You are on page 1of 14

Câu hỏi: Phân tích được tiền đề của cách mạng tư sản Pháp

Khái niệm CMTS

Thứ nhất, tiền đề về mặt kinh tế. Về nông nghiệp, đến thế kỉ XVIII, Pháp vẫn còn là một nước nông nghiệp lạc hậu. Công cụ lao động thô sơ, chủ yếu là
cày, cuốc và phương thức canh tác lỗi thời khiến năng suất lao động giảm thấp, ruộng đất bị bỏ hoang ngày càng nhiều, nạn mất mùa đói kém thường xuyên xảy ra.
Nông dân nhận ruộng đất của lãnh chúa để cày cấy và phải phục vụ, nộp tô thuế nặng nề cho lãnh chúa. Quan hệ phong kiến cũ kĩ được duy trì thông qua đặc
quyền bóc lột của giai cấp thống trị. Khác với Anh, yếu tố QHSX TBCN trong nông thôn nước Pháp rất nhỏ bé. Đến trước cách mạng, nền kinh tế nông nghiệp
ngày càng suy sụp, đời sống nhân dân ngày càng túng quẫn, khốn khổ, thậm chí là phá sản phải đi lang thang để kiếm ăn, nạn đói diễn ra liên tiếp. Do đó, giải
phóng khỏi ách phong kiến là một yêu cầu cấp thiết của nhân dân Pháp lúc đó và giải quyết vấn đề ruộng đất đã trở thành vấn đề cơ bản của cách mạng. Về công
nghiệp, công nghiệp Pháp phát triển, đặc biệt là ngành dệt may, khai khoáng, luyện kim... Máy móc ngày càng được sử dụng rộng rãi. Công trường thủ công chiếm
ưu thế, nhiều trung tâm dệt, luyện kim ra đời. Về thương nghiệp, thương nghiệp có những bước tiến mới, nhất là lĩnh vực ngoại thương. Các thành phố cảng, trung
tâm thương mại dần xuất hiện. Các công ty thương mại Pháp buôn bán khắp nơi trên thế giới. Tuy phát triển, nhưng công thương nghiệp vẫn bị chế độ phong kiến
kìm hãm sự phát triển do thuế má nặng, không có đơn vị tiền tệ thống nhất, sức mua của dân nghèo bị hạn chế... Vì thế, xóa bỏ sợi dây ràng buộc của phong kiến
đối với nền công thương nghiệp là một yêu cầu khách quan và tất yếu của lịch sử.

Thứ hai, tiền đề về chính trị - xã hội. Trước cách mạng, nước Pháp vẫn là một nước quân chủ chuyên chế phong kiến. Nhà vua nắm mọi quyền hành, có
quyền lực tối cao. Xã hội Pháp chia thành 3 đẳng cấp: Tăng lữ, quý tộc và đẳng cấp thứ ba. Tăng lữ và quí tộc là 2 đẳng cấp tuy chỉ chiếm số ít trong nhân dân,
nhưng được hưởng nhiều đặc quyền, đặc lợi, nhiều bổng lộc, giữ các chức vụ cao, nắm mọi quyền hành. Do đó, họ muốn duy trì chế độ phong kiến, không muốn
thay đổi chế độ chính trị. Đẳng cấp thứ ba bao gồm tư sản, công nhân, nông dân, bình dân thành thị. Họ là lực lượng lao động chính trong xã hội nhưng không
được hưởng quyền lợi, chịu mọi thứ thuế, lệ thuộc vào Tăng lữ và quí tộc. Chế độ bóc lột đẳng cấp nặng nề đã dẫn đến mâu thuẫn về quyền lợi kinh tế và địa vị
chính trị giữa Đẳng cấp thứ ba do giai cấp TS lãnh đạo và Đẳng cấp Tăng lữ, quí tộc đại diện cho CĐPK đã đẩy nước Pháp vào cuộc khủng hoảng sâu sắc, báo hiệu
một cuộc cách mạng đang đến gần.

Thứ ba, tiền đề về mặt tư tưởng, đây là điểm khá hoàn thiện của cuộc cách mạng tư sản Pháp. Chế độ QCCC bị tố cáo, phê phán gay gắt trong lĩnh vực
văn hóa, tư tưởng. Những người có tư tưởng tiên tiến đã liên tiếp tấn công vào thành trì quân chủ chuyên chế bằng những học thuyết mới, tiến bộ. Những nhà tư
tưởng trong trào lưu “Triết học Ánh sáng” đã có những điểm tiến bộ đóng góp về mặt tư tưởng, thúc đẩy cách mạng và mục tiêu chính là đả phá chế độ phong
kiến, đánh vào thành trì của chế độ phong kiến về mặt tư tưởng. Các đại diện tiêu biểu ví dụ như: Montesquieu – người đề xướng học thuyết Tam quyền phân lập;
Voltaire – nhân vật nổi bật và xuất sắc nhất, công kích một cách sâu sắc chế độ phong kiến thối nát, cổ súy tư tưởng tự do ngôn luận, tự do tôn giáo, chủ trương
duy trì nền cộng hòa; Rousseau – người có tư tưởng dân chủ với chủ trương phế bỏ nền quân chủ lập hiến, thiết lập nền cộng hòa dân chủ . Các nhà tư tưởng Pháp
mặc dù có những quan điểm khác nhau, phản ánh quyền lợi của những giai cấp khác nhau nhưng trong thời kì khủng hoảng của chế độ phong kiến, họ đều chĩa mũi
nhọn vào chính quyền quân chủ chuyên chế và đòi hỏi thay thế bằng một chế độ xã hội mới.

Như vậy, chính những chính sách cai trị độc đoán của chế độ phong kiến, chế độ ba đẳng cấp bất công, khủng hoảng tài chính, kinh tế TBCN bị hạn chế,
mất mùa, đói kém,... gây nên những mâu thuẫn sâu sắc về lợi ích kinh tế, chính trị của các tầng lớp nhân dân. Mâu thuẫn giữa đẳng cấp thứ ba và hai đẳng cấp trên
càng trở nên gay gắt cộng với sự soi đường của trào lưu “Triết học Ánh sáng” đã làm tiền đề cho cuộc cách mạng tư sản Pháp bùng nổ.

Câu hỏi: Tại sao cách mạng tư sản Pháp lại là cuộc cách mạng tư sản triệt để nhất?
Khái niệm CMTS

Nói cuộc cách mạng tư sản cuối thế kỉ XVIII ở Pháp là một cuộc cách mạng tư sản triệt để nhất thời kì cận đại vì nó đã hoàn thành nhiệm vụ của một cuộc
cách mạng tư sản: lật đổ được nền quân chủ chuyên chế phong kiến cùng với mọi quan hệ và lề thói thối nát của nó, xóa bỏ nhiều trở ngại trên con đường phát triển
của CNTB. Cách mạng đã tấn công vào thành trì cuối cùng của chế độ phong kiến là kinh tế; đập tan quan hệ ruộng đất phong kiến, giải phóng nông dân khỏi sợi
dây ràng buộc truyền thống, vô lí của những nghĩa vụ phong kiến, giải quyết vấn đề ruộng đất theo hướng dân chủ, mở đường cho nền kinh tế TBCN phát triển
mạnh mẽ ở giai đoạn sau. Cách mạng tư sản Pháp đã tuyên bố một chế độ chính trị của xã hội mới ở châu Âu – nền cộng hòa với cơ cấu tổ chức mới và các quyền
tự do dân chủ. Trong cuộc cách mạng này, giai cấp tư sản đã đóng vai trò lãnh đạo cách mạng, quần chúng nhân dân là lực lượng chủ yếu tham gia vào tiến trình
của cách mạng và đưa cách mạng tiến lên, vượt ra ngoài ý muốn của giai cấp tư sản. Chính sự tham gia của quần chúng nhân dân đã làm cho cách mạng Pháp
mang tính dân chủ rộng rãi và triệt để hơn so với những cuộc cách mạng trước đó.

Câu hỏi: Phân tích kết quả của cuộc cách mạng tư sản Pháp.
Khái niệm CMTS

Thứ nhất, cuộc cách mạng cuối thế kỉ XVIII ở Pháp là một cuộc cách mạng dân chủ tư sản, một cuộc cách mạng tư sản vĩ đại và triệt để khi đã lật đổ được
chế độ phong kiến chuyên chế cùng với mọi quan hệ và lề thói thối nát của nó, đưa giai cấp tư sản lên cầm quyền. Cách mạng Pháp đã tuyên bố một chế độ chính
trị của xã hội mới ở Châu Âu với cơ cấu tổ chức mới và các quyền tự do dân chủ. Cách mạng đã đập tan quan hệ ruộng đất phong kiến, giải phóng nông dân khỏi
sợi dây ràng buộc cổ truyền của những nghĩa vụ phong kiến, tạo nên một tầng lớp nông dân tiểu tư hữu đông đảo, song song đó những cản trở đối với công thương
nghiệp bị xóa bỏ, mở đường cho nền kinh tế TBCN phát triển mạnh mẽ. Và do đó, chế độ TBCN đã xác lập trong tất cả các lĩnh vực của đời sống. Nó trở thành
cuộc cách mạng có ảnh hưởng lớn trong phạm vi châu Âu và có ý nghĩa lớn lao đối với thời đại.

Thứ hai, trong cuộc cách mạng, do địa vị kinh tế và xã hội qui định mà giai cấp tư sản là giai cấp thực tế lãnh đạo phong trào. Nhưng để cách mạng thắng
lợi phải có tinh thần dũng cảm, kiên cường, ý chí bất khuất của quần chúng nhân dân. Quần chúng nhân dân lao động chính là lực lượng chủ yếu, là đội quân xung
kích tiến hành đấu tranh quyết liệt, đưa cách mạng đạt đến đỉnh cao.

Thứ ba, cách mạng tư sản Pháp đã góp phần thức tỉnh các lực lượng dân chủ trên thế giới đứng lên chống chế độ phong kiến và mở ra thời kì thắng lợi của
phong trào tư sản thế giới. Đây là một sự kiện lịch sử trọng đại, có ý nghĩa lớn lao đối với sự phát triển của nước Pháp cũng như thế giới. Cách mạng Pháp làm biến
đổi sâu sắc tâm lý của người châu Âu lúc bấy giờ, chế độ phong kiến lung lay khắp lục địa già. Các tư tưởng của cuộc cách mạng này tiếp tục lan rộng ra toàn thế
giới trong hàng trăm năm sau đó và tác động sâu sắc đến nền chính trị của hầu hết quốc gia trên thế giới.

4. Chiến tranh thế giới thứ nhất


Câu hỏi: Nguyên nhân dẫn đến sự bùng nổ của Chiến tranh thế giới thứ nhất.

Nguyên nhân sâu xa: Thứ nhất, do sự phát triển không đồng đều về kinh tế và chính trị của chủ nghĩa tư bản , đã làm thay đổi sâu sắc so sánh lực lượng
giữa các nước đế quốc ở cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX. Thứ hai, do nảy sinh mâu thuẫn từ trong lòng CNTB, giữa các đế quốc về vấn đề thuộc địa, và ngày càng
gay gắt hơn do sự phân chia thuộc địa giữa các đế quốc không đều – giữa đế quốc già (Anh, Pháp) nhiều thuộc địa và đế quốc trẻ (Đức, Mĩ, Nhật Bản) ít thuộc địa;
từ đó dẫn đến các cuộc chiến tranh giành thuộc địa đã nổ ra ở nhiều nơi vào cuối thế kỉ XIX. Thứ ba, đầu thế kỉ XX, ở châu Âu đã hình thành hai khối quân sự đối
kháng nhau, một bên là khối Liên minh năm 1882 do Đức đứng đầu, một bên là khối Hiệp ước năm 1907 được kí bởi Anh – Pháp – Nga, với âm mưu xâm lược,
cướp đoạt lãnh thổ và thuộc địa của nhau, điên cuồng chạy đua vũ trang, tích cực chuẩn bị cho chiến tranh – một cuộc chiến tranh đế quốc nhằm phân chia lại thị
trường thế giới.

Nguyên nhân trực tiếp: Ngày 28/6/1914, thái tử Áo – Hung là Franz Ferdinand bị một phần tử dân tộc chủ nghĩa người Serbia ám sát tại Sarajevo, giới
quân phiệt Đức và Áo – Hung đã lợi dụng sự kiện này để phát động cuộc chiến tranh.

Câu hỏi: Bản chất của Chiến tranh thế giới thứ nhất.

Bản chất của Chiến tranh thế giới thứ nhất là một cuộc chiến tranh đế quốc phi nghĩa nhằm giành giật thị trường và tranh giành tầm ảnh hưởng, phân chia
lại thị trường thế giới giữa các nước đế quốc. Tuy nhiên trong số đó chỉ có cuộc chiến tranh của nhân dân Serbia được xem là cuộc chiến tranh vệ quốc, nhưng vẫn
không làm thay đổi bản chất phi nghĩa của Chiến tranh thế giới thứ nhất.

Câu hỏi: Kết cục của Chiến tranh thế giới thứ nhất.
Thứ nhất, Thế chiến I đã làm hơn 10 triệu người chết và hàng chục người bị thương; các thành phố, làng mạc, cơ sở hạ tầng bị phá hủy; chi phí cho chiến
tranh là 85 tỉ đô la; để lại những vết thương tâm lý cho người dân khắp lục địa già nói riêng và thế giới nói chung . Cuộc chiến đã làm châu Âu tụt hậu và mất đi vai
trò lãnh đạo văn minh nhân loại năm giữ suốt hơn 300 năm, chuyển sang tay của Hoa Kỳ. Thứ hai, sự thay đổi rất rõ ràng trong tương quan lực lượng giữa các
cường quốc, các nước tư bản châu Âu đều chịu tổn thất về dân số, kinh tế, tài chính. Cuộc chiến đã khiến cho đế quốc Nga, Đức, Ottoman, Áo – Hung suy sụp,
Anh – Pháp tuy đều là “đế quốc già” và là các nước thắng trận nhưng cũng đều bị chiến tranh tàn phá dẫn đến những suy yếu nhất định. Nhiều nước nhỏ xuất hiện
từ sự phân rã của các đế quốc và từ sự phân chia chủ quan, quan liêu của các cường quốc thắng trận đã dẫn đến các mâu thuẫn gây mất ổn định thế giới sau này.
Bên cạnh đó, bản đồ chính trị thế giới được chia lại: Đức mất hết thuộc địa, trong khi đó, Anh – Pháp – Mỹ mở rộng thêm thuộc địa. Thứ ba, trong quá trình Chiến
tranh thế giới thứ nhất đang diễn ra, thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga đã khiến cho nước Nga Xô viết được thành lập với lập trường ủng hộ CNXH – đối
kháng với CNTB. Sự kiện này đã đã đánh dấu những bước chuyển quan trọng trong cục diện chính trị thế giới. Thứ tư, sự ra đời của hệ thống Versailles –
Washington dựa trên Hòa ước Versailles – Washington, được thành lập bởi các nước thắng trận sau Chiến tranh thế giới thứ nhất nhằm tái lập lại hòa bình, củng cố
sự phân chia thế giới cho phù hợp tương quan lực lượng mới thời hậu thế chiến. Trật tự lập ra để kết thúc chiến tranh, nhưng sự trừng phạt quá nặng nề và bất công
đối với các nước thua trận, kết hợp với xung đột lợi ích giữa các cường quốc khiến trật tự này đơn giản chỉ là một “thỏa ước ngừng bắn” với một loạt các mâu
thuẫn đi kèm. Cuối cùng, Chiến tranh thế giới thứ nhất không giải quyết được vấn đề căn bản của tình hình thế giới mà còn làm cho mâu thuẫn giữa các nước đế
quốc ngày càng trầm trọng hơn, đó chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến Chiến tranh thế giới thứ hai.

5. Cách mạng tháng Mười Nga


Câu hỏi: Tiền đề của Cách mạng tháng Mười Nga (giai đoạn trước cuộc Cách mạng tháng Hai nổ ra)

Thứ nhất, một trong những tiền đề của Cách mạng tháng Mười Nga phải kể đến tiền đề về kinh tế. Cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, tuy phát triển sau
các nước Tây Âu nhưng đế quốc Nga vẫn bước vào giai đoạn đế quốc chủ nghĩa và đạt được trình độ phát triển cao về tổ chức sản xuất công nghiệp và tốc độ phát
triển nhanh chóng của nền kinh tế quốc dân. Nhiều ngành công nghiệp quan trọng phát triển nhanh như luyện kim, khai khoáng, cơ khí, dầu khí. Các công ty độc
quyền lần lượt ra đời. Chủ nghĩa đế quốc Nga cũng bắt đầu tham gia vào việc phân chia thuộc địa thế giới. Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng nhưng muộn màng
không thủ tiêu được sự lạc hậu thế kỷ của Nga, là một nước có trình độ CNTB phát triển trung bình, nó đồng thời tồn tại các tàn tích của chế độ phong kiến nông
nô trung cổ về kinh tế cũng như chính trị. Đặc điểm của nền kinh tế Nga là sự sở hữu ruộng đất lạc hậu nhất, nông thôn hoang sơ nhất và CNTB tài chính – công
nghiệp tiên tiến nhất. Tính chất nền kinh tế nhiều thành phần đã để lại những dấu ấn trong quan hệ giai cấp và đảng phái, kìm hãm sự phát triển tiến bộ của nước
Nga. Nhưng sự phát triển của CNTB Nga diễn ra trong khi những nhiệm vụ của cách mạng dân chủ tư sản Nga chưa được giải quyết. Vì vậy bên cạnh quan hệ sản
xuất TBCN đang phát triển và đóng vai trò chủ đạo, quan hệ sản xuất phong kiến nông nô vẫn còn tồn tại khá nặng nề, chế độ phong kiến chuyên chế vẫn còn
nguyên vẹn.

Thứ hai, tiền đề thứ hai của Cách mạng tháng Mười Nga là tiền đề về chính trị - xã hội. Nước Nga vẫn là một nước quân chủ chuyên chế, toàn bộ quyền
lực chính trị trong nước là thuộc Nga hoàng. Chế độ quân chủ Nga hoàng thực chất là nền chuyên chính của bọn địa chủ - chủ nông nô. Nhân dân Nga không được
hưởng một chút quyền lợi chính trị nào, gần 90% nhân dân Nga chìm đắm trong nạn mù chữ. Quân đội được thành lập để bảo vệ Nga hoàng và bọn địa chủ, tư sản
chống lại nhân dân. Sự phát triển của CNTB ở Nga đã làm cho các mâu thuẫn giai cấp trong nước càng thêm sâu sắc: bên cạnh mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ
chưa được giải quyết lại nảy sinh thêm mâu thuẫn mới – mâu thuẫn giữa tư sản và vô sản. Tình trạng cả hai quan hệ sản xuất TBCN và phong kiến cùng tồn tại
song song, mâu thuẫn nhau đã để lại những hệ quả khá sâu sắc trong cơ cấu kinh tế, chính trị Nga. Giai cấp tư sản dựa vào quí tộc phong kiến Nga hoàng, quí tộc
phong kiến lợi dụng TBCN, lợi dụng giai cấp tư sản để duy trì quyền lợi của mình. Địa chủ phong kiến nắm trong tay nhiều ruộng đất. CNTB phát triển ở nông
thôn khiến cho giai cấp nông dân phân hóa: giai cấp phú nông xuất hiện, bần nông và cố nông tăng thêm. Địa chủ và phú nông cấu kết nhau áp bức, chèn ép nhân
dân. Nông dân nghèo lúc này phải chịu hai hình thức áp bức: địa chủ và tư sản. Quần chúng nhân dân rên xiết cùng cực, không chỉ vì sự bóc lột TBCN mà còn vì
những tàn tích của ách áp bức nông nô thời trung cổ. Đời sống người dân Nga vô cùng nghèo khổ, công nhân bị bào mòn sức lực nhanh chóng vì điều kiện làm
việc khắc khổ, nông dân bị bóc lột áp bức đủ điều. Ngoài ra, nước Nga Sa hoàng còn là nhà tù của các dân tộc. Chế độ Sa hoàng đã thi hành chính sách áp bức dân
tộc tàn khốc. Hơn 50% dân số trong nước là từ hơn 100 dân tộc lớn nhỏ không phải Nga, họ không được hưởng quyền lợi, bị khinh rẻ mọi điều, nền văn hóa các
dân tộc bị cấm đoán. Chính sách dân tộc của chính phủ Nga hoàng đã gây nên những thù hằn, xung đột giữa các dân tộc và giữa Nga hoàng với nhân dân. Những
mâu thuẫn chồng chéo, đan xen trong lòng nước Nga đã biến đây trở thành khâu yếu nhất trong hệ thống TBCN.
Thứ ba, tiền đề về tư tưởng. Chính vì tình cảnh bị áp bức bóc lột đủ điều như vậy đã khiến cho nông dân Nga trở nên rất cách mạng, gần gũi với giai cấp
vô sản và sẵn sàng đi theo giai cấp vô sản. Hơn thế nữa vì nước Nga chưa trải qua một cuộc cách mạng tư sản nào người dân Nga chưa bao giờ là đồng minh của
giai cấp tư sản. Giai cấp vô sản Nga có ý thức giác ngộ giai cấp, có tính tổ chức và tinh thần cách mạng cao. Sự phát triển của phong trào công nhân đã đẩy nhanh
việc truyền bá chủ nghĩa Marx vào nước Nga. Song song đó, Lenin cũng đã phát triển một cách sáng tạo chủ nghĩa Marx trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách
mạng vô sản. Tính tích cực của quần chúng được nâng cao rõ rệt.

Như vậy, nước Nga đã hội tụ đủ các tiền đề về kinh tế, chính trị - xã hội và tư tưởng, khách quan và chủ quan cho sự bùng nổ của hai cuộc cách mạng năm
1917.

Câu hỏi: Tại sao nói nước Nga là khâu yếu nhất trong hệ thống tư bản chủ nghĩa?

Chính những tính chất, đặc điểm của chế độ xã hội Nga đã làm cho nước Nga trở thành khâu yếu nhất trong hệ thống đế quốc chủ nghĩa. Khâu yếu đó thể
hiện ở chỗ:

Thứ nhất, nước Nga Sa hoàng là nơi tập trung cao độ các mâu thuẫn thời đại, chồng chéo lẫn nhau. Đầu thế kỉ XX, nước Nga hội tụ đầy đủ các mâu thuẫn
cơ bản của thời đại và đạt tới mức gay gắt chưa từng thấy. Đó là mâu thuẫn giữa tư sản và vô sản, giữa nông dân và địa chủ phong kiến, giữa các dân tộc bị áp bức
và chủ nghĩa đế quốc Nga, giữa nước Nga và các đế quốc khác. Tất cả những mâu thuẫn đó đan xen, chồng chéo lên nhau, thúc đẩy nhau biến nước Nga thành một
“cái ung nhọt” trầm trọng. Sự tham gia của đế quốc Nga vào chiến tranh thế giới thứ nhất càng làm cho các mâu thuẫn xã hội trở nên sâu sắc, trầm trọng, thúc đẩy
nhanh chóng sự chín muồi của những tiền đề về kinh tế, chính trị - xã hội, tư tưởng và là ngòi nổ cho hai cuộc cách mạng sau này.

Thứ hai, bộ máy thống trị của chế độ Nga hoàng bị thối ruỗng, rệu rã và lung lay khiến cho giai cấp thống trị không thể thống trị như cũ được nữa. Đặc biệt
từ năm 1914, nước Nga tham gia cuộc chiến tranh đế quốc phi nghĩa và liên tiếp thất bại trên chiến trường đã khiến cho đất nước rơi vào tình trạng khủng hoảng
trầm trọng. Chính phủ Nga hoàng khủng hoảng, nội bộ rạn nứt. Khái niệm “nhà tù của các dân tộc” là một trong những mâu thuẫn thời đại khiến cho nước Nga trở
thành mắt xích yếu nhất trong hệ thống TBCN. Sa hoàng Nga áp bức và thống trị các dân tộc khác, ở nước Nga chiếm hơn 50% dân tộc không thuộc sắc tộc Nga.
Chính sự cai trị hà khắc của Nga hoàng là một trong những nguyên nhân đưa đến mâu thuẫn về mặt sắc tộc rõ ràng, khiến cho nước Nga trở thành nhà tù của các
dân tộc.

Thứ ba, nỗi cùng khổ và quẫn bách của giai cấp bị áp bức trở nên nặng nề hơn mức bình thường. Các giai cấp bị bóc lột cũng không muốn sống như cũ nữa,
họ sẵn sàng nổi dậy đấu tranh chống lại ách thống trị. Các cuôc đấu tranh đòi quyền dân chủ của nhân dân nổ ra khắp nơi trên nước Nga rộng lớn. Tính tích cực của
quần chúng được nâng cao rõ rệt.

Tất cả đã biến nước Nga trở thành khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền chủ nghĩa đế quốc mà cách mạng XHCN có thể chọc thủng.

Câu hỏi: Cách mạng tháng Hai tác động như thế nào đến Cách mạng tháng Mười Nga?

Cách mạng tháng Hai đã có những tác động nhất định đến Cách mạng tháng Mười, được biểu hiện qua:

Cuộc Cách mạng dân chủ tư sản tháng Hai năm 1917 thắng lợi đã trở thành một sự kiện có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với nước Nga, thực hiện được nhiệm
vụ của một cuộc cách mạng tư sản – lật đổ chế độ phong kiến Nga hoàng, đem lại quyền tự do dân chủ cho nhân dân. Nước Nga trở thành một nước cộng hòa dân
chủ. Cách mạng tháng Hai chính là tiền đề để Cách mạng tháng Mười kế thừa thành quả, giải quyết tiếp nhiệm vụ của một cuộc cách mạng XHCN – lật đổ Chính
phủ lâm thời tư sản.

Sau Cách mạng tháng Hai thành công, một tình hình chính trị phức tạp chưa từng có đã diễn ra tại Nga. Đó là tình trạng “hai chính quyền song song tồn tại”:
Chính phủ tư sản lâm thời và Xô viết đại biểu công nhân, nông dân và binh lính. Hai chính quyền này đại diện cho lợi ích của các giai cấp khác nhau nên không thể
cùng tồn tại lâu dài và xung đột là điều không thể tránh khỏi. Hơn thế nữa, Chính phủ tư sản lâm thời không giải quyết những vấn đề cấp bách nhân dân Nga mong
muốn như vấn đề ruộng đất, vấn đề về việc ban hành luật làm việc 8 giờ,... mà vẫn tiếp tục cuộc chiến tranh đế quốc phi nghĩa. Cuộc cách mạng thứ hai – Cách
mạng tháng Mười Nga nổ ra với mục đích hợp nhất chính quyền, giúp đất nước được thống nhất trong đường lối điều hành. Cách mạng tháng Mười Nga do Lenin
và Đảng Bolshevik lãnh đạo đã lật đổ chính phủ lâm thời tư sản, giành chính quyền hoàn toàn về tay giai cấp vô sản, chính thức đưa nước Nga bước vào thời kì
cách mạng XHCN. Chính những hạn chế mà Cách mạng tháng Hai để lại đã trở thành động lực thúc đẩy Cách mạng tháng Mười Nga bùng nổ. Cách mạng tháng
Mười bùng nổ là một hệ quả tất yếu của thời đại.

Câu hỏi: Ý nghĩa thời đại của Cách mạng tháng Mười Nga.

Ý nghĩa thời đại đầu tiên của Cách mạng tháng Mười Nga đó là: lần đầu tiên trong lịch sử, nhân loại nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức đứng lên
làm chủ đất nước, xây dựng được một chế độ hướng tới một xã hội không bóc lột. Chế độ cai trị, bóc lột hà khắc của Nga hoàng là một trong những nguyên nhân
cốt lõi nhất khiến nước Nga là khâu yếu nhất trong hệ thống TBCN. Chế độ Nga hoàng tồn tại rất vững chắc, tưởng chừng như đây là bức tường thành không thể
phá vỡ thế nhưng Đảng Bolshevik và Lênin đã tiến hành được một cuộc cách mạng lật đổ được chế độ Nga hoàng, để hướng tới một xã hội mà nhân dân có thể làm
chủ đất nước. Cách mạng đã làm thay đổi hoàn toàn tình hình đất nước và số phận hàng triệu con người. Mở ra một kỉ nguyên mới cho lịch sử nước Nga: giai cấp
công nhân, nông dân lao động và các dân tộc được giải phóng khỏi mọi ách áp bức, bóc lột, đứng lên làm chủ đất nước và vận mệnh của mình.

Thứ hai, Cách mạng tháng Mười Nga đã đập tan hệ thống CNTB ở mắt xích yếu nhất của nó, phá vỡ thế độc quyền của hệ thống TBCN. CNTB đã được
xác lập sau các cuộc cách mạng tư sản mở đầu là cuộc cách mạng tư sản Hà Lan 1566, sau đó là cách mạng tư sản Anh, cách mạng tư sản Pháp,... các cuộc cách
mạng về sau này càng mở rộng thêm sự tồn tại và phát triển của CNTB. Cho đến khi Cách mạng tháng Mười Nga ra đời, CNTB đã tồn tại được 300 năm, tồn tại
trong khoảng thời gian dài với tư cách là hệ thống chính trị duy nhất ở thời điểm đó. Khi nước Nga Xô viết ra đời sau thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga đã
hình thành nên một hệ thống chính trị đối lập lại với CNTB, đó là CNXH. Theo quan điểm của chủ nghĩa Marx – Lenin: theo các quy luật phát triển đi lên của các
hình thái kinh tế xã hội, CNXH được xem là hình thái phát triển cao hơn so với CNTB. Đây là sự phủ định lại CNTB, tạo nên 2 hệ thống xã hội đối kháng nhau,
song song tồn tại sau chiến tranh thế giới thứ hai, gây nên sự phân chia nhất định về mặt hệ thống xã hội. CNTB đã bị đập tan chính ở mắt xích yếu nhất của nó:
trong lòng nước Nga.

Thứ ba, Cách mạng tháng Mười Nga đã phá tan “nhà tù của các dân tộc”, mở đường thức tỉnh và cổ vũ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước
thuộc địa Á, Phi và Mỹ Latinh. Khái niệm “nhà tù của các dân tộc” là một trong những mâu thuẫn thời đại khiến cho nước Nga trở thành mắt xích yếu nhất trong
hệ thống TBCN. Sa hoàng Nga áp bức và thống trị các dân tộc khác, ở nước Nga chiếm hơn 50% dân tộc không thuộc sắc tộc Nga. Chính sự cai trị hà khắc của
Nga hoàng là một trong những nguyên nhân đưa đến mâu thuẫn về mặt sắc tộc rõ ràng, khiến cho nước Nga trở thành nhà tù của các dân tộc. Thắng lợi của phong
trào cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở một loạt nước, như: Ba Lan, Bun-ga-ri, Cộng hòa Dân chủ Đức, Hung-ga-ri, Tiệp Khắc, An-
ba-ni, Mông Cổ, Triều Tiên, Cu Ba và Việt Nam đã tạo nên những tiền đề thực tế cho sự ra đời của một hệ thống xã hội mà trước đó chưa từng tồn tại trong lịch sử.

Thứ tư, thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga đã đóng góp rất lớn về mặt tư tưởng cho chủ nghĩa Marx – Lenin và khẳng định sự thắng lợi của chủ
nghĩa Marx – Lenin trước những trào lưu tư tưởng xét lại trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, cung cấp nhiều bài học kinh nghiệm cho phong trào
cách mạng thế giới, cổ vũ phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân trong lòng các nước tư bản. Cách mạng tháng Mười Nga thắng lợi chính là sự cụ thể hóa,
thực tiễn hóa những giá trị của chủ nghĩa Marx – Lenin.

Thứ năm, Cách mạng tháng Mười Nga nổ ra thắng lợi năm 1917 đã khai sinh ra nhà nước XHCN đầu tiên trên thế giới, đánh dấu sự ra đời của CNXH
hiện thực. Đây là một bước đột phá vĩ đại mở ra một thời đại mới – thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.

6. Chiến tranh thế giới thứ hai


Câu hỏi: Nguyên nhân dẫn đến sự bùng nổ của Chiến tranh thế giới thứ hai.

Nguyên nhân đầu tiên dẫn đến CTTGT2 là do tác động từ những mâu thuẫn trong Hòa ước Versailles – Washington. Hệ thống Versailles – Washington
được thiết lập dựa trên Hòa ước Versailles – Washington được kí lần lượt vào năm 1919, 1920 với vai trò ban đầu là kết thúc CTTGT1 giữa nước Đức và các quốc
gia thuộc phe Hòa ước. Hiệp ước này đặt ra những điều khoản khắc khe đối với nước Đức bại trận. Theo đó, gần như tất cả thuộc địa đều được chia cho ba nước
thuộc phe Hiệp ước, còn Đức và các nước bại trận khác bị tước hết thuộc địa, thậm chí một phần lãnh thổ cũng bị cắt đi và trở thành thuộc địa của các nước thắng.
Ngoài ra, Đức còn phải bồi thường các khoản nợ cho các nước thắng trận khiến cho Đức rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Như vậy, sau CTTGT1 mâu thuẫn về
thuộc địa, thị trường, quyền lợi vẫn chưa được giải quyết mà còn tiếp tục nảy sinh giữa các nước đế quốc. Bên cạnh đó, nguyên nhân còn là do tác động của quy
luật phát triển không đồng đều về chính trị và kinh tế giữa các quốc gia tư bản trong thời đại đế quốc chủ nghĩa.
Thêm vào đó, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 - 1933 đã làm cho những mâu thuẫn trở nên sâu sắc hơn. Năm 1929, một cuộc khủng hoảng bắt
đầu từ lĩnh vực chứng khoán - tài chính ở Mỹ đã bùng nổ và lan rộng ra toàn thế giới và ảnh hưởng lên nhiều quốc gia trên thế giới. Đứng trước cuộc khủng hoảng,
nhiều nền kinh tế đã rơi vào vực thẳm. Ở Đức, tình hình kinh tế vốn đã suy sụp (lạm phát, thất nghiệp...) nhưng cuộc đại khủng hoảng đã khiến cho Đức ngày càng
khốn đốn, người dân càng mất niềm tin vào chính phủ. Các nước tư bản cũng không đứng ngoài cuộc khủng hoảng, nền kinh tế lao dốc khiến cho tình hình chính
trị - xã hội gặp những vấn đề nghiêm trọng. Trong khi Anh – Pháp – Mỹ tiến hành những cải cách kinh tế xã hội theo hướng dân chủ để khắc phục hậu quả, nhằm
thoát khỏi khủng hoảng, thì Đức – Ý – Nhật lại chủ trương phát xít hóa, bành trướng lãnh thổ, đi xâm chiếm các thuộc địa để cứu vãn tình trạng khủng hoảng trong
nước. Chủ nghĩa phát xít lên nắm quyền cho thấy nguy cơ của một cuộc chiến tranh mới.

Tuy thấy được nguy cơ chiến tranh, nhưng các cường quốc phương Tây không có những hành động ngăn chặn. Mà ngược lại họ thực hiện những chính
sách nhu nhược, dung túng, nhượng bộ phát xít nhằm hướng mũi nhọn chiến tranh về phía Liên Xô, mượn tay PX để lật đổ chế độ CNXH đang tồn tại ở LX.
Nguyên nhân là do sự bùng nổ sự đối kháng giữa hai ý thức hệ song song tồn tại, Liên Xô dần trở thành cái gai trong mắt CNTB. Vào giai đoạn này, giữa các quốc
gia hình thành hai khối liên minh đối nghịch nhau: Anh – Pháp – Mĩ và Đức – Italia – Nhật Bản. Hai khối này mâu thuẫn gay gắt với nhau về thuộc địa, thị trường
nhưng cả hai đều xem Liên Xô là kẻ thù chung. Dựa vào những chính sách thỏa hiệp, nhượng bộ của liên minh Anh – Pháp – Mỹ, phát xít Đức – Italia – Nhật Bản
đã dễ dàng hơn trong việc bành trướng quy mô, chuẩn bị cho cuộc chiến tranh sắp diễn ra để phân chia lại thế giới.

Câu hỏi: Tính chất của Chiến tranh thế giới thứ hai

Là cuộc chiến tranh giữa các nước đế quốc nhằm tranh giành quyền lợi, nhưng việc Liên Xô tham chiến và sự ra đời của khối Đồng minh chống phát xít
đã làm cho tính chất của cuộc chiến thay đổi, trở thành cuộc chiến tranh chống lại chủ nghĩa phát xít, bảo vệ hòa bình nhân loại.

Câu hỏi: Kết cục của Chiến tranh thế giới thứ hai.

Chiến tranh thế giới thứ hai là cuộc chiến tranh lớn nhất, khốc liệt nhất và tàn phá nặng nề nhất trong lịch sử loài người. Tội phạm gây nên chiến tranh là
chủ nghĩa phát xít Đức – Italia – Nhật Bản đã sụp đổ hoàn toàn. Thắng lợi vĩ đại thuộc về các dân tộc trên thế giới – những người đã kiên cường chiến đấu chống
phát xít. Trong đó, ba cường quốc Liên Xô, Mĩ, Anh là lực lượng trụ cột, giữ vai trò quyết định trong việc tiêu diệt chủ nghĩa phát xít. Thứ hai, chiến tranh thế giới
thứ hai đã gây ra những hậu quả và tổn thất nặng nề nhất trong lịch sử nhân loại với 60 triệu người chết, 90 triệu người bị thương, thiệt hại về vật chất là 4000 tỷ đô
la. Thứ ba, thế chiến thứ hai làm biến đổi căn bản của tình hình thế giới, mở ra một giai đoạn mới trong lịch sử thế giới hiện đại. Nói chiến tranh thế giới thứ hai
làm thay đổi căn bản tình hình thế giới là do những biểu hiện sau đây: một, tổ chức Liên Hợp Quốc ra đời, thay thế vai trò của Hội quốc liên, thúc đẩy hợp tác quốc
tế và ngăn chặn các cuộc xung đột trong tương lai; hai, Liên Xô và Hoa Kỳ nổi lên như hai siêu cường đối trọng nhau, tạo tiền đề cho chiến tranh lạnh kéo dài gần
nửa thế kỉ; ba, sau chiến tranh Châu Âu bị tàn phá nặng nề khiến các đế quốc tư bản suy yếu, tạo điều kiện cho quá trình phi thực dân hóa ở châu Á và châu Phi
phát triển; bốn, hầu hết các quốc gia đều hướng tới việc khôi phục và mở rộng kinh tế sau chiến tranh và sự hội nhập chính trị vốn được khởi đầu như một nỗ lực
ngăn chặn các hành động thù địch trong tương lai đã chấm dứt những mâu thuẫn trước chiến tranh và rèn luyện ý thức về bản sắc chung. Thứ tư, sự phát triển mạnh
mẽ của phong trào giải phóng dân tộc trên khắp thế giới.

1. Kết quả (hậu quả):

Chiến tranh Thế giới thứ hai (1939-1945) là một cuộc chiến có nhiều tác động nghiêm trọng với toàn thế giới, không chỉ về mặt quân sự mà còn về mặt chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội và cả nhân đạo.

- Thiệt hại về nhân mạng: Trong chiến tranh Thế giới thứ hai, hơn 50 triệu người đã thiệt mạng, bao gồm cả dân thường và binh lính. Hơn 190 triệu người bị
thương và khoảng 20 triệu người mất tích. Trong số những người thiệt mạng có hàng chục Millionen người từ 6 đến 27 tuổi. Hơn 15 triệu người đã chết ở châu Âu
trong cuộc chiến.

- Thiệt hại về tài sản: Các thành phố, thị trấn và làng mạc đã bị tàn phá nặng nề trong cuộc chiến. Đơn cử như tại Ba Lan, 90% các thành phố bị phá hủy. Ở Đức,
20 thành phố lớn đã bị phá hủy, trong khi ở Liên Xô (Nga) có hơn 1.900 thành phố và 27.000 làng mạc bị phá hủy.
- Thiệt hại về kinh tế: Cả hai phe Đồng Minh và Phe Trục đều hứng chịu tổn thương kinh tế khi chiến tranh nổ ra. Các hoạt động sản xuất và thương mại toàn cầu
đã giảm mạnh, gây ra suy thoái, lạm phát và thiếu hụt ngân sách nghiêm trọng.

- Thiệt hại về xã hội: Trong chiến tranh Thế giới thứ hai, nhiều gia đình đã bị chia cắt và nhiều người không biết tin tức về người thân của họ. Các nhóm thiểu số
như người Do Thái, người Roma và người khiếm khuyết đều bị phân biệt đối xử và bị hành quyết một cách hàng loạt. Hàng triệu người đã trở thành tị nạn, và
nhiều người phải rời bỏ đất nước để đi tìm nơi ở mới.

- Thiệt hại về chính trị và lãnh thổ: Cuộc chiến cũng đã dẫn đến sự tan vỡ của các vùng lãnh thổ và thay đổi hoàn toàn các ranh giới chính trị. Hàng triệu người đã
phải di dời để tìm kiếm nơi ở mới. Hàng triệu người đã từ nhà riêng của họ bị trục xuất, bắt cóc, lưu đày và bị giết.

- Thiệt hại về văn hóa: Trong cuộc chiến Thế giới thứ hai, nhiều di tích lịch sử, nghệ thuật và văn hóa đã bị phá hủy. Hàng trăm bảo tàng, thư viện và nhà hát đã bị
phá hủy, và hàng trăm hàng nghìn công trình kiến trúc đã bị phá hủy.

2. Tác động

- Sự hình thành của hai cực

Chiến tranh thế giới thứ hai đã dẫn đến sự hình thành của hai cực quyền lực ở châu Âu: Hoa Kỳ và Liên Xô. Hai nước này đã trở thành hai cường quốc hàng đầu
thế giới và đã cạnh tranh với nhau trong suốt thời kỳ Chiến tranh Lạnh (1947-1991).

Chiến tranh thế giới thứ hai đã cho thấy sự thất bại của hệ thống hòa bình của các cường quốc. Để ngăn chặn một cuộc chiến tranh thế giới khác, các cường quốc
đã thành lập Liên Hợp Quốc (LHQ) vào năm 1945. LHQ là một tổ chức quốc tế nhằm duy trì hòa bình và an ninh thế giới.

Chiến tranh thế giới thứ hai đã dẫn đến sự phát triển của chủ nghĩa dân tộc ở nhiều nước trên thế giới. Các dân tộc bị áp bức đã đấu tranh giành độc lập và thành lập
các quốc gia mới.

Chiến tranh thế giới thứ hai đã chứng kiến sự ra đời của vũ khí hạt nhân. Vũ khí hạt nhân là một loại vũ khí hủy diệt có thể gây ra thiệt hại to lớn. Sự phát triển của
vũ khí hạt nhân đã làm gia tăng căng thẳng giữa các cường quốc và khiến thế giới đứng trước nguy cơ hủy diệt.

- Sự thành lập của Liên Hợp Quốc

Chiến tranh thế giới thứ hai đã cho thấy sự thất bại của hệ thống hòa bình của các cường quốc. Để ngăn chặn một cuộc chiến tranh thế giới khác, các cường quốc
đã thành lập Liên Hợp Quốc (LHQ) vào năm 1945.
LHQ là một tổ chức quốc tế nhằm duy trì hòa bình và an ninh thế giới. LHQ có 193 thành viên và có trụ sở chính tại thành phố New York, Hoa Kỳ.
LHQ đã đóng một vai trò quan trọng trong việc duy trì hòa bình và an ninh thế giới. LHQ đã giải quyết nhiều cuộc xung đột quốc tế và đã giúp đỡ nhiều quốc gia
đang phát triển.

- Sự phát triển của chủ nghĩa dân tộc

Chiến tranh thế giới thứ hai đã dẫn đến sự phát triển của chủ nghĩa dân tộc ở nhiều nước trên thế giới. Các dân tộc bị áp bức đã đấu tranh giành độc lập và thành lập
các quốc gia mới.

Trước Chiến tranh thế giới thứ hai, nhiều nước trên thế giới vẫn là thuộc địa của các cường quốc. Chiến tranh thế giới thứ hai đã làm suy yếu các cường quốc đế
quốc và đã tạo điều kiện cho các dân tộc thuộc địa đấu tranh giành độc lập.

Nhiều quốc gia ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh đã giành được độc lập sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Sự phát triển của chủ nghĩa dân tộc đã làm thay đổi
bản đồ chính trị thế giới.

- Sự phát triển của vũ khí hạt nhân


Chiến tranh thế giới thứ hai đã chứng kiến sự ra đời của vũ khí hạt nhân. Vũ khí hạt nhân là một loại vũ khí hủy diệt có thể gây ra thiệt hại to lớn.

Sự phát triển của vũ khí hạt nhân đã làm gia tăng căng thẳng giữa các cường quốc và khiến thế giới đứng trước nguy cơ hủy diệt.

Ý NGHĨA

1. Đối với thế giới:

Chiến thắng vĩ đại của nhân dân Liên Xô và nhân dân các nước đồng minh chống chủ nghĩa phát-xít trong Chiến tranh thế giới lần 2 có ý nghĩa lịch sử vô cùng sâu
sắc, ảnh hưởng rất lớn đến cục diện châu Âu và thế giới hiện đại:

- Tạo thời cơ vàng cho làn sóng cách mạng và phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới. Các dân tộc bị áp bức vùng lên mạnh mẽ giành độc lập, tự do và
quyền tự quyết định vận mệnh của mình.

- Làm lung lay, sụp đổ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, thực dân tại châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh.

- Từ thảm họa của Chiến tranh thế giới lần 2, loài người nói chung và nhân dân yêu chuộng hòa bình nói riêng càng có trách nhiệm to lớn đối với việc gìn giữ nền
hòa bình thế giới.

- Thắng lợi của Chiến tranh thế giới lần thứ hai, ở một mức độ nhất định, đã rửa sạch lớp bùn nhơ vẩn đục của chủ nghĩa phát-xít gây ra, làm cho nền dân chủ, nhân
quyền thế giới có được bước phát triển mới; đồng thời, làm cho chế độ tư bản chủ nghĩa thoát ra được khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội vốn đã lún sâu trong
nửa phần đầu của thế kỷ XX.

- Thắng lợi này đã phá vỡ tình trạng lấy châu Âu làm trung tâm trong mối quan hệ quốc tế đã được hình thành từ thời cận hiện đại. Sau khi địa vị trung tâm của
châu Âu bị phá vỡ, Liên Xô và Mỹ đã phát triển nhanh chóng, trở thành hai cường quốc trên thế giới, tạo thành tình thế hai cực đối lập nhau trong Chiến tranh
lạnh.

- Với thắng lợi của Chiến tranh thế giới lần 2, Liên Xô không những đã cứu loài người thoát khỏi thảm họa bị diệt vong của chủ nghĩa phát-xít mà còn phát triển
nhanh chóng, trở thành thành trì vững chắc của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa.

2. Đối với Việt Nam:

- Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ đã làm nên Cách mạng tháng 8 thành công, lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - nhà nước công nông
đầu tiên ở Đông Nam Á, mở ra một chặng đường lịch sử mới đầy tự hào và vẻ vang.

- Đưa dân tộc Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới: kỷ nguyên độc lập, tự do, nhân dân làm chủ đất nước, đi lên chủ nghĩa xã hội.

7. Ba cuộc cách mạng công nghiệp


Câu hỏi: Làm rõ “Cách mạng công nghiệp” là gì?

Cách mạng công nghiệp là cuộc cách mạng trong lĩnh vực sản xuất và là sự thay đổi cơ bản các điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa và kĩ thuật. Cách mạng
công nghiệp khiến cho lực lượng sản xuất phát triển nhanh, mạnh mẽ tạo ra một lượng của cải, vật chất lớn cho xã hội.

Câu hỏi: Lí giải tại sao cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất lại khởi đầu ở nước Anh?

Về mặt tự nhiên, Anh là một quốc gia sở hữu nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú có nhiều mỏ than, sắt và các mỏ này lại nằm gần nhau, điều này
rất thuận lợi về mặt kinh tế khi khởi đầu cuộc cách mạng công nghiệp. Các dòng sông ở Anh tuy không dài nhưng sức chảy khá mạnh, đủ để chạy các máy vận
hành bằng sức nước. Hải cảng Anh thuận lợi để đưa hàng hóa đi khắp thế giới. Về nguyên liệu, Anh có thuận lợi là nguồn lông cừu trong nước và bông nhập từ
Mỹ, đó là những nguyên liệu cần thiết cho ngành dệt may len dạ.
Về mặt kinh tế, các cuộc phát kiến địa lí đã giúp các quốc gia kết nối với nhau nhờ đó quá trình giao thương giữa các quốc gia ngày càng phát triển
mạnh, nhờ đó mà giao thương giữa Anh và các nước ngoại quốc ngày càng trở nên tăng lên và giao thương giữa Anh với một hệ thống thuộc địa dày đặc của mình
cũng phát triển hơn. Có một hệ thống thuộc địa dày đặc dựa trên những cuộc phát kiến địa lí là một trong những lợi thế lớn nhất của nước Anh trong giai đoạn này
để tiến hành cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất và tạo điều kiện cho quá trình tích lũy vốn để phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa. Anh quốc có thể bóc lột tài
nguyên từ các thuộc địa rộng lớn để làm nguồn vốn cho công nghiệp hóa, tiêu biểu là Ấn Độ.

Ngoài ra, cuộc Cách mạng Nông nghiệp ở Anh đã tác động đến sự hình thành của Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất. Nhiều nhà sử học coi Cách
mạng Nông nghiệp là nguyên nhân chính của Cách mạng Công nghiệp, đặc biệt là về thời điểm và cách thức nó bắt đầu. Cuộc Cách mạng Công nghiệp bắt đầu
một phần do sự gia tăng sản xuất lương thực, đó là kết quả chính của cuộc Cách mạng Nông nghiệp. Cách mạng nông nghiệp ở Anh đã mở đường cho cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ nhất, nó là cơ sở của quá trình tích lũy nguyên thủy bao gồm sự chuyển biến căn bản trong chế độ ruộng đất khiến cho lực lượng lao
động và thị trường ở Anh có sự thay đổi.

Về mặt chính trị, vào những năm 1700 Anh có nền chính trị tương đối ổn định sau khi trải qua cuộc nội chiến và cách mạng trong những thập kỉ trước
đó, tiêu biểu như cuộc “Cách mạng Vinh Quang”, cách mạng tư sản Anh để nền kinh tế nước Anh có động lực phát triển. Song song đó, chính phủ Anh cũng cởi
mở với những ý tưởng của CNTB, điều này là cần thiết cho công nghiệp hóa diễn ra. Đồng thời, chính phủ Anh ủng hộ các khía cạnh khác của CNTB, giúp các
doanh nhân tạo ra sự giàu có bằng cách sở hữu và vận hành các nhà máy và hầm mỏ. Như vậy, bầu không khí chính trị đã tạo ra một hệ thống các công ty được
thành lập bởi những doanh nhân.

Về mặt xã hội, giai cấp quý tộc Anh sớm tham gia vào việc kinh doanh và họ trở thành tầng lớp quý tộc mới, có quyền lợi gắn liền với tư sản, có cách
nhìn của tư sản. Nhu cầu về lông cừu dẫn tới phong trào đuổi những người nông dân ra khỏi ruộng đất để các nhà quý tộc biến đất đai đó thành đồng cỏ nuôi cừu.
Lực lượng nông dân bị dồn đuổi ra khỏi ruộng đất đã cung cấp một lượng lớn lao động cho các công trường thủ công ở các thành thị. Bên cạnh đó, Anh còn có
nguồn lực con người với các nhà phát minh tiên phong đều là những người Anh.

Như vậy, những thuận lợi trên các bình diện tự nhiên, chính trị, xã hội, kinh tế đã biến Anh trở thành nơi khởi đầu cho cuộc Cách mạng công nghiệp lần
thứ nhất. Anh đã xác lập được vị thế của mình sau thời kì cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, trở thành “công xưởng thế giới”.

Câu hỏi: Lí giải tại sao khởi đầu ở ngành công nghiệp nhẹ như dệt may len dạ?

Ở Anh có nhiều điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của ngành công nghiệp nhẹ như dệt may len dạ. Đầu tiên là về nguyên liệu, Anh có thuận lợi là
nguồn lông cừu trong nước và bông nhập từ Mỹ, đó là những nguyên liệu cần thiết cho ngành dệt may len dạ. Các dòng sông ở Anh tuy không dài nhưng sức chảy
khá mạnh, đủ để chạy các máy vận hành bằng sức nước. Hải cảnh Anh thuận lợi để đưa hàng hóa đi khắp thế giới. Thứ hai, về mặt xã hội, giai cấp quý tộc Anh
sớm tham gia vào việc kinh doanh và họ trở thành tầng lớp quý tộc mới, có quyền lợi gắn liền với tư sản, có cách nhìn của tư sản. Nhu cầu về lông cừu dẫn tới
phong trào đuổi những người nông dân ra khỏi ruộng đất để các nhà quý tộc biến đất đai đó thành đồng cỏ nuôi cừu. Lực lượng nông dân bị dồn đuổi ra khỏi ruộng
đất đã cung cấp một lượng lớn lao động cho các công trường thủ công ở các thành thị. Thứ ba, ngành công nghiệp nhẹ như dệt may len dạ phát triển hơn ở Anh so
với các ngành công nghiệp khác vì ngành công nghiệp dệt may có vốn đầu tư ban đầu ít, thu hồi vốn nhanh, kiếm được nhiều lãi, không cần lao động có kĩ thuật
cao. Đặc điểm này rất phù hợp với các nước đang phát triển, có nguồn lao động dồi dào giá nhân công rẻ. Phát triển các ngành công nghiệp dệt may len dạ vừa
phục vụ nhu cầu trong nước và vừa để xuất khẩu thu ngoại tệ. Minh chứng là sản xuất công nghiệp Anh thời kì giữa thế kỉ XVIII đến giữa thế kỉ XIX có sự phát
triển nhanh chóng, của cải ngày càng dồi dào.

Câu hỏi: Điều kiện ra đời của cuộc Cách mạng công nghiệp thứ nhất

Điều kiện đầu tiên dẫn đến sự ra đời của Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất là do truyền thống thủ công nghiệp – thương nghiệp của các nước Tây Âu,
đặc biệt là Anh. Từ cuối thế kỉ XI, thủ công nghiệp phát triển, hàng hóa sản xuất ra ngày càng nhiều đã thúc đẩy nhu cầu trao đổi, dẫn đến sự hình thành của
thương nghiệp. Dần dần, thủ công nghiệp và thương nghiệp đã trở thành ngành kinh tế chủ yếu ở các thành thị châu Âu thời kì trung đại, tạo nên một truyền thống
kéo dài từ thời trung đại đến khi cách mạng công nghiệp lần thứ nhất bùng nổ.
Thứ hai, những kết quả của công cuộc phát kiến địa lí là một trong những điều kiện ra đời của Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất. Các cuộc phát kiến
địa lí đã tạo tiền đề cho sự phát triển, giao lưu, tiếp xúc giữa các quốc gia, các châu lục, giao lưu kinh tế - văn hóa Đông – Tây; tìm ra những vùng đất mới, mở
rộng phạm vi sinh sống, buôn bán và phát triển khoa học. Bên cạnh đó, kết quả quan trọng nhất của công cuộc phát kiến địa lí là thúc đẩy thương mại phát triển:
chuyển trung tâm thương mại từ Địa Trung Hải sang Đại Tây Dương, xuất hiện những quốc gia phát triển mới bên bờ Đại Tây Dương, tạo động lực thúc đẩy kinh
tế phát triển theo hướng TBCN.

Sự ra đời của CNTB và thắng lợi của phong trào cách mạng tư sản là điều kiện ra đời tiếp theo của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất. Kinh tế
hàng hóa TBCN có điều kiện phát triển mạnh mẽ, không còn bị kiềm hãm bởi chế độ phong kiến, tạo tiền đề cho cách mạng công nghiệp và tiếp đó, những thành
tựu của cách mạng công nghiệp lại khẳng định lại cho sự thắng thế hoàn toàn của CNTB trước chủ nghĩa phong kiến.

Câu hỏi: Bối cảnh ra đời của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ ba

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ ba diễn ra từ những năm 40 đến những năm 90 của thế kỉ XX bởi những bối cảnh sau: thứ nhất, do những đòi hỏi
của cuộc sống, sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu vật chất, tinh thần ngày càng cao của con người trong tình hình bùng nổ dân số thế giới và tài nguyên thiên nhiên
dần vơi cạn. Thứ hai, do nhu cầu khắc phục hậu quả nặng nề mà chiến tranh thế giới gây ra và khôi phục kinh tế của các quốc gia. Thứ ba, sau chiến tranh thế giới
thứ hai, phong trào giải phóng dân tộc dâng cao và thành công ở nhiều nước, dẫn tới sự thành lập của các quốc gia độc lập. Nhu cầu phát triển đất nước, phục hồi
quốc gia của những quốc gia độc lập mới ra đời này là một trong những tiền đề của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ ba. Thứ tư, sự hình thành hai cực Ianta
tạo nên cục diện Chiến tranh lạnh đã gây ra cuộc chạy đua, cạnh tranh gay gắt giữa hai hệ thống xã hội đối lập nhau – một bên là hệ thống các quốc gia theo XNCH
do Liên Xô đứng đầu với một bên là hệ thống các quốc gia thep TBCN do Mỹ đứng đầu. Thứ năm, do nước Mỹ không bị chiến tranh tàn phá, hủy hoại nhiều như
các nước châu Âu hay Nhật Bản cộng với các chính sách hợp lý đã biến quốc gia này trở thành nơi thu hút, tập trung nhiều nhà khoa học tài giỏi, đồng thời có điều
kiện thực hiện một cuộc cách mạng công nghiệp. Do đó, Mỹ là nơi xuất phát cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ ba và đạt được nhiều thành tựu nhất.

Câu hỏi: Bản chất của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất (dựa trên 4 từ khóa...)

Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất là thời kỳ mà hầu hết nông nghiệp, xã hội nông thôn đã trở thành công nghiệp và đô thị. Ngành công nghiệp sắt
và dệt, cùng với sự phát triển của động cơ hơi nước, đóng vai trò trung tâm trong Cách mạng Công nghiệp.

Bản chất của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất – thời đại “máy hơi nước” là quá trình chuyển biến từ nền sản xuất nhỏ thủ công sang sản xuất
lớn bằng máy móc, thực hiện cơ giới hóa sản xuất bằng việc sử dụng năng lượng nước và hơi nước. Sức lao động của con người dần được thay thế bằng sức lao
động của máy móc. Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất mở đầu từ ngành dệt ở Anh, sau đó lan tỏa sang nhiều ngành sản xuất khác và tới nhiều nước khác, trước
hết là Mỹ, các nước châu Âu và Nhật Bản. Trước đây, nền sản xuất hàng hóa trong ngành dệt ban đầu dựa trên vào thủ công giản đơn, quy mô nhỏ, lao động chân
tay, tuy nhiên khi cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra ngành dệt may len dạ nói riêng và các ngành công nghiệp nói chung đã chuyển sang sử dụng các phương
tiện cơ khí và máy móc trên qui mô lớn nhờ áp dụng các sáng chế kĩ thuật trong sản xuất công nghiệp. Về thực chất, đây là cuộc cách mạng của CNTB nhằm tạo ra
một năng suất lao động cao hơn, củng cố nền tảng của chế độ mới. Những phát minh quan trọng tạo tiền đề cho cuộc cách mạng này như sự ra đời của tàu hỏa, tàu
thủy, máy hơi nước, máy dệt vải,...

Câu hỏi: Bản chất của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ hai (dựa trên 4 từ khóa...)

Cách mạng công nghiệp lần thứ hai là cuộc cách mạng điện khí hóa, là giai đoạn tăng trưởng của các ngành công nghiệp đã có từ trước và mở rộng
các ngành mới, như thép, dầu, điện, và sử dụng điện để sản xuất hàng loạt. Các tiến bộ kỹ thuật chủ yếu trong giai đoạn này bao gồm điện thoại, bóng đèn, đĩa hát
và động cơ đốt trong,..., sau này đưa đến tự động hóa.

Bản chất của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ hai – thời đại “điện khí hóa” là sử dụng năng lượng điện và động cơ điện, chuyển nền sản xuất cơ khí
sang nền sản xuất điện – cơ khí và giai đoạn tự động hóa cục bộ trong sản xuất. Đồng thời, việc sử dụng năng lượng điện và sự ra đời của dây chuyền lắp ráp đã
khiến cho hoạt động sản xuất được diễn ra trên quy mô lớn, sản xuất hàng loạt. Cách mạng công nghiệp lần thứ hai được đánh dấu bằng những thành tựu to lớn như
động cơ đốt trong, điện thoại, ô tô, đèn sợi đốt, bóng đèn,... ảnh hướng đến quá trình tự động hóa sau này. Bên cạnh đó, còn có sự phát triển của các ngành vận tải,
sản xuất thép, điện, hóa học, đặc biệt là sản xuất hàng tiêu dùng. Cuộc cách mạng này đã tạo dựng tiền đề và cơ sở để nền công nghiệp ngày càng phát triển hơn,
mở ra kỉ nguyên sản xuất hàng loạt, lan rộng ra nhiều nước. Ngoài ra, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai đã tạo ra những tiền đề thắng lợi cho CNXH có quy
mô thế giới.

Câu hỏi: Bản chất của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ ba (dựa trên 4 từ khóa...)

Cách mạng công nghiệp lần thứ ba tạm được xem là cuộc cách mạng kĩ thuật số, đề cập đến sự tiến bộ của công nghệ từ các thiết bị cơ điện tử tương
tự sang công nghệ số ngày nay. Tiến bộ trong cuộc cách mạng Công nghiệp lần thứ ba là sự ra đời của Internet, máy tính cá nhân, công nghệ thông tin, mạng xã
hội và quá trình thu gọn hóa.

Bản chất của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ ba là sử dụng công nghệ thông tin để tự động hóa sản xuất. Cách mạng công nghiệp lần thứ ba diễn ra
khi hạ tầng điện tử, máy tính và số hóa trở nên phát triển, sau dần tiến tới thành công trong lĩnh vực khoa học công nghệ cao. Sự phát triển của Internet, máy tính cá
nhân, điện thoại di động, người máy và quá trình thu gọn hóa là những thành tựu nổi bật trong giai đoạn này. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ ba chuyển từ
ngành cơ khí – điện tử sang công nghệ kỹ thuật số, sản phẩn đã được sản xuất hàng loạt với tính chuyên môn hóa cao. Lúc này, khoa học đã trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp, mọi phát minh về kĩ thuật đều bát nguồn từ nghiên cứu khoa học.

Câu hỏi: Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất

Thứ nhất, tuy mới bước đầu nhưng cách mạng công nghiệp lần thứ nhất đã góp phần rất lớn trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng suất
lao động, gia tăng của cải vật chất, dẫn đến những thay đổi to lớn trong sự phát triển của ngành công nghiệp. Khối lượng hàng hóa do máy móc chế tạo tăng lên rõ
rệt. Sự phát triển của công nghiệp đã làm thay đổi bản đồ địa lý kinh tế của nước Anh, đưa nước Anh trở thành một cường quốc kinh tế ở châu Âu và khẳng định sự
thắng lợi của nó với chế độ phong kiến. Luân Đôn trở thành trung tâm thương mai, thành phố đầu tiên của châu Âu tiến lên con đường công nghiệp hóa. Anh đã
xác lập được vị thế của mình trong thế giới tư bản, trở thành “công xưởng của thế giới”. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất đã phần nào khẳng định được sự
vượt trội về mặt kinh tế, kĩ thuật của phương Tây so với phương Đông

Thứ hai, cuộc cách mạng công nghiệp không chỉ làm thay đổi lực lượng sản xuất mà còn gây nên một sự chuyển biến sâu sắc trong quan hệ xã hội, hình
thành hai giai cấp cơ bản trong xã hội là tư sản và vô sản. Giai cấp tư sản có sự phân hóa, giai cấp vô sản công nghiệp ra đời. Bên cạnh đó, khi máy móc ra đời có
thể giảm bớt lao động bằng cơ bắp thì lao động phụ nữ và trẻ em bị lạm dụng, công nhân làm việc với số tiền lương thấp, điều kiện lao động khắc nghiệt, mức độ
bóc lột lao động tăng lên làm cho mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản ngày càng gay gắt. Chính vì vậy, các cuộc đấu tranh đã nổ ra nhằm
đòi hỏi quyền lợi, thế nhưng vẫn còn trong giai đoạn sơ khai, tự phát, bị giai cấp thống trị tìm mọi cách đàn áp.

Câu hỏi: Tác động của các cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai

Thứ nhất, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai đã nâng cao hơn nữa năng suất lao động, tiếp tục thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngoài ra,
cuộc cách mạng công nghiệp còn tạo điều kiện cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế mạnh mẽ, từ nông nghiệp sang công nghiệp – dịch vụ, thương mại, đồng thời dẫn
đến quá trình đô thị hóa. Cách mạng công nghiệp lần thứ hai đẩy nhanh quá trình xã hội hóa sản xuất, làm cho CNTB chuyển biến từ giai đoạn tự do cạnh tranh
sang giai đoạn độc quyền.

Thứ hai, cách mạng công nghiệp lần thứ hai đã làm thay đổi về sức mạnh và tương quan lực lượng giữa các quốc gia, làm gia tăng thêm mâu thuẫn giữa
các nước tư bản phát triển với sự vươn lên của hai cường quốc công nghiệp mới là Đức và Hoa Kỳ. Từ những mâu thuẫn về kinh tế, thuộc địa,... là một trong
những tiền đề của sự bùng nổ của chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918) và chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945) nhằm phân chia lại thuộc địa. Mặt khác,
gần giống với giai đoạn trước đó đánh dấu bởi số lượng rất lớn người lao động trong lĩnh vực công nghiệp, nạn thất nghiệp, thù lao ít ỏi, bị chèn ép.

Câu hỏi: Vì sao Anh bị Đức thay thế vị trí quốc gia dẫn đầu châu Âu về công nghiệp trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai?

Đức thay thế Anh vươn lên vị trí quốc gia dẫn đầu châu Âu về công nghiệp nhờ ba yếu tố: thứ nhất, Đức tiến hành công nghiệp hóa sau Anh, nên đúc rút
được những kinh nghiệm của nước Anh, tiết kiệm được nhiều thời gian, tiền của và công sức. Cũng nhờ đi sau, Đức có thể sử dụng những phát minh, cải tiến mới
nhất lúc bấy giờ trong khi người Anh vẫn sử dụng những công nghệ đắt đỏ, lạc hậu bởi vì họ không thể áp dụng được những thành quả từ chính quá trình phát triển
của họ. Thứ hai, trong lĩnh vực nghiên cứu và khoa học người Đức đầu tư lớn hơn Anh. Thứ ba, hệ thống liên minh độc quyền tập trung ở mức độ rất cao cho phép
Đức sử dụng hiệu quả nguồn tư bản linh động. Thứ tư, những khoản bồi thường Đức nhận được sau khi đánh bại Pháp trong Chiến tranh Pháp – Phổ đã cung cấp
vốn đầu tư cần thiết để Đức đầu tư mạnh tay vào cơ sở hạ tầng (đường xe lửa), bên cạnh đó Đức cũng có được một số nhà máy lớn của Pháp khi sáp nhập hai vùng
Alsace và Lorraine vào nước mình.

Câu hỏi: Tác động của các cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba đã có những tác động nhất định đến kinh tế - xã hội, bao gồm: thứ nhất, cách mạng công nghiệp lần thứ ba đã
tạo nên những bước tiến mới trong sản xuất xã hội, cả thế giới được kết nối bởi mạng thông tin toàn cầu và công nghệ kỹ thuật số, hình thành nên thuật ngữ “thế
giới phẳng”. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba đã tạo điều kiện để các nền kinh tế công nghiệp chuyển giao sang nền kinh tế tri thức. Hàm lượng tri thức
tăng lên trong sản phẩm và dịch vụ, thời gian ứng dụng phát minh khoa học vào thực tiễn từng bước được rút ngắn. Thứ hai, nhà nước và doanh nghiệp dần thích
ứng với công nghệ mới, hình thành hệ thống điều hành trên các nền tảng điện tử, tiến bộ hơn trong cách thức tổ chức và quản trị. Thứ ba, hình thành nên các tổ
chức khu vực và quốc tế tạo ra những chủ thể mới trong điều tiết quan hệ kinh tế. Các quốc gia trên thế giới cùng nhau hợp tác phát triển, chú trọng chính sách
kinh tế vĩ mô. Vai trò của các công ty xuyên quốc gia ngày càng trở nên quan trọng trong nền kinh tế TBCN. Thứ tư, tuy nhiên việc ra đời và lan rộng của Internet
cũng tạo ra những vấn đề an ninh mạng, bảo mật thông tin và dữ liệu đối với các cá nhân cũng như các tổ chức trên toàn cầu.

8. Chiến tranh lạnh


Câu hỏi: Chiến tranh lạnh là gì?

Chiến tranh lạnh là thời kì căng thẳng về chính trị và quân sự giữa hai cường quốc Liên Xô và Mỹ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Trong đó, “chiến
tranh” chỉ sự đối đầu về mặt chính trị và ý thức hệ giữa Liên Xô và Mỹ, “lạnh” phản ánh việc hai siêu cường này không sử dụng các vũ khí “nóng” song lại tiến
hành các cuộc chạy đua vũ trang, đặc biệt là vũ khí hạt nhân và gây ra các cuộc chiến tranh cục bộ trên thế giới. Riêng đối với Mỹ, Chiến tranh lạnh diễn ra nhằm
ngăn chặn sự bành trướng rồi tiến đến tiêu diệt Liên Xô và CNXH trên thế giới.

Câu hỏi: Bối cảnh hình thành của Chiến tranh lạnh

Thứ nhất, những thỏa thuận trong hội nghị Ianta – Potsdam về sự phân chia khu vực chiếm đóng và phạm vị ảnh hưởng ở châu Âu và châu Á đã tạo nên
những tiền đề đầu tiên dẫn đến thời kì chiến tranh lạnh. Bởi các quyết định trong hội nghị Ianta – Potsdam đã trở thành khuôn khổ của trật tự thế giới mới, “trật tự
hai cực Ianta” từng bước được thiết lập. Dựa trên cơ sở này, Mỹ và Liên Xô đã có những động thái nhằm tranh giành ảnh hướng với nhau ở giai đoạn sau chiến
tranh thế giới thứ hai.

Thứ hai, chiến tranh thế giới II kết thúc với sự thất bại hoàn toàn của phe phát xít. Chiến thắng thuộc về phe Đồng minh với ba nước trụ cột là Mỹ – Liên
Xô – Anh. Thế nhưng, sau chiến tranh, hai siêu cường Mỹ và Liên Xô hình thành hai hệ thống tư tưởng chính trị đối lập là TBCN và XHCN. Chính vì sự phân
tuyến trong ý thức hệ đã khiến cho mối quan hệ giữa hai siêu cường này chuyển từ đồng minh chống phát xít sang thế đối đầu và đi đến chiến tranh lạnh. Đây là
nguyên nhân lớn nhất dẫn đến sự ra đời của chiến tranh lạnh, giữa Mỹ và Liên Xô có sự đối kháng về mục tiêu và chiến lược: với Liên Xô, chủ trương duy trì hòa
bình và an ninh thế giới, bảo vệ các thành quả của XNCH, đẩy mạnh các phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới; ngược lại về phía Mỹ, Mỹ chọn cách
chống phá Liên Xô và các nước XHCN, đẩy lùi các cuộc cách mạng giải phóng dân tộc trên thế giới nhằm thực hiện mưu đồ làm bá chủ thế giới. Mỹ đã thông qua
bài diễn văn của Winston Churchill khi ông đưa ra thuật ngữ “bức màn sắt”, được coi là phát súng đầu tiên mở màn cho chiến tranh lạnh. Mỹ rất lo ngại trước ảnh
hưởng của Liên Xô cùng những thắng lợi của các cuộc cách mạng dân chủ nhân dân ở các nước Đông Âu, đặc biệt là sự ra đời của nhà nước Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa đã làm cho CNXH trở thành hệ thống từ châu Âu sang Á. Mỹ đã có các kế hoạch ngăn chặn sự sụp đổ của CNTB mang tính chất “domino” đối với sự
bành trướng của chủ nghĩa cộng sản ở khu vực Đông Nam Á. Liên Xô và Mỹ tiến hành chạy đua vũ trang và thành lập các khối liên minh cả về kinh tế lẫn quân sự,
để phân chia thế giới thành hai phe, tất cả đã tạo nên một thời kì căng thẳng trong lịch sử thế giới.

Câu hỏi: Bản chất Chiến tranh lạnh

Thứ nhất, yếu tố “chiến tranh ở đây thể hiện sự đối đầu sâu sắc về mặt quyền lực và ý thức hệ giữa hai siêu cường Xô – Mỹ, trong đó “lạnh” phản ánh việc
Liên Xô và Mỹ không sử dụng các loại vũ khí “nóng” mà thay vào đó lại tiến hành chạy đua vũ trang, nổi bật là vũ khí hạt nhân. Thứ hai, trên thực tế, chiến tranh
lạnh là giai đoạn đầu tiên trong lịch sử tồn tại hệ thống lưỡng cực, mà Liên Xô và Mỹ là đại diện. Thứ ba, mâu thuẫn giữa hai nước cũng đại diện cho mâu thuẫn
giữa hai phe TBCN (do Mỹ đứng đầu) và phe XHCN (do Liên Xô lãnh đạo). Do đó, đã tác động toàn diện đến tất cả các mặt trong đời sống chính trị, kinh tế, văn
hóa và xã hội của các quốc gia khi mà các nước tự xác định con đường đi của mình dựa trên sự định hình của ý thức hệ. Thứ tư, cuộc chiến tranh “không tiếng
súng” đã cho phép Mỹ và Liên Xô giải quyết những vấn đề nước Đức bằng cách đóng băng các diễn biến chính trị ở châu Âu, cả phía Đông và phía Tây. Từ đó,
khiến cho sự tồn tại cùa chiến tranh lạnh có hữu ích trong việc duy trì “trật tự hạt nhân” giữa các siêu cường và các nước “ngoại vi”, cũng như giữa những quốc
gia hạt nhân và phi hạt nhân. Thứ năm, chiến tranh lạnh đã củng cố lợi ích quốc gia, với Mỹ, chiến tranh lạnh đã “hợp pháp hóa” tham vọng can dự vào vấn đề
chính trị của các quốc gia khác, ngược lại, chiến tranh lạnh đã giúp Liên Xô “hợp pháp hóa” quân sự trong xã hội dân sự và đẩy mạnh phát triển công nghiệp nặng
một khoảng thời gian dài.

Câu hỏi: Phân kì Chiến tranh lạnh (chiến tranh lạnh diễn ra như thế nào?)

Thứ nhất là, giai đoạn từ năm 1947 đến năm 1955, đây là giai đoạn bắt đầu của chiến tranh lạnh. Sau CTTGT2 đã hình thành nên thuật ngữ “Iron
Curtain” (bức màn sắt), chia châu Âu thành 2 vùng, đó là Đông Âu và Tây Âu. Đến năm 1947, học thuyết Truman và kế hoạch Marshall đã đã đánh dấu sự bắt đầu
của chiến tranh lạnh. Đây cũng là giai đoạn bắt đầu hình thành các khối hiệp ước quân sự nhằm củng cố sức mạnh của mỗi bên. Về phía Mỹ, Mỹ đã cùng 11 nước
phương Tây ký Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO), về sau còn có sự tham gia của một vài quốc gia khác. Về phía Liên Xô, để đáp trả, Liên Xô và các nước
Đông đã thành lập tổ chức Hiệp ước Vácsava, một liên minh chính trị - quân sự mang tính chất phòng thủ của nước xã hội chủ nghĩa châu Âu. Đồng thời, Liên Xô
và các nước Đông Âu cũng thành lập Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) để hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau giữa các nước XHCN. Tóm lại, sự ra đời của hai khối quân
sự đã chính thức đánh dấu cho sự xác lập của cục diện hai cực, hai phe. Chiến tranh lạnh đã bao trùm cả thế giới.

Thứ hai là, từ năm 1955 đến năm 1962, đây là giai đoạn căng thẳng nhất với các cuộc chạy đua vũ trang lớn nhất trong lịch sử. Bắt đầu trên các lĩnh vực
tên lửa liên lục địa, công nghệ vũ trụ (vệ tinh nhân tạo, khinh khí cầu gián điệp…) và quan trọng hơn cả là vũ khí hạt nhân – mối đe dọa lớn nhất và là nguyên
nhân gây căng thẳng nhất cho cuộc Chiến tranh Lạnh. Bởi vì, trước đó Mỹ luôn là nước duy nhất sở hữu vũ khí hạt nhân, thế nhưng vào năm 1949, Liên Xô đã chế
tạo thành công bom nguyên tử, trực tiếp phá huỷ thế độc quyền về vũ khí hạt nhân của Mỹ. Chính quyền Mỹ đáp trả bằng việc tăng số lượng đầu đạn hạt nhân. Tuy
nhiên, người Liên Xô lại thắng thế trong cuộc chạy đua vào không gian với việc phóng vệ tinh nhân tạo đầu tiên trên thế giới Sputnik năm 1957, sau đó là máy bay
không người lái. Có thể thấy, hai nước có sự chạy đua vũ trang để nhằm tạo nên thế áp đảo đối với phe còn lại. Trong giai đoạn căng thẳng này, “chiến trường” của
chiến tranh lạnh có thể được phân chia thành: Châu Âu và các cùng “ngoại vi” - là các nước Thế giới thứ ba vừa giành được độc lập ở Châu Á, Châu Phi và Trung
Đông. Việc tranh giành ảnh hưởng của Liên Xô và Mỹ đã dẫn đến một số cuộc chiến “ngoại vi” như chiến tranh Triều Tiên (1950 – 1953) đã đánh dấu sự thay đổi
trọng tâm của chiến tranh lạnh, từ Châu Âu sang Châu Á. Các cuộc chiến ở Thế giới thứ ba, địa điểm cụ thể là Châu Á đã trở thành vũ đài quan trọng cho cuộc
cạnh tranh của hai siêu cường, cũng vì thế mà nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam bị lôi kéo vào cuộc tranh giành này. Khi đó, cả Mỹ và Liên Xô đều cố gắng
thu hút thêm đồng minh bằng nhiều lời hứa hẹn về viện trợ tài chính, quân sự, ngoại giao,... Đỉnh cao của căng thẳng là vụ khủng hoàng Berlin năm 1961. Sau sự
kiện Liên Xô bắn hạ máy bay gián điệp U2 của Mỹ, quân đội cả 2 bên đã được đặt trong tình trạng báo động, bức tường Berlin được xây dựng vào ngày
12/08/1961. Tuy nhiên, do lo ngại chiến tranh, cả hai bên đều chấp nhận duy trì hiện trạng, cho đến khi xảy ra sự kiện Vịnh con Lợn và cuộc Khủng hoảng tên lửa
Cuba (1962), được cho là có khả năng gây nên Chiến tranh thế giới lần thứ ba với vũ khí hạt nhân. Tóm lại, đây là giai đoạn Liên Xô và Mỹ liên túc có động thái
nhằm “trả đũa” đối phương, từ đó khiến cho tình hình quốc tế giai đoạn này căng thẳng cực độ.

Thứ ba là, giai đoạn từ năm 1962 đến năm 1979, đây là giai đoạn hoà hoãn khá yên tĩnh sau hơn 20 năm căng thẳng.. Sau sự kiện Vịnh con Lợn và cuộc
Khủng hoảng tên lửa Cuba (1962), lãnh đạo hai nước đã thống nhất đã cấm các vụ thử hạt nhân trong không trung và dưới mặt nước sau năm 1962. Từ đó, Chiến
tranh Lạnh đi vào giai đoạn hòa hoãn với nhiều sự thay đổi chính trị của các bên như Mỹ và Pháp xảy ra những bất đồng, Đức và Nhật đã hồi phục sau chiến tranh
và dần thu hẹp khoảng cách kinh tế, Liên Xô mâu thuẫn với Trung Quốc, gặp nhiều vấn đề nội bộ trong phe XHCN, đặc biệt sau “cú sốc” khủng hoảng dầu mỏ
1973. Những mối lo về sự mở rộng và phổ biến vũ khí hạt nhân, vấn đề ngân sách đầu tư cho quốc phòng, cộng với tình hình kinh tế bất ổn được cho là những
nguyên nhân chính tạo nên và duy trì giai đoạn hòa hoãn này. Tổng thống Mỹ và lãnh đạo Liên Xô đã ký các hiệp ước nhằm hạn chế sự phát triển các loại vũ khí
chiến lược. Hai bên cũng đã tiến hành nhiều chuyến viếng thăm và làm việc song phương, thúc đẩy giải quyết vấn đề nước Đức, giải trừ quân bị ở Trung Âu. Tóm
lại, đây là giai đoạn hai nước có sự hoà hoãn do những lo ngại về ảnh hưởng của chiến tranh lạnh.
Thứ tư, giai đoạn từ năm 1979 đến năm 1985, đây là giai đoạn chiến tranh lạnh leo thang trở lại. Khi có sự cạnh tranh giành ảnh hưởng tại các nước thế
giới thứ ba giàu tài nguyên, đặc biệt là tại khu vực Trung Đông và Nam Phi. Đây được coi là một trong những nguyên nhân gây nên cuộc chiến Afghanistan của
Liên Xô năm 1979, làm bùng lên cuộc đối đầu trở lại của hai siêu cường sau giai đoạn “giảng hoà” khá yên tĩnh. Khi đó, Liên Xô ủng hộ chính phủ Afghanistan
theo phe cộng sản, trong khi Mỹ, Pakistan và các quốc gia Hồi giáo khác ủng hộ phe đối lập muốn lật đổ chính quyền. Tổng thống Mỹ khi đó là Jimmy Carter đã
cho rằng hành động triển khai quân đến Afghanistan của Liên Xô là “mối đe dọa nghiêm trọng nhất tới hòa bình kể từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai”. Đồng
thời, việc Liên Xô đưa một số lượng quân đông đảo đến gần khu vực Vùng vịnh nhiều dầu mỏ cũng khiến căng thẳng gia tăng trở lại, thời kì hoà hoãn chấm dứt.
Sự trở lại của tình hình căng thẳng được thể hiện bằng cuộc khủng hoảng giữa hai bên tại Ba Lan (1979 – 1988), khủng hoảng tên lửa tầm trung ở Châu Âu (1983 –
1984). Tuy nhiên chính việc tiêu tốn quá nhiều cho quốc phòng đã khiến Liên Xô đứng trước khó khăn, cuộc chiến tại Afghanistan lại không đem lại cho Liên Xô
hiệu quả mà còn khiến Liên Xô càng sa lầy tại đây suốt 10 năm. Nền kinh tế Liên Xô đã bắt đầu gặp những vấn đề về cơ cấu.

Thứ năm là, giai đoạn từ năm 1985 đến năm 1991, giai đoạn kết thúc của chiến tranh lạnh. Bắt đầu từ thập niên 1980, xuất hiện đề xuất xây dựng hệ
thống phòng thủ tên lửa “Chiến tranh giữa các vì sao” của Tổng thống Ronald Reagan đã chuyển dịch cuộc chạy đua vũ trang sang một cuộc đua mới về công nghệ
hiện đại, đây là điều mà Liên Xô căn bản không có lợi thế. Cùng với việc Liên Xô đã có những tình trạng trì trệ do dầu mỏ thế giới sụt giá, nguồn thu ngoại tệ của
nước này cũng sút giảm và quan trọng hơn cả là những khoản chi phí khổng lồ cho việc phát triển vũ khí và quốc phòng. Mỹ và Liên Xô ý thức được việc chạy đua
vũ trang trong thời gian dài tiêu tốn nhiều kinh phí đã tạo điều kiện cho các nhóm quốc gia khác vươn lên đặc biệt là Tây Âu, Nhật Bản, cạnh tranh vị trí siêu
cường của mình, ít nhất là trên bình diện kinh tế. Thêm vào đó, mô hình XHCN ở Liên Xô và Đông Âu rơi vào tình trạng khủng hoảng ở thời điểm này . Khi đó
người lãnh đạo Liên Xô là Mikhail Gorbachev đã thực hiện nhiều cuộc cải cách táo bạo, nhằm vực dậy kinh tế đất nước. Kế hoạch cải tổ của Gorbachev đã cho
phép Liên Xô tăng cường tiếp xúc và quan hệ qua lại với các nước phương Tây. Liên Xô sau khi kết thúc việc rút quân khỏi Afghanistan năm 1989 đã đồng ý
thống nhất nước Đức vào năm 1990, đồng thời tuyên bố không tiếp tục hỗ trợ và can thiệp vào các quốc gia đồng minh Đông Âu. Hai nhà lãnh đạo của Mỹ
(George Bush) và Liên Xô (Mikhail Gorbachev) đã tiến hành kí kết và tuyên bố chấm dứt chiến tranh lạnh năm 1989. Chiến tranh Lạnh hạ nhiệt nhanh chóng và
chính thức kết thúc khi Liên Xô tan rã năm 1991, do Gorbachev không thể kiểm soát được những cải tổ mà ông đã tiến hành.

Đặc điểm chủ yếu của chiến tranh lạnh là thể hiện sự phân tuyến triệt để giữa hai hệ thống TBCN và XHCN. Các quốc gia đều bị cuốn vào trong vòng xoáy này,
hình thành nên hai khối liên minh kinh tế - quân sự rất rõ ràng dựa trên ý thức hệ. Ý thức chính trị đã trở thành yếu tố chủ đạo trong QHQT lúc bấy giờ. Bản chất
của chiến tranh lạnh không nằm ở việc hai siêu cường Xô – Mỹ đối đầu trực tiếp, không gây ra một cuộc chiến tranh trực tiếp mà hình thành các cuộc chiến tranh
cục bộ, chiến tranh “ủy nhiệm”, diễn ra ở hầu hết các khu vực trên thế giới, đẩy thế giới vào trong giai đoạn căng thẳng mà trong tình huống xấu nhất sẽ dẫn đến
một cuộc chiến tranh thế giới.

You might also like