm
cho phía bên kia cầu thang chìm trong bóng tối mịt mùng. Vì lý do đó, tôi
cảm giác căn phòng ngầm này không có điểm kết thúc. Bao nhiêu cột nhà
đứng sừng sững như những bóng ma, có cột được bóng đèn soi tỏ, nhưng
cũng có cột chìm một nửa vào bóng tối. Sàn nhà là đất nện, nhưng đã rắn
đanh như đá.
Trước mặt tôi là một không gian rộng, có một cái bàn gỗ loại lớn. Ở góc
xa là vài cái giá cũng bằng gỗ. Chúng tập trung về một phía căn phòng,
nhìn như mấy kệ sách trong thư viện.
Chiếc bàn gỗ này hình như chính là nơi làm việc. Dụng cụ để vung vãi.
Tôi nhìn thấy cưa tay và búa trên mặt bàn. Và còn một chiếc búa tạ loại lớn
đang nằm lăn lóc. Trên mặt bàn có một thứ trông giống dao mổ phẫu thuật.
Nó lấp lánh ánh bạc sắc lẻm dưới ánh đèn điện chập chờn. Mặt bàn nhớp
nháp một thứ chất nhầy màu đen.
Tôi đánh đuổi hết những tưởng tượng ra khỏi đầu. Bởi vì thứ chất nhầy
đó giống như máu người bết lại rồi đổi màu vậy. Không phải đâu, đó chỉ là
vết dầu loang, tôi cố thuyết phục bản thân mình.
Trước dãy giá có để mấy hộp gỗ và vài đồ đạc linh tinh. Trông như nơi
tập hợp đồ cũ hoặc hỏng hóc trong nhà. Hẳn là tồn tại từ thời biệt thự mới
xây. Có đồng hồ kiểu đứng đã mất mặt số, và xe nôi phủ tấm chăn đã phai
màu.
Giọng nữ vẫn tiếp tục hát. Tiếng ca vang vọng đến mọi ngóc ngách,
giữa bóng tối dai dẳng mà đến ánh đèn kia cũng không thể xua tan. Tôi
không hiểu nội dung lời hát, nhưng giọng cô đầy đau buồn, và mong manh
đến mức tưởng chừng có thể tan biến bất kì lúc nào. Tưởng đâu chính bóng
tối kia đang rưng rưng nước mắt mà than khóc vậy.
Tôi định cất tiếng gọi nhưng không thốt nên lời. Cổ họng khô rang, làm
cho ngôn từ cũng tắc nghẹn lại. Mất một lúc, tôi mới cho ra được một thứ
giọng vừa run vừa yếu, “Có ai… ở đó không…?”
Khi tiếng gọi của tôi bị bóng tối hấp thụ, tiếng hát kia ngưng bặt. Cả căn
phòng đột ngột chìm vào im lặng.
“Ai thế?” Có tiếng một cô gái vang lên từ góc phòng, đằng sau cái tủ.
Giống hệt giọng hát hồi nãy. Chứa đựng một nỗi e sợ âm ỉ.
“Em là Aizawa Hitomi nhỉ?” Tôi vừa hỏi vừa tiến lại gần giọng nói kia.
Tôi rời khỏi chiếc bàn làm việc, tiến về phía dãy giá để đồ. Cảm giác bước
đi trong phòng ngầm này thật là khủng khiếp. Chẳng khác gì một thế giới
hoàn toàn xa lạ. Không có ánh mặt trời, không phân biệt nổi ban đêm hay
ban ngày. Một cõi âm u với tâm điểm duy nhất là ngọn đèn leo lét kia.
“Cô ấy không phải là Hitomi đâu.”
Tôi dừng chân bên cạnh cột nhà. Giọng một người đàn ông trẻ, cũng
phát ra từ sau dãy giá, cùng vị trí với tiếng hát hồi nãy, “Tôi là Hisamoto
Shinichi, còn người vừa trả lời cô là Mochinaga Yukie.”
Đầu óc tôi rối bời. Cả hai đều là những cái tên tôi mới nghe lần đầu. Tôi
đã tưởng dưới căn phòng này chỉ có mình Aizawa Hitomi thôi. “Vậy
Hitomi đâu rồi ạ?”
“Hình như đang ngủ. Nói khẽ thôi kẻo làm cô bé tỉnh.”
Người đàn ông xưng danh Hisamoto ấy nói bằng giọng thì thào.
Đằng sau dãy giá, có tiếng hai người lẩm bẩm gì đó. Âm thanh xì xào
như cọ hai mảnh giấy vào nhau ấy làm tai tôi ong ong. Hình dáng cả hai bị
bóng tối che phủ. Từ góc sâu có ánh nhìn chọc thẳng vào tôi.
Khó chịu quá. Hai chân tôi không nhúc nhích nổi, càng không thể dấn
bước sang bên kia dãy giá. Tôi chẳng muốn tiến đến nơi ánh sáng không rọi
tới ấy chút nào. Vậy mà có đến hai con người còn nguyên lý trí đang bị
chôn vùi ở đây. Chỉ riêng điều đó thôi đã làm đầu óc tôi rối loạn.
“Có phải cô là bạn của Shiozaki không?” Giọng người phụ nữ mang tên
Mochinaga Yukie cất lên. Tôi đang băn khoăn chưa hiểu tại sao cô lại nhắc
đến tên anh ta, thì cô tiếp. “Khi nghe thấy tiếng cô, Shiozaki đã có phản
ứng.”
“Chẳng lẽ… anh ta đang ở đây sao?”
“Ngay cạnh tôi.” Giọng Hisamoto Shinichi. “Với tình trạng bây giờ, anh
ta không thể nói chuyện được. Nhưng khi nghe thấy giọng cô, anh ta đã hơi
rên rỉ.”
Shiozaki đang ở đây. Nhưng lại không nói chuyện được. Tôi cảm giác
như mình vừa rơi vào một trò đùa.
Trần nhà thấp lè tè đè ép tinh thần tôi. Giống như một bàn tay khổng lồ
làm bằng bóng tối, tưởng chừng có thể nghiến bẹp tôi bất cứ lúc nào. Tôi
chống tay lên cột nhà để đứng cho vững, và chong mắt nhìn chằm chằm vào
bóng tối đằng kia.
Có ai đó trong góc nhà thì phải. Bởi vì bóng tối đặc quánh ở đấy vừa
dao động, giống như cựa quậy. Nhưng tôi không nhìn rõ đường nét.
Có vài thứ buông lủng lẳng từ trần xuống ngay bên cạnh tôi. Là vài
chục sợi cước mảnh. Đầu mỗi sợi đều gắn móc câu. Tôi nhìn kĩ và nhận ra,
đầu mỗi móc câu dính một chất vụn gì đó đã khô.
“Tại sao Shiozaki không nói chuyện được ạ?”
Tôi hỏi. Một lúc sau, tiếng Hisamoto vọng ra.
“Anh ta đang ngồi ôm đầu gối, toàn thân bị đóng cọc xuyên qua. Không
cử động được, đến nói cũng không được luôn. Chắc thủng phổi rồi. Nhưng
tất nhiên là anh ta vẫn sống.”
“Như thế làm sao mà sống được nữa…!” Tôi lỡ miệng hét lên. Chỉ vậy
thôi mà tôi đã cảm thấy cục bóng tối khổng lồ ẩn trong phòng khẽ run rẩy.
“Nhưng sự thật lại là như thế. Tôi cũng không biết phải giải thích ra
sao.” Người đàn ông khổ sở nói. Anh ta đang muốn an ủi, làm cho tôi bình
tĩnh hơn.
“Hai người nói nhỏ hơn đi.” Yukie khẩn khoản.
Đúng lúc đó, giá gỗ chắn trước mặt họ rung mạnh. Chắc bị ai xô vào
rồi. Dù không đổ hẳn nhưng trong khoảnh khắc cái giá nghiêng đi, một
chiếc hộp để trên đó đã rơi xuống, đập vào mặt sàn tạo ra âm thanh.
Tôi đưa tay bịt miệng, lảo đảo giật lùi.
Vào lúc cái tủ nghiêng ngả, ánh đèn yếu ớt đã soi tỏ một phần nhỏ của
cơ thể hai người. Cảnh tượng xuất hiện chớp nhoáng từ bóng tối trông như
ảo ảnh, và biến mất ngay. Tôi nghĩ chắc là mình nhìn nhầm. Hoặc là đầu óc
tôi có vấn đề mất rồi.
“Đừng có làm vẻ mặt như thế. Từ đây chúng tôi nhìn rất rõ cô đấy…”
Là giọng của Mochinaga Yukie. Thanh âm chất chứa những u buồn.
“Tại sao…” Tôi nói, nhưng vì khó thở nên phải ngưng ngang, dồn hết
sức mới giữ được mình đứng thẳng. Hình dáng hai người họ đã cướp đi
chút bình tĩnh cuối cùng trong tâm trí tôi. Lý do duy nhất khiến tôi không
thét lên bỏ trốn, là bởi chân tôi đã tê liệt, không động đậy nổi nữa.
“Chúng tôi đã bị phẫu thuật.”
“Phẫu thuật ư?”
“Ừ, ai đến đây đều bị như vậy cả. Một thủ thuật hạnh phúc. Rồi bị nhốt
xuống hầm. Lạ lùng thay, không đau đớn chút nào, mà giống như là thời
gian ngừng lại, bản thân mình được giải thoát khỏi tất cả vậy.” Hisamoto
dừng một chút rồi tiếp, “À, phải chăng cô là cư dân mới của phòng ngầm
này?”
Ý anh ta là sao cơ? “Cư dân của phòng ngầm” là cái quỷ gì? Có lẽ anh
đang nói về những con người bị dẫn dụ đến nơi này, giống như mình
chăng? Nếu vậy thì anh đã sai rồi.
“Tôi đến để cứu một người…” Tôi hướng về phía bóng tối góc phòng
và hỏi. “Aizawa Hitomi đâu?”
Đầu tiên, tôi cần đưa cô bé rời khỏi căn phòng này đã. Nhanh được khắc
nào hay khắc ấy. Nếu còn ở lại đây lâu hơn, chắc tôi sẽ phát điên mất. Thứ
bóng tối quẩn quanh dưới chân này sẽ vươn xúc tu thọc vào đầu, ăn mòn
não bộ tôi. Tôi muốn quay lại mặt đất thật nhanh, để tắm mình trong ánh
mặt trời. Rồi gọi thêm người đến giúp.
Còn phải sớm khôi phục thân thể anh Hisamoto và chị Yukie về nguyên
trạng nữa.
“Hitomi đang ở trong xe nôi ấy. Đó là giường của cô bé.” Là giọng của
Hisamoto Shinichi.
Tôi tiến lại gần xe nôi, vẫn cảnh giác nhìn bóng tối nơi có hai người kia.
Chiếc xe cũ kĩ và nhỏ bé. Màn che rách, tay đẩy dính đầy mạng nhện. Chắn
bùn và vành xe vốn mang màu bạc giờ bám đầy gỉ sét, còn méo mó nữa.
Bên trên xe phủ một tấm chăn, làm tôi không nhìn thấy được bên trong.
Tôi muốn bật khóc. Lúc bị bắt cóc Hitomi mười bốn tuổi. Bây giờ cô bé
mười lăm rồi. Cho dù có thu gọn chân tay lại, cũng làm sao có chuyện cô
nằm vừa chiếc xe nôi trước mắt tôi được. Tôi gỡ cái chăn cũ mèm. Và rồi
rất tự nhiên, những giọt nước ứa ra từ khóe mắt.
Khuôn mặt cô bé bên dưới cái chăn nhỏ đến mức tưởng như có thể ấp
gọn trong hai bàn tay. Hai má trắng bệch, gầy gò như người bệnh. Những
mạch máu tái xanh thấp thoáng dưới làn da trong suốt. Chắc phải rất lâu rồi
không ai gội đầu cho cô bé. Mái tóc dài rối tung rối bù.
Ánh đèn chiếu xuống khuôn mặt của Hitomi. Như thể ánh sáng ấy quá
chói, cô bé chợt rên rỉ, mí mắt he hé. Trông thấy tôi đang đứng bên cạnh,
khóe miệng cô bé giãn ra, biểu cảm như thể vẫn đang mơ một giấc mơ dài.
“Ôi,” cô nói.
Lồng ngực tôi như nghẹn lại. Cô bé bị nhét trong túi. Cái túi cỡ to
nhưng cũng chỉ đủ đựng phần thân người là cùng thôi. Thế mà cô lại nằm
gọn trong đó. Miệng túi thắt lại quanh cổ bằng một cái cà vạt màu đỏ.
“Ai vậy?” Giọng Hitomi thỏ thẻ dễ thương. “Chị là ai thế? Chị cũng bị
bắt đến đây à?”
Không phải đâu. Tôi lắc đầu, toan nói, chị đến để cứu em ra. Nhưng đột
nhiên, mọi từ ngữ nghẹn lại nơi cổ họng.
Trong lúc đó, cô bé vẫn hỏi tới tấp. “Chị cũng đến đây bằng ô tô nhỉ?
Thế… chị đã thấy quạ chưa? Bây giờ ấy, ngay cả lúc ngủ, em vẫn thấy nó
hiện ra trong mơ.”
Những câu hỏi liến thoắng như một chú thỏ đang nhảy lon ton. Tôi cảm
giác như giọng nói đó là cứu rỗi duy nhất của mình giữa bóng tối này.
“À, quạ thì chị có thấy rồi, nó đậu trên mái nhà ấy.”
“Không phải quạ kiểu đó. Là quạ lúc lắc cơ.”
Lúc lắc á?
“À đúng rồi, cái người đó có bảo đã mua xe mới nhỉ. Nhưng chắc vì
thích cái treo chìa khóa quá nên mang sang lắp vào xe mới luôn.”
Tôi để Hitomi nằm lại trong xe, định ra khỏi tầng hầm ngay. Nhưng
chưa kịp chạy đến cầu thang thì đã có bóng người đi từ trên xuống. Là
Sumida.
“Nami, hóa ra cô ở đây à.” Anh ta nói.
Tôi bước lại gần, giơ tay phải tát anh ta một cái thật mạnh vào má, “Thì
ra chính là anh.”
Sumida quan sát tôi một lượt, không có vẻ gì là thảng thốt.
Là quạ linh vật treo lủng lẳng chỗ gương chiếu hậu. Hitomi đã nhìn thấy
cái móc treo chìa khóa đó. Nó in hằn vào mắt cô bé, khi bị anh ta mang đến
đây bằng xe.
18

Miki đuổi theo vị khách vãng lai vào rừng. Càng xa biệt thự, rừng cây
lá kim càng lấn lên thế chỗ cho những thân cây khô héo dày đặc.
Đột nhiên, bóng lưng của vị khách vãng lai đang chạy đằng trước biến
mất. Hình như người đó đã trượt chân, ngã lăn xuống triền dốc. Phía dưới
kia là đường lộ.
Có tiếng ô tô phanh gấp. Khách vãng lai bị xe đâm rồi. Miki nấp sau
thân cây xem xét.
Tài xế bước từ trên xe xuống, là một người đàn ông trung niên. Lão ta
nhìn ngó xung quanh, và khi biết không có xe nào khác ở đây thì lại quay
về xe của mình.
Chiếc xe màu trắng phóng đi thật nhanh như chạy trốn, bỏ mặc vị khách
vãng lai nằm sõng soài trên mặt đường.
19

Sumida tiến lại gần chiếc xe nôi, mắt vẫn không rời tôi. Động tác thong
thả như mèo đi vậy. Nhưng như thế cũng đủ để áp đảo, khiến tôi phải lùi lại.
Anh ta đặt tay lên rìa xe nôi, nhìn Aizawa Hitomi ở bên trong.
“Em thấy sao rồi?” Anh ta hỏi cô bé.
“Cũng tàm tạm.” Hitomi trả lời với vẻ ngái ngủ.
“Vậy là Shiozaki không phải thủ phạm?” Ngoài nỗi tức giận vì bị phản
bội, cảm giác đầu tiên của tôi là hoang mang khi nhìn Sumida. Giống như
chưa hiểu rõ chân tướng sự việc. Nhưng tôi đã nhớ ra một điều. Lúc chúng
tôi đột nhập vào tòa nhà này… “Anh biết vị trí của công tắc đèn.”
Dù đi vào bằng cửa sau tối om của nhà người khác, nhưng anh ta mò
ngay ra công tắc đèn. Bây giờ thì tôi đã hiểu đó không phải là ngẫu nhiên.
Anh ta nắm rõ căn biệt thự như lòng bàn tay.
“Hôm trước, sau một thời gian rất lâu tôi mới trở lại phòng ngầm này.”
Sumida quay sang nhìn tôi, vẫn đặt tay lên rìa xe nôi. Biểu cảm đó, giọng
nói đó, gần như không khác gì với Sumida mà tôi đã quen ở quán cà phê.
“Tôi đi cùng cô đến đây để trả áo khoác cho Shiozaki còn gì. Có nhớ
lúc trên đường về, cô đã nói gì với tôi không?”
Nghe Shiozaki nói tường nhà bị nứt, nhưng tôi lại không tìm thấy bức
tường nào như thế. Đây chính là điều tôi đã nói cho Sumida biết lúc ngồi
trong xe.
“Bấy giờ tôi đã ngờ ngợ rồi, nhưng hóa ra đúng thật. Bức tường nứt
chính là cửa vào phòng ngầm mà tôi đã lấp lại. Lúc cô và tôi đến đây trả áo,
anh ta đã biết tường nứt rồi, nhưng sau đó lại tạm che đi bằng tủ tường.”
“Tủ tường…?”
Sumida gật đầu, “Tôi đã dùng gạch lấp chỗ đó từ lâu lắm rồi, và đẩy tủ
vào để ngụy trang. Lúc chuyển đến đây Shiozaki không hề biết nhà này có
phòng ngầm. Nhưng vì tường nứt do động đất nên anh ta đã nghe thấy tiếng
hát của cô Yukie. Chuyện này tôi biết là do hỏi trực tiếp anh ta. Cô đã nói
chuyện với Yukie chưa nhỉ?”
Sumida giơ tay trỏ vào góc phòng ngầm. Từ trong góc tối đó, tôi cảm
nhận được bao nhiêu con mắt đang chằm chằm nhìn ra tôi và Sumida.
“Ý anh là Shiozaki cũng tìm thấy phòng ngầm này rồi ư?”
“Mấy hôm trước, tôi có đến đây một mình, anh ta vẫn chưa thực sự luận
ra. Còn tưởng tiếng hát là từ đài hay cái gì đó nữa.”
Nhưng Shiozaki có ý định phá sập bức tường ấy, Sumida giải thích.
Shiozaki mua búa là để phục vụ mục đích đó, nhưng lại nói dối tôi là để sửa
tường.
“Nghi là Shiozaki sắp phát hiện ra phòng ngầm, nên anh đã…?”
Sumida thoáng liếc vào góc phòng. Tuy rằng tôi không nhìn thấy, nhưng
trong đó ngoài Hisamoto Shinichi và Mochinaga Yukie ra, còn có cả
Shiozaki nữa.
“Này, Shiozaki là ai thế…?” Hitomi ngây thơ cất tiếng.
“Là người dọn vào ở sau anh ấy. Nhớ không, mới dắt vào đây hôm
trước còn gì?”
Nghe Sumida trả lời, cô bé dường như nhớ ra, “À, cái người bị đem
xiên que ấy hả.”
Căn phòng ngầm này hoạt động theo quy luật khác hẳn với mặt đất trên
kia. Tôi cảm giác như vậy. Tôi cố kiềm chế để không gục xuống vì chóng
mặt. Trần nhà thấp cùng bóng tối dày đặc đang chèn ép não bộ mềm nhũn
của tôi từ mọi phía.
“Vào buổi tối ba ngày trước, tôi đã phá đi bức tường mà chính mình lấp
lại một năm trước.” Rồi tìm xuống nơi này, Sumida nói như một tiên tri đã
nhìn thấy tất cả.
Anh ta rời khỏi chiếc xe nôi, tiến về phía tôi.
“Khoan đã!” Giọng nói đẫm nước mắt của tôi vang vọng trong phòng.
Anh ta dừng lại.
“Trước đây anh từng sống trong căn nhà này sao?”
Anh ta gật đầu. Rồi giải thích rằng vẫn sống ở nhà này đến một năm
trước, cắt rời tay chân của Hitomi cũng vào khoảng thời gian đó.
“Lúc rời đi, tôi đã dùng gạch bít cửa sổ và cửa ra vào của căn phòng.”
Cửa sổ à…
“Anh xây mấy cái bồn cây ngoài kia đúng không? Để giấu đi khung cửa
sổ…”
“Đã có sẵn mấy cái bồn ở đấy rồi. Tôi chỉ tăng thêm một mà thôi.”
Vậy là cỏ khô ở đó chẳng phải vì anh ta đã đánh nguyên đất từ đâu
mang tới. Một năm từ khi xây bồn là đủ để chúng tự mọc lên rồi héo đi.
Nhưng vẫn có điều tôi chưa hiểu. Trong kí ức của con mắt trái, rõ ràng
chỗ cửa sổ chưa bị lấp. Hai tháng trước, lúc Wazuya mất đi, người sống ở
nhà này đã là Shiozaki rồi.
Đến đây tôi nhận ra sai lầm trong suy luận của mình. Trước đây tôi chưa
bao giờ nghĩ đến kết luận này, vì nó dựa vào quá nhiều ngẫu nhiên.
“Anh nói rằng mình gặp Wazuya lần đầu vào một năm trước, nhưng có
thật là vậy không?”
“Cậu ta là khách vãng lai.”
“Khách vãng lai?”
“Là những người nhòm ngó vì biết được tội ác của tôi. Họ thường điều
tra xung quanh nhà, hay đến hỏi thẳng tôi. Anh Hisamoto đây cũng từng là
một vị khách như thế. Tôi đã phát hiện ra anh ta lởn vởn cạnh biệt thự.”
“Vậy là Wazuya kiểm tra cửa sổ phòng ngầm, rồi bị anh bắt gặp sao?”
Sumida gật đầu ngụ ý “Chính xác”.
“Chuyện xảy ra vào đúng một năm trước.”
Tôi bịt chặt miệng khóc nức nở. Vậy là đúng rồi. Hình ảnh trong mắt
trái không phải là từ hai tháng trước, lúc Wazuya qua đời. Mà là từ một năm
về trước.
Ở đoạn cuối kí ức mà tôi nhìn thấy trong thư viện, Wazuya đã bị xe
đâm. Chắc hẳn chiếc xe đã nhìn thấy và kịp phanh lại. Nhưng âm thanh lúc
phanh không vang lên trong kí ức. Bởi thế mà tôi nhầm tưởng rằng anh
đương nhiên đã chết rồi. Nhưng liệu có thể khẳng định chính xác như vậy
không?
Sự thật là vào thời điểm đó Wazuya chưa chết. Nếu nghĩ theo hướng
này thì mâu thuẫn giữa hiện trường tai nạn của anh, và địa điểm trong mắt
trái của tôi cũng trở thành hiển nhiên. Bởi vì cơ bản đây là hai sự kiện khác
nhau.
Sumida tiến thêm một bước lại gần tôi. Tôi chỉ còn nước giật lui, lắc
đầu quầy quậy, muốn hét cũng không hét lên được.
“Một năm trước, Wazuya đã nhòm vào cửa sổ phòng ngầm. Từ khoảng
một tuần trước đó tôi đã có cảm giác bị theo dõi. Hôm nay cô tìm đến biệt
thự này vì Aizawa Hitomi, chắc là do nghe cậu ta kể nhỉ?”
Tôi lấy cả hai tay bịt tai. Vậy mà vẫn nghe thấy tiếng anh ta.
“Wazuya đang nhòm vào cửa sổ, phát hiện ra tôi liền chạy trốn. Nửa
chừng cậu ta bị xe đâm và ngất đi. Chiếc xe chạy mất. Đó là một vụ gây tai
nạn rồi bỏ trốn.”
Anh ta lại tiến thêm một bước về phía tôi.
“Từ đoạn này trở đi mới là vấn đề. Tôi có nói chắc cô cũng không tin.
Nhưng chuyện đã tình cờ xảy ra như thế. Khi tỉnh lại, Wazuya không nhớ
một điều gì. Cả về tôi, hay về căn biệt thự này, đều không. Cậu ta đã quên
sạch sẽ quá khứ của một tuần trước đó…”
Mất kí ức sao. Ôi, thì ra là vậy. Với đầu óc gần như bị khóa chặt trong
kinh hoàng, kì lạ thay tôi vẫn nắm bắt được câu chuyện.
“Tôi không giết Wazuya. Cũng không mang cậu ta xuống phòng ngầm.”
“Tại sao…?”
Sumida bỗng hơi phân vân. Suy nghĩ mông lung một lúc, Sumida trả
lời, “Chẳng vì lý do gì cả.” Rồi nói tiếp như giải thích thêm. “Chỉ là ngẫu
nhiên cứ chồng chất ngẫu nhiên.”
“Rồi người đó đã mang vị khách vãng lai đến quán cà phê kia.” Hitomi
nói.
“Wazuya đã rên rỉ, xin mang cậu ta đến Rừng Trầm Uất.”
Chị Saori từng kể cho tôi rồi, nhưng không nhớ là vào lúc nào. Lần đầu
tiên chị gặp Sumida là đúng một năm trước, khi anh ta vác Wazuya say
mèm vào quán cà phê.
Thực tế là Wazuya không say. Anh bị ngất do va chạm với ô tô, và trí
não cũng vì thế mà mụ mẫm đi. Sumida đã nói dối chị, rằng anh ta quen
Wazuya trong thị trấn.
Sumida đứng cách tôi khoảng vài bước. Cơ thể đó nhìn không có vẻ gì
là mạnh mẽ, thật ra giống như con gái thôi. Nhưng vẫn là quá đủ để bắt giữ
và làm tôi im miệng.
Bầu không khí tù túng trong phòng ngầm bị kéo căng lên vì nỗi hoang
mang. Hơi thở của tôi khó nhọc, đến cả việc hấp thu dưỡng khí cũng thành
ra khó khăn.
Tôi thấy sợ Sumida. Trong mắt anh ta không có nét bạo tàn, hung ác,
hay thậm chí là trống rỗng. Mà ánh mắt ấy nhìn tôi như đang quan sát.
Giống như nhà khoa học làm thí nghiệm, như bác sĩ, hay nghiên cứu sinh…
Anh ta có nét mặt của những con người như thế.
“Sau đó tôi rời khỏi biệt thự, dọn ra căn hộ cho thuê ở trước cửa ga. Tất
nhiên là đã lấp phòng ngầm lại rồi.”
Vào lúc cuộc nói chuyện này kết thúc, vận mệnh của tôi cũng sẽ an bài.
Tôi cố gắng nhúc nhắc tay chân đang cứng đờ, để đảm bảo mình vẫn gom
đủ sức lực mà chạy trốn.
“Vô lý quá… Theo như anh kể thì những người như Hitomi đã bị bỏ
mặc đến gần một năm. Bình thường làm sao người ta sống được…”
“Nhưng thực tế thì là thế này. Những vết thương trên người cô bé hay
mấy người kia đều chưa khép miệng. Vì vậy họ vẫn có thể sống tiếp. Thời
gian đã dừng lại, và họ cứ ca hát, hay nói chuyện với nhau trong căn phòng
không có ánh mặt trời. Tôi đã thay bóng đèn mới, rồi cứ để công tắc bật và
lấp cửa hầm lại.”
Anh ta nhìn lên bóng đèn trên trần nhà. Nó nhấp nháy chớp tắt, sắp cháy
đến nơi rồi.
“Em chẳng có việc gì làm hết.” Hitomi thỏ thẻ.
Sắp đến lúc phải củng cố quyết tâm rồi. Tôi lùi chếch một bước ra sau.
Đến nước này thì chỉ còn biết cầu trời thôi.
“Chị Saori thì sao? Sau khi chuyển nhà anh vẫn thường lui tới Rừng
Trầm Uất, có phải vì có tình cảm với chị ấy không?”
Sumida im lặng nhìn tôi. Không có câu trả lời nào hết, nhưng tôi đã
nhìn được một mảnh nhỏ trong trái tim anh ta.
Sumida lại tiến thêm một bước. Đây là thời cơ duy nhất để hành động.
Nỗi sợ hãi vẫn hiện hữu, nhưng lúc này đó chính là động cơ thôi thúc tôi
chạy trốn.
Tôi dồn sức vào hai chân, đạp mạnh xuống sàn nhà, lấy đà nhào tới húc
vai vào chính diện Sumida. Tôi như nghe thấy vài tiếng nín thở trong góc
nhà.
Cơn chấn động nặng nề chạy dọc thân thể tôi. Hơi thở nghẽn lại. Người
tôi dội ngược vì phản lực từ cú va chạm.
Bị tấn công bất ngờ, Sumida ngã ngửa ra sau, ngã thẳng vào dàn móc
câu đang treo lòng thòng từ trần nhà.
Sumida vùng vẫy. Những cái móc câu bắt dính vào quần áo, cuốn chằng
chịt trên người anh ta như vòng tay của con người.
Tôi chạy vụt đi, vì biết Sumida sẽ đuổi theo mình ngay. Tôi tức tốc leo
cầu thang dẫn lên mặt đất. Khoảng cách không quá dài. Nhưng tôi tưởng
như mình có guồng chân đến mấy, cũng không thể tiến lại gần ánh sáng của
hành lang trên kia. Hoàn toàn không có cảm giác đang leo cầu thang, mà
như đang vùng vẫy trong biển nước vậy.
Tôi đã tưởng sẽ mất rất nhiều thời gian, nhưng thực tế thì khá nhanh.
Tôi băng qua bậc cầu thang cuối cùng và lao ra hành lang. Bầu không khí
tươi mát trên này làm tôi chóng mặt.
Tôi chạy về phía cửa chính. Bước chân đập xuống sàn nhà vọng lại từng
tiếng. Rồi tôi lao tới cánh cửa lớn màu đen dẫn ra bên ngoài. Tôi nắm lấy và
thử xoay tay nắm màu vàng.
Rồi tôi bối rối. Cửa chỉ hé một chút. Đủ để thò tay ra mà thôi. Tôi dùng
sức xô cửa mấy lần, nhưng đều thất bại. Khi nhìn kĩ, tôi thấy chỗ tay nắm
cửa bị dây điện cuốn chằng chịt. Cứ như thế thì không thể mở được. Mà gỡ
hết đống dây cũng mất thời gian.
Tôi lập tức nhận ra là chính Sumida đã làm như vậy. Đang hốt hoảng,
tôi sực nhớ tới sự tồn tại của cửa sau.
Tôi xoay phắt lại, lao nhanh theo hành lang.
Khi chạy ngang qua chỗ giao với cầu thang, chân tôi vấp phải thứ gì đó.
Sau khi ngã lăn ra tôi mới biết, thứ đó chính là chân Sumida thò ra từ lối
vào phòng ngầm.
Tôi không cảm thấy đau. Dù bị ngã khi đang chạy hết tốc lực, đâm sầm
vào một cánh cửa phòng để mở, nhưng tôi lại không hề đau đớn, giống như
ngã lên đệm bông vậy.
Tôi vẫn có thể chạy tiếp. Vì nghĩ thế nên tôi cố đứng dậy, nhưng rồi mắt
tôi nhìn thấy. Chân phải tôi bị bẻ gập theo một phương hướng bất thường.
Không hiểu sao tôi lại không thấy đau. Mà thậm chí bộ phận đó còn trở nên
ấm áp, dễ chịu.
Tôi không biết cơ thể mình đã thành ra thế nào. Nhưng tôi cho rằng
chính nỗi sợ và sự gấp gáp đã làm tôi tạm thời quên cơn đau.
Sumida đứng trước mặt tôi. Má anh ta có vết xước. Chắc là bị lưỡi câu
móc vào. Áo quần anh ta rách tả tơi nhiều chỗ. Mấy cái móc câu vẫn còn
dính nguyên trên người. Xem chừng anh ta đã dùng sức để giật cơ thể mình
ra khỏi đống bòng bong hồi nãy.
Tôi rút con dao gọt hoa quả ra khỏi túi áo. Tay tôi run rẩy. Một phần
trong tôi nghĩ rằng lưỡi dao nhỏ bé này không đủ sức uy hiếp anh ta, và tôi
cũng chẳng thể chạy trốn được. Nhưng tôi vẫn không có lựa chọn nào khác.
Tôi đang định bật lưỡi dao gấp thì Sumida đạp vào tay trái tôi. Cánh tay
tôi gãy nát vì bị kẹp vào giữa chân anh ta và bức tường. Nhưng tôi không
cảm thấy đau. Chỉ giống như một cơn gió mạnh thổi vào chứ không có gì
hơn cả.
Con dao rơi xuống sàn hành lang. Sumida nhặt nó lên. Chuông báo
động rung inh ỏi trong đầu tôi. Nhưng tôi không cử động nổi nữa.
Sau đó tôi không biết rõ chuyện gì đã xảy ra, chỉ thấy cánh tay đang
cầm dao của anh ta thọc mạnh vào bụng mình. Cảm giác nhận về là một
chút va chạm nhỏ.
“Thế này thì không được rồi…”
Sumida than thở, mắt nhìn con dao. Nó chỉ còn cái cán. Lưỡi dao đã gãy
tự bao giờ.
Sumida giữ chặt cổ tôi lại để tôi không nhúc nhích được, đoạn sờ vào
phần bụng tôi qua lớp áo. Tôi vùng vẫy để thoát khỏi bàn tay ấy. Lưỡi dao
gãy hình như mắc vào áo tôi, bây giờ rơi xuống sàn phát ra âm thanh khô
khốc.
Tôi không cảm thấy đau ở bất cứ đâu. Vẫn ổn. Nhưng tôi nhận ra cánh
tay bị đạp của mình không cử động được nữa. Cố gắng đến đâu thì nó cũng
chỉ giần giật được mấy cái bất lực mà thôi.
Tôi nhìn vào mặt Sumida. Ánh mắt anh ta đang hướng về ổ bụng tôi.
Tôi lần theo ánh mắt ấy. Cái áo của tôi bị rách. Tôi không biết là mình bị
đâm từ lúc nào. Vùng quanh chỗ rách nhuộm màu đỏ thắm. Nhưng máu lại
chảy ra rất ít.
Một thứ kì lạ lòng thòng sổ ra từ miệng vết thương nơi ổ bụng tôi. Nó
lòi qua chỗ rách trên quần áo, và rung lắc theo mọi chuyển động.
Lúc đầu tôi tưởng đó là dây rốn, giống như của trẻ sơ sinh.
Tôi nhìn tay Sumida. Đầu ngón tay đỏ lòm. Anh ta đã thọc tay vào bụng
tôi vì muốn lấy thứ này ra. Tôi nghĩ như vậy.
Lý do duy nhất khiến tôi không phát điên, là bởi tôi không ý thức được
đó là thứ thuộc về mình. Tôi dùng tay hứng nó lên. Thật ấm áp.
Một cảm giác đê mê lan tỏa từ miệng vết thương, làm tâm trí tôi tê liệt.
Niềm hạnh phúc kì lạ bao trùm đầu óc. Và rồi tôi có cảm giác mình đã hiểu
ra lý do khiến những cư dân phòng ngầm không sợ hãi Sumida.
“Cô không thoát được đâu.”
Não bộ tôi như ngâm trong nước ấm. Giọng Sumida vọng lại từ rất xa.
Năng lượng sự sống không thể ngăn chặn đang tuôn trào từ miệng vết
thương. Nó xối đến từng đầu ngón tay, đến tận góc sâu nhất trong lý trí của
tôi.
Nhưng tôi căm ghét nó. Một phần sâu thẳm trong tôi chưa từng bị ai
làm vấy bẩn, giờ đây đang phản kháng trạng thái phi tự nhiên này.
Sumida chìa tay về phía tôi. Nhưng tôi đánh bật ra. Anh ta lộ vẻ bất
ngờ.
Tôi lao vào một căn phòng gần đó và đóng cửa lại. Tôi định bắt khóa
nhưng không được. Rốt cuộc tôi từ bỏ nỗ lực khóa cửa, và bắt đầu tiến về
phía cửa sổ. Một bên chân hoàn toàn bất động rồi. Tôi chỉ còn cách kéo lê
nó đi.
Sumida mở cửa, đuổi theo tôi. Anh ta biết rõ tôi không thể chạy trốn
được, nên dành cho tôi ánh nhìn ung dung của một người quan sát.
Cửa sổ thiết kế theo kiểu kéo lên là mở được. Tôi đã tính đến chuyện
nếu có móc khóa thì chắc phải dùng sức phá bung ra mới xong, nhưng may
mắn thay sức lực yếu ớt của tôi bây giờ vẫn đủ để mở nó. Tôi nhồi cả thân
thể mình qua khoảng trống hình chữ nhật đó.
Tôi hạ cánh bằng lưng xuống mặt đất bên ngoài. Chấn động làm hơi thở
nghẹn lại trong khoảnh khắc. Nhưng rồi cả cơn đau ấy cũng bị đánh tan nhờ
hơi ấm tỏa lan từ ổ bụng.
Vẫn nằm sõng soài trên đất, tôi nhận ra vị trí của mình bây giờ chính là
ở cạnh bồn cây lúc trước. Thần linh quả cũng biết đùa. Tôi chỉ muốn phá
lên cười. Bồn cây bằng gạch che giấu khung cửa sổ mà Wazuya nhìn vào
trong quá khứ, bây giờ đang ở ngay trước mắt tôi.
Sumida chui ra từ cửa sổ. Cơ thể gầy gò ấy lách qua khe hở, khéo léo
đáp xuống nền đất.
“Tại sao anh lại giết người?”
Tôi không còn đủ ý chí để đứng dậy nữa, nên cứ nằm vật ra đấy, ngước
mắt lên nhìn anh ta mà hỏi.
“Cô hỏi thế thì tôi cũng đành chịu.”
Sumida không có vẻ gì là quá băn khoăn về vấn đề này. Giống như nó
chẳng phải là chuyện gì quan trọng, mà thậm chí còn chẳng đáng để trả lời
vậy.
“Đâu phải tôi muốn giết người. Chỉ những khi cần phải bịt miệng ai đó
thôi.”
Tôi bò lê trên nền đất, cố tránh xa khỏi anh ta. Tuy các ngón tay trái
không nhúc nhích được nữa, nhưng cánh tay vẫn cử động được. Tôi lấy
khuỷu và bàn tay trái chống đỡ thân thể, và đạp đất bằng cạnh chân trái.
Chân phải giờ đã vô dụng bị tôi kéo lê theo mình.
Nền đất đáng lẽ phải lạnh lẽo cũng không gây ảnh hưởng nhiều đến tôi.
Chỉ có ổ bụng cọ xát với đất cát làm tôi khó chịu. Tôi cố gắng không nghĩ
về số nội tạng đang sổ ra từ miệng vết thương.
Sumida sóng bước bên cạnh. Tôi cảm nhận được ánh mắt của anh ta
đang nhìn xuống.
Tôi lên tiếng mà không nhìn mặt đối phương, “Hai tháng trước, Wazuya
ra đi, có thực sự là tai nạn giao thông không?”
Tôi ấp ủ một hi vọng mơ hồ là Sumida sẽ không làm gì mình khi đang
nói chuyện, và cứ nói tiếp thì sẽ không bị giết.
Cẳng tay tôi run lên vì mỏi do phải chống đỡ cả thân thể. Tôi đổ gục
xuống, mặt áp sát nền đất, một viên sỏi chui tọt vào miệng.
“Tôi đã làm cho giống như tai nạn.”
Sumida giẫm lên thứ dài và nhỏ kéo lê từ ổ bụng tôi. Thế nhưng tôi vẫn
tiếp tục bò, vẫn cảm nhận thứ đó đang rin rít lòi ra từ bụng mình. Thứ âm
thanh mà cũng không phải âm thanh ấy chạy dọc bên trong tôi, chạm đến
đỉnh đầu. Tôi cảm thấy bụng mình lõm hẳn lại.
“Tôi bịt mắt cậu ta, bẻ gãy chân tay từ trước. Rồi mang cậu ta đến chỗ
triền dốc, chờ xe đi qua thì đẩy xuống.”
Cho đến ngay trước lúc đẩy xuống, Wazuya vẫn bị đeo băng mắt. Vì
vậy anh chết đi mà vẫn không biết tại sao chân tay mình không cử động
được. Sumida giải thích như thế.
Trước mắt tôi là góc tường biệt thự. Tôi móc các ngón tay phải vào đó.
Không biết ruột người dài đến mức nào nhỉ. Tôi mượn sức cánh tay để
kéo thân mình đi. Cơ thể tôi lê lết trên nền đất, còn ruột bị giẫm thì vẫn cứ
phòi ra.
Đến đây, tôi bỏ cuộc, không bò nữa. Tôi gượng nửa thân trên dậy, ngồi
tựa vào tường căn biệt thự. Tôi hướng khuôn mặt bê bết bùn và nước mắt
về phía Sumida.
“Tại sao anh lại làm thế…”
“Wazuya bắt đầu hồi phục kí ức. Quá trình diễn ra rất từ từ. Về căn biệt
thự, về lần cậu ta đến thăm nó lúc vẫn còn đeo băng mắt trái… Wazuya bắt
đầu tâm sự những chuyện đó với vẻ bối rối.”
Rồi sẽ có ngày Wazuya nhớ ra tất cả. Để phòng hờ mà Sumida phải bịt
miệng anh…
Sumida đứng ngay trước mặt tôi. Bây giờ từ dưới nhìn lên tôi thấy anh
ta cao khủng khiếp. Chắc vì tôi đang ngồi bệt dưới đất đây mà. Đứng trước
bầu trời xám tro, anh ta nói với tôi như người lớn khuyên bảo trẻ con.
“Nào, vùng vẫy chán chưa? Ai ngờ ngay cả cô cũng trở thành khách
vãng lai, số phận trớ trêu thật.”
Sumida ngồi xổm xuống, vòng tay qua cổ tôi. Khuôn mặt gầy của anh ta
lù lù ngay trước mắt.
“Không đau đâu. Cô cũng sẽ sớm quen với xương cổ bị gãy thôi.”
Tay phải của tôi động đậy ở một góc Sumida không thể nhìn thấy. Sau
một hồi lần mò trong cái rãnh chạy dọc biệt thự, giữa đống lá thối rữa và
bùn đất, cuối cùng tôi đã tìm thấy “nó”.
“Anh nhầm to rồi.” Tôi vừa nói vừa khóc. “Chẳng có trớ trêu gì ở đây
hết. Tìm ra anh chính là mục đích, là mong muốn của tôi…”
Tôi thu hết hơi tàn, đâm thẳng “nó” vào người Sumida.
Một năm.
Đã vượt qua khoảng thời gian dài đằng đẵng ấy, là chiếc tuốc nơ vít hai
cạnh của Wazuya.
20

Miki tiến lại gần cậu con trai nằm sõng soài trên mặt đường. Cậu ta
chưa chết. Dường như mới bị ngất thôi. Cũng không nhìn thấy thương tích
gì.
Y cần phải lựa chọn, hoặc là giết chết cậu trai này, hoặc là mang về biệt
thự để bịt miệng. Đúng lúc đó, cậu ta rên lên trong vòng tay Miki. Hình như
bệnh mắt của cậu đã được chữa lành rồi? Lần trước giả làm khách đến thăm
biệt thự cậu ta còn đeo băng bịt mắt màu trắng, nhưng hôm nay thì không
thấy đâu nữa.
Mắt người đó lờ mờ mở ra. Ánh mắt lơ mơ không rõ ràng, điểm nhìn
không tập trung. Nhưng cậu vẫn biết có người đang ở cạnh mình, “Ai vậy?”
Cần phải bịt miệng cậu ta trước khi có người phát hiện ra. Vào lúc Miki
quyết định như thế, cậu con trai lên tiếng, “Đây là đâu…?”
Y kéo cậu ta vào vệ đường, rồi nghe cậu kể lể. Cậu ta đã quên bẵng tất
cả mọi điều từ khi gọi cà phê ở quán. Và cũng không nhớ gì về Miki.
“Còn anh là ai?”
Là ai không quan trọng, Miki trả lời. Cậu trai uể oải gật đầu, như đang
chới với trong một giấc mơ.
Miki vẫn đang cầm chiếc búa sắt trong tay. Y vung nó lên. Chỉ cần phá
vỡ não bộ của người này, cái chết sẽ tới.
Cậu trai nhắm mắt lại mà đầu óc vẫn u mê. Vào khoảnh khắc cây búa
chuẩn bị nện xuống, cậu nói, “Có thể đưa tôi về quán cà phê Rừng Trầm
Uất không…?”
Tình cờ thay y không lấy mạng người đó. Đã mất kí ức thì không cần
phải giết nữa. Ra tay bây giờ để sau đó dọn dẹp thì cũng quá tội. Bỏ xác lại
đây hay mang về biệt thự, đằng nào cũng phiền phức cả.
Miki ném cái búa vào bụi cỏ gần đó. Y cho cậu trai vịn vào vai, dìu đến
quán cà phê. Dù chưa bao giờ bước vào nhưng y vẫn biết nó ở đâu. Bởi vì y
thường xuyên chạy xe qua cửa quán.
Lúc hai người đến được Rừng Trầm Uất thì trời cũng đã chạng vạng.
Xung quanh chẳng có mấy đèn đường, chỉ có ánh đèn trong quán lẻ loi như
hòn đảo trôi nổi giữa biển đêm.
Đi được nửa đường thì cậu trai ngất xỉu. Miki đành cõng cậu ta rồi đẩy
cửa tiệm.
“Wazuya…!” Cô gái đang đứng quầy thét lên khi nhìn thấy cậu con trai
trên lưng y.
Miki đặt cậu ta nằm xuống một băng ghế dài.
“Xin lỗi, em trai tôi đã làm phiền anh rồi…”
Cô gái vừa chăm sóc cho cậu trai vừa cúi đầu cảm ơn. Miki nói dối rằng
cậu con trai bị như vậy là do say rượu. Chẳng có tí mùi rượu nào cả, nhưng
cô gái kia không hề nghi ngờ.
“Thôi chết! Còn nổi cả u nữa này!”
Cô gái vừa xoa đầu cậu con trai vừa nói. Miki giải thích cho cô rằng
trên đường đến đây, cậu ta đã bị vấp ngã.
Y nhìn quanh quất trong quán. Không có khách. Cô gái đứng quầy ban
nãy là chủ nhân sao? Nhưng nếu thế thì còn trẻ quá. Có khi chỉ là nhân viên
làm thêm thôi.
Miki ra khỏi quán, quay về nhà. Y nghe thấy tiếng cô gái gọi mình từ
phía sau. Nhưng y quyết định tảng lờ.
Y đi về phía biệt thự. Giữa đêm tối, y nhớ về cách bài trí của quán cà
phê, về cậu con trai bị ngất. Và rồi khuôn mặt người chị chăm sóc cho em
lại hiện lên rõ nét. Rất giống người bạn mà y quen thân trong bệnh viện thời
thơ ấu. Nếu người bạn ấy có phúc phận trưởng thành, chắc hẳn khuôn mặt
cũng sẽ mềm mại dịu êm như người con gái đó.
Miki nhận ra những ngón tay mình đang mân mê một khối kim loại
trong túi áo. Là chiếc đồng hồ đeo tay màu vàng kim mà cậu con trai nọ
đánh rơi khi nhòm ngó quanh biệt thự. Y vẫn nhét nó trong túi.
Y dừng chân, băn khoăn một lúc. Rồi quyết định có lẽ chẳng cần trả lại
làm gì.
Thế nhưng chỉ vài phút sau, Miki đã mở cửa quán cà phê lần nữa.
“Cảm ơn anh đã cất công đến tận đây. Chiếc đồng hồ này… quan trọng
với tôi lắm.”
Cô gái ôm chiếc đồng hồ bằng cả hai tay, còn cảm kích hơn y tưởng.
“Mà tên anh là gì thế…?” Cô thân thiện hỏi y.
Đúng là giống như đúc.
Miki xưng tên thật của mình.
“Ôi, ra là anh Sumida à…”
Cô gái đặt chiếc đồng hồ lên mặt quầy. Kim loại phát ra tiếng cạch khô
khốc.
Miki định đứng lên lần nữa, cô gái liền nắm lấy tay y.
“Nán lại uống tách cà phê đã.”
Cô gái cười khoe hàm răng trắng, rồi gần như ép y phải ngồi xuống
quầy.
Kim giây của chiếc đồng hồ trước mặt y vẫn tích tắc quay, theo một tốc
độ nhất định.
21

Phải ba ngày kể từ khi nhập viện, tôi mới lại được gặp mặt ai đó, giữa
lúc nằm trên giường, thẩn thơ nhớ về chuyện ngày xưa. Nói là “ngày xưa”
cho oai, chứ kí ức cũ nhất mà tôi còn nhớ được cũng chỉ mới từ hai tháng
trước thôi.
Tôi đã mất cả mắt trái và trí nhớ, rồi tỉnh dậy trong căn phòng bệnh
cũng trắng toát như thế này. Thời gian đầu tôi hoàn toàn mù tịt về mọi thứ
xung quanh mình. Đến bây giờ tôi còn chẳng nhớ bản thân đã suy nghĩ
những gì để sống qua tháng ngày đó nữa. Chắc chẳng nghĩ gì cả đâu. Bởi vì
lúc ấy không có thời gian, cũng đâu biết nên nghĩ gì cho phải.
Chỉ có một điều tôi vẫn nhớ rõ, rằng mình đã bất an đến nhường nào.
Cửa phòng bệnh mở ra. Cho đến lúc ấy người qua lại phòng tôi chỉ có
bác sĩ, y tá hay phía cảnh sát mà thôi. Nhưng lần này thì khác. Quy định
cấm thăm bệnh nhân đã được gỡ bỏ, và đây chính là vị khách đầu tiên.
Một người phụ nữ mà tôi quen biết đang đứng ở cửa phòng.
“Mẹ đến tận đây vì con ư…?”
Tôi hỏi trong khi vẫn nằm trên giường, và bà gật đầu, hai mắt đỏ hoe.
Trước ngày mẹ đến, bên cảnh sát đã cho người tới thăm phòng bệnh của
tôi. Có ba người, tất cả đều mặc áo vét. Tôi đã mời họ ngồi xuống ghế
nhưng chẳng ai chịu ngồi cả. Ba người đứng nhìn tôi đang nằm yên trên
giường, bị cấm nhổm dậy vì vết thương trên bụng, và trao đổi vài điều
mang tính công việc.
Họ không muốn tôi tiết lộ tình tiết vụ án ra ngoài. Vì sự việc có tính
chất kì dị. Để báo đài làm ầm ĩ lên thì không hay.
Không được kể lể bất cứ điều gì về vụ án cho bất kì ai khác. Cam kết
mà tôi đã đồng ý có nội dung như vậy. Rốt cuộc tôi cũng không kể cho họ
về con mắt trái.
Những gì tôi đã trải qua tại biệt thự đó thực sự đặc biệt. Đây là kết quả
của bao nhiêu lần kiểm tra được thực hiện trên cơ thể tôi. Bác sĩ không hiểu
nổi tại sao với vết thương như thế mà tôi còn di chuyển được. Tôi đã giải
thích là lúc đó mình không cảm thấy đau, nhưng họ chỉ nghiêng đầu băn
khoăn rồi lại tiếp tục xem xét thân thể tôi.
Chắc hẳn Hitomi và mấy người kia cũng đang bị kiểm tra giống như tôi,
hoặc còn kinh khủng hơn nữa. Nhưng từ khi được cứu ra khỏi biệt thự đó,
tôi chưa nhìn thấy bọn họ thêm lần nào.
Sau khi xong việc, ba người đàn ông toan rời khỏi phòng. Tôi gọi họ lại
vì có việc cần hỏi.
“Hitomi đang ở đâu rồi ạ?”
Một trong ba người trả lời rằng, cô bé đang khám tại một bệnh viện
khác, chữa trị đầy đủ rồi sẽ được trả về với gia đình.
“Shiozaki thì sao?”
Sau một khoảng lặng, tôi được biết anh ta đã chết. Trong khi đang kiểm
tra sức khỏe, Shiozaki đột ngột ngừng thở, cứ như là chìm vào giấc ngủ.
Cây cọc đóng vào đã làm tổn thương đến tim của anh.
Tôi không tài nào xác định được họ có nói thật hay không, đành gật
đầu, “Cảm ơn vì đã trả lời câu hỏi của tôi.”
Người đàn ông dợm bước định rời khỏi phòng, nhưng lại dừng chân. Và
hỏi tôi cùng một câu đã lặp lại không biết bao nhiêu lần.
Rằng trong căn phòng ngầm đó, ngoài những người đã được cứu ra, vẫn
còn vết tích của người khác nữa… Ý viên cảnh sát là liệu còn ai khác dưới
đó, không nằm trong số được giải cứu không?
“Tôi không biết.” Mỗi lần nhận được câu hỏi này, tôi đều trả lời như thế
và lắc đầu. “Dưới phòng ngầm tôi chỉ phát hiện ra Hitomi và anh Shiozaki
thôi…”

Lúc đó…
Sau khi xác nhận Sumida đã chết, tôi lấy tay thu gom cái búi dài lòng
thòng đang tràn khỏi ổ bụng của mình. Không có lấy một tiếng gào thét.
Chỉ đơn giản chăm chú nhét ngược bộ phận dính đầy bùn đất đó vào vết
thương trên bụng. Bây giờ nghĩ lại tôi mới thấy hành động của mình thật
không bình thường. Nhưng tôi vào thời điểm ấy lại tin chắc rằng đây là
cách giải quyết đứng đắn nhất.
Vùng ổ bụng, tay trái và cả tay phải đã gãy của tôi không hề thấy đau,
mà còn được bao trùm trong hơi ấm hạnh phúc. Vì thế mà đầu óc tôi cũng
thành ra mụ mị.
Cả người tôi nặng trĩu, uể oải. Tôi đã tiêu tốn quá nhiều sức lực, nhưng
may sao vẫn tựa vào tường để chống đỡ cho bản thân đứng thẳng được. Tôi
cố lết bằng chân trái vẫn ngó ngoáy được đến chỗ cửa sổ mà mình vừa lao
ra, rồi leo ngược vào trong biệt thự. Cửa chính vẫn bị đống dây điện buộc
chặt, mà có khi cửa sau cũng chịu chung số phận, nên tôi mới phải dùng
cách này. Chính ý chí phải tìm được điện thoại, gọi người đến cứu đã giúp
tôi nhấc được mình lên khung cửa sổ ấy.
Sau khi gọi cho cảnh sát và xe cứu thương, tôi tiến đến phòng ngầm.
Tôi cố bước đi bằng cả hai chân, mặc kệ sự thật là cái chân phải của mình
giờ đã vô dụng.
Dù Sumida không còn nhưng bóng tối dưới phòng ngầm vẫn dày đặc
như trước. Tôi thông báo cho Hitomi và hai người đang ngọ nguậy trong
góc rằng Sumida đã chết.
“Ôi… ngày này đã đến.” Tiếng Hitomi thì thào trong chiếc xe nôi.
“Làm ơn, xin chị hãy đưa em ra chỗ người đó.”
Dù hơi băn khoăn nhưng tôi vẫn bế cô bé đến chỗ Sumida gục xuống.
Những ngón tay trái của tôi đã vô hiệu, nhưng vẫn đỡ được thân thể cô mà
không gặp trở ngại gì. Hitomi rất nhẹ, bé nhỏ và ấm áp. Tôi cảm giác cô bé
giống một khối tròn có hơi ấm con người vậy.
Tôi ôm cô bé, từ từ đi lên cầu thang. Chỉ còn một chân hoạt động nên
khó khăn hơn rất nhiều. Tôi gỡ dây điện quấn chỗ cửa chính ra, đi vòng bên
ngoài biệt thự hướng về phía Tây Nam. Chỉ vậy thôi nhưng cũng đủ để chỗ
sức lực còn lại của tôi cạn kiệt.
Sumida ngã vật trên mặt đất. Cái tuốc nơ vít xuyên qua mắt anh ta, dù
chẳng có chút kiến thức y học nào nhưng tôi vẫn đoán được là nó đã chọc
xuyên đến não.
Nằm trong vòng tay tôi, Hitomi nhìn xuống cảnh tượng đó và lặng lẽ
khóc. Mãi sau này nghĩ lại, tôi vẫn thấy đó không phải là nước mắt dành
cho kẻ làm mình tổn thương. Nếu vậy thì cô bé suy nghĩ thế nào về
Sumida? Riêng điều này thì tôi không biết chính xác được.
Tôi cảm thấy với chút sức lực còn lại, quay xuống phòng ngầm là
chuyện bất khả thi. Vì thế tôi và Hitomi đành ngồi cạnh cửa chính và chờ
cảnh sát tới.
Tôi ngồi tựa lưng vào cây cột bên cánh cửa, ôm sao cho cô bé quay mặt
vào mình.
“Cảm ơn chị đã đến cứu em.” Cô bé nói. “Thế là em được về nhà rồi
nhỉ?”
Tôi gật đầu. Ý thức tôi giờ nửa mê nửa tỉnh. Nhưng không phải là vì
đau. Chỉ có cảm giác mệt mỏi mênh mang, như chiếc chăn ấm trùm lên tâm
trí tôi.
“Chị ngủ một chút nhé?”
Miệng thì hỏi như thế, nhưng chưa kịp nghe câu trả lời, mắt tôi đã nhắm
mất tiêu rồi.
Tiếng còi xe cảnh sát lôi tôi dậy từ giấc mơ. Viên cảnh sát chạy đến
hoảng hốt khi nhìn thấy dáng vẻ của Hitomi.
“Dưới tầng hầm còn ba người nữa…” Tôi nói.
Viên cảnh sát tái mặt bước vào biệt thự. Rồi một lúc sau người đó trở
lên, vẫn lấy tay bịt miệng, thông báo rằng dưới hầm chỉ còn một người mà
thôi.
“Không sao đâu, chắc là chị ấy nhớ nhầm ấy mà.”
Nghe Hitomi nói, viên cảnh sát nhìn chúng tôi một lượt với biểu cảm
như vừa thấy ma giữa ban ngày, rồi chạy về xe tuần tra gọi cứu viện.
“Thế này là ổn rồi.”
Hitomi ngẩng lên nhìn tôi, chớp một mắt. Tôi biết rằng chuyện mình đã
chứng kiến trong lúc nửa mê nửa tỉnh… không phải là một giấc mơ.
Hồi nãy đang nhắm nghiền mắt bên cây cột, chợt tôi nghe thấy tiếng
cánh cửa mở ra. Tiếp theo là cảm giác một thứ to lớn lê qua ngay bên cạnh
mình. Áp lực không khí khẽ cù lên má tôi.
Tôi hé mắt nhìn, thứ to lớn đó là một khối thịt kì quái, do nhiều thân
người ghép lại mà thành. Hai cái đầu thò ra khỏi khối thịt đó nói lời tạm
biệt với Hitomi. Rồi “họ” thò ra một trong rất nhiều cánh tay, xoa đầu cô bé
đầy trìu mến. Cánh tay ấy gầy gò bé nhỏ, trông như tay một đứa trẻ con.
Khối thịt bắt đầu ngọ nguậy bao nhiêu tay chân như một con nhện, bò đi
và biến vào rừng.
“Chị hãy giữ bí mật chuyện hai người đó nhé.”
Nghe Hitomi dặn tôi lại nhắm mắt, ý muốn nói “Chị quên hết trơn rồi”.

Vụ án được xử lý như một vụ bắt cóc và giam giữ người trái phép. Thủ
phạm là Sumida Michio. Sau này đọc báo tôi được biết ngoài thời gian đến
trường đại học, anh ta còn hoạt động với tư cách tác giả truyện đồng thoại.
Chị Saori thường xuyên đến viện thăm tôi. Bệnh viện nằm ở giữa phố
phường sầm uất, chị Saori không biết lái xe nên lần nào cũng phải nhờ ông
Kimura hay bà Kyoko đưa tới. Chị còn mang rất nhiều truyện tranh và tiểu
thuyết tới vì sợ tôi chán nữa.
Chị Saori không hề hỏi tôi về sự cố xảy ra trong biệt thự. Chị chỉ đoán
rằng kí ức ấy giống như một cơn ác mộng, và chăm bẵm cho tôi hết mực.
Những tờ báo chị Saori mang đến đăng gần như đầy đủ về vụ án, dù sự
thật có hơi bị bóp méo một chút. Đại khái Sumida, tức chủ nhân trước của
biệt thự, đã giấu Aizawa Hitomi trong căn phòng ngầm một thời gian dài,
còn ra tay với người phát giác là Shiozaki. Rồi tôi cũng bị cuốn vào, đến
mức phải chịu thương tích.
Chi tiết Hitomi không còn chân tay, hay là phương pháp Sumida đã sử
dụng để giữ cho cô bé sống sót suốt một năm không hề xuất hiện trên bất kì
tờ báo hay tạp chí nào. Tuy nhiên lại có bài đặc biệt về thân thế của Sumida,
và về những câu chuyện đồng thoại mà anh ta viết ra dưới bút danh Miki
Shun.
Anh ta là con trai duy nhất của một gia đình giàu có sở hữu bệnh viện
tư, có tác phẩm đồng thoại đầu tay từ hồi còn học cấp ba. Trong thời gian
này anh ta rời khỏi nhà cha mẹ, thuê một căn hộ cạnh trường mình.
Rồi Sumida tốt nghiệp lớp Mười hai và vào đại học. Anh ta vừa đi học
vừa làm tác giả đồng thoại. Ngôi nhà anh ta thuê để đến trường chính là căn
biệt thự gạch xanh ở Kaedecho. Anh ta sống ở đó trong hai năm kể từ khi
nhập học. Tầm một năm về trước, anh ta rời biệt thự và chuyển đến một
chung cư mới xây ở gần trường đại học hơn.
Sau khi Sumida rời đi, người thuê tiếp theo của biệt thự là Shiozaki.
Chưa có thông tin gì về Mochinaga Yukie và Hisamoto Shinichi. Chẳng
biết phía cảnh sát đã phát hiện ra hai người đó chưa, nhưng trên báo thì
không thấy nhắc đến. Chẳng rõ họ trở thành cư dân phòng ngầm từ bao giờ
nhỉ?
Hitomi bị bắt cóc vào một năm trước, ngay sau đó Wazuya đã tìm đến
biệt thự rồi. Hai người kia vào phòng ngầm chắc là chuyện xảy ra trước vụ
Hitomi.
Sumida nói rằng Wazuya đã từng viếng thăm biệt thự ấy. Thế thì tại sao
lúc tôi bước chân vào nhà, mắt trái lại không khơi gợi kí ức gì nhỉ? Có lẽ
ngẫu nhiên tôi không nhìn thấy thứ gì làm chìa khóa mở được hộp kí ức
chăng? Thật không may. Nếu lúc đó kí ức của Wazuya mà quay lại, thì có
khi đã biết được ngay Sumida là hung thủ rồi.
Nhưng rồi tôi nhận ra một điều. Đúng, một năm trước Wazuya đang đeo
băng bịt mắt. Tình cờ lại đúng mắt trái… Nếu như anh bước vào biệt thự
trong tình trạng đó, thì làm sao có gì trong kí ức được.
Trên tuần báo và chương trình ti vi, người ta suy đoán xem tại sao
Sumida lại hành hạ sát hại người khác.
Có nhiều giả thuyết được đưa ra, như anh ta là kẻ chỉ thỏa mãn khi gây
thương tổn cho người khác, hay nung nấu một sự căm ghét với nhân loại
nói chung, hoặc bắt chước một tên sát nhân bên nước ngoài. Nhưng tôi cảm
giác họ đều sai lầm cả.
Sumida theo tôi thấy lạnh lùng hơn, giống như một nhà khoa học. Tôi
nhớ lại. Trong khi tôi đang lê lết kéo theo nội tạng của chính mình, thì anh
ta chỉ lặng lẽ quan sát. Trong kí ức đen tối ấy, không hiểu sao Sumida lại
đang mặc áo choàng trắng của bác sĩ. Tất nhiên thực tế thì anh ta không
mặc như thế, nhưng phải có một chi tiết gì khiến cho tôi hình dung như vậy.
Không phải là anh ta giết người. Chỉ đơn giản là giải phẫu, để xem sự sống
thực sự là thế nào mà thôi.
Và không biết nên gọi là món quà của thần linh hay lời nguyền của quỷ
dữ, Sumida lại sở hữu thứ sức mạnh kì lạ, giống như lưỡi dao mổ trong
cuộc giải phẫu này. Tôi cảm giác dù có phân tích đến đâu về năng lực đó thì
mình cũng chẳng thể tìm ra một đáp án nào hợp lý. Cảm giác hạnh phúc khi
thân thể nhẹ bỗng, thế gian chìm trong ánh sáng dịu dàng dễ chịu mà thực
tế mình mẩy lầy lụa thương tích, nội tạng be bét trên nền đất ấy, tôi không
cho là siêu năng lực hay mánh khóe gây ảo giác hoặc thuốc mê gì. Thế giới
này giống như hình ảnh trên màn chiếu phim, mỏng manh và không có gì
đủ đầy, anh ta chỉ đơn thuần chọc thủng một lỗ trên bức màn đó, mở đường
cho bóng tối đằng sau xâm thực mà thôi.
Theo như tôi tìm hiểu thì trước đây Sumida cũng đã từng gây ra bao
nhiêu tội ác. Tờ tuần báo viết như vậy. Họ đã thu thập được nhiều manh
mối từ những nơi anh ta từng lưu trú. Tôi không biết sự thật có đúng như
vậy hay không.
Chị Saori đọc bài báo này khi đang ngồi bên giường bệnh của tôi, mặt
buồn hẳn đi. Dù chị không nói gì, nhưng tôi đoán là chị đang suy nghĩ về
Sumida. Từ sau lần đó tôi quyết định không đọc thứ gì liên quan đến vụ án
trước mặt chị nữa.
Cuối cùng tôi không kể với ai sự thật rằng mạng sống của Wazuya là do
Sumida cướp đi. Bởi vì sự thật ấy chỉ càng làm chị Saori đau đớn hơn mà
thôi, đành cứ để Wazuya ra đi trong một tai nạn bình thường vậy.
“Em hỏi này, hôm trước chị sang nhà bà Kyoko làm gì thế?” Một lần
nọ, tôi hỏi trong khi chị Saori gọt táo.
“À, cũng chẳng có gì quan trọng đâu…”
Rồi chị kể cho tôi về lần trước nữa, lúc chị đến nhà bà để đưa hạt cà
phê.
“Chị… lỡ nhìn thấy một tấm ảnh, chụp bác Kyoko với một đứa trẻ…”
Chị nghĩ là mình có quen biết đứa trẻ ấy. Dù đây là khuôn mặt thuở ấu
thơ, khi người đó chưa trưởng thành, nhưng chị Saori vẫn tin chắc như vậy.
“Chính là anh thanh niên đến xin lỗi chị và Wazuya, tại đám tang ba mẹ
chị đó…”
Tôi giật mình, “Là cái người làm ở xưởng gỗ ạ?”
Chị Saori gật đầu.
Chính anh ta thao tác sai lầm, là nguồn cơn dẫn đến tai nạn giết chết ba
mẹ chị. Rồi bị mặc cảm tội lỗi đè nén, anh đã tự sát, cũng tại Kaedecho này.
Chị Saori từng hỏi tên anh ta qua đám công nhân ở xưởng gỗ.
“Bác Kyoko… cũng mất cả chồng rồi.”
Họ của thanh niên nọ, theo như mấy công nhân nhớ được, cũng trùng
với họ của chồng bà Kyoko. Chắc vì chuyện của con trai mà bà mới chuyển
đến thị trấn này.
“Mấy lần muốn hỏi nhưng chưa hỏi được. Nên vài hôm sau chị thử tìm
đến nhà bác lần nữa.”
Thời gian đầu bà Kyoko còn phủ nhận. Nhưng sau vài lần đến thăm và
trò chuyện, bà đã công nhận nghi vấn của chị Saori là chính xác.
Kể xong, chị Saori nhìn vào mắt tôi. Dù vết thương trên bụng đang lành
lại nhưng tôi vẫn chưa ngồi dậy được, cứ nằm nguyên đó trước ánh nhìn
của chị.
Và chẳng đợi tôi nhờ vả, chị đã nhét một miếng táo vào miệng tôi, làm
tôi phải cử động cằm để nhận lấy. Tiếng gặm táo nhồm nhoàm vang vọng
trong phòng bệnh yên tĩnh, có ánh sáng tràn vào từ cửa sổ.
“Chị ơi, có chuyện này em đã giấu chị…”
Đến bây giờ tôi mới nhận ra, rằng tôi và chị đã xưng hô thân mật với
nhau từ rất lâu rồi, mà không có chút gì gượng gạo. Chắc hẳn chị Saori
cũng cảm thấy như vậy.
“Em không phải là người quen của Wazuya.”
“Ừm.”
Tôi không biết liệu chị có tin tôi không. Nhưng tôi vẫn bắt đầu kể câu
chuyện kì lạ về con mắt trái của mình. Chỉ những phần liên quan đến vụ án,
như tai nạn của Wazuya, là tôi giữ bí mật.

Trong suốt thời gian chờ vết thương ở ổ bụng và xương chi gãy lành lại,
thể trạng của tôi như bị trục trặc. Tôi trơ lì trước đau đớn và thay đổi nhiệt
độ. Cũng không có cảm giác thèm ăn, cứ như bỏ ăn luôn thì vẫn sống được
vậy.
Hitomi bị Sumida cắt đi cả chân tay, thế mà sống sót được hẳn một năm
dưới phòng ngầm. Mọi người bảo cô bé không chết là vì ăn đồ đóng hộp để
sẵn trong phòng. Dù không thể giải thích rõ ràng nhưng tôi cảm giác sự thật
không phải như vậy. Có lẽ chính thứ sức mạnh mà cơ thể tôi từng cảm thấy,
đã tách cô bé ra khỏi quy luật tự nhiên dẫn đến cái chết.
Sau khi thương tích lành hẳn, thể trạng của tôi cũng bình thường trở lại.
Tôi xuất viện và tái hòa nhập cuộc sống ở nhà cha mẹ. Thực lòng thì tôi
chẳng muốn chút nào, nhưng đây là mong muốn của mẹ và chị Saori nên tôi
lại đến trường. Tất nhiên tôi vẫn ăn hại trong học tập và thể thao như trước.
Nhưng lạ lùng thay, theo một cách nào đó mà đến tôi cũng không hiểu, bắt
đầu đã có những người đến nói chuyện với tôi. Nhờ thế cuộc sống học
đường cũng trở nên thoải mái hơn một chút.
Đến kì nghỉ tôi lại về Kaedecho, nơi có chị Saori và mọi người. Tôi đã
lo là mình gây phiền phức, nhưng bác Ishino luôn rộng lượng cho tôi nghỉ
lại nhà. Chị Saori không kể chuyện con mắt của tôi cho ai khác. Nên bác
vẫn hơi hiểu nhầm về quan hệ giữa tôi và Wazuya.
Tôi còn nhớ cảm giác cô đơn trong bữa cơm đầu tiên ăn cùng bác và
chị, cứ như thể cả hai không nhìn thấy nhau trong thế giới của mình. Nhưng
bây giờ thì khác rồi. Không phải khác theo kiểu một trời một vực, nhưng đã
ấm áp hơn, giống như một mâm cơm hạnh phúc. Tôi cho là vì cả bác và chị
đều đã được giải phóng khỏi những trói buộc với người đã khuất. Tôi mong
muốn điều đó là sự thật biết bao.
Tôi đến thăm mộ Wazuya. Lần này giấu chị Saori để đi một mình, nên
tìm được nơi anh yên nghỉ là cả một quá trình vật lộn. Sau khi đi bộ đến rã
cả chân, kiệt sức đến nỗi tưởng mình cũng sắp chết ở đây luôn, thì phần mộ
của Fuyutsuki Wazuya hiện ra trước mắt. Tôi báo với anh rằng vụ án đã kết
thúc. Nhưng chắc anh biết rồi. Vì con mắt trái của anh trực tiếp chứng kiến
khoảnh khắc tất cả được giải quyết mà.
Ngày hôm ấy trời phủ một lớp mây nhẹ, nhưng vẫn không ngăn được
ánh nắng xuyên qua. Giữa những tấm bia mộ san sát nhau, tôi gửi lời cảm
ơn sâu sắc đến Wazuya.
Cảm ơn anh. Cảm ơn vì đã cho tôi kí ức. Vì luôn có anh ở bên, nên tôi
đã không bỏ cuộc giữa chừng, đã gắng gượng cho đến phút cuối cùng. Tôi
nhắm mắt lại, thì thầm trong lồng ngực. Tình cảm ấy da diết đến khó thở,
làm tôi rưng rưng những giọt nước mắt mặn mòi.

Khi đến quán cà phê Rừng Trầm Uất, tôi gặp cả ông Kimura và bà
Kyoko. Hai người đều coi việc tôi đến quán là tất nhiên, nên lâu lâu vắng
mặt là họ lại băn khoăn chẳng biết tôi ra sao rồi. Mỗi lần ngồi vào ghế bên
quầy mà lúc trước Wazuya hay ngồi, thấy ông Kimura mang cà phê ra, tôi
lại nhớ về lần đầu mình đến đây. Xung quanh toàn là những món đồ đầy
hoài niệm.
Tôi hướng ánh mắt về bức tranh của Shiozaki.
“Xem qua đồ đạc anh ta để lại, tôi mới nhận ra…”
Theo lời ông Kimura thì người phụ nữ anh ta từng yêu cũng sinh ra và
lớn lên tại thị trấn này.
“Chính là người trong tranh ạ?”
Ông gật đầu.
Tôi tiến lại gần bức tranh, dụi dụi mắt cho rõ. Nếu không thì khó mà
nhìn được bóng người tí hon mặc quần áo đỏ đang đứng bên hồ.
“Hỏi tên thì hóa ra là một người tôi từng biết. Cũng là khách quen của
quán này hồi xưa.”
Sau đó cô qua đời nơi đất khách quê người, Shiozaki chuyển nhà đến
quê vợ, chính là Kaedecho này. Anh ta tặng tranh cho quán cà phê không
phải là vì hào phóng.
Mỗi người đều nhìn thấy hình bóng của những người đã khuất trong thị
trấn này. Phải đến bây giờ tôi mới nhận ra.
“Dạo này hình như Nami hơi khác hồi trước.” Có lần chị Saori và bà
Kyoko (mà lâu lắm tôi mới gặp lại) đã đồng thanh nói với tôi như thế.
“Khác sao cơ ạ?” Nghe tôi hỏi lại, cả hai đều không biết giải thích thế
nào. Sau này nghĩ kĩ hơn tôi cũng thấy, có lẽ thay đổi thực sự đã đến từ cái
lúc chính tôi còn chưa nhận ra. Bà và chị đã vô thức cảm nhận được điều
ấy.
Chị Saori và bà Kyoko trông cứ như hai mẹ con. Hễ rảnh rỗi chị lại đến
thăm nhà bà. Đến thăm rồi nói chuyện, cũng không phải chỉ toàn về người
đã khuất, còn có cả chuyện vui, chuyện đời tươi sáng nữa. Thỉnh thoảng tôi
thấy chị mân mê chiếc đồng hồ di vật của em trai bằng cả hai tay, nhìn kim
giây bất động bằng ánh mắt buồn bã. Nhưng tôi biết chiếc đồng hồ mang
tên chị Saori, vốn dừng lại ở thời khắc Wazuya mất đi, giờ đã bắt đầu chạy
trở lại.
Tôi ngồi trong quán, đọc lại tác phẩm của Sumida, “Eye’s Memory”,
câu chuyện cô bé lắp nhãn cầu vào hốc mắt mình, rồi mơ.
Con mắt của Wazuya càng ngày càng ít hé lộ những hình ảnh mới.
Nhiều khi gần hết ngày tôi vẫn chưa bắt gặp được kí ức nào của anh. Tôi đã
xem hết hình ảnh đọng trong mắt trái rồi chăng? Hay khi mắt trái hòa hợp
với thân thể tôi, thì không còn những hình ảnh đó nữa? Tôi lờ mờ đoán là
giả thuyết sau. Quá khứ mà con mắt cho tôi thấy bao giờ cũng là của một
người khác chứ không phải tôi. Bởi nếu những hình ảnh chính tôi nhìn thấy
mà cũng bị chiếu lại, thì chắc nó phải hoạt động đến cháy máy mất.
Thời gian đầu không còn mơ về Wazuya nữa, tôi cũng hơi buồn. Nhưng
dần dần tình trạng đó trở thành bình thường.
Sumida xuất hiện trong hình ảnh cuối cùng mà mắt trái mang lại cho tôi.
Bấy giờ Wazuya đang ngồi cạnh anh ta, chơi ném sỏi vào mấy cái lon
rỗng… Đây là kí ức đầu tiên về Sumida mà tôi được chứng kiến. Thì ra,
đúng là cảnh tôi thấy hôm ở thư viện không phải khoảnh khắc Wazuya lìa
đời. Bởi vì sự thật là Sumida đã bịt mắt anh, dắt anh xuống đường lộ rồi đẩy
ra trước mũi xe để giết chết. Tôi chưa bao giờ thấy được thời điểm sau cuối
của Wazuya.
Tôi đã nghĩ như thế, nhưng rồi một ngày kia, tôi chợt nhận ra sai lầm.
Vì thực chất, tôi đã chứng kiến khoảnh khắc đó rồi. Trước đây tôi từng gặp
một cơn ác mộng rất chân thực về việc bị xe tông. Chắc chắn bóng tối khi
tôi nhắm mắt đã trùng với bóng tối khi Sumida bịt mắt Wazuya, và đã khơi
gợi kí ức. Trong trạng thái say ngủ, hoặc cũng có thể là nửa mê nửa tỉnh, tôi
đã thấy mình bị đẩy ra trước mũi xe. Nhưng tôi nhầm tưởng đó chỉ là một
giấc mơ. Tất nhiên, ngay cả suy luận bây giờ của tôi cũng chưa hẳn chính
xác. Không loại trừ tất thảy chỉ là tôi ngộ nhận. Nhưng tôi vẫn tin vào điều
đó. Bởi trong một khoảnh khắc của cơn ác mộng, tôi đã nhìn thấy thân
chiếc xe sắp đâm mình, nó có màu xanh.
Theo như sau này tôi biết được, thì chiếc xe tông Wazuya cũng có màu
xanh. Trong khi chiếc xe tôi nhìn thấy hôm ở thư viện lại có màu trắng. Tức
là vào thời điểm của cơn ác mộng chân thực ấy, tôi chưa biết được chiếc xe
đâm Wazuya thực sự có màu gì. Vậy mà chiếc xe tôi mơ lại đúng là màu
xanh, dấu hiệu ám chỉ đó không phải là một giấc mơ bình thường.
Tôi gập sách lại, gọi chị Saori đến để lấy một tách cà phê. Bấy giờ, mắt
tôi dừng lại ở lọ hoa trên bàn. Từ lâu lắm rồi tôi đã nhìn thấy cảnh chị Saori
làm đổ nó. Lạ lùng thay, bông hoa đang cắm trong lọ hiện giờ lại giống hệt
bông hoa trong hình ảnh đó. Tôi nghĩ là hoa giả, nhưng kiểm tra thì không
phải. Chắc chị Saori hay ông Kimura đã cố tình lựa chọn để bao giờ cũng
chỉ cắm một loại hoa thôi.
“Bông hoa đó là do thằng Sumida hái ngày xưa, để tặng cho Saori đó.”
Ông Kimura nói. “Mãi mà vẫn chưa chịu héo, cô xem có lạ không?”
Bông hoa màu trắng, và ở bên kia lọ hoa, là chị Saori đang hỉ mũi.
Một ngày hè, khi đang ngồi trước quạt điện trong phòng, tôi chợt nhớ ra
một điều.
Nói thì nói vậy, nhưng tôi lại không giải thích được chính xác là mình
nhớ ra cái gì. Nó không phải một kí ức rõ rệt, mà mờ mịt và không có hình
dạng cụ thể.
Chỉ có một cảm giác không bình thường cứ vương vấn trong tâm trí tôi.
Giống như một khối rắn mắc nghẹn nơi cổ họng mà không thể nuốt trôi,
gây ra mâu thuẫn giữa thế giới của riêng tôi và thế giới hiện thực. Giống
như cảm giác khó chịu của người nhận ra mình đang mơ ngay trước khi tỉnh
giấc vậy. Tôi có linh cảm đây là dấu hiệu báo trước, rằng kí ức trước kia
đang quay về.
Và rồi…
Tôi đã đúng.

Trí nhớ dần dần hồi phục. Trước kia tôi sợ hãi điều này biết bao, nhưng
vì quá trình diễn ra rất chậm rãi, rất tự nhiên nên tôi cũng không kháng cự.
Đến khi nhận ra thì tôi đã biết được tên của thầy chủ nhiệm hồi tiểu học,
có lại những kí ức về chuyến đi chơi với gia đình. Bây giờ tôi lại chẳng hiểu
nổi tại sao lại có lúc mình không chơi được dương cầm. Thành tích học tập
nhảy vọt như gắn tên lửa, làm tôi vui sướng lắm.
“Là em thật đó hả Nami?”
Chị Saori nghiêng đầu, véo một bên tai tôi. Tôi vừa cười vừa lăn lộn cố
thoát khỏi tay chị, “Đừng véo nữa chị ơi, em đã bảo không phải ai cải trang
mà!”
“Trông em chững chạc hẳn ra.”
Chị chống một khuỷu tay lên quầy, nói với giọng buồn buồn. Sau này
nghĩ lại, tôi nhận ra có lẽ đối với chị Saori, đó là lần cuối cùng chị được gặp
lại đứa em trai của mình.
Dù lúc nào cũng tự ý thức rằng tôi vẫn sẽ là chính tôi thôi, nhưng rồi
con quái vật mang tên “lãng quên”, với sự gian xảo và điệu nghệ đến mức
chẳng thể nào phát hiện ra, đã tách rời một “tôi” khác khỏi tâm hồn tôi hiện
tại. Để rồi chỉ còn lại duy nhất một “tôi”, là Shiraki Nami đã tồn tại từ thuở
cha sinh mẹ đẻ đến giờ. Cũng phải nói để tránh hiểu lầm, ý thức của tôi về
bản thân hóa ra lại không đồng nhất với thứ gọi là “kí ức”.
Bởi vì tôi vẫn còn nguyên trí nhớ về những sự kiện ở Kaedecho. Tôi
biết mình đã làm những gì. Nhưng con người tôi vào lúc đó thì lại gần như
khác hẳn bây giờ.
Tôi khi mất kí ức giống như tòa nhà xây vội vàng trên nền móng lung
lay. Nghĩ lại thì thấy vô cùng xa lạ. Cả cách đối nhân xử thế, cách suy nghĩ,
mọi thứ đều khác biệt.
Theo lời mẹ nói thì con người đó, cả về ứng xử cũng chẳng hề giống tôi
chút nào.
“Mẹ chưa bao giờ thấy con rụt rè đến thế.”
Tính cách của tôi là rất thích được nghe người khác nói chuyện, cũng
như thể hiện ý kiến của bản thân. Thế mà đột nhiên tôi lại biến đổi thành
một con người lầm lì cả ngày không mở mồm, hẳn mẹ đã bối rối lắm.
Tôi nhìn con mắt trái của mình trong gương. Đã lâu rồi không còn một
hình ảnh nào về Wazuya. Không thứ gì tôi nhìn thấy còn trở thành chìa
khóa để mở chiếc hộp kí ức của anh nữa.
Vụ án đó là chuyện đã thực sự xảy ra sao? Có lúc tôi phải băn khoăn
như thế. Cũng là lúc tôi nhận được một lá thư từ phía cảnh sát.
Mùa hè qua đi, tôi vùi đầu vào các lớp học thêm để chuẩn bị cho kì thi
đại học. Một hôm về nhà muộn, cha đưa cho tôi phong bì đựng lá thư.
Phong bì màu xanh nhạt dễ thương. Mới nhìn lướt qua, hình bóng của
Aizawa Hitomi đã hiện về trong tâm trí. Lúc tôi tìm thấy cô bé trong phòng
ngầm, thân thể cô được bọc trong túi vải màu xanh nhạt, mềm mại tiếp xúc
với làn da.
Tên người gửi quả là Aizawa Hitomi.
Tôi lên phòng, ngồi xuống bên bàn mở thư xem. Hình như là mẹ cô bé
viết hộ. Vì không biết địa chỉ nhà tôi nên cô bé đã nhờ phía cảnh sát chuyển
cho.
Nội dung thư bao gồm lời cảm ơn, và còn lời hẹn rằng một ngày kia sẽ
gặp lại nhau. Tôi đọc lại lá thư bao nhiêu lần, bắt đầu cóp nhặt những kí ức
về ngày hôm đó, mà tôi đã tưởng như chỉ là một cơn ác mộng chứ không
phải hiện thực. Cứ như kí ức của người khác vậy.
Cơ thể nhỏ bé của Hitomi nằm gọn trong chiếc xe nôi.
Rồi Hisamoto Shinichi và Mochinaga Yukie.
Tôi chưa nghe ai tìm ra được hai người này. Chắc họ vẫn lang thang đâu
đó trong núi? Hay vốn từ đầu đã không tồn tại?
Tôi thử tưởng tượng. Thân thể khổng lồ của hai con người ẩn náu giữa
rừng cây tĩnh lặng. Khi trời mưa họ sẽ chui vào trong hang rỗng bên vách
đá, cùng ngắm nhìn những giọt nước rơi. Mưa tạnh, đống tay chân lắp ghép
vụng về ấy sẽ lại bò đi, vào bóng tối, tránh xa ánh mắt người đời…
Tôi lấy cặp tài liệu ra đặt lên bàn. Hồ sơ ghi chép mọi hình ảnh trong
mắt trái, lâu lắm rồi tôi mới lại mở ra.
Mới đây thôi, tôi đã ôm thứ nặng trình trịch này đi khắp thị trấn. Những
trang giấy mòn nát vì lật giở quá nhiều, tràn ngập những con chữ mà tôi
không nhận ra là chính mình đã viết. Tài liệu chép đầy đủ về những cảnh
tượng thời niên thiếu của Wazuya, biểu cảm của chị Saori, tường tận mọi
chi tiết về những hình ảnh mà con mắt trái đã cho tôi thấy.
Tôi lật giở từng trang một.
Và rồi, cảm giác tưởng như đã lãng quên lại quay trở về. Con mắt trái
tôi kế thừa của Wazuya đột ngột nóng lên.
Tôi hoảng hốt, và bối rối. Bởi vì từ khi tôi lấy lại trí nhớ đến giờ, mắt
trái vẫn luôn im lặng.
Những trang giấy trong cặp tài liệu liên tục được lật giở. Hiện tại và quá
khứ bắt đầu xếp chồng lên nhau. Thứ mắt trái phản chiếu bắt đầu khác hình
ảnh trong mắt phải. Tôi lặng lẽ nhắm cả hai mắt, để những gì nhìn thấy
trong mắt phải biến đi. Giống như máy ảnh đã chọn đúng tiêu điểm, hình
ảnh cố định lại, tập trung vào kí ức từ con mắt trái.
Tầm nhìn của tôi ngẩng lên khỏi những con chữ trên giấy A4. Và tôi
nhận ra đây không còn là phòng mình nữa, mà chính là Kaedecho.
Đường ray bỏ hoang trải dài trước mắt, chạy mãi sang bên kia chân trời.
Bên này là thị trấn mở rộng giữa bốn bề rừng tuyết tùng, và những tháp sắt
cao vút. Trong mắt trái tôi đang đi trên núi cỏ khô, ngắm nhìn tập tài liệu
mà mình ôm trong lòng.
Tôi nhận ra ngay đây không phải là kí ức của Wazuya.
Cầu mắt trái đã ghi nhớ hết. Lúc tôi săn đuổi thủ phạm, tìm kiếm
Aizawa Hitomi. Đi vòng vèo quanh thị trấn để tìm biệt thự. Chịu đựng nỗi
cô đơn khi lang thang giữa gió lạnh. Lo lắng, bất an khi không biết phải làm
gì mới được. Tất cả đã in hằn vào trong mắt.
Tôi nhìn theo đường ray gỉ sét hướng đến cánh rừng bên kia chân trời.
Hai chân tôi đang bước dọc trên nó. Tôi vừa lảo đảo đi vừa cố giữ sao cho
không ngã xuống.
Kí ức về thời điểm ấy vẫn còn tươi mới trong tâm trí tôi. Tôi biết cả lúc
đó mình đang nghiền ngẫm những gì. Nhưng tôi của bây giờ sẽ suy tính
theo chiều hướng khác, có mối quan tâm khác, ngay cả phản ứng tức thời
cũng khác.
Vì vậy e rằng cô gái đó… không phải là tôi. Giống như chính cô cũng
đã từng cảm nhận. Cô gái mất đi kí ức, lòng đầy lo âu ấy, rõ ràng là một
người tách biệt với tôi bây giờ.
Những người có học vấn uyên bác, hay đầu óc suy nghĩ logic có lẽ sẽ
nói rằng vốn không có một tồn tại nào mang tên cô ấy cả. Hoặc sẽ khẳng
định đó chỉ đơn giản là “tôi khi mất trí nhớ” mà thôi.
Tôi ngồi trước tập tài liệu để mở trên bàn, nhắm mắt lại điềm tĩnh suy
nghĩ. Sự biến mất của cô ấy đồng nghĩa với cái chết của một con người. Tôi
tuyệt đối không muốn ai nói rằng cô ấy không có thật, chỉ đơn giản là một
mảnh vụn của chứng mất trí nhớ. Bởi vì thực sự cô gái đó đã từng tồn tại,
một con người tách biệt và vụng về hơn tôi rất nhiều.
Và như thế, những hình ảnh trong mắt trái không phải là của tôi, mà là
của một ai đó khác hẳn… Về cô gái chỉ tồn tại trên thế gian này trong một
thời gian ngắn ngủi. Cô đã gặp phải bao nhiêu khó khăn, chịu đựng bao
nhiêu thống khổ. Bản thân tôi biết rất rõ cô đã đau đớn đến mức nào.
Ở trường mọi người luôn luôn đàm tiếu về cô, khiến cô cảm thấy mình
là một thứ thảm hại hơn bao giờ hết. Cô lạc lối cố tìm cho mình một nơi
phù hợp, nhưng nhiều khi chỉ biết thét lên đau đớn trong lòng. Cô tự nhận
mình thật kém cỏi, vì không thể giải quyết được việc gì cho khôn khéo.
Nhưng cô gái đó không biết bỏ cuộc. Dù trước mắt là mối nguy hiểm
khủng khiếp ngần nào, cô vẫn kiên cường đối diện.
Tôi tiếp tục nhắm nghiền mắt, nằm sấp xuống bàn. Cách bài trí của căn
phòng vẫn được giữ nguyên như cô sắp xếp, bên ngoài cửa sổ đã là màn
đêm yên tĩnh. Bầu không khí mát mẻ của ngày cuối mùa hè. Đã nửa năm
trôi qua kể từ ngày cô tìm đến Kaedecho.
Vừa dõi theo kí ức về cô gái ôm món đồ nặng trĩu bước đi trên đường
ray tàu hỏa dưới bầu trời đầy mây, tôi vừa tự hứa với lòng mình.
Tôi sẽ không bao giờ lãng quên.
Tôi sẽ mãi mãi nhớ đến cô, và sống tiếp, mạnh mẽ hơn bất kì ai khác.
[1]Nghĩa là “khoảnh khắc tuyệt vời”, ngoài ra rời rạc từng âm tiết thì
tương ứng với các số 4-1-5-6.
[2] Cà phê đen.
[3] Cách nói ví von, tương đương với “sau lưng” ở người.
[4] Đây là truyện ngắn “The Cold Equations” (tạm dịch: Những phương
trình lạnh lẽo) của tác giả người Mỹ Tom Godwin, xuất bản lần đầu năm
1954. Lúc nộp lên biên tập viên, câu truyện đã bị trả về ba lần, vì lần nào
tác giả cũng tìm ra cách để cứu cô gái.
[5] Cà phê trộn. Chỉ loại cà phê sử dụng nhiều loại hạt với nhiều nguồn
gốc trong khi pha. Đối lập với cà phê single-origin, chỉ sử dụng một loại
hạt cà phê, “một nguồn gốc”.
[6] Loại vách ngăn di động vừa làm tường vừa làm cửa, dùng để linh
hoạt thay đổi không gian sử dụng trong nhà.
UNTITLED

1. Eye’s Memory (1)


2. 1
3. 2
4. 3
5. 4
6. 5
7. Eye’s Memory (2)
8. 6
9. 7
10. 8
11. 9
12. 10
13. 11
14. 12
15. 13
16. 14
17. 15
18. 16
19. 17
20. 18
21. 19
22. 20
23. 21

You might also like