You are on page 1of 42

VIẾNG LĂNG BÁC

I. Thông tin về tác giả – tác phẩm


1. Tác giả: Viễn Phương
– Tên thật: Phan Thanh Viễn (bút danh: VIễn Phương, Đoàn Viễn)
– Sinh năm 1928 mất năm 2005 tại TP.HCM
– Quê quán: xã Tân Châu, tỉnh An Giang
– Viễn Phương là một trong những gương mặt nhà thơ tiêu biểu trong lực lượng văn nghệ giải phóng miền
Nam
– Năm 2001, Viễn Phương được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật
Cảm hứng sáng tác và phong cách thơ:
– Trong các tác phẩm của mình, Viễn Phương chủ yếu tập trung khám phá, ca ngợi vẻ đẹp của đất nước, con
người trong những cuộc chiến đấu trường kỳ và đầy gian khổ của dân tộc.
– Trong giới nghệ thuật, thơ Viễn Phương được đánh giá là nền nã, man mác, có sự day dứt mà không hề cầu
kỳ, kênh kiệu, khoa ngôn. Thơ của ông chính là tấm gương phản chiếu những gì nhìn thấy trong đời sống của
ông
– Phong cách thơ: giàu cảm xúc, sâu lắng, tha thiết; giọng thơ nhỏ nhẹ, trong sáng như đang thầm thì; ngôn ngữ
thơ đậm đà bản sắc dân tộc
2. Tác phẩm Viếng Lăng Bác
a. Hoàn cảnh ra đời “Viếng Lăng Bác”
– Bài thơ được in trong tập thơ “Như mây mùa xuân”, xuất bản năm 1978
– Bài thơ “Viếng lăng Bác” được sáng tác vào tháng 4 năm 1976, một năm sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ
kết thúc thắng lợi, miền Nam giải phóng, đất nước thống nhất. Năm 1976 cũng là thời điểm công trình lăng
Chủ tịch Hồ Chí Minh khánh thành. Viễn Phương trên danh nghĩa là một trong số ít đồng bào chiến sĩ miền
Nam đã có cơ hội viếng thăm lăng Bác. Bài thơ là những cảm xúc của nhà thơ khi đứng trước lăng của Hồ Chủ
tịch. Đó là những xúc động thiêng liêng, sự thành kính và lòng biết ơn vô hạn của Viễn Phương dành cho “vị
cha già của dân tộc”
b. Giọng thơ
Cả bài thơ toát lên sự thành kính, trang nghiêm, nhẹ nhàng, trầm lắng, tương tự với tâm trạng của tác giả và
không khí trong ngày viếng lăng Bác
c. Bố cục nội dung
Bài thơ bao gồm 4 khổ tương ứng với 4 nội dung chính, cụ thể:
– Khổ 1 (phần đầu): Cảm xúc của tác giả khi lần đầu đứng trước lăng Bác
– Khổ 2 (phần hai): Tâm trạng, cảm xúc của tác giả khi chứng kiến dòng người vào viếng lăng Bác
– Khố 3 (phần ba): Cảm xúc của tác giả khi vào trong lăng và nhìn thấy Bác
– Khổ 4 (phần cuối): Cảm xúc của tác giả khi hoàn thành chuyến viếng lăng Bác và nói lời tạm biệt
II. Phân tích bài thơ Viếng Lăng Bác Ngữ Văn 9
1. Phân tích khổ thơ 1 tác phẩm Viếng lăng Bác: Cảm xúc của tác giả khi lần đầu đứng trước lăng Bác
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng”
Viễn Phương vốn là một người con miền Nam, từng tham gia chiến đấu nơi chiến trường Nam Bộ xa xôi. Cũng
như bao đồng bào và chiến sĩ miền Nam khác, Viễn Phương luôn mong mỏi một ngày được ra thăm Bác. Vì
vậy, khi đứng trước lăng Hồ Chủ tịch, đặc biệt sau khi miền Nam giải phóng, thống nhất đất nước, nhà thơ đã
không giấu nổi sự xúc động
Cảm xúc bồi hồi xen lẫn sự xúc động sâu xa thể hiện ngay trong câu thơ đầu tiên:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”
– Sử dụng ngôn từ giản dị, câu thơ như một lời trần thuật, thông báo ngắn gọn: tác giả từ miền Nam, nơi tuyến
đầu chống dịch của Tổ quốc, sau bao nhiêu năm mong mỏi nay cũng được về thăm Bác, vào đúng thời điểm
lăng Bác vừa khánh thành.
Nét đặc sắc trong việc tác giả sử dụng đại từ nhân xưng thân tình “Con – Bác”:
– Đây là lối nói đặc trưng người miền Nam: thể hiện tình cảm mà tác giả dành cho Bác mang một sự gần gũi,
thân thiết, như mối quan hệ giữa hai người thân ruột thịt
– Đại từ nhân xưng thân tình còn thể hiện được lòng tôn kính và tình cảm yêu thương ruột thịt.
– Tạo cảm giác như một đứa con xa nhà, nay mới được trở về bên vị cha già kính yêu của dân tộc
Sử dụng biện pháp nghệ thuật tu từ nói giảm, nói tránh khi qua từ “thăm” để thay cho từ “viếng”
– Hai từ tuy biểu thị cùng một hoạt động nhưng với từ “thăm”, tác giả muốn dùng nhằm giảm bớt nỗi đau
thương, mất mát khi những đứa con từ miền Nam chỉ còn được gặp Bác trong Lăng
– Từ ngữ nhằm giảm bớt sự tiếc nuối của tác giả khi Bác đã không thể cùng nhân dân, đặc biệt là những người
con Miền Nam, cùng đón nền hòa bình độc lập dân tộc mà Bác đã cống hiến cả đời để thực hiện hóa
– Nghệ thuật dùng từ khai thác hình tượng bất tử của Bác không chỉ trong lòng những người con miền Nam mà
còn đối với cả dân tộc Việt Nam.
=> Câu thơ đầu tiên với sự giản dị như một lời kể, đã bộc lộ tình cảm bao lâu nay của người con miền Nam,
sau bao đợi chờ cuối cùng cũng được về thăm Người
Khi đứng trước lăng Chủ tịch kính yêu, tác giả đã viết về ấn tượng đầu tiên về hàng tre xanh mát trong 3
câu thơ tiếp theo:
“Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”
– Sử dụng từ cảm thán “Ôi!”, tác giả đã biểu thị niềm xúc động, niềm tự hào trước hình ảnh hàng tre đứng
quanh lăng Bác
– Hình ảnh “hàng tre bát ngát” vừa có ý nghĩa là hình ảnh tả thực về quang cảnh tác giả đã nhìn thấy quanh
lăng Bác, vừa liên tưởng đến những xóm làng Việt Nam với sự gần gũi, thân thương
Nghệ thuật ẩn dụ trong hình ảnh “hàng tre xanh xanh Việt Nam” mang ý nghĩa tượng trưng:
– Tre vốn là loài cây thường xuyên xuất hiện trong các câu chuyện dân gian Việt Nam. Sức sống tràn trề của tre
tượng trưng cho những con người Việt Nam trong chiến tranh, mạnh mẽ và kiên cường
– “Hàng tre” mà tác giả miêu tả gợi hình ảnh một quân đội hùng tráng với tinh thần kiên cường, bất khuất. Dù
trong “bão táp mưa sa”, “hàng tre” ấy vẫn đứng bên cạnh canh giữ cho giấc ngủ ngàn thu của Người
– Sử dụng thành ngữ “bão táp mưa sa” gắn với “hàng tre”, tác giả đang tự mình nhớ về những khó khăn, gian
khổ mà đất nước, nhân dân ta đã cùng nhau trải qua. Trong những cuộc chiến khắc nghiệt ấy, dân ta đã phải
“chung lưng, đấu cật” để mang lại hòa bình độc lập như ngày hôm nay
– Cách miêu tả hình ảnh hàng tre qua cụm từ “đứng thẳng hàng” đã đem lại cho người đọc hình dung về dáng
dấp cứng cỏi, hiên ngang, kiên cường, bất khuất, đúng như tính cách vốn có của người dân Việt Nam
=> Khổ thơ đầu diễn tả niềm xúc động sâu sắc, niềm tự hào, thành kính của tác giả khi có dịp đến thăm và
đứng trước lăng Bác sau bao ngày tháng mong mỏi
2. Phân tích khổ thơ 2 bài thơ Viếng Lăng Bác Ngữ Văn 9: Tâm trạng, cảm xúc của tác giả khi chứng
kiến dòng người vào viếng lăng Bác
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…”
4 câu thơ là hình ảnh của dòng người vào viếng lăng Bác với nỗi tiếc thương và lòng biết ơn vô hạn.
Tác dụng của nghệ thuật sóng đôi giữa hai hình ảnh “mặt trời” của thiên nhiên và “mặt trời” ẩn dụ:
– Trong câu thơ “Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng” mặt trời chính là hình ảnh tả thực. Đây là mặt trời của
mẹ thiên nhiên, mặt trời mà chúng ta thường biết đến, giúp sưởi ấm, soi sáng không gian vũ trụ và mang lại sự
sống cho vạn vật
– Trong câu thơ “Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ” mặt trời là hình ảnh ẩn dụ về Bác Hồ. Đối với nhân dân
Việt Nam, Bác chính là mặt trời chân lí, giúp sưởi ấm và soi sáng cho dân tộc thoát khỏi kiếp nô lệ, thoát khỏi
chiến tranh và có một cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
– Hình ảnh ẩn dụ mặt trời cho thấy tấm lòng thành kính, lòng biết ơn sâu sắc mà tác giả cũng như người dân cả
nước đang và sẽ mãi dành cho Bác
– Sử dụng biện pháp nghệ thuật nhân hóa với hai hành động ngày ngày “đi qua trên lăng” và thấy trong lăng có
một mặt trời “rất đỏ” có tác dụng tô đậm tầm vóc vĩ đại của Người trong mắt những người con xa xứ như Viễn
Phương
– Sử dụng chi tiết đặc tả “rất đỏ”, tác giả đã tô đậm vẻ đẹp trong trái tim đầy nhiệt huyết vì Tổ quốc, vì nhân
dân của Bác. Tuy Bác đã mất nhưng trái tim ấy cùng với lòng yêu nước nồng nàn sẽ mãi sáng chói như mặt
trời, sẽ soi sáng cho dân tộc từ nay về sau
Hình ảnh “dòng người” kết hợp với điệp từ “ngày ngày”:
– Sử dụng điệp ngữ “ngày ngày”: chỉ dòng thời gian vô tận giống như tấm lòng của người dân chưa bao giờ
nguôi nỗi nhớ về Bác; mang nỗi tiếc thương vô hạn trước thời khắc tiến vào lăng Bác
– “Dòng người” là từ mang giá trị tạo hình, thể hiện quang cảnh nhiều đoàn người nối hàng dài vào lăng để
viếng Bác. Có thể thấy, tình thương mà người dân dành cho Bác là vô cùng lớn, đến mức họ chấp nhận xếp
thành từng hàng chỉ để được vào nhìn Bác, gặp Bác ít nhất 1 lần trong đời
– Sử dụng hình ảnh “tràng hoa” để ẩn dụ cho những đoàn người, cho ta thấy khung cảnh “dòng người” đông
như kết lại thành hàng vạn trái tim, thành một “tràng hoa” với tấm lòng thương xót, thành kính dâng lên Bác
– Sử dụng hình ảnh hoán dụ “bảy mươi chín mùa xuân”, tác giả muốn nhắc đến 79 năm trong cuộc đời của
Bác, ứng với 79 mùa xuân mà Bác đã hi sinh cho độc lập tự do của toàn dân tộc
=> Khổ thơ thứ hai đã lột tả được một cách rõ nét tấm lòng tiếc thương của nhân dân cả nước dành cho “vị Cha
già kính yêu” của dân tộc. Tuy đã ra đi nhưng trái tim và sự hi sinh của Người sẽ luôn sống và được nhân dân
khắc ghi ngàn đời sau.
3. Phân tích khổ thơ 3 : Cảm xúc của tác giả khi vào trong lăng và nhìn thấy Bác
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”
Khi vào đến trong lăng, thời gian như ngưng đọng trong không khí yên bình, trang nghiêm cùng ánh sáng dịu
nhẹ, trong trẻo của không gian bên trong lăng Bác:
“Bác nằm trong lăng giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền.”
– Sử dụng biện pháp nghệ thuật nói giảm “giấc ngủ” để miêu tả hình ảnh Bác nằm trong lăng. Tác giả dường
như đang muốn phủ nhận sự thật đau lòng rằng Bác đã mất. Tuy nhiên trong mắt tác giả, Bác như chỉ đang ngủ
một giấc bình yên vì sau bao năm cống hiến, hi sinh vì đất nước, nay ngày độc lập tự do đã đến, mong ước cả
cuộc đời của Bác đã được toại nguyện
Sử dụng hình ảnh “vầng trăng sáng dịu hiền” mang nhiều ý nghĩa ẩn dụ:
– HÌnh ảnh “vầng trăng sáng” như đại diện cho tâm hồn, phong cách sống thanh tao, cao đẹp của Bác trong
suốt cuộc đời
– Cách tác giả đưa hình ảnh “vầng trăng” đã bộc lộ tấm lòng biết ơn sâu sắc dành cho Bác, với tư cách là một
người con miền Nam
– Hồ Chí Minh vốn nổi tiếng với các tập thơ viết về ánh trăng, việc sử dụng hình ảnh “vầng trăng” như một
cách tác giả gửi lời tri ân đến những tác phẩm thơ ca của Bác, dưới danh nghĩa là một nhà thơ, từng trưởng
thành trong chiến tranh
Sử dụng hình ảnh ẩn dụ sâu xa “Vẫn biết trời xanh là mãi mãi” để thể hiện tâm trạng xúc động của nhà
thơ
– “Trời xanh” trong lớp nghĩa đầu tiên được hiểu là thiên nhiên, là bầu trời thân thuộc của chúng ta. Một bầu
trời bao la rộng lớn, cùng với “mặt trời”, tồn tại vĩnh hằng theo thời gian
– “Trời xanh” trong lớp nghĩa thứ hai mang nghĩa ẩn dụ sâu xa về hình ảnh Bác. Trong mắt người dân Việt
Nam, Bác sẽ gắn bó mãi với non sông đất nước, với tình yêu nước lan tỏa đến toàn dân, như “trời xanh” vĩnh
hằng và ánh sáng “mặt trời” không bao giờ tắt
Tuy đã coi hình bóng của Bác sẽ sống mãi theo thời gian nhưng nhân dân vẫn không thể tránh khỏi tâm
trạng đau xót và nuối tiếc trước sự ra đi của Bác. Niềm tiếc nuối ấy được thể hiện rõ nhất qua câu thơ:
“Mà sao nghe nhói ở trong tim”
– Sử dụng từ biểu cảm trực tiếp: “Nhói”, tác giả đã biểu hiện một nỗi đau đột ngột, quặn thắt. Đây không phải
sự mất mát thông thường mà là nỗi đau tận đáy sâu trong tâm hồn của một người con xa xứ, một nỗi đau đầy
uất nghẹn đến nỗi không nói thành lời. Tất cả những gì mà tác giả có thể miêu tả về sự mất mát ấy chính là
“nhói” – sự nhức nhối, cơn đau quặn đến từ bên trong mà khó có thể ngừng lại
– Tác giả sử dụng cặp quan hệ từ “vẫn” và “mà” để diễn tả sự mâu thuẫn. Sự mâu thuẫn giữa cảm giác “nhói”
với sự thật “trời xanh là mãi mãi”. Đó là mâu thuẫn giữa tình cảm và lý trí. Con người tuy biết được sự thật
nhưng đứng trước khoảnh khắc thiêng liêng, vẫn không thể thoát khỏi phút yếu lòng
=> Cảm xúc trong 4 câu thơ này là đỉnh điểm của nỗi nhớ thương, của niềm đau xót khi đứng trước di hài của
Bác. Và đó cũng là nguyên nhân dẫn đến khát vọng của tác giả trong khổ cuối của bài thơ
4. Phân tích khổ thơ 4: Cảm xúc của tác giả sau khi hoàn thành chuyến thăm lăng Bác và nói lời tạm biệt
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…”
Sau khi được gặp Bác đúng như ý nguyện, tác giả dường như không muốn rời xa Bác. Nỗi đau mất mát cùng
những giọt nước mắt đầy lưu luyến đã được diễn tả qua câu thơ:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt”
– Sử dụng từ chỉ thời gian “mai” đi liền với địa danh “miền Nam” thể hiện sự chia xa, xa cách cả về thời gian
và không gian. Tuy khoảng cách có xa nhưng tấm lòng, tình cảm của tác giả, của những người con miền Nam
vẫn dõi theo hình bóng của Người, muốn ở bên Người lâu hơn
– Bằng lối nói diễn tả cảm xúc: “thương trào nước mắt”, tác giả đã cụ thể hóa nỗi nhớ thương vô cùng da diết.
Cảm xúc “trào nước mắt” mặt khác còn thể hiện sự gắn bó của tác giả với miền Bắc (nơi đặt lăng Bác), với Bác
Hồ trong trái tim của những người con miền Nam.
Sau khi hoàn thành chuyến thăm lăng Bác và nói lời tạm biệt, tác giả dường như đang bày tỏ khát vọng hóa
thân, làm sao để được ở lại bên Bác lâu hơn. Khát vọng ấy thể hiện rõ nét qua ba câu thơ cuối của bài thơ:
“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.”
– Ba câu thơ với nhịp điệu dồn dập, kết hợp cùng điệp từ “muốn làm” ở đầu cho mỗi dòng thơ đã góp phần tô
đậm sự tha thiết, mong ước mãnh liệt của tác giả khi muốn bất chấp hóa thân thành vạn vật, chỉ để được ở gần
bên Bác
Phân tích hệ thống hình ảnh giàu sức gợi mà tác giả đã sử dụng trong mong muốn hóa thân của mình:
“con chim”, “đóa hoa”, “cây tre”
– Với lớp nghĩa thực: chim, hoa hay hàng cây tre chính là những sự vật có trong lăng Bác. Tác giả vừa muốn ở
lại bên Bác, vừa muốn góp cuộc đời mình để tô đẹp thêm cho cảnh quan quanh lăng. Tác giả ước được hóa thân
thành “con chim” để cất tiếng hót làm vui lăng Bác; muốn làm “đóa hoa” để mang lại sắc hương trong vườn
hoa quanh lăng. Cuối cùng, tác giả ao ước được làm là “cây tre trung hiếu” để hòa vào “hàng tre bát ngát”, bất
khuất, kiên cường, tỏa bóng mát cho lăng mãi theo thời gian
– Với lớp nghĩa ẩn dụ: Tác giả mong muốn được ở lại miền Bắc, cạnh bên Bác để canh cho Người giấc ngủ
yên. Hơn nữa, để có thể nghe được tiếng hót của chim, thưởng thức hương sắc của những đóa hoa thì cần sự hi
sinh lớn lao của Bác. Vì vậy, tác giả muốn thông qua các sự vật trên để bày tỏ niềm biết ơn sâu sắc dành cho
Bác. Đồng thời qua hình ảnh “cây tre” tác giả cũng muốn tôn vinh vẻ đẹp bất khuất, trung hiếu của con người
Việt Nam.
=> Bài thơ đã khép lại bằng hình ảnh “cây tre trung hiếu”, tương đồng với hình ảnh “hàng tre bát ngát” ở đầu
bài thơ, xây dựng thành một kết cấu đầu cuối tương ứng, thể hiện được mong ước và tấm lòng tác giả dành cho
Bác.

III. Tổng kết chung phân tích bài thơ Viếng lăng Bác
1. Về nội dung
Bài thơ là niềm xúc động thiêng liêng, thành kính và niềm tự hào, đau xót của nhà thơ Viễn Phương, người
đồng bào miền Nam khi thăm lăng Bác sau khi miền Nam giải phóng, thống nhất đất nước.
2. Về nghệ thuật
– Bài thơ được viết với giọng điệu nhẹ nhàng, trầm lắng, phù hợp với nội dung tình cảm, cảm xúc của khung
cảnh viếng lăng Bác: trang nghiêm, sâu lắng, đau xót và tự hào
– Thể thơ 8 chữ xen lẫn dòng thơ 7 hoặc 9 chữ, kết hợp với nhịp thơ chậm đã diễn tả sự trang nghiêm, thành
kính và những cảm xúc sâu sắc của tác giả trong ngày thăm lăng Bác. Đặc biệt với khổ thơ cuối, nhịp thơ có
phần nhanh hơn, dồn dập hơn qua biện pháp tu từ điệp ngữ, đã bộc lộ chính xác tâm tư, tình cảm và sự khát
khao, niềm mong ước hóa thân của tác giả
– Tác giả đã sử dụng hệ thống hình ảnh thơ sáng tạo, đặc sắc, kết hợp nhuần nhuyễn giữa hình ảnh tả thực với
hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng. Những hình ảnh ẩn dụ mang tính biểu tượng có thể kể đến như “mặt trời trong
lăng”, “tràng hoa”, “trời xanh” vừa mang đến vẻ quen thuộc, gần gũi, vừa có sự sâu sắc và mang lại giá trị biểu
cảm cao cho bài thơ

NÓI VỚI CON


I. Thông tin về tác giả – tác phẩm
1. Tác giả: Y Phương
– Tên thật: Hứa Vĩnh Sước
– Sinh năm 1948, mất ngày năm 2022
– Quê quán: tại làng Hiếu Lễ, xã Lăng Hiếu, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng (ông là người dân tộc Tày)
– Ông là một trong những gương mặt nhà thơ tiêu biểu thuộc lớp các nhà thơ xuất thân từ dân tộc miền núi
– Y Phương có niềm đam mê dành cho văn chương từ rất sớm, ham mê đọc sách ngay từ nhỏ
– Ngoài ra, Y Phương đã trải qua cuộc đời người lính đặc công từ năm 1968 và con đường đến với thơ ca của
ông cũng rất tình cờ và ngẫu nhiên
Cảm hứng trong sáng tác và phong cách nghệ thuật:
– Y Phương luôn đi tìm cái mới, cái độc đáo trong những sáng tác của mình, tuy nhiên vẫn giữ cho mình khuôn
phép riêng, ngay cả trong đời sống thực.
– Người đọc có thể dễ dàng tìm thấy ở Y Phương một tiếng nói chung, đồng cảm, bởi lẽ cuộc sống đời thường
và trong thơ của ông chính là một
– Các tác phẩm thơ của Y Phương được lấy chất liệu chủ yếu từ gia đình, quê hương và đất nước
– Phong cách sáng tác: Ngôn ngữ thơ gần gũi, giản dị, hồn nhiên, mang đặc trưng lối tư duy của người vùng
cao. Hình ảnh thơ được tác giả vận dụng phong phú, mang giá trị biểu tượng cao;…
– Văn chương nghệ thuật với Y Phương có thể coi là một trò chơi ngôn ngữ nhằm thỏa mãn cho chính bản thân
nhà thơ và cho người đọc
Các tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp sáng tác của Y Phương:
Người của núi” (1982); Tháng Giêng – tháng Giêng một vòng dao quắm (2009); Nói với con (1980); Người núi
Hoa (1982); Tiếng hát tháng giêng (1986); Lời chúc (1991); Thất tàng lồm (Ngược gió, 2006); Hoa quả chuông
(Bjooc ăn lình); Đò trăng (trường ca),…

2. Tác phẩm Nói với con


a. Hoàn cảnh ra đời “Nói với con”
– Bài thơ được in trong tập thơ “Thơ Việt Nam”
– Bài thơ “Nói với con” được sáng tác vào năm 1980, 5 năm sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước. Đây là giai đoạn mà đời sống của nhân dân nói chung gặp rất nhiều khó khăn, cả về vật chất lẫn tinh
thần. Trong tâm sự của Y Phương, ông từng nói rằng: “Đó là thời điểm đất nước ta gặp vô vàn khó khăn… Bài
thơ là lời tâm sự của tôi với đứa con gái đầu lòng.”
– Ngoài là lời tâm sự với con, tác phẩm còn là lời tâm sự với chính mình. Y phương giải thích: lý do để ông ra
sáng tác bài thơ chính là khi ông không biết lấy gì để vịn, để tin. Khi cả xã hội lúc bấy giờ đều đang hối hả, gấp
gáp kiếm tìm tiền bạc. Vì vậy, muốn sống đàng hoàng như một con người, cần phải bám vào nền tảng văn hóa,
tin vào những giá trị tích cực, vĩnh cửu của văn hóa. Qua bài thơ ấy, Y Phương muốn gửi thông điệp rằng
chúng ta phải vượt qua sự ngặt nghèo, đói khổ ấy bằng văn hóa.” Bài thơ đối với Y Phương như một lời tâm sự
với chính mình, mục đích là để động viên bản thân, đồng thời để lại lời nhắc nhở cho các thế hệ mai sau.
b. Ý nghĩa nhan đề “Nói với con”
Nhan đề “Nói với con” ngắn gọn, nhưng đã khái quát lên nội dung chính của bài thơ đó là lời trò chuyện, tâm
sự của người cha với đứa con của mình. Qua đó, tác giả muốn nhắn nhủ tới thế hệ sau cần tiếp nối, phát huy và
gìn giữ truyền thống tốt đẹp của quê hương, đất nước. Nhắc nhở con nhìn vào cội nguồn mà sống sao cho xứng
đáng
c. Bố cục nội dung
Bố cục bài thơ được chia thành 2 phần với nội dung cụ thể như sau:
– Phần một – Đoạn 1: Nhắc nhở về cội nguồn sinh thành và nuôi dưỡng con
– Phần hai – Đoạn 2: Đề cao những phẩm chất cao quý của người đồng mình và mong con tiếp nối truyền
thống cao đẹp đó

II. Phân tích bài thơ Nói với con


1. Phân tích khổ thơ đầu bài Nói với con: Nhắc nhở về cội nguồn sinh thành và nuôi dưỡng con
“Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười
Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.”
Trong những lời tâm tình đầu tiên, tác giả đã nhắc về cội nguồn sinh thành và nuôi dưỡng con:
“Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười.”
– Sử dụng hệ thống từ ngữ giàu giá trị tạo hình như “chân phải”, “chân trái”, “một bước”, “hai bước” tác giả đã
giúp người đọc liên tưởng đến hình ảnh một đứa trẻ đang tập đi những bước chân chập chững đầu tiên trong sự
vui mừng, hân hoan của cha mẹ
Sử dụng thủ pháp liệt kê lần đầu qua hình ảnh “tiếng nói”, “tiếng cười” góp phần:
– Liên tưởng đến hình ảnh em bé đang ở tuổi bi bô tập nói, tập cười
– Tạo ra không khí đầm ấm của một gia đình hòa thuận, luôn tràn ngập hạnh phúc, tràn đầy tiếng nói, tiếng
cười
Sử dụng thủ pháp liệt kê lần hai qua hình ảnh “tới cha”, “tới mẹ” đã giúp tác giả:
– Tái hiện hình ảnh em bé sà vào lòng mẹ, níu lấy tay cha khi đang chập chững tập đi
– Thể hiện tình cảm của cha mẹ, luôn dõi ánh mắt theo con và luôn dang rộng vòng tay đón đợi con bước đến
– Sử dụng nhịp thơ 2/3 với cấu trúc đối xứng đã tạo nên không khí vui tươi, bình yên, êm đềm của mái ấm gia
đình đầm ấm, hạnh phúc.
=> 4 câu thơ đầu với lời thơ giản dị như một lời tâm tình thủ thỉ mà Y Phương muốn nhắn nhủ tới con, rằng gia
đình chính là cội nguồn, là nơi sinh thành và nuôi dưỡng con từ những bước chân đầu tiên. Chính vì vậy, trên
hành trình vạn dặm của con về sau, con không được phép quên công lao dưỡng dục của cha mẹ
Song song với gia đình là quê hương, là nơi con sinh ra, nơi gia đình con thuộc về. Nhờ có quê hương con
mới khôn lớn và trưởng thành như ngày hôm nay:
“Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng.”
– Tác giả sử dụng cụm từ “người đồng mình” để thể hiện lối nói đặc trưng của người vùng cao về quê hương
hay người đồng hương cho thấy ngay cả trong thơ, tác giả vẫn đem đến nét đặc trưng riêng của dân tộc mình
– Cách giới thiệu “người đồng mình” đi liền với ngôn ngữ hô gọi “con ơi” đã giúp lời tâm sự giữa hai cha con
trở nên thật trìu mến và thân thương
Kết hợp ngôn ngữ thân thuộc và hệ thống hình ảnh đã gợi ra nhiều ý nghĩa:
– “Đan lờ cài nan hoa” là hình ảnh tả thực công cụ lao động thô sơ, đã được “người đồng mình” trang trí và trở
nên đẹp đẽ. Chi tiết này đã thể hiện sự cần cù, tài hoa và sáng tạo của người dân nơi quê hương tác giả. Họ có
thể khiến cho những nan nứa, nan tre đơn sơ, thô mộc trở thành những “nan hoa” trang trí.
– “Vách nhà ken câu hát” là hình ảnh tả thực lối sinh hoạt trong văn hóa cộng đồng người Tày. Những “vách
nhà” có thêm hát si, hát lượn đã gợi ra một thế giới tâm hồn tràn đầy lạc quan của cộng đồng người miền cao.
Đây là một trong những ý quan trọng và không thể thiếu trong phân tích tác phẩm Nói với con mà các em học
sinh cần lưu ý.
– Sử dụng loạt động từ “cài”, “ken”, tác giả vừa miêu tả sự khéo léo trong các động tác lao động vừa nói lên sự
gắn bó khăng khít của những “người đồng mình” trong cuộc sống thường nhật cũng như trong lao động
Tác dụng của biện pháp nghệ nhân hóa trong câu thơ:
– Phép nhân hóa “Rừng cho hoa” miêu tả vẻ đẹp của những rừng hoa mà thiên nhiên mà quê hương ban tặng
cho người dân nơi đây. Phép nghệ thuật còn tô điểm thêm cho sự giàu có và hào phóng của thiên nhiên miên
cao
– Phép nhân hóa “Con đường cho những tấm lòng” được dùng để miêu tả những con đường dẫn về nhà, về bản.
Từ đó, gợi ra tấm lòng, tình cảm của những “người đồng mình” với mái ấm gia đình, với quê hương, xứ sở
– Ngoài ra, điệp từ “cho” đã thể hiện tấm lòng rộng mở, hào phóng của thiên nhiên, sẵn sàng ban tặng cho con
người tất cả những gì đẹp nhất, tuyệt vời nhất của đất trời
=> Ý nghĩa của câu thơ chính là lời nhắc nhở của người cha dành cho con. Rằng nếu như gia đình là cội nguồn,
là nơi con sinh ra và dưỡng dục con, thì quê hương đã nuôi dưỡng tâm hồn và che chở cho con bằng văn hóa tốt
đẹp trong suốt hành trình trưởng thành.
Cuối cùng, tác giả tâm sự cho con nghe về kỉ niệm hạnh phúc nhất của cha mẹ. Đó cũng là cội nguồn để có
con của ngày hôm nay:
“Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.”
– Tác giả “Nhớ về ngày cưới” cũng là nhớ về những kỷ niệm đánh dấu sự khởi đầu của một gia đình. Và con
chính là minh chứng cho kết tinh của tình yêu đẹp đẽ giữa cha và mẹ
– Với tác giả “Ngày đầu tiên đẹp nhất” có thể là ngày cưới và cũng có thể là ngày đầu tiên con cất tiếng khóc
chào đời
=> Khổ thơ đầu bài thơ Nói với con là lời dặn dò, nhắn nhủ của người cha khi tâm sự với con. Cha nhắc con
luôn phải nhớ và biết ơn về cội nguồn sinh thành và nuôi dưỡng của mình. Đó chính là gia đình của con, là quê
hương – những nền tảng cốt lõi tạo ra bước đệm giúp con khôn lớn và trưởng thành. Vì vậy, con luôn phải sống
bằng tất cả tình yêu và niềm tự hào.
2. Phân tích khổ thơ 2 bài thơ Nói với con – Đề cao những phẩm chất cao quý của người đồng mình và
mong con tiếp nối truyền thống cao đẹp đó
“Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc
Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục
Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con.”
a. Phẩm chất cao quý của người đồng mình
Khi tâm tình về cội nguồn gia đình và quê hương, người cha đã khéo léo nhắc đến những phẩm chất tốt
đẹp của người đồng mình:
“Người đồng mình thương lắm con ơi!
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn”
– Sử dụng lối nói thân thuộc, gần gũi của người vùng cao “người đồng mình” đã giúp tạo lên không khí thân
thương, tình cảm thân thiết giữa người trong một gia đình.
– Sử dụng động từ “thương” kết hợp với từ chỉ mức độ “lắm”, tác giả đã bộc lộ sự đồng cảm với những nỗi vất
vả, những khó khăn mà con người quê hương đã phải trải qua
Sử dụng từ ngữ giàu sức gợi như tính từ “cao”, “xa” có tác dụng:
– Gợi tả sinh động bức tranh khung cảnh miền cao với những dãy núi cao, trùng điệp, thiên nhiên hùng vĩ
– Việc sắp xếp những tính từ này theo trình tự tăng tiến đã gợi liên tưởng đến những khó khăn chồng chất, thử
thách ý chí của “người đồng mình”
– Thay vì sử dụng những tính từ định lượng, tác giả sử dụng linh hoạt hình ảnh mang tư duy của người miền
núi khi lấy cái cao của trời, của núi để đo đếm nỗi buồn; lấy cái xa của đất để đo ý chí của con người. Một cách
sử dụng từ ngữ hết sức độc đáo
=> 3 câu thơ vừa để tôn vinh ý chí, nghị lực vươn lên của người đồng mình, vừa ngậm ngùi, xót xa trước đời
sống còn nhiều những khó khăn, thiếu thốn của đồng bào vùng cao.
Từ phẩm chất của người đồng mình, Y Phương tiếp tục nói với con về ý chí và vẻ đẹp truyền thống của
người vùng cao:
“Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục.”
Sử dụng nghệ thuật tương phản giữa “thô sơ da thịt” và “chẳng mấy ai nhỏ bé”
– Cụm từ “thô sơ da thịt” góp phần miêu tả chân thực những đặc điểm về vóc dáng, hình hài nhỏ bé đặc trưng
của “người đồng mình”.
– Trái lại, cụm từ “chẳng mấy ai nhỏ bé” lại gợi ra ý chí, nghị lực phi thường, luôn sẵn sàng vượt lên hoàn
cảnh, bất chấp khó khăn, thiếu thốn do vị trí địa lý mang lại
=> Nghệ thuật tương phản trong hai câu thơ liên tiếp đã giúp tôn vinh “tầm vóc”, “vóc dáng” của “người đồng
mình”. Tuy họ “thô sơ da thịt” nhưng họ chưa bao giờ biết yếu đuối.
Hình ảnh thơ “tự đúc đá kê cao quê hương” mang nhiều lớp ý nghĩa ẩn dụ sâu sắc:
– Nghĩa tả thực: miêu tả thực tế quá trình dựng nhà, dựng bản nơi quê hương tác giả. Những ngôi nhà được kê
trên những tảng đá lớn nhằm tránh mối mọt.
– Nghĩa ẩn dụ: ẩn dụ ngầm nhắc đến tinh thần tự lực cánh sinh của người đồng mình. Họ đã tự mình dựng xây
và nâng tầm quê hương bằng chính đôi bàn tay khéo léo và tài hoa của mình
– Trong quá trình nâng tầm quê hương đó cũng chính họ là người tạo nên phong tục, bản sắc
=> Câu thơ là sự tự hào của tác giả về những phẩm chất cao quý của người dân quê hương. Từ đó, tác giả răn
dạy con phải biết tiếp nối, kế thừa và phát huy những nét đẹp trong văn hóa và phẩm chất của người đồng mình
b. Lời khuyên nhủ mà người cha nhắn tới con
Tác giả nhắc nhở con nên biết sống và tiếp nối theo những giá trị truyền thống tốt đẹp của người đồng
mình:
“Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc”
– Sử dụng điệp từ “sống” lặp lại liên tiếp 3 lần đã giúp tô đậm được mong ước lớn lao mà người cha dành cho
con:
Sử dụng hình ảnh ẩn dụ và phép liệt kê những khó khăn của người đồng mình như “đá gập ghềnh” và “thung
nghèo đói” có tác dụng:
– Gợi cho người đọc tưởng tượng ra một khu vực sống khắc nghiệt với địa hình hiểm trở, khó khăn cả trong
làm ăn lẫn canh tác
– Từ sự khó khăn về địa lý dẫn đến những khó khăn trong đời sống. Cuộc sống người đồng mình luôn nhiều vất
vả, gian khó và đói nghèo chồng chất
=> Từ đó, cha mong muốn ở con sau này lớn lên hãy biết yêu thương, gắn bó và trân trọng quê hương mình
cho dù còn nhiều khó khăn, hiểm nghèo
Sử dụng hình ảnh so sảnh: “Sống như sông như suối”
– Nói lên cuộc sống bình dị, hòa hợp với thiên thiên của người đồng mình
– Nói lên lối sống trong sáng, phóng khoáng với tình cảm dạt dào như sông, như suối
=> Từ đó, người cha mong ước con mình sau này sẽ sống với một tâm hồn phóng khoáng hòa hợp với thiên
nhiên
– Thủ pháp đối giữa hai hình ảnh “lên thác” và “xuống ghềnh” đã giúp người đọc liên tưởng về một cuộc sống
lam lũ, nhọc nhằn, vất vả của người dân quê hương tác giả
=> Vì vậy, người cha mong con sau này phải biết đối mặt và vươn lên, làm chủ sức mạnh bản thân cho dù phải
đối mặt với bao khó khăn, mệt mỏi.
=> Đoạn thơ chính là lời khuyên của cha dành con, rằng hãy tiếp nối tình cảm ân nghĩa, chung thủy với mảnh
đất nơi mình sinh ra, tiếp nối cả những ý chí, nghị lực và lòng kiên cường của người đồng mình
4 câu thơ khép lại bài thơ là lời dặn dò ân cần, trìu mến và nghiêm khắc của người cha:
“Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ được nhỏ bé
Nghe con”
– Hai tiếng “lên đường” ngắn gọn, súc tích cho thấy trong con mắt của cha, người con đã khôn lớn, đã trưởng
thành nhưng hoàn toàn có thể tự tin, tự lực vững bước trên đường đời
– Hình ảnh thơ “thô sơ da thịt” được lặp lại như một lời khẳng định, mục đích khắc sâu trong tâm trí con rằng:
con trưởng thành mấy thì vẫn là người đồng mình, mang hình hài, vóc dáng và dòng máu người đồng mình
– Tuy nhỏ bé về vóc dáng nhưng “không bao giờ được nhỏ bé” trong cuộc sống. Thay vào đó hãy kiên cường,
giàu bản lĩnh để sẵn sàng đương đầu với những gian khó của cuộc đời
– Hai tiếng “nghe con” thiết tha đã thay cho lời kết đầy xúc động, đồng thời ẩn chứa biết bao mong muốn của
người cha.
=> Với một giọng điệu thiết tha, trìu mến, người cha đã gửi gắm những lời tâm tình sâu sắc và cho con những
bài học quý giá, cho con sức mạnh và triết lý sống để con mãi mãi khắc ghi trên suốt hành trình dài rộng của
cuộc đời.
III. Tổng kết chung phân tích bài thơ Nói với con
1. Về nội dung
Qua bài thơ “Nói với con”, Y Phương đã thể hiện tình cảm gia đình, đồng thời ca ngợi truyền thống cần cù, sức
sống mạnh mẽ của quê hương và dân tộc mình. Bài thơ là lời tâm sự, trò chuyện của người cha dành cho con
ngay từ khi còn nhỏ.
2. Về nghệ thuật
– Bằng thể thơ tự do, phóng khoáng kết hợp cùng cảm xúc chân thành, mộc mạc đã khiến lời thơ trở nên ấm áp
và thân thiết.
– Cách sử dụng hình ảnh và ngôn từ mang đặc trưng trong lối nói, diễn đạt và tư duy của người vùng cao, tạo
nên sự gần gũi, thân thương
– Bài thơ với giọng điệu thơ thay đổi khi tâm tình, khi mạnh mẽ, nghiêm khắc, tạo sự dẫn dắt hợp lý trong
mạch cảm xúc, rất phù hợp với lời khuyên của cha nói với con mình.
LÀNG
I. Thông tin về tác giả – tác phẩm
1. Tác giả: Kim Lân
– Tên thật: Nguyễn Văn Tài
– Sinh năm 1920, mất năm 2007
– Quê quán: làng Phù Lưu, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh
Phong cách nghệ thuật
Kim Lân phong cách viết truyện tự nhiên, chậm rãi; giọng điệu nhẹ nhàng, hóm hỉnh nhưng vẫn giàu cảm xúc;
sử dụng hình ảnh liên tưởng và miêu tả rất gần gũi và chân thực. Thêm vào đó, khả năng phân tích tâm lí nhân
vật là một trong số những biệt tài sáng tác của Kim Lân
2. Tác phẩm truyện ngắn Làng
a. Hoàn cảnh sáng tác truyện ngắn Làng
-Tác phẩm được xuất bản lần đầu trên Tạp chí Văn nghệ (1948)
– Truyện ngắn “Làng” được ra đời vào năm 1948 – thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân
ta
– Trong thời gian này, đất nước ta phải đối diện với muôn vàn khó khăn thử thách như: thiết lập chính quyền
cách mạng, chế độ dân chủ nhân dân; diệt tận gốc giặc đói, giặc dốt; khôi phục tài chính. Đây đều là những
nhiệm vụ cấp bách cần được giải quyết, song song với cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm, nội phản. Mục
đích là để bảo vệ chính quyền, duy trì và giữ vững thành quả có được sau cách mạng, đồng thời chuẩn bị sẵn
sàng nguồn lực cuộc chiến đấu lâu dài chống thực dân Pháp.
b. Ý nghĩa nhan đề tác phẩm Làng – Kim Lân
– “Làng” là tên gọi được đặt cho đơn vị dân cư nhỏ nhất ở vùng nông thôn tại khu vực đồng bằng và trung du
Việt Nam. Trong làng, người dân thường có đời sống văn hóa, tập tục và lối sống mang nét đặc trưng riêng
– Nội dung tác phẩm là câu chuyện diễn ra tại “làng chợ Dầu”. Tuy nhiên, thay vì đặt nhan đề là “Làng chợ
Dầu”, Kim Lân chỉ lấy 1 từ “Làng” duy nhất để đặt tên.
– Nguyên nhân là do tác giả không muốn chủ đề và tư tưởng của truyện bị hạn chế trong một khu vực hay đối
tượng cụ thể. Nếu tên tác phẩm là “Làng chợ Dầu” thì dường như câu chuyện sẽ chỉ mang ý nghĩa về một cái
làng cụ thể. Khi đó, nhân vật chính ông Hai sẽ trở thành một người nông dân cụ thể của làng chợ Dầu ấy. Điều
này làm mất đi tính khái quát mà Kim Lân muốn truyền tải.
– Danh từ chung là “Làng” có thể xem là nhan đề mang ý nghĩa khái quát, phù hợp nhất với tác phẩm. Trong
đó, câu chuyện trong “Làng” chính câu chuyện điển hình tại những làng quê Việt Nam trong thời kỳ đầu của
cuộc kháng chiến chống Pháp. Nhân vật ông Hai chính là hình ảnh biểu tượng cho những người nông dân Việt
Nam với tình yêu dành cho làng, dành cho đất nước.
c. Ngôi kể chính
– Truyện được kể theo ngôi thứ ba, tạo sự khách quan và cảm giác chân thực cho người đọc
II. Tóm tắt văn bản Làng
Truyện ngắn Làng xoay quanh câu chuyện về lòng yêu làng, yêu nước của ông Hai – một người nông dân cần
cù, chất phác và vô cùng gắn bó với làng Dầu – quê hương ông.
Trong kháng chiến, ông buộc phải rời làng để đi tản cư. Sống ở nơi tản cư, ngày nào ông cũng nghĩ về làng
trong một tâm trạng day dứt. Ông theo dõi tin tức về làng mỗi ngày ở phòng thông tin. Không đọc được chữ
nên ông chỉ giả vờ xem tranh ảnh, rồi chờ người khác đọc để nghe lỏm. Trong thời gian đó, ông đã nghe được
bao nhiêu là tin hay về những chiến thắng của làng Dầu của ông, làm ruột gan ông lão phấn khởi hẳn lên, trong
đầu hiện ra bao ý nghĩ vui thích.
Tại quán nước, khi nghe tin làng chợ Dầu của ông theo Tây, đã rất khổ tâm và xấu hổ. Về nhà ông chỉ biết nằm
vật ra giường nhìn lũ con, nước mắt cứ trào ra. Lòng ông đau xót và khổ tâm khi nghĩ đến sự khinh bỉ của mọi
người dành cho gia đình ông. Ông vừa căm giận dân làng, vừa lo sợ không biết tương lai gia đình ông sẽ phải
sinh sống thế nào.
Mấy ngày sau đó, ông Hai xấu hổ đến mức chỉ ru rú ở nhà. Bà chủ nhà biết tin đã cố tình đuổi khéo gia đình
ông. Ông Hai từ đó lâm vào tình cảnh bế tắc, chỉ biết tâm sự với con trai về nỗi oan ức mình phải chịu. Chỉ khi
nghe thấy tin làng của ông đã bị giặc đốt, làng bị cháy và tin đồn được cải chính thì ông mới vui vẻ và phấn
chấn trở lại. Ông chạy đi khắp nơi khoe về làng ông, hai tay cứ múa cả. Ông khoe với họ rằng: giặc đốt nhà
ông, phá làng của ông. Rồi ông lại tiếp tục khoe về cái làng của mình với bác Thứ và những người khác.
III. Phân tích bài Làng
1. Phân tích tình huống truyện Làng
Tình huống có trong truyện bao gồm:
Tình huống 1: Ông Hai là một người nông dân có tình yêu làng tha thiết nhưng phải rời làng để tản cư đi xa
Tình huống 2: Ông Hai nghe tin làng chợ Dầu của mình làm Việt gian theo Tây
Tình huống 3: Mọi chuyện tường minh khi tin đồn làng chợ Dầu theo Tây được cải chính
Nhận xét về tính huống truyện:
– Đặt nhân vật chính vào tình huống đối nghịch với tính cách nhân vật giúp làm nổi bật tình cảm, niềm tự hào
về người nông dân Việt Nam
– Yếu tố bất ngờ đặt trong tình huống cụ thể giúp bộc lộ một cách mạnh mẽ tình yêu làng, yêu nước và tinh
thần kháng chiến của nhân vật chính – ông Hai
Ý nghĩa của tình huống truyện ngắn Làng:
– Về kết cấu: phù hợp với diễn biến của truyện, thể hiện rõ nét tình yêu dành cho làng, cho quê hương, đất
nước sâu đậm của người nông dân Việt Nam. Trong đó, nhân vật ông Hai là hình tượng tiêu biểu điển hình
– Về nghệ thuật: tạo thắt nút cho câu chuyện, từ đó giúp bộc lộ sâu sắc tâm trạng và phẩm chất của nhân vật
chính, góp phần thể hiện chủ đề bao quát của tác phẩm.
2. Phân tích nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng
a. Phân tích tình yêu Làng của ông Hai
Tình yêu làng của ông Hai thể hiện qua cách ông Hai kể về làng chợ Dầu với niềm say mê, náo nức đến lạ
thường:
– Khoảng thời gian trước Cách mạng tháng Tám: Ông khoe với mọi người về cơ sở vật chất quê ông, nơi có
con đường làng được “lát toàn đá xanh”, “trời mưa đi chẳng lấm chân”; thậm chí ông còn tự hào khoe sinh
phần của một vị quan tổng đốc trong làng, mà không có một làng nào có được…. bằng một giọng điệu đầy
hãnh diện
– Khoảng thời gian kháng chiến bùng nổ: Ông khoe rằng người dân làng Dầu ông đều đi theo kháng chiến làm
cách mạng; ông thuộc một cách rành rọt những hộ, những ụ, những giao thông hầm hào nơi quê ông để chứng
minh làng ông là một làng quê giàu tinh thần chiến đấu và yêu nước.
Tình yêu làng của ông Hai còn thể hiện nỗi nhớ làng da diết trong thời gian ông và gia đình phải đi tản cư:
– Ông thường xuyên sang nhà bác Thứ sau mỗi buổi tối, chỉ để kể lể đủ thứ tin tức ông nghe được về làng, để
vơi đi cái nỗi nhớ làng da diết trong lòng ông
– Ông nghĩ về làng khi ông cuốc đất, trồng trọt, ông nhớ những ngày “cùng làm việc với anh em”
– Ông mặc cho người nghe có hứng thú với lời của ông hay không, ông cứ kể, kể cho sướng cái miệng, cho vơi
nỗi nhớ
– Dù không đọc được báo nhưng ông vẫn tìm cách theo dõi tình hình của làng cũng như tình hình chiến sự một
cách thường xuyên: Ông khâm phục hình ảnh “một em nhỏ trong ban tuyên truyền xung phong bơi ra giữa hồ
Hoàn Kiếm cắm quốc kỳ lên Tháp Rùa”, khâm phục sự hi sinh anh dũng của “một anh đội trưởng sau khi giết
được bảy tên giặc”.
– Khi nghe được những tin tức nói về thất bại của kẻ thù, ông đều bộc lộ sự hả hê. Trái lại, mỗi lần nghe thấy ở
đâu báo quân ta thắng lớn thì ông đều vui mừng, đến nỗi “ruột gan ông cứ múa cả lên.”
▶ Qua tình huống truyện độc đáo và cách miêu tả khéo léo, Kim Lân đã khắc họa một cách rất tự nhiên, chân
thực hình ảnh nhân vật ông Hai – một người nông dân có chất phác, sống giản dị, có tấm lòng gắn bó sâu đậm
với làng quê và kháng chiến.
b. Diễn biến tâm trạng ông Hai khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc
– Ngay khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc từ người đàn bà mới lên tản cư, ông Hai như chết lặng vì đau đớn,
tức tưởi, nhục nhã, tủi hồ
– Ông bàng hoàng đến nỗi không thể điều khiển được cơ thể của mình: “Cổ ông lão nghẹn đắng lại, da mặt tê
rân rân”, ông lặng đi tưởng như không thở được
Mâu thuẫn nội tâm đầu tiên xảy ra trong ông Hai: nên tin hay không tin vào việc làng mình theo Tây
– Cái tin “cả làng chúng nó Việt gian theo Tây” ấy đến quá bất ngờ. Đến khi trấn tĩnh lại, ông không tin vào
những gì mình vừa nghe nên ông phải hỏi đi hỏi lại người đàn bà kia
– Những người tản cư khẳng định rằng họ “vừa ở dưới ấy lên”, “mắt thấy tai nghe”. Người phụ nữ còn kể lại
bằng giọng hết sức rành rọt rằng: lúc Tây vào làng, dân làng “chúng nó” bảo nhau vác cờ thần ra hoan hô, trong
ấy có cả thằng chánh Bệu,… Chính vì toàn những người làng mà ông Hai biết mặt biết tên cả nên ông đành
chấp nhận việc làng ông theo Tây là sự thật, rồi lẳng lặng bỏ đi
Sau giây phút chấp nhận tin tức ấy là sự thật, tất cả niềm tin trong ông dường như sụp đổ, tâm trí ông chứa
đầy những nỗi ám ảnh và day dứt:
– Ông giả vờ lảng ra chỗ khác, rồi lẳng lặng đi thẳng về nhà
– Trên đường về, cứ hễ nghe tiếng chửi bọn Việt gian, ông lại “cúi gằm mặt mà đi” vì quá xấu hổ
– Về đến nhà, ông mất hết sức lực, chỉ có thể “nằm vật ra giường”, nhìn lũ con, trong lòng tủi thân đến nỗi
“nước mắt ông cứ tràn ra”.
Từ đó, trong tâm trí ông bỗng ùa về muôn vàn nỗi lo âu mà không có lời giải đáp:
– Ông lo cho số phận của những đứa con của ông. Lũ con ông cũng từ làng Dầu mà ra, rồi chúng sẽ bị khinh bỉ,
bị xỉa xói và hắt hủi vì sinh ra ở làng Việt gian: “Chúng nó cùng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó
cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu”
– Ông lo những người tản cư làng ông sau này tin tức bị lan ra cũng sẽ bị ghét bỏ, tẩy chay, thù hằn, ghê tởm:
“Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian!… Suốt cái nước Việt Nam này người ta ghê tởm, người ta thù hằn
cái giống Việt gian bán nước…”
– Ông lo cho tương lai của gia đình của ông. Chưa biết gia đình sau này sẽ đi đâu, về đâu, làm ăn sinh sống ra
sao khi mang trên mình cái danh “dân làng Việt gian”.
▶ Một loạt những câu hỏi gợi lên tâm trạng khủng hoảng, rối rắm, không có lối thoát của ông Hai.
Sự phẫn nộ tột độ của ông Hai được bộc lộ thông qua lời nói và suy nghĩ trong ông:
– Trong trạng thái giận dữ, ông nắm chặt hai tay mà rít lên đầy xót xa: “chúng bay ăn miếng cơm hay ăn miếng
gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này”.
– Vốn là một người yêu làng sâu đậm nên khi niềm tin bị phản bội, ông bắt đầu nghi ngờ những người làng
Dầu mà ông biết từ trước đến nay: “ông kiểm điểm từng người trong óc”.
– Một mặt ông không tin làng ông theo giặc vì thấy ai cũng có tinh thần yêu nước cả nên ông vẫn không tin lại
có ai làm điều nhục nhã ấy
Mấy ngày sau, ông chuyển sang trạng thái sợ hãi, hoang mang khi nghĩ đến việc đối diện với mọi người xung
quanh:
– Ông không dám đi đâu, cứ quanh quẩn ru rú trong nhà và nghe ngóng tình hình bên ngoài
– Ông trở nên nhạy cảm với mọi người hơn. Chỉ một đám đông túm lại bàn tán cũng có thể khiến ông chột dạ
vì nghĩ rằng người ta đang bàn tán đến câu chuyện nhục nhã ấy của làng ông. Mỗi lần thoáng nghe những tiếng
Tây, Việt gian, cam nhông… là ông cúi gằm mặt mà lùi ra một góc, im lặng quan sát
– Ông không dám nói chuyện với vợ, không dám nhìn thẳng vào thực tế phũ phàng đang làm ông phải khổ sở
Khi mụ chủ nhà nghe được tin làng chợ Dầu của ông theo giặc, bà đã tỏ rõ thái độ không muốn cho gia đình
ông ở lại nhà mình nữa. Chính vì vậy mà ông Hai lúc này rơi vào tình trạng khủng hoảng, tuyệt vọng và dường
như bế tắc hoàn toàn
Mâu thuẫn nội tâm tiếp theo xảy ra trong ông Hai: lựa chọn quay trở về hay bỏ làng
– Ông thoáng có ý nghĩ trở về làng nhưng khi ý nghĩ đó vừa loé lên thì ông lão đã vội gạt đi rồi. Bởi “làng đã
theo Tây, về làng là rời bỏ kháng chiến”, ông không thể chấp nhận gạt bỏ lòng tự tôn dân tộc của mình để về
làng được
– Khi bắt buộc phải đưa ra lựa chọn một trong hai, ông đã tự xác định một cách đau đớn nhưng cũng đầy quyết
đoán, dứt khoát: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây rồi thì phải thù”.
▶ Tác giả đã để cho nhân vật của mình trải qua một xung đột nội tâm vô cùng gay gắt để rồi cuối cùng đi đến
quyết định là phải từ bỏ làng quê vì tình yêu dành cho đất nước, dành cho cách mạng lớn hơn bất kể điều gì
khác. Có thể đối với ông Hai, làng Dầu là một nơi rất đỗi thiêng liêng, là mảnh đất nơi ông đã sinh ra, là nguồn
cội tổ tiên, gia đình mà tưởng chừng như suốt cuộc đời không thể nào từ bỏ được. Nhưng khi đặt tình yêu làng
và tình yêu nước lên để so sánh, ông Hai vẫn quyết tâm lựa chọn làm theo lý tưởng cách mạng, tuyệt đối không
bao giờ trở thành VIệt gian. Chính cái quyết định đầy đau đớn ấy đã khẳng định lòng dạ thuỷ chung với cách
mạng, với Bác Hồ của người nông dân trong kháng chiến.
Nhưng dù đã dứt khoát đưa ra lựa chọn, ông vẫn không thể dứt bỏ tình cảm với làng Dầu, nơi mà ông đã sinh
ra, lớn lên và chứa đựng những kỷ niệm đẹp nhất của cuộc đời ông. Vì vậy, sau khi ra quyết định bỏ làng, ông
muốn được tâm sự, như một cách để ông phân bua, minh oan, cởi bỏ nỗi lòng, lý giải cho quyết định của mình:
– Ông thủ thỉ, tâm sự với đứa con út (thằng Húc) về tình cảm của ông dành cho làng Chợ Dầu, về tấm lòng
thủy chung với kháng chiến để vơi đi sự dằn vặt và nỗi đau đớn
– Ông muốn đứa con ngây thơ, bé bỏng của mình phải khắc sâu, ghi nhớ rằng làng Chợ Dầu là quê hương của
con, là nơi chôn rau cắt rốn của cha và con
– Ông khẳng định tình cảm sâu nặng mà ông dành cho làng cho cách mạng là tình cảm đúng đắn, chân chính
mang một lý tưởng cao đẹp: “Cái lòng của bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có
bao giờ dám đơn sai”.
▶ Cuộc trò chuyện tâm sự với đứa con dường như là lời tự vấn nhằm tự minh oan và khẳng định tấm lòng thủy
chung của mình với làng, với cách mạng. Cuộc trò chuyện cũng là để giúp ông vơi đi những khổ tâm, mâu
thuẫn nội tâm đã dằn vặt ông bấy lâu nay.
▶ Ở nhân vật ông Hai, tình yêu nước, lợi ích của đất nước được đặt cao hơn tình làng và lợi ích của cá nhân
▶ Tác giả đã khám phá và làm nổi bật những nét đẹp nét đẹp truyền thống mang tinh thần thời đại cách mạng
của người nông dân Việt Nam. Ở họ, từ tình yêu làng, quê hương tha thiết đã chuyển biến thành tình yêu nước
sâu đậm nhờ sự soi rọi bởi lý tưởng cách mạng. Tình yêu làng đã hòa quyện cùng với tình yêu đất nước.
c. Phân tích tâm trạng ông Hai sau khi nghe tin làng cải chính
– Khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc chỉ là một tin đồn thất thiệt. Ông Hai như được hồi sinh trở lại, khiến
thái độ ông thay đổi hẳn, từ buồn thiu sang “tươi vui, rạng rỡ hẳn lên”.
– Tin cải chính từ chủ tịch làng đã giúp ông rũ sạch mọi đau khổ, tủi nhục để đưa ông trở lại với “thói quen”
trước kia – thói quen khoe làng với mọi người. Ông lật đật đi khắp nơi khoe rằng nhà ông bị Tây đốt nhẵn
– Ông phấn khởi mua quà cho các con, thậm chí còn có ý định nuôi con lợn để ăn mừng ngày tin được cải
chính
Khi niềm tin và tình yêu bị phản bội và con người bị đẩy vào bước đường cùng sẽ rất dễ khiến con người ta có
những suy nghĩ khác thường:
– Đối với người nông dân, căn nhà vốn là cả cơ nghiệp, tốn biết bao công sức cày cuốc để dựng lên. Vậy mà
trong cái lúc nghe được tin nhà ông bị Tây đốt nhẵn, ông lại bộc lộ sự sung sướng khôn xiết, vui mừng đến
mức loan tin khắp nơi rằng “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ, đốt nhẵn!” bằng một giọng đầy tự hào, hạnh phúc
– Thực chất, ông Hai không hề tiếc nuối về ngôi nhà của mình. Điều mà ông quan tâm là làng chợ Dầu không
theo giặc. Tức là làng ông vẫn trong sạch, ông không phải người con từ làng Việt gian. Từ giờ, ông có thể tiếp
tục ngẩng cao đầu mà sống, tiếp tục khoe khoang về làng
– Nhà ông Hai bị đốt đã giúp chứng minh cho làng ông, cho gia đình ông và những người tản cư trên đây
không theo giặc, vẫn một lòng yêu nước, sẵn sàng hi sinh tất cả cho kháng chiến.
▶ Tuy chỉ là một người nông dân bình thường nhưng ông Hai đã có tư tưởng hy sinh, hy sinh tài sản cá nhân
để cống hiến cho thành công của cách mạng. Điều này cho thấy, tầm quan trọng của cuộc kháng chiến đã thực
sự đi sâu vào tiềm thức của mỗi người dân, biến nó trở thành cuộc kháng chiến toàn dân chống giặc
▶ Tình yêu làng và lòng yêu nước chân thành thắm thiết đã biến thành nền tảng khiến cho ông Hai vui sướng
tột độ khi nghe tin làng mình không theo giặc. Tình yêu ấy đã xây dựng lên trong ông như một “bức tường
thành” vững chắc mà không súng đạn nào có thể công phá, cháy rụi được.

3. Nghệ thuật đặc sắc trong truyện ngắn Làng


– Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện đặc sắc khi đặt nhân vật vào tình huống cụ thể để dẫn dắt tâm lý nhân
vật, từ đó giúp bộc lộ chiều sâu tư tưởng và chủ đề của truyện.
– Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật:
+ Khắc họa thành công hình ảnh nhân vật ông Hai, một người nông dân thật thà, chất phác với yêu làng, yêu
nước tha thiết
+ Miêu tả cụ thể những diễn biến nội tâm, xung đột nội tâm dẫn đến những quyết định hành động của nhân vật
+ Lồng ghép các cuộc đối thoại và độc thoại nội tâm góp phần diễn tả một cách chính xác và mạnh mẽ những
lo âu, căng thẳng, day dứt của nhân vật trong từng tình cảnh cụ thể
▶ Thể hiện sự am hiểu sâu sắc về tâm tư, tình cảm của những người nông dân trong thời kỳ lịch sử đó
– Nghệ thuật sử dụng ngôn từ tự nhiên, giản dị nhưng vẫn rất sinh động:
+ Ngôn ngữ truyện chủ yếu mang tính khẩu ngữ, giống với lời ăn, tiếng nói đời thường của người nông dân
+ Có sự thống nhất giữa lời kể chuyện và lời nói của nhân vật về sắc thái và giọng điệu.
+ Lời nói nhân vật tuy mang nét chung, đại diện cho tính cách người nông dân Việt Nam cần cù, chịu khó,
nhưng vẫn có những nét cá tính riêng, khiến nhân vật trở nên sinh động hơn
– Giọng điệu trần thuật hết sức tự nhiên, linh hoạt với những chi tiết sinh hoạt đời thường đan xen với mạch
tâm trạng khiến truyện thêm phần hấp dẫn, thú vị
III. Tổng kết chung phân tích truyện ngắn Làng
1. Về nội dung
– Qua truyện ngắn Làng, có thể nói, nhà văn Kim Lân đã khắc họa thành công hình tượng một người nông dân
giàu lòng yêu làng, yêu nước yêu cách mạng với những diễn biến tâm lý sinh động và mãnh liệt. Thông qua
nhân vật ông Hai, tác giả đã làm nổi bật nét đẹp trong tâm hồn người nông dân Việt Nam. Họ là những người
hiền lành, chất phác, có tấm lòng nồng hậu, vừa yêu làng, lại vừa yêu nước, thủy chung với cách mạng.
– “Làng” là một trong những tác phẩm truyện ngắn tiêu biểu của Kim Lân về đề tài người nông dân sau cách
mạng tháng Tám
2. Về nghệ thuật
– Cách kể chuyện giản dị, đời thương, ngôn ngữ đậm tính khẩu ngữ
– Nghệ thuật phân tích tâm lí sắc sảo, đặc sắc
– Có sự kết hợp giữa độc thoại và đối thoại
– Sử dụng hình ảnh chi tiết, sinh động và giàu sức gợi
LẶNG LẼ SA PA
I. Thông tin về tác giả – tác phẩm
1. Tác giả: Nguyễn Thành Long
– Tên thật: Nguyễn Thành Long (bút danh: Lưu Quỳnh, Phan Minh Thảo)
– Sinh năm 1925, mất năm 1991
– Quê quán: huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam
– Ông bắt đầu sự nghiệp sáng tác từ giai đoạn kháng chiến chống Pháp với thể loại sở trường là truyện ngắn và
bút ký
– Nguyễn Thành Long là một trong những nhà văn tiêu biểu, có nhiều đóng góp cho nền văn học cách mạng
cũng như văn học Việt Nam hiện đại
– Các tác phẩm của ông thường tập trung vào hai đề tài lớn: cuộc đấu tranh chống Mỹ của nhân dân và công
cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa tại miền Bắc.
Tiểu sử và sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Thành Long:
– Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Thành Long tham gia sáng tác. Tuy nhiên, các tác phẩm của
ông lúc ấy chủ yếu được viết theo xu hướng lãng mạn và chưa để lại dấu ấn cho người đọc.
– Giai đoạn sau Cách mạng tháng Tám, trong những năm kháng chiến chống Pháp (1946-1954) ở Nam Trung
Bộ, Nguyễn Thành Long đã tham gia các hoạt động văn nghệ và bắt đầu viết văn từ đây.
– Sau 1954, theo lệnh tập kết ra Bắc, Nguyễn Thành Long chuyển về sáng tác và biên tập ở các tòa soạn báo
chí, nhà xuất bản. Trong đó, có thời kỳ ông còn tham gia giảng dạy tại trường viết văn Nguyễn Du.
Phong cách sáng tác của Nguyễn Thành Long:
– Nét đặc sắc trong các sáng tác của ông là luôn tạo được hình tượng đẹp, tôn vinh những phẩm chất tốt đẹp
của con người
– Ngôn ngữ truyện mang nét ngọt ngào, giọng văn trong trẻo, tình cảm, gần gũi và giàu chất thơ
2. Tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa
a. Hoàn cảnh sáng tác Lặng lẽ Sa Pa
– Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” sáng tác năm 1970 là kết quả của chuyến đi thực tế Lào Cai của Nguyễn Thành
Long. Đây là giai đoạn miền Bắc đang bước vào xây dựng Chủ nghĩa xã hội, miền Nam bước vào thời kỳ
kháng chiến chống Mỹ ác liệt nhất.
– Trong thời kỳ này, nhiệm vụ chung của toàn dân là tăng cường đoàn kết, kiên quyết bảo vệ nền hòa bình, đẩy
mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cuộc cách mạng dân tộc dân chủ diễn ra tại miền Nam. Trong
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III cũng chỉ rõ nhiệm vụ xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là nhiệm vụ
quan trọng nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng và sự nghiệp thống nhất đất nước
– Qua đó, có thể thấy, công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc lúc bấy giờ phải là một quá trình cải
biến cách mạng về mọi mặt. Mục đích là để đưa miền Bắc tiến lên nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, khiến cho miền
Bắc trở thành cơ sở ngày càng vững chắc cho sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà
– “Lặng lẽ Sa Pa” được in trong tập “Giữa trong xanh” xuất bản năm 1972.
II. Tóm tắt bài Lặng lẽ Sa Pa
“Lặng lẽ Sa Pa” là câu chuyện kể về nhân vật anh thanh niên 27 tuổi, người làm công tác khí tượng kiêm vật lý
địa cầu trên đỉnh núi Yên Sơn cao 2600m, nơi quanh năm chỉ có mây mù bao phủ.
Vì tính chất đặc thù của công việc mà anh thanh niên đã ở đây 4 năm mà chưa về. Một mình sống trên đỉnh núi
cao nên anh thanh niên luôn có cảm giác thèm người, thèm được gặp gỡ và trò chuyện với mọi người. Sự khao
khát của anh mạnh mẽ đến nỗi, đã có lúc anh từng dùng cây chắn ngang đường để được tiếp xúc, làm quen với
người qua đường.
Trong một lần tình cờ, anh thanh niên có cơ hội được gặp gỡ, trò chuyện với ông họa sĩ già và cô kĩ sư trẻ đang
đi trên chuyến xe đi từ Hà Nội lên Lào Cai. Anh mời họ lên nhà chơi và hào hứng kể cho mọi người nghe về
công việc hàng ngày của mình. Nơi anh ở là một ngôi nhà nhỏ với đồ đạc được xếp rất ngăn nắp, gọn gàng đã
tạo được ấn tượng tốt với ông họa sĩ. Mặc dù phải sống và làm việc trong điều kiện môi trường vô cùng khắc
nghiệt nhưng anh thanh niên vẫn luôn giữ cho mình sự tích cực, lạc quan. Ngoài công việc chính, anh còn có
niềm đam mê và sở thích đọc sách, nuôi gà và trồng hoa của mình
Ông họa sĩ sau khi nghe và quan sát cuộc sống của anh đã cảm nhận được vẻ đẹp phẩm chất của anh thanh niên
và có ý muốn vẽ một bức chân dung về anh. Tuy nhiên anh thanh niên đã từ chối vì anh nghĩ còn nhiều tấm
gương lao động xứng đáng được tôn vinh hơn anh. Rồi anh đã giới thiệu về ông kĩ sư dưới vườn rau Sa Pa, anh
cán bộ nghiên cứu bản đồ đất sét. Rồi cứ thế, những con người vô tình gặp nhau lại trở nên thân thiết, gần gũi
từ bao giờ không hay.
Sau ba mươi phút trò chuyện, họ đành phải nói lời chia tay. Ông họa sĩ hứa với anh sẽ quay trở lại. Còn cô kĩ
sư sau cuộc trò chuyện đã nhận ra mối tình nhạt nhẽo của mình và quyết định tiếp tục cuộc hành trình công tác
ở Lai Châu. Anh thanh niên ở lại tiếp tục công việc thường ngày của mình. Trước khi ra về, anh không quên
tặng mọi người một làn trứng để ăn trưa và tặng cho cô kĩ sư một bó hoa đẹp làm quà.
III. Phân tích Lặng lẽ Sa Pa
1. Phân tích tình huống truyện và nhân vật
– Tình huống truyện: tương đối đơn giản: Đó là một cuộc gặp gỡ tình cờ giữa một anh thanh niên làm công tác
khí tượng với bác lái xe và hai hành khách tại rừng núi SaPa. Cuộc gặp gỡ tuy không dài nhưng họ đã có cuộc
trò chuyện thù vị cùng nhau và để lại nhiều ấn tượng trong lòng người đọc
Tình huống truyện đơn giản có hiệu quả trong việc:
– Để nhân vật chính xuất hiện tự nhiên, khách quan mà không đột ngột, bất ngờ
– Giúp người đọc đánh giá và cảm nhận một cách khách quan hình ảnh nhân vật anh thanh niên từ góc nhìn của
các nhân vật khác.
– Để tuyến nhân vật phụ dần dần xuất hiện một cách tự nhiên, nhẹ nhàng, lặng lẽ, góp phần nhấn mạnh và làm
nổi bật chủ đề, tư tưởng bao quát của tác phẩm.
Phân tích hệ thống nhân vật:
– Nhân vật chính: hình ảnh anh thanh niên hiện lên như một bức chân dung, hiện lên qua góc nhìn đa chiều và
không bộc lộ nhiều cá tính, tính cách cụ thể
– Các nhân vật trong truyện đều không có tên riêng: từ nhân vật chính đến các nhân vật phụ đều được gọi bằng
các đặc điểm về giới tính, nghề nghiệp, tuổi tác như: anh thanh niên, ông họa sĩ già, bác lái xe, cô kĩ sư trẻ, anh
cán bộ, ông kỹ sư…
– Các nhân vật phụ xuất hiện có mục đích: họ đều có vai trò làm nổi bật phẩm chất cao đẹp của nhân vật chính
▶ Ngay từ việc xây dựng hệ thống nhân vật tác giả đã có dụng ý thể hiện chủ đề, tư tưởng của tác phẩm.
Những người lao động mới có thể họ là bất kỳ ai, ở mọi lứa tuổi, giới tính, ngành nghề nhưng điểm chung của
họ là luôn ngày đêm thầm lặng, say mê cống hiến cho đất nước.
2. Phân tích hình ảnh bức tranh thiên nhiên nơi núi rừng Sa Pa
Bức tranh thiên nhiên Sa Pa mùa xuân hiện lên với vẻ đẹp nên thơ, hữu tình và lãng mạn:
– Nắng Sa Pa đốt cháy rừng cây, màu nắng bao phủ, mạ bạc con đèo
– Những cây thông nhỏ thì rung tít trong nắng
– Trên màu xanh của rừng lấp ló những bông hoa tử kinh, trông như màu hoa cà
– Mây được tác giả miêu tả như “bị nắng xua, cuộn tròn lại từng cục”. Những đám mây không trôi mà cùng
nhau lăn trên những vòm lá ướt sương, “rơi xuống đường cái” rồi “luồn cả vào gầm xe” của người đi đường
– Trên những đỉnh đèo, từng đàn bò “cổ đeo chuông” nối đuôi nhau lững thững đi thành từng hàng như níu
chân du khách
Tác giả miêu tả bức tranh thiên nhiên Sa Pa thông qua:
– Biện pháp liệt kê: diễn tả tất cả những nét riêng, đặc trưng và độc đáo của thiên nhiên núi rừng Sa Pa. Vẻ đẹp
ấy không chỉ làm say đắm lòng người mà còn như lơi mời gọi con người đến khám phá, chinh phục và thưởng
thức.
– Biện pháp nhân hóa: thông qua hình ảnh nắng “đốt cháy rừng cây” và “mạ bạc cả con đèo”, tác giả đã gợi ra
một không gian đèo núi bừng sáng trong ánh nắng thiên nhiên, khiến cảnh vật thêm phần lung linh, rực rỡ,
tráng lệ
– Bằng ngôn ngữ trong sáng, tự nhiên, mỗi câu văn trong tác phẩm như có đường nét, hình khối, sắc màu, góp
phần tô điểm thêm cho vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên thêm nhịp điệu, tựa như một bài thơ về thiên nhiên đất
nước.
▶ Chỉ với vài nét chấm phá điểm xuyết, sử dụng phép nghệ thuật nhân hóa kết hợp so sánh, bức tranh thiên
nhiên Sa Pa đã khiến cho người đọc như đang bước vào một không gian vừa thực vừa ảo, thơ mộng nhưng
cũng rất đỗi tráng lệ.
▶ Vẻ đẹp của thiên nhiên Sa Pa trong lời văn miêu tả của Nguyễn Thành Long hoàn toàn tương xứng và hài
hòa với vẻ đẹp của con người đậm chất mộng mơ, nhẹ nhàng, trong sáng.
3. Phân tích hình ảnh anh thanh niên trong bài Lặng lẽ Sa Pa
Hoàn cảnh sống và làm việc đặc biệt của anh thanh niên:
– Anh thanh niên một mình sống trên đỉnh Yên Sơn cao 2600m, xung quanh chỉ có cây cỏ và mây mù lạnh lẽo,
không một bóng người. Nơi anh sống và làm việc heo hút và cô đơn đến mức anh có cảm giác “thèm người”.
– Công việc và nhiệm vụ hàng ngày: thực hiện công tác khí tượng, kiêm nhà vật lý địa cầu. Nhiệm vụ của anh
là đo nắng, đo mưa, đo gió, tính mây rồi đo chấn động mặt đất đều đặn bốn lần trong một ngày đêm. Mục đích
của công việc là dự báo tình hình thời tiết hằng ngày đến người dân nhằm phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu.
Vì vậy, đây là một công việc gian khổ, đòi hỏi sự tỉ mỉ, chính xác và tinh thần trách nhiệm vô cùng cao.
a. Hình ảnh anh thanh niên với tình yêu với nghề và tinh thần trách nhiệm cao trong công việc
Một người yêu nghề, dám chấp nhận hy sinh hạnh phúc cá nhân vì công việc được thể hiện qua chi tiết:
– Dám chấp nhận sống và làm việc trong một hoàn cảnh, môi trường khắc nghiệt và cô đơn: đỉnh núi Yên Sơn,
cao 2600m, bốn bề chỉ có thể làm bạn với cỏ cây và mây mù lạnh lẽo quanh năm
– Anh coi công việc như một người bạn đồng hành, là niềm vui và lẽ sống: công việc của tuy gian khổ nhưng
nếu thiếu nó thì anh cũng “buồn chết mất”.
– Nhận thức được những ý nghĩa trong công việc của mình: anh biết việc báo trước thời tiết hàng ngày là để
phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu, góp phần vào cuộc cải cách lớn của đất nước, của dân tộc
– Công việc khiến anh tự hào và hạnh phúc bởi nó giúp ích cả trong chiến đấu: khi anh phát hiện một đám mây
khô đã giúp không quân ta hạ được không biết bao nhiêu phản lực của không quân Mỹ trên cầu Hàm Rồng –
một ký ức hào hùng mà anh nhớ mãi không bao giờ quên
– Khi kể về công việc, trong ánh mắt anh luôn ánh lên vẻ tự hào cùng với đó là giọng điệu say sưa, đầy đam mê
và nhiệt huyết
– Anh thanh niên ý thức được rằng công việc của mình là nhỏ bé nhưng nó liên quan đến việc thực hiện hóa
mục tiêu chung của đất nước, của mọi người.
▶ Có lẽ anh thanh niên trong môi trường làm việc khắc nghiệt ấy, đã thực sự tìm thấy niềm vui và hạnh phúc
trong công việc. Tuy thầm lặng giữa Sa Pa và sương mù bao phủ nhưng anh có thể góp phần nho nhỏ trong sự
phát triển của đất nước, hòa bình của dân tộc
Một người có tinh thần trách nhiệm trong công việc được thể hiện qua chi tiết:
– Tuy anh thanh niên làm việc một mình trên đỉnh núi cao, không có người giám sát hay nhắc nhở, anh hoàn
thành nhiệm vụ một cách tự giác, tận tụy: mỗi ngày anh đều bốn lần đi “ốp”. Cứ như vậy suốt mấy năm ròng
rã, anh luôn ghi và báo “ốp” đúng giờ, kể cả trong mưa tuyết lạnh cóng, gió lớn và đêm tối lúc 1h sáng cũng
không thể khiến lơ là trách nhiệm
– Anh thanh niên có tác phong làm việc rất khoa học và nghiêm túc, đúng giờ và chính xác đến từng phút:
trong cuộc gặp gỡ tình cờ, theo thói quen, anh đo đếm từng phút vì sợ hết mất ba mươi phút nghỉ ngơi của đoàn
▶ Hình ảnh anh thanh niên chính là hình ảnh đại diện cho những con người lao động mới, tham gia vào công
cuộc xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước thêm giàu đẹp.
b. Hình ảnh anh thanh niên với tinh thần lạc quan, yêu đời
Anh tìm ra niềm vui trong cuộc sống được thể hiện qua chi tiết:
– Anh chủ động, sắp xếp một cuộc sống ngăn nắp, phong phú và thơ mộng qua việc: giữ cho căn nhà ba gian
luôn gọn gàng, sạch sẽ, đến mức ông họa sĩ lần đầu ghé thăm cũng phải trầm trồ và bất ngờ.
– Ngoài công việc anh còn tìm thấy niềm vui khi đọc sách: đọc sách với anh không chỉ giúp trau dồi kiến thức
của bản thân mà còn là cơ hội để trò chuyện với bản thân, để thanh lọc tâm hồn, nâng cao chất lượng cuộc sống
c. Hình ảnh anh thanh niên với sự chân thành, cởi mở và tấm lòng hiếu khách
– Ở một mình trên núi cao khiến anh thanh niên có một niềm khao khát được gặp gỡ, được trò chuyện với mọi
người: nỗi “thèm người” mạnh mẽ đến mức, anh đã phải đẩy một khúc gỗ ra chắn giữa đường để buộc những
chiếc xe hiếm hoi phải dừng lại ngang đường, để anh có cơ hội giúp đỡ họ và nói đôi ba câu chuyện làm quen
– Khi gặp được người qua đường, anh mừng đến mức “tất tả”, cuống cuồng, vui sướng như không kiềm được
cảm xúc, sẵn sàng nói ra mọi điều mình nghĩ
– Anh niềm nở, thân thiện, hồ hởi với những người mới tiếp xúc lần đầu tiên: tuy lần đầu gặp nhưng anh đã
mời trà, tặng hoa và cả quà ăn đường cho họ
– Chẳng mấy khi có người nói chuyện nên khi gặp được đoàn xe, anh trân trọng từng giây từng phút trò chuyện
với họ: anh đếm từng phút vì sau ba mươi phút, anh sẽ phải kết thúc cuộc gặp gỡ vô cùng quý báu này và quay
trở về cuộc sống cô đơn, nơi chỉ có anh làm bạn với cỏ cây
– Sự quan tâm, chu đáo của anh còn thể hiện qua hành động sẵn sàng sẻ chia những gì mình có cho người lần
đầu mới gặp: khi biết bác lái xế có vợ đang bị bệnh, anh đã lặng lẽ đi tìm củ tam thất để gửi về cho bác gái
ngâm rượu uống.
– Lòng mến khách, sự nhiệt tình của anh đã khiến ông họa sĩ xúc động mà cảm thán: “người con trai ấy đáng
yêu thật!”.
▶ Từ đó ta thấy, anh thanh niên với sự chân thành, cởi mở và hiếu khách thực chất là hiện thân của nỗi khát
khao được hòa nhập, được sống vì mọi người. Hình ảnh anh thanh niên có thể coi là hình tượng tiêu biểu đại
diện cho phẩm chất và tính cách của con người tại Sa Pa.
d. Hình ảnh anh thanh niên là một con người khiêm tốn, thành thật
– Công việc của anh có đóng góp một phần không nhỏ cho sự nghiệp phát triển kinh tế, yếu tố quan trọng trong
giai đoạn chuyển mình của đất nước: giúp dự báo thời tiết, phục vụ sản xuất và phục vụ chiến đấu.
– Khi ông hoạ sĩ cảm phục trước sự hy sinh của anh và muốn xin ký hoạ chân dung, anh đã từ chối, e ngại vì
cho rằng những đóng góp của mình là vô cùng nhỏ bé so với những người khác. Anh cảm thấy mình cũng chỉ
là một chàng trai trẻ bình thường trong muôn vàn những người khác đang phục vụ sản xuất và chiến đấu:
“Không, xin bác đừng mất công vẽ cháu. Cháu không xứng đáng đâu, để cháu giới thiệu với bác những người
khác đáng vẽ hơn”
▶ Dù còn tuổi còn trẻ nhưng anh thanh niên qua những nét phác họa của tác giả dường như đã thấm thía cái
nghĩa, cái tình của mảnh đất Sa Pa – nơi chôn rau cắt rốn của anh; thấu hiểu và đồng cảm với những hy sinh
thầm lặng của những con người ngày đêm làm việc và cống hiến sự nghiệp cho đất nước.
▶ Qua cuộc gặp gỡ và trò chuyện, nhân vật anh thanh niên hiện lên thật chân thực, sinh động, giản dị và khiêm
nhường. Vẻ đẹp của anh thể hiện ở suy nghĩ, hành động và trong cả cách sống đời thường của anh. Đó là chân
dung một con người có tầm vóc nhỏ bé với nét mặt rạng rỡ, nổi bật lên giữa cái lặng lẽ muôn thuở của Sa Pa,
tạo nên những âm thanh trong sáng, những sắc màu lung linh của những con người lao động mới như anh.
IV. Tổng kết chung phân tích tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa
1. Về nội dung
– Qua truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa”, tác giả Nguyễn Thành Long đã khắc họa thành công hình ảnh những con
người lao động âm thầm, say mê cống hiến sức mình cho sự nghiệp cách mạng của Tổ quốc. Trong đó, tiêu
biểu nhất là hình tượng nhân vật anh thanh niên, có vai trò giúp tác giả khẳng định vẻ đẹp của những người lao
động mới trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa, thống nhất đất nước
2. Về nghệ thuật
– Tình huống truyện được xây dựng hợp lý với cách kể chuyện tự nhiên, mộc mạc, giàu chất thơ
– Có sự kết hợp giữa phương thức tự sự, biểu cảm, miêu tả và bình luận giúp tác giả khắc họa chân dung nhân
vật một cách khéo léo, sinh động hơn
– Giọng văn có sự trau chuốt, tỉ mỉ, giàu chất thơ và chất hội họa, mỗi câu văn đều góp phần tô đậm chủ đề
chính của tác phẩm
CHIẾC LƯỢC NGÀ
I. Thông tin về tác giả – tác phẩm
1. Tác giả: Nguyễn Quang Sáng
– Tên thật: Nguyễn Quang Sáng (bút danh: Nguyễn Sáng)
– Sinh năm 1932, mất năm 2014
– Quê quán: huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang
– Nguyễn Quang Sáng là nhà văn trưởng thành qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ
– Nguyễn Quang Sáng bắt đầu sự nghiệp viết từ những năm 1952 và thử sức trên nhiều thể loại khác nhau như:
truyện vừa, truyện ngắn, kí, tiểu thuyết,….
Phong cách sáng tác của Nguyễn Quang Sáng:
Giọng văn trong các tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng thường hùng hồn, khí phách giống như tính cách đặc
trưng của những người con Nam Bộ. Ông thường sử dụng những tên gọi đời thường để gán cho nhân vật trong
các tác phẩm của mình, giúp tạo nên sự gần gũi, giản dị.
Tác phẩm của ông thường gắn liền với con người và cảnh vật xung quanh cuộc sống của ông. Sự bi tráng kết
hợp với tình huống truyện kịch tính, giàu chất thơ, cùng với đó là nhân vật mang nét anh hùng đã tạo nên
những nét riêng biệt trong những tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng
2. Tác phẩm Chiếc lược ngà
a. Hoàn cảnh sáng tác Chiếc lược ngà
– “Chiếc lược ngà” được in trong tập truyện ngắn cùng tên, được viết vào năm 1966 tại chiến trường Nam Bộ.
Đây là thời kỳ cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra hết sức ác liệt.
c. Bố cục bài Chiếc lược ngà
– Phần 1: từ đoạn đầu đến “..chị cũng không muốn bắt nó về”: Bé Thu không nhận ra ông Sáu là ba trong
khoảng thời gian ông Sáu về thăm nhà
– Phần 2: từ đoạn tiếp theo đến “…vừa nói vừa từ từ tuột xuống”: Bé Thu nhận ra ba trong ngày cuối ông Sáu ở
nhà và cuộc chia tay giữa hai cha con
– Phần 3: đoạn còn lại: Chiếc lược ngà và sự hy sinh của ông Sáu trên chiến trường
II. Tóm tắt Chiếc lược ngà
Ông Sáu thanh gia kháng chiến từ khi con gái còn rất nhỏ. Trong suốt những năm tháng chiến đấu đầy khó
khăn gian khổ ở chiến trường, không lúc nào ông Sáu nguôi ngoai nỗi nhớ về con gái mà ông chỉ được thấy con
qua tấm ảnh nhỏ. Sau tám năm xa cách, cuối cùng ông Sáu cũng có cơ hội về thăm nhà.
Trong ba ngày nghỉ phép, điều ông Sáu mong muốn nhất là được gặp con gái của mình – bé Thu. Tuy nhiên khi
về tới nhà, do thời gian xa cách quá lâu cùng vết thẹo dài trên mặt do chiến tranh để lại, bé Thu đã không nhận
ông Sáu là ba mình. Ông Sáu càng cố gắng gần gũi, vỗ về con thì con gái càng đẩy ông ra, thậm chí còn đối xử
với ông như người xa lạ.
Sau khi nghe bà ngoại kể, bé Thu mới chấp nhận người đàn ông với vết sẹo dài kia chính là ba của mình. Trớ
trêu thay, lúc bé Thu nhận ra ba thì cũng là lúc ông Sáu phải tạm biệt gia đình để trở về chiến khu. Trước lúc
chia tay ba, bé Thu muốn được ba mua cho mình một chiếc lược trong lần trở về thăm nhà sau.
Trở lại khu căn cứ, trong nỗi nhớ con đau đáu, ông Sáu dồn hết tình thương để làm một chiếc lược ngà bằng vỏ
đạn dành cho con gái. Giây phút ông Sáu hy sinh ở chiến trường, ông đã gửi lại cho người đồng đội là ông Ba,
nhờ gửi tặng cho con gái mình chiếc lược vì có lẽ ông không thể về thăm nhà đúng như lời hứa được nữa.
III. Phân tích Chiếc lược ngà
1. Phân tích đặc sắc tình huống truyện Chiếc lược ngà
Hai tình huống truyện bất ngờ, tự nhiên nhưng hết sức hợp lý:
– Hai cha con ông Sáu gặp lại nhau sau tám năm xa cách, nhưng trớ trêu thay, bé Thu, con gái ông lại không
nhận ra ông Sáu là ba. Đến khi bé Thu nhận ra ông Sáu là ba thì cũng là lúc ông Sáu phải quay về chiến khu.
▶ Tình huống giúp bộc lộ tình cảm cha con mãnh liệt giữa ông Sáu và bé Thu
– Tại khu căn cứ, ông Sáu đã dồn hết tất cả tình thương, nỗi nhớ vào việc làm cho con gái một chiếc lược ngà.
Nhưng chưa kịp tặng con vào ngày trở về thì ông đã hy sinh trong một trận càn. Trước khi trút hơi thở cuối
cùng, ông đã nhờ người đồng đội thay mình gửi chiếc lược ngà cho con gái.
▶ Tình huống giúp bộc lộ niềm thương, nỗi nhớ, sự day dứt của ông Sáu đối với con gái của mình
Nhận xét ý nghĩa tình huống truyện mang lại:
– Tình huống kịch tính, chứa nhiều yếu tố bất ngờ khiến người đọc phải hồi hộp theo dõi từng diễn biến truyện.
Từ đó, làm nổi bật tình cảm cha con thiêng liêng, sâu nặng.
– Đặt nhân vật vào những tình huống éo le, thử thách đã tạo đòn bẩy để những diễn biến tình cảm cha con được
đẩy lên cao trào. Qua đó, khẳng định tình cảm cha con là thiêng liêng bất diệt mà ngay cả chiến tranh hay súng
đạn cũng không thế chia cắt được.
▶ Tình huống truyện giúp nhà văn thể hiện rõ nét tình thương con sâu sắc của anh Sáu và nét tính cách đặc biệt
của bé Thu.
2. Phân tích nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà
a. Khi bé Thu không nhận ông Sáu là ba
– Bé Thu là một người rất thương cha. Tuy chỉ nhìn thấy cha qua tấm ảnh cưới, cô vẫn luôn mong một ngày
được gặp cha, được vỗ về, chở che trong vòng tay của cha.
Những tưởng cuộc gặp gỡ sau tám năm xa cách của hai cha con sẽ vỡ òa trong niềm hạnh phúc thì bé Thu lại
có thái độ hết sức lạ thường:
– Trước sự xúc động, vội vàng, vồ vập của ông Sáu, bé Thu ngạc nhiên rồi hốt hoảng: cô bé “tròn xoe mắt”
nhìn ông Sáu, mặt tái đi và vụt chạy trong tiếng hét gọi cầu cứu
– Trong suốt ba ngày ông Sáu ở nhà, ông đã dành cho Thu rất nhiều sự quan tâm, chăm sóc như để bù đắp cho
Thu trong những ngày ông xa nhà. Thế nhưng thái độ Thu không thay đổi, cô bé tỏ thái độ lạnh nhạt, xa cách,
thậm chí cả sự ngang ngạnh, bướng bỉnh đến khó chịu
– Cô bé nhất quyết không nhận ông Sáu là ba: Thu không nghe lời ông Sáu, không chịu gọi ông Sáu một tiếng
“ba”, đã vậy còn nói trống không. Ngay cả khi cần sự giúp đỡ, cô bé chấp nhận loay hoay tự xoay sở thay vì
nhờ đến sự giúp đỡ từ ông Sáu
– Cô bé từ chối mọi hành động yêu thương, chăm sóc của ông Sáu khiến câu chuyện đi đến cao trào: Trong bữa
cơm, khi ông Sáu gắp cho Thu miếng trứng cá ngon nhất thì nó đã lạnh lùng hất phăng ra khỏi bát, khiến cơm
bắn tung tóe và làm ông Sáu tức giận
– Khi bị ông Sáu mắng, Thu bướng bỉnh không xin lỗi mà lập tức bỏ về nhà bà ngoại. Đã vậy khi xuống xuồng,
cô còn cố ý khua dây lòi tói cho kêu rổn rảng thật to để đánh động để cho mọi người biết sự giận dỗi của mình
Nguyên nhân bé Thu không nhận ông Sáu là ba:
– Nguyên nhân gián tiếp: Bé Thu sinh ra khi đất nước đang trong thời kỳ chiến tranh nên trong suốt tám năm kể
từ khi sinh ra, cô bé chỉ biết mặt ba qua tấm hình chụp chung với má, chưa từng gặp mặt hay nghe giọng nói
của ba.
– Nguyên nhân trực tiếp: vết thẹo trên mặt cùng khoảng thời gian khó khăn sống nơi chiến trường đã khiến cho
gương mặt và ngoại hình của ông Sáu có phần khác lạ so với ảnh chụp ngày xưa. Bé Thu vốn rất yêu ba nên cô
luôn muốn bảo vệ hình ảnh người ba của mình. Trong tâm trí của cô bé, ngoài người đàn ông trong ảnh ra thì
không ai được phép mạo nhận làm cha
▶ Sự ngang ngạnh, bướng bỉnh và thái độ bất thường của bé Thu không hề đáng trách. Mặt khác, hành động
của cô bé là phản ứng tâm lý hết sức tự nhiên. Vốn sinh ra trong giai đoạn đất nước chìm trong chiến tranh,
Thu còn quá nhỏ để hiểu được những gì mà người cha đã trải qua trên chiến trường khắc nghiệt ấy. Thêm vào
đó, người lớn cũng không hề chuẩn bị tâm lý để em đón nhận những điều bất thường này nên Thu mới có
những phản ứng thái quá với ông Sáu.
▶ Qua thái độ và hành động bất thường của cô bé, tác giả đã tái hiện được hoàn cảnh cảnh éo le trong chiến
tranh; đồng thời khắc họa được tính cách nhân vật bé Thu – một cô bé bướng bỉnh và cá tính đến kì lạ.
b. Khi bé Thu nhận ra ba mình là ông Sáu
Sau khi bé Thu được bà ngoại giải thích, cô bé đã hiểu ra ông Sáu chính là ba mình và cảm thấy tội lỗi vì đã
hiểu lầm ba. Nhưng ngày cô bé nhận ra cũng là ngày ông Sáu phải lên đường về đơn vị. Thái độ của bé Thu
với ông Sáu lúc ấy đã đột ngột thay đổi trong sự ngỡ ngàng của mọi người:
– Không còn ngang ngạnh, ương bướng hay cố chấp mà thay vào đó, cô bé chưng ra bộ mặt buồn rầu và “nhìn
với vẻ nghĩ ngợi sâu xa”.
– Đôi mắt mênh mông của cô bé bỗng xôn xao khi bắt gặp ánh nhìn trìu mến và buồn rầu của người cha trong
buổi chia tay
– Sự tội lỗi và ngượng ngùng khiến cô bé không biết phải nói gì. Chỉ đến khi ông Sáu nói lời từ biệt thì cô bé
mới chịu thốt lên một tiếng gọi xé lòng: “Ba… a… a… ba”. Tiếng thét da diết như được dồn nén suốt tám năm,
mang theo tình thương, tình yêu, nỗi nhớ và cảm xúc tiếc nuối khôn tả
– Cô bé chạy xô lại để ôm chặt lấy ông Sáu và hôn lên cả cái vết thẹo dài trên má của ông – thứ mà đã khiến cô
từ chối nhận ba mình
– Trong sự day dứt, cô bé muốn giữ ba ở lại: “Ba! Không cho ba đi nữa! Ba ở nhà với con”. Câu nói như thể
hiện tình cảm yêu thương tha thiết mà bé Thu dành cho ba.
– Trong buổi chia tay ba, cô bé chỉ có ao ước được ba mua cho cây lược ngà: mong ước của cô bé cho thấy cô
muốn có vật kỉ niệm của ba để luôn được thấy ba bên mình, luôn được ba chở che, vỗ về
▶ Sau khi biết ông Sáu chính là ba mình, trong khoảnh khắc chia ly, dường như mọi khoảng cách bị xóa bỏ, bé
Thu bộc lộ tất cả tình cảm dồn nén bấy lâu của mình dành cho ba. Tiếc rằng đó là lần cuối bé Thu tâm lý, tình
cảm của bé Thu, tác giả đã tô đậm tình yêu thương ba của cô bé. Qua đó, ta thấy hình tượng nhân vật bé Thu
tưởng chừng như bướng bỉnh, gan góc nhưng
3. Phân tích nhân vật ông Sáu trong Chiếc lược ngà
a. Trong khoảng thời gian về thăm gia đình
Được đơn vị cho nghỉ phép 3 ngày sau tám năm sống khổ cực nơi chiến trường, trong lòng ông Sáu bỗng dậy
lên bao niềm xúc động mãnh liệt:
– Tâm trạng háo hức, nôn nao trong lòng, ông Sáu xúc động đến mức vết thẹo trên má đỏ ửng lên và giật giật,
giọng ông còn run lên
– Ông nông nóng, vội vã như không thể chờ đợi thêm giây phút nào để gặp lại gia đình. Ông “thèm” được gặp
gia đình đến nỗi không chờ xuồng cập bến, ông Sáu đã nhún chân nhảy thót lên bờ, xô chiếc xuồng tạt ra… vội
vàng sải những bước chân dài hướng về ngôi nhà nhỏ của ông
– Trong nỗi nhớ nhà, nhớ con, ông Sáu kêu to hai tiếng thiêng liêng: “Thu! Con” như để thỏa sự thèm khát
được gọi, được nghe suốt tám năm qua
– Tuy nhớ con là vậy nhưng thứ ông Sáu nhận lại là thái độ thờ ơ, lảng tránh của bé Thu. Trước thái độ bất
thường của con gái, ông Sáu rơi vào trạng thái đau đớn, tủi hổ đến tột cùng, mặt tối sầm lại đáng thương, hai
tay buông thõng như bị gãy
▶ Sử dụng những từ miêu tả “đứng sững lại’’, “mặt anh sầm lại’’ và “tay buông xuống như bị gãy”, tác giả đã
diễn tả sinh động hình ảnh người cha bị chính con mình cự tuyệt, thấu hiểu được nỗi đau quá lớn mà ông Sáu
phải trải qua trong thời khắc ấy
Trong ba ngày phép ở nhà, ông Sáu tìm mọi cách để bé Thu thay đổi. Ông kiên nhẫn chuyện trò, vỗ về để chờ
đợi tình cảm đáp lại từ phía con:
– Ông bù đắp tình cảm cho con bằng việc không đi đâu xa, luôn gần gũi và dành những tình cảm yêu thương
cho con
– Tuy bị bé Thu cự tuyệt nhận ba nhưng ông không hề trách giận mà chỉ nhẹ nhàng lắc đầu cười trước sự ương
bướng của cô bé.
– Khi tình cảm của ông bị từ chối một cách quyết liệt trong bữa cơm, ông đã không kìm được cảm xúc, không
giữ được sự bình tĩnh mà đánh con. Cơn giận này xuất phát từ nỗi đau của ông, từ nỗi đau của một người cha bị
chính con gái mình cự tuyệt
Giây phút chia tay, tình cảm cha con sâu nặng được bộc lộ rất xúc động qua các chi tiết:
– Ông không dám lại gần con bé vì sợ cảm xúc quyến luyến sẽ giữ chân ông ở lại. Vì vậy, ông chỉ đứng nhìn bé
Thu với đôi mắt trìu mến xen lẫn buồn rầu, cố gắng kìm nén khao khát ôm con vào lòng.
– Khi con bé Thu gọi ông bằng một tiếng “ba”, ông đã không ghìm được xúc động mà bật khóc, nhẹ nhàng hôn
lên mái tóc con. Ông không muốn con gái trông thấy những giọt nước mắt yếu đuối của mình – những giọt
nước mắt hạnh phúc của một người cha thương con sâu sắc.
– Trước lời đề nghị của bé Thu, ông hứa sẽ trở về để tặng cho con chiếc lược ngà tặng
▶ Qua diễn biến tâm trạng của ông Sáu từ khi về nhà, ta có thể thấy hình ảnh một người cha yêu thương con
hết mực là như thế nào. Tình phụ tử ấy đã chiến thắng sự tàn bạo của chiến tranh, vượt qua mọi khó khăn, cách
trở vẫn luôn vẹn nguyên và tràn đầy sự ấm áp.
b. Khi trở lại chiến trường
– Ông Sáu luôn đau đáu trong lòng nỗi ân hận, khổ tâm vì trong thời gian ở nhà đã lỡ trách phạt con.
Từ nỗi ân hận và lòng nhớ con da diết, ông Sáu dồn tất cả tình yêu vào việc làm chiếc lược ngà để mong đến
ngày được tặng cho con:
– Khi kiếm được khúc ngà đã “hớn hở như một đứa trẻ được quà”.
– Bao tình cảm yêu thương, nỗi nhớ nhung ông dồn vào việc làm chiếc lược. Chiến trường khốc liệt là thế
nhưng cứ khi nào có thời gian rảnh, ông lại ngồi tỉ mỉ cưa từng chiếc răng lược cho đến khi hoàn thành. Ông
giữ chiếc lược như giữ con bên mình. Những đêm nhớ con ông Sáu lại lấy cây lược ra ngắm nghía
– Ông tỉ mỉ khắc từng nét chữ trên chiếc lược: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”.
▶ Ông Sáu dành trọn vẹn tình cảm của mình vào việc làm chiếc lược ngà như tình cảm ông muốn dành trọn
cho con. Dẫu chiếc lược ấy chưa lần nào được chải trên mái tóc của bé Thu nhưng nó đã phần nào gỡ rối được
những mối tơ lòng, vơi đi nỗi dày vò ân hận trong thâm tâm của ông. Có thể nói, chiếc lược ngà là trong truyện
chính là biểu tượng của tình cảm cha con – một tình cảm thiêng liêng và sâu nặng
Khi đứng trước cái chết cũng không lấy đi được tình yêu con của ông Sáu:
– Trong một trận càn của quân địch, ông Sáu đã vô tình bị thương. Vết thương đã khiến ông kiệt sức và lấy đi
hy vọng sống cuối cùng của ông. Vậy nhưng trước lúc ra đi, ông vẫn dốc hết tàn lực, trao cây lược ngà người
đồng đội với lời nhắn mang về cho con gái giúp ông. Trong giây phút ấy, ông không chỉ trao chiếc lược mà còn
gửi gắm tất cả tình yêu, nỗi nhớ của mình qua ánh mắt trong vòng tay người đồng đội. Ánh mắt thể hiện một
niềm tiếc nuối vô bờ khi không thể thực hiện lời hứa với đứa con của mình
– Cây lược được trao tận tay cho bé Thu qua ông Ba đã chứng minh, bé Thu có thể mất cha, ông Sáu có thể hy
sinh trên chiến trường nhưng tình cha con của họ thì không hề chết. Không những vậy nó còn trở thành điểm
tựa, nâng đỡ bé Thu trên hành trình trưởng thành.
▶ Ông Sáu trở thành biểu tượng đẹp đẽ cho hình ảnh người cha trong thời kỳ đất nước ngập trong bom đạn
chiến tranh. Ở ông Sáu ta thấy được vẻ đẹp của tình yêu thương; sự ân cần, lòng bao dung và che chở của
người cha dành cho con mình. Từ đó giúp khẳng định sự bất diệt của tình cảm cha con, tình phụ tử
IV. Tổng kết chung phân tích tác phẩm Chiếc lược ngà
1. Về nội dung
Qua tác phẩm “Chiếc lược ngà”, nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã diễn tả một cách xúc động tình cảm thắm
thiết, sâu nặng giữa cha con anh Sáu. Đó là thứ tình cảm thiêng liêng cao đẹp và ngời sáng, nổi bật trên hoàn
cảnh éo le, bi kịch mà chiến tranh gây ra.
Không chỉ tô đậm tình cha con thiêng liêng mà tác phẩm còn gợi cho người đọc thấm thía, đồng cảm với những
đau thương, mất mát mà chiến tranh mang đến cho bao nhiêu bao nhiêu gia đình Việt Nam. Có thể nói, nội
dung bao quát tác phẩm có ý nghĩa lên án, tố cáo tội ác chiến tranh xâm lược sâu sắc.
2. Về nghệ thuật
– Tình huống truyện được xây dựng tự nhiên, hợp lý, có tình tiết éo le, tạo ra cao trào và giải quyết hợp lý
– Nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật thông qua các từ gợi tả được áp dụng triệt để
– Lối kể chuyện mộc mạc, tự nhiên nhưng vẫn giàu cảm xúc.
– Hệ thống hình ảnh giản dị, giàu sức gợi, lôi cuốn và hấp dẫn người đọc
BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH
I. Thông tin về tác giả – tác phẩm
1. Tác giả: Phạm Tiến Duật
– Tên khai sinh: Phạm Tiến Duật
– Sinh năm 1941, mất năm 2007
– Quê quán: huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ
– Phạm Tiến Duật là một trong những gương mặt nhà thơ tiêu biểu thuộc thời kì chống Mĩ cứu nước
- Từ những tác phẩm thơ mang đậm hình ảnh bộ đội chống Mỹ, Phạm Tiến Duật đã được ca tụng là “con chim
lửa của Trường Sơn” hay “cây săng lẻ của rừng già” hay “nhà thơ lớn nhất thời chống Mỹ”. Bởi lẽ thơ ông
được đánh giá là “có sức mạnh của một sư đoàn”, có tác dụng thôi thúc ý chí chiến đấu của người lính trên mặt
trận đầy cam go, thử thách khó khăn.
Phong cách nghệ thuật trong thơ Phạm TIến Duật:
– Thơ Phạm Tiến Duật được giới nhà văn đánh giá cao và có nét độc đáo như: giọng điệu thơ sôi nổi, trẻ trung,
vừa có cái “tinh nghịch”, vừa mang nhiều hàm ý sâu sắc.
– Thơ ông tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ qua hình tượng người lính và
nữ thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn.
– Vừa tham gia chiến đấu trong vai trò người lính, vừa quan sát chiến tranh trong tư cách một phóng viên mặt
trận khiến thơ Phạm Tiến Duật vừa mang hơi thở thời đại, vừa có khí phách ngang tàng, bụi bặm của người
lính thời chống Mỹ.
2. Tác phẩm Bài thơ về tiểu đội xe không kính lớp 9
a. Hoàn cảnh sáng tác Bài thơ về tiểu đội xe không kính
– “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” được viết năm 1969, sau đó được in trong tập thơ “Vầng trăng quầng
lửa”, xuất bản năm 1970. Đây là giai đoạn cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra cực kỳ khắc nghiệt ở cả
hai miền Nam – Bắc.
– Hiện thực trong thời điểm ra đời bài thơ: từ 1959 đến 1975, nhờ tuyến đường Trường Sơn chúng ta đã vận
chuyển được vào chiến trường miền Nam hơn một triệu tấn hàng và vũ khí nhưng đồng thời cũng bị máy bay
Mỹ phá hủy gần 90 nghìn tấn hàng và 14.500 xe, máy.
– Đường Trường Sơn trong những năm kháng chiến chống Mỹ, được xem là tuyến vận tải chiến lược, nối hậu
phương miền Bắc với tiền tuyến miền Nam. Trên đường Trường Sơn, sự sống và cái chết rất mong manh,
không ai có thể đếm xuể những khó khăn chồng chất: ngày thường thì gập ghềnh hiểm trở; vào mùa mưa, nước
mưa trút xuống tựa như thác đổ; mùa khô thì bụi bay mù trời. Được ngày trời quang mây tạnh thì giặc Mỹ liên
tục trút mưa bom xuống những đoàn xe của quân ta.
– Tuy khó khăn là thế nhưng niềm tin chiến thắng và ý chí quyết tâm đã giúp những đoàn xe không kính vượt
lên tất cả. Với người lính lái xe khi ấy, cung đường nào, chuyến xe nào cũng đầy ắp những kỷ niệm, mà có đi
hết cả cuộc đời, họ cũng chẳng thể nào quên.
– Lấy cảm hứng từ người lính lái xe và chiến tranh, Phạm Tiến Duật đã sáng tác “Bài thơ về tiểu đội xe không
kính” khi đang trực tiếp chiến đấu trên tuyến đường Trường Sơn.
b. Ý nghĩa nhan đề “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”
– Tác phẩm có nhan đề khá dài và đặc biệt: “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Nhan đề bài thơ tưởng chừng
như có chỗ thừa nhưng lại thu hút người đọc bởi vẻ khác lạ và độc đáo. Tên bài thơ hay ở sức gợi: gợi chất thơ
của cuộc sống nơi chiến trường. Đặc biệt, thông qua nhan đề, người đọc có thể hình dung ra đối tượng chính
tác giả muốn nhắc tới: những chiến xe không kính.
Mục đích của việc đưa hình ảnh “tiểu đội xe không kính” được đưa vào nhan đề bài thơ:
– Nhằm gợi tả hiện thực trên tuyến đường Trường Sơn trong những năm kháng chiến chống Mĩ cứu nước
– Đưa ra đối tượng tiêu biểu, tái hiện hiện thực vô cùng gay go, khốc liệt của cuộc chiến.
– Ca ngợi vẻ đẹp của người lính lái xe với lòng dũng cảm, ý chí, nghị lực và sự kiên cường trong hành trình lái
xe vượt Trường Sơn.
– Hai chữ “Bài thơ” làm nên sự đặc biệt trong nhan đề tác phẩm đã nói lên cách nhìn và cách khai thác hiện
thực của tác giả: ngoài khơi gợi lại hiện thực tàn khốc của chiến tranh, ông muốn khai phá chất thơ từ hiện thực
ấy, chất thơ có trong tâm hồn những người lính lái xe
– Nhan đề “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” không những giúp làm nổi bật chủ đề chính, mà còn thể hiện
được cảm xúc ngợi ca, tự hào của tác giả về những người lính lái xe.
II. Bố cục Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Bài thơ được chia thành 2 phần nội dung chính:
– Phần I gồm 2 khổ thơ đầu: từ “Không có kính không phải vì xe không có kính…” đến “…Như sa, như ùa vào
buồng lái”
Nội dung chính: Tư thế ung dung, hiên ngang của người lính khi lái những chiếc xe không kính
– Phần II gồm 6 khổ thơ còn lại: từ “Không có kính, ừ thì có bụi,…” đến “….Chỉ cần trong xe có một trái tim”
Nội dung chình: Hình tượng người lính lái xe trên đường Trường Sơn
Trong đó:
– Khổ 3,4: Tinh thần lạc quan, sôi nổi và bất chấp khó khăn hiểm nguy của người lính: Hình ảnh những người
lính lái xe là minh chứng rõ nét cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng và thanh niên Việt Nam thời kỳ kháng
chiến chống Mỹ cứu nước
– Khổ 5,6: Tình đồng chí cao đẹp và tinh thần đoàn kết của người lính lái xe dọc Trường Sơn: Vượt qua hàng
nghìn cây số lái xe trong mưa bom, bão đạn, những người lính tụ họp bên nhau để cùng tếu táo và ấm áp trong
tình đồng đội, đồng chí. Chính tình cảm thiêng liêng này đã kết nối những trái tim lại với nhau, ủng hộ lẫn nhau
trong hành trình dài phía trước.
– Khổ 7: Lòng yêu nước, ý chí chiến đấu và lý tưởng cách mạng của người lính: Thông qua hình ảnh thơ độc
đáo, tác giả khắc họa hình ảnh người lính với một trái tim tràn đầy yêu thương, kiên trường, trái tim yêu nước,
giúp người lính chiến thắng mọi đe dọa của kẻ thù.
III. Phân tích Bài thơ về tiểu đội xe không kính
1. Phân tích khổ 1,2: Tư thế ung dung, hiên ngang của người lính khi lái những chiếc xe không kính
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng


Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.”
– Từ xưa đến nay, những hình ảnh về xe cộ trong thơ ca thường được “mĩ lệ hóa” hoặc “lãng mạn hoá”, giàu ý
nghĩa tượng trưng hơn là tả thực. Đọc giả có thể đã bắt gặp “chiếc xe tam mã” trong thơ Puskin, con tàu trong
bài thơ “tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên, hay “đoàn thuyền đánh cá” trong bài thơ cùng tên của Huy Cận.
Thế nhưng trong thơ Phạm Tiến Duật, “những chiếc xe không kính” lại hiện lên một cách hết sức chân
thực, thực tế đến mức trần trụi qua hai câu thơ đầu:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi.”
– Điệp từ “không” cộng với chất văn xuôi của thể thơ tự do, kết hợp cùng lối nói khẩu ngữ giúp mở ra một lời
giải thích ngay từ đầu. Hai câu thơ dường như được viết ra nhằm thay cho lời thanh minh, phân bua của những
người lính lái xe về hình ảnh bất thường của “những chiếc xe không kính”
– Hai câu thơ là tâm trạng xót xa, tiếc nuối của những người lính với chiếc xe của mình khi không còn nguyên
vẹn, lành lặn như ban đầu
– Điệp ngữ “bom giật, bom rung” vừa giúp người đọc hình dung về một vùng đất từng được mệnh danh là “túi
bom” của địch, vừa cho thấy được sự khốc liệt mà chiến tranh gây ra cho những chiếc xe tải
– Từ phủ định: “không có” và “không phải” đi kèm với các điệp ngữ “bom giật, bom rung” mang ý nghĩa
khẳng định hiện thực tàn khốc mà chiến tranh đã gây ra. Đồng thời, chúng còn khiến câu thơ trở nên hùng tráng
hơn, góp phần tăng thêm vẻ đẹp ngang tàn của những chiếc xe trong lần xuất hiện đầu tiên
=> Ngay từ hai câu thơ mở đầu bài thơ, tác giả đã làm hiện lên những chiếc xe vận tải quân sự mang trên mình
đầy những thương tích gây ra bởi chiến tranh. Đó chính là bằng chứng rõ ràng cho sự tàn phá khủng khiếp mà
quân đội Mỹ đã làm trên chiến trường Việt Nam
Sử dụng chất liệu từ cuộc chiến tranh khốc liệt ấy, Phạm Tiến Duật đã xây dựng hình ảnh những người
lính lái xe Trường Sơn với tư thế hiên ngang, ngang tàng, sẵn sàng ra trận:
“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”
– Biện pháp đảo ngữ, đưa tính từ “ung dung” lên đứng đầu câu giúp tạo nên sự bình thản, điềm tĩnh đến kỳ lạ
của người lính lái xe
– “Nhìn thẳng” là cái nhìn chủ động, đầy tự chủ, bất khuất, bộc lộ những phẩm chất cao đẹp, đặc biệt là sự
dũng cảm, hiên ngang của người lính. Họ nhìn thẳng vào gian khổ, không mảy may run sợ trước khó khăn,
không thẹn với trời đất vì chính họ cũng đang chiến đấu vì một mục tiêu cao cả
– Điệp từ “nhìn” được lặp lại ba lần, kết hợp với nhịp thơ dồn dập, giọng điệu mạnh mẽ đã thể hiện tầm nhìn
rộng, khoáng đạt của người lính giữa chiến trường
– Biện pháp liệt kê và điệp ngữ trong câu thơ “nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng” đã thể hiện tư thế vững vàng,
hiên ngang của những người lính lái xe, sẵn sàng nhìn thẳng vào bom đạn, nhìn thẳng vào con đường đang bị
bắn phá để lái xe vượt qua.
Tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan coi thường hiểm nguy của người lính lái xe ra trận được tô đậm qua
những hình ảnh thiên nhiên:
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.”
– Thay vì gói gọn trong không gian của chiếc xe tải không kính, tác giả đã mở rộng tầm nhìn ra một không gian
rộng lớn hơn. Ở đó có những con đường dài, có gió thổi, có cánh chim và những ánh sao đêm. Phải chăng thiên
nhiên nơi núi rừng Trường Sơn đang ùa vào buồng lái, gợi lên chất thơ trong tâm hồn những anh lính trẻ
Không gian rộng lớn của thiên nhiên được tác giả miêu tả thông qua:
– Điệp từ “thấy” và điệp ngữ: “nhìn thấy… nhìn thấy…” cùng giọng thơ hối hả đã gợi lên khung cảnh từng
đoàn xe không kính nối đuôi nhau, vận chuyển nhu yếu phẩm từ Bắc vào Nam
– Biện pháp nhân hóa chuyển đổi cảm giác “vào xoa mắt đắng” nhằm thể hiện những hiểm nguy do thời tiết mà
những người lính phải trải qua. Do xe không có kính nên không thể chặn gió. Gió thổi vào buồng lái làm “mắt
đắng”. Thế nhưng, những anh lính vẫn dũng cảm, bất chấp khó khăn tiến về phía trước
– Hình ảnh “con đường chạy thẳng vào tim” thể hiện tốc độ phóng nhanh như bay của những chiếc xe. Chiếc
xe không kính cùng với tốc độ cực nhanh của xe tạo đã rút ngắn khoảng cách giữa các anh với con đường,
khiến người lính lái xe có cảm giác con đường đang chạy thẳng vào tim, hòa cùng dòng máu yêu nước chảy
trong lồng ngực.
– Hình ảnh “sao trời” và “cánh chim” vốn là biểu tượng phân biệt hai trạng thái ban đêm và ban ngày. Câu thơ
“thấy sao trời và đột ngột cánh chim” mang ý nghĩa từng đoàn xe nối đuôi nhau chạy không kể ngày đêm, cứ
khi nào máy bay Mỹ ngừng bay thì quân ta sẽ hành quân
– Hình ảnh so sánh “như sa, như ùa vào buồng lái” một lần nữa nhấn mạnh tốc độ nhanh phi thường của tiểu
đội xe không kính khi ra trận. Không những đường đi mà cả một bầu trời đêm cũng như ùa vào buồng lái.
=> Qua 2 khổ thơ đầu, tác giả đã gợi tả sinh động hiện thực chiến trường chính xác đến từng chi tiết. Hơn nữa,
đằng sau đó còn là một khí chất, một bản lĩnh, thể hiện qua tư thế chiến đấu ung dung, hiên ngang của người
lính trước sự khốc liệt của chiến tranh.
2. Phân tích khổ 3,4 bài thơ về tiểu đội xe không kính: Tinh thần lạc quan, sôi nổi và bất chấp khó khăn
hiểm nguy của người lính
“Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha

Không có kính, ừ thì ướt áo


Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.”
Với tinh thần lạc quan, những người lính lái xe đã coi gian khổ, hiểm nguy nơi chiến trường trở thành một
phần trong cuộc sống tại Trường Sơn. Điều này được thể hiện qua:
– Hình ảnh thơ “gió”, “bụi”, “mưa” là những hiện tượng thiên nhiên, thời tiết, đặc trưng cho những gian khổ,
thử thách mà người lính phải đối diện
– Cấu trúc lặp: “Không có…, ừ thì…” lặp lại hai lần ở đầu hai khổ thơ, cùng với đó là kết cấu phủ định “Chưa
cần…” đã thể hiện sự ngang tàn, thái độ coi thường hiểm nguy, bất chấp khó khăn, coi thường gian khổ của
những chiến sĩ lái xe Trường Sơn
– Hình ảnh so sánh trong hai câu thơ “Bụi phun tóc trắng như người già” và “Mưa tuôn, mưa xối như ngoài
trời” là cách nói phóng đại của tác giả nhằm nhấn mạnh sự khắc nghiệt của thiên nhiên nơi chiến trường, đồng
thời cho thấy tinh thần lạc quan, dũng cảm tiến về phía trước của người lính Trường Sơn. Mặc cho bụi mưa phủ
đầy trên tóc, trên áo, họ vẫn giữ một hướng đi, vẫn lái xe lao thẳng về phía trước.
– Trong sự khắc nghiệt của thiên nhiên, những người lính vẫn “phì phèo châm điếu thuốc”, cố gắng “lái trăm
cây số nữa”. Đây là hình ảnh cho thấy sự thản nhiên, phong thái thờ ơ của người lính lái xe trước những thử
thách phải trải qua trên tuyến đường Trường Sơn.
=> Với ngôn ngữ giản dị đời thường, kết hợp cùng giọng điệu thản nhiên, hóm hỉnh, tác giả đã làm nổi bật
niềm vui, tiếng cười của người lính giữa muôn vàn gian khổ, hiểm nguy của cuộc chiến đấu, cùng với đó là bản
lĩnh, nghị lực phi thường
=> Hình ảnh tiểu đội xe không kính qua 2 khổ thơ trên là minh chứng rõ nét cho chủ nghĩa anh hùng cách
mạng và thanh niên Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước
3. Phân tích khổ 5,6 Bài thơ về tiểu đội xe không kính: Tình đồng chí cao đẹp và tinh thần đoàn kết của
người lính lái xe dọc Trường Sơn
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời


Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.”
Vượt qua hàng nghìn, hàng vạn cây số lái xe trong mưa bom, bão đạn, những người lính lại gặp nhau để
cùng tếu táo và ấm áp trong tình đồng đội, đồng chí. Chính tình cảm thiêng liêng này là sợi dây vô hình kết
nối mọi người trong tình cảnh cái chết luôn rình rập
– Hình ảnh “Những chiếc xe từ trong bom rơi”: vừa tả thực về những chiếc xe không kính, mưa bom đạn chiến
trường để trở về, vừa hàm ý nhấn mạnh sự bất khuất, ý chí chiến đấu kiên cường của những người lính lái xe
Ý nghĩa hình ảnh giàu sức gợi “Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi” :
– Thể hiện sự đồng cảm sâu sắc giữa những người lính khi trải qua những khó khăn như nhau mặc dù trên
những cung đường khác nhau
– Hành động “bắt tay” có thể coi như những lời động viên ngắn ngủi mà họ dành cho nhau. Cái bắt tay ấy vừa
mang lại sự an ủi, vừa là động lực kết nối những trái tim lại với nhau, ủng hộ lẫn nhau trong hành trình dài phía
trước
Cuộc hội ngộ của tiểu đội xe không kính tuy ngắn ngủi mà thắm tình đồng đội:
Qua những bữa cơm vội vàng dã chiến “giữa trời”, dùng chung bát, chung đũa đã vô hình giúp các chiến sĩ
gần nhau hơn:
– Hình ảnh gia đình hiện lên mang đậm chất lính, vừa tếu táo mà vừa chân tình, sâu nặng. Vô tình nhờ những
khó khăn, thiếu thốn đó, những người lính đã gắn bó với nhau như một gia đình thực thụ, giúp đỡ nhau trong cả
chiến đấu lẫn đời thường
– Thời gian nghỉ ngơi tuy chỉ diễn ra thoáng chốc và bữa cơm “chung bát đũa” giữa đường xe chạy đã trở thành
khoảnh khắc hạnh phúc hiếm hoi trên hành trình vượt Trường Sơn của những người lính. Từ đó xóa đi khoảng
cách, giúp họ trở nên gần gũi, thân thiết, thậm chí là yêu thương nhau như ruột thịt.
– Từ láy “chông chênh” của chiếc võng chính là ẩn dụ cảm giác bấp bênh không bằng phẳng trên những tuyến
đường mà xe đi qua. Ngay cả lúc nghỉ ngơi thì những chiến sĩ vẫn phải chịu sự bấp bênh, thiếu an toàn đó.
Song, đối với họ, càng gian khổ thì ngày thắng lợi càng đến gần.
– Nghệ thuật ẩn dụ “trời xanh thêm” đã thể hiện tâm hồn sôi nổi và lạc quan của người chiến sĩ. Màu sắc xanh
là biểu tượng của niềm tin, sự tin tưởng, là hi vọng vào ngày dân tộc chiến thắng, đất nước hoàn toàn giải
phóng
– Điệp từ “lại đi, lại đi” và nhịp thơ 2/2/3 đã khẳng định đoàn xe sẽ khẩn trương tiếp tục đi về phía con đường
gian khổ phía trước
=> Khổ thơ cho thấy nhịp sống sôi nổi và tinh thần chiến đấu kiên cường của tiểu đội xe không kính. Dù cho
sức mạnh của giặc Mỹ có tàn bạo cỡ nào cũng không thể ngăn cản nổi ý chí chiến đấu của quân đội ta.
4. Phân tích khổ thơ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính: Lòng yêu nước, ý chí chiến đấu và lý tưởng
cách mạng của người lính
Bài thơ khép lại với bốn câu thơ thể hiện ý chí chiến đấu kiên cường của người lính lái xe Trường Sơn – đại
diện cho thế hệ trẻ Việt Nam thời chống Mĩ với lý tưởng sống cao đẹp
“Không có kinh, rồi không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.”
Trong khổ thơ cuối, tác giả đã một lần nữa nhắc lại hình ảnh những chiếc xe không kính một cách chân thực
và sinh động qua:
– Biện pháp liệt kê những điểm không hoàn thiện của chiếc xe như: không kính, không đèn, không mui, thùng
xe xước để nhấn mạnh sự thiếu thốn, không toàn vẹn của đoàn xe mang trong mình nhiệm vụ “xẻ dọc Trường
Sơn cứu nước”.
– Điệp từ “không có” góp phần diễn tả sự khốc liệt và dữ dội mà chiến trường đã mang lại cho những chiếc xe:
mưa bom đạn lạc khiến chiếc xe trở nên trơ trụi, thiếu những bộ phận cơ bản nhất của một chiếc xe bình
thường.
– Sự trơ trụi và tàn phá của bom đạn tưởng chừng như đã khiến xe ngừng hoạt động. Nhưng điều kỳ diệu là
những chiếc xe ấy vẫn bon bon trên đường ra trận, hoàn thành nhiệm vụ vận chuyển vũ khí, góp sức vào công
cuộc giải phóng miền Nam thống nhất đất nước
– Sử dụng phép đối lập “không có” với “vẫn chạy” đã làm nổi bật sức mạnh, sự ngoan cường của người lính lái
xe
– Câu thơ “Vì miền Nam phía trước” gợi nhắc đến niềm tin về ngày chiến thắng, ngày miền Nam giải phóng,
thống nhất đất nước

Hình ảnh “trái tim” là một hoán dụ nghệ thuật sáng tạo của tác giả, nói lên chân lý sâu xa về sức mạnh của
lòng yêu nước và lí tưởng cách mạng cao đẹp:
– Hình ảnh trái tim đã khẳng định phẩm chất cao quý của các người lính lái xe trên đường Trường Sơn. Các
anh vừa giúp tiếp nối truyền thống anh hùng bất khuất của dân tộc Việt Nam, vừa trở thành hình tượng thanh
niên tiêu biểu cho chủ nghĩa yêu nước của thế hệ chống Mỹ cứu nước
– Các bộ phận trên xe tuy thiếu và không còn nguyên vẹn nhưng “chỉ cần” một “trái tim” yêu nước nguyên vẹn
thì xe vẫn hoàn toàn có thể băng băng ra trận, hoàn thành nhiệm vụ cao cả của mình
– Hình ảnh “trái tim” còn tượng trưng cho lòng dũng cảm, lòng yêu nước và sức mạnh của lòng yêu nước.
Chính sức mạnh vô hình ấy đã lấp đầy những phần thiếu sót của chiếc xe, tạo động lực cho người lính vượt qua
khó khăn, thử thách
– “Trái tim” của người lính tuy vô hình mà hữu hình, có thể thay thế cho mọi thứ, biến chiếc xe không kính
như trở thành một cơ thể sống, hợp nhất với tâm hồn người chiến sĩ để tiếp tục hành trình dài phía trước.
=> Hình ảnh “trái tim” khép lại bài thơ đã làm bừng sáng lên ý nghĩa của toàn bộ tác phẩm. Đó là một trái tim
yêu thương, trái tim kiên trường, trái tim cầm lái, giúp người lính chiến thắng mọi đe dọa của kẻ thù. Và “trái
tim” ấy cũng đã trở thành nhãn tự của bài thơ, để lại ấn tượng và cảm xúc sâu lắng trong lòng người đọc.

III. Tổng kết chung phân tích Bài thơ về tiểu đội xe không kính
1. Về nội dung Bài thơ về tiểu đội xe không kính
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của tác giả Phạm Tiến Duật đã thành công trong việc xây dựng hình tượng
những người lính lái xe Trường Sơn trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Qua hình ảnh thơ đặc biệt là những
chiếc xe không kính, tác giả đã khắc họa một cách chân thực hình ảnh những người lính lái xe với nhiều phẩm
chất đẹp đẽ. Bất chấp khó khăn thử thách, những anh lính vẫn trong tư thế hiên ngang ra trận với một trái tim
ấm nóng tình đồng đội, tình yêu nước nồng nàn.
2. Về nghệ thuật Bài thơ về tiểu đội xe không kính
– Thể thơ tự do, chất văn xuôi giúp câu thơ trở nên đời thường và dễ hiểu
– Sử dụng chất liệu hiện thực nơi chiến trường vừa nói lên trải nghiệm của tác giả, vừa là ca ngợi, tự hào về
những đoàn xe không kính, “xẻ dọc Trường Sơn” cứu nước
– Ngôn ngữ đậm tính khẩu ngữ tự nhiên, đậm chất lính lái xe
– Giọng điệu ngang tàng pha chút hài hước, dí dỏm làm nổi bật thái độ coi thường gian khổ trong hoàn cảnh
thiếu thốn và cái chết luôn cận kề của những chiến sĩ khi thực thi nhiệm vụ của mình.
ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ
I. Thông tin về tác giả – tác phẩm
1. Tác giả: Huy Cận
– Tên thật: Cù Huy Cận
– Quê quán: huyện Vụ Quang, tỉnh Hà Tĩnh
– Sinh năm 1919 mất năm 2005
– Huy Cận từng giữ nhiều chức vụ lãnh đạo cấp cao trong chính phủ Việt Nam
– Ông còn là một nhà lãnh đạo chủ chốt của Đảng Dân chủ Việt Nam, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam
– Huy Cận là một trong những gương nhà thơ xuất sắc của nền văn học hiện đại Việt Nam:
Phong cách nghệ thuật trong thơ Huy Cận:
– Thơ được lấy cảm hứng ở nhiều khía cạnh đối cực như: vũ trụ – cuộc đời, sự sống – cái chết, niềm vui – nỗi
buồn, hiện thực – lãng mạn, …
– Thơ Huy Cận mang giọng điệu chân tình, mộc mạc và đậm tư tưởng triết lý; hình ảnh thơ sinh động, gần gũi
mà giàu sức gợi
2. Tác phẩm Đoàn thuyền đánh cá:
a. Hoàn cảnh ra đời tác phẩm Đoàn thuyền đánh cá
– Bài thơ được in trong tập “Trời mỗi ngày lại sáng” xuất bản năm 1986, là một trong số những tập thơ nổi
tiếng của Huy Cận trong giai đoạn sau cách mạng tháng Tám năm 1945
– Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được viết vào tháng 10 năm 1958. Đây là giai đoạn miền Bắc được giải
phóng, nhân dân bắt đầu cuộc sống mới, đồng thời bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm hậu phương
vững chắc cho chiến trường miền Nam
– Bài thơ là kết tinh những cảm nghĩ và suy tư sâu sắc của Huy Cận sau chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Quảng
Ninh. Từ chuyến đi thực tế này, hồn thơ ông mới thực sự trở lại và dồi dào trong cảm hứng về thiên nhiên, tự
hào về đất nước, về con người lao động và niềm vui trước cuộc sống mới.
c. Bố cục nội dung
– Phần một (khổ 1,2): Cảnh đoàn thuyền ra khơi, bắt đầu hành trình đánh bắt cá xa bờ
– Phần hai (khổ 3,4,5,6): Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển, mang khí thế lao động hào hùng
– Phần ba (khổ thơ cuối): Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về trong khung cảnh thiên nhiên tráng lệ.
II. Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá
1. Phân tích khổ 1 và 2 bài thơ Đoàn thuyền đánh cá: Cảnh đoàn thuyền ra khơi, bắt đầu hành trình
đánh bắt cá xa bờ
a. Khung cảnh hoàng hôn trên biển
Mở đầu bài thơ là cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi trong một buổi hoàng hôn tuyệt đẹp:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa”
– Điểm nhìn nghệ thuật đặc biệt của nhân vật trữ tình: một điểm nhìn di động khi nhân vật đang trên con
thuyền, cùng người dân làng chài tiến ra khơi
Hình ảnh so sánh độc đáo: “Mặt trời xuống biển như hòn lửa”:
– Miêu tả chân thực vầng mặt trời đỏ rực đang từ từ chìm xuống dưới mặt biển, báo hiệu sự kết thúc của một
ngày trong vòng tuần hoàn giữa ngày và đêm
– Thể hiện quang cảnh kỳ vĩ, tráng lệ giữa bầu trời và mặt biển lúc hoàng hôn. Đoàn thuyền lúc này hiện lên
thật nhỏ bé trong ánh sáng của “hòn lửa” và sự mênh mông của “biển”
– Phép so sánh gợi liên tưởng đến bước chuyển mình của thời gian, đó là giai đoạn giao thoa giữa hai trạng thái
ngày và đêm, là sự vận động của thời gian song song với hành trình ra khơi của đoàn thuyền đánh cá
Hình ảnh nhân hóa: “Sóng đã cài then, đêm sập cửa”:
– Sóng gắn liền với biển, khi hoàng hôn đến, thủy triều lên cũng là lúc những con sóng xô bờ ngày một mạnh
hơn. Những con sóng tại điểm nhìn của nhân vật trữ tình tựa như những chiếc then cửa của vũ trụ đang kéo lại
gần bờ để chìm vào trạng thái nghỉ ngơi
– Sử dụng các từ gắn liền với đời thường như “cài then”, “sập cửa” giúp gợi cảm giác gần gũi, thân thương.
Con người tuy nhỏ bé nhưng không hề lạc lõng trong sự rộng lớn của vũ trụ, thay vào đó, thiên nhiên được hình
dung như một ngôi nhà lớn của con người, nơi con người tìm thấy sự bình yên và hạnh phúc
=> Hai câu thơ đầu cho thấy tình yêu mà Huy Cận dành cho thiên nhiên và cho cuộc đời. Một tình yêu rực cháy
như “mặt trời” và dào dạt như sóng biển.
b. Cảnh đoàn thuyền ra khơi
Trên chất liệu thiên nhiên tráng lệ, hùng vĩ ấy, hình ảnh con người lao động dần xuất hiện:
“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.”
– Sử dụng từ “Đoàn thuyền” thay vì “con thuyền” ra khơi, Huy Cận đã tạo ra sự qua lại tấp nập trên biển.
Sử dụng phụ từ “lại” giúp tạo điểm nhấn ngữ điệu và điểm nhấn cho câu thơ:
– Tạo hình tượng chủ động của con người trong sự vận động của thời gian
– Nhắc về tính lặp lại của công việc ra khơi diễn ra hàng ngày, trở thành một hành động quen thuộc, một nhịp
điệu lao động đã đi vào ổn định của người dân chài
– Có tác dụng miêu tả một hành động đối lập giữa hoạt động của vũ trụ với hoạt động của con người: khi thiên
nhiên dần bước vào trạng thái nghỉ ngơi thì con người bắt đầu làm việc
Hình ảnh “câu hát căng buồm cùng gió khơi” có tác dụng:
– Cụ thể hóa niềm vui, phấn khởi, sự hào hứng, hăm hở của người lao động trên hành trình đánh bắt xa bờ
trước mắt
– Gợi cho ta liên tưởng tới nguồn sức mạnh đẩy con thuyền vượt trùng ra khơi. Luồng sức mạnh ấy không chỉ
đến từ những con sóng, ngọn gió mà còn đến từ lời ca tiếng hát, năng lượng dồi dào của những thành viên trên
thuyền. “Đoàn thuyền” trong mắt tác giả không di chuyển phụ thuộc vào thiên nhiên mà hoàn toàn chủ động,
hòa mình vào sự vận động của vũ trụ.
– Bằng nghệ thuật chuyển đổi cảm giác “câu hát căng buồm”, tác giả đã tôn vinh vẻ đẹp tâm hồn của người lao
động, qua những câu hát tràn đầy năng lượng, nhiệt huyết, hòa cùng gió biển để đẩy thuyền ra khơi
=> Huy Cận đã tạo ra một khung cảnh khỏe khoắn bằng việc kết hợp 3 sự vật và hiện tượng: Câu hát, cánh
buồm và gió khơi, 3 sự vật biểu trưng cho 3 đối tượng là con người, công cụ lao động và thiên nhiên
=> Đoàn thuyền trong mắt nhìn của Huy Cận ra khơi trong trạng thái phấn chấn và náo nức đến kỳ lạ. Dường
như có một sức mạnh vật chất từ con người đã hòa cùng với gió biển, góp phần làm căng cánh buồm, đẩy con
thuyền nhẹ nhàng lướt sóng ra khơi
Trong tâm trạng phấn chấn, rộn ràng khi ra khơi, những người dân chài đã cất cao tiếng hát mang theo
niềm mong mỏi tha thiết:
“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ra, đoàn cá ơi!”
– Từ “hát rằng” nói lên niềm vui của người dân chài khi bắt đầu một chuyến ra khơi
– Sử dụng thủ pháp liệt kê “cá bạc”, “cá thu” và phép so sánh “như thoi đưa” đã thể hiện rõ sự giàu có phong
phú của biển Đông, đồng thời là giai điệu ngợi ca, biết ơn về “rừng vàng biển bạc” mà thiên nhiên đã ưu ái ban
tặng cho quê hương
Hình ảnh ẩn dụ, nhân hóa “đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng” của những loài cá biển có tác dụng:
– Tạo ra không khí lao động hăng say không kể ngày đêm của người lao động
– Cùng với hoạt động náo nhiệt diễn ra nơi những con thuyền, những đàn cá cũng thi nhau bơi trong biển đêm,
tạo ra nhiều sắc màu chuyển động nhộn nhịp hai bên mạn thuyền
– Từ “dệt biển” ở đây miêu tả những vệt nước lấp lánh được tạo ra khi đoàn cá bơi lội dưới ánh trăng. Muôn
ngàn đoàn cá bơi qua lại tạo thành thảm biển đêm lấp lánh đầy sinh động qua con mắt của nhà thơ
=> Qua 4 câu thơ, tác giả đã phác họa thành công một bức tranh thiên nhiên kỳ vĩ, thơ mộng từ hoàng hôn đến
cảnh biển về đêm, cùng với đó là tâm hồn phóng khoáng, nhiệt huyết dành cho lao động và niềm hy vọng của
người dân chài mỗi lần ra khơi.
2. Phân tích khổ 3, 4, 5 và 6: Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển, mang khí thế lao động hào hùng
a. Đoàn thuyền ra khơi với tư thế tầm vóc lớn lao, được miêu tả cụ thể và rất sinh động
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”
– Đoàn thuyền đánh cá trong mắt tác giả hiện lên với sức mạnh lớn lao, có thể so sánh với thiên nhiên bao la,
rộng mở như: chiều cao của trăng và mây; chiều rộng của mặt biển; độ sâu của biển
Lấy cảm hứng nhân sinh vũ trụ, tác giả đã dựng lên hình ảnh đoàn thuyền đánh cá tương xứng với không gian:
– Nghệ thuật phóng đại qua 2 câu thơ “lái gió với buồm trăng”, “lướt giữa mây cao với biển bằng” cho thấy
con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé trước khung cảnh hoàng hôn trên biển, nay đã trở thành con thuyền khổng lồ,
kỳ vĩ, làm chủ hoàn toàn không gian bao la, rộng lớn của thiên nhiên, sánh ngang tầm vũ trụ
– Khác với thời điểm bắt đầu, đoàn thuyền ngoài khơi thể hiện khí phách mạnh kẽ khác thường, hòa nhập vào
thiên nhiên và sẵn sàng mang về mẻ cá đầy
– Khi con thuyền buông lưới, mặt lưới rộng như dò thấu đáy đại dương, toàn bộ biển nước mênh mông giờ đây
đều được con thuyền đánh cá kiểm soát
=> Sự kết hợp giữa hiện thực với chất lãng mạn được thể hiện qua cách nói phóng đại đã giúp Huy Cận tạo nên
những vần thơ đẹp và sâu sắc
– Sử dụng các động từ: “lái”, “lướt”, “dò”, “dàn”, rải đều trong mỗi câu thơ, cho thấy sự linh hoạt của đoàn
thuyền, các hoạt động diễn ra liên tục khiến con thuyền như đang thực sự làm chủ biển trời.
– Câu thơ “Ra đậu dặm xa dò bụng biển” gợi cho ta thấy không khi lao động hứng khởi của người dân trên
thuyền. Mặc cho đêm tối, biển đen họ vẫn quyết tâm tìm cá trong “lòng biển”
– Sử dụng phép ẩn dụ trong câu thơ “Dàn đan thế trận” phản chiếu cuộc sống của người dân chài với mỗi lần ra
khơi như tham gia vào một trận chiến đấu ác liệt
=> Khổ thơ vẽ lên một bức tranh con người và sự vật trong lao động thật đặc sắc và tráng lệ. Trong bức tranh
ấy, thiên nhiên và con thuyền dường như không có sự tách biệt. Con người bây giờ không những điều khiển cả
con thuyền mà còn thâu tóm được cả không gian vũ trụ.
b. Cảnh biển đẹp trong đêm với sự giàu có, phong phú và tấm lòng hào phóng
“Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”
– Qua thủ pháp liệt kê, tác giả đã diễn tả sự phong phú và giàu có của biển cả quê hương qua những loài cá quý
hiếm của biển như: cá chim, cá nhụ, cá đé
Hình ảnh ẩn dụ “cá song lấp lánh đuốc đen hồng” mang nhiều ý nghĩa:
– Nghĩa tả thực: miêu tả chân thực loài cá song với chiếc thân dài, trên vảy có những chấm nhỏ màu đen hồng,
lấp lánh như màu những ngọn đuốc
– Nghĩa ẩn dụ: gợi liên tưởng đến đoàn cá song bơi nối đuôi nhau, từ xa, tựa như một ngọn đuốc lấp lánh dưới
ánh trăng đêm, soi sáng biển đêm đen, tạo nên một cảnh tượng thật lộng lẫy và kỳ vĩ
Biện pháp nghệ thuật nhân hóa trong câu thơ “Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe” mang nhiều lớp nghĩa:
– Nghĩa tả thực: miêu tả động tác quẫy đuôi của một chú cá dưới mặt biển, trong ánh trăng vàng chiếu rọi
– Nghĩa ẩn dụ: tác giả muốn khắc họa khung cảnh của một đêm trăng tuyệt đẹp, huyền ảo mà ánh trăng như dát
đầy mặt biến khiến cho đàn cá quẫy nước mà như quẫy trăng
Hình ảnh nhân hóa trong câu thơ “Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”:
– Miêu tả sinh động nhịp điệu của những cánh sóng trên biển Hạ Long
– Giúp người đọc liên tưởng đến nhịp thở của biển về đêm. Biển lúc này như một thực thể sống, mang linh hồn
của một con người, rực rỡ sắc màu như một bức tranh sơn mài được tô điểm bởi những vì sao
Biển cả phong phú tài nguyên cùng tấm lòng bao dung đã mở ra tâm trạng háo hức, tinh thần lao động
hăng say và lòng biết ơn biển qua câu hát:
“Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Biển nuôi ta lớn như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”
– Qua câu thơ “Ta hát bài ca gọi cá vào” cùng bút pháp lãng mạn, tác giả đã thể hiện sự vui tươi của người dân
chài trong lao động. Họ đã biến khó khăn thành bài ca nhiệt huyết, thúc đẩy tinh thần lao động giữa biển đêm
đầy sóng gió.
– Điều kỳ diệu trong tiếng hát của người dân chài là không chỉ tăng thêm tinh thần lao động mà còn có khả
năng gọi cá vào lưới, đem đến cho đoàn thuyền những mẻ cá tươi ngon
– Sử dụng phép so sánh “biển” với “lòng mẹ” cho thấy sự bao dung, hào phóng mà mẹ thiên nhiên ban tặng
cho con người. Đồng thời, thể hiện sự biết ơn của những người dân chài tới biến, tựa như nguồn sữa khổng lồ,
nuôi nấng người dân từ bao đời nay
=> Khổ thơ ngoài thể hiện sâu sắc niềm tự hào và lòng biết ơn của người dân chài trước ân tình của quê hương
đất nước
c. Khung cảnh thu hoạch cá hăng say trên biển trong nhịp điệu lao động khẩn trương, hào hứng và hăng say:
“Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.”
– “Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng” diễn tả khung cảnh người dân vội vàng, nhộn nhịp thu hoạch cá cho kịp trời
sáng
Ẩn dụ “Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng” thể hiện nhịp độ công việc của người trên thuyền đang trở nên khẩn
trương với hi vọng đón chờ mẻ cá nặng:
– Có thể hình dung thấy những cánh tay săn chắc, cuồn cuộn, làn da khỏe khoắn trong tư thế hiên ngang, đang
gồng lên kéo lấy chùm cá từ lòng biển.
– Những nét tạo hình gân guốc, chắc khỏe, cơ bắp cuồn cuộn tôn lên vẻ đẹp khỏe khoắn của người dân chài
lưới trong lao động.
– Dấu hiệu cho một mẻ lưới bội thu
Bút pháp sử dụng màu sắc hình ảnh “vẩy bạc”, “đuôi vàng” đầy ắp khoang thuyền:
– Gợi ra niềm vui phơi phới của người lao động khi đón nhận món quà từ biển cả
– Vảy cá tựa như màu bạc, đuôi cá óng ánh như dát vàng, mẻ cá chất đầy thuyền lấp lánh dưới ánh mặt trời, rực
sáng cả rạng đông, mọi vật đều tràn ngập sức sống
=> Tác giả đã khắc họa được một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ với sự giàu có hào phóng của biển cả. Đồng
thời khắc họa thành công hình tượng người lao động làng chài với tầm vóc lớn lao, phi thường.
3. Phân tích khổ thơ cuối Đoàn thuyền đánh cá: Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về trong khung cảnh
thiên nhiên tráng lệ
“Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.”
– Câu hát ra khơi và câu hát trở về được miêu tả với cùng một cấu trúc nhưng lại mang âm hưởng hoàn toàn
khác nhau.
Nghệ thuật đầu cuối trong câu hát ra khơi: “Câu hát căng buồm cùng gió khơi”, và câu hát trở về: “Câu hát
căng buồm với gió khơi”:
– Trong câu hát ra khơi, tác giả sử dụng từ “cùng” để thể hiện sự hài hòa giữa ngọn gió từ thiên nhiên và câu
hát từ con người. Từ đó, kỳ vọng vào một chuyến đi biển thuận lợi và bình yên.
– Trong câu hát trở về, tác giả sử dụng từ “với” để bộc lộ niềm vui phơi phới khi trở về trên những con thuyền
đầy ắp cá
Sử dụng phép nghệ thuật nhân hóa “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”:
– Đoàn thuyền như trở thành một thực thể sống, vượt qua giới hạn sức mạnh để chạy đua với thiên nhiên
– Tầm vóc của đoàn thuyền hay con người nay đã có thể sánh ngang với tầm vóc của vũ trụ
– Trong tư thế hào hùng, khẩn trương con người đã hoàn thành nhiệm vụ và chiến thắng về đích trước khi biển
đón bình minh
– Khi “Mặt trời đội biển nhô màu mới” thì đoàn thuyền đã cập bến, ánh mặt trời chiếu sáng long lanh trong
những tàu cá, tạo nên hình ảnh thơ: “Mắt cá huy hoàng muôn dặm khơi”.
Phép hoán dụ được sử dụng trong hình ảnh “mắt cá huy hoàng”:
– Tác giả dùng để tả thực muôn triệu mắt cá li ti được phản chiếu bởi ánh rạng đông và trở nên rực rỡ, huy
hoàng.
– Nghĩa ẩn dụ: muôn vàn mắt cá lấp lánh này không còn là ánh sáng của tự nhiên nữa, mà là ánh sáng của
chiến thắng, của thành quả lao động. Ánh sáng mở ra chân trời niềm vui mới đối với những người con miền
biển.
=> Khổ thơ cuối được xem như khúc ca khải hoàn của bản anh hùng ca lao động, thể hiện niềm vui phơi phới
của con người khi hòa hợp nhuần nhuyễn với thiên nhiên thành, tạo nên vẻ đẹp thực sự tráng lệ
III. Tổng kết chung tác phẩm Đoàn thuyền đánh cá
1. Về nội dung tác phẩm Đoàn thuyền đánh cá
Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là khúc tráng ca nhằm ca ngợi cuộc sống lao động tập thể của người dân chài
trong công cuộc xây dựng đất nước trong thời đại mới. Bài thơ đồng thời thể hiện niềm vui, niềm tự hào của
nhà thơ trước vẻ đẹp hùng vĩ, tráng lệ của thiên nhiên, là lòng biết ơn tới sự hào phóng của thiên nhiên và tầm
vóc lớn lao của người lao động.
2. Về nghệ thuật trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá
Bằng một ngòi bút tràn đầy cảm hứng thiên nhiên, hình ảnh sinh động, giàu sức gợi, kết cấu tương ứng đầu
cuối đặc sắc. Bài thơ đã thành công trong việc xây dựng hình ảnh đoàn thuyền đánh cá với sức mạnh khỏe
khoắn, hào hùng và trần đầy nhiệt huyết.
BẾP LỬA
I. Thông tin về tác giả – tác phẩm
1. Tác giả: Bằng Việt
– Tên thật: Nguyễn Việt Bằng
– Sinh năm 1941
– Quê quán: huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây
– Ông bắt đầu sự nghiệp sáng tác từ những năm 60 của thế kỉ XX và tập trung lấy cảm hứng ở hai mảng đề tài
là: nhân dân trong cuộc kháng chiến chống Mỹ và vẻ đẹp của con người trong cuộc sống đời thường.
Phong cách nghệ thuật trong thơ Bằng Việt:
Thơ Bằng Việt sở hữu cái tôi trữ tình độc đáo, giàu sáng tạo. Các tác phẩm của ông mang một hồn thơ đôn hậu,
vừa nhạy cảm lại rất sang trọng, giàu chất trí tuệ. Khác với các nhà thơ của thế hệ kháng chiến chống Mỹ,
phong cách thơ của Bằng Việt trải đều trên các phương diện từ nội dung đến hình thức và nghệ thuật.
Về nội dung thơ, các bài thơ của Bằng Việt thường được lấy cảm hứng từ quê hương, đất nước và con người
trong chiến tranh.
2. Tác phẩm Bếp lửa
a. Hoàn cảnh ra đời tác phẩm Bếp lửa
– Bài thơ Bếp lửa được ra đời vào năm 1963, khi Bằng Việt đang là sinh viên Luật ở nước ngoài. Bài thơ là sự
hồi tưởng của tác giả về hình ảnh người bà, về quê hương khi nhìn thấy hình bóng chiếc bếp lửa.
– Bài thơ xuất bản trong tập thơ Hương cây – Bếp lửa năm 1968. Đây là tập thơ được đồng sáng tác bởi Bằng
Việt và Lưu Quang Vũ.
b. Bố cục nội dung bài thơ Bếp lửa
– Phần I: khổ thơ đầu: Hình ảnh bếp lửa gợi nỗi nhớ về kỉ niệm tuổi thơ cùng tình bà cháu
– Phần II: khổ 2,3,4: Những hoài niệm về năm tháng chiến tranh sống cùng bà và bếp lửa
– Phần III: khổ 5,6: Suy ngẫm về hình ảnh người bà và bếp lửa
– Phần IV: khổ thơ cuối: Nỗi nhớ khắc khoải về bà và bếp lửa
II. Phân tích bài thơ Bếp lửa
1. Phân tích khổ thơ đầu: Hình ảnh bếp lửa gợi nỗi nhớ về kỉ niệm tuổi thơ cùng tình bà cháu
Dòng hồi tưởng và mạch cảm xúc của tác giả được gợi từ hình ảnh bếp lửa thân thương, ấm áp. Từ đó những kỉ
niệm về bà ùa về trong tâm trí tác giả.
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm”
– Hình ảnh bếp lửa hiện lên với ý nghĩa tả thực, mang hình dáng nhỏ bé, gần gũi và vô cùng quen thuộc đối với
mỗi gia đình Việt Nam từ xưa đến nay
Phép tu từ ẩn dụ “ấp iu nồng đượm” có tác dụng:
– Liên tưởng đến bàn tay cần mẫn, khéo léo của người bà khi nhóm bếp lửa mỗi sớm tinh mơ
– Thể hiện tấm tình yêu thương của người bà, nuôi nấng người cháu bằng tấm lòng ấm áp tựa như hơi ấm bếp
lửa
Điệp từ “một bếp lửa” được lặp lại hai lần:
– Thể hiện tác giả nhìn thấy hình ảnh bếp lửa và bóng dáng của người bà một cách đều đặn mỗi ngày. Bà luôn
tần tảo, thức khuya dậy sớm để chăm sóc, nuôi dưỡng người cháu trưởng thành
– Diễn tả cách mà mạch cảm xúc trào dâng và lần lượt ùa về từ ký ức
Sử dụng từ láy “chờn vờn” có ý nghĩa:
– Miêu tả thực hình ảnh ngọn lửa bập bùng, tỏa sáng trên bếp lửa, ẩn hiện giữa màn sương sớm
– Ẩn dụ về những ký ức mờ ảo, kỷ niệm về những năm tháng tuổi thơ đang tỏa ra, chờn vờn trong tâm trí tác
giả
Sự trỗi dậy cảm xúc yêu thương mãnh liệt trong người cháu qua hình ảnh bếp lửa được thể hiện qua câu
thơ:
“Cháu thương bà biết mấy nắng mưa!”
– Bộc lộ sự thấu hiểu của người cháu trước những vất vả, lam lũ, nhọc nhằn của cuộc đời người bà
– Cụm từ “biết mấy nắng mưa” chính là để lột tả sự cần cù, chịu khó, đức hi sinh của người bà dành cho người
cháu
– Từ “thương” là từ biểu cảm đắt nhất trong câu thơ. “Thương” là động từ chỉ tình cảm chân thành, được thể
hiện qua sự sẻ chia và sự kính trọng. Tác giả sử dụng từ “thương” thay vì từ khác giúp cảm xúc an tỏa tâm hồn
người cháu một cách rất tự nhiên.
=> Hình ảnh “bếp lửa” đã khơi dậy trong lòng người cháu những ký ức xúc động về người bà những kỷ niệm
bên bà. Dòng cảm xúc đi từ nỗi nhớ bà lan rộng thành nỗi nhớ về quê hương, nơi có gia đình và có những
người thân yêu
2. Phân tích khổ 2,3,4 bài Bếp lửa: Những hoài niệm về năm tháng chiến tranh sống cùng bà và bếp lửa
a. Ký ức từ hồi lên bốn chợt ùa về
Từ những năm lên bốn, tác giả đã phải trải qua những năm tháng tuổi thơ thiếu thốn, đầy khó khăn cùng
gia đình:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi,
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy”
Từ láy “đói mòn đói mỏi” có mang ý nghĩa:
– Diễn tả hiện thực đau thương trong lịch sử, đó chính là nạn đói năm 1945. Do chính sách cai trị hà khắc của
quân Nhật và Pháp, hơn hai triệu đồng bào ta đã chết đói. Những người còn lại thì chật vật kiếm ăn qua ngày.
Cái đói cái nghèo làm nhân dân ta mệt mỏi, rã rời và kiệt sức.
– Khiến giọng điệu câu thơ trùng xuống, lòng người như nao nao, nghẹn ngào cảm xúc khi nghĩ về những năm
tháng tuổi thơ đói khổ ấy
– Hình ảnh “bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy” diễn tả được hậu quả mà cái đói đã gây ra. Nó khiến cho không
chỉ người mà đến ngựa cũng trở nên gầy rạc, xanh xao…Tuy tiều tụy, thiếu thốn là vậy nhưng với vai trò là trụ
cột gia đình, người cha vẫn phải “đi đánh xe”, bươn chải kiếm sống đủ nghề
=> Cả hai hình ảnh “đói mòn đói mỏi” và “khô rạc ngựa gầy” đều mang đậm chất hiện thực. Qua đó, tác giả đã
thành công trong việc đặc tả sự xơ xác, xanh xao, mệt mỏi của những con người sống trong nạn đói lớn nhất
lịch sử dân tộc.
Trong những năm nạn đói hoành hành, người cháu đã cùng bà nhóm lửa:
“Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”
– Khói bếp của bà năm tháng ấy đã lưu giữ một cảm giác khó quên, dai dẳng đến nỗi, bây giờ khi nghĩ lại
“sống mũi còn cay’’.
– Trong khổ thơ này từ “khói” đã được lặp lại 2 lần dưới 2 trạng thái khác nhau: “mùi khói” và “khói hun”.
Tuy ở hai hình thái khác nhau nhưng “khói” đều gợi sự ám ảnh về một thời gian khó khăn mà tác giả đã phải
trải qua cùng người bà
– Cảm giác “cay” vì khói bếp và cái cay cay bởi nỗi xúc động như hòa vào làm một. Hai trạng thái “cay” của
quá khứ và “cay” của hiện tại như hiện lên đồng thời qua những dòng thơ
=> Những câu thơ được đầy ắp tình cảm, chan chứa nước mắt, ùa về trong tâm tư tác giả, mờ ảo qua làn khói.
Từ đó giúp gợi cho người đọc hình dung rõ nét về một tuổi thơ đầy gian khổ, thiếu thốn và nhọc nhằn, một thời
kỳ đen tối trong lịch sử dân tộc.
b. Ký ức hồi lên tám tuổi
“Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa

Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”
“Tám năm ròng” là khoảng thời gian người cháu sống trong sự cưu mang, dạy dỗ của bà:
– “Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa” cũng là tám năm cháu nhận được sự yêu thương, bao bọc của bà
– Tám năm ấy tuy thiếu thốn, khó khăn nhưng chưa bao giờ cháu thiếu tình yêu thương
– Hình ảnh “Bếp lửa” hiện lên trong khổ thơ như thể hiện cho tình bà cháu ấm áp. Với cháu, bà như chỗ dựa
tinh thần, là nơi cho cháu sự bình yên và an toàn
Năm tháng sống bên bà là những năm tháng hồn nhiên, trong sáng và vô tư. Điều này được thể hiện qua hình
ảnh tâm tình của tác giả với chim tu hú:
“Tu hú kêu trên những cảnh đồng xa
Tu hú kêu bà còn nhớ không bà?
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!”
– Tiếng chim tu hú báo hiệu hè về là âm thanh quen thuộc của đồng quê Việt Nam, báo hiệu một mùa bội thu.
Tiếng chim cũng khiến cho bức tranh đồng quê trở nên sinh động hơn với đồng lúa chín vàng đồng và vải chín
đỏ cành
Tiếng chim tu hú giục giã liên hồi như khắc khoải da diết, khiến lòng người trỗi dậy những kỷ niệm xưa cũ. Nó
gợi nhắc về:
– Tám năm kháng chiến chống Pháp, tác giả đã phải xa cha mẹ: “mẹ cùng cha công tác bận không về”. Lúc bấy
giờ chỉ có hai bà cháu sống cùng nhau. Có thể nói, bà vừa là cha, vừa là mẹ, nuôi dưỡng cháu khôn lớn và
trưởng thành.
– Những năm tháng tuổi thơ cùng bà nhóm lửa. Đó là cảm giác yên bình khi được sống trong tình yêu thương,
đùm bọc, tìm cảm ấm áp, trọn vẹn của bà.
“Cháu ở cùng bà, bà kể cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học’’
– Sử dụng các động từ “bà bảo”, “bà dạy”, “bà chăm” như một cách liệt kê. Tác giả cho thấy tấm lòng bao la,
sự nâng niu, chăm sóc mà bà dành cho đứa cháu nhỏ
– Các từ “bà” và từ “cháu” được lặp lại bốn lần, đan xen vào nhau, góp phần thể hiện sự quấn quýt yêu thương
của tình bà cháu
– Tình yêu thương, sự kính trọng trước những hi sinh của người bà được tác giả thể hiện chân thành, sâu sắc
qua câu thơ: “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”
Hình ảnh chim tú hú được nhắc lại ở cuối khổ thơ kết hợp cùng câu hỏi tu từ là một sáng tạo độc đáo của Bằng
Việt. Tác giả đã diễn tả nỗi lòng da diết của mình khi nhớ về tuổi thơ bên bà:
“Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”
– Qua câu thơ, ta thấy được hình ảnh chú chim tu hú đang lạc lõng, bơ vơ giữa không gian rộng lớn, mênh
mông của cánh đồng, được tác giả mời gọi đến bên bà
– Người cháu nơi phương xa bỗng chạnh lòng trước hình ảnh chú chim tu hú, nhớ về những ngày được sống
trong tình yêu, sự đùm bọc của bà. Chú chim chính là phản chiếu hình ảnh người cháu đã lớn khôn, bơ vơ, lạc
lõng giữa nơi đất khách quê người nhưng trong lòng vẫn đau đáu nỗi nhớ bà, thương bà da diết
– Người cháu thương con tu hú bao nhiêu thì lại biết ơn những tháng bên bà bấy nhiêu
=> Trong hồi tưởng của người cháu về quá khứ, người cháu luôn bày tỏ nỗi nhớ thương và lòng biết ơn bà vô
hạn
c. Ký ức về một thời bom đạn chiến tranh
Trong sự tàn khốc của cuộc chiến tranh bừng sáng lên hình ảnh người bà với nhiều phẩm chất cao đẹp:
“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh”
– Hình ảnh thơ “cháy tàn cháy rụi” đã thể hiện rõ nét sự tàn phá khủng khiếp mà chiến tranh đã mang lại cho
những làng quê Việt Nam.
– Trong cái khắc nghiệt của chiến tranh là tình cảm làng xóm, cùng “đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh”. Đó
chính là phẩm chất lá lành đùm lá rách – một phẩm chất đáng quý trong truyền thống dân tộc ta
Trước bi kịch của hiện thực ấy, người bà vẫn mạnh mẽ, kiên cường sống và nuôi nấng người cháu. Bà đã dặn
dò cháu:
“Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:
Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,
Cứ báo nhà vẫn được bình yên!”
– Mặc cho sự khó khăn thiếu thốn nơi quê nhà, bà vẫn nói rằng có thể lo toan mọi việc, mục đích để các con
yên tâm công tác, phục vụ cách mạng
– Lời dặn của bà không chỉ tạo chỗ dựa vững chắc cho những đứa con xa nhà mà còn là điểm tựa vững chắc
cho cả người cháu
=> Hình ảnh người bà qua lời dặn đã làm nổi bật lên vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ, người mẹ anh hùng
Việt Nam. Họ không những giàu lòng vị tha mà còn giàu đức hi sinh.
3. Phân tích khổ 5,6 bài Bếp lửa: Suy ngẫm về hình ảnh người bà và bếp lửa
a. Suy ngẫm của tác giả về hình ảnh bếp lửa
Từ đầu bài thơ, hình ảnh bếp lửa luôn song hành cùng hình ảnh người bà, với sự tần tảo, nhẫn nại và giàu tình
thương. Đến khổ 5, tác giả đã tự mình bày tỏ những suy ngẫm về bếp lửa:
“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…”
– Hình ảnh “bếp lửa” ở dòng thơ đầu là mang nghĩa tả thực. Đó là sự vật hữu hình và gần gũi nhất, luôn xuất
hiện trong những khoảng thời gian khó khăn của đời bà
Từ hình ảnh “bếp lửa” tả thực, tác giả đã gợi lên hình ảnh “ngọn lửa”. Đó là “ngọn lửa” mà “lòng bà luôn ủ
sẵn”, mang ý nghĩa trừu tượng sâu sắc:
– Bếp lửa bà nhóm lên không phải bằng than, bằng củi, mà còn bằng “ngọn lửa” từ trong lòng bà. Một ngọn lửa
ấm áp tình yêu thương, niềm tin “dai dẳng” vào một tương lai tươi sáng, tương lai sống trong hòa bình độc lập
– “Ngọn lửa” bền bỉ và bất diệt bà nhóm mỗi ngày ấy chính là phản chiếu niềm vui, niềm tin, tình yêu thương
mà bà thắp lên để nâng đỡ người cháu trên chặng đường trưởng thành
– Người bà trong mắt cháu không chỉ là người thắp lửa, nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa, giúp duy
trì ngọn lửa của sự sống, niềm tin cho thế hệ sau
– Sau suy ngẫm đó, tác giả nhận ra trong sự bình dị của hình ảnh bếp lửa là một điều kỳ diệu, thiêng liêng. Từ
đó, tác giả đã chợt thốt lên: “Ôi kì lạ và thiêng liêng — bếp lửa!”
– Sử dụng các động từ: “nhen”, “ủ sẵn”, “chứa”, tác giả muốn thể hiện rằng ý chí, bản lĩnh của bà, vốn đã có
sẵn trong tố chất, phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ Việt Nam, chỉ đợi một ngọn lửa để thắp lên, bộc lộ ra
bên ngoài
– Sử dụng điệp ngữ đi kèm với phép ẩn dụ “một ngọn lửa”, cùng với đó là kết cấu song hành đã khiến giọng
thơ vang lên với đầy xúc động, tự hào
=> Qua những suy ngẫm về hình ảnh bếp lửa, tác giả đã thể hiện sự ngợi ca về vẻ đẹp tần tảo, kiên trì, nhẫn nại
và giàu đức hy sinh của người bà. Những phẩm chất cao đẹp ấy hiện lên lấp lánh như một thứ ánh sáng diệu kỳ
giữa những điều bình dị, giản dị nhất trong cuộc sống đời thường
b. Suy ngẫm của tác giả về hình ảnh người bà
Bà vừa là người nhóm lửa, vừa là người giữ cho ngọn lửa ấm nóng và tỏa sáng. Trong ký ức người cháu mỗi
khi nhớ lại luôn hiện lên hình ảnh người bà với sự cảm phục và biết ơn vô hạn:
“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm”
– Cụm từ chỉ thời gian “đời bà”, “mấy chục năm” cùng với từ láy tượng hình “lận đận” và hình ảnh ẩn dụ
“nắng mưa” đã diễn tả một cách trọn vẹn và sâu sắc về cuộc đời đầy gian nan, vất vả của người bà
– Thời gian trôi qua, mọi sự biến đổi, song chỉ một điều duy nhất bất biến, đó là cuộc đời bà: suốt một cuộc đời
vất vả chăm con chăm cháu, bà “vẫn giữ thói quen dậy sớm” để nhóm lửa, nhóm niềm tin, thắp lên tình yêu
thương, nuôi dưỡng cháu khôn lớn
=> Tình thương yêu tác giả đối với người bà được bộ lộ rõ qua từng câu chữ. Đó là tình cảm ấm áp, giản dị,
chân thành mà sâu nặng, thiết tha.
Đôi tay khẳng khiu, gầy guộc của bà không những nhóm lửa mà còn “ấp iu nồng đượm” tình yêu con
cháu, ấp ủ tình cảm cảm bằng tất cả tấm lòng đôn hậu:
“Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”
Điệp từ “nhóm” được lặp lại bốn lần, đan xen với những chi tiết tả thực, gợi ra nhiều ý nghĩa sâu sắc:
– Hình ảnh “Nhóm bếp lửa” và “nhóm nồi xôi gạo” là hình ảnh miêu tả thực công việc thường ngày của người

– Mặt khác, “nhóm niềm yêu thương” hay “nhóm dậy cả những tâm tình” là mang nghĩa ẩn dụ về công việc
thiêng liêng, cao quý nhất của người bà. Bà đã khơi dậy niềm yêu thương và sự chia sẻ trong tâm hồn cháu
=> Có thể nói, 2 khổ thơ chính là cảm xúc dâng trào của tác giả khi suy ngẫm về bà và bếp lửa. Từ đó ngợi ca,
khẳng định: Bà là một người phụ nữ tần tảo, luôn chăm lo và dành những điều tốt đẹp nhất cho con cháu.
4. Phân tích khổ thơ cuối bài Bếp lửa: Nỗi nhớ khắc khoải về bà và bếp lửa
Người cháu năm xưa được bà nuôi nấng giờ đã lớn khôn, chắp cánh bay xa nhưng vẫn không quên được
nguồn cội, không thể quên được quê nhà, nơi có bếp lửa và đặc biệt là có bà:
“Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tàu,
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,
Nhưng vẫn chăng lúc nào quên nhắc nhớ:
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”
– Dòng thơ đầu được ngắt thành hai nhịp đã gợi vận động của thời gian: từ năm bốn tuổi, lên tám tuổi, đến tuổi
trưởng thành. Nhịp thơ cũng biểu thị sự biến đổi của không gian: từ căn bếp của bà đến những khoảng trời rộng
lớn).
– Điệp từ “trăm” giúp người độc mở rộng tầm nhìn ra một thế giới rộng lớn với muôn vàn điều mới mẻ
Tác dụng của điệp từ “có” và biện pháp liệt kê:
– Thể hiện những thay đổi lớn trong cuộc đời người cháu. Ở nơi phương xa, người cháu đã tìm được cho mình
nhiều niềm vui mới
– Giúp khẳng định nỗi nhớ khắc khoải trong tâm trí người cháu về hình ảnh ngọn lửa của bà, tấm lòng hi sinh,
che chở, ấp iu, đùm bọc của bà. Ngọn lửa ấy đã trở thành ký ức khó phai, thành niềm tin thiêng liêng, tạo động
lực cho người cháu trên suốt chặng đường trưởng thành và phát triển
=> Khép lại bài thơ, tác giả đã thể hiện lòng tôn vinh đối với đạo lí thủy chung, cao đẹp của người Việt: “uống
nước nhớ nguồn”. Đạo lí nhân văn ấy được nuôi dưỡng từ thuở ấu thơ, nhen nhóm trong tâm hồn người cháu từ
nhỏ, để rồi sau này chắp cánh bay cao, bay xa trên hành trình cuộc đời nhiều khó khăn thử thách.
III. Tổng kết chung tác phẩm Bếp lửa
1. Về nội dung tác phẩm Bếp lửa
– Bài thơ “Bếp lửa” là lời khẳng định, ngợi ca tình bà cháu, tuy bình dị, giản đơn nhưng vẫn hết sức thiêng
liêng, kì diệu.
– Toàn bộ bài thơ là dòng hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu ở nơi phương xa khi đã trưởng thành. Từ hình
ảnh bếp lửa, người cháu đã nhớ lại những ký ức đầy xúc động về người bà. Từ đó bộc lộ những tình cảm nhớ
nhung da diết, sâu nặng đối với gia đình, quê hương
2. Về nghệ thuật trong bài thơ Bếp lửa
– Có sự kết hợp hài hòa giữa nhiều phương thức biểu đạt trong 1 bài thơ, bao gồm: tự sự, biểu cảm, miêu tả,
bình luận
– Hệ thống hình ảnh vừa mang nghĩa tả thực lại vừa mang nghĩa biểu tượng
– Giọng thơ tâm tình, thiết tha kết hợp với nhịp điệu thơ linh hoạt
– Lỗi viết trùng điệp được sử dụng linh hoạt, khiến hình ảnh bếp lửa hiện lên sinh động, giúp người đọc cảm
nhận được sự nồng nàn, ấm nóng của ngọn lửa
– Ngôn ngữ thơ giàu cảm xúc với giọng điệu chân thành, mang đến nhiều triết lý sâu xa
SANG THU
I. Thông tin về tác giả – tác phẩm
1. Tác giả: Hữu Thỉnh
– Họ tên đầy đủ: Nguyễn Hữu Thỉnh
– Năm sinh: 1942
– Quê quán tác giả: huyện Tam Dương thuộc tỉnh Vĩnh Phúc
– Hữu Thỉnh là một trong những nhà thơ chiến sĩ tiêu biểu, trưởng thành trong giai đoạn kháng chiến chống
Mỹ.
Cảm hứng và phong cách sáng tác:
– Giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước: Cảm hứng sáng tác của Hữu Thỉnh chủ yếu bắt nguồn từ tình
yêu quê hương, đất nước, con người Việt Nam
– Giai đoạn sau khi chiến tranh kết thúc: Tác phẩm thơ của Hữu Thỉnh lại hướng về những cảm xúc, trải
nghiệm đời thường, những tâm tư, tình cảm của cuộc đời cá nhân
– Phong cách thơ Hữu Thỉnh: giàu cảm xúc tinh tế, lãng mạn; thường sử dụng các hình ảnh giản dị, gắn bó với
đời sống mà vẫn tạo nên sức gợi cảm, nét đặc sắc rất riêng
2. Tác phẩm Sang Thu:
a. Hoàn cảnh ra đời tác phẩm Sang thu
– Tác phẩm “Sang thu” được ra đời vào năm 1977
– Bài thơ được xuất bản nhiều lần trong các tập thơ khắc nhau, gần đây nhất là tập thơ “Từ chiến hào đến thành
phố” – tập thơ xuất bản vào năm 1991
B. Bố cục nội dung
– Khổ 1 (phần đầu): Khung cảnh thiên nhiên cho thấy tín hiệu giao mùa đã tới
– Khổ 2 (phần hai): Bức tranh thiên nhiên trong khoảnh khắc giao mùa
– Khổ 3 (phần cuối): Tâm tư tác giả về cuộc đời trước khung cảnh chuyển mùa sang thu
II. Phân tích tác phẩm Sang thu
1. Phân tích khổ thơ 1 Sang thu: Khung cảnh thiên nhiên cho thấy tín hiệu giao mùa đã tới
“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về”
– 4 câu thơ đầu là cảm nhận của tác giả trước sự thay đổi của thiên nhiên phút giao mùa
– “Sang thu” tuy chỉ diễn ra chớp nhoáng trong một khoảnh khắc, nhưng khoảnh khắc ấy giúp tạo nên sự đặc
biệt của thiên nhiên. Khi hạ chưa kịp đi mà hương thu đã đến, cảnh vật lúc này dường như vừa mang nét của
mùa thu, vừa vương chút lưu luyến của mùa hạ.
Tín hiệu từ “Hương ổi” báo hiệu mùa thu đã đến:
– “Hương ổi” là một hình ảnh gần gũi và quen thuộc, thích hợp để tạo nên một tứ thơ mới mẻ miêu tả tín
hiệu mùa thu
– “Hương ổi” được tác giả cho đi kèm với tính từ “bỗng”, đặt ngay đầu câu thơ đã cho thấy một cảm giác
đột ngột, bất ngờ và ngỡ ngàng của nhân vật trữ tình
– “Hương ổi” khi được đi nối tiếp với động từ “phả” trong câu thơ tiếp theo, đã diễn tả sự ngào ngạt và sánh
đậm của làn hương. Hơn nữa, cách sử dụng từ còn gợi cho người đọc hình dung về không gian của những làng
quê Việt Nam thân thuộc. Một làng quê điển hình của vùng đồng bằng Bắc Bộ với những vườn cây, những lối
ngõ ngập tràn mùi hương cây trái
=> Làn “Hương ổi” trở thành nét đặc trưng của mùa thu, chỉ có trong thơ của Hữu Thỉnh
Tín hiệu từ làn “gió se” báo hiệu khoảnh khắc giao mùa đã đến:
– “Gió se” là ngọn gió heo may, làn gió nhẹ mát mang theo phong vị của mùa thu đất Bắc, tạo cho không khí
có chút khô và chút se lạnh
– Làn “gió se” thuộc về mùa thu ấy đã kéo đến trong những phút giây giao mùa. Chỉ chút gió đầu mùa thôi
nhưng đã làm dịu đi cái nắng gay gắt, oi ả của mùa hạ. Nó khiến cho mùi hương ổi chín như đặc quánh lại, trở
nên ngọt ngào và ngây ngất lòng người hơn.
Tín hiệu từ những màn sương báo hiệu mùa thu đang đến rất gần
– Nếu “Hương ổi” được cảm nhận bằng khứu giác, “Gió se” được cảm nhận bằng xúc giác thì sang đến cảm
nhận bằng thị giác, tác giả đã lựa chọn hình ảnh những màn sương để miêu tả phút giây giao mùa
– Sử dụng từ láy “chùng chình” kết hợp với nghệ thuật nhân hóa miêu tả “dáng điệu” của mà sương, tác giả
đã gợi lên hình ảnh nàng “sương” đang tiến đến với dáng vẻ lãng đãng như đợi chờ. Có vẻ như “sương” đang
cố ý bước những bước thật chậm, thể hiện sự lưu luyến trước khi chính thức nói lời chia tay với mùa hạ
– Sử dụng cụm từ “qua ngõ”, Hữu Thỉnh gợi cho người đọc liên tưởng đến khung cảnh làng quê thân thuộc
với những đường làng, ngõ xóm nhỏ. Những con đường, ngõ xóm này vốn là nơi kết nối người dân với nhau,
với đồng ruộng, nay bỗng trở thành cửa ngõ của thời gian, là nơi chứng kiến sự tương giao giữa hai mùa cuối
hạ và đầu thu
Sự ngỡ ngàng, giật mình, bối rối của tác giả trước khoảnh khắc giao mùa được thể hiện qua câu thơ:
“Hình như thu đã về”
– Tác giả sử dụng lối nói giả định ‘’Hình như” nhằm bộ lộ sự nghi hoặc, một phán đoán không chắc chắn về
những chuyển biến của thiên nhiên đất trời. Tuy nhiên lối nói này rất phù hợp trong việc diễn tả sự mơ hồ,
không rõ ràng của các tín hiệu báo hiệu thời khắc giao mùa đã đến
=> Sự kết hợp hài hòa của một loạt các từ “bỗng”, “phả”, “hình như” đã cho thấy cảm nhận tinh tế của tác
giả về những thay đổi giữa hai mùa. Đó là cảm xúc ngỡ ngàng, xen lẫn vui mừng, hạnh phúc khi chứng kiến sự
đổi thay của vạn vật xung quanh.
2. Phân tích khổ thơ 2 Sang thu: Bức tranh thiên nhiên trong khoảnh khắc giao mùa
“Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”
– 4 câu thơ đặc tả cảnh biến chuyển thiên nhiên thông qua những hình ảnh sự vật gần gũi và đặc trưng
Hai câu thơ đầu của khổ thơ thứ 2 được viết theo cấu trúc đối tự nhiên vừa giúp diễn tả vẻ đẹp thiên nhiên, vừa
bộc lộ được cảm xúc lòng người trong những phút giây ấy
“Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã”
Hình ảnh “dòng sông” được nhân hóa thông qua sử dụng từ láy “dềnh dàng”:
– Từ “dềnh dàng” miêu tả chân thực hình ảnh một dòng sông tĩnh lặng, yên bình, trong trẻo với dòng chảy êm
đềm bao trùm lấy làng quê
– Sử dụng biện pháp nghệ thuật nhân hóa, tác giả đã biến hình ảnh dòng sông thành một con người sống, đang
nghỉ ngơi sau một mùa hạ vất vả với bão giông
– Động từ “được lúc” còn gợi ra sự liên tưởng đến những con người đã đi qua thời chiến, trải qua mưa bom bão
đạn, giờ đây, họ đang được chuyển mình sang giai đoạn sống chậm hơn, thời kì nghỉ ngơi
Hình ảnh những chú “chim” được nhân hóa thông qua sử dụng từ láy “vội vã”:
– Câu thơ tả thực cảnh những cánh chim xếp theo đàn, thi nhau di cư bay về phương Nam để tránh rét
– Những cánh chim được nhân hóa trở nên nhanh hơn, gấp gáp hơn khi nhận ra tín hiệu của mùa thu qua những
đợt gió heo may se lạnh
– Động từ “bắt đầu” cùng với hình ảnh những cánh chim còn gợi liên tưởng đến những người lính bước ra từ
trong chiến tranh. Cũng giống như tác giả, sau chiến tranh tưởng chừng như sẽ “bắt đầu” bước vào giai đoạn
nghỉ ngơi để suy ngẫm. Song, chính thời khắc này là lúc họ cần “bắt đầu” phải vội vã, “bắt đầu” một cuộc
sống mới với đầy lo toan, bỡ ngỡ.
Nghệ thuật đối được kết hợp nhịp nhàng giữa hai từ miêu tả trạng thái là “dềnh dàng” và “vội vã”:
– Nghệ thuật đối có vai trò làm nổi bật năng lượng trái ngược của thiên nhiên trong phút giây giao mùa
– Trong sự đối lập của thiên nhiên có sự đối lập tâm trạng của con người. Đó là giai đoạn con người phải học
cách làm quen với hòa bình sau khi bước ra từ chiến tranh. Sự giao thoa tâm trạng con người được phản chiếu
qua bức tranh thiên nhiên đầy màu sắc
– 2 câu thơ tiếp theo tái hiện quang cảnh thiên nhiên qua những câu từ sáng tạo, độc đáo:
“Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”
Nghệ thuật nhân hóa được thể hiện qua cụm từ tượng hình “vắt nửa mình”:
– Hình ảnh “đám mây mùa hạ” thể hiện không gian của một bầu trời rộng lớn, mênh mông, lãng đãng những
áng mây trôi
– “Đám mây” “vắt nửa mình” làm liên tưởng đến bước chuyển mình của thời gian. Hình ảnh đám mây như một
cây cầu, nối liền giữa hai mùa hạ và thu
– Hình ảnh “đám mây mùa hạ” còn có ý nghĩa về thế sự, miêu tả khoảnh khắc giao thời của đời sống nhân dân
VIệt Nam lúc bấy giờ, phải tập làm quen khi đất nước đang trong giai đoạn chuyển giao từ chiến tranh sang hòa
bình
=> 4 câu thơ trong khổ thơ thứ hai đã tái hiện rất sống động cảnh sắc phút giao mùa qua những hình ảnh, sự vật
giàu ý nghĩa. Hơn nữa, đằng sau bức tranh giao mùa còn là liên tưởng sâu sắc của tác giả về đời sống con người
gắn liền với biến chuyển của đất nước
3. Phân tích khổ thơ 3 bài Sang thu: Tâm tư tác giả về cuộc đời trước khung cảnh chuyển mùa sang thu
“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi”
Những biến chuyển của thiên nhiên được thể hiện qua hai câu thơ đầu
“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa”
Sử dụng nghệ thuật đối giữa hai trạng thái “vẫn còn” và “vơi dần”; “nắng” và “mưa”: tác giả đã miêu tả
rõ nét sự vận động ngược chiều của hai hiện tượng thiên nhiên giữa hai mùa:
– Tác giả sử dụng hình ảnh “nắng” và “mưa” vì chúng là những hiện tượng thiên nhiên vô cùng quen thuộc, có
tính chu kỳ và có thể dự đoán. Hơn nữa, với hình ảnh “nắng” và “mưa” có thể giúp người đọc dễ dàng hình
dung hơn về khoảnh khắc giao mùa mà tác giả đang chứng kiến
– Những từ ngữ chỉ mức độ và mang tính ước lượng như: “vẫn còn”, “bao nhiêu”, “vơi”, “bớt” được sắp xếp
theo cấp độ giảm dần, đã thể hiện dấu hiệu của mùa hạ đang nhạt dần. Trong khi đó những dấu hiệu của mùa
thu ngày một đậm nét hơn.
Đứng trước mùa thu của đất trời, tác giả đã có những suy ngẫm về đời người qua những hình ảnh giàu sức gợi
trong 2 câu thơ:
“Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi”
Hình ảnh “sấm” đem lại nhiều ý nghĩa
– Sấm vốn được coi là một hiện tượng tự nhiên, thường xuất hiện vào mùa hạ và là dấu hiệu trước những trận
mưa rào
– Sấm trong thơ của Hữu Thỉnh là hình ảnh ẩn dụ độc đáo, phản chiếu những biến động, bất ổn của đời người
Hình ảnh “sấm” với trạng thái cảm xúc“bớt bất ngờ” và hình ảnh giàu tính hình tượng “hàng cây đứng
tuổi”:
– Câu thơ là cách tác giả miêu tả chân thực về một hiện tượng thời tiết khi sang thu: tiếng sấm có vẻ như đã
nhỏ dần, âm thanh của sấm không còn đủ sức làm lay động những hàng cây già, đã trải qua nhiều lần “sang
thu”
– Hai câu thơ là sự ẩn dụ về những con người từng trải, khi đã đến tuổi xế chiều, họ có nhiều kinh nghiệm hơn.
Đối với họ, những đổi thay, biến chuyển của cuộc đời không còn “bất ngờ” nữa. Thay vào đó, họ đã có thể
vững vàng và ung dung trước sự biến đổi của thời cuộc
=> Khổ thơ cuối với những hình ảnh giàu tính hình tượng, đã vè lên trọn vẹn bức tranh thiên nhiên và cảm xúc
đời người trong thời khắc sang thu.
III. Tổng kết chung phân tích Sang Thu
1. Về nội dung tác phẩm Sang thu
Bài thơ “Sang thu” là một khúc giao mùa nhẹ nhàng, thơ mộng mà tác giả Hữu Thỉnh muốn thông qua đó để
thể hiện những tâm tư và tình cảm của bản thân trước sự thay đổi của cuộc sống. Không những vậy, sự cảm
nhận tinh tế của tác giả về vẻ đẹp thiên nhiên với những bước chuyển mình từ hạ sang thu đã góp phần tô đậm
vẻ đằm thắm về mùa thu nơi làng quê Việt Nam.
2. Về nghệ thuật trong bài thơ Sang thu
– Sử dụng ngôn ngữ thơ và hình ảnh thơ gần gũi, giản dị nhưng vẫn giàu tính ẩn dụ, đặc sắc và ấn tượng
– Giọng thơ nhẹ nhàng, sâu lắng, đậm tính triết lí
– Kết hợp nhuần nhuyễn biện pháp nhân hóa, từ láy tạo nên nhiều tầng ý nghĩa, làm cho câu thơ trở nên sinh
động hơn
MÙA XUÂN NHO NHỎ
I. Thông tin về tác giả – tác phẩm
1. Tác giả: Thanh Hải
– Tên thật: Phạm Bá Ngoãn
– Nghệ danh: Thanh Hải
– Sinh năm 1930, mất năm 1980
– Quê quán: Phong Điền, Thừa Thiên Huế
Phong cách và nguồn cảm hứng trong sáng tác:
– Cảm hứng sáng tác của Thanh Hải thường lấy từ vẻ đẹp của thiên nhiên và tình yêu với cuộc sống
– Phong cách thơ Thanh Hải: ngôn ngữ giàu tính gợi hình, nhạc điệu, chan chứa cảm xúc chân thành. Chất liệu
sử dụng để sáng tác rất bình dị, gần gũi nhưng vẫn đậm chất tính triết lý về cuộc đời, hướng về tình yêu cuộc
sống tha thiết
2. Tác phẩm Mùa xuân nho nhỏ
a. Hoàn cảnh sáng tác Mùa xuân nho nhỏ
– Bài thơ được viết vào tháng 11 năm 1980 trong thời kỳ đất nước đã thống nhất và đang trên đà xây dựng cuộc
sống mới giữa vô vàn khó khăn, thử thách.
– Thanh Hải sáng tác “Mùa xuân nho nhỏ” không đầy một tháng trước khi qua đời vì bệnh nặng và nhận điều
trị tại bệnh viện Bạch Mai. Vì vậy, có thể nói, bài thơ như một lời tâm niệm chân thành của tác giả, gửi gắm
triết lý về lẽ sống cao cả, đẹp đẽ đến thế hệ sau
b. Bố cục nội dung
– Phần một: Phân tích khổ 1 bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Cảm xúc của tác giả trước khung cảnh mùa xuân của
thiên nhiên
– Phần hai: Phân tích khổ 2,3 bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Cảm nhận của tác giả trước mùa xuân của đất nước
– Phần ba: Phân tích khổ 4, 5, 6 – Khát vọng sống và lý tưởng sống cao đẹp bên trong tác giả.
II. Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ
1. Phần 1: phân tích khổ 1 – Cảm xúc của tác giả trước khung cảnh mùa xuân của thiên nhiên
Mở đầu bài thơ gợi ra một khung cảnh mùa xuân thiên nhiên trong trẻo và tràn đầy sức sống:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.”
Tác dụng của nghệ thuật đảo ngữ động từ “mọc” lên đầu câu:
– Nghệ thuật đảo ngữ giúp người đọc dễ dàng liên tưởng về hình ảnh “một bông hoa” tràn đầy sức sống đang
vươn mình lên từ từ khỏi mặt nước để đón nhận và hòa mình vào không khí của mùa xuân
– Động từ được đảo lên đầu câu thơ đã tô đậm thêm sức sống mạnh mẽ đến khác thường của “một bông hoa”
trên “dòng sông xanh” mà nhà thơ cảm nhận được
Vẻ đẹp của bức tranh xuân xứ Huế được cảm nhận qua hình ảnh “dòng sông xanh”, “bông hoa tím biếc” và
“con chim chiền chiện”:
– Những sự vật được tác giả liệt kê đều là những tín hiệu đặc trưng, báo hiệu cho mùa xuân xứ Huế đã đến
– Bức tranh mùa xuân thiên nhiên sinh động với không gian cao rộng, mênh mông của bầu trời dài rộng của
“dòng sông xanh”; âm thanh rộn rã vui tươi từ tiếng hót của những chú “chim chiền chiện”; màu sắc rực rỡ với
sự kết hợp giữa màu “xanh” của dòng sông, “tím biếc” của hoa
– Sử dụng những gam màu tươi tắn “xanh, tím”, tác giả đã vẽ lên bức tranh thiên nhiên mùa xuân đầy màu sắc,
trong trẻo và tươi sáng
– Sử dụng từ cảm thán “ơi” và “chi”, tác giả đã khiến người đọc liên tưởng đến một chất giọng ngọt ngào, thân
thương của một người con xứ Huế, đang bày tỏ cảm xúc trước thiên nhiên
Trước vẻ đẹp của mùa xuân đất trời, bất kỳ ai cũng phải cảm thấy ngỡ ngàng, xao xuyến và mong muốn sở
hữu:
“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.”
Tác giả sử dụng hình ảnh giàu sức gợi “giọt long lanh rơi” để biểu thị:
– Có thể là giọt mưa xuân hay giọt sương mai trong những buổi sáng, long lanh dưới ánh nắng xuân dịu nhẹ
– Xét trong mối tương quan với câu thơ trước, có lẽ “giọt” ở đây chính là tiếng hót của “con chim chiền chiện”.
Tiếng hót ấy vang vọng nhưng không hòa vào không gian mà cô đọng lại thành từng “giọt” trong vắt và “long
lanh”. Thứ “giọt” ấy đẹp và thuần khiết đến nỗi đã khơi dậy khao khát sở hữu của nhân vật trữ tình. Nó cũng
giải thích cho hành động vội vàng đưa đôi bàn tay để hứng lấy của nhân vật. Tiếng chim sau cách dùng từ của
tác giả đã chuyển từ cảm nhận bằng thính giác thành cảm nhận bằng thị giác, sau đó là xúc giác. Ở đây, tác giả
đã áp dụng thành công nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, mang đến một trải nghiệm mới cho người đọc
– Điệp từ “tôi” hai lần kết hợp với hành động “hứng” cho thấy sự trân trọng của thi nhân trước vẻ đẹp của
mùa xuân thiên nhiên. Đồng thời, thể hiện sự tận hưởng, chiếm lĩnh và hòa mình với mùa xuân của nhân vật trữ
tình
=> Sử dụng hình ảnh sinh động, nghệ thuật chuyển đổi cảm giác cùng một chút chất nhạc, tác giả đã phác họa
được một bức tranh mùa xuân xứ Huế với đầy đủ cả màu sắc, hình ảnh, âm thanh. Qua đó, bộc lộ được cảm
xúc ngây ngất trước vẻ đẹp của mùa xuân của thiên nhiên, niềm say xưa và khao khát hòa mình với thiên nhiên
đất trời của nhân vật trữ tình.
2. Phần 2: Phân tích khổ 2, 3 Mùa xuân nho nhỏ – Cảm nhận của tác giả trước mùa xuân của đất nước
Từ vẻ đẹp của mùa xuân của thiên nhiên đất trời, tác giả đã mở rộng tầm nhìn để khám phá, ngợi ca vẻ đẹp của
mùa xuân đất nước:
“Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy quanh lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao
Ðất nước bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
Ðất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước.”
Mùa xuân đất nước được tác giả cảm nhận qua hình ảnh “người cầm súng” và “người ra đồng”:
– Hình ảnh “người cầm súng” và “người ra đồng” biểu trưng cho hai đối tượng thực hiện hai nhiệm vụ chiến
lược quan trọng của đất nước ta trong thời kỳ kháng chiến. Đó là nhiệm vụ chiến đấu ở tiền tuyến và lao động
xây dựng kinh tế hậu phương
– Hình ảnh “người cầm súng” kết hợp với hình ảnh “lộc giắt đầy trên lưng” giúp liên tưởng đến vòng lá ngụy
trang của người chiến sĩ. Vào mùa xuân, những vòng lá nảy nở thành những chồi non, lộc biếc, cùng người
chiến sĩ ra trận để bảo vệ tổ quốc.
– Hình ảnh “người ra đồng” kết hợp với hình ảnh “lộc trải dài nương mạ” giúp liên tưởng đến khung cảnh màu
mỡ của những cánh đồng, được chăm bón bởi những bàn tay khéo léo gieo trồng của những người nông dân
nơi hậu phương
Tác dụng của điệp từ “mùa xuân” và “lộc”:
– Điệp từ giúp gợi lên quang cảnh mùa xuân đất trời tươi đẹp với những lộc non đâm chồi
– Ở một tầng nghĩa khác, biện pháp điệp từ là cách tác giả miêu tả thành quả của nhân dân ta trong công cuộc
dựng xây hậu phương vững chắc để góp phần bảo vệ tổ quốc
– Điệp từ “tất cả” cùng với những từ láy “hối hả”, “xôn xao” đã làm tăng nhịp điệu câu thơ, tạo nên cảm giác
về một nhịp sống sôi động và hối hả, tăng tính cấp bách trong nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ đất nước
Tác giả đã bày tỏ niềm tự hào và niềm tin vào tương lai tươi sáng khi đứng trước mùa xuân tươi đẹp của
đất nước:
“Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước.”
– Sử dụng hệ thống tính từ “vất vả”, “gian lao”, tác giả đã đúc kết ngắn gọn chặng đường 4000 năm dựng nước
và giữ nước qua 4 câu thơ, với biết bao khó khăn, thăng trầm và thử thách. Để có được mùa xuân trong hòa
bình như hôm nay, đất nước ta đã phải trải qua biết bao đau thương và mất mát, chứng kiến biết bao hy sinh
của ông cha trong lịch sử. Song chính lịch sử 4000 năm ấy đã khẳng định ý chí, sức mạnh và bản lĩnh của dân
tộc ta, giúp ta thêm trân trọng mùa xuân trong nền hòa bình hiện tại
Những liên tưởng và ý nghĩa sâu sắc được tác giả thể hiện qua hình ảnh so sánh “đất nước như vì sao”:
– Hình ảnh “vì sao” khiến người đọc dễ dàng liên tưởng đến nguồn sáng lấp lánh từ vũ trụ, tồn tại vĩnh hằng
cùng thời gian
– Khi so sánh “đất nước” với “vì sao” tác giả muốn nhắc đến hình ảnh dân tộc Việt Nam ta trong suốt 4000
năm lịch sử. Nhân dân ta từ trong bóng tối của ách nô lệ, đô hộ từ thực dân và đế quốc đã mạnh mẽ, kiên cường
đứng lên phá tan xiềng xích, thoát khỏi phong kiến, thực dân để tự mình tỏa sáng như những vì sao
– Thêm vào đó, ánh sao cũng thể hiện niềm tin của tác giả vào một tương lai tươi sáng, rộng mở của quê
hương, đất nước trong không khí toàn dân cùng nhau xây dựng và đổi mới đất nước mạnh mẽ
– Sử dụng điệp từ “đất nước” đi liền với cấu trúc song hành “đất nước bốn ngàn năm… đất nước như vì sao…”
có tác dụng diễn tả sự vận động đi lên của đất nước qua các thời điểm trong lịch sử và khẳng định sự trường tồn
của đất nước là vĩnh cửu
– Sử dụng cụm từ “cứ đi lên” tác giả đã nhấn mạnh ý chí, lòng quyết tâm và niềm tin sắt đá của mình vào tương
lai tươi sáng của đất nước và cả dân tộc về tương lai
=> Sử dụng giọng thơ vừa tha thiết vừa trang trọng cùng nhịp điệu sôi nổi, tác giả đã gói trọn niềm yêu mến tự
hào, tin tưởng vào tương lai tươi sáng của đất nước, nhân dân
3. Phần 3: Phân tích khổ 3, 4, 5 bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Khát vọng sống và lý tưởng sống cao đẹp
bên trong tác giả
“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến.
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.
Mùa xuân ta xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế…”
Từ những cảm xúc hạnh phúc đến niềm tin vào tương lai tươi sáng của đất nước, Thanh Hải đã viết ra
những lời ước nguyện, khao khát thật thiết tha, cảm động:
“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến.”
– Sử dụng đại từ “ta” giúp bộc lộ một trực tiếp tâm niệm của thi nhân trước vẻ đẹp mùa xuân của thiên nhiên và
mùa xuân của đất nước
– Sử dụng điệp cấu trúc ngữ pháp “Ta làm… Ta nhập…” đặt ở vị trí đầu của ba câu thơ trong phần 3 đã khiến
cho nhịp điệu thơ trở nên nhẹ nhàng hơn nhịp điệu nhộn nhịp trong khổ thơ trước. Từ đó, khiến cho câu thơ
như một lời thủ thỉ tâm tình về ước nguyện hóa thân, hiến dâng cho quê hương, đất nước của nhà thơ.
Sử dụng hệ thống hình ảnh gần gũi “con chim hót’’, “cành hoa”, “nốt trầm xao xuyến” để thể hiện nhiều cảm
xúc, khát vọng bên trong tác giả:
– Các sự vật nhân vật trữ tình lựa chọn để hóa thân đều hết sức giản dị, nhỏ bé. Tuy vậy, chính mong muốn
bình thường này đã cho thấy ước nguyện có phần khiêm nhường, cao quý của thi nhân.
– Những hình ảnh tiếng chim và cành hoa có sự đối xứng chặt chẽ với những hình ảnh mở đầu của bài thơ.
Điều đó đã khẳng định một lẽ tự nhiên, tất yếu: Tiếng hót của chim vốn để làm vui cho đời; hương sắc của hoa
góp phần điểm sắc cho mùa xuân thêm đằm thắm; nốt trầm là nốt nhạc không thể thiếu trong bất kỳ bản hòa ca
nào, giúp tạo sự lắng đọng cho giai điệu của mùa xuân
– Các hình ảnh còn gợi cho ta liên tưởng về mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, giữa con người với thiên
nhiên, quê hương, đất nước
=> Dù đứng trước bệnh tật và cái chết cận kề nhưng khi chiêm ngưỡng vẻ đẹp mùa xuân, tác giả chỉ mong
muốn cống hiến thật nhiều cho đời, cho đất nước và theo đuổi lẽ sống đó đến hết đời.
Từ khát vọng sống cao quý, mong muốn được cống hiến cho đời, cho cộng đồng, tác giả đã nâng lên thành
một lí tưởng sống cao cả. Lí tưởng sống được thể hiện rõ qua 4 câu thơ:
“Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.”
– Sử dụng hình ảnh ẩn dụ đặc sắc “mùa xuân nho nhỏ” nói lên lý tưởng sống cao đẹp của nhà thơ: Trong muôn
vạn vật tươi đẹp đã chứng kiến, tác giả chỉ ao ước được làm một “mùa xuân nho nhỏ”, góp chút vẻ đẹp của
mình để tô điểm thêm cho mùa xuân lớn của dân tộc.
Ý nghĩa của việc sử dụng từ láy “nho nhỏ”:
– Cái “nho nhỏ” mà tác giả nói đến cho thấy nhận thức của tác giả về vai trò của bản thân trong cộng đồng. Khi
càng biết nhiều, càng mở rộng tầm hiểu biết thì tác giả lại cảm thấy bản thân mình nhỏ bé. Với tình yêu quê
hương đất nước nồng nàn, mong muốn của tác giả chỉ là góp một “mùa xuân nho nhỏ” của bản thân vào mùa
xuân lớn của cả dân tộc – một ước nguyện khiêm tốn và giản đơn
– Có lẽ nhà thơ chỉ muốn góp những gì đẹp đẽ và tinh túy nhất của cuộc đời mình cho mùa xuân đất nước
– Sử dụng tính từ “lặng lẽ” đã khắc họa vẻ đẹp trong sáng, thuần khiết của một tâm hồn, lối sống và nhân cách:
Mùa xuân của tác giả không có sự ồn ào, khoa trương, nhộn nhịp mà chỉ lặng lẽ, âm thầm hiến dâng. Mong
muốn dâng hiến mùa xuân cho đời được thực hiện một cách tự nguyện, tác giả không đòi hỏi bất kỳ sự đền đáp
nào. Điều đó là minh chứng rõ ràng cho lối sống đẹp đẽ, khiêm nhường và trong sáng nhất mà con người cần
hướng tới trong công cuộc phát triển đất nước
– Sử dụng biện pháp nghệ thuật điệp cấu trúc ngữ pháp “Dù là… Dù là…”, kết hợp cùng hình ảnh tương phản
“tuổi hai mươi” và “khi tóc bạc” tác giả như biến câu thơ trở thành một lời hứa, lời tự nhủ với chính mình trong
quá khứ, hiện tại và tương lai. Hơn nữa, qua phép nghệ thuật, tác giả muốn ngầm khẳng định sự tồn tại bền
vững của lí tưởng sống cống hiến, hi sinh và khát vọng sống cao đẹp
=> 4 câu thơ là lời tổng kết của nhà thơ về toàn bộ cuộc đời mình với các mốc thời gian khác nhau. Đó là một
cuộc đời đẹp, xứng đáng để chúng ta suy ngẫm, học tập và noi theo các triết lý sống trong đó
Kết thúc bài thơ, tác giả đã khép lại vẻ đẹp mùa xuân trong giai điệu ngọt ngào, êm dịu của làn điệu dân ca
trữ tình xứ Huế:
“Mùa xuân ta xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế.”
Đặc trưng của giai điệu dân ca xứ Huế để thể hiện cảm xúc tận sâu bên trong tác giả:
– Câu “Nam ai” là khúc nhạc buồn thương. Khúc hát phản chiếu con đường đầy hi sinh, gian khổ mà đất nước
đã trải qua trong 4000 năm
– Câu “Nam bình” là khúc nhạc êm ái, dịu ngọt. Câu hát giúp gợi ra bức tranh khung cảnh mùa xuân của hiện
tại, thanh bình và no ấm
– “Nhịp phách tiền” là điệu nhạc rộn ràng đặc trưng của xứ Huế (quê hương của tác giả). Nhịp phách đã thay
nhân vật trữ tình đã khép lại bài thơ với âm hưởng của một cuộc sống mới, tràn trề sức sống của dân tộc
=> Kết thúc bài thơ là tình yêu đời, yêu cuộc sống trỗi dậy thật mãnh liệt. Tình cảm ấy đã trở thành khúc hát
tâm tình đầy cảm động, cao quý và đáng trân trọng như chính cuộc đời của tác giả.
III. Tổng kết chung phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ
1. Về nội dung
Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” đã tái hiện thành công vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên, mùa xuân đất nước qua
góc nhìn của nhân vật trữ tình. Qua đó làm nổi bật triết lý sống cao đẹp là sẵn sàng dâng hiến cuộc đời mình
cho đất nước, sống vì cộng đồng, tập thể của tác giả.
2. Về nghệ thuật
– Sử dụng thể thơ năm chữ và cách gieo vần liền giữa các khổ thơ góp phần tạo ra sự liền mạch của cảm xúc.
– Toàn bài thơ sử dụng ngôn ngữ và hình ảnh thơ giản dị, trong sáng nhưng vẫn sinh động và giàu sức gợi.
– Bài thơ diễn tả cảm xúc chân thành, tha thiết của tác giả, trở thành tiếng lòng của nhà thơ Thanh Hải với đất
nước và với cuộc đời.

You might also like