Professional Documents
Culture Documents
MỞ ĐẦU
Các số nguyên tố là vật liệu cơ bản để xây dựng tất cả các số tự nhiên. Vì
các số tự nhiên tăng lên vô hạn, nên câu hỏi đầu tiên đặt ra là: Có bao nhiêu số
nguyên tố? Có thể liệt kê tất cả chúng ra hay chúng lập thành một dãy vô hạn?
Giả thuyết thứ hai là đúng. Để chứng minh điều này, Euclid đã đưa ra một lập
luận rất đẹp, xuất phát từ giả thiết rằng dãy số nguyên tố là hữu hạn và đi đến
việc chỉ ra có một số nguyên tố mới khác với các số nguyên tố đã có.
Sau khi Euclid chứng minh có vô số các nguyên tố, nhiều câu hỏi xung
quanh các số nguyên tố đã được nêu ra. Một số câu hỏi đó, dưới những phát
biểu đơn giản, đã trở thành những bài toán trong lịch sử toán học mà cho đến
nay vẫn chưa có lời giải trọn vẹn.
Người ta không nhận thấy một sự tuần hoàn nào trong dãy số nguyên tố.
Trùm lên trên các số nguyên tố dường như có một sự huyền bí nào đó. Sự phân
bố của các số nguyên tố tỏ ra rất phức tạp và không có quy luật. S. G. Telang
(xem [10]) viết: Chưa ai có thể đưa ra lý do phân tích được sự phân bố không
quy luật của các số nguyên tố (Nobody has been able to put forward any reason
which will account for this extreme irregularity in the distribution of primes).
Việc tìm các số nguyên tố lớn trong một thời gian dài là sự quan tâm của
nhiều nhà toán học. Cho phép chúng tôi nhắc lại ở đây một vài tên tuổi của các
nhà toán học lớn trong lịch sử nhân loại gắn liền với các kết quả nghiên cứu về
số nguyên tố: Euclid, Euler, Goldbach, Fermat, Dirichlet, Waring, Wilson,
Leibniz, Vinogradov, Brun, J. R. Chen, P. M. Ross, … . Tuy nhiên, đến nay
trong Số học vẫn còn tồn tại nhiểu giả thuyết mở về số nguyên tố.
Hơn nữa, trong thời đại công nghệ thông tin ngày nay việc nghiên cứu về
số nguyên tố càng được kích thích bởi sự kiện là các số nguyên tố tỏ ra rất có
ích trong việc mã hóa và giải mã các thông tin. Tính bảo mật và an toàn của hệ
mật mã RSA (do ba nhà khoa học của Học viện Công nghệ Massachusetts công
bố năm 1978) được đảm bảo bằng độ phức tạp của bài toán số học phân tích
một số nguyên thành tích các thừa số nguyên tố. Nói khác đi, vấn đề thời gian
2
tiêu tốn cho việc chạy máy tính để thực hiện bài toán phân tích một số nguyên
đủ lớn thành tích các thừa số nguyên tố, được sử dụng làm chỉ tiêu định lượng
đánh giá độ an toàn của hệ mã RSA. Vì vậy, hệ mật mã này hiện được cộng
đồng quốc tế chấp nhận rộng rãi trong việc thực thi mật mã khóa công khai.
Nhân được đọc và dịch một phần của cuốn sách về Số học bằng tiếng
Anh được viết bởi của S.G.Telang – Giáo sư Trường Đại học Bombay, Ấn độ
([10]), cũng tham khảo như một số bản luận văn chuyên ngành khoa học máy
tính của Học viện Kỹ thuật Quân sự, với mục đích tìm hiểu sâu hơn về ứng
dụng của Số học trong lĩnh vực công nghệ thông tin, chúng tôi tập trung tìm
hiểu các vấn đề xung quanh số nguyên tố, dãy số nguyên tố và ứng dụng của
chúng trong Lý thuyết mật mã. Vì vậy, mục đích chính của bản luận văn này là:
1. Tìm hiểu các kết quả mới về sự phân bố số nguyên tố, dãy số nguyên
tố và hàm số nguyên tố.
2.Tìm hiểu một số thuật toán sơ cấp và thuật toán xác suất về kiểm tra
nguyên tố.
3. Tìm tòi một số ứng dụng của số nguyên tố và dãy số nguyên tố trong
Lý thuyết mật mã.
4. Giải một số bài toán về dãy số nguyên tố nhằm chỉ ra một số điều kiện
đủ về sự tồn tại hoặc xây dựng những dãy con vô hạn hoặc hữu hạn các số
nguyên tố thoả mãn một số tính chất nào đó.
Luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1 trình bày các kiến thức cơ sở về số nguyên tố và dãy số nguyên
tố, chỉ ra một số bất đẳng thức trong dãy số nguyên tố.
Chương 2 giới thiệu các bài toán:
- Phân bố số nguyên tố trong dãy số tự nhiên;
- Bài toán giải mã có sử dụng số nguyên tố.
Chương 3 trình bày một số lời giải các bài toán về dãy số nguyên tố.
Luận văn này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn tận tình và chu đáo của
PGS.TS. Nguyễn Thành Quang. Tác giả xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu
3
sắc tới thầy giáo hướng dẫn khoa học, người đã dành nhiều thời gian và công sức
giúp đỡ cho tôi để hoàn thành luận văn này.
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn đến các thầy cô giáo thuộc chuyên ngành Đại
số và Lý thuyết số, Khoa Toán học, Phòng Đào tạo Sau Đại học – Trường Đại học
Vinh, những người đã tận tình giảng dạy và tổ chức thành công cho khóa học.
Xin trân trọng cảm ơn Trường Đại học Sài Gòn đã tạo mọi điều kiện thuận
lợi cho chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ học tập và nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu Trường Trung học Phổ thông Nguyễn
Bỉnh Khiêm - Sở Giáo dục và Đào tạo Đồng Nai, các đồng nghiệp, bạn bè, gia đình
đã động viên và giúp đỡ tôi hoàn thành nhiệm vụ học tập.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song luận văn vẫn còn nhiều thiếu sót, tác giả
mong nhận được sự đóng góp của thầy cô giáo và các đồng nghiệp.
TÁC GIẢ
4
CHƯƠNG 1
PHÂN BỐ SỐ NGUYÊN TỐ
1.1. Dãy số nguyên tố
Lý thuyết số có thể được cắt nghĩa ngắn gọn như là sự nghiên cứu các
tính chất của các số nguyên, trong đó có các số nguyên tố. Các số nguyên tố
đóng một vai trò rất quan trọng trong Lý thuyết số. Dù khái niệm về số nguyên
tố rất đơn giản nhưng các vấn đề liên quan đến chúng lại là rất khó. Thật ngạc
nhiên khi định lý đầu tiên quan trọng liên quan đến các số nguyên tố lại được
chứng minh một cách dễ dàng. Điều này liên quan đến câu hỏi: Có bao nhiêu số
nguyên tố trong tập hợp vô hạn các số nguyên dương? Một định lý nổi tiếng của
Euclid khẳng định rằng có vô hạn các số nguyên tố. Chứng minh của Euclid đơn
giản một cách đáng ngạc nhiên mà không cần một sự trợ giúp nào ngoài định
nghĩa số nguyên tố. Đó là một chứng minh tuyệt đẹp, dù rằng cho đến ngày nay
nhân loại đã tìm được rất nhiều cách chứng minh khác. Bài toán xác định các
tập hợp con vô hạn của tập hợp các số nguyên tố là những bài toán khó, thậm
chí đã trở thành những giả thuyết lớn của Số học mà hiện nay vẫn chưa có lời
giải và được nhiều người trong và ngoài ngành toán quan tâm.
1.1.1. Định nghĩa. Số nguyên tố là số nguyên lớn hơn 1, không chia hết cho số
nguyên dương nào ngoài 1 và chính nó. Số nguyên lớn hơn 1 không phải là số
nguyên tố được gọi là hợp số.
Nhận xét rằng, mỗi số nguyên lớn hơn 1 luôn có một ước nguyên tố.
1.1.2. Định lý (Định lý Euclid). Tồn tại vô hạn các số nguyên tố.
Chứng minh. Giả sử rằng chỉ tồn tại hữu hạn các số nguyên tố được sắp thứ tự
.
Gọi Ta có . Gọi là ước nguyên tố của . Khi đó,
Thật vậy, nếu nào đó, thì từ tính chất là ước của
ta suy ra là ước của 1, vô lý. Như vậy, tồn tại một số nguyên khác với
tất các số nguyên tố . Điền này mâu thuẫn với giả thiết rằng chỉ có
hữu hạn số nguyên tố. ■
5
và lập luận tương tự, chúng ta sẽ thu được hệ quả sau đây.
1.1.3. Hệ quả. Nếu pk là số nguyên tố thứ k, thì:
(i) pk+1 p1 p2 ... pk – 1;
(ii) pk+1 p1k.
1.1.4. Bảng phân bố số nguyên tố
Sự phân bố của các số nguyên tố tỏ ra rất phức tạp và không có quy luật.
S. G. Telang viết: Chưa ai có thể đưa ra lý do phân tích được sự phân bố không
quy luật của các số nguyên tố (Nobody has been able to put forward any reason
which will account for this extreme irregularity in the distribution of primes).
Ta quan sát bảng thống kê sau ([8]):
Hiện tại vẫn chưa ai có thể chứng minh hay bác bỏ được giả thuyết này,
nhưng các bằng chứng thể hiện trên bảng số nguyên tố, ủng hộ quan điểm cho
rằng dự đoán trên là đúng.
1.1.7. Định lý. Nếu thì
Chứng minh. Ta có . Như vậy định lý đúng với n = 4. Giả sử
định lý đúng với n = k. Điều này dẫn đến . Do đó:
Định lý đúng với n = k + 1. Theo phép quy nạp, định lý đúng với n > 3. ■
7
(1)
và (2)
Ta ký hiệu . Xét tập hợp
.
Nhận thấy rằng không có số nguyên tố nào trong các số:
(3)
lại chia hết nhiều hơn một số nguyên của S. Chẳng hạn, giả sử tu – 1 và su – 1
của S chia hết cho pk+i của (3). Điều này dẫn đến pk+i chia hết
(tu – 1) – (su – 1) = u(t – s)
điều này không thể xảy ra vì (pk+i, u) = 1 và |t – s| < pk+i .
Số các số nguyên thuộc S nhiều hơn số các số nguyên tố của dãy (3) bởi
vì pk > n – (k – 1). Điều đó dẫn đến có một hoặc nhiều hơn một số nguyên trong
S không chia hết cho bấy kỳ số nguyên tố nào của dãy (3). Hơn nữa, không có
số nguyên nào trong S chia hết cho . Do đó, ta đi đến kết luận rằng
8
tồn tại ít nhất một số nguyên thuộc S không chia hết cho bất cứ số nguyên tố
nào trong dãy . Giả sử đó là số lu – 1 sao cho 1 l pk. Thế thì, số
lu – 1 là số nguyên tố lớn hơn pn hoặc chia hết cho số nguyên tố lớn hơn pn. Từ
đó, ta có:
pn+1 lu – 1 pku – 1
pn+1 < p1p2 … pk
p2n+1 < (p1p2 … pk) (p1p2 … pk) < (p1p2 … pk) (pk+1pk+2 … p2k)
(p1p2 … pk) (pk+1pk+2 … pn)
= (p1p2 … pn), bởi vì n 2k.
Định lý được chứng minh. ■
1.1.10. Định lý. Nếu n 9 thì pn > 2n + 3.
Chứng minh. P9 = 23 > 2 9 + 3. Như vậy định lý đúng với n = 9. Giả sử định
lý đúng với n = h. Điều này dẫn đến ph > 2h + 3. Do đó
ph+1 ph + 2 > 2h + 3 + 2 = 2(h + 1) + 3.
Như vậy định lý đúng với n = h + 1. Theo quy nạp định lý đúng với n 9. ■
(i) ;
(ii)
.
Cũng như trên, ta có thể chứng minh trong S tồn tại ít nhất một số nguyên
không chia hết cho bất cứ số nguyên tố nào trong dãy p1, p2, … , pn. Giả sử đó
là số lu – 1 sao cho 1 l pk. Khi đó, lu – 1 là một số nguyên tố lớn hơn pn
hoặc chia hết cho một số nguyên tố lớn hơn pn. Do đó
pn+1 lu – 1 pku – 1
pn+1 < p1p2 … pk
p3n+1 < (p1p2 … pk) (p1p2 … pk) (p1p2 … pk)
< (p1p2 … pk) (pk+1pk+2 … p2k) (p2k+1p2k+2 … p3k)
(p1p2 … pk) (p2k+1p2k+2 … pn), với n 3k.
Định lý được chứng minh. ■
1.1.13. Số nguyên thoả mãn tính chấp P. Một số nguyên được gọi là
thoả mãn tính chất P nếu tất cả các số nguyên dương nhỏ hơn N và nguyên tố
cùng nhau với N chỉ là số 1 hoặc là số nguyên tố.
Xét số nguyên 18. Các số nguyên nhỏ hơn 18 và nguyên tố cùng nhau với
18 là: 1, 3, 5, 7, 11, 13, 17.
Tương tự, xét số nguyên 30. Các số nguyên nhỏ hơn 30 và nguyên tố
cùng nhau với 18 là: 1, 3, 5, 7, 11, 13, 17, 19, 23, 29.
1.1.14. Định lý. Các số nguyên có tính chất P chỉ là: 2, 3, 4, 6, 12, 18, 24 và 30.
Chứng minh. Giả sử số nguyên thoả mãn tính chấp P. Khi đó, mỗi hợp số
không vượt quá N sẽ không nguyên tố cùng nhau với N.
10
Ta có nhận xét rằng, mỗi số nguyên N lớn hơn 3 hoặc là bình phương
hoặc là nằm giữa các bình phương của hai số nguyên tố liên tiếp:
.
Kiểm tra trực tiếp một cách khá đơn giản với những số nguyên bé hơn 49
ta suy ra những số thoả mãn tính chất P chỉ là: 2,3,4,6,8,12,18,24 và 30. ■
1.1.15. Giả thuyết Bertrand. Nếu n > 3 thì tồn tại ít nhất một số nguyên tố
giữa n và 2n – 2
Rõ ràng giả thuyết Bertrand mạnh hơn rất nhiều so với bất đẳng thức
Bonse. Còn có một giả thuyết khác nổi tiếng như sau:
Luôn luôn tồn tại ít nhất một số nguyên tố nằm giữa n2 và (n+1)2.
1.1.16. Giả thuyết Riemann. Tại đại hội Toán học Thế giới năm 1900 ở Paris,
Rieman đã đưa Giả thuyết vào danh sách 23 bài toán dành cho những nhà Toán
học của thế kỷ 20. Bây giờ thì nó đang tiếp tục thách thức những nhà Toán học
ở thế kỷ 21. Giả thuyết Riemann (RH - Riemann Hypothesis) đã tồn tại rất lâu
và hiện tại cũng chưa hẳn là thời kỳ hấp dẫn nhất trong lịch sử bài toán. Tuy
nhiên những năm gần đây đã chứng kiến một sự bùng nổ trong nghiên cứu bắt
11
nguồn từ sự kết hợp giữa một số lĩnh vực trong Toán học và Vật lý.
Trong 6 năm qua, Viện Toán học Mỹ (AIM - American Institute of
Mathematics) đã tài trợ cho 3 đề án tập trung vào RH. Nơi đầu tiên (RHI) là ở
Seattle vào tháng 8 năm 1996 tại đại học Washington (University of
Washington). Nơi thứ hai (RHII) là ở Vienna vào tháng 10 năm 1998 tại Viện
Schrodinger (Erwin Schrodinger Institute), và nơi thứ ba (RHIII) là ở New York
vào tháng 5 năm 2002 tại Viện Toán Courant (Courant Institute of
Mathematical Sciences).
Năm 1859 trong một báo cáo seminar "Ueber die Anzahl der Primzahlen
unter eine gegebener Grosse", G. B. F. Riemann đã chỉ ra một số tính chất giải
tích căn bản của hàm zeta:
Chuỗi này hội tụ nếu phần thực của s lớn hơn 1. Riemann chứng minh rằng
có thể mở rộng bởi sự liên tục thành một hàm giải tích trên cả mặt phẳng
phức ngoại trừ tại điểm s = 1 (simple pole).
Thật ra hàm zeta đã được nghiên cứu trước đó bởi Euler và một số người
khác, nhưng chỉ như một hàm với biến số thực. Nói riêng, Euler chỉ ra rằng
trong đó tích vô hạn (gọi là tích Euler) lấy trên tất cả các số nguyên tố. Tích này
hội tụ khi phần thực của s lớn hơn 1. Đây là một phiên bản giải tích cho Định lý
cơ bản của số học, rằng mỗi số nguyên có thể phân tích một cách duy nhất
thành các thừa số nguyên tố. Euler đã dùng tích này để chứng minh rằng tổng
nghịch đảo của các số nguyên tố là không bị chặn. Chính tích Euler đã thu hút
sự quan tâm của Riemann tới hàm zeta: khi đó ông đang cố gắng chứng minh
một giả thuyết của Legendre và trong một dạng chính xác hơn phát biểu bởi
Gauss:
Riemann đã tạo ra một bước tiến lớn tới giả thuyết của Gauss. Ông nhận
ra rằng số phân bố các số nguyên tố phụ thuộc vào sự phân bố các không điểm
của hàm zeta.
Giả thuyết Riemann: Mỗi không điểm của hàm đều nằm trên trên đường
thẳng
trong đó:
(i) là các số nguyên dương;
(ii) là các số nguyên.
Nhận xét. Ta có khi và do đó tồn tại một số nguyên m sao
cho với mọi
1.2.2. Định lý. là hợp số với vô hạn các giá trị của số tự nhiên
Chứng minh. Giả sử là một số nguyên và là một số nguyên tuỳ ý. Khi đó
có ước thực sự khi Điều này mâu thuẫn với giả thiết
là số nguyên tố. Do đó là số nguyên tố. ■
1.2.4. Hệ quả. là số nguyên tố chỉ khi là số nguyên tố.
Như vậy, bài toán tìm hàm nguyên tố là chưa giải quyết được triệt để.
Hiện vẫn chưa ai tìm được một công thức sao cho
Trong tiết này của luận văn, nhờ công cụ số nguyên tố, chúng tôi diễn đạt
và kiểm tra sự tương đương về một dạng phát biểu đơn giản nhất của Định lý
sau cùng của Fermat mà A. Wiles đã sử dụng trong lời giải của mình.
1.3.1. Định lý sau cùng của Fermat
Ta thấy rằng phương trình có vô hạn nghiệm nguyên .
Các bộ số Pythagorean cũng cho ta vô hạn nghiệm nguyên của phương
trình .
14
Tình hình sẽ như thế nào nếu số mũ của các ẩn tăng lên? Nói cách khác, các
phương trình
với
có nghiệm nguyên hay không? Nếu có thì số nghiệm là hữu hạn hay vô hạn?
Đó chính là nội dung của Định lý sau cùng Fermat nổi tiếng, một trong
những câu hỏi lớn nhất của Toán học và chỉ mới nhận được câu trả lời trong
thời gian gần đây:
Phương trình , với , không có nghiệm nguyên dương.
Bên lề một cuốn sách Số học của Diophantine (xuất bản năm 1637) nhà
toán học người Pháp Pierre de Fermat (1601 - 1665) đã viết như sau:
Phương trình với , không có nghiệm nguyên dương. Tôi
đã tìm được một cách chứng minh tuyệt diệu điều khẳng định này nhưng vì lề
sách quá nhỏ nên không thể viết vào đây.
Định lí sau cùng của Fermat mới được chứng minh bởi nhà toán học
Andrew Wiles, với việc sử dụng những kiến thức cao nhất của nhiều ngành
Toán học khác nhau.
1.3.2. Sơ lược quá trình chứng minh Định lý sau cùng của Fermat bởi
Andrew Wiles
- Tháng 7 năm 1993, Nick Katz (đồng nghiệp) trao đổi email với Wiles về
những điểm chưa hiểu rõ, trong đó nhắc rằng trong chứng minh của Wiles có
một sai lầm căn bản.
- Tháng 9 năm 1993, Wiles nhận ra chỗ sai và cố gắng sửa. Wiles cố hết sức
nhưng không khắc phục được
- Tháng 11 năm 1993, ông gởi email công bố là có trục trặc trong phần đó
của chứng minh.
- Richard Taylor, một sinh viên cũ của ông, tới Princeton cùng nghiên cứu.
- Ba tháng đầu 1994, ông cùng Taylor tìm mọi cách sửa chữa vấn đề nhưng
không có hiệu quả.
- Tháng 9 năm 1994, ông quay lại nghiên cứu một vấn đề căn bản mà chứng
minh của ông được dựa trên đó
15
- Ngày 19 tháng 9 năm 1994 phát hiện cách sửa chữa những điểm trục trặc,
dựa trên một cố gắng chứng minh đã làm ba năm trước.
- Tháng 5 năm 1995 đăng lời giải trên Annals of Mathematics.
- Tháng 8 năm 1995 hội thảo ở Đại học Boston, giới toán học công nhận
chứng minh của A. Wiles là đúng.
1.3.3. Mệnh đề. Nếu phương trình có nghiệm nguyên dương thì
phương trình cũng có nghiệm nguyên dương, với p là ước của n.
Chứng minh. Giả sử phương trình với , có một nghiệm
nguyên , khi đó ta có: . Ta viết đẳng thức này lại như sau:
1.3.4. Mệnh đề. Nếu Định lý sau cùng của Fermat đúng với n = 4 và với mọi số
nguyên tố lẻ thì Định lý này đúng với mọi số nguyên .
Chứng minh. Từ giả thiết của bài toán ta chỉ cần xét Định lý sau cùng của
Fermat với những hợp số .
1) Nếu là số lẻ thì tồn tại ước nguyên tố lẻ p của n. Do đó, nếu
phương trình có nghiệm nguyên dương thì theo Mệnh đề 1.3.3
phương trình cũng có nghiệm nguyên dương với p là số nguyên tố
lẻ. Điều này mâu thuẫn với giả thiết của Định lý.
2) Nếu n là số chẵn thì ta xét hai khả năng sau:
a) Nếu n = 4k . Do n > 4 nên k >1. Vì vậy, nếu phương trình
có nghiệm nguyên dương thì do 4 là ước của n, nên theo Mệnh đề 1.3.3 phương
trình cũng có nghiệm nguyên dương. Điều này mâu thuẫn với giả
thiết của Định lý.
b) Nếu n = 4k + 2 = 2(2k + 1) thì do n > 4 nên 2k + 1 > 2 hay 2k + 1 là số
lẻ lớn hơn 3 và do đó n có một ước nguyên tố lẻ p. Do đó, nếu phương trình
16
CHƯƠNG 2
MỘT SỐ BÀI TOÁN VỀ SỐ NGUYÊN TỐ
CÓ ỨNG DỤNG TRONG LÝ THUYẾT MẬT MÃ
Chương này xét ba bài toán có vai trò quan trọng trong lý thuyết mật
mã: Kiểm tra số nguyên tố, phân tích một số nguyên thành tích của các thừa số
nguyên tố, tính lôgarit rời rạc của một số theo modulo nguyên tố.
2.1. Bài toán kiểm tra số nguyên tố lớn
Cho n là số nguyên bất kỳ. Làm thế nào để biết n là số nguyên tố hay
không? Bài toán được đặt ra từ những buổi đầu của Số học và trải qua hơn 2000
năm đến nay vẫn là một bài toán chưa có được những cách giải dễ dàng. Bằng
những phương pháp đơn giản như phương pháp sàng Euratosthene, từ rất sớm
người ta đã xây dựng được các bảng số nguyên tố đầu tiên, rồi tiếp tục bằng
nhiều phương pháp khác tìm thêm được nhiều số nguyên tố lớn.
2.1.1. Sàng Eratosthenes. Đây là một thuật giải để tìm tất cả các số nguyên tố
nhỏ hơn hoặc bằng số tự nhiên n. Thuật toán này do nhà toán học cổ Hy Lạp
là Eratosthenes phát minh. Ban đầu, nhà toán học Eratosthenes sau khi tìm ra
thuật toán, đã lấy lá cọ và ghi tất cả các số từ 2 cho đến 100. Ông đã chọc thủng
các hợp số và giữ nguyên các số nguyên tố. Bảng số nguyên tố còn lại trông rất
giống một cái sàng. Do đó, nó có tên là sàng Eratosthenes.
Thuật giải: Để tìm các số nguyên tố nhỏ hơn hoặc bằng số tự nhiên n bằng sàng
Eratosthenes, ta làm như sau:
- Bước 1: Tạo danh sách các số tự nhiên liên tiếp từ 2 đến n.
- Bước 2: Giữ p = 2 là số nguyên tố đầu tiên.
- Bước 3: Đánh dấu các bội số của p (2p, 3p, 4p,... ) vì chúng không phải là
số nguyên tố.
- Bước 4: Tìm các số còn lại lớn hơn p trong danh sách mà chưa bị đánh dấu.
Nếu không còn số nào, dừng tìm kiếm. Ngược lại, gán cho p giá trị bằng số
nguyên tố tiếp theo và quay lại bước 3.
19
Khi giải thuật kết thúc, tất các số chưa bị đánh dấu trong danh sách là các số
nguyên tố cần tìm.
Chương trình viết các số nguyên tố không vượt quá n bằng thuật toán sang
Eratostthene:
Eratosthene(n)
Var List Prime[1..n]
Int i,j,k
for i:=1 to n Prime[i]:=True
Prime[1]:=false
k=0
while k < sqrt(n) {
i=k+1
while Prime[i]=False i:=i+1
k=i
j=2
while k*j<=n {
Prime[k*j]:= False
j:=j+1
}
}
Tuy nhiên chỉ đến giai đoạn hiện nay của lý thuyết mật mã hiện đại, nhu
cầu sử dụng các nguyên tố và kiểm tra tính nguyên tố mới trở thành một nhu
cầu to lớn và phổ biến, đòi hỏi nhiều phương pháp mới có hiệu quả hơn.
Về mặt lý thuyết thuật toán AKS có ý nghĩa lớn và đã thu hút được sự
quan tâm nghiên cứu của nhiều người trong thời gian dài. Tuy nhiên, việc kiểm
20
tra đồng dư thức trên không phải đơn giản khi p đủ lớn. Vì vậy, thuật toán này
chưa tỏ ra có hiệu quả rõ rệt trong tính toán thực tiễn.
Thuật toán Agrawal-Kayal-Saxena:
Input: integer n > 1
1. If (n is of the form , b > 1) output COMPOSITE;
2. r = 2;
3. While (r < n) {
7. if (q ≥ 4 log n) and (
8. break;
9. r r + 1;
10. }
Thuật toán này đã được một số nhà toán học kiểm nghiệm, đánh giá cao và
xem là thuật toán tốt, có thể dùng cho việc kiểm thử tính nguyên tố của các số
nguyên.
Trong thực tiễn xây dựng các giải pháp mật mã, có ngu cầu các số nguyên
tố rất lớn. Để tìm được số như vậy, người ta chọn ngẫu nhiên một số n rất lớn và
dùng một thuật toán xác suất, chẳng hạn như thuật toán Miller-Rabin. Nếu thuật
toán cho kết quả “n là số nguyên tố” với một xác suất sai nào đó, thì dùng tiếp
một thuật toán tất định (chẳng hạn thuật toán Thuật toán Agrawal-Kayal-
Saxena) để đảm bảo chắc chắn 100% rằng số n là nguyên tố.
Thuật toán Agrawal-Kayal-Saxena được chứng tỏ là có độ phức tạp thời
gian đa thức cỡ O khi thử trên số n. Nếu số nguyên tố được thử có
21
dạng Sophie Gerrmain, tức dạng 2p+1, thì độ phức tạp thời gian sẽ chỉ cỡ O
.Trên thực tế thuật toán này chạy chậm hơn các phương pháp xác suất.
Tiếp theo chúng tôi giới thiệu một số phương pháp kiểm tra theo xác suất
tính nguyên tố của một số nguyên (kiểm tra nguyên tố theo xác suẩt).
2.1.3. Kiểm tra theo xác suất. Các phép kiểm tra tính nguyên tố hay dùng nhất
là các thuật toán ngẫu nhiên. Giả sử có một mệnh đề Q(p,a) nào đó đúng với
mọi số nguyên tố p và số tự nhiên . Nếu n là một số tự nhiên lẻ và mệnh
đề Q(n,a) đúng với một được lấy ngẫu nhiên, khi đó a có khả năng là một
số nguyên tố. Ta đưa ra một thuật toán, kết luận rằng n là số nguyên tố. Ta gọi
đây là một thuật toán ngẫu nhiên hay thuật toán xác suất. Trong các thuật toán
loại này, dùng một kiểm tra ngẫu nhiên không bao giờ kết luận một số nguyên
tố là hợp số nhưng có thể kết luận một hợp số là số nguyên tố. Xác suất sai của
phép kiểm tra có thể giảm xuống nhờ việc chọn một dãy độc lập các số a; nếu
với mỗi số a xác suất để thuật toán kết luận một hợp số là số nguyên tố là nhỏ
hơn một nửa thì sau k lần thử độc lập, xác suất sai là nhỏ hơn 2 −k, độ tin cậy của
thuật toán sẽ tăng lên theo k.
Cấu trúc cơ bản của một phép kiểm tra ngẫu nhiên là:
1. Chọn một số nguyên ngẫu nhiên a.
2. Kiểm tra một hệ thức nào đó giữa số a và số n đã cho. Nếu hệ thức sai thì
chắc chắn n là một hợp số (số a là "bằng chứng" chứng tỏ n là hợp số) và dừng
thuật toán.
3. Lặp lại bước 1 cho đến khi đạt được số lần đã định hoặc gặp bước 2.
Sau một loạt lần kiểm tra, nếu không tìm được bằng chứng chứng tỏ n là
hợp số thì ta kết luận n là số nguyên tố.
Các phép kiểm tra tính nguyên tố ngẫu nhiên là: Phép kiểm tra tính nguyên
tố của Fermat (kiểm tra Fermat). Đây là phép thử heuristic; tuy nhiên ít người
sử dụng phép thử này
Được sử dụng nhiều hơn là Kiểm tra Miller-Rabin và Kiểm tra Solovay-
Strassen. Với mỗi hợp số n, ít nhất 3/4 (với kiểm tra Miller-Rabin) hoặc 1/2
(Với kiểm tra Solovay-Strassen) các số a là bằng chứng chứng tỏ n là hợp số).
22
2.1.4. Kiểm tra Fermat. Kiểm tra Fermat là một thuật toán xác suất kiểm tra
một số tự nhiên là hợp số hay là số nguyên tố xác suất, dựa trên cơ sở
2.1.4.1. Định lý bé Fermat. Nếu p là số nguyên tố và a là số nguyên không chia
hết cho p thì . Nói cách khác, nếu p là số nguyên tố và a là số
nguyên bất kỳ thì .
Nếu ta muốn kiểm tra số n có là nguyên tố không, ta lấy ngẫu nhiên các
số nguyên a và kiểm tra xem đồng dư thức trên có đúng không. Nếu nó không
đúng với một giá trị nguyên a nào đó thì n là hợp số. Nếu nó với nhiều giá trị
của a, ta có thể nói rằng n là số nguyên tố với xác suất nào đó, hay là một số giả
nguyên tố (pseudoprime). Có thể phép thử sẽ cho ta một kết quả sai.
Số nguyên a sao cho , trong đó n là hợp số được gọi là
một giả Fermat.
Còn nếu có số nguyên a mà
thì a được xem như một bằng chứng Fermat chứng tỏ n là hợp số.
2.1.4.2. Thuật toán và thời gian thực hiện. Thuật toán có thể viết như sau:
Inputs: n: giá trị để kiểm tra tính nguyên tố; k: tham số tham gia vào quá
trình kiểm tra
Output: hợp số nếu n là hợp số, nếu không nguyên tố xác suất
repeat k times:
lấy a ngẫu nhiên trong [1, n − 1]
if an − 1 mod n ≠ 1 then
return composite
return probably prime
Khi dùng thuật toán tính nhanh luỹ thừa theo môđun, thời gian thi hành
của thuật toán này là O(k × log3n), trong đó k là số lần kiểm tra với mỗi
số a ngẫu nhiên, và n là giá trị ta muốn kiểm tra.
Có khá nhiều giá trị của n là các số Carmichael mà với tất cả các giá trị
của a (a và n là nguyên tố cùng nhau), là giả Fermat. Mặc dù các số Carmichael
23
là rất hiếm, nhưng phép thử Fermat rất ít được dùng so với các phương pháp
khác như kiểm tra Miller-Rabin hay kiểm tra Solovay-Strassen.
2.1.5. Kiểm tra Solovay-Strassen. Kiểm tra Solovay-Strassen là một trong các
phương pháp kiểm tra tính nguyên tố theo xác suất do Robert M. Solovay và
Volker Strassen phát triển.
2.1.5.1. Ký hiệu Legendre. Cho số nguyên tố lẻ p và số nguyên a. Ký hiệu
2.1.5.3. Kí hiệu Jacobi. Kí hiệu Jacobi là mở rộng của ký hiệu Legendre cho số
tự nhiên lẻ n. Giả sử
là dạng phân tích tiêu chuẩn của n và số nguyên a bất kỳ, ký hiệu Jacobi được
định nghĩa bởi:
2.1.5.4. Số giả nguyên tố Euler. Hợp số n được gọi là số giả nguyên tố Euler
cơ sở nếu:
3. Tính
2.1.5.6. Định lý (Xác suất sai). Nếu n là hợp số lẻ thì tồn tại không quá
số tự nhiên dương a nhỏ hơn n, nguyên tố cùng nhau với n sao cho n là số giả
nguyên tố Euler cơ sở a.
Gọi A là biến cố "Số nguyên lẻ n là hợp số"; B là biến cố: "Thuật toán
Solova-Strassen trả lời TRUE". Khi đó, xác suất điều kiện
2.1.6. Kiểm tra Miler-Rabin. Kiểm tra Miller-Rabin là một thuật toán xác suất
để kiểm tra tính nguyên tố cũng như các thuật toán kiểm tra tính nguyên
tố: Kiểm tra Fermat và Kiểm tra Solovay-Strassen. Nó được đề xuất đầu tiên
bởi Gary L. Miller như một thuật toán tất định, dựa trên giả thiết Riemann tổng
quát; Michael O. Rabin đã sửa chữa nó thành một thuật toán xác suất.
Khi sử dụng kiểm tra Miller-Rabin chúng ta căn cứ vào một mệnh đề
Q(p, a) đúng với các số nguyên tố p và mọi số tự nhiên và kiểm tra
xem chúng có đúng với số n muốn kiểm tra và một số được chọn ngẫu
nhiên hay không? Nếu mệnh đề Q(n, a) không đúng, thì tất yếu n không phải là
số nguyên tố, còn nếu Q(n,a) đúng, số n có thể là số nguyên tố với một xác suất
nào đó. Khi tăng số lần thử, xác suất để n là số nguyên tố tăng lên.
2.1.6.1. Mệnh đề Q(p,a). Nếu p là số nguyên tố lẻ và , trong
đó s là một số tự nhiên khác 0 và m là một số nguyên lẻ, thì với mọi số nguyên
, ta có:
25
- hoặc
Do đó hoặc .
Nếu ta dừng lại, còn nếu ngược lại ta tiếp tục với
Sau một số hữu hạn bước
- hoặc ta có một chỉ số k, sao cho ,
- hoặc tới k = 0 ta vẫn có .
Từ đó ta có mệnh đề Q(p,a) được chứng minh. ■
2.1.6.2. Định nghĩa: Hợp số n được gọi là số giả nguyên tố mạnh Fermat cơ
sở a nếu nó thoả mãn mệnh đề Q(n,a).
2.1.6.3. Giải thuật kiểm tra Miller-Rabin
INPUT: Số tự nhiên lẻ n
OUTUT NguyenTo: TRUE/FALSE
1. Phân tích , trong đó s là một số tự nhiên khác 0 và m là một số tự
nhiên lẻ
2. Chọn ngẫu nhiên số tự nhiên .
3. Đặt
4. Nếu thì trả về TRUE. Kết thúc.
5. Cho k chạy từ 0 đến s - 1:
1. Nếu thì trả về TRUE. Kết thúc.
2. Thay .
6. Trả lời FALSE. Kết thúc.
26
2.1.6.4. Định lý (Xác suất trả lời sai). Nếu n là hợp số dương lẻ thì với các số
tố mạnh Fermat.
Gọi A là biến cố "Số n là hợp số" và B là biến cố "Kiểm tra Miller-Rabin
trả lời n là số nguyên tố". Khi đó, xác suất sai của kiểm tra này là xác suất để
số n là hợp số trong thuật toán cho câu trả lời TRUE, nghĩa là xác suất điều
kiện P(B|A).
Theo định lý trên nếu n là hợp số thì khả năng kiểm tra này trả lời TRUE
Giải sử n là B-min. Ký hiệu là bội chung bé nhất của các lũy thừa của
các số nguyên tố B mà bản thân chúng n. Nếu thì l ln(q) ln n, tức l
Ta có .
3.1. Tính .
3.2. Tính a
4. Tính d = gcd(a - 1, n).
Bằng lập luận như trên, ta thấy rằng n là số Blume, a là số nguyên tố với
n, và ta biết một nghiệm không tầm thường của phương trình , tức
là biết x a sao cho thì gcd(x - a, n) sẽ là một ước số của n.
Từ những điều rút ra ở trên, người ta đã tìm ra một số phương pháp tìm
ước số nguyên tố của một số nguyên dạng Blum. Các phương pháp đó dựa vào
việc tìm một nghiệm không tầm thường của phương trình . Ta giả
thiết a.b = .r với r là số lẻ. Ta phát triển một thuật toán xác suất kiểu Las
Vegas như sau: Chọn một số ngẫu nhiên v (1 v n-1). Nếu v may mắn là bội
số của p hay q, thì ta được ngay một ước số của n là gcd(v, n). Nếu v nguyên tố
với n, thì ta tính các bình phương liên tiếp kể từ , được , , , ... cho đến
khi được với một t nào đó. Số t như vậy bao giờ cũng đạt được, vì
có nên có . Như vậy ta đã tìm được số
sao cho . Tất nhiên có x 1 mod n. Nếu cũng có x -1(mod n) thì x
là nghiệm không tầm thường của , từ đó ta có thể tìm ước số của n.
Nếu không thì thuật toán cho kết quả không đúng. Người ta có thể ước lượng
xác suất cho kết quả không đúng với một lần thử với một số v là < ½, do đó nếu
thiết kế thuật toán với m số ngẫu nhiên , thì sẽ đạt được xác suất kết
q u1 u2 u3 v1 v2 v3
-1 0 29 38 0 1 31
94 0 1 31 1 -94 24
1 1 -94 24 -1 95 7
3 -1 95 7 4 -379 3
2 4 -379 3 -9 853 1
3 -9 853 1 31 -2938 0
CHƯƠNG 3
BÀI TẬP VỀ DÃY SỐ NGUYÊN TỐ
Từ đó suy ra n có dạng:
Để chứng minh trong dãy có vô hạn số nguyên tố dựa vào kết quả
trên và làm như sau:
Cho . Khi đó theo trên ta có số nguyên tố (tức ) mà có
dạng
32
Từ đó ta thấy dãy số trên có nhiếu số hạng hơn dãy số thỏa mãn đề bài mà dãy
lẻ chỉ gồm ba số lẻ liên tiếp. Vậy dãy số tự nhiên liên tiếp có nhiều số hạng nhất
thỏa mãn đầu bài là dãy sau đây: 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10.
Bài 4. Hỏi tồn tại hay không một dãy vô hạn các số nguyên tố
thỏa mãn đồng thời hệ điều kiện sau:
Lời giải. Giả thiết tồn tại dãy vô hạn các số nguyên tố thỏa mãn
các yêu cầu đề bài.
Do dãy là vô hạn nên không giảm tính tổng quát có thể cho là > 3. Xét số
hạng tùy ý ( ).
Từ (1) suy ra
34
Từ (5) suy ra
Từ (7) và theo Định lí Fermat nhỏ suy ra . Điều này mâu thuẫn với việc
là số nguyên tố.
Vậy giả thiết tồn tại dãy vô hạn các số nguyên tố thỏa mãn các
yêu cầu đề bài là sai. Như vậy câu trả lời ở đây là không.
Bài 5. Cho , trong đó là dãy tất cả các số nguyên tố.
Suy ra
35
Số x có thể bằng bao nhiêu: Chỉ hai khả năng xảy ra:
i) Nếu x = 3, thì do và từ đó suy ra tất cả bất đẳng thức trên
trở thành đẳng thức suy ra:
Vậy (1) cũng đúng khi n = k + 1. Theo nguyên lí quy nạp thì (1) đúng với mọi
n.
Mặt khác, từ ; ta suy ra:
36
Từ đó ta có:
(hằng số)
Nói riêng:
Từ đó ta có:
, hay ,
Bài 7. Dãy số được xác định như sau: với , thì là thừa số
cho 2, 3, 5. Từ đó suy ra .
Vì . Lại có
Do nên suy ra
Bài 8. Chứng minh rằng tồn tại dãy vô hạn các số nguyên tố phân biệt (
) có tính chất:
Lời giải. Đặt p = 1999 và chú ý rằng p là số nguyên tố. Xét dãy được xác
Ta có: .
Rõ ràng từ cách xây dựng dãy , ta có nếu n > m. Như vậy nếu n >
. Ta có:
đó k = n tức là
Khi đó, dãy số , n = 1, 2, … bao gồm các số giống nhau khi và chỉ khi
Giả sử dãy thỏa mãn điều kiện bài toán. Khi đó theo (1), ta có:
Sự đúng đắn của đẳng thức trên bảo đảm cho dãy số , i = 0, 1, 2, ... thỏa
mãn điều kiện bài toán, chính là số nghiệm tự nhiên của phương trình Diophant:
Chú ý rằng vế trái của (3) chia hết cho p. Vì thế (3) chỉ ó thể có nghiệm chỉ khi
thỏa mãn một trong hai điều kiện sau đây (điều kiện cần): hoặc
với (Chú ý là hoặc ).
Điều này suy ra từ tính nguyên tố của số p.
Ta có nhận xét sau đây:
- Nếu mà
.
- Nếu thì chắc chắn p
Như vậy hai điều kiện nói trên không tương thích với nhau ( tức là loại trừ
nhau). Xét hai khả năng sau:
i) Nếu , khi đó (3) đưa về dạng
40
Như vậy mỗi một nghiệm loại này được nhận bằng cách sau: giá trị
có thể lấy bất kì từ các ước số của p-1 (nghĩa là từ đó chọn được ), sau đó đặt
Như thế trong trường hợp này dãy số tự nhiên , n = 0, 1, 2, ... thỏa mãn
điều kiện đầu bài bằng số ước số của p -1.
ii) Nếu , khi đó (3) có dạng:
Như vậy mỗi một nghiệm loại này nhận được bằng hai cách sau: giá trị của m
cần phải lấy bất kì từ các ước của p – 1, sau đó đặt:
Số tự nhiên , n = 0, 1, 2, ... thỏa mãn điều kiện đầu bài bằng số ước số của
. Vì hai trường hợp i) và ii) loại trừ nhau suy ra dãy số thỏa mãn điều kiện
đầu bài bằng hai lần ước số của
Bài 10. Biết rằng 10 số nguyên tố sau đây lập thành cấp số cộng với công sai d
= 210: Chứng minh
rằng không tồn tại một cấp số cộng gồm 11 số nguyên tố với công sai d thỏa
mãn .
Lời giải. Giả sử phản chứng tồn tại cấp số cộng gồm 11 số nguyên tố với
d = 1470 = 2951=227.13
d = 2100 = 8411=13.647
Vậy dãy số (a + id) (i = 0, 1, …,10) không phải là gồm các số nguyên tố. Ta
nhận được điều này mâu thuẫn. Vậy giả thiết phản chứng là sai và đó là đpcm.
Bài 11. Tìm 9 số nguyên tố nhỏ hơn 2002 lập thành cấp số cộng
Lời giải. Trước hết ta chứng minh bổ đề sau: Nếu ba số nguyên tố > 3 lập
thành một cấp số cộng thì công sai d chia hết cho 6
Chứng minh. Vì ba số nguyên tố > 3 lập thành một cấp số cộng, nên theo
nguyên lý Dirichlet phải có ít nhất hai số cùng dạng, tức hiệu số của hai số đó
chia hết cho 6. Gọi d là công sai của cấp số cộng, thì hiệu của hai số ấy hoặc là
d, hoặc là 2d. Như thế hoặc d hoặc . Chú ý rằng công sai d là hiệu
của hai số nguyên tố > 3, nên nó là số chẵn. Như thế vì và nên và
đó chính là đpcm.
1) Giả sử ta có 9 số nguyên tố lập thành cấp số cộng với công sai d. Rõ ràng
trong đó 9 số đó bao giờ cũng tồn tại 3 số nguyên tố > 3 lập thành một cấp số
cộng. Thật vậy, cùng lắm trong 9 số đó có hai số nguyên tố , và cho dù hai
số đó vào vị trì thứ 3 và vị trí thứ 6 của cấp số cộng thì 3 số sau cùng là 3 số
nguyên tố > 3 lập thành cấp số cộng (còn nếu ở vị trí khác, thì kết luận là rõ
ràng). Ta có .
42
Ta sẽ chứng minh rằng . Thật vậy, gọi số số hạng đầu tiên của cấp số cộng
là . Xét 5 số sau đây:
Giả thiết chứng minh d 5. Xét hai số bất kì trong 5so 61 ấy.
Khi đó và rõ ràng nên
, k nguyên dương.
Do nên
Từ (4) suy ra không có ước chính phương khác 1. Vậy kết luận cũng đúng
với n = k +1. Theo nguyên lí quy nạp suy ra kết luận nêu trên là đúng:
,mọi số của dãy không có ước chính phương khác 1.
Trở lại bài toán đang xét. Ta nhận thấy 2004 có ước chính phương khác là 1 và
4. Vậy số 2004 không thể là bất cứ phần tử nào của dãy nói rên.
a) Đánh số tất cả các số nguyên tố theo thứ tự tăng dần
. Giả sử x > 1 là số không có ước chính phương khác
1. Gọi là số nguyên tố lớn nhất là ước của x. Xác định các số như sau (i
= 0, 1, 2, …, m-1):
Tuy , nhưng nên “mã số” của f(x) chỉ khác mã số” của f(x) chỉ
khác “mã số” của x ở số cuối cùng.
- Nếu ‘mã số” của x có tận cùng bằng thì x chia hết cho
của x, do đó . Ta có:
Vậy x không có ước chính nguyên khác 1 và là số nguyên tố nhỏ nhất không
phải là ước của x nên x có dạng: trong đó
cùng bằng .
trên suy ra chính là dạng biểu diễn k +1 sang cơ số . Theo nguyên lí quy
nạp suy ra nhận xét đúng .
- Trở lại bài toán đang nhận xét ta có: 1995 = 3.5.7.19, suy ra số nguyên tố
lớn nhất là ước của 1995 là 19 và đó là ( số hạng thứ 8 của dãy số nguyên tố
liên tiếp). Vậy “mã số” của 1995 là (1, 0, 0, 0, 1, 1, 0). Theo trên mã số đó chính
là dạng biểu diễn sang cơ số 2, ở đây . Vậy:
Tóm lại 1995 là số hạng thứ 142 của dãy nói trên.
46
Bài 12. Cho dãy số được xác định như sau: với
. Chứng minh rằng dãy trên chứa vô hạn số là lũy thừa của cùng một
số nguyên tố.
Lời giải. Ta có nhận xét sau
Tồn tại số nguyên tố p sao cho đẳng thức
Từ đó ta có: p
Thay (1) vào (2) suy ra với mọi t =1, 2, …thì:
Đẳng thức (3) đúng với mọi t = 1, 2,….Chú ý rằng do nên khi t
lấy các giá trị khác nhau, thì j cũng lấy các giá trị khác nhau. Ở đây l, p, m đã
cho trước từ (1) (vì sự tồn tại các l, p, m để có (1) đã được nêu trên). Do t =1, 2,
…là tập vô hạn, nên tương ứng tập l +j cũng là tập vô ha5nca1c số nguyên
dương khác nhau . Mỗi phần tử 2003 +23(l+ j ) đều là các số hạng của dãy đã
47
cho. Kết hợp lại suy ra rẳng dãy trên chứa vô hạng số hạng là lũy thừa của cùng
một số nguyên tố.
Bài 12. Giả sử a, b, c, d là bốn số nguyên cho trước. Lập bốn dãy số nguyên
, , như sau:
Với n = 1, 2, 3, … bốn dãy số trên được xác định bằng các công tức truy
hồi sau:
Như vậy:
không thể đồng thời là ba số nguyên tố. Do vậy, nói riêng ba số nguyên tố đã
cho
KẾT LUẬN
Với mục đích tìm hiểu sâu hơn về số nguyên tố, chúng tôi tập trung tìm
hiểu các vấn đề xung quanh số nguyên tố, dãy số nguyên tố và ứng dụng của
chúng trong Lý thuyết mật mã. Vì vậy, nội dung của bản luận văn này gồm:
1. Tìm hiểu các kết quả mới về phân bố số nguyên tố, dãy số nguyên tố
và hàm số nguyên tố;
2. Chỉ ra một số điều kiện đủ về sự tồn tại hoặc xây dựng những dãy con
vô hạn hoặc hữu hạn các số nguyên tố;
3. Tìm hiểu một số thuật toán sơ cấp và thuật toán xác suất về kiểm tra
nguyên tố;
4. Tìm tòi một số ứng dụng của số nguyên tố và dãy số nguyên tố trong
Lý thuyết mật mã;
5. Giải một số bài toán về dãy số nguyên tố.
50
TIẾNG VIỆT
[1] Phạm Huy Điển (2002), Tính toán, lập trình và giảng dạy toán học trên Maple,
Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
[2] Phạm Huy Điển, Hà Huy Khoái (2004), Mã hóa thông tin - Cơ sở toán học và ứng
dụng, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
[3] Phan Huy Khải (2006), Các chuyên đề Số học, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội
[4] Hà Huy Khoái, Phạm Huy Điển (2003), Số học thuật toán, Nhà xuất bản Đại học
Quốc gia Hà Nội.
[5] Nguyễn Thành Quang (2011), Lý thuyết trường và ứng dụng, Nhà xuất bản Đại học
Quốc gia Hà Nội.
TIẾNG ANH
[6] D. M. Burton (2002), Elementary Number Theory, Tata McGraw-Hill Company,
New Delhi.
[7] M. B. Nathanson (2000), Elementary Methods in Number Theory, Springer.
[8] S. G. Telang (2001), Number Theory, Tata McGraw-Hill Company, New Delhi.