You are on page 1of 20

MỞ ĐẦU

Trước yêu cầu phát triển của thời đại, Hội nghị lần 8 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa XI) đã thông qua Nghị quyết số
29/NQ-TW ngày 4 tháng 11 năm 2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; Quốc hội đã ban
hành Nghị quyết số 88/2014/QH13 ngày 28 tháng 11 năm 2014 về đổi mới
chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông, góp phần đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo.
ngày 26 tháng 12 năm 2018, Bộ giáo dục ban hành thông tư số
32/2018/TT-BGDĐT về việc đổi mới Chương trình giáo dục phổ thông nhằm
tạo chuyển biến căn bản, toàn diện. Đây là chương trình được xây dựng theo
hướng phát triển phẩm chất và năng lực cho học sinh.
Trong chương trình giáo dục phổ thông 2018, Ngữ văn vẫn là một trong
các môn học bắt buộc, mang trong mình trách nhiệm cao cả đối với sự phát triển
của các thế hệ chủ nhân tương lai đất nước, với vận mệnh dân tộc. Đây là môn
học mang tính công cụ và tính thẩm mĩ - nhân văn; giúp học sinh có phương
tiện giao tiếp, làm cơ sở để học tập tất cả các môn học và hoạt động giáo dục
khác trong nhà trường; đồng thời cũng là công cụ quan trọng để giáo dục học
sinh những giá trị cao đẹp về văn hóa, văn học và ngôn ngữ dân tộc; phát triển ở
học sinh những cảm xúc lành mạnh, tình cảm nhân văn, lối sống nhân ái, vị tha..
Đánh giá đúng những tính chất của Chương trình giáo dục phổ thông môn
Ngữ văn, đặc biệt là tính chất số 4: “Tính cân bằng, cân đối” sẽ giúp người dạy
hiểu hơn về bộ môn Ngữ văn, có cái nhìn đúng đắn, khách quan, phương pháp
dạy học phù hợp để phát huy hiệu quả yêu cầu của chương trình. Đồng thời đây
là tài liệu nghiên cứu hữu ích trong quá trình xây dựng kế hoạch bài dạy của
giáo viên và sự quá trình lĩnh hội tri thức của học sinh, đáp ứng được mục tiêu
đề ra của chương trình.
NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ ĐÁNH GIÁ CHƯƠNG TRÌNH VÀ TIÊU
CHÍ “TÍNH CẦN BẰNG, CÂN ĐỐI” CỦA CHƯƠNG TRÌNH MÔN NGỮ
VĂN 2018
1.1. Khái quát về chương trình môn Ngữ văn 2018
Ngữ văn là môn học bắt buộc được học từ lớp 1 đến lớp 12. Ở cấp tiểu
học, môn học có tên là Tiếng Việt; ở cấp trung học cơ sở và cấp trung học phổ
thông có tên là Ngữ văn. Môn Ngữ văn giúp học sinh phát triển kĩ năng sử dụng
tiếng Việt, làm công cụ để học tập tất cả các môn học và hoạt động giáo dục
khác trong nhà trường; đồng thời cũng là môn học quan trọng giáo dục học sinh
những giá trị cao đẹp về văn hóa, văn học và ngôn ngữ dân tộc; phát triển ở học
sinh những cảm xúc lành mạnh, tình cảm nhân văn, lối sống nhân ái, vị tha,…
Về nội dung giáo dục: Điểm khác biệt nhất so với các chương trình trước đây là
chương trình môn Ngữ văn 2018 được xây dựng xuất phát từ các phẩm chất và
năng lực cần có của người học để lựa chọn nội dung dạy học.
Chương trình lấy việc rèn luyện các kĩ năng giao tiếp (đọc, viết, nói và
nghe) làm trục chính xuyên suốt cả ba cấp học nhằm đáp ứng yêu cầu của
chương trình theo định hướng năng lực và bảo đảm tính chỉnh thể, sự nhất quán
liên tục trong tất cả các cấp học, lớp học. Các yêu cầu cần đạt của mỗi lớp tập
trung vào bốn kĩ năng: đọc, viết, nói và nghe. Đọc bao gồm yêu cầu đọc đúng
và đọc hiểu. Yêu cầu về đọc hiểu bao gồm các yêu cầu hiểu văn bản (trong đó
có cả đọc thẩm mĩ, cảm thụ, thưởng thức và đánh giá) và hiểu chính mình
(người đọc). Viết không chỉ yêu cầu học sinh biết viết chữ, viết câu, viết đoạn
mà còn tạo ra được các kiểu loại văn bản, trước hết là các kiểu loại văn bản
thông dụng, sau đó là một số kiểu loại văn bản phức tạp hơn. Nói và nghe căn
cứ vào nội dung của đọc và viết để luyện tập cho học sinh trình bày, nói và nghe
tự tin, có hiệu quả; từ nói đúng đến nói hay.
Hệ thống kiến thức phổ thông cơ bản, nền tảng về tiếng Việt và văn học
được tích hợp vào hoạt động dạy đọc, viết, nói và nghe, bao gồm: Kiến thức
tiếng Việt: Ngữ âm và chữ viết; Từ vựng; Ngữ pháp; Hoạt động giao tiếp; Sự
phát triển của ngôn ngữ; Kiến thức văn học: Những vấn đề chung về văn học;
Thể loại văn học; Các yếu tố của tác phẩm văn học; Một số hiểu biết sơ giản về
lịch sử văn học Việt Nam.
Về phương pháp giáo dục: Do yêu cầu phát triển phẩm chất và năng lực
nên chương trình nhấn mạnh việc chú ý hình thành cho học sinh cách học, tự
học, từ phương pháp tiếp cận, phương pháp đọc hiểu đến cách thức tạo lập văn
bản và nghe-nói; thực hành, luyện tập và vận dụng nhiều kiểu loại văn bản khác
nhau để sau khi rời nhà trường các em có thể tiếp tục học suốt đời và có khả
năng giải quyết các vấn đề trong cuộc sống. Nhiệm vụ của giáo viên là tổ chức
các hoạt động học tập cho học sinh; khơi gợi, vận dụng kinh nghiệm và vốn
hiểu biết đã có của học sinh về vấn đề đang học, từ đó tìm hiểu, khám phá để tự
mình bổ sung, điều chỉnh, hoàn thiện những hiểu biết ấy; khuyến khích học sinh
trao đổi và tranh luận, đặt câu hỏi cho mình và cho người khác khi đọc, viết, nói
và nghe.
Chương trình môn Ngữ văn góp phần cùng các môn học khác hình thành,
phát triển ở học sinh các phẩm chất chủ yếu: yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung
thực và trách nhiệm; bồi dưỡng tâm hồn, hình thành nhân cách và phát triển cá
tính; đặc biệt là giúp học sinh khám phá bản thân và thế giới xung quanh, thấu
hiểu con người, có đời sống tâm hồn phong phú, có quan niệm sống và ứng xử
nhân văn; có tình yêu đối với tiếng Việt và văn học; có ý thức về cội nguồn và
bản sắc của dân tộc, ý thức góp phần giữ gìn, phát triển các giá trị văn hoá Việt
Nam; có tinh thần tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại và khả năng hội nhập
quốc tế. Chương trình môn Ngữ văn góp phần cùng các môn học khác hình
thành, phát triển ở học sinh các năng lực chung: năng lực tự chủ và tự học, năng
lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo; đặc biệt là giúp
học sinh phát triển kĩ năng giao tiếp, kĩ năng tìm kiếm và xử lí thông tin, tư duy
hình tượng và tư duy logic, góp phần hình thành học vấn căn bản và cách ứng
xử của một người có văn hoá.
Chương trình được xây dựng theo hướng mở; không quy định chi tiết về
nội dung dạy học và các văn bản cụ thể, mà chỉ quy định những yêu cầu cần đạt
về đọc, viết, nói và nghe cho mỗi lớp; quy định một số kiến thức cơ bản, cốt lõi
về văn học, tiếng Việt và một số văn bản quan trọng của văn học dân tộc là nội
dung thống nhất bắt buộc đối với học sinh toàn quốc.
1.2. Khái niệm đánh giá chương trình
1.2.1. Khái niệm
Đánh giá chương trình học là một phần của tiến trình xây dựng chương
trình học nói chung, chương trình môn học nói riêng và nhằm đối chiếu kết quả
cần đạt được của chương trình và của môn học với mục tiêu đã đề ra của
chương trình học và của môn học. Người xây dựng chương trình đào tạo hay
chương trình môn học luôn quan tâm đến vấn đề khi nào và làm thế nào để có
thể cải tiến chương trình để đáp ứng nhu cầu của xã hội, yêu cầu của ngành đào
tạo và người học, cũng như xem xét tác động của chương trình đối với người
học.
Tùy theo cách tiếp cận trong xây dựng chương trình học, cũng như quan
điểm giáo dục mà người ta quyết định sẽ đánh giá cái gì, đánh giá như thế nào?
Những người theo cách tiếp cận nội dung thì quan tâm đến việc nội dung kiến
thức đã được sinh viên tiếp nhận ở mức độ nào. Người theo cách tiếp cận mục
tiêu lại muốn đánh giá xem sản phẩm đào tạo có đạt được mục tiêu của chương
trình đã đề ra hay không. Người theo quan điểm phát triển lại quan tâm đến việc
chương trình học có giúp phát triển được những tiềm năng của sinh viên. Tuy
vậy, mỗi quan điểm sẽ có cách đánh giá khác nhau nhưng bất luận theo quan
điểm nào thì đánh giá phải trả lời hai câu hỏi sau đây: đầu tiên là “Chương trình
đào tạo hay chương trình môn học có đem lại kết quả như mong muốn hay
không (có đạt được mục tiêu đã xác định hay không)?”; thứ hai là “Cần cải tiến
chương trình đào tạo hay chương trình môn học theo hướng nào?
Theo A.C. Ornstein và F.D.Hunkins (1998) đánh giá chương trình được
xác định như sau: “Đánh giá chương trình đào tạo là một quá trình thu thập và
xử lý thông tin để đưa ra quyết định chấp thuận, sửa đổi hay loại bỏ chương
trình đào tạo đó”. Thực chất đánh giá chương trình đào tạo hay chương trình
môn học là nhằm phát hiện xem chương trình được thiết kế, phát triển và thực
thi có tạo ra hay có thể tạo ra sản phẩm đào tạo như mong muốn hay không?
Chương trình có thực sự có giá trị hay không? Đánh giá chương trình nhằm xác
định điểm mạnh, điểm yếu của chương trình đó trước khi vào thực thi (đánh giá
thẩm định) hoặc xác định hiệu quả của chương trình khi đã triển khi thực thi sau
một thời gian nhất định (đánh giá cải tiến).
Đánh giá chương trình học là dạng đánh giá nhu cầu, đây là một quá trình
mà dựa vào kết quả của quá trình đánh giá có thể xác định được các “lỗ hổng”
của chương trình học. Như vậy, việc đánh giá chương trình không phải là chỉ
đánh giá những gì làm được ở giai đoạn cuối của việc thực thi chương trình, mà
là một hoạt động diễn ra trước, trong và cuối của quá trình thực hiện chương
trình. Bản chất của quá trình đánh giá chương trình là liên tục trong suốt các
khâu của quá trình: xác định mục đích, mục tiêu chương trình, thiết kế, xây
dựng, tổ chức, thực hiện chương trình; và đánh giá toàn diện các mặt của từng
khâu, từng giai đoạn.
1.1.2. Các kiểu (loại) đánh giá chương trình
Đánh giá chương trình ở các thời điểm khác nhau trong quá trình xây
dựng và thực thi chương trình thì mục đích đánh giá được đặt ra cũng sẽ khác
nhau. Chẳng hạn, đánh giá được tiến hành vào thời điểm chương trình mới hoàn
thiện xây dựng xong, trước khi đưa vào sử dụng thì đây là đánh giá với mục
đích thẩm định ban hành. Với cơ sở lập luận như vậy, có bốn loại đánh giá
chính: 1) Đánh giá nghiệm thu/ thẩm định; 2) Đánh giá quá trình; 3) Đánh giá
tổng kết và 4) Đánh giá hiệu quả.
Đánh giá nghiệm thu: Là loại đánh giá được thực hiện ngay sau khi
chương trình đào tạo hoặc chương trình môn học xây dựng xong, trước khi ban
hành chính thức để đưa vào sử dụng. Hoạt động đánh giá này chủ yếu nhằm
xem xét, rà soát toàn bộ qui trình xây dựng, mục tiêu, nội dung chương trình và
qui cách trình bày có phù hợp với qui định, các hướng dẫn và các yêu cầu về
mục tiêu đã phù hợp chuẩn đầu ra của chương trình, hay của môn học chưa và
đảm bảo chất lượng chương trình đã đề ra hay không.
Đánh giá quá trình: Là loại đánh giá thực hiện ngay trong khi thực thi
chương trình, trong quá trình giảng dạy. Việc đánh giá này liên quan tới từng
phần của chương trình với mục đích thu nhận các ý kiến phản hồi từ các nguồn
thông tin để chỉnh sửa, cập nhật và cải tiến để hoàn thiện chương trình. Phát
triển chương trình đào tạo là một quá trình liên tục, nên việc đánh giá quá tình
đặc biệt cần thiết và hữu ích để cải tiến và hoàn thiện chương trình học.
Nguồn thông tin từ sinh viên, giảng viên trực tiếp giảng dạy chương trình.
Đánh giá này phải được thực hiện định kỳ, chẳng hạn đối với chương trình chi
tiết môn học phải được đánh giá định kỳ hằng năm để chỉnh sửa cập nhật nội
dung cũng như phương pháp dạy cho ngày càng phù hợp hơn.
Đánh giá tổng kết: Hình thức đánh giá này được thực hiện sau khi kết
thúc khóa học đối với chương trình đào tạo, hoặc sau khi kết thúc môn học đối
với chương trình môn học. Mục tiêu của loại đánh giá này là thu thập và xử lý
thông tin về toàn bộ chương trình xem chương trình đó có giá trị hay không, các
mục tiêu đề ra cho chương trình có phù hợp và đạt được không, đạt được mức
nào, đánh giá hiệu quả chương trình. Đánh giá tổng kết giúp chúng ta có được
“bức tranh toàn cảnh” về chất lượng của chương trình đào tạo hay chương trình
môn học đã được thực thi và thường được tiến hành sau khi chương trình đào
tạo, hay chương trình môn học đã được thiết kế xây dựng hoàn chỉnh và được
triển khai thực thi xong trong một cơ sở đào tạo. Đánh giá tổng kết xác nhận
hiệu quả của toàn bộ chương trình và cho phép các nhà quản lý chương trình,
quản lý đào tạo rút ra kết luận về mức độ mục tiêu của chương trình.
Đánh giá hiệu quả: Đánh giá hiệu quả chương trình đào tạo hay chương
trình thực hiện khi chương trình giảng dạy đã được hoàn tất sau một thời gian
nhất định để tìm hiểu, thăm dò xem chương trình có thực sự hữu ích và giúp họ
nhiều trong công việc hay không.
Nguồn thông tin cần thu thập cho việc đánh giá hiệu quả là từ các đối
tượng người học đã tốt nghiệp chương trình đang công tác có kinh nghiệm về
ngành đào tạo, những đối tượng đã trưởng thành với kinh nghiệm nghề nghiệp
và có đủ suy nghĩ chín chắn về những gì mình học được ở chương trình đào tạo
và môn học cụ thể, và các nhà sử dụng sản phẩm của chương trình đào tạo.
Hình thức thu thập thông tin được triển khai thông qua phiếu hỏi ý kiến,
trao đổi trực tiếp giữa người làm chương trình, giảng viên và cán bộ quản lý đào
tạo với cựu sinh viên hoặc có thể thông qua hội nghị với cựu sinh viên và các
nhà sử dụng sản phẩm giáo dục. Thông qua loại đánh giá này giảng viên và
những người có liên quan xác định được hiệu quả mong đợi của chương trình
đào tạo, đồng thời còn ghi nhận và đánh giá được cả những hiệu quả không
mong muốn về chương trình.
1.3. Tiêu chí “Tính cân bằng cân đối” trong chương trình Ngữ văn 2018
1.3.1. Nguyên tắc xây dựng các tiêu chí
Nhận thức rằng đánh giá chương trình là hoạt động quan trọng, không thể
thiếu trong quá trình xây dựng chương trình, theo Peter F. Oliva (2005) cho
rằng: “Không có đánh giá, sẽ không có sửa đổi nào được xem xét và do vậy, sẽ
có rất ít cơ hội để cải tiến chương trình”. Việc đánh giá được quan tâm thực
hiện ngay từ đầu và đánh giá từng bước, từng khâu trong quá trình xây dựng
chương trình như mục tiêu, lựa chọn nội dung, thực thi chương trình (chiến lược
và phương pháp dạy - học, điều kiện thực hiện, kiểm tra đánh giá,...). Để có
được kết quả đánh giá khách quan, hữu ích đối với cán bộ quản lý, cán bộ
chương trình, người thực hiện chương trình, việc xây dựng các tiêu chí đánh giá
từng khâu, toàn diện các mặt của một chương trình cần dựa trên các nguyên tắc.
Trước hết, có thể khẳng định rằng dựa trên cơ sở nguyên tắc xây dựng
chương trình đã phân tích ở chương 3, các nguyên tắc xây dựng tiêu chí đánh
giá là: 1) Đảm bảo mục tiêu đào tạo; 2) Đảm bảo chất lượng đào tạo; 3) Đảm
bảo hiệu quả và hiệu suất đào tạo; và 4) Đảm bảo tính sư phạm của chương tình.
Ngoài việc đảm bảo nguyên tắc này, với mục đích đánh giá khách quan, xác
thực toàn diện từng khâu, từng mặt của một chương trình, việc xây dựng các
tiêu chí đánh giá chương trình môn học cần tuân thủ một số nguyên tắc như: 1)
Đảm bảo tính khoa học; 2) Đảm bảo tính toàn diện; 3) Đảm bảo tính chính xác
và 4) Đảm bảo tính khả thi.
Nguyên tắc đảm bảo tính khoa học: Nội dung đánh giá một chương trình
môn học bao gồm nhiều vấn đề liên quan tới từng khâu, từng giai đoạn, từng
mặt nội dung chương trình. Các tiêu chí đánh giá được xác định trên cơ sở lý
luận về xây dựng chương trình đào tạo, chương trình môn học. Mỗi tiêu chí
phản ánh được một hoặc một số thành tố liên quan đến cả quá trình xây dựng
chương trình. Việc xác định mức độ đánh giá của từng tiêu chí phải hợp lý rõ
ràng, tránh trường hợp phân chia mức độ đánh giá nhiều, dẫn đến độ chênh lệch
không đáng kể, không rõ ràng của từng mức đánh giá. Đối với mỗi tiêu chí cần
chỉ rõ các chỉ số thực hiện (Performance Indi cator), làm thế nào để có thể kết
hợp được cả hai hình thức đánh giá định lượng và định tính, song tránh sự trùng
lặp, hoặc sự tương tự về các chỉ số thực hiện.
Nguyên tắc đảm bảo tính toàn diện: Các tiêu chí, cũng như các chỉ số
thực hiện của từng tiêu chí phải phản ánh được từng thành tố trong quá trình
xây dựng, tổ chức thực thi chương trình, giảng dạy môn học về cả hình thức,
cấu trúc, mục tiêu, nội dung, và hình thức tổ chức thực thi chương trình. Nói
cách khác, các tiêu chí phải bao quát được toàn bộ và đảm bảo mọi thành tố cấu
thành chương trình môn học đều được xem xét và đánh giá.
Nguyên tắc đảm bảo tính chính xác: Để đảm bảo tính chính xác các minh
chứng, thông tin thu thập để triển khai đánh giá, các tiêu chí cũng như các chỉ số
của từng tiêu chí cần được viết rõ ràng, cụ thể, ngôn ngữ sử dụng tường minh
chính xác, dễ hiểu, không trùng lặp, tránh các từ đa nghĩa. Các mức độ đánh giá
của từng tiêu chí phải gắn với từng công việc cụ thể của quá trình xây dựng và
tổ chức thực hiện chương trình. Các mức đánh giá của từng tiêu chí phải được
trình bày rõ ràng, và phân biệt về độ chênh lệch giữa các mức độ đánh giá.
Nguyên tắc đảm bảo tính khả thi: để đảm bảo tính khả thi, dễ sử dụng
trong việc đánh giá, việc xây dựng các tiêu chí cần cân nhắc đến vấn đề đối
tượng được đánh giá: chuyên gia chương trình, cán bộ quản lý chương trình,
giảng viên, sinh viên, cựu sinh viên và nhà tuyển dụng… Các thông tin cần thu
thập để đánh giá dựa theo các tiêu chí không quá phức tạp và khó khăn cho
những đánh giá viên thu thập minh chứng và xử lý thông tin. Ngoài ra, chương
trình đánh giá phải phù hợp với điều kiện thực hiện của cơ sở như thời gian,
nhân lực và tài chính…
Đánh giá chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn là một quá trình
có hệ thống và mang tính khách quan, nhằm thu thập, phân tích và tổng hợp các
thông tin để đưa ra đánh giá về giá trị, hiệu quả và tác động của một chương
trình. Quá trình này bao gồm việc xác định mục tiêu, tiêu chí đánh giá, thu thập
dữ liệu, phân tích ra đưa ra kết luận. Trên cơ sở về nguyên tắc xây dựng tiêu chí
được phân tích, chúng ta có 7 tiêu chí đánh giá môn học như sau: Tiêu chí 1:
Tính phù hợp (Relevance); Tiêu chí 2: Tính trình tự (Sequence); Tiêu chí 3:
Tính phù hợp (Intergration); Tiêu chí 4: Tính cân bằng, cân đối (Balance); Tiêu
chí 5: Tính gắn kết (Coherence); Tiêu chí 6: Tính cập nhật (Currence); Tiêu chí
7: Tính hiệu quả (Effectiveness).
1.3.2. Khái niệm tiêu chí “Tính cân bằng cân đối” trong chương trình Ngữ văn
2018
Tính cân bằng về cấu trúc nội dung của môn học đề cập đến việc tổ chức
và xây dựng nội dung môn học sao cho phù hợp và hiệu quả. Điều này có thể
bao gồm việc phân chia nội dung thành các phần nhỏ hơn, sắp xếp logic, và
đảm bảo tính liên kết giữa các phần nội dung nhằm tạo môi trường giáo dục
toàn diện và hiệu quả cho học sinh.
Biểu hiện cụ thể của “tính cân bằng, cân đối” trong giáo dục:
- Cân bằng giữa các môn học: Giáo dục cần đảm bảo sự phân bổ hợp lý
thời gian và chương trình học cho các môn học khác nhau, bao gồm các môn
học chính, phụ, các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, v.v. nhằm giúp học
sinh phát triển toàn diện về kiến thức, kỹ năng và phẩm chất đạo đức.
- Cân bằng giữa lý thuyết và thực hành: Giáo dục không chỉ cung cấp
kiến thức lý thuyết mà còn cần chú trọng rèn luyện kỹ năng thực hành cho học
sinh thông qua các hoạt động thực tiễn, thí nghiệm, dự án, v.v.
- Cân bằng giữa truyền thụ và phát huy: Quá trình giảng dạy cần kết
hợp hài hòa giữa việc truyền thụ kiến thức từ giáo viên sang học sinh với việc
khuyến khích học sinh tự tìm tòi, khám phá, phát huy khả năng sáng tạo và tư
duy độc lập.
- Cân bằng giữa cá nhân và tập thể: Giáo dục cần quan tâm đến sự phát
triển của cả cá nhân học sinh và tập thể lớp học. Giáo viên cần tạo điều kiện cho
học sinh học tập hợp tác, đoàn kết, đồng thời cũng tôn trọng sự khác biệt và
phát triển cá nhân của mỗi học sinh.
- Cân bằng giữa trí tuệ và thể chất: Giáo dục cần chú trọng phát triển
cả trí tuệ và thể chất cho học sinh thông qua các hoạt động học tập và rèn luyện
thể thao phù hợp.
- Cân bằng giữa nhà trường và gia đình: Giáo dục cần có sự phối hợp
chặt chẽ giữa nhà trường và gia đình để tạo môi trường giáo dục thống nhất và
hiệu quả cho học sinh.
1.3.3. Ý nghĩa tiêu chí “Tính cân bằng cân đối” trong chương trình Ngữ văn
2018
Ý nghĩa tiêu chí 4 Tính cân bằng, cân đối (Balance): Đối với chương
trình giáo dục đại học, tính cân đối, cân bằng được xem là một vấn đề đáng
được quan tâm chú ý; tính cân đối, cân bằng xác định tỷ lệ giữa các khối kiến
thức tự nhiên và xã hội nhân văn, giữa các khối kiến thức đại cương (kiến thức
chung), kiến thức cơ sở, khối kiến thức chuyên môn và nghiệp vụ của một
chương trình. Nhưng để có được quan điểm chung và chính xác về sự cân bằng,
cân đối của một chương trình là không đơn giản chút nào. Chẳng hạn, Ronald C
Doll (1996) xem xét sự cân bằng trên quan điểm của người học cho rằng:
“Chương trình được xem là cân bằng đối với người học trong thời điểm nhất
định cần phải hoàn toàn phù hợp với người học đó về các nhu cầu giáo dục của
họ tại thời điểm đó”. Song, một số quan điểm khác lại nhấn mạnh sự cần bằng
giữa chương trình lấy người học làm trung tâm và chương trình lấy môn học
làm trung tâm, hoặc chương trình cần đạt được sự cân bằng giữa việc đáp ứng
nhu cầu xã hội và nhu cầu cá nhân, điều này muốn nói một chương trình không
nên chỉ hướng về nhu cầu xã hội và nếu chỉ như vậy là không đủ, mà còn phải
hướng đến nhu cầu của cá nhân hay nhóm cá nhân.
Đối với chương trình môn học, tính cân bằng, cân đối được xem là một
trong tiêu chí quan trọng trong quá trình xây dựng, thực thi và đánh giá chương
trình một môn học. Tính cân bằng, cân đối trong chương trình môn học thể hiện
sự cân bằng trong ba lĩnh vực: nhận thức (kiến thức), kỹ năng và thái độ (tình
cảm), khi chương trình môn học tập trung quá nhiều vào lĩnh vực kiến thức và
lãng quên về mặt giáo dục tình cảm, thái độ, thì được coi là không cân bằng; sự
cân bằng giữa mục tiêu và nội dung; sự cân bằng giữa lý thuyết và thực hành…
Theo ý đó, nếu mục tiêu môn học trong giai đoạn đánh giá cần phải thay đổi thì
sự cân đối giữa các phần nội dung của môn học cũng cần phải thay đổi cho phù
hợp.
Tuy nhiên, khi nói đến sự cân bằng, cân đối, chúng ta thường nghĩ đến sự
cần bằng năm mươi - năm mươi, song khi nói về chương trình giáo dục, chương
trình môn học thì không nên nghĩ tỉ lệ cân bằng năm mươi - năm mươi mà nên
nghĩ đến một sự “cân bằng” tương đối.
Các chỉ số thực hiện của tính cân bằng cân đối của chương trình giáo dục
phổ thông môn Ngữ văn.
- Cân bằng về nội dung môn học này với môn học khác cùng khối kiến
thức.
- Cân bằng về thời lượng thời gian của môn học này với môn học khác
trong cùng khối kiến thức.
- Cân bằng về mức độ rộng và sâu của kiến thức chuyên môn của môn học.
- Cân bằng giữa mục tiêu hay chuẩn đầu ra và nội dung của môn học.
- Cân bằng về cấu trúc nội dung các phần nội dung của môn học.
- Cân bằng về tỷ lệ giữa nội dung lý thuyết và thực hành của môn học.
- Cân đối về bố trí thời lượng thời gian cho các nội dung của môn học.
- Cân đối về hình thức tổ chức các hoạt động giảng dạy môn học.
Chương 2: ĐÁNH GIÁ “TÍNH CÂN BẰNG, CÂN ĐỐI” CỦA CHƯƠNG
TRÌNH GIÁO DỤC PHỔ THÔNG MÔN NGỮ VĂN
Như đã giới thiệu ở chương 1, các chỉ số thực hiện tính cân bằng, cân đối
của chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn bao gồm tám nội dung. Tuy
nhiên, chúng tôi chỉ tiến hành phân tích, đánh giá bốn nội dung, bao gồm:
2.1. Cân bằng về thời lượng thời gian của phân môn/ văn bản này với phân
môn/ văn bản khác trong cùng khối kiến thức.
Cân bằng về thời lượng thời gian là việc phân bổ thời gian học tập hợp lý
cho các phân môn/ văn bản trong cùng khối kiến thức. Việc này nhằm đảm bảo
cho học sinh có đủ thời gian để tiếp thu đầy đủ kiến thức, rèn luyện kỹ năng và
phát triển năng lực trong từng phân môn/ văn bản.
Chương trình giáo dục phổ thông 2018 môn Ngữ văn theo Phó Giáo sư -
Tiến sĩ Đỗ Ngọc Thống, Tổng chủ biên chương trình môn Tiếng Việt/ Ngữ văn,
điểm thì yêu cầu cần đạt của mỗi lớp sẽ tập trung vào bốn kỹ năng lớn: đọc,
viết, nói và nghe. Đọc bao gồm yêu cầu đọc đúng và đọc hiểu. Yêu cầu về đọc
hiểu bao gồm các yêu cầu hiểu văn bản (trong đó có cả đọc thẩm mỹ, cảm thụ,
thưởng thức và đánh giá) và hiểu chính mình (người đọc). Mỗi phân môn lại
bao gồm nhiều chủ đề và nội dung học tập khác nhau. Việc cân bằng thời lượng
thời gian cho các phân môn/ văn bản trong môn Ngữ văn sau 2018 là một vấn
đề quan trọng nhằm đảm bảo học sinh có đủ thời gian để tiếp thu kiến thức, rèn
luyện kỹ năng và phát triển năng lực toàn diện.
Ưu điểm :
- Giúp học sinh tiếp thu kiến thức đầy đủ và hiệu quả: Khi có đủ thời gian
học tập cho từng phân môn/ văn bản, học sinh sẽ có thể hiểu rõ nội dung, nắm
vững kiến thức và ghi nhớ dài lâu.
- Phát triển toàn diện các kỹ năng: Môn Ngữ văn bao gồm nhiều kỹ năng
quan trọng như đọc, viết, nói, nghe,...Việc dành nhiều thời gian phù hợp cho
từng phân môn/ văn bản sẽ giúp học sinh rèn luyện được đầy đủ các kỹ năng
này. Góp phần giúp học sinh dễ dàng phát triển các năng lực khác như năng lực
cảm thụ thẩm mỹ, năng lực giao tiếp, tư duy phản biện,...
- Tạo hứng thú học tập: Khi học tập không bị quá tải hay quá nhàn rỗi,
học sinh sẽ cảm thấy hứng thú và thoải mái hơn trong quá trình học tập.
- Giảm căng thẳng, áp lực: Việc phân bố thời gian hợp lý giúp học sinh
tránh được tình trạng học tập quá sức, dẫn đến căng thẳng và áp lực. Điều này
sẽ gây tác dụng ngược, khiến học sinh giảm bớt hứng thú đối với phân môn/ văn
bản thậm chí là đối với môn học trong quá trình học tập.
Nhược điểm:
- Khó khăn trong việc phân bổ thời gian hợp lý: Việc phân bổ thời gian
cho từng phân môn/ văn bản cần dựa trên nhiều yếu tố như độ khó, trọng tâm
chương trình, sở thích và khả năng tiếp thu của học sinh. Do đó, việc này có thể
gặp nhiều khó khăn và đòi hỏi sự cân nhắc kỹ lưỡng.
- Có thể ảnh hưởng đến kết quả học tập của một số học sinh: Nếu thời
lượng thời gian dành cho một phân môn/ văn bản nào đó quá ít, học sinh có thể
không có đủ thời gian để ôn tập và củng cố kiến thức, dẫn đến kết quả học tập
không tốt.
- Cần có sự điều chỉnh linh hoạt: Việc cân bằng thời lượng thời gian cần
được điều chỉnh linh hoạt theo từng giai đoạn học tập và từng học sinh cụ thể.
Đây luôn là vấn đề nan giải, khó khăn của giáo viên trong quá trình xây dựng kế
hoạch dạy học cho học sinh.
Ví dụ:
Chương trình Tiểu học:
- Phân môn:
+ Nên dành 30-40% thời lượng cho đọc, 30-40% cho viết, 20-30% cho
ngữ pháp, 10% cho nghe và nói.
+ Lý do: Ở giai đoạn này, học sinh cần tập trung phát triển các kỹ năng
ngôn ngữ cơ bản như đọc, viết, nghe và nói. Ngữ pháp được học ở mức độ cơ
bản để giúp học sinh sử dụng ngôn ngữ một cách chính xác.
- Văn bản:
+ Nên dành thời gian học đều đặn cho các tác phẩm văn học thuộc các thể
loại khác nhau như truyện cổ tích, thơ ca, truyện ngắn.
+ Lý do: Việc học tập đa dạng các tác phẩm văn học giúp học sinh phát
triển trí tưởng tượng, khả năng cảm thụ cái đẹp và bồi dưỡng tâm hồn.
Chương trình trung học cơ sở:
- Phân môn:
+ Nên dành 30-40% thời lượng cho ngữ pháp, 30-40% cho nghị luận văn
học, 20-30% cho tác phẩm văn học, 10% cho đọc và viết.
+ Lý do: Ở giai đoạn này, học sinh cần củng cố kiến thức ngữ pháp, rèn
luyện kỹ năng làm bài văn và học tập các tác phẩm văn học theo yêu cầu của
chương trình học.
- Văn bản:
+ Nên dành nhiều thời gian hơn cho các tác phẩm văn học tiêu biểu thuộc
các thể loại chính như truyện ngắn, thơ ca, kịch.
+ Lý do: Các tác phẩm văn học tiêu biểu thường có nội dung sâu sắc, giá
trị nghệ thuật cao, giúp học sinh nâng cao hiểu biết về xã hội và cuộc sống.
Chương trình trung học phổ thông:
- Phân môn:
+ Nên dành 30-40% thời lượng cho nghị luận văn học, 30-40% cho tác
phẩm văn học theo yêu cầu thi THPT, 20% cho ngữ pháp, 10% cho đọc và viết.
+ Lý do: Ở giai đoạn này, học sinh cần tập trung ôn tập các tác phẩm văn
học trong chương trình học THPT để chuẩn bị cho kỳ thi đại học.
- Văn bản:
+ Nên dành nhiều thời gian hơn cho các tác phẩm văn học có nội dung
liên quan đến chuyên ngành thi đại học của học sinh.
+ Ví dụ: Học sinh thi đại học khối C cần dành nhiều thời gian học các tác
phẩm văn học có nội dung xã hội, học sinh thi đại học khối A cần dành nhiều
thời gian học các tác phẩm văn học có nội dung khoa học.
2.2. Cân bằng giữa mục tiêu hay chuẩn đầu ra và nội dung của môn học
Mục tiêu chung của chương trình môn Ngữ văn sau 2018 đó chính là hình
thành và phát triển cho học sinh những phẩm chất chủ yếu: yêu nước, nhân ái,
chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm; bồi dưỡng tâm hồn, hình thành nhân cách và
phát triển cá tính. Môn Ngữ văn giúp học sinh khám phá bản thân và thế giới
xung quanh, thấu hiểu con người, có đời sống tâm hồn phong phú, có quan niệm
sống và ứng xử nhân văn; có tình yêu đối với tiếng Việt và văn học; có ý thức
về cội nguồn và bản sắc của dân tộc, góp phần giữ gìn, phát triển các giá trị văn
hóa Việt Nam, có tinh thần tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại và khả năng hội
nhập quốc tế.
Môn Ngữ văn còn góp phần giúp phát triển các năng lực chung, phát triển
năng lực ngôn ngữ và năng lực văn học: rèn luyện các kĩ năng đọc, viết, nói và
nghe, có hệ thống kiến thức phổ thông nền tảng về tiếng Việt và văn học, phát
triển tư duy trừu tượng và tư duy logic, góp phần hình thành học vấn căn bản
của một người có văn hóa; biết tạo lập các văn bản thông dụng; biết tiếp nhận,
đánh giá các văn bản văn học nói riêng, các sản phẩm giao tiếp và các giá trị
thẩm mĩ nói chung trong cuộc sống.
Chính vì thế, cân bằng giữa mục tiêu, chuẩn đầu ra và nội dung của môn
học là một vấn đề quan trọng trong việc xây dựng chương trình giáo dục, đặc
biệt là đối với môn Ngữ văn sau 2018. Việc cân bằng này nhằm đảm bảo học
sinh có thể đạt được mục tiêu học tập, đáp ứng chuẩn đầu ra và tiếp thu đầy đủ
nội dung chương trình.
Ưu điểm :
- Giúp học sinh đạt được mục tiêu học tập: Mục tiêu học tập là những yêu
cầu cụ thể về kiến thức, kỹ năng và năng lực mà học sinh cần đạt được sau khi
hoàn thành chương trình học. khi nội dung chương trình được thiết kế phù hợp
với mục tiêu học tập, học sinh sẽ có thể tiếp thu kiến thức một cách hiệu quả và
đạt được kết quả tốt trong học tập.
- Đáp ứng chuẩn đầu ra: Chuẩn đầu ra là những yêu cầu về kiến thức, kỹ
năng và năng lực mà học sinh cần đạt được sau khi hoàn thành từng cấp học.
Việc cân bằng giữ mục tiêu, chuẩn đầu ra và nội dung sẽ giúp học sinh có thể
đáp ứng được các yêu cầu này và sẵn sàng cho những bậc học tiếp theo.
- Giúp học sinh tiếp thu đầy đủ nội dung chương trình: Nội dung chương
trình là những kiến thức, kỹ năng và năng lực mà học sinh cần học tập trong
một môn học. Khi nội dung chương trình được thiết kế phù hợp với mục tiêu
học tập và chuẩn đầu ra, học sinh sẽ có thể tiếp thu đầy đủ kiến thức và rèn
luyện được các kỹ năng cần thiết.
- Tăng hiệu quả giảng dạy: Khi mục tiêu, chuẩn đầu ra và nội dung
chương trình được cân bằng, giáo viên có thể dễ dàng xây dựng kế hoạch giảng
dạy phù hợp và hiệu quả hơn. Tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên trong quá
trình giáo dục tri thức cho học sinh, và quá trình lĩnh hội tri thức của học sinh.
Nhược điểm:
- Khó khăn trong việc thiết kế: Việc thiết kế chương trình giáo dục sao
cho cần bằng giữa mục tiêu, chuẩn đầu ra và nội dung là một công việc đòi hỏi
nhiều thời gian và công sức.
- Cần có sự phối hợp chặt chẽ: Việc cân bằng cần có sự phối hợp chặt chữ
giữa các bộ phận liên quan như ban soạn thảo chương trình, giáo viên, nhà
trường và phụ huynh học sinh.
- Cần có sự điều chỉnh linh hoạt: Chương trình giáo dục cần được điều
chỉnh linh hoạt theo từng giai đoạn và từng đối tượng học sinh.
Ví dụ:
1) Xây dựng các tình huống có vấn đề trong dạy học đọc hiểu văn bản:
- Mục tiêu: Phát triển tư duy phản biện cho học sinh.
- Chuẩn đầu ra: Học sinh biết tranh luận về các vấn đề tồn tại trong văn
bản.
- Nội dung: Sử dụng các tình huống dạy học có vấn đề để phát triển tư
duy phản biện cho học sinh.
2) Ví dụ về bài tập tình huống trong dạy học môn Ngữ văn:
- Mục tiêu: Nâng cao chất lượng học tập của học sinh.
- Chuẩn đầu ra: Học sinh biết tranh luận về các vấn đề tồn tại trong văn
bản.
- Nội dung: Chuẩn bị đầy đủ cho một tiết lên lớp, trong khâu soạn bài cần
đảm bảo đủ năm bước lên lớp.
2.3. Cân đối về tỉ lệ giữa nội dung lý thuyết và thực hành của môn học
Cân đối về tỉ lệ giữa nội dung lý thuyết và thực hành là một vấn đề quan
trọng trong việc xây dựng chương trình giáo dục môn Ngữ văn sau 2018. Việc
cân đối này nhằm đảm bảo học sinh có thể tiếp thu đầy đủ kiến thức lý thuyết và
rèn luyện được các kỹ năng thực hành cần thiết. Bởi lý thuyết cung cấp nền tảng
kiến thức cho học sinh, giúp học sinh hiểu rõ bản chất của vấn đề và có sơ sở để
áp dụng vào thực tế. Thực hành giúp học sinh rèn luyện các kỹ năng, vận dụng
kiến thức đã học vào giải quyết vấn đề thực tế, phát triển tư duy phản biện và
sáng tạo.
Tỉ lệ lý thuyết và thực hành phù hợp thường phụ thuộc vào nhiều yếu tố
có cả khách quan và chủ quan như: Mục tiêu học tập, đặc điểm học tập của học
sinh, điều kiện thực tế của nhà trường.
Theo chương trình Ngữ văn lớp 10 sách Chân trời sáng tạo, không có quy
định cụ thể về tỉ lệ thời gian lượng dạy lý thuyết và thực hành. Thay vào đó,
giáo viên được khuyến khích linh hoạt điều chỉnh thời lượng dạy học phù hợp
với mục tiêu học tập, đặc điểm của học sinh và điều kiện thực tế của nhà trường.
Tuy nhiên, theo hướng dẫn chung, giáo viên dành khoảng 60% thời lượng
cho việc dạy học lý thuyết và 40% thời lượng cho việc tổ chức các hoạt động
thực hành.
Dạy lý thuyết tập trung vào việc giúp học sinh nắm vững kiến thức về
tiếng Việt và văn học. Các nội dung lý thuyết bao gồm:
- Tiếng Việt (ngữ pháp, ngữ nghĩa, ngữ âm, chính tả…)
- Văn học (văn học dân gian, văn học trung đại, văn học hiện đại,...).
Dạy thực hành tập trung vào việc giúp học sinh rèn luyện các kỹ năng
đọc hiểu, viết, nói, nghe và tư duy phản biện. Các hoạt động thực hành có thể
bao gồm:
- Luyện viết: các bài văn nghị luận, phân tích, thuyết minh…
- Thảo luận nhóm: thảo luận về một chủ đề, nội dung trong quá trình học.
- Thuyết trình: Thuyết trình về một chủ đề liên quan theo yêu cầu của
giáo viên.
- Học tập dự án: Học sinh được luyện tập nghiên cứu khoa học,...
- Tham gia các hoạt động ngoại khóa: tham gia các câu lạc bộ học thuật
về Văn học, các cuộc thi học sinh giỏi, các sân chơi chủ đề văn học.
Ưu điểm:
- Giúp học sinh tiếp thu đầy đủ kiến thức lý thuyết: Kiến thức lý thuyết là
nền tảng để học sinh học tập và rèn luyện các kỹ năng thực hành. Khi nội dung
lý thuyết được thiết kế phù hợp, học sinh sẽ có thể hiểu rõ bản chất của vấn đề
và có cơ sở để áp dụng vào thực tế.
- Rèn luyện được các kỹ năng thực hành: Kỹ năng thực hành là những
khả năng cụ thể mà học sinh cần có để thực hiện sau khi học tập. Việc dành thời
gian cho thực hành sẽ giúp học sinh rèn luyện được các kỹ năng này một cách
có hiệu quả.
- Phát triển tư duy phản biện: Khi học sinh có thể liên hệ kiến thức lý
thuyết với thực tế, họ sẽ có thể phát triển tư duy phản biện và khả năng giải
quyết vấn đề.
- Tăng hứng thú học tập: Việc học tập kết hợp giữa lý thuyết và thực hành
sẽ giúp học sinh cảm thấy hứng thú hơn trong học tập.
Nhược điểm:
- Khó khăn trong việc thiết kế: Việc thiết chương trình giáo dục sao cho
cân đối giữa lý thuyết và thực hành là một công việc đòi hỏi nhiều thời gian và
công sức. Với áp lực tròng dung lượng bài dạy của chương trình mới, giáo viên
gặp nhiều trở ngại trong việc tổ chức hoạt động thực hành cho học sinh mà vẫn
phải đảm bảo được tiến độ và dung lượng chương trình đề ra.
- Cần có sự đầu tư về cơ sở vật chất: Việc tổ chức dạy học thực hành cần
có sự đầu tư về cơ sở vật chất, trang thiết bị và tài liệu. Hiện nay, nhiều trường
phổ thông vẫn chưa có điều kiện trang bị máy chiếu, ti vi. Học sinh chưa có
điều kiện trang bị các thiết bị học tập phù hợp như laptop. Đây cũng là một khó
khăn của giáo viên và học sinh khi tổ chức dạy học thực hành áp dụng công
nghệ thông tin.
- Cần có sự phối hợp chặt chẽ: Việc cần đối cần có sự phối hợp chặt chẽ
giữa giáo viên, học sinh và nhà trường. Nhà trường phải tạo điều kiện thuận lợi
để giáo viên tổ chức các giờ học thực hành (có thể là trong lớp học hoặc ngoài
lớp học), học sinh phải phối hợp với giáo viên, tích cực chuẩn bị bài học theo
yêu cầu của giáo viên,...
Ví dụ:
- Tiểu học:
+ Nên dành nhiều thời gian hơn cho các hoạt động thực hành như đọc,
viết, kể chuyện, diễn kịch để giúp học sinh phát triển các kỹ năng ngôn ngữ một
cách tự nhiên.
+ Nội dung lý thuyết nên được giới thiệu một cách đơn giản, dễ hiểu
thông qua các ví dụ cụ thể và các hoạt động thực tiễn.
- Trung học cơ sở:
+ Nên dành thời gian cân bằng giữa lý thuyết và thực hành.
+ Học sinh cần học tập lý thuyết một cách cơ bản để có kiến thức nền
tảng vững vàng.
+ Tuy nhiên, học sinh cũng cần tham gia nhiều hoạt động thực hành như
phân tích tác phẩm văn học, thảo luận nhóm, sáng tác văn bản để rèn luyện kỹ
năng vận dụng kiến thức vào thực tế.
- Trung học phổ thông:
+ Nên dành nhiều thời gian hơn cho việc ôn tập lý thuyết để chuẩn bị cho
kỳ thi đại học.
+ Tuy nhiên, học sinh cũng cần tham gia các hoạt động thực hành như
viết bài luận, thuyết trình để rèn luyện kỹ năng tư duy phản biện và khả năng
diễn đạt.
2.4. Cân đối về hình thức tổ chức các hoạt động giảng dạy môn học
Hình thức tổ chức hoạt động giảng dạy là cách thức mà giáo viên sử dụng
để tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh trong quá trình giảng dạy. Việc
lựa chọn hình thức tổ chức hoạt động giảng dạy là cách giúp học sinh hiểu và
nhớ những gì đã học. Một số chiến lược giảng dạy tốt nhất và cho phép các nhà
giáo dục truyền đạt thông tin một cách rõ ràng và súc tích đồng thời đảm bảo
học sinh ghi nhớ thông tin đó trong thời gian lâu dài.
Tổ chức hoạt động giảng dạy là cơ hội để làm cho việc học trở nên hấp
dẫn, truyền cảm hứng và niềm vui cho học sinh. Nó hỗ trợ giáo viên hoàn thành
trách nhiệm hướng dẫn sự phát triển xã hội và tình cảm của trẻ em. Bằng cách
sử dụng các chiến lược phù hợp sẽ giúp học sinh tiếp thu kiến thức một cách
hiệu quả, phát triển các kỹ năng cần thiết và có hứng thú hơn trong học tập.
Đối với môn Ngữ văn, một số hình thức tổ chức các hoạt động giảng dạy
môn học tiêu biểu như:
- Hình thức truyền thống: giảng bài, giải thích bài, thảo luận nhóm, luyện
tập viết văn,...
- Hình thức hiện đại: áp dụng công nghệ thông tin vào dạy học, tổ chức
các hoạt động học tập qua trò chơi,...
- Dự án: Học sinh thực hiện một dự án học tập theo chủ đề, vấn đề quan
tâm, rèn luyện kỹ năng nghiên cứu, giải quyết vấn đề, sáng tạo.
- Hoạt động ngoại khóa: Học sinh tham gia các hoạt động học tập ngoài
giờ lên lớp như tham quan viện bảo tàng, các hoạt động văn nghệ…
Ưu điểm:
- Giúp học sinh tiếp thu kiến thức một cách hiệu quả: Việc sử dụng đa
dạng các hình thức giảng dạy sẽ giúp học sinh tiếp thu kiến thức từ nhiều góc độ
khác nhau, từ đó ghi nhớ kiến thức lâu dài hơn.
- Phát triển các kỹ năng cần thiết: Mỗi hình thức giảng dạy sẽ giúp rèn
luyện cho học sinh những kỹ năng khác nhau như tư duy phản biện, kỹ năng
làm việc nhóm, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng giao tiếp,...
- Tăng hứng thú học tập: Việc học tập không còn nhàm chán khi học sinh
được tham gia vào các hoạt động học tập đa dạng, sinh động,
- Phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh: Học sinh sẽ có cơ hội thể
hiện bản thân, bày tỏ ý kiến và tham gia vào quá trình học tập một cách tích
cực.
Nhược điểm:
- Khó khăn trong việc thiết kế bài giảng: Việc thiết kế bài giảng sao cho
cân bằng giữa các hình thức dạy học là một công việc đòi hiểu nhiều thời gian
và công sức.
- Cần có sự đầu tư về cơ sở vật chất: Việc tổ chức một số hình thức dạy
học như hoạt động ngoại khóa, các hình thức dạy học hiện đại cần có sự đầu tư
về cơ sở vật chất, trang thiết bị, tài liệu. Đây luôn là trở ngại lớn nhất trong quá
trình tổ chức dạy học của giáo viên.
Ví dụ:
- Tiểu học:
Nên sử dụng đa dạng các hình thức tổ chức hoạt động giảng dạy như:
+ Giảng dạy trực tiếp: Giáo viên truyền đạt kiến thức cho học sinh thông
qua bài giảng.
+ Hoạt động nhóm: Học sinh thảo luận, chia sẻ thông tin với nhau trong
nhóm.
+ Hoạt động thực hành: Học sinh thực hiện các bài tập, dự án để rèn
luyện kỹ năng.
+ Hoạt động vui chơi: Học sinh tham gia các trò chơi học tập để tạo hứng
thú và thư giãn.
- Trung học cơ sở:
Nên sử dụng kết hợp các hình thức tổ chức hoạt động giảng dạy như:
+ Giảng dạy trực tiếp: Giáo viên truyền đạt kiến thức cho học sinh thông
qua bài giảng, kết hợp với sử dụng các phương tiện dạy học hiện đại như máy
tính, máy chiếu.
+ Hoạt động nhóm: Học sinh thảo luận, chia sẻ thông tin với nhau trong
nhóm để phát triển khả năng làm việc nhóm và kỹ năng giao tiếp.
+ Hoạt động thực hành: Học sinh thực hiện các bài tập, dự án để rèn
luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tế.
- Trung học phổ thông:
Nên sử dụng linh hoạt các hình thức tổ chức hoạt động giảng dạy như:
+ Giảng dạy trực tiếp: Giáo viên hướng dẫn học sinh học tập theo phương
pháp tự chủ, học sinh tự nghiên cứu tài liệu, thảo luận nhóm và trình bày kết
quả học tập.
+ Hoạt động nghiên cứu: Học sinh tự nghiên cứu, tìm hiểu tài liệu để phát
triển tư duy phản biện và khả năng giải quyết vấn đề.
+ Hoạt động thảo luận: Học sinh thảo luận, chia sẻ thông tin với nhau để
phát triển khả năng tư duy logic và kỹ năng tranh biện.
+ Hoạt động thực hành: Học sinh thực hiện các bài tập, dự án để rèn
luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tế.
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM ĐẢM BẢO “TÍNH CÂN BẰNG,
CÂN ĐỐI” TRONG CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC PHỔ THÔNG MÔN
NGỮ VĂN 2018
Chương trình giáo dục phổ thông nói chung và môn Ngữ văn nói riêng
được đánh giá cao về tính đổi mới, hướng đến phát triển năng lực cho học sinh.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được về nội dung, mục tiêu, yêu cầu,
phương pháp tổ chức, đánh giá…. thì vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề. Chúng tôi
mạnh dạn nếu ra một số bất cập của chương trình và đưa ra giải pháp để chương
trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn ngày càng hoàn thiện hơn
3.1. Giải pháp nhằm tăng tính cân bằng về thời lượng thời gian của phân môn/
văn bản này với phân môn/ văn bản khác trong cùng khối kiến thức.
1) Phân bổ thời lượng thời gian hợp lý cho các tiêu chí:
- Nội dung, tầm quan trọng: Phân môn/ văn bản có nội dung quan trọng,
mang tính nền tảng cần được dành nhiều thời gian hơn để học sinh nắm vững
kiến thức.
- Mức độ khó: Phân môn/ văn bản có nội dung khó, phức tạp cần được
dành nhiều thời gian hơn để học sinh tiếp thu và luyện tập.
- Sở thích, nhu cầu của học sinh: Cần khảo sát sở thích, nhu cầu của học
sinh để điều chỉnh thời lượng thời gian cho phù hợp, đảm bảo học sinh hứng thú
với việc học tập.
- Mục tiêu học tập: Xác định mục tiêu cụ thể của từng tiết học, từng chủ
đề để phân bổ thời lượng, thời gian cho phù hợp.
2) Tổ chức các hoạt động học tập phong phú, đa dạng
- Hoạt động đọc hiểu: Đọc tác phẩm, thảo luận, trả lời câu hỏi, viết bài
thu hoạch,..
- Hoạt động phân tích: Viết văn phân tích một tác phẩm văn học, trình
bày bài phân tích tác phẩm văn học.
- Hoạt động sáng tạo: Diễn kịch, vẽ tranh,...
- Hoạt động ngoại khóa: tham quan viện bảo tàng, thư viện,...
3.2. Giải pháp nhằm tăng tính cân bằng giữa mục tiêu hay chuẩn đầu ra và nội
dung của môn học.
1) Xác định rõ mục tiêu và chuẩn đầu ra: Cần xác định rõ các mục tiêu và
chuẩn đầu ra của môn học Ngữ văn trong chương trình giáo dục phổ thông
2018, điều này giúp giáo viên và nhà giáo dục hiểu được những gì cần đạt được
và phát triển từ học sinh.
2) Phân tích nội dung môn học: Phân tích kỹ lưỡng nội dung môn học để
xem những phản ánh về mục tiêu hay chuẩn đầu ra. Thường xuyên kiểm tra,
đánh giá học sinh để kịp thời xem xét những yêu cầu đã đạt được của mục tiêu,
chuẩn đầu ra.
3) Điều chỉnh nội dung môn học: Dựa trên phân tích, cần điều chỉnh nội
dung môn học để đảm bảo rằng nó phản ánh và hỗ trợ việc đạt được các mục
tiêu và chuẩn đầu ra. Có thể thay đổi, điều chỉnh phù hợp với phẩm chất và
năng lực của học sinh.
4) Tổ chức hoạt động giảng dạy phù hợp: Dựa trên nội dung đã điều
chỉnh, cần phát triển các bài giảng và hoạt động giảng dạy phù hợp để giúp học
sinh đạt được các mục tiêu và chuẩn đầu ra. Các bài giảng và hoạt động này nên
được thiết kế sao cho phản ánh và ứng dụng nội dung môn học một cách hiệu
quả.
3.3. Giải pháp nhằm tăng tính cân đối về tỉ lệ giữa nội dung lý thuyết và thực
hành của môn học
1) Phân tích chương trình học hiện hành
- Xác định tỉ lệ giữa nội dung lý thuyết và thực hành của môn học.
- Xác định những nội dung lý thuyết cần được tăng cường thực hành.
2) Xác định mục tiêu cụ thể cho việc tăng cường thời gian thực hành:
- Mục tiêu cần cụ thể, rõ ràng, đánh giá đúng.
- Phù hợp với năng lực của học sinh và điều kiện cơ sở vật chất thực tế
của nhà trường.
3) Thiết kế chương trình môn học sao cho có sự đa dạng giữa các hoạt
động lý thuyết và thực hành.
3.4. Giải pháp nhằm tăng tính cân đối về hình thức tổ chức các hoạt động
giảng dạy môn học
1) Sử dụng phương pháp đa dạng: Đảm bảo sự đa dạng trong cách tổ
chức hoạt động giảng dạy, bao gồm bài giảng truyền thống, thảo luận nhóm,
hoạt động thực hành, phân tích văn bản, biểu diễn nghệ thuật, sử dụng công
nghệ.
2) Tạo môi trường học tập linh hoạt: Tạo điều kiện cho học sinh tham gia
vào nhiều hoạt động khác nhau, từ các buổi thảo luận nhóm đến việc thực hành
viết và biểu diễn. Một môi trường linh hoạt sẽ khuyến khích sự tham gia và sự
tích cực của học sinh.
3) Tích hợp công nghệ: Sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông
trong giảng dạy như việc sử dụng laptop, phần mềm giáo dục, các công cụ trực
tuyến để tạo ra các hoạt động hấp dẫn, tăng sự tương tác cho học sinh.
4) Tổ chức các hoạt động thực hành: Đảm bảo rằng các hoạt động thực
hành như thảo luận nhóm, thuyết trình, dự án, hoạt động ngoài lớp học diễn ra
một cách thường xuyên và phù hợp.

KẾT LUẬN
Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn 2018 được đánh giá là
một bước tiến quan trọng trong đổi mới giáo dục, góp phần nâng cao chất lượng
dạy và học tập môn Ngữ văn ở bậc THCS, THPT và môn Tiếng Việt ở TH. Một
trong những điểm nổi bật của chương trình là đề cao tiêu chí 4: tính cân bằng,
cân đối.
Đối với chương trình giáo dục đại học, “tính cân bằng, cân đối” là một
vấn đề đáng được quan tâm chú ý; “tính cân bằng, cân đối” xác định tỷ lệ giữa
các khối kiến thức các phân môn, giữa các khối kiến thức lý thuyết và thực
hành, kiến thức cơ sở, khối kiến thức mục tiêu và nội dung của một chương
trình giáo dục.
Tính cân bằng về cấu trúc nội dung của môn học đề cập đến việc tổ chức
và xây dựng nội dung môn học sao cho phù hợp và hiệu quả. Điều này có thể
bao gồm việc phân chia nội dung thành các phần nhỏ hơn, sắp xếp logic, và
đảm bảo tính liên kết giữa các phần nội dung nhằm tạo môi trường giáo dục
toàn diện và hiệu quả cho học sinh.
Từ đây ta có thể thấy, việc tìm hiểu và nghiên cứu về chương trình giáo
dục phổ thông môn Ngữ văn đặc biệt là tìm hiểu về các tiêu chí “tính cân bằng,
cân đối” sẽ giúp cho người dạy và người học hiểu hơn về chương trình môn
Ngữ văn. Đánh giá đúng về chương trình môn Ngữ văn là cơ sở để người dạy
lập kế hoạch dạy học một cách phù hợp, đúng với yêu cầu đặt ra. Hiểu đúng về
chương trình môn Ngữ văn là tiền đề để người học xác định cho mình được
những mục tiêu, xây dựng kế hoạch học tập phù hợp với bản thân và yêu cầu
của chương trình.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2018). Chương trình giáo dục phổ thông - Chương
trình tổng thể (ban hành kèm theo Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT ngày
26/12/2018 của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT).
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2018). Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ
văn (ban hành kèm theo Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26/12/2018 của
Bộ trưởng Bộ GD-ĐT).
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2018). Chương trình Ngữ văn xây dựng theo hướng
mở. Truy cập ngày 3/5/2024, từ https://s.net.vn/osld.
4. Trần Hữu Hoan. (2011). Phát triển chương trình giáo dục phổ thông (Tập bài
giảng dành cho học viên khóa đào tạo chuyên ngành quản lý giáo dục, Đại học
quốc gia Hà Nội, Việt Nam).
5. Mai Vũ. (2023). Chín phương pháp giảng dạy của giáo viên giúp dạy học
hiệu quả hơn. Truy cập ngày 3/5/2024, từ https://bom.so/LUzqcX.

You might also like