Professional Documents
Culture Documents
ĐỀ VĂN
ĐỀ VĂN
III. Tổng kết chung phân tích bài thơ Viếng lăng Bác
1. Về nội dung
Bài thơ là niềm xúc động thiêng liêng, thành kính và niềm tự hào, đau xót của nhà thơ Viễn Phương, người
đồng bào miền Nam khi thăm lăng Bác sau khi miền Nam giải phóng, thống nhất đất nước.
2. Về nghệ thuật
– Bài thơ được viết với giọng điệu nhẹ nhàng, trầm lắng, phù hợp với nội dung tình cảm, cảm xúc của khung
cảnh viếng lăng Bác: trang nghiêm, sâu lắng, đau xót và tự hào
– Thể thơ 8 chữ xen lẫn dòng thơ 7 hoặc 9 chữ, kết hợp với nhịp thơ chậm đã diễn tả sự trang nghiêm, thành
kính và những cảm xúc sâu sắc của tác giả trong ngày thăm lăng Bác. Đặc biệt với khổ thơ cuối, nhịp thơ có
phần nhanh hơn, dồn dập hơn qua biện pháp tu từ điệp ngữ, đã bộc lộ chính xác tâm tư, tình cảm và sự khát
khao, niềm mong ước hóa thân của tác giả
– Tác giả đã sử dụng hệ thống hình ảnh thơ sáng tạo, đặc sắc, kết hợp nhuần nhuyễn giữa hình ảnh tả thực với
hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng. Những hình ảnh ẩn dụ mang tính biểu tượng có thể kể đến như “mặt trời trong
lăng”, “tràng hoa”, “trời xanh” vừa mang đến vẻ quen thuộc, gần gũi, vừa có sự sâu sắc và mang lại giá trị biểu
cảm cao cho bài thơ
Hình ảnh “trái tim” là một hoán dụ nghệ thuật sáng tạo của tác giả, nói lên chân lý sâu xa về sức mạnh của
lòng yêu nước và lí tưởng cách mạng cao đẹp:
– Hình ảnh trái tim đã khẳng định phẩm chất cao quý của các người lính lái xe trên đường Trường Sơn. Các
anh vừa giúp tiếp nối truyền thống anh hùng bất khuất của dân tộc Việt Nam, vừa trở thành hình tượng thanh
niên tiêu biểu cho chủ nghĩa yêu nước của thế hệ chống Mỹ cứu nước
– Các bộ phận trên xe tuy thiếu và không còn nguyên vẹn nhưng “chỉ cần” một “trái tim” yêu nước nguyên vẹn
thì xe vẫn hoàn toàn có thể băng băng ra trận, hoàn thành nhiệm vụ cao cả của mình
– Hình ảnh “trái tim” còn tượng trưng cho lòng dũng cảm, lòng yêu nước và sức mạnh của lòng yêu nước.
Chính sức mạnh vô hình ấy đã lấp đầy những phần thiếu sót của chiếc xe, tạo động lực cho người lính vượt qua
khó khăn, thử thách
– “Trái tim” của người lính tuy vô hình mà hữu hình, có thể thay thế cho mọi thứ, biến chiếc xe không kính
như trở thành một cơ thể sống, hợp nhất với tâm hồn người chiến sĩ để tiếp tục hành trình dài phía trước.
=> Hình ảnh “trái tim” khép lại bài thơ đã làm bừng sáng lên ý nghĩa của toàn bộ tác phẩm. Đó là một trái tim
yêu thương, trái tim kiên trường, trái tim cầm lái, giúp người lính chiến thắng mọi đe dọa của kẻ thù. Và “trái
tim” ấy cũng đã trở thành nhãn tự của bài thơ, để lại ấn tượng và cảm xúc sâu lắng trong lòng người đọc.
III. Tổng kết chung phân tích Bài thơ về tiểu đội xe không kính
1. Về nội dung Bài thơ về tiểu đội xe không kính
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của tác giả Phạm Tiến Duật đã thành công trong việc xây dựng hình tượng
những người lính lái xe Trường Sơn trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Qua hình ảnh thơ đặc biệt là những
chiếc xe không kính, tác giả đã khắc họa một cách chân thực hình ảnh những người lính lái xe với nhiều phẩm
chất đẹp đẽ. Bất chấp khó khăn thử thách, những anh lính vẫn trong tư thế hiên ngang ra trận với một trái tim
ấm nóng tình đồng đội, tình yêu nước nồng nàn.
2. Về nghệ thuật Bài thơ về tiểu đội xe không kính
– Thể thơ tự do, chất văn xuôi giúp câu thơ trở nên đời thường và dễ hiểu
– Sử dụng chất liệu hiện thực nơi chiến trường vừa nói lên trải nghiệm của tác giả, vừa là ca ngợi, tự hào về
những đoàn xe không kính, “xẻ dọc Trường Sơn” cứu nước
– Ngôn ngữ đậm tính khẩu ngữ tự nhiên, đậm chất lính lái xe
– Giọng điệu ngang tàng pha chút hài hước, dí dỏm làm nổi bật thái độ coi thường gian khổ trong hoàn cảnh
thiếu thốn và cái chết luôn cận kề của những chiến sĩ khi thực thi nhiệm vụ của mình.
ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ
I. Thông tin về tác giả – tác phẩm
1. Tác giả: Huy Cận
– Tên thật: Cù Huy Cận
– Quê quán: huyện Vụ Quang, tỉnh Hà Tĩnh
– Sinh năm 1919 mất năm 2005
– Huy Cận từng giữ nhiều chức vụ lãnh đạo cấp cao trong chính phủ Việt Nam
– Ông còn là một nhà lãnh đạo chủ chốt của Đảng Dân chủ Việt Nam, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam
– Huy Cận là một trong những gương nhà thơ xuất sắc của nền văn học hiện đại Việt Nam:
Phong cách nghệ thuật trong thơ Huy Cận:
– Thơ được lấy cảm hứng ở nhiều khía cạnh đối cực như: vũ trụ – cuộc đời, sự sống – cái chết, niềm vui – nỗi
buồn, hiện thực – lãng mạn, …
– Thơ Huy Cận mang giọng điệu chân tình, mộc mạc và đậm tư tưởng triết lý; hình ảnh thơ sinh động, gần gũi
mà giàu sức gợi
2. Tác phẩm Đoàn thuyền đánh cá:
a. Hoàn cảnh ra đời tác phẩm Đoàn thuyền đánh cá
– Bài thơ được in trong tập “Trời mỗi ngày lại sáng” xuất bản năm 1986, là một trong số những tập thơ nổi
tiếng của Huy Cận trong giai đoạn sau cách mạng tháng Tám năm 1945
– Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được viết vào tháng 10 năm 1958. Đây là giai đoạn miền Bắc được giải
phóng, nhân dân bắt đầu cuộc sống mới, đồng thời bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm hậu phương
vững chắc cho chiến trường miền Nam
– Bài thơ là kết tinh những cảm nghĩ và suy tư sâu sắc của Huy Cận sau chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Quảng
Ninh. Từ chuyến đi thực tế này, hồn thơ ông mới thực sự trở lại và dồi dào trong cảm hứng về thiên nhiên, tự
hào về đất nước, về con người lao động và niềm vui trước cuộc sống mới.
c. Bố cục nội dung
– Phần một (khổ 1,2): Cảnh đoàn thuyền ra khơi, bắt đầu hành trình đánh bắt cá xa bờ
– Phần hai (khổ 3,4,5,6): Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển, mang khí thế lao động hào hùng
– Phần ba (khổ thơ cuối): Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về trong khung cảnh thiên nhiên tráng lệ.
II. Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá
1. Phân tích khổ 1 và 2 bài thơ Đoàn thuyền đánh cá: Cảnh đoàn thuyền ra khơi, bắt đầu hành trình
đánh bắt cá xa bờ
a. Khung cảnh hoàng hôn trên biển
Mở đầu bài thơ là cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi trong một buổi hoàng hôn tuyệt đẹp:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa”
– Điểm nhìn nghệ thuật đặc biệt của nhân vật trữ tình: một điểm nhìn di động khi nhân vật đang trên con
thuyền, cùng người dân làng chài tiến ra khơi
Hình ảnh so sánh độc đáo: “Mặt trời xuống biển như hòn lửa”:
– Miêu tả chân thực vầng mặt trời đỏ rực đang từ từ chìm xuống dưới mặt biển, báo hiệu sự kết thúc của một
ngày trong vòng tuần hoàn giữa ngày và đêm
– Thể hiện quang cảnh kỳ vĩ, tráng lệ giữa bầu trời và mặt biển lúc hoàng hôn. Đoàn thuyền lúc này hiện lên
thật nhỏ bé trong ánh sáng của “hòn lửa” và sự mênh mông của “biển”
– Phép so sánh gợi liên tưởng đến bước chuyển mình của thời gian, đó là giai đoạn giao thoa giữa hai trạng thái
ngày và đêm, là sự vận động của thời gian song song với hành trình ra khơi của đoàn thuyền đánh cá
Hình ảnh nhân hóa: “Sóng đã cài then, đêm sập cửa”:
– Sóng gắn liền với biển, khi hoàng hôn đến, thủy triều lên cũng là lúc những con sóng xô bờ ngày một mạnh
hơn. Những con sóng tại điểm nhìn của nhân vật trữ tình tựa như những chiếc then cửa của vũ trụ đang kéo lại
gần bờ để chìm vào trạng thái nghỉ ngơi
– Sử dụng các từ gắn liền với đời thường như “cài then”, “sập cửa” giúp gợi cảm giác gần gũi, thân thương.
Con người tuy nhỏ bé nhưng không hề lạc lõng trong sự rộng lớn của vũ trụ, thay vào đó, thiên nhiên được hình
dung như một ngôi nhà lớn của con người, nơi con người tìm thấy sự bình yên và hạnh phúc
=> Hai câu thơ đầu cho thấy tình yêu mà Huy Cận dành cho thiên nhiên và cho cuộc đời. Một tình yêu rực cháy
như “mặt trời” và dào dạt như sóng biển.
b. Cảnh đoàn thuyền ra khơi
Trên chất liệu thiên nhiên tráng lệ, hùng vĩ ấy, hình ảnh con người lao động dần xuất hiện:
“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.”
– Sử dụng từ “Đoàn thuyền” thay vì “con thuyền” ra khơi, Huy Cận đã tạo ra sự qua lại tấp nập trên biển.
Sử dụng phụ từ “lại” giúp tạo điểm nhấn ngữ điệu và điểm nhấn cho câu thơ:
– Tạo hình tượng chủ động của con người trong sự vận động của thời gian
– Nhắc về tính lặp lại của công việc ra khơi diễn ra hàng ngày, trở thành một hành động quen thuộc, một nhịp
điệu lao động đã đi vào ổn định của người dân chài
– Có tác dụng miêu tả một hành động đối lập giữa hoạt động của vũ trụ với hoạt động của con người: khi thiên
nhiên dần bước vào trạng thái nghỉ ngơi thì con người bắt đầu làm việc
Hình ảnh “câu hát căng buồm cùng gió khơi” có tác dụng:
– Cụ thể hóa niềm vui, phấn khởi, sự hào hứng, hăm hở của người lao động trên hành trình đánh bắt xa bờ
trước mắt
– Gợi cho ta liên tưởng tới nguồn sức mạnh đẩy con thuyền vượt trùng ra khơi. Luồng sức mạnh ấy không chỉ
đến từ những con sóng, ngọn gió mà còn đến từ lời ca tiếng hát, năng lượng dồi dào của những thành viên trên
thuyền. “Đoàn thuyền” trong mắt tác giả không di chuyển phụ thuộc vào thiên nhiên mà hoàn toàn chủ động,
hòa mình vào sự vận động của vũ trụ.
– Bằng nghệ thuật chuyển đổi cảm giác “câu hát căng buồm”, tác giả đã tôn vinh vẻ đẹp tâm hồn của người lao
động, qua những câu hát tràn đầy năng lượng, nhiệt huyết, hòa cùng gió biển để đẩy thuyền ra khơi
=> Huy Cận đã tạo ra một khung cảnh khỏe khoắn bằng việc kết hợp 3 sự vật và hiện tượng: Câu hát, cánh
buồm và gió khơi, 3 sự vật biểu trưng cho 3 đối tượng là con người, công cụ lao động và thiên nhiên
=> Đoàn thuyền trong mắt nhìn của Huy Cận ra khơi trong trạng thái phấn chấn và náo nức đến kỳ lạ. Dường
như có một sức mạnh vật chất từ con người đã hòa cùng với gió biển, góp phần làm căng cánh buồm, đẩy con
thuyền nhẹ nhàng lướt sóng ra khơi
Trong tâm trạng phấn chấn, rộn ràng khi ra khơi, những người dân chài đã cất cao tiếng hát mang theo
niềm mong mỏi tha thiết:
“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ra, đoàn cá ơi!”
– Từ “hát rằng” nói lên niềm vui của người dân chài khi bắt đầu một chuyến ra khơi
– Sử dụng thủ pháp liệt kê “cá bạc”, “cá thu” và phép so sánh “như thoi đưa” đã thể hiện rõ sự giàu có phong
phú của biển Đông, đồng thời là giai điệu ngợi ca, biết ơn về “rừng vàng biển bạc” mà thiên nhiên đã ưu ái ban
tặng cho quê hương
Hình ảnh ẩn dụ, nhân hóa “đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng” của những loài cá biển có tác dụng:
– Tạo ra không khí lao động hăng say không kể ngày đêm của người lao động
– Cùng với hoạt động náo nhiệt diễn ra nơi những con thuyền, những đàn cá cũng thi nhau bơi trong biển đêm,
tạo ra nhiều sắc màu chuyển động nhộn nhịp hai bên mạn thuyền
– Từ “dệt biển” ở đây miêu tả những vệt nước lấp lánh được tạo ra khi đoàn cá bơi lội dưới ánh trăng. Muôn
ngàn đoàn cá bơi qua lại tạo thành thảm biển đêm lấp lánh đầy sinh động qua con mắt của nhà thơ
=> Qua 4 câu thơ, tác giả đã phác họa thành công một bức tranh thiên nhiên kỳ vĩ, thơ mộng từ hoàng hôn đến
cảnh biển về đêm, cùng với đó là tâm hồn phóng khoáng, nhiệt huyết dành cho lao động và niềm hy vọng của
người dân chài mỗi lần ra khơi.
2. Phân tích khổ 3, 4, 5 và 6: Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển, mang khí thế lao động hào hùng
a. Đoàn thuyền ra khơi với tư thế tầm vóc lớn lao, được miêu tả cụ thể và rất sinh động
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”
– Đoàn thuyền đánh cá trong mắt tác giả hiện lên với sức mạnh lớn lao, có thể so sánh với thiên nhiên bao la,
rộng mở như: chiều cao của trăng và mây; chiều rộng của mặt biển; độ sâu của biển
Lấy cảm hứng nhân sinh vũ trụ, tác giả đã dựng lên hình ảnh đoàn thuyền đánh cá tương xứng với không gian:
– Nghệ thuật phóng đại qua 2 câu thơ “lái gió với buồm trăng”, “lướt giữa mây cao với biển bằng” cho thấy
con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé trước khung cảnh hoàng hôn trên biển, nay đã trở thành con thuyền khổng lồ,
kỳ vĩ, làm chủ hoàn toàn không gian bao la, rộng lớn của thiên nhiên, sánh ngang tầm vũ trụ
– Khác với thời điểm bắt đầu, đoàn thuyền ngoài khơi thể hiện khí phách mạnh kẽ khác thường, hòa nhập vào
thiên nhiên và sẵn sàng mang về mẻ cá đầy
– Khi con thuyền buông lưới, mặt lưới rộng như dò thấu đáy đại dương, toàn bộ biển nước mênh mông giờ đây
đều được con thuyền đánh cá kiểm soát
=> Sự kết hợp giữa hiện thực với chất lãng mạn được thể hiện qua cách nói phóng đại đã giúp Huy Cận tạo nên
những vần thơ đẹp và sâu sắc
– Sử dụng các động từ: “lái”, “lướt”, “dò”, “dàn”, rải đều trong mỗi câu thơ, cho thấy sự linh hoạt của đoàn
thuyền, các hoạt động diễn ra liên tục khiến con thuyền như đang thực sự làm chủ biển trời.
– Câu thơ “Ra đậu dặm xa dò bụng biển” gợi cho ta thấy không khi lao động hứng khởi của người dân trên
thuyền. Mặc cho đêm tối, biển đen họ vẫn quyết tâm tìm cá trong “lòng biển”
– Sử dụng phép ẩn dụ trong câu thơ “Dàn đan thế trận” phản chiếu cuộc sống của người dân chài với mỗi lần ra
khơi như tham gia vào một trận chiến đấu ác liệt
=> Khổ thơ vẽ lên một bức tranh con người và sự vật trong lao động thật đặc sắc và tráng lệ. Trong bức tranh
ấy, thiên nhiên và con thuyền dường như không có sự tách biệt. Con người bây giờ không những điều khiển cả
con thuyền mà còn thâu tóm được cả không gian vũ trụ.
b. Cảnh biển đẹp trong đêm với sự giàu có, phong phú và tấm lòng hào phóng
“Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”
– Qua thủ pháp liệt kê, tác giả đã diễn tả sự phong phú và giàu có của biển cả quê hương qua những loài cá quý
hiếm của biển như: cá chim, cá nhụ, cá đé
Hình ảnh ẩn dụ “cá song lấp lánh đuốc đen hồng” mang nhiều ý nghĩa:
– Nghĩa tả thực: miêu tả chân thực loài cá song với chiếc thân dài, trên vảy có những chấm nhỏ màu đen hồng,
lấp lánh như màu những ngọn đuốc
– Nghĩa ẩn dụ: gợi liên tưởng đến đoàn cá song bơi nối đuôi nhau, từ xa, tựa như một ngọn đuốc lấp lánh dưới
ánh trăng đêm, soi sáng biển đêm đen, tạo nên một cảnh tượng thật lộng lẫy và kỳ vĩ
Biện pháp nghệ thuật nhân hóa trong câu thơ “Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe” mang nhiều lớp nghĩa:
– Nghĩa tả thực: miêu tả động tác quẫy đuôi của một chú cá dưới mặt biển, trong ánh trăng vàng chiếu rọi
– Nghĩa ẩn dụ: tác giả muốn khắc họa khung cảnh của một đêm trăng tuyệt đẹp, huyền ảo mà ánh trăng như dát
đầy mặt biến khiến cho đàn cá quẫy nước mà như quẫy trăng
Hình ảnh nhân hóa trong câu thơ “Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”:
– Miêu tả sinh động nhịp điệu của những cánh sóng trên biển Hạ Long
– Giúp người đọc liên tưởng đến nhịp thở của biển về đêm. Biển lúc này như một thực thể sống, mang linh hồn
của một con người, rực rỡ sắc màu như một bức tranh sơn mài được tô điểm bởi những vì sao
Biển cả phong phú tài nguyên cùng tấm lòng bao dung đã mở ra tâm trạng háo hức, tinh thần lao động
hăng say và lòng biết ơn biển qua câu hát:
“Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Biển nuôi ta lớn như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”
– Qua câu thơ “Ta hát bài ca gọi cá vào” cùng bút pháp lãng mạn, tác giả đã thể hiện sự vui tươi của người dân
chài trong lao động. Họ đã biến khó khăn thành bài ca nhiệt huyết, thúc đẩy tinh thần lao động giữa biển đêm
đầy sóng gió.
– Điều kỳ diệu trong tiếng hát của người dân chài là không chỉ tăng thêm tinh thần lao động mà còn có khả
năng gọi cá vào lưới, đem đến cho đoàn thuyền những mẻ cá tươi ngon
– Sử dụng phép so sánh “biển” với “lòng mẹ” cho thấy sự bao dung, hào phóng mà mẹ thiên nhiên ban tặng
cho con người. Đồng thời, thể hiện sự biết ơn của những người dân chài tới biến, tựa như nguồn sữa khổng lồ,
nuôi nấng người dân từ bao đời nay
=> Khổ thơ ngoài thể hiện sâu sắc niềm tự hào và lòng biết ơn của người dân chài trước ân tình của quê hương
đất nước
c. Khung cảnh thu hoạch cá hăng say trên biển trong nhịp điệu lao động khẩn trương, hào hứng và hăng say:
“Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.”
– “Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng” diễn tả khung cảnh người dân vội vàng, nhộn nhịp thu hoạch cá cho kịp trời
sáng
Ẩn dụ “Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng” thể hiện nhịp độ công việc của người trên thuyền đang trở nên khẩn
trương với hi vọng đón chờ mẻ cá nặng:
– Có thể hình dung thấy những cánh tay săn chắc, cuồn cuộn, làn da khỏe khoắn trong tư thế hiên ngang, đang
gồng lên kéo lấy chùm cá từ lòng biển.
– Những nét tạo hình gân guốc, chắc khỏe, cơ bắp cuồn cuộn tôn lên vẻ đẹp khỏe khoắn của người dân chài
lưới trong lao động.
– Dấu hiệu cho một mẻ lưới bội thu
Bút pháp sử dụng màu sắc hình ảnh “vẩy bạc”, “đuôi vàng” đầy ắp khoang thuyền:
– Gợi ra niềm vui phơi phới của người lao động khi đón nhận món quà từ biển cả
– Vảy cá tựa như màu bạc, đuôi cá óng ánh như dát vàng, mẻ cá chất đầy thuyền lấp lánh dưới ánh mặt trời, rực
sáng cả rạng đông, mọi vật đều tràn ngập sức sống
=> Tác giả đã khắc họa được một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ với sự giàu có hào phóng của biển cả. Đồng
thời khắc họa thành công hình tượng người lao động làng chài với tầm vóc lớn lao, phi thường.
3. Phân tích khổ thơ cuối Đoàn thuyền đánh cá: Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về trong khung cảnh
thiên nhiên tráng lệ
“Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.”
– Câu hát ra khơi và câu hát trở về được miêu tả với cùng một cấu trúc nhưng lại mang âm hưởng hoàn toàn
khác nhau.
Nghệ thuật đầu cuối trong câu hát ra khơi: “Câu hát căng buồm cùng gió khơi”, và câu hát trở về: “Câu hát
căng buồm với gió khơi”:
– Trong câu hát ra khơi, tác giả sử dụng từ “cùng” để thể hiện sự hài hòa giữa ngọn gió từ thiên nhiên và câu
hát từ con người. Từ đó, kỳ vọng vào một chuyến đi biển thuận lợi và bình yên.
– Trong câu hát trở về, tác giả sử dụng từ “với” để bộc lộ niềm vui phơi phới khi trở về trên những con thuyền
đầy ắp cá
Sử dụng phép nghệ thuật nhân hóa “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”:
– Đoàn thuyền như trở thành một thực thể sống, vượt qua giới hạn sức mạnh để chạy đua với thiên nhiên
– Tầm vóc của đoàn thuyền hay con người nay đã có thể sánh ngang với tầm vóc của vũ trụ
– Trong tư thế hào hùng, khẩn trương con người đã hoàn thành nhiệm vụ và chiến thắng về đích trước khi biển
đón bình minh
– Khi “Mặt trời đội biển nhô màu mới” thì đoàn thuyền đã cập bến, ánh mặt trời chiếu sáng long lanh trong
những tàu cá, tạo nên hình ảnh thơ: “Mắt cá huy hoàng muôn dặm khơi”.
Phép hoán dụ được sử dụng trong hình ảnh “mắt cá huy hoàng”:
– Tác giả dùng để tả thực muôn triệu mắt cá li ti được phản chiếu bởi ánh rạng đông và trở nên rực rỡ, huy
hoàng.
– Nghĩa ẩn dụ: muôn vàn mắt cá lấp lánh này không còn là ánh sáng của tự nhiên nữa, mà là ánh sáng của
chiến thắng, của thành quả lao động. Ánh sáng mở ra chân trời niềm vui mới đối với những người con miền
biển.
=> Khổ thơ cuối được xem như khúc ca khải hoàn của bản anh hùng ca lao động, thể hiện niềm vui phơi phới
của con người khi hòa hợp nhuần nhuyễn với thiên nhiên thành, tạo nên vẻ đẹp thực sự tráng lệ
III. Tổng kết chung tác phẩm Đoàn thuyền đánh cá
1. Về nội dung tác phẩm Đoàn thuyền đánh cá
Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là khúc tráng ca nhằm ca ngợi cuộc sống lao động tập thể của người dân chài
trong công cuộc xây dựng đất nước trong thời đại mới. Bài thơ đồng thời thể hiện niềm vui, niềm tự hào của
nhà thơ trước vẻ đẹp hùng vĩ, tráng lệ của thiên nhiên, là lòng biết ơn tới sự hào phóng của thiên nhiên và tầm
vóc lớn lao của người lao động.
2. Về nghệ thuật trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá
Bằng một ngòi bút tràn đầy cảm hứng thiên nhiên, hình ảnh sinh động, giàu sức gợi, kết cấu tương ứng đầu
cuối đặc sắc. Bài thơ đã thành công trong việc xây dựng hình ảnh đoàn thuyền đánh cá với sức mạnh khỏe
khoắn, hào hùng và trần đầy nhiệt huyết.
BẾP LỬA
I. Thông tin về tác giả – tác phẩm
1. Tác giả: Bằng Việt
– Tên thật: Nguyễn Việt Bằng
– Sinh năm 1941
– Quê quán: huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây
– Ông bắt đầu sự nghiệp sáng tác từ những năm 60 của thế kỉ XX và tập trung lấy cảm hứng ở hai mảng đề tài
là: nhân dân trong cuộc kháng chiến chống Mỹ và vẻ đẹp của con người trong cuộc sống đời thường.
Phong cách nghệ thuật trong thơ Bằng Việt:
Thơ Bằng Việt sở hữu cái tôi trữ tình độc đáo, giàu sáng tạo. Các tác phẩm của ông mang một hồn thơ đôn hậu,
vừa nhạy cảm lại rất sang trọng, giàu chất trí tuệ. Khác với các nhà thơ của thế hệ kháng chiến chống Mỹ,
phong cách thơ của Bằng Việt trải đều trên các phương diện từ nội dung đến hình thức và nghệ thuật.
Về nội dung thơ, các bài thơ của Bằng Việt thường được lấy cảm hứng từ quê hương, đất nước và con người
trong chiến tranh.
2. Tác phẩm Bếp lửa
a. Hoàn cảnh ra đời tác phẩm Bếp lửa
– Bài thơ Bếp lửa được ra đời vào năm 1963, khi Bằng Việt đang là sinh viên Luật ở nước ngoài. Bài thơ là sự
hồi tưởng của tác giả về hình ảnh người bà, về quê hương khi nhìn thấy hình bóng chiếc bếp lửa.
– Bài thơ xuất bản trong tập thơ Hương cây – Bếp lửa năm 1968. Đây là tập thơ được đồng sáng tác bởi Bằng
Việt và Lưu Quang Vũ.
b. Bố cục nội dung bài thơ Bếp lửa
– Phần I: khổ thơ đầu: Hình ảnh bếp lửa gợi nỗi nhớ về kỉ niệm tuổi thơ cùng tình bà cháu
– Phần II: khổ 2,3,4: Những hoài niệm về năm tháng chiến tranh sống cùng bà và bếp lửa
– Phần III: khổ 5,6: Suy ngẫm về hình ảnh người bà và bếp lửa
– Phần IV: khổ thơ cuối: Nỗi nhớ khắc khoải về bà và bếp lửa
II. Phân tích bài thơ Bếp lửa
1. Phân tích khổ thơ đầu: Hình ảnh bếp lửa gợi nỗi nhớ về kỉ niệm tuổi thơ cùng tình bà cháu
Dòng hồi tưởng và mạch cảm xúc của tác giả được gợi từ hình ảnh bếp lửa thân thương, ấm áp. Từ đó những kỉ
niệm về bà ùa về trong tâm trí tác giả.
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm”
– Hình ảnh bếp lửa hiện lên với ý nghĩa tả thực, mang hình dáng nhỏ bé, gần gũi và vô cùng quen thuộc đối với
mỗi gia đình Việt Nam từ xưa đến nay
Phép tu từ ẩn dụ “ấp iu nồng đượm” có tác dụng:
– Liên tưởng đến bàn tay cần mẫn, khéo léo của người bà khi nhóm bếp lửa mỗi sớm tinh mơ
– Thể hiện tấm tình yêu thương của người bà, nuôi nấng người cháu bằng tấm lòng ấm áp tựa như hơi ấm bếp
lửa
Điệp từ “một bếp lửa” được lặp lại hai lần:
– Thể hiện tác giả nhìn thấy hình ảnh bếp lửa và bóng dáng của người bà một cách đều đặn mỗi ngày. Bà luôn
tần tảo, thức khuya dậy sớm để chăm sóc, nuôi dưỡng người cháu trưởng thành
– Diễn tả cách mà mạch cảm xúc trào dâng và lần lượt ùa về từ ký ức
Sử dụng từ láy “chờn vờn” có ý nghĩa:
– Miêu tả thực hình ảnh ngọn lửa bập bùng, tỏa sáng trên bếp lửa, ẩn hiện giữa màn sương sớm
– Ẩn dụ về những ký ức mờ ảo, kỷ niệm về những năm tháng tuổi thơ đang tỏa ra, chờn vờn trong tâm trí tác
giả
Sự trỗi dậy cảm xúc yêu thương mãnh liệt trong người cháu qua hình ảnh bếp lửa được thể hiện qua câu
thơ:
“Cháu thương bà biết mấy nắng mưa!”
– Bộc lộ sự thấu hiểu của người cháu trước những vất vả, lam lũ, nhọc nhằn của cuộc đời người bà
– Cụm từ “biết mấy nắng mưa” chính là để lột tả sự cần cù, chịu khó, đức hi sinh của người bà dành cho người
cháu
– Từ “thương” là từ biểu cảm đắt nhất trong câu thơ. “Thương” là động từ chỉ tình cảm chân thành, được thể
hiện qua sự sẻ chia và sự kính trọng. Tác giả sử dụng từ “thương” thay vì từ khác giúp cảm xúc an tỏa tâm hồn
người cháu một cách rất tự nhiên.
=> Hình ảnh “bếp lửa” đã khơi dậy trong lòng người cháu những ký ức xúc động về người bà những kỷ niệm
bên bà. Dòng cảm xúc đi từ nỗi nhớ bà lan rộng thành nỗi nhớ về quê hương, nơi có gia đình và có những
người thân yêu
2. Phân tích khổ 2,3,4 bài Bếp lửa: Những hoài niệm về năm tháng chiến tranh sống cùng bà và bếp lửa
a. Ký ức từ hồi lên bốn chợt ùa về
Từ những năm lên bốn, tác giả đã phải trải qua những năm tháng tuổi thơ thiếu thốn, đầy khó khăn cùng
gia đình:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi,
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy”
Từ láy “đói mòn đói mỏi” có mang ý nghĩa:
– Diễn tả hiện thực đau thương trong lịch sử, đó chính là nạn đói năm 1945. Do chính sách cai trị hà khắc của
quân Nhật và Pháp, hơn hai triệu đồng bào ta đã chết đói. Những người còn lại thì chật vật kiếm ăn qua ngày.
Cái đói cái nghèo làm nhân dân ta mệt mỏi, rã rời và kiệt sức.
– Khiến giọng điệu câu thơ trùng xuống, lòng người như nao nao, nghẹn ngào cảm xúc khi nghĩ về những năm
tháng tuổi thơ đói khổ ấy
– Hình ảnh “bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy” diễn tả được hậu quả mà cái đói đã gây ra. Nó khiến cho không
chỉ người mà đến ngựa cũng trở nên gầy rạc, xanh xao…Tuy tiều tụy, thiếu thốn là vậy nhưng với vai trò là trụ
cột gia đình, người cha vẫn phải “đi đánh xe”, bươn chải kiếm sống đủ nghề
=> Cả hai hình ảnh “đói mòn đói mỏi” và “khô rạc ngựa gầy” đều mang đậm chất hiện thực. Qua đó, tác giả đã
thành công trong việc đặc tả sự xơ xác, xanh xao, mệt mỏi của những con người sống trong nạn đói lớn nhất
lịch sử dân tộc.
Trong những năm nạn đói hoành hành, người cháu đã cùng bà nhóm lửa:
“Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”
– Khói bếp của bà năm tháng ấy đã lưu giữ một cảm giác khó quên, dai dẳng đến nỗi, bây giờ khi nghĩ lại
“sống mũi còn cay’’.
– Trong khổ thơ này từ “khói” đã được lặp lại 2 lần dưới 2 trạng thái khác nhau: “mùi khói” và “khói hun”.
Tuy ở hai hình thái khác nhau nhưng “khói” đều gợi sự ám ảnh về một thời gian khó khăn mà tác giả đã phải
trải qua cùng người bà
– Cảm giác “cay” vì khói bếp và cái cay cay bởi nỗi xúc động như hòa vào làm một. Hai trạng thái “cay” của
quá khứ và “cay” của hiện tại như hiện lên đồng thời qua những dòng thơ
=> Những câu thơ được đầy ắp tình cảm, chan chứa nước mắt, ùa về trong tâm tư tác giả, mờ ảo qua làn khói.
Từ đó giúp gợi cho người đọc hình dung rõ nét về một tuổi thơ đầy gian khổ, thiếu thốn và nhọc nhằn, một thời
kỳ đen tối trong lịch sử dân tộc.
b. Ký ức hồi lên tám tuổi
“Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
…
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”
“Tám năm ròng” là khoảng thời gian người cháu sống trong sự cưu mang, dạy dỗ của bà:
– “Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa” cũng là tám năm cháu nhận được sự yêu thương, bao bọc của bà
– Tám năm ấy tuy thiếu thốn, khó khăn nhưng chưa bao giờ cháu thiếu tình yêu thương
– Hình ảnh “Bếp lửa” hiện lên trong khổ thơ như thể hiện cho tình bà cháu ấm áp. Với cháu, bà như chỗ dựa
tinh thần, là nơi cho cháu sự bình yên và an toàn
Năm tháng sống bên bà là những năm tháng hồn nhiên, trong sáng và vô tư. Điều này được thể hiện qua hình
ảnh tâm tình của tác giả với chim tu hú:
“Tu hú kêu trên những cảnh đồng xa
Tu hú kêu bà còn nhớ không bà?
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!”
– Tiếng chim tu hú báo hiệu hè về là âm thanh quen thuộc của đồng quê Việt Nam, báo hiệu một mùa bội thu.
Tiếng chim cũng khiến cho bức tranh đồng quê trở nên sinh động hơn với đồng lúa chín vàng đồng và vải chín
đỏ cành
Tiếng chim tu hú giục giã liên hồi như khắc khoải da diết, khiến lòng người trỗi dậy những kỷ niệm xưa cũ. Nó
gợi nhắc về:
– Tám năm kháng chiến chống Pháp, tác giả đã phải xa cha mẹ: “mẹ cùng cha công tác bận không về”. Lúc bấy
giờ chỉ có hai bà cháu sống cùng nhau. Có thể nói, bà vừa là cha, vừa là mẹ, nuôi dưỡng cháu khôn lớn và
trưởng thành.
– Những năm tháng tuổi thơ cùng bà nhóm lửa. Đó là cảm giác yên bình khi được sống trong tình yêu thương,
đùm bọc, tìm cảm ấm áp, trọn vẹn của bà.
“Cháu ở cùng bà, bà kể cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học’’
– Sử dụng các động từ “bà bảo”, “bà dạy”, “bà chăm” như một cách liệt kê. Tác giả cho thấy tấm lòng bao la,
sự nâng niu, chăm sóc mà bà dành cho đứa cháu nhỏ
– Các từ “bà” và từ “cháu” được lặp lại bốn lần, đan xen vào nhau, góp phần thể hiện sự quấn quýt yêu thương
của tình bà cháu
– Tình yêu thương, sự kính trọng trước những hi sinh của người bà được tác giả thể hiện chân thành, sâu sắc
qua câu thơ: “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”
Hình ảnh chim tú hú được nhắc lại ở cuối khổ thơ kết hợp cùng câu hỏi tu từ là một sáng tạo độc đáo của Bằng
Việt. Tác giả đã diễn tả nỗi lòng da diết của mình khi nhớ về tuổi thơ bên bà:
“Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”
– Qua câu thơ, ta thấy được hình ảnh chú chim tu hú đang lạc lõng, bơ vơ giữa không gian rộng lớn, mênh
mông của cánh đồng, được tác giả mời gọi đến bên bà
– Người cháu nơi phương xa bỗng chạnh lòng trước hình ảnh chú chim tu hú, nhớ về những ngày được sống
trong tình yêu, sự đùm bọc của bà. Chú chim chính là phản chiếu hình ảnh người cháu đã lớn khôn, bơ vơ, lạc
lõng giữa nơi đất khách quê người nhưng trong lòng vẫn đau đáu nỗi nhớ bà, thương bà da diết
– Người cháu thương con tu hú bao nhiêu thì lại biết ơn những tháng bên bà bấy nhiêu
=> Trong hồi tưởng của người cháu về quá khứ, người cháu luôn bày tỏ nỗi nhớ thương và lòng biết ơn bà vô
hạn
c. Ký ức về một thời bom đạn chiến tranh
Trong sự tàn khốc của cuộc chiến tranh bừng sáng lên hình ảnh người bà với nhiều phẩm chất cao đẹp:
“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh”
– Hình ảnh thơ “cháy tàn cháy rụi” đã thể hiện rõ nét sự tàn phá khủng khiếp mà chiến tranh đã mang lại cho
những làng quê Việt Nam.
– Trong cái khắc nghiệt của chiến tranh là tình cảm làng xóm, cùng “đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh”. Đó
chính là phẩm chất lá lành đùm lá rách – một phẩm chất đáng quý trong truyền thống dân tộc ta
Trước bi kịch của hiện thực ấy, người bà vẫn mạnh mẽ, kiên cường sống và nuôi nấng người cháu. Bà đã dặn
dò cháu:
“Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:
Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,
Cứ báo nhà vẫn được bình yên!”
– Mặc cho sự khó khăn thiếu thốn nơi quê nhà, bà vẫn nói rằng có thể lo toan mọi việc, mục đích để các con
yên tâm công tác, phục vụ cách mạng
– Lời dặn của bà không chỉ tạo chỗ dựa vững chắc cho những đứa con xa nhà mà còn là điểm tựa vững chắc
cho cả người cháu
=> Hình ảnh người bà qua lời dặn đã làm nổi bật lên vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ, người mẹ anh hùng
Việt Nam. Họ không những giàu lòng vị tha mà còn giàu đức hi sinh.
3. Phân tích khổ 5,6 bài Bếp lửa: Suy ngẫm về hình ảnh người bà và bếp lửa
a. Suy ngẫm của tác giả về hình ảnh bếp lửa
Từ đầu bài thơ, hình ảnh bếp lửa luôn song hành cùng hình ảnh người bà, với sự tần tảo, nhẫn nại và giàu tình
thương. Đến khổ 5, tác giả đã tự mình bày tỏ những suy ngẫm về bếp lửa:
“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…”
– Hình ảnh “bếp lửa” ở dòng thơ đầu là mang nghĩa tả thực. Đó là sự vật hữu hình và gần gũi nhất, luôn xuất
hiện trong những khoảng thời gian khó khăn của đời bà
Từ hình ảnh “bếp lửa” tả thực, tác giả đã gợi lên hình ảnh “ngọn lửa”. Đó là “ngọn lửa” mà “lòng bà luôn ủ
sẵn”, mang ý nghĩa trừu tượng sâu sắc:
– Bếp lửa bà nhóm lên không phải bằng than, bằng củi, mà còn bằng “ngọn lửa” từ trong lòng bà. Một ngọn lửa
ấm áp tình yêu thương, niềm tin “dai dẳng” vào một tương lai tươi sáng, tương lai sống trong hòa bình độc lập
– “Ngọn lửa” bền bỉ và bất diệt bà nhóm mỗi ngày ấy chính là phản chiếu niềm vui, niềm tin, tình yêu thương
mà bà thắp lên để nâng đỡ người cháu trên chặng đường trưởng thành
– Người bà trong mắt cháu không chỉ là người thắp lửa, nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa, giúp duy
trì ngọn lửa của sự sống, niềm tin cho thế hệ sau
– Sau suy ngẫm đó, tác giả nhận ra trong sự bình dị của hình ảnh bếp lửa là một điều kỳ diệu, thiêng liêng. Từ
đó, tác giả đã chợt thốt lên: “Ôi kì lạ và thiêng liêng — bếp lửa!”
– Sử dụng các động từ: “nhen”, “ủ sẵn”, “chứa”, tác giả muốn thể hiện rằng ý chí, bản lĩnh của bà, vốn đã có
sẵn trong tố chất, phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ Việt Nam, chỉ đợi một ngọn lửa để thắp lên, bộc lộ ra
bên ngoài
– Sử dụng điệp ngữ đi kèm với phép ẩn dụ “một ngọn lửa”, cùng với đó là kết cấu song hành đã khiến giọng
thơ vang lên với đầy xúc động, tự hào
=> Qua những suy ngẫm về hình ảnh bếp lửa, tác giả đã thể hiện sự ngợi ca về vẻ đẹp tần tảo, kiên trì, nhẫn nại
và giàu đức hy sinh của người bà. Những phẩm chất cao đẹp ấy hiện lên lấp lánh như một thứ ánh sáng diệu kỳ
giữa những điều bình dị, giản dị nhất trong cuộc sống đời thường
b. Suy ngẫm của tác giả về hình ảnh người bà
Bà vừa là người nhóm lửa, vừa là người giữ cho ngọn lửa ấm nóng và tỏa sáng. Trong ký ức người cháu mỗi
khi nhớ lại luôn hiện lên hình ảnh người bà với sự cảm phục và biết ơn vô hạn:
“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm”
– Cụm từ chỉ thời gian “đời bà”, “mấy chục năm” cùng với từ láy tượng hình “lận đận” và hình ảnh ẩn dụ
“nắng mưa” đã diễn tả một cách trọn vẹn và sâu sắc về cuộc đời đầy gian nan, vất vả của người bà
– Thời gian trôi qua, mọi sự biến đổi, song chỉ một điều duy nhất bất biến, đó là cuộc đời bà: suốt một cuộc đời
vất vả chăm con chăm cháu, bà “vẫn giữ thói quen dậy sớm” để nhóm lửa, nhóm niềm tin, thắp lên tình yêu
thương, nuôi dưỡng cháu khôn lớn
=> Tình thương yêu tác giả đối với người bà được bộ lộ rõ qua từng câu chữ. Đó là tình cảm ấm áp, giản dị,
chân thành mà sâu nặng, thiết tha.
Đôi tay khẳng khiu, gầy guộc của bà không những nhóm lửa mà còn “ấp iu nồng đượm” tình yêu con
cháu, ấp ủ tình cảm cảm bằng tất cả tấm lòng đôn hậu:
“Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”
Điệp từ “nhóm” được lặp lại bốn lần, đan xen với những chi tiết tả thực, gợi ra nhiều ý nghĩa sâu sắc:
– Hình ảnh “Nhóm bếp lửa” và “nhóm nồi xôi gạo” là hình ảnh miêu tả thực công việc thường ngày của người
bà
– Mặt khác, “nhóm niềm yêu thương” hay “nhóm dậy cả những tâm tình” là mang nghĩa ẩn dụ về công việc
thiêng liêng, cao quý nhất của người bà. Bà đã khơi dậy niềm yêu thương và sự chia sẻ trong tâm hồn cháu
=> Có thể nói, 2 khổ thơ chính là cảm xúc dâng trào của tác giả khi suy ngẫm về bà và bếp lửa. Từ đó ngợi ca,
khẳng định: Bà là một người phụ nữ tần tảo, luôn chăm lo và dành những điều tốt đẹp nhất cho con cháu.
4. Phân tích khổ thơ cuối bài Bếp lửa: Nỗi nhớ khắc khoải về bà và bếp lửa
Người cháu năm xưa được bà nuôi nấng giờ đã lớn khôn, chắp cánh bay xa nhưng vẫn không quên được
nguồn cội, không thể quên được quê nhà, nơi có bếp lửa và đặc biệt là có bà:
“Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tàu,
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,
Nhưng vẫn chăng lúc nào quên nhắc nhớ:
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”
– Dòng thơ đầu được ngắt thành hai nhịp đã gợi vận động của thời gian: từ năm bốn tuổi, lên tám tuổi, đến tuổi
trưởng thành. Nhịp thơ cũng biểu thị sự biến đổi của không gian: từ căn bếp của bà đến những khoảng trời rộng
lớn).
– Điệp từ “trăm” giúp người độc mở rộng tầm nhìn ra một thế giới rộng lớn với muôn vàn điều mới mẻ
Tác dụng của điệp từ “có” và biện pháp liệt kê:
– Thể hiện những thay đổi lớn trong cuộc đời người cháu. Ở nơi phương xa, người cháu đã tìm được cho mình
nhiều niềm vui mới
– Giúp khẳng định nỗi nhớ khắc khoải trong tâm trí người cháu về hình ảnh ngọn lửa của bà, tấm lòng hi sinh,
che chở, ấp iu, đùm bọc của bà. Ngọn lửa ấy đã trở thành ký ức khó phai, thành niềm tin thiêng liêng, tạo động
lực cho người cháu trên suốt chặng đường trưởng thành và phát triển
=> Khép lại bài thơ, tác giả đã thể hiện lòng tôn vinh đối với đạo lí thủy chung, cao đẹp của người Việt: “uống
nước nhớ nguồn”. Đạo lí nhân văn ấy được nuôi dưỡng từ thuở ấu thơ, nhen nhóm trong tâm hồn người cháu từ
nhỏ, để rồi sau này chắp cánh bay cao, bay xa trên hành trình cuộc đời nhiều khó khăn thử thách.
III. Tổng kết chung tác phẩm Bếp lửa
1. Về nội dung tác phẩm Bếp lửa
– Bài thơ “Bếp lửa” là lời khẳng định, ngợi ca tình bà cháu, tuy bình dị, giản đơn nhưng vẫn hết sức thiêng
liêng, kì diệu.
– Toàn bộ bài thơ là dòng hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu ở nơi phương xa khi đã trưởng thành. Từ hình
ảnh bếp lửa, người cháu đã nhớ lại những ký ức đầy xúc động về người bà. Từ đó bộc lộ những tình cảm nhớ
nhung da diết, sâu nặng đối với gia đình, quê hương
2. Về nghệ thuật trong bài thơ Bếp lửa
– Có sự kết hợp hài hòa giữa nhiều phương thức biểu đạt trong 1 bài thơ, bao gồm: tự sự, biểu cảm, miêu tả,
bình luận
– Hệ thống hình ảnh vừa mang nghĩa tả thực lại vừa mang nghĩa biểu tượng
– Giọng thơ tâm tình, thiết tha kết hợp với nhịp điệu thơ linh hoạt
– Lỗi viết trùng điệp được sử dụng linh hoạt, khiến hình ảnh bếp lửa hiện lên sinh động, giúp người đọc cảm
nhận được sự nồng nàn, ấm nóng của ngọn lửa
– Ngôn ngữ thơ giàu cảm xúc với giọng điệu chân thành, mang đến nhiều triết lý sâu xa
SANG THU
I. Thông tin về tác giả – tác phẩm
1. Tác giả: Hữu Thỉnh
– Họ tên đầy đủ: Nguyễn Hữu Thỉnh
– Năm sinh: 1942
– Quê quán tác giả: huyện Tam Dương thuộc tỉnh Vĩnh Phúc
– Hữu Thỉnh là một trong những nhà thơ chiến sĩ tiêu biểu, trưởng thành trong giai đoạn kháng chiến chống
Mỹ.
Cảm hứng và phong cách sáng tác:
– Giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước: Cảm hứng sáng tác của Hữu Thỉnh chủ yếu bắt nguồn từ tình
yêu quê hương, đất nước, con người Việt Nam
– Giai đoạn sau khi chiến tranh kết thúc: Tác phẩm thơ của Hữu Thỉnh lại hướng về những cảm xúc, trải
nghiệm đời thường, những tâm tư, tình cảm của cuộc đời cá nhân
– Phong cách thơ Hữu Thỉnh: giàu cảm xúc tinh tế, lãng mạn; thường sử dụng các hình ảnh giản dị, gắn bó với
đời sống mà vẫn tạo nên sức gợi cảm, nét đặc sắc rất riêng
2. Tác phẩm Sang Thu:
a. Hoàn cảnh ra đời tác phẩm Sang thu
– Tác phẩm “Sang thu” được ra đời vào năm 1977
– Bài thơ được xuất bản nhiều lần trong các tập thơ khắc nhau, gần đây nhất là tập thơ “Từ chiến hào đến thành
phố” – tập thơ xuất bản vào năm 1991
B. Bố cục nội dung
– Khổ 1 (phần đầu): Khung cảnh thiên nhiên cho thấy tín hiệu giao mùa đã tới
– Khổ 2 (phần hai): Bức tranh thiên nhiên trong khoảnh khắc giao mùa
– Khổ 3 (phần cuối): Tâm tư tác giả về cuộc đời trước khung cảnh chuyển mùa sang thu
II. Phân tích tác phẩm Sang thu
1. Phân tích khổ thơ 1 Sang thu: Khung cảnh thiên nhiên cho thấy tín hiệu giao mùa đã tới
“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về”
– 4 câu thơ đầu là cảm nhận của tác giả trước sự thay đổi của thiên nhiên phút giao mùa
– “Sang thu” tuy chỉ diễn ra chớp nhoáng trong một khoảnh khắc, nhưng khoảnh khắc ấy giúp tạo nên sự đặc
biệt của thiên nhiên. Khi hạ chưa kịp đi mà hương thu đã đến, cảnh vật lúc này dường như vừa mang nét của
mùa thu, vừa vương chút lưu luyến của mùa hạ.
Tín hiệu từ “Hương ổi” báo hiệu mùa thu đã đến:
– “Hương ổi” là một hình ảnh gần gũi và quen thuộc, thích hợp để tạo nên một tứ thơ mới mẻ miêu tả tín
hiệu mùa thu
– “Hương ổi” được tác giả cho đi kèm với tính từ “bỗng”, đặt ngay đầu câu thơ đã cho thấy một cảm giác
đột ngột, bất ngờ và ngỡ ngàng của nhân vật trữ tình
– “Hương ổi” khi được đi nối tiếp với động từ “phả” trong câu thơ tiếp theo, đã diễn tả sự ngào ngạt và sánh
đậm của làn hương. Hơn nữa, cách sử dụng từ còn gợi cho người đọc hình dung về không gian của những làng
quê Việt Nam thân thuộc. Một làng quê điển hình của vùng đồng bằng Bắc Bộ với những vườn cây, những lối
ngõ ngập tràn mùi hương cây trái
=> Làn “Hương ổi” trở thành nét đặc trưng của mùa thu, chỉ có trong thơ của Hữu Thỉnh
Tín hiệu từ làn “gió se” báo hiệu khoảnh khắc giao mùa đã đến:
– “Gió se” là ngọn gió heo may, làn gió nhẹ mát mang theo phong vị của mùa thu đất Bắc, tạo cho không khí
có chút khô và chút se lạnh
– Làn “gió se” thuộc về mùa thu ấy đã kéo đến trong những phút giây giao mùa. Chỉ chút gió đầu mùa thôi
nhưng đã làm dịu đi cái nắng gay gắt, oi ả của mùa hạ. Nó khiến cho mùi hương ổi chín như đặc quánh lại, trở
nên ngọt ngào và ngây ngất lòng người hơn.
Tín hiệu từ những màn sương báo hiệu mùa thu đang đến rất gần
– Nếu “Hương ổi” được cảm nhận bằng khứu giác, “Gió se” được cảm nhận bằng xúc giác thì sang đến cảm
nhận bằng thị giác, tác giả đã lựa chọn hình ảnh những màn sương để miêu tả phút giây giao mùa
– Sử dụng từ láy “chùng chình” kết hợp với nghệ thuật nhân hóa miêu tả “dáng điệu” của mà sương, tác giả
đã gợi lên hình ảnh nàng “sương” đang tiến đến với dáng vẻ lãng đãng như đợi chờ. Có vẻ như “sương” đang
cố ý bước những bước thật chậm, thể hiện sự lưu luyến trước khi chính thức nói lời chia tay với mùa hạ
– Sử dụng cụm từ “qua ngõ”, Hữu Thỉnh gợi cho người đọc liên tưởng đến khung cảnh làng quê thân thuộc
với những đường làng, ngõ xóm nhỏ. Những con đường, ngõ xóm này vốn là nơi kết nối người dân với nhau,
với đồng ruộng, nay bỗng trở thành cửa ngõ của thời gian, là nơi chứng kiến sự tương giao giữa hai mùa cuối
hạ và đầu thu
Sự ngỡ ngàng, giật mình, bối rối của tác giả trước khoảnh khắc giao mùa được thể hiện qua câu thơ:
“Hình như thu đã về”
– Tác giả sử dụng lối nói giả định ‘’Hình như” nhằm bộ lộ sự nghi hoặc, một phán đoán không chắc chắn về
những chuyển biến của thiên nhiên đất trời. Tuy nhiên lối nói này rất phù hợp trong việc diễn tả sự mơ hồ,
không rõ ràng của các tín hiệu báo hiệu thời khắc giao mùa đã đến
=> Sự kết hợp hài hòa của một loạt các từ “bỗng”, “phả”, “hình như” đã cho thấy cảm nhận tinh tế của tác
giả về những thay đổi giữa hai mùa. Đó là cảm xúc ngỡ ngàng, xen lẫn vui mừng, hạnh phúc khi chứng kiến sự
đổi thay của vạn vật xung quanh.
2. Phân tích khổ thơ 2 Sang thu: Bức tranh thiên nhiên trong khoảnh khắc giao mùa
“Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”
– 4 câu thơ đặc tả cảnh biến chuyển thiên nhiên thông qua những hình ảnh sự vật gần gũi và đặc trưng
Hai câu thơ đầu của khổ thơ thứ 2 được viết theo cấu trúc đối tự nhiên vừa giúp diễn tả vẻ đẹp thiên nhiên, vừa
bộc lộ được cảm xúc lòng người trong những phút giây ấy
“Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã”
Hình ảnh “dòng sông” được nhân hóa thông qua sử dụng từ láy “dềnh dàng”:
– Từ “dềnh dàng” miêu tả chân thực hình ảnh một dòng sông tĩnh lặng, yên bình, trong trẻo với dòng chảy êm
đềm bao trùm lấy làng quê
– Sử dụng biện pháp nghệ thuật nhân hóa, tác giả đã biến hình ảnh dòng sông thành một con người sống, đang
nghỉ ngơi sau một mùa hạ vất vả với bão giông
– Động từ “được lúc” còn gợi ra sự liên tưởng đến những con người đã đi qua thời chiến, trải qua mưa bom bão
đạn, giờ đây, họ đang được chuyển mình sang giai đoạn sống chậm hơn, thời kì nghỉ ngơi
Hình ảnh những chú “chim” được nhân hóa thông qua sử dụng từ láy “vội vã”:
– Câu thơ tả thực cảnh những cánh chim xếp theo đàn, thi nhau di cư bay về phương Nam để tránh rét
– Những cánh chim được nhân hóa trở nên nhanh hơn, gấp gáp hơn khi nhận ra tín hiệu của mùa thu qua những
đợt gió heo may se lạnh
– Động từ “bắt đầu” cùng với hình ảnh những cánh chim còn gợi liên tưởng đến những người lính bước ra từ
trong chiến tranh. Cũng giống như tác giả, sau chiến tranh tưởng chừng như sẽ “bắt đầu” bước vào giai đoạn
nghỉ ngơi để suy ngẫm. Song, chính thời khắc này là lúc họ cần “bắt đầu” phải vội vã, “bắt đầu” một cuộc
sống mới với đầy lo toan, bỡ ngỡ.
Nghệ thuật đối được kết hợp nhịp nhàng giữa hai từ miêu tả trạng thái là “dềnh dàng” và “vội vã”:
– Nghệ thuật đối có vai trò làm nổi bật năng lượng trái ngược của thiên nhiên trong phút giây giao mùa
– Trong sự đối lập của thiên nhiên có sự đối lập tâm trạng của con người. Đó là giai đoạn con người phải học
cách làm quen với hòa bình sau khi bước ra từ chiến tranh. Sự giao thoa tâm trạng con người được phản chiếu
qua bức tranh thiên nhiên đầy màu sắc
– 2 câu thơ tiếp theo tái hiện quang cảnh thiên nhiên qua những câu từ sáng tạo, độc đáo:
“Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”
Nghệ thuật nhân hóa được thể hiện qua cụm từ tượng hình “vắt nửa mình”:
– Hình ảnh “đám mây mùa hạ” thể hiện không gian của một bầu trời rộng lớn, mênh mông, lãng đãng những
áng mây trôi
– “Đám mây” “vắt nửa mình” làm liên tưởng đến bước chuyển mình của thời gian. Hình ảnh đám mây như một
cây cầu, nối liền giữa hai mùa hạ và thu
– Hình ảnh “đám mây mùa hạ” còn có ý nghĩa về thế sự, miêu tả khoảnh khắc giao thời của đời sống nhân dân
VIệt Nam lúc bấy giờ, phải tập làm quen khi đất nước đang trong giai đoạn chuyển giao từ chiến tranh sang hòa
bình
=> 4 câu thơ trong khổ thơ thứ hai đã tái hiện rất sống động cảnh sắc phút giao mùa qua những hình ảnh, sự vật
giàu ý nghĩa. Hơn nữa, đằng sau bức tranh giao mùa còn là liên tưởng sâu sắc của tác giả về đời sống con người
gắn liền với biến chuyển của đất nước
3. Phân tích khổ thơ 3 bài Sang thu: Tâm tư tác giả về cuộc đời trước khung cảnh chuyển mùa sang thu
“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi”
Những biến chuyển của thiên nhiên được thể hiện qua hai câu thơ đầu
“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa”
Sử dụng nghệ thuật đối giữa hai trạng thái “vẫn còn” và “vơi dần”; “nắng” và “mưa”: tác giả đã miêu tả
rõ nét sự vận động ngược chiều của hai hiện tượng thiên nhiên giữa hai mùa:
– Tác giả sử dụng hình ảnh “nắng” và “mưa” vì chúng là những hiện tượng thiên nhiên vô cùng quen thuộc, có
tính chu kỳ và có thể dự đoán. Hơn nữa, với hình ảnh “nắng” và “mưa” có thể giúp người đọc dễ dàng hình
dung hơn về khoảnh khắc giao mùa mà tác giả đang chứng kiến
– Những từ ngữ chỉ mức độ và mang tính ước lượng như: “vẫn còn”, “bao nhiêu”, “vơi”, “bớt” được sắp xếp
theo cấp độ giảm dần, đã thể hiện dấu hiệu của mùa hạ đang nhạt dần. Trong khi đó những dấu hiệu của mùa
thu ngày một đậm nét hơn.
Đứng trước mùa thu của đất trời, tác giả đã có những suy ngẫm về đời người qua những hình ảnh giàu sức gợi
trong 2 câu thơ:
“Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi”
Hình ảnh “sấm” đem lại nhiều ý nghĩa
– Sấm vốn được coi là một hiện tượng tự nhiên, thường xuất hiện vào mùa hạ và là dấu hiệu trước những trận
mưa rào
– Sấm trong thơ của Hữu Thỉnh là hình ảnh ẩn dụ độc đáo, phản chiếu những biến động, bất ổn của đời người
Hình ảnh “sấm” với trạng thái cảm xúc“bớt bất ngờ” và hình ảnh giàu tính hình tượng “hàng cây đứng
tuổi”:
– Câu thơ là cách tác giả miêu tả chân thực về một hiện tượng thời tiết khi sang thu: tiếng sấm có vẻ như đã
nhỏ dần, âm thanh của sấm không còn đủ sức làm lay động những hàng cây già, đã trải qua nhiều lần “sang
thu”
– Hai câu thơ là sự ẩn dụ về những con người từng trải, khi đã đến tuổi xế chiều, họ có nhiều kinh nghiệm hơn.
Đối với họ, những đổi thay, biến chuyển của cuộc đời không còn “bất ngờ” nữa. Thay vào đó, họ đã có thể
vững vàng và ung dung trước sự biến đổi của thời cuộc
=> Khổ thơ cuối với những hình ảnh giàu tính hình tượng, đã vè lên trọn vẹn bức tranh thiên nhiên và cảm xúc
đời người trong thời khắc sang thu.
III. Tổng kết chung phân tích Sang Thu
1. Về nội dung tác phẩm Sang thu
Bài thơ “Sang thu” là một khúc giao mùa nhẹ nhàng, thơ mộng mà tác giả Hữu Thỉnh muốn thông qua đó để
thể hiện những tâm tư và tình cảm của bản thân trước sự thay đổi của cuộc sống. Không những vậy, sự cảm
nhận tinh tế của tác giả về vẻ đẹp thiên nhiên với những bước chuyển mình từ hạ sang thu đã góp phần tô đậm
vẻ đằm thắm về mùa thu nơi làng quê Việt Nam.
2. Về nghệ thuật trong bài thơ Sang thu
– Sử dụng ngôn ngữ thơ và hình ảnh thơ gần gũi, giản dị nhưng vẫn giàu tính ẩn dụ, đặc sắc và ấn tượng
– Giọng thơ nhẹ nhàng, sâu lắng, đậm tính triết lí
– Kết hợp nhuần nhuyễn biện pháp nhân hóa, từ láy tạo nên nhiều tầng ý nghĩa, làm cho câu thơ trở nên sinh
động hơn
MÙA XUÂN NHO NHỎ
I. Thông tin về tác giả – tác phẩm
1. Tác giả: Thanh Hải
– Tên thật: Phạm Bá Ngoãn
– Nghệ danh: Thanh Hải
– Sinh năm 1930, mất năm 1980
– Quê quán: Phong Điền, Thừa Thiên Huế
Phong cách và nguồn cảm hứng trong sáng tác:
– Cảm hứng sáng tác của Thanh Hải thường lấy từ vẻ đẹp của thiên nhiên và tình yêu với cuộc sống
– Phong cách thơ Thanh Hải: ngôn ngữ giàu tính gợi hình, nhạc điệu, chan chứa cảm xúc chân thành. Chất liệu
sử dụng để sáng tác rất bình dị, gần gũi nhưng vẫn đậm chất tính triết lý về cuộc đời, hướng về tình yêu cuộc
sống tha thiết
2. Tác phẩm Mùa xuân nho nhỏ
a. Hoàn cảnh sáng tác Mùa xuân nho nhỏ
– Bài thơ được viết vào tháng 11 năm 1980 trong thời kỳ đất nước đã thống nhất và đang trên đà xây dựng cuộc
sống mới giữa vô vàn khó khăn, thử thách.
– Thanh Hải sáng tác “Mùa xuân nho nhỏ” không đầy một tháng trước khi qua đời vì bệnh nặng và nhận điều
trị tại bệnh viện Bạch Mai. Vì vậy, có thể nói, bài thơ như một lời tâm niệm chân thành của tác giả, gửi gắm
triết lý về lẽ sống cao cả, đẹp đẽ đến thế hệ sau
b. Bố cục nội dung
– Phần một: Phân tích khổ 1 bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Cảm xúc của tác giả trước khung cảnh mùa xuân của
thiên nhiên
– Phần hai: Phân tích khổ 2,3 bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Cảm nhận của tác giả trước mùa xuân của đất nước
– Phần ba: Phân tích khổ 4, 5, 6 – Khát vọng sống và lý tưởng sống cao đẹp bên trong tác giả.
II. Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ
1. Phần 1: phân tích khổ 1 – Cảm xúc của tác giả trước khung cảnh mùa xuân của thiên nhiên
Mở đầu bài thơ gợi ra một khung cảnh mùa xuân thiên nhiên trong trẻo và tràn đầy sức sống:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.”
Tác dụng của nghệ thuật đảo ngữ động từ “mọc” lên đầu câu:
– Nghệ thuật đảo ngữ giúp người đọc dễ dàng liên tưởng về hình ảnh “một bông hoa” tràn đầy sức sống đang
vươn mình lên từ từ khỏi mặt nước để đón nhận và hòa mình vào không khí của mùa xuân
– Động từ được đảo lên đầu câu thơ đã tô đậm thêm sức sống mạnh mẽ đến khác thường của “một bông hoa”
trên “dòng sông xanh” mà nhà thơ cảm nhận được
Vẻ đẹp của bức tranh xuân xứ Huế được cảm nhận qua hình ảnh “dòng sông xanh”, “bông hoa tím biếc” và
“con chim chiền chiện”:
– Những sự vật được tác giả liệt kê đều là những tín hiệu đặc trưng, báo hiệu cho mùa xuân xứ Huế đã đến
– Bức tranh mùa xuân thiên nhiên sinh động với không gian cao rộng, mênh mông của bầu trời dài rộng của
“dòng sông xanh”; âm thanh rộn rã vui tươi từ tiếng hót của những chú “chim chiền chiện”; màu sắc rực rỡ với
sự kết hợp giữa màu “xanh” của dòng sông, “tím biếc” của hoa
– Sử dụng những gam màu tươi tắn “xanh, tím”, tác giả đã vẽ lên bức tranh thiên nhiên mùa xuân đầy màu sắc,
trong trẻo và tươi sáng
– Sử dụng từ cảm thán “ơi” và “chi”, tác giả đã khiến người đọc liên tưởng đến một chất giọng ngọt ngào, thân
thương của một người con xứ Huế, đang bày tỏ cảm xúc trước thiên nhiên
Trước vẻ đẹp của mùa xuân đất trời, bất kỳ ai cũng phải cảm thấy ngỡ ngàng, xao xuyến và mong muốn sở
hữu:
“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.”
Tác giả sử dụng hình ảnh giàu sức gợi “giọt long lanh rơi” để biểu thị:
– Có thể là giọt mưa xuân hay giọt sương mai trong những buổi sáng, long lanh dưới ánh nắng xuân dịu nhẹ
– Xét trong mối tương quan với câu thơ trước, có lẽ “giọt” ở đây chính là tiếng hót của “con chim chiền chiện”.
Tiếng hót ấy vang vọng nhưng không hòa vào không gian mà cô đọng lại thành từng “giọt” trong vắt và “long
lanh”. Thứ “giọt” ấy đẹp và thuần khiết đến nỗi đã khơi dậy khao khát sở hữu của nhân vật trữ tình. Nó cũng
giải thích cho hành động vội vàng đưa đôi bàn tay để hứng lấy của nhân vật. Tiếng chim sau cách dùng từ của
tác giả đã chuyển từ cảm nhận bằng thính giác thành cảm nhận bằng thị giác, sau đó là xúc giác. Ở đây, tác giả
đã áp dụng thành công nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, mang đến một trải nghiệm mới cho người đọc
– Điệp từ “tôi” hai lần kết hợp với hành động “hứng” cho thấy sự trân trọng của thi nhân trước vẻ đẹp của
mùa xuân thiên nhiên. Đồng thời, thể hiện sự tận hưởng, chiếm lĩnh và hòa mình với mùa xuân của nhân vật trữ
tình
=> Sử dụng hình ảnh sinh động, nghệ thuật chuyển đổi cảm giác cùng một chút chất nhạc, tác giả đã phác họa
được một bức tranh mùa xuân xứ Huế với đầy đủ cả màu sắc, hình ảnh, âm thanh. Qua đó, bộc lộ được cảm
xúc ngây ngất trước vẻ đẹp của mùa xuân của thiên nhiên, niềm say xưa và khao khát hòa mình với thiên nhiên
đất trời của nhân vật trữ tình.
2. Phần 2: Phân tích khổ 2, 3 Mùa xuân nho nhỏ – Cảm nhận của tác giả trước mùa xuân của đất nước
Từ vẻ đẹp của mùa xuân của thiên nhiên đất trời, tác giả đã mở rộng tầm nhìn để khám phá, ngợi ca vẻ đẹp của
mùa xuân đất nước:
“Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy quanh lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao
Ðất nước bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
Ðất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước.”
Mùa xuân đất nước được tác giả cảm nhận qua hình ảnh “người cầm súng” và “người ra đồng”:
– Hình ảnh “người cầm súng” và “người ra đồng” biểu trưng cho hai đối tượng thực hiện hai nhiệm vụ chiến
lược quan trọng của đất nước ta trong thời kỳ kháng chiến. Đó là nhiệm vụ chiến đấu ở tiền tuyến và lao động
xây dựng kinh tế hậu phương
– Hình ảnh “người cầm súng” kết hợp với hình ảnh “lộc giắt đầy trên lưng” giúp liên tưởng đến vòng lá ngụy
trang của người chiến sĩ. Vào mùa xuân, những vòng lá nảy nở thành những chồi non, lộc biếc, cùng người
chiến sĩ ra trận để bảo vệ tổ quốc.
– Hình ảnh “người ra đồng” kết hợp với hình ảnh “lộc trải dài nương mạ” giúp liên tưởng đến khung cảnh màu
mỡ của những cánh đồng, được chăm bón bởi những bàn tay khéo léo gieo trồng của những người nông dân
nơi hậu phương
Tác dụng của điệp từ “mùa xuân” và “lộc”:
– Điệp từ giúp gợi lên quang cảnh mùa xuân đất trời tươi đẹp với những lộc non đâm chồi
– Ở một tầng nghĩa khác, biện pháp điệp từ là cách tác giả miêu tả thành quả của nhân dân ta trong công cuộc
dựng xây hậu phương vững chắc để góp phần bảo vệ tổ quốc
– Điệp từ “tất cả” cùng với những từ láy “hối hả”, “xôn xao” đã làm tăng nhịp điệu câu thơ, tạo nên cảm giác
về một nhịp sống sôi động và hối hả, tăng tính cấp bách trong nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ đất nước
Tác giả đã bày tỏ niềm tự hào và niềm tin vào tương lai tươi sáng khi đứng trước mùa xuân tươi đẹp của
đất nước:
“Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước.”
– Sử dụng hệ thống tính từ “vất vả”, “gian lao”, tác giả đã đúc kết ngắn gọn chặng đường 4000 năm dựng nước
và giữ nước qua 4 câu thơ, với biết bao khó khăn, thăng trầm và thử thách. Để có được mùa xuân trong hòa
bình như hôm nay, đất nước ta đã phải trải qua biết bao đau thương và mất mát, chứng kiến biết bao hy sinh
của ông cha trong lịch sử. Song chính lịch sử 4000 năm ấy đã khẳng định ý chí, sức mạnh và bản lĩnh của dân
tộc ta, giúp ta thêm trân trọng mùa xuân trong nền hòa bình hiện tại
Những liên tưởng và ý nghĩa sâu sắc được tác giả thể hiện qua hình ảnh so sánh “đất nước như vì sao”:
– Hình ảnh “vì sao” khiến người đọc dễ dàng liên tưởng đến nguồn sáng lấp lánh từ vũ trụ, tồn tại vĩnh hằng
cùng thời gian
– Khi so sánh “đất nước” với “vì sao” tác giả muốn nhắc đến hình ảnh dân tộc Việt Nam ta trong suốt 4000
năm lịch sử. Nhân dân ta từ trong bóng tối của ách nô lệ, đô hộ từ thực dân và đế quốc đã mạnh mẽ, kiên cường
đứng lên phá tan xiềng xích, thoát khỏi phong kiến, thực dân để tự mình tỏa sáng như những vì sao
– Thêm vào đó, ánh sao cũng thể hiện niềm tin của tác giả vào một tương lai tươi sáng, rộng mở của quê
hương, đất nước trong không khí toàn dân cùng nhau xây dựng và đổi mới đất nước mạnh mẽ
– Sử dụng điệp từ “đất nước” đi liền với cấu trúc song hành “đất nước bốn ngàn năm… đất nước như vì sao…”
có tác dụng diễn tả sự vận động đi lên của đất nước qua các thời điểm trong lịch sử và khẳng định sự trường tồn
của đất nước là vĩnh cửu
– Sử dụng cụm từ “cứ đi lên” tác giả đã nhấn mạnh ý chí, lòng quyết tâm và niềm tin sắt đá của mình vào tương
lai tươi sáng của đất nước và cả dân tộc về tương lai
=> Sử dụng giọng thơ vừa tha thiết vừa trang trọng cùng nhịp điệu sôi nổi, tác giả đã gói trọn niềm yêu mến tự
hào, tin tưởng vào tương lai tươi sáng của đất nước, nhân dân
3. Phần 3: Phân tích khổ 3, 4, 5 bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Khát vọng sống và lý tưởng sống cao đẹp
bên trong tác giả
“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến.
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.
Mùa xuân ta xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế…”
Từ những cảm xúc hạnh phúc đến niềm tin vào tương lai tươi sáng của đất nước, Thanh Hải đã viết ra
những lời ước nguyện, khao khát thật thiết tha, cảm động:
“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến.”
– Sử dụng đại từ “ta” giúp bộc lộ một trực tiếp tâm niệm của thi nhân trước vẻ đẹp mùa xuân của thiên nhiên và
mùa xuân của đất nước
– Sử dụng điệp cấu trúc ngữ pháp “Ta làm… Ta nhập…” đặt ở vị trí đầu của ba câu thơ trong phần 3 đã khiến
cho nhịp điệu thơ trở nên nhẹ nhàng hơn nhịp điệu nhộn nhịp trong khổ thơ trước. Từ đó, khiến cho câu thơ
như một lời thủ thỉ tâm tình về ước nguyện hóa thân, hiến dâng cho quê hương, đất nước của nhà thơ.
Sử dụng hệ thống hình ảnh gần gũi “con chim hót’’, “cành hoa”, “nốt trầm xao xuyến” để thể hiện nhiều cảm
xúc, khát vọng bên trong tác giả:
– Các sự vật nhân vật trữ tình lựa chọn để hóa thân đều hết sức giản dị, nhỏ bé. Tuy vậy, chính mong muốn
bình thường này đã cho thấy ước nguyện có phần khiêm nhường, cao quý của thi nhân.
– Những hình ảnh tiếng chim và cành hoa có sự đối xứng chặt chẽ với những hình ảnh mở đầu của bài thơ.
Điều đó đã khẳng định một lẽ tự nhiên, tất yếu: Tiếng hót của chim vốn để làm vui cho đời; hương sắc của hoa
góp phần điểm sắc cho mùa xuân thêm đằm thắm; nốt trầm là nốt nhạc không thể thiếu trong bất kỳ bản hòa ca
nào, giúp tạo sự lắng đọng cho giai điệu của mùa xuân
– Các hình ảnh còn gợi cho ta liên tưởng về mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, giữa con người với thiên
nhiên, quê hương, đất nước
=> Dù đứng trước bệnh tật và cái chết cận kề nhưng khi chiêm ngưỡng vẻ đẹp mùa xuân, tác giả chỉ mong
muốn cống hiến thật nhiều cho đời, cho đất nước và theo đuổi lẽ sống đó đến hết đời.
Từ khát vọng sống cao quý, mong muốn được cống hiến cho đời, cho cộng đồng, tác giả đã nâng lên thành
một lí tưởng sống cao cả. Lí tưởng sống được thể hiện rõ qua 4 câu thơ:
“Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.”
– Sử dụng hình ảnh ẩn dụ đặc sắc “mùa xuân nho nhỏ” nói lên lý tưởng sống cao đẹp của nhà thơ: Trong muôn
vạn vật tươi đẹp đã chứng kiến, tác giả chỉ ao ước được làm một “mùa xuân nho nhỏ”, góp chút vẻ đẹp của
mình để tô điểm thêm cho mùa xuân lớn của dân tộc.
Ý nghĩa của việc sử dụng từ láy “nho nhỏ”:
– Cái “nho nhỏ” mà tác giả nói đến cho thấy nhận thức của tác giả về vai trò của bản thân trong cộng đồng. Khi
càng biết nhiều, càng mở rộng tầm hiểu biết thì tác giả lại cảm thấy bản thân mình nhỏ bé. Với tình yêu quê
hương đất nước nồng nàn, mong muốn của tác giả chỉ là góp một “mùa xuân nho nhỏ” của bản thân vào mùa
xuân lớn của cả dân tộc – một ước nguyện khiêm tốn và giản đơn
– Có lẽ nhà thơ chỉ muốn góp những gì đẹp đẽ và tinh túy nhất của cuộc đời mình cho mùa xuân đất nước
– Sử dụng tính từ “lặng lẽ” đã khắc họa vẻ đẹp trong sáng, thuần khiết của một tâm hồn, lối sống và nhân cách:
Mùa xuân của tác giả không có sự ồn ào, khoa trương, nhộn nhịp mà chỉ lặng lẽ, âm thầm hiến dâng. Mong
muốn dâng hiến mùa xuân cho đời được thực hiện một cách tự nguyện, tác giả không đòi hỏi bất kỳ sự đền đáp
nào. Điều đó là minh chứng rõ ràng cho lối sống đẹp đẽ, khiêm nhường và trong sáng nhất mà con người cần
hướng tới trong công cuộc phát triển đất nước
– Sử dụng biện pháp nghệ thuật điệp cấu trúc ngữ pháp “Dù là… Dù là…”, kết hợp cùng hình ảnh tương phản
“tuổi hai mươi” và “khi tóc bạc” tác giả như biến câu thơ trở thành một lời hứa, lời tự nhủ với chính mình trong
quá khứ, hiện tại và tương lai. Hơn nữa, qua phép nghệ thuật, tác giả muốn ngầm khẳng định sự tồn tại bền
vững của lí tưởng sống cống hiến, hi sinh và khát vọng sống cao đẹp
=> 4 câu thơ là lời tổng kết của nhà thơ về toàn bộ cuộc đời mình với các mốc thời gian khác nhau. Đó là một
cuộc đời đẹp, xứng đáng để chúng ta suy ngẫm, học tập và noi theo các triết lý sống trong đó
Kết thúc bài thơ, tác giả đã khép lại vẻ đẹp mùa xuân trong giai điệu ngọt ngào, êm dịu của làn điệu dân ca
trữ tình xứ Huế:
“Mùa xuân ta xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế.”
Đặc trưng của giai điệu dân ca xứ Huế để thể hiện cảm xúc tận sâu bên trong tác giả:
– Câu “Nam ai” là khúc nhạc buồn thương. Khúc hát phản chiếu con đường đầy hi sinh, gian khổ mà đất nước
đã trải qua trong 4000 năm
– Câu “Nam bình” là khúc nhạc êm ái, dịu ngọt. Câu hát giúp gợi ra bức tranh khung cảnh mùa xuân của hiện
tại, thanh bình và no ấm
– “Nhịp phách tiền” là điệu nhạc rộn ràng đặc trưng của xứ Huế (quê hương của tác giả). Nhịp phách đã thay
nhân vật trữ tình đã khép lại bài thơ với âm hưởng của một cuộc sống mới, tràn trề sức sống của dân tộc
=> Kết thúc bài thơ là tình yêu đời, yêu cuộc sống trỗi dậy thật mãnh liệt. Tình cảm ấy đã trở thành khúc hát
tâm tình đầy cảm động, cao quý và đáng trân trọng như chính cuộc đời của tác giả.
III. Tổng kết chung phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ
1. Về nội dung
Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” đã tái hiện thành công vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên, mùa xuân đất nước qua
góc nhìn của nhân vật trữ tình. Qua đó làm nổi bật triết lý sống cao đẹp là sẵn sàng dâng hiến cuộc đời mình
cho đất nước, sống vì cộng đồng, tập thể của tác giả.
2. Về nghệ thuật
– Sử dụng thể thơ năm chữ và cách gieo vần liền giữa các khổ thơ góp phần tạo ra sự liền mạch của cảm xúc.
– Toàn bài thơ sử dụng ngôn ngữ và hình ảnh thơ giản dị, trong sáng nhưng vẫn sinh động và giàu sức gợi.
– Bài thơ diễn tả cảm xúc chân thành, tha thiết của tác giả, trở thành tiếng lòng của nhà thơ Thanh Hải với đất
nước và với cuộc đời.