You are on page 1of 26

Đề 1:Viết bài văn trình bày cảm nhận của em về nhân vật ông Hai trong đoạn trích

sau:
“ …Ông lão náo nức bước ra khỏi phòng thông tin, rẽ vào quán dặn vợ mấy việc rồi đi thẳng ra lối
huyện cũ. Ở đây, những tốp người tản cư mới ở dưới xuôi lên đứng ngồi lố nhố cả ở dưới mấy gốc đa xù xì,
cành lá rườm rà ken vào nhau, rải xuống mặt đường và bãi cỏ một vùng bóng mát rộng. Ông lão ngồi vào một
cái quán gần đấy. Hút một điếu thuốc lào, uống một hụm chè tươi nóng, ông chóp chép cái miệng ngẫm nghĩ
bao nhiêu ý nghĩ vui thích chen chúc trong đầu óc. Tiếng quạt, tiếng thở, tiếng trẻ con khóc, cùng với tiếng
cười nói của cánh đi phá đường về râm ran một góc đường.Dưới chân đồi những thửa ruộng lúa xanh mượt,
uốn quanh co dưới trời nắng, lấp loáng như một khúc sông. Có mấy bóng cò trắng bay dật dờ…
-Các ông, các bà ở đâu lên đây đấy ạ?
……………………………..
-Sao bảo làng chợ Dầu tinh thần lắm cơ mà?
-Ấy thế mà bây giờ đổ đốn ra thế đấy!
Ông Hai trả tiền nước, đứng dậy, chèm chẹp miệng cười nhạt một tiếng, vươn vai nói to:
-Hà, nắng gớm, về nào…
Ông lão vờ vờ đứng lảng ra chỗ khác, rồi đi thẳng. Tiếng cười nói xôn xao của đám người tản cư mới lên ấy
vẫn dõi theo. Ông nghe rõ cái giọng chua lanh lảnh của người đàn bà cho con bú:
-Cha mẹ tiên sư nhà chúng nó! Đói khổ ăn cắp ăn trộm bắt được người ta còn thương. Cái giống Việt
gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát!”
(Trích Ngữ văn 9, tập 1, trang 164,165,166)
Gợi ý:
- Vấn đề cần nghị luận
Nhân vật ông Hai một người nông dân có tình yêu làng quê sâu sắc và cảm động trong hoàn cảnh thử
thách
- Ông Hai là một nông dân ở làng Chợ Dầu……….Ông Hai mừng rỡ, hân hoan đi khắp nơi khoe về điều đó
mặc dù nhà ông đã bị Tây đốt.
- Đoạn trích nằm ở phần đầu truyện kể về nhân vật ông Hai khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc. Kim Lân đã
đặt nhân vật vào tình huống gay cấn để bộc lộ chiều sâu tâm lí, tình cảm của nhân vật.
- Cảm nhận
Ông Hai là một người nông dân yêu làng quê, đất nước và có tinh thần kháng chiến.
a. Tâm trạng vui sướng, tự hào của ông Hai khi nghe tin thắng lợi của quân và dân ta.
- Ông Hai vốn là người yêu làng tha thiết. Tự hào về làng và hay khoe về làng Chợ Dầu của mình.
- Từ phòng thông tin ra, ông rất vui vẻ, phấn chấn vì nghe được nhiều tin ta thắng giặc bao nhiêu ý nghĩ vui
thích chen chúc trong đầu óc.
b. Tâm trạng sững sờ, bàng hoàng, tủi hổ của ông Hai khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc.
- Khi nghe tin dữ quá đột ngột, ông Hai sững sờ, bàng hoàng: Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân.
Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được.
- Tin đồn ấy là mất danh dự, danh dự công dân, danh dự trước Tổ quốc... Nhà văn Kim Lân đã khẳng định
người nông dân có thể ngàn đời thiếu cơm, rách áo nhưng không thể mất danh dự. Ở họ, tinh thần tự trọng, sự
trong sạch luôn được giữ gìn. Đây chính là cơ sở của tình yêu đất nước.
- Khi trấn tĩnh lại được phần nào, ông còn cố chưa tin cái tin ấy. Nhưng rồi những người tản cư đã kể rành rọt
quá, lại khẳng định họ vừa ở dưới ấy lên làm ông không thể không tin. Niềm tự hào về làng thế là sụp đổ tan
tành trước cái tin sét đánh ấy. Cái mà ông yêu quý nhất nay cũng đã lại quay lưng lại với ông. Không chỉ xấu
hổ trước bà con mà ông cũng tự thấy ông mất đi hạnh phúc của riêng ông, cuộc đời ông cũng như chết mất
một nửa. .
- Từ lúc ấy, trong tâm trí ông Hai chỉ còn có cái tin dữ ấy xâm chiếm, nó thành một nỗi ám ảnh, day dứt. Ông
tìm cách lảng tránh những lời bàn tán và cúi gằm mặt xuống ra về. Nghe tiếng chửi bọn Việt gian, ông cúi
gằm mặt mà đi... Chi tiết diễn tả nỗi nhục nhã nỗi đau đớn xót xa của nhân vật.
- Tiếng chửi văng vẳng của người đàn bà cho con bú khiến ông tê tái: Cha mẹ tiên sư nhà chúng nó, đói khổ
ăn cắp ăn trộm bắt được người ta còn thương, cái giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát.
=> Tất cả thể hiện nỗi đau và tâm trạng ông Hai bị ám ảnh, day dứt với mặc cảm là kẻ bán nước. Mọi diễn
biến tâm lí vui, buồn, đau khổ... của ông Hai cũng chính là biểu hiện của tình yêu làng, yêu nước sâu sắc và
tinh thần kháng chiến trong trái tim ông.
Đánh giá
- Nhà văn Kim Lân đã tạo dựng một tình huống thử thách tâm lí nhân vật rất đặc sắc.
- Lối kể chuyện giản dị, tự nhiên, gần gũi, ngòi bút phân tích tâm lí sắc sảo; ngôn ngữ mang đậm tính khẩu
ngữ, gần gũi với đời sống, thể hiện tâm hồn bình dị của người nông dân buổi đầu kháng chiến: yêu làng tha
thiết và một lòng theo kháng chiến.
- Đánh giá, nhận xét chung về nhân vật: Ông Hai tiêu biểu cho vẻ đẹp của người nông dân Việt Nam trong
kháng chiến chống Pháp biết đặt lợi ích của đất nước, của dân tộc lên trên lợi ích làng quê, cá nhân...
- Khăng định tình yêu quê hương đất nước là một vẻ đẹp của con người Việt Nam, đặc biệt trong những ngày
đất nước gian nguy, tình cảm ấy được thử thách càng tô đẹp thêm.

Đề 2. Viết bài văn trình bày cảm nhận về nhân vật ông Hai trong đoạn trích sau:
Ông Hai ngồi lặng trên một góc giường. Bao nhiêu ý nghĩa đen tối, ghê rợn, nối tiếp bời bời trong đầu óc ông
lão. Biết đem nhau đi đâu bây giờ? Biết đâu người ta chứa bố con ông mà đi bây giờ?... .
Thật là tuyệt đường sinh sống! Mà không một gì cái đất Thắng này. Ở Đài, ở Nhã Nam, ở Bố Hạ, Cao
Thượng...đâu đâu có người Chợ Dầu người ta cũng đuổi như đuổi hủi. Mà cho dẫu vì chính sách Cụ Hồ người
ta chẳng đuổi đi nữa, thì mình cũng chẳng còn mặt mũi nào đi đến đâu.
“Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây...” cái câu nói của người đàn bà tản cư hôm trước lại dội lên trong tâm
trí ông.
Hay là quay về làng?...
…………………………………………..
Ông lão ôm thằng con út lên lòng, vỗ nhè nhẹ vào lưng nó, khẽ hỏi:
- Húc kia! Thầy hỏi con nhé, con là con ai?
- Là con thầy mấy lị con u.
- Thế nhà con ở đâu?
- Nhà ta ở làng Chợ Dầu.
- Thế con có thích về làng Chợ Dầu không?
Thằng bé nép đầu vào ngực bố trả lời khe khẽ:
- Có.
Ông lão ôm khít thằng bé vào lòng, một lúc lâu ông lại hỏi:
- À, thầy hỏi con nhé. Thế con ủng hộ ai?
Thằng bé giơ tay lên, mạnh bạo và rành rọt:
- Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm!
…………………………..
Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông.
Cái lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai. Mỗi lần nói
ra được đôi câu như vậy nỗi khổ trong lòng ông cũng vợi đi được đôi phần.
(Trích Làng, Kim Lân, Ngữ văn 9, tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam 2015, trang 169,170)
Gợi ý:
- Nêu vấn đề nghị luận: Nhân vật ông Hai một người nông dân yêu làng, yêu nước và có tinh thần
kháng chiến.
- Trích dẫn.
- Ông Hai là một nông dân ở làng Chợ Dầu. Trong kháng chiến, ông phải cùng gia đình đi tản cư. Ở nơi tản
cư, ông luôn nhớ làng và thường kể về làng với một tình yêu và niềm tự hào vô bờ bến. Nhưng rồi một ngày,
ông nghe tin làng theo giặc, ông đau đớn, tủi hổ không dám nhìn mặt ai, cũng không dám bước chân ra khỏi
nhà mà chỉ tâm sự với đứa con nhỏ trong nhà với một niềm tin tuyệt đối vào cách mạng và Bác Hồ. Sau đó,
tin làng Chợ Dầu theo giặc được cải chính. Ông Hai mừng rỡ, hân hoan đi khắp nơi khoe về điều đó mặc dù
nhà ông đã bị Tây đốt.
- Nằm ở phần giữa của truyện, đoạn trích kể lại diễn biến tâm trạng đau đớn, giằng xé của ông Hai khi
nghe tin nơi tản cư không chứa người làng Chợ Dầu và cuộc trò chuyện của ông Hai với đứa con nhỏ
- Cảm nhận về nhân vật ông Hai trong đoạn trích .
a. Diễn biến tư tưởng, tâm trạng của ông Hai trong mấy ngày sau đó.
Nỗi đau đớn, tủi hổ biến thành sự sợ hãi đè nặng lên tâm trí ông. Ông sợ lời chửi rủa và thái độ mụ chủ nhà,
đó là tâm lí của con người mang mặc cả tội lỗi. Ông Hai sợ vì đây là một bà chủ nhà hay soi mói, khá đáo để
và có lẽ ông còn sợ gia đình ông bị đuổi đi. Kim Lân đã rất sắc sảo khi miêu tả được nét tâm lí rất riêng, rất
nông dân ấy. Họ luôn lo lắng về cái ăn cái mặc, về chốn nương thân. Nhưng bây giờ nỗi lo ngàn đời ấy đã
được đặt ngang bằng và nâng lên thành nỗi lo đất nước.
- Điều ông Hai sợ hãi đã thành hiện thực khi mụ chủ nhà chính thức báo tin: khắp nơi, không cho chứa người
làng Chợ Dầu.
- Ông Hai tiếp tục bị đẩy vào tình huống thử thách căng thẳng. Trong sự bế tắc ấy, mâu thuẫn nội tâm của ông
đã lên đến đỉnh điểm, ông chợt lóe lên ý nghĩ hay là quay về làng? Nhưng vừa chớm nghĩ như vậy ông đã tự
phản đối ngay. Dù là người ít học nhưng ông vẫn hiểu rõ về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ...
- Sau sự đấu tranh giằng xé quyết liệt, cuối cùng ông đã quyết định dứt khoát làng thì yêu thật, nhưng làng
theo Tây mất rồi thì phải thù. Ông Hai đã đặt tình tình yêu nước lên tình yêu làng.
- Qua những diễn biến nội tâm đầy phức tạp, người đọc có thể nhận thấy ở ông Hai ngời sáng một tâm hồn
chân thật, ngay thẳng, giàu tự trọng và một tình yêu làng, yêu nước sâu nặng. Với ông, làng không chỉ là
đường đi lối về mà đã trở thành danh dự, là chỗ đứng để làm người.
b. Tâm trạng ông Hai trong cuộc trò chuyện với con.
- Trong tâm trạng dồn nén bế tắc, ông Hai chỉ còn biết trút nỗi lòng của mình vào những lời tâm sự với đứa
con để củng cố niềm tin vào cách mạng, vào kháng chiến.
- Ông Hai hỏi con: Thế nhà con ở đâu? Câu hỏi ấy nhắc con nhớ về làng Chợ Dầu, về quê hương, bản quán
của mình: Nhà ta ở làng Chợ Dầu. Người nông dân này quyết không chối bỏ gốc gác của mình, vẫn gắn bó
với ngôi làng ngay trong chính lúc làng mình gặp cảnh ngộ ngang trái (bị nói xấu, nghĩ xấu).
- Tình yêu làng vẫn đau đáu trong cả lúc khó khăn, cùng cực nhất. Đó là một sự chấp nhận điều mà mình yêu
thương như nó vốn có, biểu hiện thương yêu đạt đến mức sâu sắc mạnh mẽ. Ông Hai nói với con cũng là để
truyền lại bản lĩnh và cốt cách đó cho con. .
- Khi tâm sự với đứa con, nghe con nói Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm!, nước mắt ông Hai giàn ra, chảy
ròng ròng trên hai má, giọng ông như nghẹn lại: Ừ đúng rồi, ủng hộ Cụ Hồ con nhỉ. Ông Hai nhắc con và
cũng là tự nhắc chính mình. Điều này khẳng định tấm lòng son sắt của ông với sự nghiệp kháng chiến. Giữa
tình yêu làng và tình yêu đất nước thì ông lại đặt tình yêu đất nước lên cao hơn tình cảm với ngôi làng. Lương
tri người nông dân ấy luôn hướng tới điều đúng đắn, đến lẽ phải, đến chính nghĩa. Đây chính là nét đẹp tiềm
tàng ở người nông dân từ xưa đến nay (Có thể so sánh với lão Hạc, chị Dậu) nhưng đã được giác ngộ, được
tỏa sáng khi là người dân kháng chiến, người dân của Cụ Hồ. Đây là ngườicông dân mới.
3. Đánh giá
- Diễn biến tâm trạng của ông Hai được tác giả miêu tả một cách tinhtế, sinh động:
+ Tác giả miêu tả cụ thể, gợi cảm các diễn biến nội tâm qua các ý nghĩ, hành vi, ngôn ngữ, diễn tả rất đúng và
gây ấn tượng mạnh mẽ về sự ám ảnh, day dứt trong tâm trạng nhân vật. Điều đó chứng tỏ Kim Lân rất am
hiểu người nông dân và thế giới tinh thần của họ.
+ Ngôn ngữ kể, ngôn ngữ nhân vật thật đặc sắc, đặc biệt là sử dụng ngôn ngữ độc thoại nội tâm, những lời nói
của ông Hai giàu tính khẩu ngữ, vừa có nét chung của người nông dân vừa mang cá tính của nhân vật.
- Đoạn trích làm nổi bật nhân vật ông Hai là một người yêu làng, yêu nước, có tinh thần kháng chiến. Ông Hai
chính là hình ảnh tiêu biểu cho vẻ đẹp của người nông dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp biết đặt
lợi ích của đất nước, của dân tộc lên trên lợi ích làng quê, cá nhân...
Đề 3 Viết bài văn trình bày cảm nhận về vẻ đẹp của nhân vật anh thanh niên trong đoạn trích sau:
- Thôi, chấm dứt tiết mục hái hoa - Người con trai bất chợt quyết định - Bác lái xe chỉ cho ba mươi phút thôi.
Hết năm phút rồi. Cháu nói qua công việc của cháu, năm phút. Còn hai mươi phút, mời bác và cô vào nhà
uống chè, cho cháu nghe chuyện. Cháu thèm nghe chuyện dưới xuôi lắm. Công việc của cháu cũng quanh
quẩn ở mấy chiếc máy ngoài vườn này thôi. Những cái này vườn trạm khí tượng nào cũng có. Dãy núi này có
một ảnh hưởng quyết định tới gió mùa đông bắc đối với miền Bắc nước ta. Cháu ở đây có nhiệm vụ đo gió, đo
mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất, dự vào việc báo trước thời tiết hằng ngày, phục vụ sản xuất,
phục vụ chiến đấu.... Những lúc im lặng lạnh cóng mà lại hừng hực như cháy. Xong việc, trở vào, không thể
nào ngủ lại được.
Anh thanh niên đang nói, dừng lại. Và tại sao họa sĩ cảm giác mình bối rối? Vì nhác thấy người con gái nhỏ
nhẻ, e lệ, đứng giữa các luống dơn, không cần hái hoa nữa, ôm nguyên bó hoa trong tay, lắng tai nghe? Vì họa
sĩ đã bắt gặp một điều thật ra ông vẫn ao ước được biết, ôi, một nét thôi đủ khẳng định một tâm hồn, khơi gợi
một ý sáng tác, một nét mới đủ là giá trị một chuyến đi dài.
(Trích Lặng lẽ Sa Pa, Nguyễn Thành Long, Ngữ văn 9, tập 1, NXBGiáo dục Việt Nam, 2015, trang 183,184)
Gợi ý:
- Giới thiệu đoạn trích và nêu vấn đề nghị luận: Vẻ đẹp của nhân vật anh thanh niên - một người có
lòng yêu nghề sâu sắc, sống cởi mở, chân thành.
- Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở đầu truyện, sau một đoạn miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên Sa Pa, sau phần
giới thiệu của nhân vật bác lái xe, đoạn trích kể phần đầu cuộc gặp gỡ giữa các vị khách với nhân vật chính,
Để lại ấn tượng về nhân vật là một người có lòng yêu nghề sâu sắc, sống cởi mở, chân thành.
- Cảm nhận
a. Anh thanh niên là một người có tình yêu nghề sâu sắc
- Giới thiệu ngắn gọn hoàn cảnh sống và làm việc của anh thanh niên.
- Tình yêu nghề sâu sắc của anh thanh niên:
+ Anh yêu công việc của mình, anh chủ động kể về nó một cách say sưa và tự hào khi có ông họa sĩ và cô kĩ
sư đến thăm nơi anh ở và làm việc: Cháu ở đây có nhiệm vụ đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động
mặt đất, dự vào việc báo trước thời tiết hằng ngày, phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu. Đây là máy móc của
cháu...
+Ý thức được tầm quan trọng của công việc mình làm là phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu.
+ Làm việc một mình trên đỉnh núi cao, không có ai giám sát, thúc giục, anh vẫn luôn tự giác, tận tụy. Suốt
mấy năm ròng rã ghi và báo “ốp” đúng giờ: Cháu lấy những con số, mỗi ngày báo về “nhà” bằng máy bộ đàm
bốn giờ, mười một giờ, bảy giờ tối, lại một giờ sáng. Bản báo ấy trong ngành gọi là “ốp”. Phải ghi và báo về
nhà trong mưa tuyết lạnh cóng, gió lớn và đêm tối lúc một giờ sáng, anh vẫn không ngần ngại...
+ Anh thuyết phục được người nghe vì không những anh am hiểu công việc mà anh còn biết và chủ động khắc
phục khó khăn, chiến thắng bản thân, chiến thắng nỗi cô đơn, mệt mỏi, tính chất đơn điệu của công việc và cả
sự căng thẳng, sợ hãi: Gian khổ nhất là lần ghi và báo về lúc một giờ sáng. Rét, bác ạ. Ở đây có cả mưa tuyết
đấy... Những lúc im lặng lạnh cóng mà lại hừng hực như cháy. Xong việc, trở vào, không thể nào ngủ lại
được.
+ Vì yêu nghề nên anh có tinh thần trách nhiệm với công việc, luôn nỗ lực khắc phục khó khăn, quyết tâm
hoàn thành nhiệm vụ được giao.
b. Anh thanh niên là một người sống cởi mở, chân thành
- Sống trong hoàn cảnh như thế, nhiều người có thể dần dần thu mình lại trong nỗi cô đơn, sầu muộn, hoặc có
thể trở nên cỗi cằn, giá lạnh.
- Nhưng anh thanh niên này thật đáng yêu ở nỗi thèm người, thèm nghe chuyện dưới xuôi. Ở anh, ta bắt gặp
lòng hiếu khách đến nồng nhiệt và sự quan tâm đến người khác một cách chu đáo, một tâm hồn khát khao tìm
sự đồng cảm đồng điệu, chia sẻ. Anh quý trọng từng giây để được trò chuyện với khách: Bác lái xe chỉ cho ba
mươi phút thôi. Hết năm phút rồi. Cháu nói qua công việc của cháu, năm phút. Còn hai mươi phút, mời bác
vàcô vào nhà uống chè, cho cháu nghe chuyện...
. - Kể về mình, anh không hề giấu giếm những phút yếu lòng trước hoàn cảnh sống và làm việc nhiều khó
khăn, thử thách, những khi ngần ngại trước điều kiện thời tiết hay sự thách thức quá sức chịu đựng của công
việc và anh cũng không giấu nỗi “thèm người”.
- Đánh giá
- Thành công về nghệ thuật của nhà văn khi xây dựng nhân vật anh thanh niên:
+ Tình huống truyện hợp lí, cách kể chuyện tự nhiên, truyền cảm, thuyết phục.
+ Nhân vật anh thanh niên xuất hiện qua lời kể của bác lái xe, lời tự giới thiệu về mình, qua suy nghĩ của ông
họa sĩ, cô kĩ sư.
+Ngôn ngữ nhân vật: đối thoại - thể hiện tính cách nhân vật, độc thoại - thể hiện suy nghĩ, cảm xúc.
- Về nội dung: Anh thanh niên là hình ảnh tiêu biểu cho những con người ở Sa Pa, là chân dung con người lao
động mới trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
- Liên hệ mở rộng: Có thể liên hệ tới quan điểm sống đẹp trong một số bài thơ như: Mùa xuân nho nhỏ của
Thanh Hải, Một khúc ca xuân của Tố Hữu,...
- Cảm xúc, suy nghĩ cá nhân: Từ nhân vật anh thanh niên, cảm nhận được vẻ đẹp của con người mới trên khắp
các vùng miền, ở nhiều lĩnh vực trong cuộc sống đã và đang góp phần xây dựng quê hương đất nước.
+ Truyền cho người đọc ý thức trách nhiệm của mỗi người, đặc biệt là thế hệ trẻ trong công cuộc xây dựng đất
nước.

Đề 4
Viết bài văn trình bày cảm nhận về vẻ đẹp anh thanh niên được thể hiện trong đoạn trích sau:
Anh thanh niên bật cười khanh khách:
- Các từ ấy đều là của bác lái xe. Không, không đúng đâu. Một mình thì anh bạn trên trạm đỉnh Phan-xi-măng
ba nghìn một trăm bốn mươi hai mét kia mới một mình hơn cháu. Làm khí tượng, ở được cao thế mới là lí
tưởng chứ.
Anh hạ giọng, nửa tâm sự, nửa đọc lại một điều rõ ràng đã ngẫm nghĩ nhiều:
- Hồi chưa vào nghề, những đêm bầu trời đen kịt, nhìn kĩ mới thay một ngôi sao xa, cháu cũng nghĩ ngay ngôi
sao kia lẻ loi một mình. Bây giờ làm nghề này cháu không nghĩ như vậy nữa. Vả, khi ta làm việc, ta với công
việc là đội, sao gọi là một mình được? Huống chi việc của cháu gắn liền với việc của bao anh em, đồng chí
dưới kia. Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất. Còn người thì ai mà
chả “thèm” hở bác? Mình sinh ra là gì, mình đẻ ở đâu, mình vì ai mà làm việc? Đấy, cháu tự nói với cháu thế
đấy. Bác lái xe đi, về Lai Chậu cứ đến đây dừng lại một lát. Không vào giờ “ốp” là cháu chạy xuống chơi, lâu
thành lệ. Cháu bỗng dưng tự hỏi: Cái nhớ xe, nhớ người ấy thật ra là cái gì vậy? Nếu là nỗi nhớ phồn hoa đô
hội thì xoàng. Cháu ở liền trong trạm hàng tháng. Bác lái xe bao lần dừng, bóp còi toe toe, mặc, cháu gan lì
nhất định không xuống. Ấy thế là một hôm, bác lái phải thân hành lên trạm cháu. Cháu nói: “Đấy, bác cũng
chẳng “thèm” người là gì?”.
(Trích Lặng lẽ Sa Pa, Nguyễn Thành Long, Ngữ văn 9, tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam, 2015, trang 184,185)

Gợi ý:
- Nêu vấn đề nghị luận: Vẻ đẹp của nhân vật anh thanh niên - một người yêu nghề, có lí tưởng sống cao
đẹp, cởi mở, chân thành và yêu con người, yêu cuộc sống.
- Vị trí đoạn trích: Sau khi đón khách lên thăm nhà mình và cắt hoa tặng cô gái, anh cùng khách vào nhà uống
trà và trò chuyện. Đoạn trích trên nằm ở giữa văn bản, kể lại sự việc anh thanh niên chia sẻ với khách những
suy nghĩ của mình về công việc và cuộc sống.
- Cảm nhận
a. Anh thanh niên là một người yêu nghề và có lí tưởng sống cao đẹp
- Giới thiệu vài nét về hoàn cảnh sống và công việc của anh thanh niên.
- Lòng yêu nghề của anh thanh niên:
+ Công việc gian khổ là thế nhưng anh đã có suy nghĩ rất sâu sắc. Chúng ta hãy cùng lắng nghe lời tâm sự của
anh với ông họa sĩ: Hồi chưa vào nghề, những đêm bầu trời đen kịt, nhìn kĩ mới thấy một ngôi sao xa, cháu
cũng nghĩ ngôi sao kia lẻ loi một mình. Bây giờ làm nghề này cháu không nghĩ như vậy nữa. Vả, khi ta làm
việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được? Qua lời bộc bạch chân thành ấy, ta thấy được sự
chuyển biến, trưởng thành trong nhận thức của anh về sự lẻ loi trước và sau khi vào nghề. Gắn bó với công
việc, anh không còn là ngôi sao lẻ loi một mình nữa bởi với anh công việc là người bạn. Khi con người làm
việc bằng tất cả sự say mê, thì công việc trở thành bè bạn. Anh đã tâm sự rất thật: Công việc của cháu gian
khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất. Chính lòng yêu nghề tha thiết, sâu sắc đã giúp anh làm
việc hiệu quả,
- Lí tưởng sống cao đẹp của anh:
+ Anh thanh niên còn có nhận thức sâu sắc về ý nghĩa công việc mình làm. Anh đã tâm sự: Huống chi việc
của cháu gắn liền với bao anh em, đồng chí dưới kia. Hơn ai hết, anh hiểu được công việc của mình có ý nghĩa
hết sức quan trọng vì nó góp phần phục vụ sản xuất, chiến đấu và là mắt xích quan trọng trong chuỗi công
việc chung. Nếu thiếu một lượng thông tin từ cái đài quan sát của anh, biết đâu rằng việc dự báo thời tiết cho
cả mộthuyện, một tỉnh, một vùng sẽ bị ảnh hưởng? Vì vậy anh đã làm việc hết mình với một thái độ nghiêm
túc, cần mẫn, tận tụy và một tinh thần trách nhiệm cao. Với anh, công việc đã trở thành niềm vui, là lẽ sống, là
cái đích để anh vươn tới.
+ Anh có những suy nghĩ đúng đắn về con người và cuộc sống: Mình sinh ra là gì, mình đẻ ở đâu, mình vì ai
mà làm việc? Đây là câu nói thể hiện rõ ràng mục đích sống và lí tưởng sống của anh thanh niên. Sống trên
đời, mỗi người cần xác định rõ mục tiêu để có thể sống và cống hiến hết mình. Nhận thức đó cho thấy anh
thanh niên trẻ tuổi nhưng không hời hợt. Anh sống một mình nhưng không cô đơn vì lúc nào trong tư tưởng
của anh mục đích sống, lẽ sống vẫn luôn luôn tồn tại và nhắc nhở. Đó là một lí tưởng sống đẹp của thế hệ
thanh niên trong thời kì đầu miền Bắc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
b. Anh thanh niên là người cởi mở, chân thành, yêu con người và cuộc sống
- Sống trong cảnh cô đơn, anh luôn khao khát được gặp gỡ, tiếp xúc, trò chuyện với mọi người. Mỗi khi có
khách đến chơi anh đón tiếp nồng nhiệt, cởi mở, chân tình.
- Mặc dù là lần gặp đầu tiên nhưng anh đã không ngần ngại bày tỏ những suy nghĩ rất thực, rất chân thành của
mình với ông họa sĩ. Chính sự cởi mở, gần gũi của anh đã khiến mọi người thực sự cảm mến.
- Những lời tâm sự của anh còn thể hiện tình yêu con người, yêu cuộc sống của một chàng trai giàu nghị lực
và có lí tưởng sống cao đẹp. Lắng nghe lời tâm sự của anh về nỗi “thèm người”, ta lại càng trân trọng và khâm
phục anh: Con người thì ai mà chả “thèm” hở bác? Mình sinh ra là gì, mình đẻ ở đâu, mình vì ai mà làm việc
(...) Cháu bỗng dưng tự hỏi: Cái nhớ xe, nhớ người ấy thật ra là cái gì vậy? Nếu là nỗi nhớ phồn hoa đô thị thì
xoàng. Với anh nỗi “thèm người”, nhớ người là xuất phát từ nhận thức sâu sắc về mối quan hệ giữa con người
với con người trong cuộc sống, là nhu cầu giao tiếp, là sự giao lưu, gắn bó với mọi người. Nỗi “thèm người” ở
anh không phải là sự thèm khát cuộc sống xa hoa, hào nhoáng nơi đô hội, chốn phồn hoa mà thực chất là khao
khát được giao lưu, giao tiếp, hòa nhập với mọi người, được sống và làm việc vì mọi người.
3. Đánh giá
- Thành công về nghệ thuật của nhà văn khi xây dựng nhân vật anh thanh niên:
+ Tình huống truyện hợp lí, cách kể chuyện tự nhiên, truyền cảm,thuyết phục.
+Vẻ đẹp nhân vật anh thanh niên được bộc lộ qua lời tự giới thiệu về mình.
+Ngôn ngữ nhân vật: đối thoại - thể hiện tính cách nhân vật, độc thoại - thể hiện suy nghĩ, cảm xúc.
- Về nội dung: Vẻ đẹp của nhân vật anh thanh niên là vẻ đẹp của những con người trên mảnh đất Sa Pa đang
ngày đêm âm thầm lặng lẽ hiến dâng tuổi trẻ, tình yêu cho đất nước như anh thanh niên trên đỉnh núi Phanxi-
păng, người cán bộ nghiên cứu sét... Đó cũng chính là vẻ đẹp tiêu biểu của thế hệ trẻ Việt Nam trong những
năm đầu miền Bắc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Liên hệ bản thân: Suy nghĩ về trách nhiệm của tuổi trẻ đối với đất nước.

Đề 5. Viết bài văn trình bày cảm nhận về vẻ đẹp của ba cô gái thanh niên xung phong được thể hiện trong
đoạn trích trên.

“… Việc của chúng tôi là ngồi ở đây. Khi có bom nổ thì chạy lên, đo khối lượng đất lấp vào hố bom, đếm
bom chưa nổ và nếu cần thì phá bom. Người ta gọi chúng tôi là tổ trinh sát mặt đường. Cái tên gợi sự khát
khao làm nên những sự tích anh hùng. Do đó, công việc cũng chẳng đơn giản. Chúng tôi bị bom vùi luôn. Có
khi bò trên cao điểm về chỉ thấy hai con mắt lấp lánh. Cười thì hàm răng loá lên khuôn mặt nhem nhuốc.
Những lúc đó chúng tôi gọi nhau là “ những con quỷ mắt đen”.
………………………………………………….Có thể nổ bây giờ,có thể chốc nữa. Nhưng nhất định sẽ nổ…Rồi
khi xong việc quay lại nhìn cảnh đoạn đường một lần nữa, thở phào, chạy về hang.Bên ngoài cái nóng trên 30
độ, chui vào hang là sà ngay đến một thế giới khác.Cái mát lạnh làm toàn thân rung lên đột ngột. Rồi ngửa
cổ uống nước, trong ca hay trong bi đông. Nước suối pha đường. Xong thì nằm dài trên nền ẩm, lười biếng
nheo mắt nghe nhạc từ cái đài bán dẫn nhỏ mà lúc nào cũng có pin đầy đủ. Có thể nghe, có thể nghĩ lung
tung… hình như ta sắp mở chiến dịch lớn. Đêm nào xe cũng đi nườm nượp ngoài đường. Ban đêm chúng tôi
được ngủ. Nhưng mấy đêm nay thì chịu. Đứa nào cũng leo tót lên trọng điểm, cầm xẻng xúc, nói vài câu buồn
cười với một anh lái xe nào đó. Vui. Chỉ khổ đưa trực máy điện thoại trong hang.
Bây giờ là buổi trưa. Im ắng lạ.Tôi ngồi dựa vào thành đá và khe khẽ hát. Tôi mê hát. Thường cứ thuuọc
một điệu nhạc nào đó rồi bịa ra lời mà hát. Lời tôi bịa lộn xộn mà ngớ ngẩn đến tôi cũng ngạc nhiên, đôi khi
bò ra cười một mình.”
( Trích Nhũng ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê, Ngữ văn 9, tập 2, NXB Giáo dục Việt Nam 2015, trang
114,115)

Gợi ý.
- Nêu chính xác vấn đề nghị luận: Vẻ đẹp của ba cô gái thanh niên xung phong được thể hiện trong
đoạn trích (trích dẫn giới hạn đoạn truyện).
Đoạn trích trên nằm ở gần cuối tác phẩm đã tái hiện lại một cách chân thực về một lần phá bom của Phương
Định và đồng đội để từ đó vẻ đẹp phẩm chất và tâm hồn của các cô gái mở đường tỏa sáng.
Cảm nhận
b1. Hoàn cảnh sống và chiến đấu của ba cô gái thanh niên xung phong.
- Hoàn cảnh sống: Trong một cái hang, dưới chân cao điểm…
- Công việc: Không đơn giản: Khi có bom nổ thì chạy lên, đo khối lượng đất phải lấp vào hố bom, đếm bom
chưa nổ và nếu cần thì phá bom. Hoàn cảnh sống chiến đấu vô cùng khắc nghiệt và tận cùng của sự nguy hiểm
ấy càng làm sáng lên bao phẩm chất cao đẹp của các cô gái.
b 2. Vẻ đẹp của ba cô gái thanh niên xung phong
- Đoạn trích đã ngợi ca những cô gái có lí tưởng sống, chiến đấu cao đẹp, luôn biết làm chủ hoàn cảnh
và vượt lên khó khăn với thái độ rất điềm tĩnh. Họ tình nguyện đến với chiến trường, sẵn sàng hy sinh bản
thân để bảo vệ tổ quốc. Họ tự hào kiêu hãnh khi được tham gia chiến đấu. Luôn thấy vui và hạnh phúc khi
được làm việc, niềm vui ấy tỏa ra tư đôi mắt lấp lánh, từ nụ cười cười thì hàm răng trắng lóa lên khuôn mặt
nhem nhuốc, từ tên gọi đầy tự hào tổ trinh sát mặt đường. cái tên gọi đã gợi sự khao khát làm nên những sự
tích anh hùng. Trước khó khăn gian khổ họ bình tâm đối diện, tuyệt đối không kêu ca than phiền. Họ kể về
những thử thách hiểm nguy như một điều hiển nhiên và vui vẻ: chúng tôi chạy trên cao điểm cả ngày, mà ban
ngày chạy trên cao điểm không phải chuyện chơi. Bình thản chấp nhận gian khổ, chấp nhận hi sinh bởi các cô
hiểu được ý nghĩa thiêng liêng của nhiệm vụ mình đang làm.
- Nhà văn đã giúp bạn đọc cảm nhận sâu sắc lòng gan dạ, dũng cảm, niềm say mê chiến đấu và tinh
thần trách nhiệm hết mình với công việc của các nữ TNXP. Phẩm chất cao đẹp ấy thể hiện rõ trong công
việc hàng ngày các cô luôn phải đối diện hết sức hiểm nguy, ranh giới giữa sự sống và cái chết cách nhau
trong gang tấc, phải là những con người có bản lĩnh mới gánh vác được. Phương Định kể khi chạy trên cao
điểm, tim đập bất chấp nhịp điệu, thần kinh căng như dây chão …Trong thử thách, lòng dũng cảm của các cô
gái thật đáng khâm phục. Mỗi lần phá bom từ cao điểm trở về, trên khuôn mặt nhem nhuốc của các cô ánh lên
hai con mắt lấp lánh và nụ cười vui vẻ. Họ luôn đặt nhiệm vụ lên hàng đầu, hoàn thành nhiệm vụ còn quan
trọng hơn sự an nguy của bản thân. Các cô làm việc với tinh thần say mê và sự hăng hái của tuổi trẻ. Khi biết
quân ta đang mở chiến dịch lớn, đêm các cô không ngủ được, họ cùng nhau leo tót lên cao điểm càm xẻng xúc
và nói chuyện với các chiến sĩ lái xe. Họ luôn khao khát được làm việc, được tận hiến. Chính điều đó mang
đến cho các cô niềm vui và hạnh phúc. Sức thanh xuân, lòng nhiệt huyết, tinh thần dũng cảm đã giúp các cô
lập lên những chiến công phi thường. (liên hệ mở rộng)
- Không chỉ gan góc, ngoan cường trong chiến đấu các cô gái còn đáng yêu bởi vẻ đẹp hồn nhiên, trong
sáng và tinh thần lạc quan yêu đời. Các cô tỏ ra thích thú với công việc của mình:Việc nào cũng có cái thú
của nó. …Đất bốc khói, không khí bàng hoàng. Đối diện với không khí căng thẳng, ác liệt của chiến tranh với
những cảm giác mạnh là một điều hết sức thú vị với các cô gái trẻ muốn thử sức, quăng mình trong bão tố.
Ngay cả cái chết họ cũng coi hết sức bình thường, Phương Định kể với giọng hài hước Thần chết là một tay
không thích đùa. Hắn ta lẩn trong ruột những quả bom. Cuộc sống chiến đấu gian khổ là thế nhưng chưa bao
giờ các cô vơi đi niềm lạc quan yêu đời. Họ cùng nhau hát. Phương Định kể Tôi ngồi dựa vào thành đá và khe
khẽ hát. Tôi mê hát. Thường cứ thuộc một điệu nhạc nào đó rồi bịa ra lời mà hát. Lời tôi bịa lộn xộn và ngớ
ngẩn đến tôi cũng ngạc nhiên, đôi khi bò ra mà cười một mình. Tiếng hát ấy được cất lên từ những tâm hồn
tươi trẻ, tràn đầy tinh thần lạc quan, Tiếng hát làm át tiếng bom, truyền cho các cô động lực, sức mạnh tinh
thần để vượt qua khó khăn gian khổ, hoàn thành nhiệm vụ. Đó là sức mạnh, là hào khí của tuổi trẻ Việt Nam
trong những tháng năm khói lửa mà oai hùng của đất nước.
Đánh giá:
+ Nhà văn khéo lựa chọn ngôi kể số 1 chân thực . Việc sử dụng những câu văn ngắn, dồn dập vừa góp phần tái
hiện không khí ác liệt của chiến trường, vừa miêu tả bản lĩnh, sự gan góc của nhân vật.
+ Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế sắc sảo.
+ Đoạn trích đã khắc họa chân thực, cảm động vẻ đẹp của các nữ TNXP với tâm hồn trẻ trung, hồn nhiên, mà
vô cùng kiên cường, dũng cảm, luôn phơi phới tinh thần lạc quan, yêu đời. Nho, chị Thao và Phương Định là
hình ảnh tiêu biểu, là hiện thân đầy kiêu hãnh tự hào của tuổi trẻ Việt Nam thời chống Mĩ.
Tuổi trẻ chúng ta hôm nay, được sống trong đất nước hòa bình càng trân trọng hơn giá trị cuộc sống
mà mình đang có, trân trọng công lao và sự hy sinh của bao lớp thế hệ cha anh đi trước, chúng ta càng ra sức
rèn đức, luyện tài, mang tài trí của mình để góp phần xây quê hương đất nước xứng đáng với các thế hệ cha
anh.

Đề 6. Viết bài văn trình bày cảm nhận của em về nhân vật Phương Định trong đoạn trích sau:
“…Vắng lặng đến phát sợ. Cây còn lại xơ xác. Đất nóng. Khói đen vật vờ từng cụm trong không
trung, che đi những gì từ xa. Các anh cao xạ có nhìn thấy chúng tôi không? Chắc có, các anh ấy có những cái
ống nhòm có thể thu cả trái đất vào tầm mắt. Tôi đến gần quả bom. Cảm thấy có ánh mắt các chiến sĩ dõi
theo mình, tôi không sợ nữa. Tôi sẽ không đi khom. Các anh ấy không thích cái kiểu đi khom khi có thể cứ
đàng hoàng mà bước tới.
Quả bom nằm lạnh lùng trên một bụi cây khô, một đầu vùi xuống đất. Đầu này có vẽ hai vòng tròn
màu vàng…
Tôi dùng xẻng nhỏ đào đất dưới quả bom. Đất rắn. Những hòn sỏi theo tay tôi bay ra hai bên. Thỉnh
thoảng lưỡi xẻng chạm vào quả bom. Một tiếng động sắc đến gai người cứa vào da thịt tôi. Tôi rùng mình và
bỗng thấy tại sao mình làm quá chậm. Nhanh lên một tí! Vỏ quả bom nóng. Một dấu hiệu chẳng lành. Hoặc là
nóng từ bên trong quả bom. Hoặt là mặt trời nung nóng.
Chị Thảo thổi còi. Như thế là đã hai mươi phút qua. Tôi cẩn thận bỏ gói thuốc mìn xuống cái lỗ đã đào,
châm ngòi. Dây mìn dài, cong, mềm. Tôi khỏa đất rồi chạy lại chỗ ẩn nấp của mình.
Hồi còi thứ hai của chị Thao. Tôi nép người vào bức tường đất, nhìn đồng hồ. Không có gió. Tim tôi
cũng đập không rõ. Dường như vật duy nhất vẫn bình tĩnh, phớt lờ mọi biến động chung là chiếc kim đồng
hồ. Nó chạy, sinh động và nhẹ nhàng, đè lên những con số vĩnh cửu. Còn đằng kia, lửa đang chui bên trong
cái dây mìn, chui vào ruột quả bom…
Quen rồi. Một ngày chúng tôi phá bom đến năm lần. Ngày nào ít: ba lần. Tôi có nghĩ tới cái chết. Nhưng
một cái chết mờ nhạt, không cụ thể. Còn cái chính: liệu mìn có nổ, bom có nổ không? Không thì làm cách nào
để châm mìn lần thứ hai? Tôi nghĩ thế, nghĩ thêm: đứng cẩn thận, mảnh bom ghim vào cánh tay thì khá phiền.
Và mồ hôi thấm vào môi tôi, mằn mặn, cát lạo xạo trong miệng.
Nhưng quả bom nổ. Một thứ tiếng kì quái, đến váng óc. Ngực tôi nhói, mắt cay mãi mới mở ra được.
Mùi thuốc bom buồn nôn. Ba tiếng nổ nữa tiếp theo. Đất rơi lộp bộp, tan đi âm thầm trong những bụi cây.
Mảnh bom xé không khí, lao và rít vô hình trên đầu...”
(Lê Minh Khuê, Những ngôi sao xa xôi, Ngữ văn 9, tập hai)
Gợi ý.
- Nội dung đoạn trích thuật lại khung cảnh và công việc phá bom Phương Định và hai nữ đồng đội ở một cao
điểm trên đường mòn Trường Sơn.
- Khắc hoạ tâm trạng, tinh thần dũng cảm kiên cường của Phương Định
Cảm nhận
*Luận điểm 1:Giới thiệuhoàn cảnh sống giankhổ nguy hiểm dưới chân cao điểm vàcận kề với cái chết
khi phá bom của Phương Định
+ Phương Định đã sống trong một hoàn cảnh chiến tranh rất gian khổ và nguy hiểm: vùng đất bị bom đạn tàn
phá; dưới chân cao điểm
+ Không khí căng thẳng diễn ra trước khi phá bom "Vắng lặng đến phát sợ. Cây còn lại xơ xác. Đất nóng.
Khói đen vật vờ từng cụm trong không trung, che đi những gì từ xa
+ Sử dụng câu ngắn, câu rút gọn =>gợi căng thẳng, hiểm nguy đang rình rập
Hoàn cảnh khắc nghiệt của cuộc chiến tranh đã tôi luyện nên tinh thần lẽ sống của Phương Định, đó là hoàn
cảnh của rất nhiều thanh niên xung phong, bộ đội trên tuyến đường Trường Sơn những năm chống Mĩ
* Luận điểm 2: Nhân vật Phương Định nổi bật với tinh thần dũng cảm kiên cường trong một lần phá
bom
- Tâm trạng của Phương Định trước lúc phá bom là dũng cảm chiến thắng nỗi sợ hãi.
Đó là tâm trạng rất bình thường như tất cả mọi người đứng trước sự hiểm nguy, thậm chí là cái chết: Các anh
cao xạ có nhìn thấy chúng tôi không? Chắc có, các anh ấy có những cái ống nhòm có thể thu cả trái đất vào
tầm mắt. Tôi đến gần quả bom. Cảm thấy có ánh mắt các chiến sĩ dõi theo mình, tôi không sợ nữa. Tôi sẽ
không đi khom. Các anh ấy không thích cái kiểu đi khom khi có thể cứ đàng hoàng mà bước tới"
Suy nghĩ thể hiện rõ sự sợ hãi, tâm trạng rất thật ấy, đã được an ủi động viên khi cô nghĩ về đồng đội nghĩ về
danh dự, tinh thần dũng cảm trong mắt đồng đội. Suy nghĩ đó là động lực giúp cô xua tan nỗi sợ hãi. Là một
cô gái xuất thân từ Hà Nội, lãng mạn, giàu xúc cảm. Cho nên, khi làm công việc phá bom, Phương Định
không tránh khỏi cảm xúc bình thường, rất con người: có sợ hãi, hồi hộp, căng thẳng,
=> Tâm trạng được miêu tả qua suy nghĩ chân thực thể hiện tinh thần dũng cảm sự tinh tế khi cô chọn cách để
chiến thắng nỗi sợ hãi
- Tâm trạng lúc bắt đầu phá bom thể hiện Phương Định là một cô gái dũng cảm, đối mặt với hiểm nguy,
kiên cường hoàn thành nhiệm vụ
Để phá được bom, cô phải đến gần quả bom, dùng xẻng nhỏ đào đất dưới quả bom trong lúc vỏ quả bom nóng
(một dấu hiệu chẳng lành). Cô bỏ gói thuốc mìn xuống cái lỗ đã đào, sau đó châm ngòi, chạy lại chỗ ẩn nấp…
bom nổ, tiếng kỳ quái đến váng óc…
+ Tâm lí căng thẳng . Sự tập trung cao độ. Hành động cẩn thận chính xác, khẩn trương
- Tâm trạng lúc chờ bom nổ thể hiện Phương Định là một người chiến sĩ gan dạ coi thường cái chết,
đề cao nhiệm vụ
+ Suy nghĩ về nhiệm vụ, bỏ qua ý nghĩ về cái chết ...
“Quen rồi. Một ngày chúng tôi phá bom đến năm lần. Ngày nào ít: ba lần. Tôi có nghĩ tới cái chết. Nhưng
một cái chết mờ nhạt, không cụ thểCòn cái chính: liệu mìn có nổ, bom có nổ không? Không thì làm cách nào
để châm mìn lần thứ hai?”
=>Khi cái chết im lìm và đáng sợ kề bên, mọi cảm giác của Phương Định đều trở nên sắc nhọn. tâm trạng
thật tỉnh táo cảm nhận tinh tế chân thực,cảm thấy ngực nhói, mắt cay
=> Đó là một công việc diễn ra một cách thường xuyên trong cuộc sống hàng ngày của Phương Định và các
đồng đội. Công việc nguy hiểm nhưng cô luôn cố gắng để hoàn thành nhiệm vụ thật tốt.
-Nhận xét
+ Tâm lí nhân vật được miêu tả cụ thể, tinh tế đến từng cảm giác, từng ý nghĩ
- Hoàn cảnh sống và hành động, ngôn ngữ của nhân vật để khắc họa tính cách.
- Điều đó mang lại cho hình ảnh nhân vật một vẻ đẹp chân thực giàu sức thuyết phục, khắc hoạ một phẩm
chất quan trọng của người lính, người chiến sĩ thanh niên xung phong dũng cảm kiên cường đối mặt với cái
chết để hoàn thành nhiệm vụ.
Đánh giá:
+ Trong truyện, có lẽ đây là đoạn xuất sắc nhất; tâm lí nhân vật được miêu tả cụ thể, tinh tế đến từng cảm
giác, từng ý nghĩ ...
+ Truyện được trần thuật từ ngôi thứ nhất, tạo điều kiện cho tác giả mở ra thế giới nội tâm của nhân vật một
cách tự nhiên, một thế giới tâm hồn giàu xúc cảm suy tư, nhiều khát khao, ước vọng.
- Cảm nghĩ và bài học rút ra cho bản thân
Đề 7
Viết bài văn trình bày cảm nhận về đoạn thơ sau:
Quê hương anh nước mặn, đồng chua
……
Đồng chí!
(Trích Đồng chí, Chính Hữu, Ngữ văn 9, tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam 2015, trang 128)
Gợi ý:
- Nêu vấn đề nghị luận. Cơ sở hình thành tình đồng chí đồng đội.
- Trích dẫn thơ.
- Vị trí đoạn thơ.
2. Cảm nhận
Tình đồng chí là hội tụ, hòa quyện của những tình cảm đẹp như tình giai cấp, tình đồng đội, tình người. Càng
đẹp hơn nữa khi những người línhbiết sẻ chia khó khăn, gian khổ, thiếu thốn trong cuộc kháng chiến của dân
tộc vì độc lập, tự do của đất nước.
Cơ sở hình thành tình đồng chí của những người lính:
a. Chung hoàn cảnh xuất thân
Những câu thơ trong khổ thơ mở đầu giống như lời tâm sự, chia sẻ của những người chiến sĩ. Trước tiên, họ
tâm sự về hoàn cảnh gia đình, xuất thân:
Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
- Hai câu thơ đối xứng, song hành tạo ra sự hài hòa, cân xứng. Nước mặn đồng chua: Thành ngữ chỉ vùng đất
nhiễm mặn ở ven biển và vùng đất phèn có độ chua cao. Đất cày lên sỏi đá: Hình ảnh chỉ vùng đất cằn cỗi khô
hạn, đất đai bạc màu. Dù ở miền đồng bằng ven biển nước mặn đồng chua hay vùng trung du đất cày lên sỏi
đá, những người nông dân mặc áo lính ấy đều cùng chung cái nghèo khổ, lam lũ..
Đó là những vùng đất xấu, khó trồng trọt, khó canh tác. Quê hương anh, làng tôi đều chung cái nghèo. Những
người lính là những người nông dân, là người con của làng quê lam lũ, vất vả với cày cấy, ruộng đồng. Tình
đồng chí bắt nguồn từ sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân của những người lính. Chính sự đồng cảm giai
cấp đã giúp họ sát cánh bên nhau chiến đấu để bảo vệ quê hương, đất nước.
b. Chung mục đích, lí tưởng chiến đấu, cùng sát cánh bên nhau
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đội tri kỉ
- Từ những con người xa lạ chẳng hề quen biết, vì tình yêu Tổ quốc, họ đã đứng trong cùng một đội ngũ, cùng
nhau thực hiện mục đích, lí tưởng cao đẹp. Câu thơ Súng bên súng, đầu sát bên đầu sử dụng nghệ thuật tiêu
đối, điệp ngữ làm nổi bật hoàn cảnh chiến đấu khắc nghiệt nhưng những người lính vẫn sát cánh bên nhau,
cùng nhau chiến đấu, cùng nhau đối diện với hiểm nguy.
- Súng bên súng, đầu sát bên đầu vừa là hình ảnh thực vừa là hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng. Súng tượng
trưng cho nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, đầu chính là chí hướng, lí tưởng cao đẹp.
- Ngoài ra, họ còn chung hoàn cảnh chiến đấu gian khổ. Hình ảnh Đêm rét chung chăn thể hiện sự gần gũi, sẻ
chia những khó khăn, thiếu thốn trong đời lính. Về cái thân tình ấm áp không gì hơn là hình ảnh đắp chung
chăn. Họ hiểu và chia sẻ với nhau sự thiếu thốn vật chất trong những ngày đầu kháng chiến.Trong đoạn thơ,
những chữ anh, tôi đan cài, đối xứng thể hiện tình cảm gắn bó, keo sơn, khăng khít giữa những người chiến sĩ.
Chính vì vậy mà từ đôi người xa lạ, họ đã trở thành đội tri kỉ (hiểu bạn như hiểu mình).
- Không chỉ dừng lại ở đó, Chính Hữu nâng tình cảm đó lên một tầng cao hơn - tình đồng chí. Đây là một tình
cảm mới mẻ, cao đẹp, thiêng liêng!
- Hai tiếng đồng chí được tác giả tách ra thành một câu thơ như một dụng ý nghệ thuật vừa tạo ra sự hài hoà,
cân đối của bài thơ vừa tạo ra điểm nhấn. Câu thơ rất ngắn gọn, chỉ có hai tiếng được tách ra thành một dòng
thơ riêng giống như một bản lề khép lại sáu câu thơ đầu đồng thời mở ra những câu thơ tiếp theo. Đồng chí!
như khẳng định sự thiêng liêng cao đẹp của tình cảm: tình bạn - tình người - tình tri kỉ - tình đồng chí, đồng
đội...
3. Đánh giá
- Bằng những nét nghệ thuật đặc sắc: Những câu thơ đối nhau, hình ảnh thơ sóng đôi, ngôn ngữ thơ giản dị,
chắt lọc tinh tế lắng đọng, nhiều hình ảnh mang tính biểu tượng, sử dụng thành ngữ sáng tạo....
- Cơ sở hình thành tình đồng chí, đồng đội của những người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp của dân
tộc đó là: cùng chung hoàn cảnh xuất thân, chung mục đích, lí tưởng chiến đấu, cùng chia sẻ khó khăn, gian
khổ trong cuộc sống quân ngũ.
- Liên hệ bản thân.

Đề 8
Viết bài văn trình bày cảm nhận về vẻ đẹp tình đồng chí của người lính Cụ Hồ trong kháng chiến chống Pháp
được thể hiện trong đoạn thơ sau:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
……………………………..
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
(Trích Đồng chí, Chính Hữu, Ngữ văn 9, tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam 2015, trang 128,129)
- Nêu vấn đề nghị luận: Vẻ đẹp tình đồng chí của người lính Cụ Hồ.
2. Cảm nhận
Vẻ đẹp tình đồng chí của người lính Cụ Hồ được biểu hiện qua:
a. Sự đồng cảm sâu sắc với hoàn cảnh và tâm tư của nhau
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay.
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính
- Cùng là những người nông dân mặc áo lính, xa gia đình, xa quê hương, những người lính luôn cảm thông sâu xa với
tâm tư, nỗi lòng của nhau. Giọng điệu chậm rãi, tình cảm thiết tha khiến câu thơ lắng sâu vào trong nỗi nhớ..
- Ruộng nương, Gian nhà, giếng nước, gốc đa là những gì gắn bó, gần gũi, thân thiết với người chiến sĩ xuất thân từ
nông dân, song họ sẵn sàng gửi bạn thân cày, mặc kệ gió lung lay, chấp nhận để lại phía sau, ra đi vì nghĩa lớn. Chí khí,
nỗi niềm của người ra đi vì nghĩa lớn được thể hiện qua từ mặc kệ. Hai tiếng mặc kệ thốt lên đầy khảng khái, rất lính.
Qua đó làm toát lên sự kiên quyết, dứt khoát, mạnh mẽ của người ra đi khi mục đích đã rõ ràng, lí tưởng đã chọn lựa.
Đó là tình yêu quê hương, đất nước sâu nặng của các anh.
- Nghệ thuật hoán dụ kết hợp nhân hóa Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính đã biểu đạt sâu sắc tâm hồn và tình yêu của
người lính với quê nhà và thể hiện tình cảm hậu phương dành cho người ở tiền tuyến.
b. Chia sẻ, cảm thông với những gian lao, thiếu thốn nơi chiến trường khốc liệt
- Cuộc sống gian lao với những cơn sốt rét rừng:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trân trớt mồ hôi
+ Địa bàn chiến đấu của người lính là vùng “rừng thiêng nước độc’’ lạnh lẽo, âm u. Những người chiến sĩ xa nhà, xa
quê hương hầu hết đều mất căn bệnh sốt rét ác tính. Là người trực tiếp tham gia chiến dịch Việt Bắc (thu đông 1947)
nên Chính Hữu miêu tả vô cùng cụ thể và chính xác những biểu hiện của căn bệnh quái ác này. Với một loạt các hình
ảnh, chi tiết chọn lọc, tác giả đã tái hiện cuộc sống đầy những gian lao, thiếu thốn, gian khổ cuat người lính.
+Chính Hữu nói về căn bệnh này để làm sáng lên tình đồng chí, đồng đội của những người lính. Bởi lẽ, ngay cả những
lúc bị bệnh tật hành hạ, các anh vẫn luôn bên nhau, Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh. Người chiến sĩ xót thương nhau,
lo lắng theo dõi cơn sốt của bạn, cảm nhận được cơn bạo bệnh của đồng đội mình...
- Cùng nhau trải qua những thiếu thốn, khó khăn, gian khổ để từ đó ngời sáng tinh thần lạc quan và tình đồng chí đồng
đội cao đẹp:
Áo anh rách vai
………………..
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay
+ Hình ảnh ngôn ngữ thơ cô đọng, hàm súc, lời ít mà ý nhiều. Áo rách, Quần vá, Chân không giày, tác giả đã sử dụng
những hình ảnh liệt kê nối tiếp nhau để khắc họa hiện thực gian khổ của buổi đầu kháng chiến - những tư trang tối thiểu,
cần thiết nhất mà vẫn rách, vẫn thiếu. Những người lính Cụ Hồ phải đối diện với biết bao gian khổ, thiếu thốn của cuộc
sống chiến trường.
+ Chính trong sự thiếu thốn khó khăn ấy, phẩm chất, tâm hồn, tình cảm của người lính càng thêm đẹp đẽ. Cấu trúc sóng
đôi Áo anh/Quần tôi đã tô đậm thêm sự gắn bó keo sơn của các anh. Họ cùng sẻ chia những nhọc nhăn, gian khó.
+ Trong hoàn cảnh ấy, các anh vẫn luôn lạc quan, đầy tình thương và ý chí: Hình ảnh Miệng cười buốt giá là một hình
ảnh thơ vừa giản dị vừa giàu sức gợi. Người chiến sĩ luôn tươi cười trước mọi khó khăn, nụ cười trong gian lao thử
thách, sáng lên tinh thần lạc quan, kiêu hãnh. Nụ cười của các anh thể hiện sự thông cảm, chia sẻ, nụ cười làm ấm lòng
nhau, khích lệ nhau vượt gian khó.
+ Tình đồng chí, đồng đội kết tụ trong một hành động thật đẹp Thương nhau tay nắm lấy bàn tay. Tình thương đồng đội
được biểu hiện bằng cử chỉ thân thiết. Bàn tay tìm đến nhau để truyền cho nhau hơi ấm, tay nắm tay thể hiện tình đồng
đội keo sơn, truyền cho nhau niềm tin và sức mạnh.
3. Đánh giá
- Thể thơ tự do, khổ thơ có những câu dài, ngắn đan xen linh hoạt: Hình ảnh, ngôn ngữ giản dị, giàu sức gợi. Giọng thơ
tâm tình, thiết tha.
- Khổ thơ giúp người đọc cảm nhận được sức mạnh kì diệu của tình đồng chí đồng đội giản dị mà thiêng liêng của người
lính Cụ Hồ. Điều đó để lại trong lòng người đọc niềm cảm phục, tự hào sâu sắc.
- Liên hệ bản thân

Đề 9. Viết một bài văn trình bày cảm nhận của em về khổ thơ sau:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.
( Trích Ngữ văn 9, tập 2 NXBGD Việt Nam)
- Giới thiệu vấn đề cần nghị luận Cảm xúc bồi hồi, nỗi xúc động sâu xa của người con miền Nam trước
cảnh vật bên ngoài lăng Bác.
- Trích dẫn thơ.
-Vị trí và nội dung đoạn trích trong cảm xúc của toàn bài.
2. Cảm nhận về nội dung và nghệ thuật của khổ thơ
Luận điểm 1:Cảm xúc của nhà thơ khi đến thăm lăng Bác.
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
-Câu thơ đậm chất tự sự, là một thông báo nhưng chứa đựng cảm xúc bồi hồi và nhiều ý nghĩa sâu xa:
-Nhà thơ dùng từ “con” đây là cách xưng hô thân mật, gần gũi của người miền Nam để khẳng định tình cảm
hết sức sâu sắc, ruột thịt dành cho Bác giống như tình cảm của một người con xa cha lâu ngày bây giờ mới có
dịp trở về thăm cha.
-Cách dùng từ “thăm” thay cho từ viếng: đây là một cách nói giảm, nói tránh để tránh đi một nỗi đau, tránh đi
một sự thật rằng Bác không còn nữa; đồng thời khẳng định trong tiềm thức của nhà thơ, của đồng bào thì Bác
như vẫn còn sống mãi.
-Nhà thơ nói “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác” là khẳng định mình từ tuyến lửa của Tổ quốc trở về với thủ
đô, với trái tim của cả nước. Vì vậy đây không chỉ đơn thuần là cuộc thăm một công trình kiến trúc, viếng di
hài một vĩ nhân mà đó là một cuộc trở về như lá tìm về cội, như sông chảy về nguồn, như máu chảy về tim.
Đó là một cuộc trở về để báo công với Bác.
Luận điểm 2: Cảm xúc của nhà thơ về hình ảnh hàng tre quanh lăng Bác.
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.
-Hình ảnh hàng tre được gợi ra qua các từ láy “bát ngát”, “xanh xanh” gợi hình dung về hình ảnh hàng tre
xanh tươi, trải dài mênh mông và thấp thoáng ẩn hiện trong màn sương sớm. Vì thế lăng Bác trở nên gần gũi,
bình dị như bao mái nhà Việt Nam ẩn mình dưới bóng tre xanh.
-Hình ảnh hàng tre còn được khắc hoạ qua hình ảnh ẩn dụ, thành ngữ "bão táp mưasa" và hình ảnh nhân hoá,
ẩn dụ "đứng thẳng hàng". Như vậy, tre là biểu tượng cho phẩm chất của con người Việt Nam kiên cường, bất
khuất và không hề chịu khuất phục trong gian khổ, thử thách, thương đau. Đó cũng chính là dáng đứng hiên
ngang của cả một dân tộc.
-Từ “Ôi” đã bộc lộ sự xúc động của nhà thơ khi bắt găp một loài cây quen thuộc của làng quê Việt Nam ở bên
lăng Người, bộc lộ niềm tự hào mãnh liệt của nhà thơ về con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam.
-Cách nói của nhà thơ - lăng Bác ở trong tre, giữa màu tre thân thuộc. Như vậy, hình ảnh hàng tre còn là biểu
tượng cho đội quân danh dự luôn tề tựu bên Người, canh giấc ngủ cho Người; biểu tượng cho cả một dân tộc
luôn hướng về Người, thuỷ chung với sự nghiệp của Người.
3.Đánh giá
- Khổ thơ đã cho người đọc cảm nhận thấm thía về lòng kính yêu vô hạn, niềm thương nhớ bao la và lòng
thành kính sâu sắc của nhà thơ, của đồng bào dành cho Bác.
-Thành công về nghệ thuật của khổ thơ với giọng điệu trang trọng, tha thiết, thành kính; cách gieo vần linh
hoạt; sử dụng sáng tạo các biện pháp tu từ ẩn dụ, nhân hóa, nói giảm nói tránh…. nhiều hình ảnh thơ đẹp,
trong sáng và giàu ý nghĩa; ngôn ngữ, lời thơ bình dị mà sâu sắc.
+ Liên hệ: Bài thơ mang đến một sự cảm hoá sâu sắc với bạn đọc về sự trân trọng giá trị của hoà bình, tự do,
ý thức về trách nhiệm góp phần xây dựng và bảo vệ đất nước - thành quả cách mạng vĩ đại mà Bác đã mang
lại.
-Bày tỏ suy nghĩ và thái độ của bản thân đối với Bác Hồ kính yêu:Yêu mến, tự hào, trân trọng, ngợi ca…..

Đề 10. Viết bài văn trình bày cảm nhận về khổ thơ sau:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy chín mùa xuân.
(Trích Viếng lăng Bác, Viễn Phương, Ngữ văn 9, tập 2, NXB Giáo dục Việt Nam 2015, trang 58)
Gợi ý
Mở bài
- Nêu vấn đề nghị luận: cảm xúc khi đứng trước lăng Bác
- Nêu hoàn cảnh sáng tác
- Mạch cảm xúc, vị trí đoạn thơ...
* Cảm nhận
- LĐ 1: 2 dòng đầu: Hình ảnh mặt trời trước lăng
+ Hình ảnh “mặt trời đi qua trên lăng” là là hình ảnh thực. Đó là mặt trời thiên nhiên rực rỡ, vĩnh hằng ngày
ngày đi qua trên lăng, đem lại nguồn sáng cho thế gian. Mặt trời ấy là sự sống của muôn vàn cỏ cây hoa lá, nó
trở thành hình ảnh vĩnh hằng của vũ trụ.
+ “mặt trời trong lăng rất đỏ” là hình ảnh ẩn dụ chỉ Bác Hồ kính yêu. -> ca ngợi sự vĩ đại, công lao của Bác
đối với non sông đất nước.
=> Công lao sự nghiệp của Người đã trở thành bất tử trong triệu trái tim mỗi người dân Việt Nam, đồng thời
còn thể hiện niềm tôn kính, lòng biết ơn vô hạn của nhân dân ta đối với Bác.
- LĐ 2: 2 dòng sau: Hình ảnh dòng người vào lăng viếng Bác
+ Điệp ngữ “ngày ngày ” : thời gian cứ trôi, ngày tiếp ngày những dòng người vẫn nối nhau vào lăng viếng
Bác cứ kéo dài vô tận.
+ “đi trong thương nhớ” -> nỗi xúc động bồi hồi, lòng tiếc thương kính cẩn.
+ hình ảnh ẩn dụ “tràng hoa“ : Mỗi con người vào viếng lăng Bác giống như một bông hoa đẹp dâng lên Bác
cả tấm lòng, cả cuộc đời và niềm thương nỗi nhớ.
+ Biện pháp nghệ thuật hoán dụ “bảy chín mùa xuân”: tượng trưng cho bẩy chín năm cuộc đời của Bác. Con
người bẩy chín mùa xuân ấy đã sống một cuộc đời đẹp như những mùa xuân và làm ra mùa xuân cho đất
nước, cho mỗi chúng ta.
=> Thể hiện sự tôn kính, biết ơn, tự hào của tác giả cũng như của dân tộc Việt Nam đối với Bác.
* Đánh giá:
- Nghệ thuật: ngôn từ bình dị, giọng thơ trang trọng, chân thành tha thiết, giàu cảm xúc, hình ảnh thơ đẹp, gợi
cảm cùng việc sử dụng thành công biện pháp tu từ ẩn dụ, hoán dụ, điệp ngữ cùng kết cấu song hành
- Nội dung: niềm xúc động thành kính thiêng liêng của Viễn Phương khi đứng trước lăng Người.
- Khẳng định giá trị bài thơ, đoạn thơ.
- Liên hệ bản thân.

Đề 11.Viết bài văn cảm nhận về hình ảnh người chiến sĩ lái xe trong hai khổ thơ sau:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất ,nhìn trời, nhìn thẳng.

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng


Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.
( Trích Ngữ văn 9, tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam 2005)
- Giới thiệu nội dung bài thơ, giới thiệu khái quát về đoạn thơ: Hình ảnh những chiếc xe không kính và người
chiến sĩ lái xe Trường Sơn với những phẩm chất tốt đẹp:tư thế ung dung,tâm hồn mơ mộng lãng mạn
( Trích đoạn thơ)
Cảm nhận:
* Luận điểm 1: Hình ảnh những chiếc xe không kính và tư thế ung dung của người lính lái xe.
(Trích dẫn đoạn thơ một)
- Hai câu thơ đầu rất gần với văn xuôi cùng giọng điệu thản nhiên đã làm nổi bật hình ảnh những chiếc xe
không kính và hiện thực khốc liệt của chiến trường những năm tháng kháng chiến chống Mĩ của dân tộc.
- Hai câu thơ sau là tư thế ung dung, tự tại của người lính:
+ Nghệ thuật đảo ngữ với từ láy “ung dung” kết hợp với cách ngắt nhịp 2/2/2 đã nhấn mạnh tư thế ung
dung,bình tĩnh, tự tin pha chút ngang tàng của người lính lái xe vượt lên những khó khăn để làm nhiệm vụ.
+ Điệp ngữ “nhìn”được nhắc lại 3 lần diễn tả đầy đủ cái nhìn của người lính.Nhìn đất là để xác định phương
hướng đường đi;nhìn trời là để cảnh giác với lũ giặc trời; còn nhìn thẳng là cái nhìn hiên ngang, cái nhìn nghề
nghiệp. Có thể nói, điệp ngữ nhìn tô đậm tư thế và thái độ của những người chiến sĩ lái xe. Một tư thế hiên
ngang, một thái độ làm việc tập trung cao độ vừa ung dung tự tại.
* Luận điểm 2: Người lính lái xe bất chấp khó khăn bằng sự yêu đời, bằng tâm hồn mơ mộng .
(Trích dẫn đoạn thơ hai)
- Điệp từ nhìn thấy và phép liệt kê diễn tả rất nhiều cảm giác thú vị đến với người lính lái xe trên những chiếc
xe không kính.
+ “Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng” là nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác đem đến cho câu thơ ý nghĩa
thật mới mẻ. Nó vừa gợi ra tốc độ rất nhanh của những chiếc xe quân sự trên đường ra trận, vừa tô đậm những
khó khăn gian khổ mà người lính lái xe phải đối mặt. Động từ xoa và nghệ thuật nhân hóa gió vào xoa là cách
nói giảm hiện thực. Cách nói này cho thấy tâm hồn lạc quan, tư thế vượt lên trên gian khổ giúp người lính
biến thiên nhiên khắc nghiệt trở thành người bạn xoa dịu cảm giác bỏng rát của những đôi mắt thiếu ngủ nhiều
đêm.
+ Trên những chiếc xe không kính đó, người lính còn nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim. Hình ảnh thơ
diễn tả thật cụ thể cảm giác của những người lính khi được lái những chiếc xe không kính. Đó là con đường
Trường Sơn nối liền hậu phương miền Bắc với tiền tuyến miền Nam. Hình ảnh con đường còn là một hình
ảnh ẩn dụ chỉ con đường chiến đấu, con đường giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
- Bom đạn chiến tranh, gió bụi, chiếc xe đầy thương tích đều không làm cho tâm hồn người lính trở nên khô
cằn, chai sạn. Các từ nhìn thấy, thấy điệp lại cùng với động từ sa, ùa vừa đặc tả tốc độ xe lao nhanh vừa cho
thấy tâm hồn rộng mở, phóng khoáng của người lính thả hồn chiêm ngưỡng vẻ đẹp của đất trời bantặng. Thiên
nhiên, sao trời, cánh chim quấn quýt với người lính.Thiên nhiên là người bạn tri âm, tri kỉ giúp người lính
quên đi bao nhọc nhằn, gian khổ, hiểm nguy.
c. Đánh giá, nâng cao: Đánh giá nghệ thuật, nội dung đoạn thơ (có thể liên hệ, mở rộng tới một số bài thơ,
câu thơ khác cũng viết về đề tài vẻ đẹp của thế hệ trẻ Việt Nam anh hùng trong thời kì kháng chiến chống Mĩ
cứu nước. )
- Cảm nghĩ của bản thân: Lòng kính trọng, tự hào và biết ơn thế hệ cha anh đã không tiếc xương máu chiến
đấu bảo vệ đất nước

Đề 2.Trình bày cảm nhận của em về đoạn thơ sau:


Không có kính, ừ thì có bụi
........................................
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
- Nêu vấn đề nghị luận: Đoạn thơ khắc họa những khó khăn, gian khổ mà người lính lái xe phải đối mặt qua đó
làm nổi bật vẻ đẹp tự tin, hiên ngang; tinh thần lạc quan và thái độ bất chấp, coi thường hiểm nguy của những
người chiến sĩ lái xe
- Vị trí khổ thơ...
Cảm nhận:
* Luận điểm 1: Những khó khăn gian khổ người lính lái xe phải trải qua khi lái những chiếc xe không kính:
Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
[…]
Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời”
- Nếu như ở những khổ thơ trước, ta thấy người lính phải đối mặt với “bom giật bom rung”; với “gió vào xoa mắt đắng”
thì ở khổ thơ này họ lại đương đầu với “bụi phun, mưa tuôn, mưa xối”. Những khó khăn, gian khổ ấy đã được nhà thơ
tái hiện bằng những câu thơ đậm chất hiện thực có nhịp nhanh mạnh, dứt khoát, ngôn ngữ gần với lời nói thường ngày,
đậm chất văn xuôi, đan xen sự tếu táo, khôi hài rất lính.
- Đầu tiên là những khó khăn khi đối mặt với bụi đường:
+ Động từ mạnh “phun” khiến người đọc như cảm nhận được những màn bụi dày đặc, bốc lên cuồn cuộn.
+ Phép tu từ so sánh “Bụi phun tóc trắng như người già” rất độc đáo, vừa chân thực vừa hóm hỉnh. Làn bụi mù mịt phủ
kín làm cho mái tóc xanh của người lính trông “bạc trắng như người già”.
- Khó khăn nối tiếp khó khăn, ngoài bụi đường, người lính còn phải đối mặt với sự khắc nghiệt của mưa rừng:
+ Phép so sánh : “Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời” càng nhấn mạnh thêm những thử thách, những gian khổ của người
lính Trường Sơn bởi sự khắc nghiệt của thiên nhiên.
+ Các động từ mạnh “ tuôn, xối” miêu tả mức độ dữ dội của những cơn mưa đột ngột trút xuống xối thẳng vào ca-bin.
Mưa làm buồng lái như ngoài trời, quần áo ướt đẫm, người lính đối diện trực tiếp với mọi tác động của ngoại cảnh thời
tiết.
=> Sự khốc liệt của chiến tranh và thiên nhiên không làm chùn bước, chùn ý chí của những người lính cách mạng. Điều
đó được thể hiện ở điệp ngữ “ừ thì”. Bụi, mưa với họ chỉ chỉ là chuyện vặt.
* Luận điểm 2: Trong gian khó, người lính càng ngời sáng lên tinh thần lạc quan, thái độ bất chấp, coi thường
hiểm nguy:
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha
[…]
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
- Điệp ngữ “chưa cần” tô đậm tinh thần chịu đựng, chí quyết tâm đẩy lùi gian lao, khắc phục gian khó trở thành một thói
quen chấp nhận một cách chủ động của người lính. Bụi mưa chỉ là chuyện vặt. Thái độ ngạo nghễ, ngang tàng ấy của
người lính càng làm cho người đọc khâm phục.
+ Cái quan tâm của người lính lúc này là chụm đầu vào nhau trong ánh lửa que diêm để châm thuốc hút. Hai tiếng “phì
phèo” làm nổi bật cái vẻ tinh nghịch, tếu táo của người lính trẻ.
+ Mặt lấm chẳng cần rửa, họ nhìn nhau rồi bật lên tiếng cười “ha ha” – tiếng cười sảng khoái, thoải mái. Thì ra bụi
đường lại là cái cớ mang nụ cười đến với các anh. Nhưng kì diệu thay, tiếng cười ấy vang lên từ trong khói lửa, trong đổ
nát. Nó làm át đi những tiếng bom ghê rợn, hãi hùng, át đi những trận mưa tuôn, gió cuốn.
-> Tiếng cười trẻ trung pha chút thú vị quanh những chiếc xe không kính, càng làm tôn lên tâm hồn vô tư, trong sáng,
lạc quan, yêu đời của các chàng trai Trường Sơn thời chống Mĩ. Đó là chất lạc quan đến thanh thản của một dân tộc, là
bản chất của con người Việt Nam trong những năm chống giặc thù ác liệt.
+ Và cái đáng quan tâm nhất của các anh lúc này là lái “trăm cây số nữa”, lời nói thản nhiên như cơn gió thoảng, nhưng
sự thực đâu có giản đơn. Đó là thái độ của những người lính luôn sẵn sàng tiến về phía trước để chi viện cho chiến
trường miền Nam, là tinh thần quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Đọc câu thơ của Phạm Tiến Duật, ta càng thêm thấm
thía con đường Trường Sơn huyền thoại, đã thấm bao mồ hôi xương máu của chiến sĩ ta.
Đánh giá
- Đánh giá những nét đặc sắc về nghệ thuật: Thể thơ tự do, ngôn ngữ và giọng điệu thơ tự nhiên, khỏe khoắn mang đậm
chất lính và cả cái tinh nghịch, ngang tàng của người lính trẻ. Đặc biệt sử dụng chất liệu hiện thực độc đáo cùng phép tu
từ điệp ngữ, so sánh...
- Nội dung: Khắc họa ấn tượng vẻ đẹp tự tin, hiên ngang, tinh thần lạc quan và thái độ bất chấp, coi thường hiểm nguy
của người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn rực lửa. Họ chính là hình ảnh tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam
thời kì chống Mĩ cứu nước.
- Liên hệ, mở rộng…

Đề 13
Viết bài văn trình bày cảm nhận về đoạn thơ sau:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
…………………
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay
Gợi ý
- Nêu vấn đề nghị luận: Những kí ức, những kỉ niệm tuổi thơ đói nghèo cơ cực nhưng ấm áp nghĩa tình
bà cháu.
- Vị trí khổ thơ
Cảm nhận
a. Bếp lửa khơi nguồn cho dòng hồi tưởng cảm xúc về bà
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa
- Điệp ngữ Một bếp lửa cùng với các từ láy chờn vờn, ấp iu tạo giọng điệu sâu lắng tâm tình, gợi lên hình ảnh
sống động, lung linh của bếp lửa gần gũi, thân thuộc trong mỗi gia đình người Việt Nam. Bếp lửa ấm áp giữa
cái lạnh của chờn vờn sương sớm thật thân thương với bao tình cảm nồng đượm khơi gợi nguồn cảm xúc.
- Hình ảnh bếp lửa rất tự nhiên khơi gợi sự liên tưởng đến người nhóm lửa, nhóm bếp, đến nỗi nhớ tình
thương với bà của đứa cháu đang ở xa Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
- Hình ảnh ẩn dụ nắng mưa đầy sức gợi. Đó không chỉ là hiện tượng của đất trời mà còn là hình ảnh diễn tả
thời gian trôi đi, vừa ẩn dụ cho những khó khăn, gian khổ mà bà đã trải qua. Trong lòng đứa cháu đi xa trào
dâng một cảm xúc thương bà mãnh liệt. Thương bà suốt tháng suốt năm lặng lẽ âm thầm. Chữ thương đi liền
với bà, hai thanh bằng đặt liền nhau tạo ra âm vang ngân dài, xao xuyến, như nỗi nhớ trải dài của người cháu
dành cho bà.
- Hình ảnh bếp lửa đã gợi cho người cháu nỗi nhớ bà, nhớ gia đình, nhớ quê hương, đất nước. Kỉ niệm về bếp
lửa, về bà rất giản dị nhưng cũng rất sâu sắc gần gũi trong đời sống tình cảm của con người. Tình yêu thương
bà chính là biểu hiện cụ thể của tình yêu thương gia đình, quê hương và đó là khởi đầu của tình người, tình
yêu đất nước.
b. Kí ức về những năm tháng ấu thơ bên bà
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi.
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy .
- Kỉ niệm của một thời ấu thơ bỗng sống lại thật mạnh, thật sâu, thành ấn tượng ám ảnh suốt cả cuộc đời. Đó là cả một
tuổi thơ nhọc nhằn, gian khổ, thiếu thốn bên bóng đen ghê rợn của nạn đói năm 1945:
+ Thành ngữ đói mòn đói mỏi và hình ảnh chọn lọc đầy sức tạo hình khô rạc ngựa gầy vừa phản ánh chân thực đời sống
vừa gợi hình dung, cảm nhận rõ về cái đói kéo dài, thê lương đầy khủng khiếp...
+ Trong hoàn cảnh chung ấy, cuộc sống của bà, của cháu cũng thật lao đạo Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy. Bà thì già,
cháu thì nhỏ, con ngựa cung gầy đến héo khô. Cách nói giàu hình ảnh, câu thơ đậm chất hiện thực đãtái hiện thật ấn
tượng về hình ảnh xóm làng xơ xác, về cuộc sống cơ cực, thương tâm, khốn khổ, đau xót.
- Không thể nào quên ấn tượng về cái đói nhưng đậm sâu hơn lại là ấn tượng về mùi khói:
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!
- Hình ảnh khói hun nhèm mắt rất chân thực và giàu sức gợi: Bếp lửa của rơm ra, của củi còn chưa kịp khô, khói nhiều,
cay mắt. Hình ảnh thơ còn mang ý nghĩa tượng trưng: sự thiếu thốn, khốn khó trong cuộc sống sinh nhai và tấm lòng
yêu thương vô bờ của bà dành cho cháu.
- Nghĩ về bà và kỉ niệm tuổi thơ nhiều cơ cực, bên bếp lửa khói hun nhèm mắt, người cháu xúc động, xót thương Nghĩ
lại đến giờ sống mũi con cay! Câu thơ đã thể hiện rất chân thực và xúc động niềm thương về tuổi thơ gian khó, niềm
thổn thức của người cháu khi nhớ về những năm tháng tuổi nhỏ bên người bà kính yêu, cồn cào nỗi nhớ thương bà.
- Hình ảnh bếp lửa và kí ức tuổi thơ gợi nhớ bằng trí tưởng tượng, bằng nhiều giác quan, khứu giác (sống mũi còn cay)
rồi xúc giác (hun nhèm mắt cháu). Tác giả hướng mọi giác quan để quay về sống lại kỉ niệm trong trí tưởng tượng.
Dường như không có khoảng cách của thời gian, mọi hình ảnh gắn với bếp lửa với tình bà được tái hiện chân thật, rõ
ràng từ một thời kí ức xa xôi.
Đánh giá
- Đoạn thơ có sự kết hợp giữa các phương thức biểu đạt: biểu cảm kết hợp tự sự, miêu tả. Giọng thơ hồi tưởng và đầy
chất suy ngẫm; cảm xúc mãnh liệt, dâng trào. Hình ảnh thơ vừa chân thực vừa giàu ý nghĩa biểu tượng.
- Hình ảnh bếp lửa đã khơi nguồn cho dòng hồi tưởng cảm xúc về bà và kí ức về những năm tháng ấu thơ bên bà. Tình
cảm bà cháu hiện ra bình. dị, gần gũi mà thiêng liêng cao quý.
- Liên hệ bản thân

Đề 14
Viết bài văn trình bày cảm nhận về đoạn thơ sau:
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa!
(Trích Bếp lửa, Bằng Việt, Ngữ văn 9, tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam 2015, trang 144)
Gợi ý:
- Nêu vấn đề nghị luận: Những suy ngẫm sâu sắc của tác giả về người bà và bếp lửa.
- Trích dẫn thơ.
- Vị trí khổ thơ
Cảm nhận
a. Suy ngẫm của cháu về bà, về công việc nhóm bếp của bà
- Từ những kỉ niệm hồi tưởng về tuổi thơ và bà, người cháu xúc động bày tỏ suy ngẫm về cuộc đời, về lẽ sống
của bà: Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa / Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ /Bà vẫn giữ thói quen dậy
sớm
+ Từ láy tượng hình lận đận và hình ảnh ẩn dụ nắng mưa gợi ra cuộc đời gian nan, vất vả của bà.
+Cụm từ mấy chục năm kết hợp với phó từ tận, vẫn vừa chỉ thời gian dài vừa tái hiện hình ảnh bà suốt một
đời vất vả, tần tảo, hi sinh, chăm lo cho mọi người. Mấy chục năm ròng, đến tận bây giờ bà vẫn giữ thói quen
dậy sớm, vẫn làm công việc quen thuộc là nhóm lửa. Hình ảnh của bà cũng là hình ảnh của bao người phụ nữ
Việt Nam giàu đức hi sinh, dù gian truân vất vả vẫn ngời sáng tình yêu thương.
- Bà tần tảo, chịu thương chịu khó, lặng lẽ hi sinh cả một đời vì con vì cháu: Nhóm bếp lửa ấp iu nồng
đượm /Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi /Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui/Nhóm dậy cả những
tâm tình tuổi nhỏ
- Điệp ngữ Nhóm không chỉ diễn tả sự khéo léo làm cho lửa và chất đốt bén vào nhau, cháy lên mà còn gợi sự
chi chút của tấm lòng người bà.
Mỗi lần vang lên, điệp ngữ ấy lại mang một ý nghĩa khác nhau:
+Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm: Gợi hình ảnh ngọn lửa thực, gợi công việc quen thuộc, thường ngày mà bà
làm trong mấy chục năm trời. Và còn gợi đôi bàn tay khéo léo, tấm lòng chi chút của người nhóm lửa.
+ Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi: Không chỉ gợi hình ảnh bếp lửa thực để luộc khoai, luộc sắn mà
còn mang nghĩa ẩn dụ tượng trưng cho tình yêu thương, sự đùm bọc mà bà dành cho cháu ngay cả khi cuộc
sống muôn vàn khó khăn. Bà đã truyền hơi ấm tình người, khơi dậy trong tâm hồn cháu tình yêu thương ruột
thịt.
+ Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui vừa hiểu theo nghĩa thực là nồi xôi gạo mới bà nấu để duy trì sự sống,
vừa là niềm vui, sự sẻ chia, vừa khơi dậy tình làng nghĩa xóm. Nhờ bếp lửa của bà mà cháu biết mở rộng tấm
lòng với mọi người, biết đoàn kết, gắn bó với xóm làng, quê hương, đất nước. .
+ Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ: Từ hình ảnh bếp lửa, bà đã khơi dậy cả những kí ức, những kỉ niệm
tuổi ấu thơ trong cháu để cháu luôn nhớ về nó cũng có nghĩa là nhớ về cội nguồn, nhớ về đất nước quê hương,
nhớ về dân tộc mình.
- Bà không chỉ là người nhóm lửa mà còn là người giữ lửa, truyền lửa - ngọn lửa của sự sống, của niềm tin
cho các thế hệ nối tiếp. Cũng nhờ ngọn lửa lòng bà mà cháu đã đủ nghị lực để vượt qua gian khó, để trưởng
thành.
- Hình ảnh bếp lửa đơn sơ, giản dị đã mang ý nghĩa khái quát trở thành ngọn lửa trong trái tim, một ngọn lửa
ẩn chứa niềm tin và sức sống của mỗi con người.
b. Suy ngẫm về hình ảnh bếp lửa
Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa!
- Câu thơ cảm thán với cấu trúc đảo thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng như một khám phá về một điều kì diệu
giữa cuộc đời bình dị. Đó còn là một điều chiêm nghiệm sâu sắc, thấm thía về ý nghĩa của những gì thân thiết,
gắn bó với tuổi thơ mỗi người. Bếp lửa là tình bà ấm nóng. Bếp lửa là tay bà chăm chút. Bếp lửa gắn với
những gian khổ đời bà. Ngày ngày bà nhóm lên bếp lửa cũng là nhóm lên niềm vui, sự sống, tình yêu thương.
Từ bếp lửa của bà cháu nhận ra cả một niềm tin về ngày mai, cháu hiểu được linh hồn của một dân tộc vất vả,
gian lao mà tình nghĩa.
- Bếp lửa luôn đi cùng hình ảnh người bà – người phụ nữ Việt Nam tần tảo, nhẫn nại, yêu thương, giàu đức hi
sinh.
- Bếp lửa và hình ảnh người bà thân yêu đã trở thành một mảnh tâm hồn, một phần kí ức không thể thiếu trong
đời sống tinh thần của cháu. Bởi vậy mà bếp lửa thật kì lạ và thiêng liêng.
Đánh giá
- Đoạn thơ có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm với tự sự, miêu tả và bình luận. Thể thơ tám chữ kết
hợp với bảy chữ, chín chữ. Giọng điệu thủ thỉ, tâm tình phù hợp với việc diễn tả dòng cảm xúc và suy ngẫm.
Hình ảnh thơ sáng tạo: bếp lửa - hình ảnh vừa thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng.
- Đoạn thơ ca ngợi đức hi sinh, sự tảo tần, tình yêu thương bao la của bà đồng thời bộc lộ nỗi thương nhớ,
lòng kính yêu, sự cảm phục và biết ơn sâu sắc cháu dành cho bà.
- Liên hệ.
Đề 15
Viết bài văn trình bày cảm nhận về khổ thơ sau:
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
(Trích Sang thu, Hữu Thỉnh, Ngữ Văn 9, tập 2,
NXB Giáo dục Việt Nam 2015, trang 70)
- Nêu vấn đề nghị luận: Cảm xúc của thi nhân về vẻ đẹp của bức tranh thu qua những tín hiệu báo thu sang.
- Trích dẫn thơ.
- Vị trí khổ thơ: Khổ thơ trên nằm ở đầu bài thơ thể hiện cảm xúc ban đầu của nhà thơ trước những tín hiệu
báo thu sang.
Cảm nhận
a. Tín hiệu báo thu về
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chúng chình qua ngõ
- Nhà thơ Hữu Thỉnh cảm nhận về mùa thu bắt đầu bằng hương ổi. Hương vị ấy đơn sơ, mộc mạc, đồng nội,
rất quen thuộc của quê hương.
- Hình ảnh gió se là làn gió nhẹ, mang chút hơi lạnh đầu thu, còn được gọi là gió heo may. Ngọn gió se se
lạnh, se se thổi, thổi vào cảnh vật, thổi vào lòng người một cảm giác mơn man, xao xuyến. Mùi hương ổi kết
hợp với gió se tạo nên một bức tranh thu đặc trưng của đồng bằng Bắc Bộ.
Động từ phả thể hiện mùi hương ổi ở độ đậm nhất, thơm nồng quyến rũ, sánh lại, đậm đặc hoà vào gió heo
may của mùa thu lan toả khắp không gian...
- Hình ảnh làn sương chùng chình: Nghệ thuật nhân hóa kết hợp với từ láy chùng chình gợi ra những màn
sương nhỏ, mỏng, mềm mại, như “cố ý chậm lại, thong thả giăng mắc nhẹ nhàng đường thôn ngõ xóm làng
quê. Nó làm cho khí thu mát mẻ, cảnh thu thơ mộng, bình yên, huyền ảo.
- Mùi hương ổi, một làn sương, chút gió se là những sự vật gần gũi làm nên những đường nét riêng của bức
tranh mùa thu ở đồng bằng Bắc Bộ.
Tất cả những tín hiệu thu ấy đến với tác giả nhẹ nhàng mà đột ngột quá, thu về với đất trời quê hương, với
lòng người mà không hề báo trước.
b. Cảm xúc của thi nhân.
- Phút nhận ra khoảnh khắc sang thu thật bất ngờ: Bỗng nhận ra. Từ bỗng được reo lên trong niềm ngỡ ngàng,
ngạc nhiên.
- Bằng sự tinh tế của các giác quan, thi nhân đã chợt nhận ra dấu hiệu của thiên nhiên khi mùa thu về.
- Có hương ổi, có gió se và sương. Mùa thu đã về trên quê mà sao thi nhân vẫn còn dè dặt:
Hình như thu đã về
- Hình như là một thành phần tình thái diễn đạt ý chưa thật rõ, chưa chắc chắn, có chút nghi hoặc. Phút giây
giao mùa nhìn thấy rồi, cảm thấy rồi mà sao nhà thơ vẫn bối rối Hình như. Vì sao? Có thể vì tín hiệu mùa thu
nhà thơ quan sát được mơ hồ quá? Hay chính tâm hồn thi sĩ chưa kịp sẵn sàng để đón nhận sự đổi thay của tạo
vật?
- Từ Hình như hài hòa, hô ứng với từ Bống ở đâu khổ thơ đã diễn tả cảm giác bối rối, mơ hồ, bâng khuâng của
thi nhân vào phút nhận ra khoảnh khắc thu sang.
- Bức tranh thu không phải chỉ cảm nhận bằng giác quan mà bằng tâm hồn nữa.
3. Đánh giá
- Khổ thơ viết bằng thể thơ năm chữ, có nhiều hình ảnh đẹp, trong sáng, gợi cảm. Giọng thơ êm ái, chậm rãi
và nhẹ nhàng.
- Đoạn thơ là những cảm nhận về sự biến đổi nhẹ nhàng mà rõ rệt mang vẻ đẹp đặc trưng của bức tranh thu ở
làng quê Bắc Bộ.
- Liên hệ bản thân
Đề 16
Viết bài văn trình bày cảm nhận về khổ thơ sau:
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
(Trích Sang thu, Hữu Thỉnh, Ngữ Văn 9, tập 2,
NXB Giáo dục Việt Nam 2015, trang 70)
- Nêu vấn đề nghị luận: Cảm xúc của nhà thơ trước sự biến chuyển của cảnh vật, đất trời lúc sang thu.
- Trích dẫn thơ.
- Vị trí của khổ thơ trong bài (Khổ thơ thứ hai)
Cảm nhận
a. Những chuyển động của cảnh vật lúc sang thu
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
- Hình ảnh của dòng sông được nhân hóa Sông dềnh dàng. Dòng sông êm đềm, thướt tha mềm mại, hiền hòa
trôi một cách nhàn hạ, thanh thản khác hẳn với dòng chảy cuồn cuộn, gấp gáp, dữ dội trong những ngày mưa
lũ mùa hạ, gợi nên vẻ đẹp êm dịu của bức tranh thiên nhiên mùa thu. Cái dềnh dàng của dòng sông không chỉ
gợi ra vẻ êm dịu của bức tranh thiên nhiên mùa thu mà còn mang đầy tâm trạng của con người như chậm lại,
như trễ nải, như ngẫm ngợi nghĩ suy về những trải nghiệm trong cuộc đời.
- Tương phản với hình ảnh Sông dềnh dàng là sự gấp gáp, vội vàng của những cánh chim bắt đầu vội vã. Thu
sang, khí trời se se lạnh, trên bầu trời trong xanh, cao rộng, những cánh chim chiều bắt đầu vội vã tìm nơi trú
ngụ. Không gian trở nên xôn xao, không có âm thanh nhưng câu thơ lại gợi được cái động.
- Hình ảnh thơ chân thực, bình dị, hai câu thơ đối rất nhịp nhàng, kết hợp với từ láy dềnh dàng, vội vã nhà thơ
đã dựng lên hai hình ảnh đối lập nhau: sông dưới mặt đất và chim trên bầu trời: sông dềnh dàng, chậm rãi;
chim vội vã, lo lắng. Đó chính là sự khác biệt của vạn vật trên cao và dưới thấp lúc giao mùa - thời điểm giao
thoa của muôn loài, muôn vật. Cả hai câu thơ là đặc trưng cho mùa thu ở vào lúc khởi đầu. Song nó không
phẳng lặng, trôi xuôi êm đềm như cái nhìn trước đây của những bậc tạo nhân mặc khách. Đó là cái nhìn vừa
đặc trưng vừa hiện đại.
b. Hình ảnh bầu trời mùa thu
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.
- Nhà thơ cảm nhận thấy đám mây cũng như có sự phân chia cái ranh giới vô cùng mong manh trên bầu trời
Vắt nửa mình sang thu,
- Động từ Vắt để gợi ra trong thời điểm giao mùa, đám mây như kéo dài ra, nhẹ trôi như tấm lụa mềm treo lơ
lửng giữa bầu trời trong xanh, cao rộng. Hình như đám mây đó vẫn còn lại một vài tia nắng ấm của mùa hạ
nên mới Vắt nửa mình sang thu. Đám mây vắt lên cái ranh giới mỏng manh và ngày càng bé dần, bé dần đi rồi
đến một lúc nào đó không còn nữa, để cả đám mây mùa hạ hoàn toàn nhuốm màu sắc thu. Hình ảnh đám mây
mùa hạ là hình ảnh đẹp gợi nhiều liên tưởng độc đáo. Có lẽ, đây là hai câu thơ hay nhất trong sự tìm tòi, khám
phá của Hữu Thỉnh vào khoảnh khắc giao mùa. Nó như một bức tranh thu vĩnh hằng tạc bằng ngôn ngữ.
- Dòng sông, cánh chim, đám mây đều được nhân hóa khiến cho bức tranh thu trở nên hữu tình, chứa chan thi
vị. Cả ba hình ảnh trên là tín hiệu của mùa thu sang còn vương lại một chút gì của cuối hạ. Nhà thơ đã mở
rộng tầm quan sát lên chiều cao (cánh chim), chiều rộng (máy) và chiều dài (dòng sông). Qua cách cảm nhận
ấy, ta thấy Hữu Thỉnh có một hồn thơ nhạy cảm,yêu thiên nhiên tha thiết, một trí tưởng tượng bay bổng.
3. Đánh giá
- Khổ thơ viết bằng thể thơ năm chữ, có nhiều hình ảnh đẹp, trong sáng, gợi cảm.
+ Sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa
+Hình ảnh thơ bình dị, gần gũi, thân thuộc
+ Giọng thơ nhẹ nhàng, trầm lắng, dịu ngọt
- Một bức tranh thiên nhiên lúc sang thu tuyệt đẹp, ngọt ngào và thi vị.
- Liên hệ bản thân: tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương, đất nước,...
ĐỀ 16.
Viết bài văn cảm nhận về vẻ đẹp của khổ thơ:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
(Trích Đoàn thuyền đánh cá, Huy Cận, Ngữ văn 9, tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam 2015, trang 139)
- Nêu vấn đề nghị luận: Hai khổ thơ đầu ta sẽ cảm nhận trọn vẹn vẻ đẹp của cảnh đoàn thuyền đánh cá
ra khơi khi hoàng hôn buông xuống dưới ngòi bút tài hoa của thi nhân.
- Vị trí khổ thơ:Đây là khổ thơ đầu tiên của bài thơ, thi sĩ đã tái hiện chân thực, sinh động cảnh hoàng hôn trên
biển cùng với hoạt động của con người ra khơi.
- Đánh giá: Có thể đánh giá đây là khổ thơ hay nhất, góp phần không nhỏ trong việc làm toả sáng nội dung và
chủ đề tác phẩm.
Cảm nhận
LĐ1. Bức tranh hoàng hôn trên biển rực rỡ, tráng lệ.
Trước hết thi sĩ đã giúp ta cảm nhận trọn vẹn bức tranh hoàng hôn trên biển rực rỡ, tráng lệ.
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
- Cảnh thiên nhiên vừa lộng lẫy, tráng lệ vừa gần gũi, ấm áp được dựng tả qua ngòi bút phóng khoáng của
Huy Cận. Cảnh biển vào đêm vừa rộng lớn lại vừa gần gũi với con người.
- Đọc hai câu thơ, ta thấy cách nói "Mặt trời xuống biển như hòn lửa" đã hé mở điểm nhìn của nhà thơ. Như
vậy tác giả đã hoá thân vào những người ngư dân, cảm nhận được sự khó khăn vất vả của người ngư dân.
Điểm nhìn của nhà thơ là điểm nhìn của người trong cuộc.
- Trong cảm hứng dạt dào về thiên nhiên, Huy Cận có một hình ảnh so sánh độc đáo"mặt trời" như" hòn lửa"
. Trong cái nhìn của nhà thơ mặt trời được thu bé lại trở nên gần gũi và ấm áp.
-Nghệ thuật so sánh và nhân hóa "mặt trời xuống biển" tựa như quả cầu lửa khổng lồ đang từ từ lặn xuống
biển khơi đã khiến cảnh vật thiên nhiên trở nên sinh động hùng vĩ huyền ảo. Đây là một quan sát rất tinh tế, so
sánh rất chính xác, tạo nên sự tương phản màu sắc và có sức gợi mạnh mẽ về không gian.Cảnh hoàng hôn trên
biển lúc này tràn ngập sự sống rực rỡ, mất đi cảm giác lạnh lẽo , cô đơn.
- Bên cạnh phép so sánh độc đáo ngòi bút nhân hoá tài ba của Huy Cận đã góp phần thổi hồn vào thiên nhiên,
vũ trụ khi trao cho "sóng" và "đêm" những hoạt động của con người " Sóng đã cài then, đêm sập cửa".
- Ngoài ra,câu thơ "Sóng đã cài then, đêm sập cửa" còn là một cặp nhân hóa có cấu trúc tiểu đối gợi cho
chúng ta nhiều ấn tượng thú vị mới lạ về vũ trụ, nó hiện ra như một ngôi nhà lớn mà màn đêm buông xuống là
tấm cửa khổng lồ và những lượn sóng là tấm cài then. Khi cánh cửa màn đêm khép lại, những con sóng là
những chiếc then đã cài cửa, con người rời ngôi nhà của mình lại bước tới vào căn nhà vũ trụ. Giờ đây,thiên
nhiên không còn bí ẩn xa lạ mà trở nên thật gần gũi với con người.
- Không có sự quan sát tinh tế, nhà thơ không thể miêu tả chính xác đến vậy. Đây là câu thơ của lòng mến
yêu vũ trụ và niềm tin yêu với cuộc đời.
b. Đoàn thuyền đánh cá ra khơi với không khí đầy hứng khởi.
- Trong cảnh hoàng hôn tráng lệ, người dân biển bắt đầu một chuyến ra khơi. Khi thiên nhiên bước vào trạng
thái nghỉ ngơi là lúc con người bắt đầu một công cuộc lao động mới. Đoàn thuyền đánh cá ra khơi với
không khí đầy hứng khởi
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
- Cụm từ" lại ra khơi " cho ta hiểu đây là hoạt động, công việc hàng ngày, thường xuyên của những người
dân biển nơi đây. Đó không phải là tiếng thở dài nặng nề mà là tiếng reo vui náo nức của con người yêu lao
động, tìm thấy niềm vui, háo hứng và hi vọng trong công việc.
- Trí tưởng tượng phong phú của Huy Cận tạo ra một hình ảnh mới lạ từ sự gắn kết của ba sự vật hiện
tượng:Câu hát , buồm, gió khơi tác giả đã cảm nhận được sức mạnh kì diệu của câu hát " Câu hát căng buồm
cùng gió khơi". Câu hát của ngư dân Hạ Long như một sức mạnh vật chất cùng gió làm cho cánh buồm đưa
thuyền lướt sóng ra khơi. Câu hát ấy tạo nên sức mạnh tinh thần giúp cho cánh buồm không chỉ no gió mà còn
no tiếng hát.
- Trong câu thơ Huy Cận "câu hát" chính là hình ảnh ẩn dụ cho niềm vui, sự phấn chấn của người lao động.
- Thủ pháp nhân hóa, lối nói cường điệu (Câu hát căng buồm) diễn tả vẻ đẹp khỏe khoắn như có hình khối từ
câu hát của người dân chài. Tiếng hát ấy làm căng buồm đưa đoàn thuyền ra khơi, đã tạo nên một không khí
vui tươi, tràn đầy hi vọng của những người lao động trên biển. Đó là tiếng hát chan chứa niềm vui của người
lao động được làm chủ thiên nhiên, đất nước.
- Khí thế hăm hở, hào hứng khi ra khơi của đoàn thuyền đánh cá xuất phát từ lòng hăng say lao động, sự tự tin
và niềm vui được làm chủ của con người trong thời đại mới. Sự hài hoà ấy tinh tế và thật đẹp trong bài thơ.
3. Đánh giá
- Nghệ thuật là yếu tố không nhỏ góp phần làm nên thành công của tác phẩm.Sử dụng nhiều biện pháp tu từ
với sức liên tưởng độc đáo, thú vị; giọng thơ hào sảng, cách nói khoa trương.
- Hình ảnh thiên nhiên kì vĩ, lãng mạn.
- Bức tranh hoàng hôn trên biển rực rỡ, tráng lệ và cảnh đoàn thuyền ra khơi với không khí đầy hứng khởi.
Qua đó khắc họa hình ảnh con người lao động mới với niềm vui, niềm tin yêu tha thiết vào cuộc đời.
- Liên hệ...

Đề 17Viết bài văn cảm nhận về khổ thơ sau:


Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận dưới vây giăng.
(Trích Đoàn thuyền đánh cá, Huy Cận, Ngữ văn 9, tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam 2015, trang 140)
- Nêu vấn đề nghị luận: Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển trong một đêm trăng.
- Trích dẫn thơ
1. Khái quát
- Vị trí khổ thơ. Nếu những khổ thơ trước thi sĩ đã làm nổi bật tâm trạng phấn khởi hào hứng của những ngư
dân ra khơi trong cảnh hoàng hôn tuyệt đẹp thì đây là khổ thơ thứ ba, tác giả lại tập trung làm nổi bật vẻ đẹp
thơ mộng, lãng mạn của con thuyền và tinh thần hăng say lao động của ngư dân.
2. Cảm nhận
a. Đọc thơ như thấy trước mắt ta hiện lên hình ảnh kì vĩ lớn lao, lãng mạn của đoàn thuyền đánh cá
trên biển trong đêm trăng:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Đây có thể coi là hai câu thơ hay nhất làm nổi bật hình ảnh con thuyền, đoàn thuyền trong hành trình ra khơi.
Cả vũ trụ từ gió , trăng, mây đều bị cuốn vào đoàn thuyền. Đoàn thuyền như đi trong sự nâng đỡ, bao bọc đầy
gắn bó của thiên nhiên, vũ trụ.
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
+ Đại từ ta trong Thuyền ta gợi lên niềm tự hào và không khí làm ăn tập thể của thời kì đầu đi lên Chủ nghĩa
xã hội.
+ Hình ảnh ẩn dụ lái gió và buồm trăng vừa tả thực gió biển thổi mạnh và vầng trăng khuyết hình cánh buồm,
vừa cho ta thấy liên tưởng thú vị thể hiện nét tài hoa của nhà thơ: Con thuyền có gió làm lái, có trăng làm
buồm, thênh thang lướt giữa mây cao biển bằng. Đoàn thuyền lướt đi trong đêm không chỉ bằng sức mạnh của
gió, trăng. Cánh buồm căng gió dưới trăng sáng như hoá thành một vầng trăng nhỏ nữa trên mặt biển bao la.
Đoàn thuyền trở thành đoàn tàu vũ trụ có khi lướt trên mặt biển, có khi lại bay lên không trung, khiến con
thuyền trở thành con thuyền thơ, con thuyền cõi mộng. Không đối lập, thiên nhiên hòa hợp với con người, lao
động cùng con người. Trong sự hòa hợp đó, vẻ đẹp và sức mạnh của con người càng trở nên nổi bật.
Lướt giữa mây cao với biển bằng
+ Động từ "lướt " đã vé lên tư thế rất đẹp của con thuyền, nó vừa gợi tả vận tốc nhanh, đồng thời cho thấy tư
thế chinh phục, làm chủ và sức mạnh tràn đầy của người lao động.
+ Không chỉ dừng lại ở đó , tác giả đã sử dụng thành công nghệ thuật đối: mây cao với biển bằng nhà thơ đã
hé mở mối quan hệ giữa con người và vũ trụ. Biện pháp nghệ thuật này vừa làm nên nhịp điệu cân đối nhẹ
nhàng cho câu thơ vừa gợi ra không gian rộng lớn, bao la, hùng vĩ cùng sựgắn bó hoà hợp giữa đoàn thuyền
đánh cá và thiên nhiên biển trời.
- Giọng thơ hào sảng, cách nói có phần khoa trương đã làm bật lên hình ảnh con thuyền kì vĩ, lãng mạn. Con
thuyền là trung tâm của bức tranh biển khơi, làm chủ biển khơi.
b. Đằng sau vẻ đẹp của con thuyền là mục đích của chuyến ra khơi, tư thế làm chủ biển khơi của người lao
động.
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận dưới vây giăng.
+ Với trí tưởng tượng phong phú,tinh tế nhà thơ đã khéo léo sử dụng từ "Ra đậu dặm xa" thể hiện sự khát
khao khám phá mạnh mẽ chinh phục biển cả của ngư dân. Ngư trường là vùng biển xa bờ, nhiều hải sản và ẩn
chứa bao bí mật.
+ động từ" dò" trong" dòbụng biển" được nhà thơ dùng thật hay, thật đẹp, gợi cảm, chính xác. Thể hiện kinh
nghiệm chỉ có ở ngư dân, yêu gắn bó với công việc thì mới đoán được đâu là bụng biển, đâu là rốn cá..
Nghệ thuật nhân hóa còn được sử dụng qua " bụng biển" Biển đông rộng lớn mênh mông bỗng trở nên gần
gũi, ấm áp giàu sức sống. Biển cả là người mẹ vĩ đại để che chở, để bao bọc cho đàn con của mình
Sau khi xác định được vị trí thả lưới, đã đến lúc ngư dân lao động thể hiện tinh thần" hợp đồng tác chiến"-
Dàn đan thế trận dưới vây giăng.
+ Các hoạt động phục vụ cho việc đánh bắt cá được hình dung như thể chuẩn bị cho một cuộc chiến "Dàn
đan thế trận".và dụng cụ đánh bắt cá biến thành vũ khí" Lưới vây giăng".Công việc đánh cá trên biển Đông là
một mặt trận, ngư trường là chiến trường, lưới là vũ khí, ngư dân là những chiến sĩ, việc đánh bắt cá trở thành
công cuộc chinh phục biển khơi.
- Các động từ ra, đậu, dò, dàn đan, vây giăng được dùng chính xác, kết hợp nhịp thơ và vần điệu chắc khỏe
đã dựng lại được không khí một trận đánh lớn, Khoảnh khắc thả neo, buông lưới thật mạnh mẽ, khẩn
trương.Tác giả đã nâng tầm mục đích ra khơi của đoàn thuyền: không chỉ còn là đánh bắt cá mà còn là thám
hiểm, cao hơn nữa là chinh phục biển khơi, khai thác nguồn tài nguyên, chinh phục đất nước.
- Với hai câu thơ, thi sĩ đã tái hiện chân thực, sinh động công việc quen thuộc của ngư dân đi biển, làm nổi bật
tinh thần đoàn kết. từ đó giúp ta thêm hiểu và đồng cảm với khó khăn vất vả của lao động miền biển.
Đánh giá
+ Nghệ thuật là một trong yếu tố quan trọng làm nổi bật vẻ đẹp của đoạn thơ. Sử dụng nhiều biện pháp tu từ
với sức liên tưởng độc đáo, thú vị; giọng thơ hào sảng, cách nói khoa trương.
+ Hình ảnh con thuyền kì vĩ, lãng mạn, làm chủ biển khơi.
+ Khắc họa hình ảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển tròn một đêm trăng. Qua đó khắc họa hình ảnh con người
lao động trong thời kì mới.
- Liên hệ...
Đề 18
Viết bài văn cảm nhận về khổ thơ sau:
Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đèn hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe,
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
(Trích Đoàn thuyền đánh cá, Huy Cận, Ngữ văn 9, tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam 2015, trang 140)
- Nêu vấn đề nghị luận: Vẻ đẹp và sức sống của biển đêm thông qua hình ảnh các loài cá.
- Vị trí khổ thơ. Nếu như ở các khổ thơ trước tác giả khắc hoạ cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá với niềm say
sưa, lạc quan tin tưởng của người dân chài cùng vẻ đẹp thơ mộng, lãng mạn của con thuyền và tinh thần hăng
say lao động của ngư dân thì đây là khổ thơ thứ 4 tác giả đã vẻ đẹp và sức sống của biển đêm thông qua hình
ảnh các loài cá.
2. Cảm nhận
a. Nối tiếp cảm hứng tự hào của các khổ thơ trước, Huy Cận đã cất cao tiếng hát ca ngợi sự giàu có của biển
đêm với những vần thơ tuyệt đẹp. Vẻ đẹp và sự giàu có của biển đêm hiện lên qua hình ảnh các loài cá.
Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đèn hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe,
- Thủ pháp liệt kê kết hợp với sự phối sắc tài tình qua việc sử dụng các tính từ chỉ màu sắc đen hồng, vàng
chóe... đã tạo nên một bức tranh sơn mài nhiều màu sắc, ánh sáng, lung linh huyền ảo như trong câu chuyện
cổ tích nói về xứ sở thần tiên.
- Rất nhiều loài cá quý được liệt kê, mỗi loài cá là một kiểu dáng, một màu sắc: Cá nhụ cá chim cùng cá đé/
Cá song lấp lánh đuốc đèn hồng làm nên sự giàu đẹp của biển cả quê hương, như có một rước đuốc trong lòng
biển thẳm. Và đẹp nhất là hình ảnh cá song, toàn thân nó như một bó đuốc lung linh trong đêm, sắc đen và
hồng vừa đối lập nhau vừa quấn quýt, đan bện vào nhau trong sự chuyển động nhịp nhàng.
- Sinh động nhất là lúc đuôi cá quẫy làm cho bóng trăng vàng tung tóe, gợi cảm giác về sắc vàng càng vàng
hơn: vàng chóe.
- Thủ pháp nhân hóa, tiếng em thân thương trìu mến đã biến cá thành những nàng tiên của biển cả. Mỗi khi:
Cái đuôi em quẫy, trăng như vàng hơn, rực rỡ hơn, biển cả như sống động hẳn lên.
- Mỗi loài cá ở đây là bức họa thần tình, chúng đâu chỉ là sản phẩm vô tri được đánh bắt bởi bàn tay con
người. Với họ - những người ngư dân này – cá là bạn, là em, là niềm cảm hứng cho con người trong lao động
và cũng chính là đối tượng thẩm mĩ cho thi ca.
b. Không chỉ là sự giàu có của biển đêm , khổ thơ còn tái hiện sinh động sức sống của thiên nhiên,vũ trụ
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
- Bằng nghệ thuật ẩn dụ kết hợp nhân hóa, biển cả như một sinh thể sống động. Biển đêm trong tưởng tượng
của nhà thơ là một sinh vật đại dương khổng lồ. Nhịp thở của nó là từng đợt sóng vỗ. Còn những bóng sao in
trên mặt nước như trăm ngàn chú bé tinh nghịch đang lùa nước Hạ Long. Sóng lóng lánh ánh bạc, cảnh biển
đem mà không tối, rực rỡ sắc màu của cá và lấp lánh ánh sao.
- Thật ra là sóng biển đu dưa, rì rào va đập vào mạn thuyền. Trăng, sao phản chiếu ánh sáng xuống nước biển,
mỗi khi sóng vỗ nhịp tưởng như có bàn tay của sao trời đang lùa nước Hạ Long.
- Sự độc đáo, mới lạ trong sáng tạo nghệ thuật tạo nên hình ảnh thơ kì diệu, lung linh và huyền ảo.
3. Đánh giá
+ Sử dụng nhiều biện pháp tu từ với sức liên tưởng độc đáo, thú vị; giọng thơ hào sảng, cách nói khoa trương.
+ Khắc họa vẻ đẹp và sức sống của biển đêm.
+Khổ thơ đã giúp người đọc hình dung được không khí lao động. Qua đó khắc họa hình ảnh con người lao
động trong thời kì mới.
- Liên hệ...
Đề 19 .Viết bài văn trình bày cảm nhận của em về đoạn thơ sau:
“Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.

Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng,


Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.

Câu hát căng buồm với gió khơi,


Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới,
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”.
(Trích Ngữ văn 9, tập 1 NXB Giáo dục Việt Nam, 2015, trang 140)

- Giới thiệu đoạn thơ: Vẻ đẹp của biển khơi, của con thuyền, khí thế lao động hăng say con người trên
biển đêm; đoàn thuyền đánh cá trở về trong niềm vui viên mãn.
- Vị trí đoạn thơ: Đọan thơ là 3 khổ cuối của bài thơ ca ngợi vẻ đẹp của con người lao động trên biển khơi và
cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về.
2. Cảm nhận:
a. Cảnh đánh cá trong đêm:(Khổ 5)
Cảnh đánh cá trên biển đêm thật lãng mạn và thú vị:
Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
+Chủ động làm việc với tinh thần phấn khởi, hào hứng, thiên nhiên cũng hòa hợp nhịp nhàng…
+ Hình ảnh nhân hóa “Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao”, động từ “gõ” với thanh trắc, đứng đầu câu nhấn mạnh
niềm say mê, niềm vui sống, tình yêu thiên nhiên, yêu lao động của người dân chài vùng quê biển.
-Hình ảnh so sánh “biển” với “lòng mẹ” -> làm nổi bật sự bao la, gần gũi, độ lượng của biển đối với con
người.
b. Cảnh kéo lưới:(Khổ 6)
- Cảnh kéo lưới được nhà thơ miêu tả bằng những chi tiết rất thực, giàu chất tạo hình:
Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
+ “Ta kéo xoăn tay” ->giàu sức gợi, gợi tả thân mình khỏe mạnh, vạm vỡ, lực lưỡng của con người “ăn sóng
nói gió”. Gợi tả tinh thần lao động hăng say, khẩn trương của người dân làng chài, báo hiệu thành quả lao
động tốt đẹp.
- Công việc của người lao động lại được kết thúc bằng những hình ảnh rất lãng mạn:
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.
+Kết quả của những mẻ lưới là khoang thuyền đầy ắp cá, ánh bạc của vẩy cá, màu vàng của đuôi cá hòa vào
nhau như bừng sáng lên những tia nắng đầu tiên của ngày mới.
+Tác giả liên tưởng tới hình ảnh màu sắc của cá như những tia nắng ban mai thắp sáng làm lóe lên rạng
đông.Hình ảnh ẩn dụ lãng mạn
-> tô đậm thành quả lao động.
+Nhịp thơ 2/2/3 với một loạt những động từ nối tiếp, những danh từ đảo lên trước động từ…gợi cảm nhận về
sự nhịp nhàng, khỏe khoắn diễn tả công việc đang nối tiếp nhau rất khẩn trương, hối hả.
+ Hình ảnh “đón nắng hồng” cùng thanh bằng ở cuối câu thơ-> gợi sự trọn vẹn, viên mãn diễn tả rất tinh tế
cảm giác nhẹ nhõm, thanh thản của người lao động sau chuyến đi vất vả.
c. Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về: (Khổ 7)
Câu hát căng buồm với gió khơi
- Hình ảnh “câu hát căng buồm” lặp lại như một điệp khúc-> nổi bật không khí lao động sôi nổi, niềm vui bất
tận của con người làm chủ mới.
+Từ “với” -> nhấn mạnh, tô đậm hơn vóc dáng lớn lao và tư thế chủ động của con người.
+ Hình ảnh nhân hóa “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời” -> vừa gần gũi, lớn lao kì vĩ, cách nói khoa
trương đã diễn tả hình ảnh đẹp đẽ cùng khí thế khẩn trương của đoàn thuyền đánh cá lúc trở về.
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
-Cảnh tượng huy hoàng rực rỡ:
+ Hình ảnh nhân hóa “mặt trời đội biển” thật đẹp,…Đặt trong mối quan hệ với hình ảnh mở đầu bài thơ “mặt
trời xuống biển” -> tạo đối xứng, hài hòa tạo sự liến kết chặt chẽ với các hình ảnh thơ.
+ Trong khoang thuyền muôn nghìn mắt cá phản chiếu ánh mặt trời. Sự đối lập giữa “mắt cá” bé nhỏ -sự lớn
lao “muôn dặm phơi” -> tô đậm mạnh mẽ và kỳ diệu thành quả lao động với cuộc sống của con người.
+ Vần chân và những thanh bằng cuối câu thơ -> gợi tâm trạng sảng khoái, thanh thản khiến cho câu thơ như
bay lên phơi phới hòa cùng niềm vui trọn vẹn của con người.
3. Đánh giá:
-Sử dụng nhiều biện pháp tu từ với sức liên tưởng độc đáo, thú vị, giọng thơ hào sảng, cách nói khoa trương.
- Ca ngợi vẻ đẹp hùng vĩ, thơ mộng của biển khơi – hài hòa với con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự
hào của nhà thơ về đất nước và cuộc sống.
- Liên hệ, mở rộng đề tài
- Liên hệ bản thân …
Đề 20 .Viết bài văn trình bày cảm nhận của em về vẻ đẹp của người chiến sĩ lái xe trong hai khổ thơ
sau:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội.
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi.

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời


Chung bát đũa nghĩa là gia đình ấy.
Võng lắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại di, trời xanh thêm.
(Phạm Tiến Duật, Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Ngữ văn 9, tập 1, NXB Giáo dục )
Gợi ý:
- Nêu vấn đề nghị luận: Ấn tượng về hình ảnh người chiến sĩ lái xe trong đoạn thơ (tình đồng chí đồng đội và
ý chí quyết tâm chiến đấu giải phóng miền Nam)
- Vị trí của khổ thơ trong mạch cảm xúc của bài thơ.
2. Cảm nhận:
a. Hình ảnh những người lính lái xe với vẻ đẹp của tình đồng chí đồng đội keo sơn thắm thiết.
- Trong những khoảnh khắc của chiến tranh, giữa sự sống và cái chết, những người lính từ những miền quê
khác nhau cùng chung một nhiệm vụ, cùng chung lí tưởng đã gặp nhau:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi
+ Hình ảnh những chiếc xe từ trong bom rơi gợi lên trong lòng người đọc những chiếc xe gan góc, những
chiếc xe đã qua bao nhiêu thử thách, mưa bom bão đạn của kẻ thù. Vượt qua những đoạn đường bom giật bom
rung, những chiếc xe lại được quây quần bên nhau thành tiểu đội.
+ Suốt dọc đường vào Nam tất cả những người lính lái xe gặp nhau dù trong giây lát đều là bạn bè Gặp bạn
bè suốt dọc đường đi tới. Con đường đi tới là con đường vào thẳng miền Nam thân yêu, con đường giải
phóng miền Nam, tìm độc lập cho dân tộc. Đó là con đường chính nghĩa. Vì thế càng đi càng gặp nhiều bạn
bè. Giây phút gặp nhau ấy thật thú vị qua cái bắt tay ấm tình đồng đội: Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi: Có biết
bao điều muốn nói trong cái bắt tay ấy. Đó là niềm vui của họ vừa thoát khỏi chặng đường nguy hiểm gian
khổ. Họ động viên nhau dù trong hoàn cảnh nào cũng phải quyết tâm cầm chắc vô lăng để đưa xe về đến đích.
Cái bắt tay thay cho lời hứa hẹn, sẽ gặp nhau vào ngày chiến thắng.
- Họ - những con người từ nhiều phương trời, nhiều miền quê, gặp nhau trong lửa đạn Trường Sơn đã thành
ruột thịt, chung nhau điểm tựa và tình cảm, tâm hồn, sinh hoạt:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đĩa nghĩa là gia đình đấy
- Bếp Hoàng Cầm đã là hình ảnh quen thuộc trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Ngọn lửa ấm áp như nối kết
tấm lòng người chiến sĩ với nhau. Tất cả như một gia đình ấm cúng, chan chứa yêu thương. Những người lính
chung bát đũa, chung mâm cơm, chung bếp lửa, chung ánh sao trời, chung gió bụi, mưa tuôn, chung một con
đường hành quân, chung một chiến hào, một nhiệm vụ.
b. Ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam:
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm
-Từ láy chông chênh: gợi tả tư thế không thăng bằng, không chắc chắn, không vững chãi, gợi sự nguy hiểm
của người lính trên đường lái xe ra tiền tuyến. Đây là một nét vẽ hiện thực mà Phạm Tiến Duật tái hiện lại
cuộc đời gian khổ của người lính lái xe Trường Sơn. Trong hoàn cảnh chiến đấu hết sức gian khổ, họ phải ăn,
phải ngủ những giấc ngủ ngắn trên xe hoặc trên dọc đường đi, giữa làn mưa bom của kẻ thù nhằm huỷ diệt sự
sống. Song từ “chông chênh” còn gợi tả phong thái hiên ngang của người lính. Bom đạn của kẻ thù tưởng như
có thể dùng sức mạnh để huỷ diệt sự sống con người nhưng không! HÌnh ảnh những chiếc võng mắc “chông
chênh” trên tuyến đường TS khói lửa ấy đã chứng minh điều ngược lại: sự sống không chỉ tồn tại mà còn tồn
tại trong một tư thế kiêu hãnh, hiên ngang, tư thế của người chiến thắng.
- Điệp từ lại đi diễn tả những cuộc hành trình lại tiếp tục mở ra. Những cung đường dài lại nối tiếp.
- Hình ảnh ẩn dụ “trời xanh” là một nét vẽ rất tài hoa mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc. Nó không chỉ biểu
tượng cho sự sống mà còn biểu tượng cho tự do, hòa bình, chứa chan hi vọng với những chiến công lớn đang
chờ các anh.
Đánh giá khái quát:
Nghệ thuật- nội dung:
- Chất liệu hiện thực độc đáo, giọng thơ ngang tàng, khẩu khí trẻ trung, nhịp điệu biến hóa linh hoạt.
- Sử dụng thành công các biện pháp tu từ: điệp ngữ, ẩn du....
=> Vẻ đẹp của thế hệ trẻ Việt Nam trong những năm kháng chiến chống Mĩ gian khổ mà hào hùng.
- Liên hệ bản thân
Đề21.
Viết bài văn trình bày cảm nhận về đoạn thơ sau:
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười
Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng...
(Trích Nói với con, Y Phương, Ngữ văn 9, tập 2,NXB Giáo dục Việt Nam 2015, trang 72)
Gợi ý:
- Nêu vấn đề nghị luận: Đoạn thơ là lời người cha nói với con về cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người:
gia đình và quê hương.
- Trích dẫn thơ.
vị trí đoạn thơ trong mạch cảm xúc toàn bài.
Cảm nhận
a. Người cha nói với con về tình cảm gia đình
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước cham tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười
- Ngay từ những câu thơ đầu tiên, người cha đã gợi ra một hình ảnh đầm ấm của gia đình qua cách nói thật lạ:
Chân phải bước tới cha/ Chân trái bước tới mẹ.
- Niềm hạnh phúc của cha mẹ là khi con cất tiếng chào đời, là được theo dõi từng bước đi trong cuộc đời của
con.
- Cách diễn tả điều bình dị bằng hình ảnh mang nét đặc trưng của con người miền núi. Nhịp thơ 2/3, cấu trúc
đối xứng, nhiều từ láy lại tạo ra một âm điệu tươi vui, quấn quýt: Chân phải - Chân trái, tới cha - tới mẹ.
- Lối liên tưởng ngộ nghĩnh, tư duy của người miền núi: Một bước chạm tiếng nói/ Hai bước tới tiếng cười.
Tiếng nói, tiếng cười vốn vô hình nhưng lại được hữu hình hóa để trở thành “cọc tiêu” định vị cho đứa trẻ
“bước tới”.
- Cách viết Một bước chạm tiếng nói/ Hai bước tới tiếng cười là một phép ẩn dụ để cụ thể hóa âm thanh vô
hình. Đó là niềm vui, niềm hạnh phúc tràn ngập của cha mẹ khi được nâng đỡ, đón đợi những bước đi đầu tiên
của con.
- Những hình ảnh ấm êm, những âm thanh sống động, vui tươi với tiếng nói, tiếng cười là những biểu hiện của
một không khí gia đình đầm ấm, quấn quýt, hạnh phúc tràn đầy. Hình ảnh thơ chất chứa nhiều sự ngọt ngào
của tình yêu thương mà cha mẹ dành cho con, là niềm khát khao hạnh phúc của mỗi con người. Và đó sẽ là
hành trang quý báu đối với cuộc đời, tâm hồn con.
b. Người cha nói với con về vẻ đẹp quê hương
- Quê hương với cuộc sống lao động, với thiên nhiên tươi đẹp, tìnhnghĩa đã nuôi dưỡng con trưởng thành:
Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
+Quê hương hiện ra qua hình ảnh của Người đồng mình. Nói với con về những người đồng mình, nhà thơ như
đang giới thiệu ân cần đây là những người bản mình, người vùng mình, người dân quê mình gần gũi, thân
thương. Cách biểu cảm trực tiếp yêu lắm cùng hô ngữ con ơi đã khiến lời thơ càng trở nên tha thiết, trìu mến,
thể hiện sâu sắc tình cảm yêu mến, trân trọng những con người quê hương.
+Người đồng mình là những con người đáng yêu, đáng quý: Đan lờcài nan hoa/ Vách nhà ken câu hát. Cuộc
sống lao động cần cù và tươi vui của họ được gợi ra qua những hình ảnh thật đẹp: Những nan nứa, nan tre
dưới bàn tay tài hoa của người quê mình đã trở thành nan hoa. Vách nhà không chỉ ken bằng tre, gỗ mà còn
được ken bằng những câu hát si, hát lượn, những tiếng khèn lá, khèn môi...
+ Các động từ cài, ken vừa miêu tả chính xác động tác khéo léo vừa gợi sự gắn bó, quấn quýt của những con
người quê hương trong cuộc sống lao động..
- Cái yêu lắm của người đồng mình là gì nếu không phải là cốt cách tài hoa, là tinh thần vui sống? Phải chăng,
ẩn chứa bên trong cái dáng vẻ thô mộc là một tâm hồn phong phú, lãng mạn biết bao?
- Quê hương với những con người tài hoa, tâm hồn lãng mạn, cũng là quê hương với thiên nhiên thơ mộng,
nghĩa tình:
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
+Y Phương chọn hình ảnh hoa để nói về cảnh quan của rừng, có sức gợi rất lớn về những gì đẹp đẽ và tinh tuý
nhất, góp phần diễn đạt điều tác giả đang muốn khái quát: chính những gì đẹp đẽ của quê hương đã hun đúc
nên tâm hồn cao đẹp của con người ở đó. Quê hương còn hiện diện trong những gì gần gũi, thân thương. Đó
cũng chính là một nguồn mạch yêu thương vẫn tha thiết chảy trong tâm hồn mỗi người, bởi Con đường cho
những tấm lòng. Điệp ngữ cho mang nặng nghĩa tình. Thiên nhiên đã che chở, nuôi dưỡng con người cả về
tâm hồn và lối sống.
+ Bằng cách nhân hoá Rừng và Con đường qua điệp ngữ cho, người đọc có thể nhận ra lối sống tình nghĩa của
Người đồng mình. Quê hương ấy chính là cái nôi để đưa con vào cuộc sống êm đềm.
- Đoạn thơ vừa là một lời tâm tình ấm áp, vừa là một lời dặn dò đầytin cậy của người cha trao gửi tới con.
Đánh giá
- Thể thơ tự do với nhiều hình ảnh thơ đep, giản dị, cách nói cụ thể, độc đáo mà gần gũi của người miền núi.
Các biện pháp tu từ ẩn dụ, nhân hóa... được sử dụng linh hoạt, có giá trị biểu cảm cao.
- Người cha muốn nói với con rằng: Vòng tay yêu thương của cha mẹ, gia đình, nghĩa tình sâu nặng của quê
hương làng bản là cái nôi đã nuôi dưỡng con khôn lớn, là cội nguồn sinh dưỡng của con mà còn can phải khắc
ghi.
- Liên hệ bản thân...
Đề 22
Viết bài văn trình bày cảm nhận về vẻ đẹp của người đồng mình trong đoạn thơ sau:
Người đồng mình thương lắm con ơi!
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chế thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc...
(Trích Nói với con, Y Phương, Ngữ văn 9, tập 2, NXB Giáo dục Việt Nam 2015, trang 72) .
Gợi ý:
- Nêu vấn đề nghị luận: Đoạn thơ thể hiện lòng tự hào, là lời ngợi ca về sức sống mạnh mẽ, bền bỉ, giàu ý chí,
niềm tin của con người quê hương. Qua đó, người cha mong muốn con phát huy những phẩm chất tốt đẹp của
người đồng mình.
+ Trích dẫn thơ.
2. Cảm nhận
a. Người đồng mình giàu ý chí và niềm tin
- Nhà thơ đã diễn tả ý chí và sức sống mạnh mẽ của con người quê hương bằng những hình ảnh thơ chân thực,
cụ thể giàu chất suy tư của người miền núi:
Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn.
+ Người đồng mình được hiểu là người dân tộc mình, miền mình, vùng mình, rộng ra là những người cùng
quê hương, đất nước. Đây là cách gọi thân thương của người Tày. Kết hợp với các từ ngữ cảm thán thương
lắm con ơi vừa thể hiện tình yêu thương, sự trân trọng của nhà thơ đối với con người của quê hương, vừa tạo
được giọng điệu thiết tha, trìu mến.
+ Nhà thơ đã lấy độ cao của núi để đo nỗi buồn, nỗi nhọc nhằn, sự từng trải của con người. Hai câu thơ Cao
đo nỗi buồn - Xa nuôi chí lớn thật hàm súc, được đặt trong thế đối xứng, hài hoà đã gợi cho người đọc nhiều
suy ngẫm. Cuộc sống của người đồng mình là thế, gắn với cái cao của núi, cái xa của những con đường, nên
họ lấy thiên nhiên để đo đếm những sự trải nghiệm, những vui buồn trong cuộc sống. Trải qua bao nỗi buồn,
bao kinh nghiệm sống, người ta mới có thể trưởng thành, vững vàng như núi và cũng phải đi xa, tìm đến
những chân trời mới, người ta mới có cơ hội hun đúc nuôi dưỡng ý chí, khát vọng lớn lao của mình.
b. Người đồng mình thủy chung, gắn bó với quê hương
Sống trên đá không chế đá gập ghềnh
Sống trong thung không chế thung nghèo đói
- Những hình ảnh đá gập ghềnh, thung nghèo đói là những hình ảnh ẩn dụ chỉ những gian lao, vất vả mà
Người đồng mình đã phải gồng mình gánh chịu. Mặc dù Người đồng mình chịu thương chịu khó, cần cù sáng
tạo trong lao động nhưng cuộc đời vẫn chưa đủ đầy. Phải chăng do đất bạc màu, sỏi đá khô cằn, hay thiên tai
rình rập?
- Cho dù cuộc sống như vậy song người đồng mình vẫn không chê bai, không một lời than thở. Họ quả là
những con người biết chịu đựng và suốt đời gắn bó thủy chung với nơi chôn rau cắt rốn. Họ vượt lên hoàn
cảnh, sống mạnh mẽ và tràn đầy sinh lực. Dường như cuộc sống càng khó khăn thìcon người càng vươn lên
không ngừng đấu tranh vượt qua nó. .
- Điệp từ không chê, không lo để nhấn mạnh lòng mong muốn và lời nhắc nhở của người cha với con về lối
sống thủy chung, nghĩa tình, biết chấp nhận và vượt qua mọi khó khăn, thử thách. Không chê bai, không phản
bội quê hương, biết chấp nhận hoàn cảnh, không bi quan, không than vãn mà cần có nghị lực để vươn lên
c. Người đồng mình yêu thiên nhiên, sống phóng khoáng, mạnhmẽ, bền bỉ:
Sống như sống như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc
- Cuộc sống dù có gian lao vất vả đến mấy, dù có lên thác, xuống ghênh cũng phải bền lòng vững chí, có nghị
lực vươn lên, sông như song như suối. Biện pháp tu từ so sánh đã làm sáng ngời lên đức tính cao đẹp của
người miền núi. .
- Núi cao, vực sâu, sông dài, thác hiểm... không chỉ là thước đo vật lí mà là thước đo của lòng dũng cảm, sự
kiên trì của người đồng mình. Đó là điều cần thiết cho mỗi con người khi bước chân vào đường đời lắm chông
gai.
- Nếu nhà thơ Tố Hữu đã viết về lẽ sống cho và nhận ở đời: Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình hay nhạc sĩ
Trịnh Công Sơn qua ca từ đã đề cập đến lẽ sống yêu thương Sống trong đời sống cần có một tấm lòng thì nhà
thơ dân tộc Tày - Y Phương - qua cách nói mộc mạc mà sâu sắc ý tình đã đem đến bài học: sống phải có ý chí,
niềm tin. Lời thơ tuôn chảy như dòng sữa ngọt lịm, tràn vào cái bể khổ của những kiếp nghèo Người đồng
mình, của người miền núi. Chỉ có một tình yêu chân tình, thấm thía, sâu sắc những ngọt bùi, đắng cay với
Người đồng mình, Y Phương mới có thể nói với con như vậy.
3. Đánh giá
- Thể thơ tự do, ngôn ngữ giản dị mộc mạc, giọng thơ thiết tha, trìu mến nhưng lại trang nghiêm. Các hình ảnh
thơ cụ thể mà có tính khái quát. mộc mạc mà vẫn giàu chất thơ.
- Đoạn thơ là lời tâm sự chân thành của một người cha dành cho đứa con yêu quý, dạy con hãy biết yêu
thương, quý trọng và phát huy truyền thống tốt đẹp của quê hương.
- Liên hệ bản thân..

You might also like