Professional Documents
Culture Documents
vectorstock.com/20159077
Trong Văn Kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII tiếp tục khẳng định
“Giáo dục là quốc sách hàng đầu, phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục
chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất
người học; học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn. Phát triển giáo dục và
đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội”. Đổi mới phương pháp
dạy học nói chung và dạy học Ngữ văn nói riêng theo hướng lấy người học làm
trung tâm, phát huy tính tích cực, năng động sáng tạo của học sinh đã và đang là
mối quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu giáo dục học bộ môn và đông đảo giáo
viên phổ thông.
Trên tinh thần đổi mới, được đặt ra là làm sao xóa bỏ các phương pháp dạy
học văn cũ, phương pháp giáo điều mà theo Giáo sư Phan Trọng Luận thì đó là
“Một trở lực cho công cuộc phát huy nội lực của tuổi trẻ và của dân tộc ta trong
bước chuyển sang thế kỉ XXI” để thay bằng những phương pháp mới nhằm giải
phóng và phát huy tính tích cực, chủ động và tiềm năng sáng tạo và vận dụng kiến
thức kỹ năng của học sinh góp phần nâng cao chất lượng dạy học Văn. Là thay đổi
quan trọng của chương trình giáo dục chuyển từ dạy học sinh biết (biết những cái
gì?) sang dạy học sinh làm (làm được những gì?). Chính vì vậy, giáo viên của các
bộ môn đều chuyển sang dạy học theo định hướng phát triển năng lực là phương
pháp dạy học từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực, thay đổi cách
nghĩ, cách làm nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến
thức, nâng cao kĩ năng cho người học.
Do vậy, các khâu trong quá trình dạy học môn Ngữ văn đều phải đổi mới
theo hướng phát triển năng lực cho người học. Trong đó, không loại trừ khâu đặt
câu hỏi trong dạy học, kiểm tra đánh giá theo hướng chú trọng đánh giá phẩm chất
và năng lực người học qua sản phẩm trong tiết day hay trong chương trình có thể:
Đánh giá trên lớp, đánh giá bằng nhận xét, bằng bài thuyết trình, vận dụng luyện
tập tạo ra sản phẩm với các dạng bài tập nhanh, kiểm tra thường xuyên, kiểm tra
định kì trong năm học. Việc đặt câu hỏi trong quá trình dạy học không chỉ là việc
xem học sinh học được cái gì mà quan trọng hơn là biết học sinh học như thế nào?
Có biết vận dụng không? Từ đó giúp các em phát huy được năng lực sở trường gì
của mình. Để có được chính xác, công bằng, đảm bảo yêu cầu đổi mới theo hướng
phát triển năng lực người học qua khả năng đọc hiểu văn bản (đọc - viết - nói -
nghe) thì khâu hệ thống hóa hình thức đặt câu hỏi cũng là một mắc xích quan trọng
trong quá trình đổi mới ấy. Bởi hình thức đặt câu hỏi hướng dẫn, giao nhiệm vụ là
hình thức kiểm tra có sự trao đổi trực tiếp nên việc nhận xét, đánh giá tính sinh
1
động, hấp dẫn của tiết học giúp cho người học hình thành kĩ năng, năng lực, sở
trường hay hạn chế từ đó có điều chỉnh chủ động tiếp nhận, lý giải, cắt nghĩa, phân
tích... chiếm lĩnh cái hay, cái đẹp về tư tưởng nghệ thuật của chuyên đề/ chủ đề
cũng như điề chỉnh cách dạy hợp lí hơn.
Từ đó, định hướng các năng lực có thể hình thành và phát triển cho học sinh
(HS) những phẩm chất tốt đẹp: Yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực và trách
nhiệm, hình thành nhân cách bồi dưỡng tâm hồn và phát triển cá tính góp phần
phát triển các năng lực chung như: Năng lực tự chủ, năng lực giao tiếp và hợp tác,
năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo. Đồng thời giúp học sinh phát triển năng
lực ngôn ngữ và năng lực văn học: Rèn luyện các kĩ năng đọc - viết - nói - nghe;
Phát triển tư duy hình tượng và tư duy logic góp phần hình thành học vấn căn bản
của một người có văn hóa. Thực hiện đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn khiến
cho quá trình dạy học văn không còn được nhìn nhận như là một quá trình giáo dục
đơn phương, một chiều, từ ngoài mà là một quá trình tổng hợp nhiều quá trình,
trong đó học sinh mình tiếp cận, khám phá, chiếm lĩnh tác phẩm văn học (TPVH),
dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên trở thành cốt lõi.
Qua thực tế khảo sát cho thấy muốn thực hiện thành công mục tiêu dạy học
lấy người học làm trung tâm định hướng các năng lực có thể hình thành và phát
triển, biến giờ đọc văn thực sự trở thành giờ đọc hiểu của cả thầy và trò, thoát khỏi
quỹ đạo của phương pháp cổ truyền, người giáo viên phải biến giờ học thành một
giờ hoạt động phát triển phẩm chất và năng lực nâng cao kĩ năng, trao đổi chân
thực và đầy sinh động. Trên tinh thần đó, giáo án không phải là bài thuyết giảng
mà là một bản thiết kế những hoạt động, việc làm cụ thể để giúp học sinh tự mình
chiếm lĩnh tác phẩm. Do đó, việc quan tâm nghiên cứu kĩ năng đọc hiểu và xây
dựng, vận dụng “Hệ thống câu hỏi theo cấp độ nhằm nâng cao kĩ năng (đọc -
viết - nói - nghe) trong văn bản kịch cho học sinh THPT Ngô Lê Tân” với mong
muốn góp thêm một số vấn đề về lí luận và thực tiễn đối với việc dạy học văn bản
kịch trong nhà trường Trung học phổ thông (THPT) là điều rất cần thiết trong quá
trình dạy học.
Từ nội dung cụ thể trong sách giáo khoa (SGK) Ngữ văn cho thấy, hiện nay
hệ thống câu hỏi dạy học tác phẩm văn chương chưa được vận dụng một cách có
hiệu quả. Đặc biệt là đối với những văn bản kịch - một thể loại có nhiều đặc trưng
và tương đối khó đối với học sinh thì việc phát triển kĩ năng tự đọc hiểu văn bản
cho học sinh chưa được qua tâm đúng mức. Tuy nhiên, một thực tế cho thấy việc
sử dụng câu hỏi trong dạy học chủ đề hay văn bản kịch chưa được giáo viên chú ý
vận dụng triệt để và chưa thực sự mang lại hiệu quả. Về mặt lí luận cũng chưa có
một công trình nào đặt vấn đề một cách sâu sắc, chuyên biệt về cơ sở khoa học cho
việc xây dựng hệ thống câu hỏi, phân loại mức độ câu hỏi để có thể định hướng
các năng lực có thể hình thành và phát triển, từ đó học sinh phát huy tính tích cực,
2
năng động sáng tạo và bồi dưỡng năng lực tự đọc hiểu văn bản kịch cho học sinh
Trung học phổ thông.
Dựa vào thực tế dạy hoc Ngữ văn đã nêu trên, tôi nhận thấy hướng nghiên
cứu vấn đề đặt câu hỏi trong dạy học văn thực sự cần thiết và có tính ứng dụng cao
trong dạy học. Nó có ý nghĩa qua trọng trong việc đổi mới phương pháp dạy học
văn và nâng cao chất lượng dạy học văn trong nhà trường. Xuất phát từ những lí do
trên, tôi mạnh dạn và thực hiện đề tài “Hệ thống câu hỏi theo cấp độ nhằm nâng
cao kĩ năng (đọc - viết - nói - nghe) trong văn bản kịch cho học sinh THPT Ngô
Lê Tân” để từ đó định hướng các năng lực có thể hình thành và phát triển với
mong muốn góp một số vấn đề về lí luận và thực tiễn đối với việc dạy học văn bản
kịch trong trường THPT. Trải qua quá trình thực hiện đề tài này, tôi bước đầu tìm
tòi nghiên cứu, tích lũy kinh nghiệm để vận dụng cho công tác dạy học sau này của
bản thân.
1.2. Xác định mục đích nghiên cứu
Belinsky đã từng nói “Văn học có ý nghĩa rất lớn, nó là gia sư của xã hội”.
Hiểu được giá trị to lớn của văn học, từ lâu việc dạy học Ngữ văn luôn là mối quan
tâm hàng đầu của nhà trường và cả xã hội. Đó không chỉ là câu chuyện văn chương
chữ nghĩa mà nói rộng hơn là vấn đề có ý nghĩa chính trị xã hội, ý nghĩa nhân văn.
Ở nước ta đầu những năm 80 của thế kỉ trước, một số chuyên gia đã đưa ra những
quan niệm mới về Giảng văn. Ngay từ việc nhận thức lại tên gọi của phần Đọc văn
trong bộ môn Ngữ văn đã phản ánh một bước tiến trong việc thay đổi nhận thức về
quan niệm, nội dung, mục tiêu và cả phương pháp dạy học.
Môn Ngữ văn một trong những môn học trực tiếp hình thành và phát triển cả
năm phẩm chất chủ yếu cho học sinh. Các phẩm chất này được hình thành và phát
triển thông qua các văn bản ngôn từ và những hình tượng nghệ thuật sinh động
trong các tác phẩm văn học. Từ việc hướng dẫn đọc hiểu các văn bản văn học đặc
sắc. Vì vậy, môn Ngữ văn tạo cho học sinh cơ hôị khám phá bản thân và thế giới
xung quanh, thấu hiểu con người, biết đồng cảm, chia sẻ, có cá tính và đời sống
tâm hồn phong phú,... từ đó bồi dưỡng cho học sinh tình yêu đối với quê hương,
đất nước, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại, có khả năng hội nhập quốc tế,
thấy rõ vai trò và tác dụng của môn học đối với đời sống.
Xuất phát từ mục tiêu hình thành, phát triển các năng lực chung, giải phóng
tiềm năng sáng tạo của học sinh trong dạy học văn, đọc văn trong nhà trường theo
quan niệm mới thực chất là quá trình giáo viên tổ chức, hướng dẫn một cách khoa
học và nghệ thuật để học sinh từng bước đọc, thâm nhập vào văn bản, tìm tòi phát
hiện, phân tích, lí giải, khái quát và tiến hành trao đổi, đối thoại nhằm chiếm lĩnh
những giá trị về tư tưởng và nghệ thuật của một bài văn một cách năng động, tích
cực sáng tạo. Bằng chính những hoạt động của mình học sinh có thể mở rộng tri
3
thức văn hóa, phát triển kĩ năng đọc hiểu, năng lực văn học, bồi dưỡng trí tuệ, tâm
hồn, nhân cách theo mục tiêu giáo dục đào tạo của bộ môn.
Việc xây dựng được hệ thống câu hỏi đảm bảo câu hỏi khoa học, có hiệu
quả rất tích cực đối với việc phát huy tính tích cực sáng tạo, năng lực trí tuệ của
người học cũng như việc tổ chức, hướng dẫn quá trình thâm nhập, tìm tòi phát
hiện, phân tích, lí giải, đối thoại nhằm giúp học sinh chiếm lĩnh những giá trị tư
tưởng nghệ thuật của một tác phẩm văn chương.
Nghiên cứu vấn đề đặt câu hỏi trong dạy học không còn là vấn đề mới trên
thế giới. Ngay từ trước việc đặt câu hỏi trong dạy học đã gắn liền với tên tuổi của
nhà triết học Socrates. Còn đối với Khổng Tử, ông cho rằng khi dạy học là đưa
người học vào tình huống mâu thuẫn, tức là đặt ra cho họ những câu hỏi bẫy để
kích thích cho người học. Để đặt câu hỏi hướng dẫn học sinh đọc hiểu tác phẩm
văn chương từ lâu đã bàn đến ở nhiều góc độ với nhiều ý kiến đa dạng. Theo khảo
sát của tôi, đã có khá nhiều những công trình nghiên cứu, những đề tài khoa học,
tài liêu...đề cập đến vấn đề này. Trong cuốn Văn học Nga - Xô viết, K.A.Kovalev
nhận xét “Mỗi chương sách giáo khoa được kết thúc bằng một hệ thống câu hỏi và
bài tập. Hệ thống câu hỏi và bài tập này sẽ giúp cho các em học sinh phân tích sâu
hơn tác phẩm, hiểu thấu đáo những nội dung trong các phần của sách giáo khoa”.
Bên cạch đó, một số công trình về lí luận và phương pháp dạy học văn của tác giả
nước ngoài được dịch sang tiếng Việt cũng đã đề cập ít nhiều về hệ thống câu hỏi
và bài tập trong dạy học tác phẩm văn học việc phát huy tính tích cực sáng tạo,
năng lực trí tuệ của người học cũng như việc tổ chức, hướng dẫn quá trình xâm
nhập, tìm tòi phát hiện, phân tích, lí giải, đối thoại nhằm giúp học sinh chiếm lĩnh
những giá trị tư tưởng và nghệ thuật của một tác phẩm văn chương.
Bên cạnh đó, một số công trình về lí luận và phương pháp dạy học văn ít
nhiều cũng đề cập đến hệ thống câu hỏi và bài tập trong dạy học tác phẩm văn
chương. Do vậy, khi đề cập đến phương pháp tọa đàm theo câu hỏi, Nhikonsky
cho rằng: “Buổi tọa đàm sẽ được tiến hành theo một chương trình do thầy giáo
Ngữ văn vạch ra một cách tỉ mỉ dưới dạng những câu hỏi. Sau câu hỏi đầu tiên để
hình thành trong nhận thức của học sinh hoàn cảnh của vấn đề được đưa ra tọa
đàm, thầy giáo đặt ra các câu hỏi khác nhau để giải quyết và mở rộng đề tài của
giờ học. Câu hỏi sau bao giờ cũng nối tiếp câu trả lời của câu hỏi trước một cách
có logic.” [17; tr.4].
Đồng quan điểm với Nhikonsky, Kudriashev trong Phương pháp luận dạy
học văn (bản dịch Tiếng Việt -1983), cho rằng phương pháp gợi tìm góp phần
“Phát triển đầu óc phê phán cho học sinh, dạy học cho các em tự tìm lấy tri thức,
hoàn thiện các kĩ năng phân tích tác phẩm nghệ thuật” [17, tr. 5] và xây dựng một
hệ thống câu hỏi có logic chặt chẽ về phân tích tác phẩm nghệ thuật cũng như xây
dựng hệ thống bài tập về văn bản tác phẩm nghệ thuật là các biện pháp tiêu biểu
4
của phương pháp này. Khẳng định vai trò và tầm quan trọng của hệ thống câu hỏi,
bài tập trong sách giáo khoa Ngữ văn, tác giả A.C.Acbaseva viết: “Những câu hỏi,
bài tập xếp đặt trong sách giáo khoa Văn học có thể góp phần kích thích và phát
triển tình cảm, đạo đức của học sinh; hình thành phương pháp lịch sử văn học đối
với tác phẩm nghệ thuật; giúp đỡ học sinh phát triển và làm phong phú lời nói”.
[05; tr.19]. Tác giả đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò, tác dụng định hướng cho việc
tự đọc độc lập của học sinh: “Hệ thống câu hỏi, bài tập sẽ định hướng, cho học
sinh tự đọc các tác phẩm văn chương cổ điển Nga, giúp họ thấu hiểu tác phẩm
cũng như liên tưởng văn học, làm giàu kinh nghiệm tri giác của người đọc được
thực hiện cả trong và ngoài lớp.” [5, tr. 19].
Như vậy, vấn đề đặt câu hỏi trong dạy học không còn là vấn đề nghiên cứu
thuần túy lí luận nữa mà đó là những công trình nghiên cứu chuyên biệt và nghiêng
về hướng thực hành. Bằng chứng là câu hỏi đã được xây dựng thành những hệ
thống theo cấp độ phù hợp. Ở một số nước như Tiệp Khắc, Ba Lan, Bungari... sau
nhiều hội nghị bàn về cải tiến phương pháp dạy học văn, các nhà khoa học đi đến
thống nhất bảy loại câu hỏi theo ba nhóm: Cảm xúc, hình dung thông qua hình
tượng và hiểu tác phẩm. Sau một quá trình phát triển hoàn thiện dần, các học giả
Trikovskaia và V.G.Marantxman đã hoàn thiện với chính hệ thống nhỏ. Hiện nay
chính hệ thống nhỏ này đã được thể nghiệm qua thực tiễn dạy học văn ở nhiều
nước trên thế giới. Đây có thể xem là một trong những cống hiến cụ thể cho lĩnh
vực giáo dục học bộ môn.
Ở nước ta, vấn đề nghiên cứu xây dựng câu hỏi trong dạy học văn được đề
cập trong một số công trình như: Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương
trong nhà trường (2009) của Nguyễn Viết Chữ, Phương pháp dạy văn của Phan
Trọng Luận (Chủ biên), Rèn luyện tư duy sáng tạo trong dạy học tác phẩm văn
chương (2002) của Nguyễn Trọng Hoàn, Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy
văn - tiếng Việt (2003) của Nguyễn Trí - Nguyễn Trọng Hoàn. Nhóm tác giả Bùi
Hoàng Phổ, Quách Huy Dong, Đỗ Đức Huyến trong giáo trình phương pháp dạy
văn học (Phần đại cương), cũng đã chú ý đến câu hỏi trong dạy học Tác phẩm văn
chương. Các tác giả đã nhấn mạnh yêu cầu của câu hỏi, “Các câu hỏi phải xoay
quanh tư tưởng, chủ đề của bài văn, bám sát hình tượng của bài văn. Câu hỏi vừa
đi vào chi tiết, vừa tổng hợp, thông thường có câu hỏi về tìm tư tưởng, chủ đề, kết
cấu, có một số câu hỏi về các chi tiết nội dung, chi tiết nghệ thuật, cũng có lúc câu
hỏi để liên hệ tư tưởng” [06; tr.115 -116]. Trong lịch sử phát triển của ngành Lí
luận và phương pháp dạy học môn Ngữ văn ở Việt Nam, đây đó đã có nhiều người
đề cập tới, đặc biệt trong các chuyên khảo, chuyên luận của các chuyên gia đầu
ngành như Phan Trọng Luận, Nguyễn Thanh Hùng, Nguyễn Thị Thanh Hương...
Trong giáo trình Phương pháp dạy học văn (tập 1, tái bản năm 2001), Phan Trọng
Luận đã nhấn mạnh hướng nghiên cứu này trong phần Phân tích nêu vấn đề. Tác
5
giả cho rằng, “Tư duy con người chỉ bắt đầu từ một vấn đề hay một câu hỏi, từ một
sự ngạc nhiên hay sự thắc mắc, từ một sự mâu thuẫn...” [01; tr 165]. Nhưng muốn
xây dựng được tình huống có vấn đề, trước hết lại phải xây dựng được hệ thống
câu hỏi nêu vấn đề và tác giả cũng đưa ra một số yêu cầu có tính nguyên tắc như:
- Câu hỏi nhất thiết phải vạch ra được hoặc định hướng mối liên hệ hữu cơ
giữa những ý cụ thể với những vấn đề tổng hợp của bài văn.
- Câu hỏi phải mang tính hệ thống liên tục.
- Câu hỏi phải bám sát tác phẩm và khơi gợi hứng thú của bản thân học sinh.
- Câu hỏi phải có tính chất rõ ràng, phải có màu sắc văn học, có khả năng
khơi gợi tình cảm, xúc động thẩm mĩ của học sinh.
- Câu hỏi vừa sức học sinh, thích hợp với khuôn khổ một giờ học trên lớp,
vừa có khả năng gợi vấn đề suy nghĩ, tìm tòi sáng tạo của học sinh.
- Câu hỏi không tùy tiện, vừa được xây dựng thành một hệ thống logic, vừa
có tính toán giúp học sinh từng bước đi sâu vào tác phẩm như một chỉnh thể.
- Câu hỏi nói chung căn cứ vào đặc điểm nội dung và nghệ thuật của bài
văn. Đặc biệt trong một số công trình nghiên cứu gần đây về phương pháp dạy học
văn đã thể hiện xu hướng ngày đi sâu vào nghiên cứu có tính chất chuyên biệt
nhằm xác lập cơ sở lí luận, phân loại mô tả và đề xuất các mô hình, hệ thống câu
hỏi và bài tập trong dạy học tác phẩm văn chương trước hết phải kể đến chuyên
luận khảo sát và nghiên cứu về câu hỏi trong dạy học văn của Tiến sĩ Nguyễn
Quang Cương. Trong câu hỏi và bài tập với việc dạy - học Tác phẩm văn chương
trong nhà trường (2002), tác giả đã khảo sát hệ thống câu hỏi trong hai bộ SGK
Văn học THPT theo chương trình cải cách giáo dục và phân chia thành những loại
chủ yếu sau:
Câu hỏi thuần túy tìm hiểu nội dung của tác phẩm văn chương.
1. Câu hỏi tìm hiểu nghệ thuật của tác phẩm.
2. Câu hỏi tìm hiểu nội dung thông qua hình thức nghệ thuật.
3. Hỏi một cách tổng quát về giá trị của tác phẩm.
4. Hướng dẫn thao tác làm việc với tác phẩm.
Từ kết quả khảo sát, phân loại, tác giả đưa ra nhận định: “Sách giáo khoa Văn
học cải cách giáo dục đã có khá nhiều thay đổi”, “Nhiều câu hỏi đã chú ý hướng
học sinh vào việc tìm hiểu những giá trị nghệ thuật đích thực, khai thác tác phẩm
đúng với những nguyên tắc và những đặc trưng của văn học, chú ý tới các giá trị
hình thức nghệ thuật trong việc biểu hiện nội dung, cố gắng tránh xa xu hướng xã
hội học dung tục trong việc tiếp cận tác phẩm văn chương” [5; tr. 41]. Và về
nhược điểm, tác giả nhận xét các soạn giả SGK “Chưa có một sự thống nhất chung
trong quan niệm về nhiều vấn đề xung quanh hệ thống câu hỏi”; “Nhiều câu hỏi
chỉ dừng lại ở dạng câu hỏi tái hiện, số lượng câu hỏi sáng tạo chưa nhiều”;
“Những câu hỏi sách giáo khoa văn học đã chú ý tới việc tìm hiểu những giá trị
6
nghệ thuật”; “Chưa chú ý hướng dẫn học sinh khai thác những phương diện (thi
pháp tác phẩm, thi pháp thể loại) một cách tập trung, đầy đủ và có ý thức có hệ
thống giúp cho việc hình thành ở các em kĩ năng tự phân tích, tiếp nhận tác phẩm
văn chương một cách thành thạo và đúng hướng” [5; tr. 45 - 51].
Nhận xét về nhược điểm của hệ thống câu hỏi trong dạy học tác phẩm văn
chương lâu nay, Nguyễn Viết Chữ qua công trình Phương pháp dạy học tác phẩm
văn chương theo loại thể (2005), cũng cho rằng “Công việc của giờ văn ở lớp chủ
yếu là thầy giải nghĩa, diễn giảng, khai thác, bình,.... chủ yếu là miêu tả ý”. Một
thông số có thể tin cậy được là 70% số câu hỏi hướng dẫn chung chung... [4; tr.
46], 70% câu hỏi đó vẫn là kết quả của cách dạy miêu tả, tái hiện, nội dung thường
quá khó, quá lớn hoặc quá dễ, quá đơn giản. Còn lại gần 30% dạng câu hỏi có nội
dung và hình thức tốt nghiêng sang phía cảm thụ... những loại câu hỏi có nội dung
hướng vào sự cảm thụ của người đọc từ cảm đến hiểu có hình thức thích hợp, linh
hoạt rất hiếm. Từ những cơ sở lí luận và thực hiện và thực tiễn ở trên, vấn đề xây
dựng một lý thuyết câu hỏi, vận dụng được nó vào các thể loại văn chương là một
vấn đề thiết thực cấp bách phục vụ cho công việc dạy học văn hiện nay. [4; tr.48 -
49].
Gần đây nhất là đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Hệ thống bài tập rèn
luyện kĩ năng đọc hiểu tác phẩm tự sự cho học sinh THPT” của Tiến sĩ Mai Xuân
Miên. Qua khảo sát và thực nghiệm cụ thể, tác giả đã đi đến khẳng định: “Dạy học
đọc hiểu tác phẩm theo tinh thần đổi mới là dạy học cho học sinh cách đọc, phép
đọc, dạy kĩ năng đọc hiểu để học sinh có thể tự mình đọc văn, hiểu văn, hình thành
năng lực đọc chủ động, sáng tạo, đọc có phương pháp, có kĩ năng để học sinh có
thể đọc hiểu bất cứ văn bản nào cùng loại” và “Dạy học theo tinh thần như vậy tức
là nhấn mạnh yêu cầu giáo dục đào tạo trí năng, phát triển năng lực, kĩ năng văn
cho học sinh chứ không chỉ coi trọng tri thức” [16; tr.2]. Do đó, theo tác giả, nếu
chúng ta muốn hình thành kĩ năng đọc hiểu tác phẩm văn chương nói chung và tác
phẩm tự sự nói riêng cho học sinh nhất thiết phải theo nghiên cứu hệ thống kĩ năng
đọc hiểu và xây dựng hệ thống câu hỏi theo cấp độ nhằm nâng cao kĩ năng đó.
Tóm lại, điểm qua một số công trình nghiên cứu cụ thể mà đề tài quan tâm,
có thể nói hệ thống câu hỏi, bài tập là những công cụ và định hướng rất cần thiết để
giúp học sinh tự tìm hiểu câu hỏi, bài tập là những công cụ và định hướng rất cần
thiết để giúp học sinh tìm hiểu, tự rèn luyện cách tiếp cận, phân tích, bình giá tác
phẩm một cách đúng hướng cả về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm văn
chương. Nhìn chung, ở trên thế giới và trong nước, vấn đề đặt câu hỏi trong dạy
học không còn xa lạ. Và sự phong phú của các công trình cũng đã phần nào nói lên
điều đó. Tuy nhiên vấn đề đặt câu hỏi nói chung và câu hỏi trong Ngữ văn nói
riêng như tôi nhận thấy thì vẫn chưa có tài liệu nào viết một cách thật sự “bài bản”.
Chưa có một cuốn sách thực sự về vấn đề đặt câu hỏi trong dạy học Ngữ văn.
7
Những bài viết về vấn đề này phần nào mới chỉ nằm rải rác trong các tài liệu. Hệ
thống câu hỏi trong SGK hiện nay cũng chưa thực sự đáp ứng được mục tiêu hình
thành và phát triển năng lực, kĩ năng đọc văn, hiểu văn cho học sinh. Đây là một
mục tiêu vô cùng quan trọng trong đổi mới phương pháp dạy học văn theo hướng
dạy cách đọc hiểu, dạy tự đọc, tự hiểu tác phẩm hướng tới làm cho học sinh có thể
tự đọc hiểu bất cứ văn bản nào cùng loại. Từ kết quả thống kê, mô tả lịch sử
nghiên cứu vấn đề, tôi nhận thấy, đây là một hướng nghiên cứu có tính khả thi và
hiệu quả cao. Với mong muốn góp thêm một số vấn đề lí luận được khái quát từ
thực trạng trên và nhằm hướng tới xây dựng một hệ thống câu hỏi theo hướng rèn
luyện, phát triển năng lực, kĩ năng đọc hiểu văn bản kịch cho học sinh THPT, tôi
đã đi vào nghiên cứu đề tài: “Hệ thống câu theo cấp độ nhằm nâng cao kĩ năng
(đọc - viết - nói - nghe) trong văn bản kịch cho học sinh THPT Ngô Lê Tân”.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài hướng vào việc tìm hiểu quá trình dạy đọc hiểu tác phẩm văn chương
ở trường THPT như là khách thể nghiên cứu. Trong đó đề tài tập trung nghiên cứu,
xây dựng: “Hệ thống câu hỏi theo cấp độ nhằm nâng cao kĩ năng (đoc - viết -
nói - nghe) trong văn bản kịch cho học sinh THPT Ngô Lê Tân”.
1.4. Đối tượng khảo sát, thực nghiệm
Chương trình Ngữ văn THPT hướng chủ yếu vào phần đọc hiểu các loại văn
bản thông dụng như văn học (thơ, truyện, kịch, kí), văn bản nghị luận, nhật dụng
văn, trong đó chú trọng kĩ năng đọc hiểu tác phẩm văn chương. Tuy nhiên, do đối
tượng nghiên cứu cụ thể, đề tài chỉ giới hạn nghiên cứu vào kĩ năng đọc hiểu văn
bản kịch.
Đề tài đi vào khảo sát hệ thống câu hỏi trong SGK Ngữ văn THPT (Cơ bản)
chương trình hiện hành. Hướng sự vận dụng thể nghiệm vào việc xây dựng hệ
thống câu hỏi theo cấp độ nhằm nâng cao kĩ năng đọc hiểu một số văn bản kịch
trong SGK Ngữ văn THPT cả ba khối 10, 11, 12.
1.5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này chủ yếu tôi thường sử dụng các phương
pháp sau:
- Phương pháp tổng hợp khái quát hóa: Thông qua việc vận dụng lí luận về bộ
môn, tôi đi đến xác định, luận giải những tiền đề lí luận của đề tài và lập luận các
nguyên tắc xây dựng hệ thống câu hỏi theo cấp độ nhằm nâng cao kĩ năng đọc hiểu
văn bản kịch cho học sinh THPT.
- Phương pháp khảo sát: Qua quá trình khảo sát, trên cơ sở số liệu và dữ kiện cụ
thể, tôi sẽ xây dựng nhận định về tình hình rèn luyện, nâng cao kĩ năng đọc hiểu
văn bản kịch cho học sinh bằng hệ thống câu hỏi trong Sách giáo khoa.
8
- Phương pháp thể hiện: Từ hệ thống lí luận và kết quả điều tra xác thực, tôi sẽ
vận dụng những kết quả đạt được để tiến hành xây dựng, thể nghiệm hệ thống câu
hỏi đề xuất một số chuyên đề/chủ đề đọc hiểu văn bản kịch ở trường THPT.
1.6. Phạm vi và thời gian nghiên cứu
Phạm vi: Nằm trong chương trình Ngữ văn THPT mà tôi đang trực tiếp
giảng dạy nên phạm vi chính là môi trường giáo dục THPT, cụ thể là trong những
tiết Ngữ văn - Văn bản kịch mà bản thân tôi là người đúng lớp, ngoài việc tổ chức
dự giờ, sinh hoạt chuyên môn đã giúp tôi hình thành và hoàn thiện đề tài “Hệ
thống câu hỏi theo cấp độ nhằm nâng cao kĩ năng (đọc - viết - nói - nghe) trong
văn bản kịch cho học sinh THPT Ngô Lê Tân”. Mặc khác phạm vi nghiên cứu
của đề tài chính là các chuyên đề/ chủ đề hoặc văn bản kịch trong chương trình
Ngữ văn THPT.
Thời gian: Từ năm học 2018 - 2019 đến năm 2019 - 2020 là tiền đề cơ sở
cho bản thân hình thành và bổ sung, nghiên cứu đề tài. Thời gian bắt đầu là tháng 9
năm 2018 và kết thúc và đầu tháng 2 năm 2020. Vì quỹ thời gian có hạn nên việc
nghiên cứu của tôi chỉ tập trung phần văn bản kịch của chương trình Ngữ văn
THPT qua hệ thống câu hỏi theo cấp độ để từ đó định hướng nâng cao kĩ năng cho
bản thân trong việc tổ chức dạy học đối với văn bản kịch hoặc chủ đề Kịch hiện đại
Việt Nam. Là một giáo viên, giảng dạy ở cấp THPT nên tôi chỉ giới hạn phạm vi
nghiên cứu ở nhà trường THPT, cụ thể là một số tiết đọc hiểu Văn bản kịch trong
chương trình Ngữ văn THPT cơ bản hiện hành.
2. Nội dung
2.1. Những nội dung lí luận có liên quan trực tiếp đến vấn đề nghiên cứu
Trong công cuộc đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn theo hướng lấy học
sinh làm trung tâm, phát huy tính tích cực, năng động sáng tạo của người học đang
nhận được nhiều sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu giáo dục và giáo viên phổ
thông. Đó là một trong những biểu hiện cụ thể của quá trình chuyển đổi là sự thay
đổi tên gọi Đọc văn hay Đọc hiểu văn bản thay thế cho khái niệm Giảng văn. Quan
niệm này không đơn thuần chỉ là chuyện chữ nghĩa mà đó là một sự thay đổi cơ
bản về quan niệm nhận thức, mục tiêu giáo dục đào tạo cũng như nội dung và
phương pháp dạy học bộ môn Văn trong nhà trường phổ thông. Với tư tưởng lấy
học sinh làm trung tâm trong quá trình dạy học văn là một khuynh hướng tiến bộ,
người học được đặt ở vị trí trung tâm của hệ giáo dục, vừa là mục đích lại vừa là
chủ thể của quá trình học tập, nhằm phát huy vai trò chủ thể người học, tích cực
hóa hoạt động, giải phóng tiềm năng sáng tạo của người học, nhằm giúp từng cá
nhân tự phản ánh, tự giáo dục, tự phát triển nhân cách ngay từ khi còn ngồi trên
ghế nhà trường.
Ngày nay, dạy học theo tư tưởng lấy học sinh làm trung tâm đã nhấn mạnh
vai trò của người học với tư cách là một chủ thể năng động, dưới sự tổ chức,
9
hướng dẫn của giáo viên, học sinh từng bước đọc, thâm nhập vào tác phẩm, tìm tòi
phát hiện, phân tích khái quát, trao đổi, đối thoại nhằm chiếm lĩnh những giá trị tư
tưởng nghệ thuật của tác phẩm một cách tích cực, sáng tạo.
10
Để giúp học sinh nhanh chóng thích ứng và sớm góp phần phát triển đời
sống xã hội, người ta thấy chăm lo phát triển tiềm năng của mỗi cá nhân cũng chưa
đủ mà còn phải tổ chức cho học sinh hoạt động trong môi trường tập thể trên cơ sở
tôn trọng tính cách của mỗi cá nhân. Thực tế dạy học cho thấy, trong lớp học,
không có người học sinh có thể áp dụng tất cả các qui luật, biện pháp, thủ pháp dạy
học mang tính hình thức. Học sinh trong giờ học không chỉ hiện hữu như là một
tập thể lớp học mà còn là mỗi cá nhân cụ thể có cá tính độc đáo, với những đặc
điểm nhân cách riêng. Vì thế, khả năng tiếp nhận và giải quyết vấn đề của mỗi học
sinh là hoàn toàn không như nhau. Điều này phụ thuộc vào tư duy, vốn là một mặt
trong năng lực toàn diện của một chủ thể và nhiều mặt quan trọng khác cần chú ý,
như ý thức chính trị, tư tưởng, động cơ học tập, tình cảm nhân ái, nhân cách, khát
vọng hành động, quan điểm thực tiễn...
Vì vậy, đề cập đến tư tưởng lấy HS làm trung tâm trong quá trình dạy học
Ngữ văn, theo tôi trước hết đó phải là một nhận thức đúng đắn, toàn diện, cân đối
về cấu trúc tâm lí của học sinh trên hai bình diện khách quan và chủ quan. Chính vì
vậy, giáo viên cần chú ý đến nhu cầu, hứng thú, thái độ tình cảm và cả logic hoạt
động nhận thức của học sinh. Đúng như P.M.Jakopson đã xác nhận, đại ý: quá
trình tiếp xúc sinh động của học sinh đối với tác phẩm nghệ thuật không phải lúc
nào cũng xuất hiện. Nó chỉ xuất hiện khi nào có sự ham say tác phẩm, khi nào rõ
ràng có thể tiếp thu được tác phẩm, khi muốn tiếp thu nó thật sâu về nội dung và
hình thức; trong quá trình dạy học tác phẩm văn chương người giáo viên phải tạo
điều kiện thuận lợi, tạo hứng thú để học sinh có thể trục tiếp hoạt động trong quá
trình cảm thụ, nhận thức thẩm mĩ để chiếm lĩnh những giá trị văn học trong tác
phẩm.
Muốn thực hiện được điều đó người thầy vừa phải chú ý đến người học, vừa
phải chú ý đến điều phải học. Giáo viên là người hướng dẫn do đó phải không
ngừng vươn lên học tập suốt đời để làm gương tốt cho học sinh. Người thầy phải là
người có khả năng tổ chức, điều khiển mọi hoạt động của học sinh, giúp học sinh
học tập tốt. Chính vì vậy, “Trong dạy học lấy học sinh làm trung tâm, giáo viên
không chỉ là người truyền thụ những kiến thức riêng rẽ. Giáo viên giúp cho học
sinh thường xuyên tiếp xúc với những lĩnh vực học tập ngày càng rộng lớn hơn.
Đồng thời là người hướng dẫn, người cố vấn, người mẫu mực cho học sinh. Giáo
viên không phải là chuyên gia hẹp, mà là một cán bộ tri thức, là người học hỏi suốt
đời”. Như vậy, trong tư tưởng dạy học mới này, giáo viên với vai trò là nhân tố
thiết lập, thúc đẩy và duy trì mối quan hệ tương tác đa chiều giữa các thành tố giáo
viên - học sinh - tác phẩm. Bởi quan hệ giáo viên - học sinh trong cơ chế mới hoàn
toàn không phải là mối quan hệ đơn phương, tác động một chiều là mối quan hệ
song phương, tương tác qua lại. Trong quá trình lên lớp, giáo viên phải vật chất
hóa hoạt động tiếp nhận của học sinh bằng hệ thống việc làm, thao tác để tổ chức,
11
giao nhiệm vụ, hướng dẫn học sinh huy động một cách có cơ sở khoa học, phù hợp
với qui luật tiếp nhận văn học, những kinh nghiệm, năng lực chủ quan của bản thân
học sinh để học chủ động, tích cực hứng thú tham gia vào quá trình văn học, từ đó
tạo ra một hiệu quả tối ưu. Có như vậy, học sinh mới có thể tự chiếm lĩnh những
giá trị văn học cho riêng mình, đem lại sự tự nhận thức, tự phát triển về mọi mặt.
Nhìn chung, dạy học theo tư tưởng lấy học sinh làm trung tâm, giáo viên
tiếp cận, phân tích cắt nghĩa, lí giải tác phẩm không phải theo lối khép kín như
trong cơ chế cũ mà hướng vào sự đáp ứng những yêu cầu của học sinh, không phải
dạy học theo cách truyền thống là cảm thụ rồi truyền thụ mà quan tâm tìm kiếm
những con đường để dẫn dắt định hướng người học tự mình đi vào tác phẩm, giúp
HS tự phát hiện, chiếm lĩnh những giá trị phù hợp với nhu cầu, sự quan tâm và
nguyện vọng của họ.
Thông qua những điều trình bày trên, việc xây dựng Hệ thống câu hỏi theo
cấp độ nhằm nâng cao kĩ năng (đọc - viết - nói - nghe) trong văn bản kịch cho học
sinh THPT Ngô Lê Tân cần được quán triệt một cách đầy đủ, sâu sắc tư tưởng lấy
học sinh làm trung tâm trong quá trình dạy học Ngữ văn là điều cần thiết.
2.1.1. Lí thuyết tiếp nhận - Cơ sở lí luận của việc hệ thống câu hỏi theo cấp độ
nhằm nâng cao kĩ năng (đọc - viết - nói - nghe) trong văn bản kịch cho học sinh
THPT Ngô Lê Tân
Trong quá khứ lí luận tiếp nhận đã được đề cập ở mức độ tiếp nhất định.
Tuy nhiên, nói đến tiền đề vững chắc cho sự ra đời của lí thuyết tiếp nhận thì cần
nhắc đến vai trò của chủ nghĩa cấu trúc trường phái Prague và hàng loạt những
trường phái khác... Đến những năm 60 của thế kỉ XX, mô hình lí thuyết tiếp nhận
tương đối hoàn chỉnh đã ra đời với người chủ soái Hanz Robert Jaucs. Bên cạnh ấy
Wolfgang Iser cũng là một trong những người đặt nền móng đầu tiên cho lí thuyết
tiếp nhận. Khác với Jauss triển khai vấn đề tiếp nhận trên bối cảnh xã hội và văn
học rộng lớn, Iser chỉ tập trung nghiên cứu sự tiếp nhận trong hoạt động đọc cụ
thể.
Trên cơ sở kế thừa, phát triển và kết hợp những lí luận của nhiều trường phái
lí luận, phê bình khác nhau trước nó. Sự ra đời của nó thực sự đánh dấu một bước
phát triển mới của lí luận, phê bình văn học cũng như khẳng định một hướng mới,
một phương diện tiếp cận mới đối với văn học nghệ thuật.
Mặc dù lí thuyết tiếp nhận không đặt ra những vấn đề dạy và học văn như
thế nào trong nhà trường một cách trực tiếp, song quan điểm và những vấn đề mà
nó đặt ra lại mang tính ứng dụng cao trong thực tiễn dạy học văn. Hiện nay, tiếp
nhận văn học là một trong những vấn đề thu hút giới nghiên cứu, giảng dạy Ngữ
văn quan tâm, tìm hiểu và cũng đã có nhiều cách phát biểu, tiếp nhận khác nhau.
Hoạt động tiếp nhận văn học không chỉ đơn thuần là hoạt động đọc hiểu mà nó là
“Hoạt động chiếm lĩnh các giá trị tư tưởng, thẩm mĩ của tác phẩm văn học, bắt đầu
12
từ sự cảm thụ văn bản ngôn từ, hình tượng nghệ thuật, tư tưởng, cảm hứng, quan
điểm nghệ thuật, tài nghệ tác giả cho đến tác phẩm sau khi đọc...” (Từ điển thuật
ngữ văn học), tức là một hoạt động tinh thần đòi hỏi người đọc cảm thụ, thưởng
thức, suy ngẫm từ đó mà “ngộ ra”, nhiều điều sâu sắc và lí thú về cuộc đời, về con
người được tác giả gửi gắm qua tác phẩm. Cũng từ đó làm cho tâm hồn mình mỗi
ngày một thêm phong phú, đa dạng hơn, sống nhân ái hơn, sống tốt hơn.
Tiếp nhận văn học thực chất là sự “nhập cuộc” vào một “thế giới ảo”, ở đó
người đọc quên mình là ai, bỏ qua cuộc sống khách quan hiện hữu mà hòa mình
vào trong thế giới nghệ thuật của nhà văn như người trong cuộc, cùng đau nỗi đau
của nhân vật, mỉn cười với hạnh phúc của nhân vật. Đó còn là sự “gián cách” để
người đọc phát hiện, tìm thấy chính mình hay nhận ra thông điệp thẩm mĩ là tiếng
lòng, là tình cảm, tư tưởng cũng như mong ước sâu kín của nhà văn muốn gửi nhắn
gửi tới bạn đọc thông qua mỗi tác phẩm - đứa con tinh thần của mình. Nhưng với
tác phẩm văn học, toàn bộ những điều muốn gửi gắm ấy, nhà văn không thể hiện
một cách trần trụi, rõ ràng, trực tiếp, khô khan mà bằng những cách nói rất riêng,
độc đáo của văn học, bằng hình tượng văn học. Nói khác đi, không chỉ là một sự
“nhập thân”, đồng cảm, trải nghiệm thẩm mĩ, hoạt động tiếp nhận văn học còn
phải thông qua một quá trình giải mã, người đọc mới có thể hiểu và cảm nhận được
những điều sâu kín tiềm ẩn trong tác phẩm ấy.
15
Như vậy, tiếp nhận tác phẩm là một quá trình phức tạp gồm nhiều cấp độ, đó
là quá trình nhận thức, tâm lí cảm thụ, tiếp nhận văn học... tràn đầy tính tích cực,
sáng tạo của chủ thể tiếp nhận trong quan hệ với đối tượng thẩm mĩ. Đây là quá
trình vừa mang tính trực cảm, vừa phân tích, giải mã các tầng bậc cấu trúc văn bản
nhằm chiếm lĩnh những giá trị tác phẩm, để đem đến mục đích cuối cùng là sự
trưởng thành và phát triển nhân cách người đọc bỡi “Văn học là nhân học”
(Maksim Gorky). Đối với quá trình tiếp nhận tác phẩm văn chương trong dạy học
văn thì hệ thống câu hỏi hướng dẫn là những định hướng hết sức quan trọng để
giúp học sinh đọc, thưởng thức, phân tích và đánh giá tác phẩm đúng các nguyên
tắc tiếp nhận nghệ thuật; qua đó có thể giúp các em từng bước đi từ những đặc
điểm tiếp nhận giản đơn, tự phát, thụ động đến việc tiếp thu một cách tự giác, có
phê phán. Ý nghĩa của tác phẩm văn chương phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố nhưng
nhìn chung nó là kết quả của sự tương tác giữa ba yếu tố cơ bản sau đây: nhưng
yếu tố nằm trong văn bản, thuộc về văn bản và những yếu tố ngoài văn bản như:
đời tư tác giả, hoàn cảnh ra đời, đặc điểm thời đại, văn hóa của một dân tộc...; khi
đó người đọc - chủ thể tiếp nhận với tất cả vốn văn hóa, kinh nghiệm và sự từng
trải của cá nhân trong quá trình lĩnh hội.
Hệ thống câu hỏi hướng dẫn học sinh cần tập trung vào những yếu tố trên để
nâng cao cho học sinh những kĩ năng tiếp nhận văn học một cách toàn diện, sáng
tạo, đa dạng, phong phú nhưng cũng biết lựa chọn được những yếu tố cơ bản,
những cơ sở đáng tin cậy để phân tích, làm nổi bật những giá trị của tác phẩm văn
chương một cách có sức thuyết phục. Nếu xây dựng được một hệ thống câu hỏi
như vậy thì việc tiếp nhận văn chương của học sinh sẽ đạt hiệu quả cao hơn và
tránh cho các em được những ngộ nhận, những suy nghĩ chủ quan, sai lầm, tùy tiện
từ một thị hiếu thấp kém, một phương pháp tiếp nhận tác phẩm chưa chính xác. Vì
vậy, có thể nói, lí thuyết tiếp nhận cũng là tiền đề xuất phát cho việc xây dựng hệ
thống câu hỏi theo cấp độ nhằm nâng cao kĩ năng (đọc - viết - nói - nghe) nói riêng
trong chủ đề kịch hiện đại Việt Nam chương trình Ngữ văn 12 và theo chủ đề nói
chung trong chương trình Ngữ văn cho học sinh THPT.
2.1.2. Thi pháp kịch - Tiền đề của việc hệ thống câu hỏi theo cấp độ nhằm nâng
cao kĩ năng (đọc - viết - nói - nghe) trong văn bản kịch cho học sinh THPT Ngô Lê
Tân
Kĩ năng đọc là một trong những loại hình văn học bên cạnh tự sự và trữ tình,
được coi là loại hình nghệ thuật tổng hợp vừa thuộc về sân khấu vừa thuộc về văn
học. Nói như vậy nhưng ta không nên đánh đồng kịch bản văn học với nghệ thuật
sân khấu nói chung bao gồm kịch nói, kịch hát, kịch múa, nhạc kịch.... Kịch bản
văn học là tác phẩm văn học, có đầy đủ đặc điểm của nghệ thuật ngôn từ, còn sân
khấu lại thuộc nghệ thuật biểu diễn, nói như nhà văn Turenev thì “các vở kịch của
ông đem diễn trên sân khấu thì không đạt nhưng để đọc thì có thể có ít nhiều thích
16
thú” [8; tr.400]. Tuy vậy kịch bản văn học viết ra là để diễn do vậy Goethe đã từng
nói “Trong khi xây dựng các vở kịch của mình, chưa chắc Shakepeare đã nghĩ
rằng nó sẽ nằm trước mắt độc giả, ông nhìn thấy sân khấu trước mắt khi viết
chúng. Ông nhìn thấy trong các vở kịch của mình một cái gì đó sống và hoạt động
sẽ nhanh chóng diễn ra trước mắt người xem” [8; tr. 400], kịch bản văn học mang
đậm chất sân khấu. Vì thế khi xem xét kịch bản văn học một mặt phải xem nó như
một tác phẩm nghệ thuật, mặt khác không thể tách rời nó khỏi nghệ thuật sân khấu
mới thấy hết được những đặc trưng của nó.
Kịch được xây dựng trên cơ sở những mâu thuẫn kịch lịch sử, xã hội hoặc
những xung đột muôn thuở mang tính toàn nhân loại như (thiện và ác, cao cả và
vai thấp hèn ước mơ và hiện thực,...). Những xung đột ấy thể hiện được bằng cốt
truyện có cấu trúc chặt chẽ qua hành động của các nhân vật và theo những qui tắc
nhất định của nghệ thuật kịch. Trong kịch thường chứa đựng nhiều kịch tính là
những căng thẳng do tình huống tạo ra với nhân vật. Phần lớn kịch được xây dựng
trên hành động bên ngoài với những diễn biến của chúng và theo những nguyên tắc
có sự đấu tranh chống lại các nhân vật. Tuy nhiên cũng có hành động bên trong,
qua đó nhân vật chủ yếu là suy ngẫm và chịu đựng một tình huống xung đột bên
trong hết sức căng thẳng. Trong kịch những lời phát biểu của nhân vật (đối thoại,
độc thoại) nói lên ý chí, hành động và sự tự khám phá tích cực của họ có một ý
nghĩa quyết định. Còn những lời trần thuật chỉ đóng vai trò thứ yếu. Về mặt kết
cấu, một tác phẩm kịch thường chia thành nhiều hồi, cảnh nhằm tạo ra sự trùng
khớp giữa thời gian, địa điểm và hành động kịch, đồng thời làm cho cái được trình
diễn mang màu sắc xác thực của đời sống. Người ta phân loại kịch dựa theo nhiều
tiêu chuẩn khác nhau, nhưng cách phân loại phổ biến nhất là theo tính chất của các
loại hình xung đột: bi kịch, hài kịch, chính kịch,..
Bàn về kịch Belinsky chỉ ra: “Kịch lấy sự kiện đã diễn ra trong quá khứ biểu
diễn thành hiện tại đang sinh thành trước mắt độc giả hoặc khán giả. Kịch là thể
loại kết hợp cả tự sự và trữ tình, xét một cách riêng biệt, không cái nào có trước,
cũng không cái nào có sau, mà là một chỉnh thể hữu cơ mang tính đặc thù. Một
mặt, tình tiết trong kịch phát triển, đối với chủ thể không phải là tách bạch tuyệt
đối mà tương phản vừa vặn là từ chỗ anh ta phát ra rồi lại trở về đúng chỗ đó. Mặt
khác, việc ra sân khấu của chủ thể trong kịch lại hoàn toàn khác về mặt ý nghĩa so
với sự xuất hiện của chủ thể trong thơ trữ tình: anh ta đã không phải là người
đang cảm nhận, cũng không phải là người đang quan sát, ngưng tụ trong thế giới
nội tâm bên trong của bản thân anh ta, mà biến thành thế giới khách quan do hoạt
động của bản thân anh ta hợp thành, đối tượng được quan sát trong thế giới hiện
thực, anh ta được phân chia thành nhiều bộ phận, biến thành tác dụng hoặc phản
tác dụng căn bản, tạo nên tổng hòa của nhiều nhân vật kịch. Vì vây, kịch rất khó
trong việc miêu tả, trần thuật địa điểm, sự kiện, trạng thái, nhân vật, những tình
17
huống này tự nó hiện ra, chúng ta có thể tiến hành quan sát được.” [dẫn theo 09].
Theo cách nói đó, Belinsky đã làm rõ đặt trưng của đề tài, phương thức, cấu tứ, thủ
pháp biểu hiện và những đặc điểm vượt trội của tác phẩm kịch so với tác phẩm tự
sự và tác phẩm trữ tình. Qua một số công trình nghiên cứu về thi pháp học đã được
công bố, tôi thấy kịch có những đặc trưng thẩm mĩ như sau:
Thứ nhất là xung đột kịch còn goị là thành phần cấu thành tình tiết kịch, là
quá trình và kết quả tác động tương hỗ giữa các lực lượng đối kháng, là hình thức
thể hiện cao nhất, sắc nhọn nhất của tác phẩm kịch được sân khấu hóa. Cũng là
việc miêu tả những bức tranh sinh hoạt của đời sống xã hội. Chẳng hạn trong tác
phẩm “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của (Lưu Quang Vũ).
19
người. Trong văn học kịch là một thể loại mang lại sự nhận thức thực tại thông qua
hành động. Tuy nhiên hành động ở đây không chỉ là động tác, cử chỉ của nhân vật
mà là hành động trong mối tương quan với các yếu tố cấu thành tác phẩm như
xung đột cốt truyện và nhân vật được thể hiện trong kịch bản văn học.
Trong kịch nếu xung đột là điều kiện cần thiết làm nảy xinh tác phẩm, thì
hành động lại là yếu tố duy trì sự vận hành của tác phẩm đó. Xung đột là một quy
tụ, chọn lọc và tổ chức hành động kịch, hành động kịch là sự thể hiện trực tiếp nội
dung của xung đột kịch nhưng hành động là yếu tố giải tỏa nội dung của xung đột
ấy và nó là yếu tố đặc trưng không thể thiếu đối với bất kì một kịch bản văn học
nào. Hành động kịch thường phát triển theo hướng thuận chiều của xung đột kịch.
Ví dụ như “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ, để làm nổi bật xung
đột giữa hồn với xác và sự thắng thế của phần xác, mỗi chuỗi hành động kịch được
thể hiện logic, hợp lí qua lời thoại.
20
- Đưa ra bằng chứng, chất vấn: “Khi ông ở bên nhà tôi...Khi ông đứng bên cạnh
vợ tôi, tay chân run rẩy, hơi thở nóng rực, cổ nghẹn lại. Đêm hôm đó, suýt nữa
thì....Chẳng nhẽ ông không sao xuyến chút gì?...không làm hồn ông lâng lâng cảm
xúc sao? Để thõa mãn tôi, chẳng lẽ ông không tham dự vào chút đỉnh gì? Này hãy
thành thật trả lời!”.
- Khẳng định thêm lần nữa sự hòa nhập cần thiết giữa hồn và xác: Hai ta đã hòa
với nhau làm một rồi!
- Khi xác hàng thịt tỏa ra lấn lướt hồn Trương Ba, sỉ nhục hồn Trương Ba: “vô
ích, cái linh hồn mờ nhạt của ông Trương Ba khốn khổ kia ơi!”, “Nực cười thật!
Khi ông phải tồn tại nhờ tôi, chiều theo những đòi hỏi của tôi, mà còn nhận là
nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn!” thì mâu thuẫn kịch đã được đẩy đến cao trào.
- Yêu cầu, thuyết phục hồn: “Hãy công bằng hơn ông Trương Ba ạ!”,“ông đừng
nên tự dằn vặt làm gì!... hãy về với tôi này!”
Xung đột càng căng thẳng thì thiên hướng hành động càng trở nên quyết liệt,
càng tăng thêm sự hấp dẫn của tác phẩm. Hành động kịch là một chuỗi hành động
liên tục xoay quanh trục xung đột “Các hành động vấp phải phản hành động thì
phản hành động lại thúc đẩy hành động” (Stanislavsky). Cứ như thế nội dung câu
chuyện kịch vận động nhanh tới kết thúc. Do sự chi phối của sân khấu, cốt truyện
kịch thường rất chặt chẽ, tập trung. Nó không dung nạp những chi tiết vụn vặt,
những đoạn bình luận trữ tình ngoại đề (khác với loại ca kịch truyền thống: thường
xuất hiện đoạn trữ tình ngoại đề qua các lời ca tiếng hát) ngoài cốt truyện như
trong mạch tự sự. Cốt truyện bằng hành động xoáy vào trọng tâm xung đột bằng sự
liên kết theo một qui luật nhân quả (hành động này là kết quả của hành động trước
và lại là nguyên nhân của hành động sau). Theo hướng vận động đó các cảnh, các
màn, các hồi, các liên kết chặt chẽ với nhau, loại bỏ những gì thừa thãi, vượt đến
đỉnh điểm của xung đột và hướng nhanh tới kết thúc.
Thứ ba là nhân vật kịch. Mối quan hệ giữa hành động và nhân vật kịch là
trục chính để xác định tính cách của nhân vật. Nhân vật kịch luôn tự khẳng định
bản chất của mình bằng hành động. Bản chất đó được thể hiện qua những dằn xé
dữ dội bên trong và những hành động quyết liệt bên ngoài. Do đặc trưng của thể
loại, nhân vật kịch không được khắc họa tỉ mỉ nhiều góc độ như nhân vật trong tác
phẩm tự sự dài. Kịch là chộp những khoảng thời gian trong cuộc sống có sự xuất
hiện những xung đột gay gắt, nóng bỏng nhất để phản ánh cuộc sống có sự xuất
hiện những xung đột gay gắt, nóng bỏng nhất để phản ánh cuộc sống trong tác
phẩm. Vì thế nhân vật kịch hiện hình trong tác phẩm vào đúng thời điểm “bước
ngoặc số phận”. Sau khi xuất hiện, nhân vật nhập ngay vào xung đột và bị cuống
nhanh vào luồng hành động của tác phẩm. Mọi tình huống trong tác phẩm đều góp
phần đắc lực để cho nhân vật hành động.
21
Ảnh minh họa
Tính hành động của nhân vật kịch không chỉ phụ thuộc trong hình tượng sân
khấu mà nó được hình thành ngay trong cấu tạo kịch bản văn học. Tình huống kịch
phải được khai thác tập trung, tiêu biểu của tính cách kịch. Nhân vật kịch không có
tính cách đa dạng nhưng lại có được những đường nét nổi bật hơn và xác định hơn
về mặt bản chất.
Thứ tư là ngôn ngữ kịch. Ngôn ngữ văn học kịch rất giàu tính hành động,
được cá tính hóa và giàu ẩn ý. Ngôn ngữ văn học kịch chủ yếu là ngôn ngữ nhân
vật, rất ít ngôn ngữ của người trần thuật, toàn bộ nội dung cơ bản của kịch đều dựa
trên sự hoàn thành ngôn ngữ nhân vật. Ngôn ngữ nhân vật đảm nhiệm nhiệm vụ
thúc đấy xung đột kịch, triển khai tình cảnh kịch, hiển thị tính cách nhân vật.
Bảng 1.2. Phân loại câu hỏi đọc hiểu văn bản kịch theo nội dung và mức độ
nhận thức
Số lượng Tổng Câu hỏi Câu hỏi Câu hỏi Câu Câu hỏi
Văn bản số câu thuần túy tìm hiểu về nội hỏi tái phát huy
kịch hỏi về nội nghệ thuật dung và hiện cảm thụ, óc
dung văn văn bản nghệ kiến sáng tạo
bản thuật thức
3 14 10 1 3 57% 43%
25
- Trong tổng số 14 câu hỏi được khảo sát, phân loại, tôi cũng chưa thấy dạng
câu hỏi giúp học sinh nhận diện thể loại và đi sâu vào đặc trưng thể loại văn bản
kịch.
Từ kết quả khảo sát và những nhận xét có tính khái quát trên, tôi nhận thấy
hệ thống câu hỏi hướng dẫn học sinh đọc hiểu văn bản kịch trong bộ SGK Ngữ
văn 10, 11, 12 (Ban cơ bản) vẫn còn một số bất cập cần giải quyết. Hệ thống câu
hỏi được sử dụng trong các bài học cụ thể vẫn còn thiên về kĩ năng lĩnh hội kiến
thức (giáo dục nhận thức) mà chưa thật sự chú trọng rèn luyện, phát triển kĩ năng,
năng lực đọc hiểu văn bản kịch cho học sinh THPT. Vì vậy, theo tôi đây hãy còn là
một “mảnh đất trống”, một vấn đề vần tiếp tục đi sâu nghiên cứu nhằm tìm kiếm,
đề xuất hệ thống câu hỏi có tính khả thi và hiệu quả, giúp học sinh học tốt hơn
phần đọc hiểu các văn bản kịch hay chủ đề Kịch hiện đại Việt Nam trong chương
trình Ngữ văn hiện hành.
Một là, khi xây dựng hệ thống câu hỏi hướng dẫn học sinh THPT đọc hiểu
văn bản kịch, phần lớn giáo viên vẫn dựa vào hệ thống câu hỏi có sẵn trong sách
giáo khoa Ngữ văn có sự thay đổi, cải tiến, bổ sung ít nhiều cho phù hợp với đối
tượng học sinh. Tuy nhiên kết quả khảo sát cũng cho thấy, một số câu hỏi trong
sách giáo khoa theo tôi có phần đơn giản hoặc có những câu hỏi khá phức tạp đối
với học sinh. Hệ thống câu hỏi mà tôi đã tiến hành phân loại thực sự chưa đáp ứng
được yêu cầu kích thích hứng thú học tập, tư duy sáng tạo, hình thành kĩ năng tự
chiếm lĩnh văn bản kịch của học sinh. Do đó, việc thiết kế lại hệ thống câu hỏi theo
cấp độ nhằm nâng cao kĩ năng (đọc - viết - nói - nghe) trong văn bản kịch cho học
sinh THPT là một yêu cầu hết sức cần thiết.
Hai là, khi xây dựng hệ thống câu hỏi hướng dẫn học sinh tìm hiểu, phân
tích văn bản kịch, hầu hết các câu hỏi chỉ tập trung vào việc tìm hiểu tâm lí, tính
cách nhân vật, mâu thuẫn, phân tích lời thoại của kịch mà ít chú ý đến hành động
kịch. Loại câu hỏi định hướng nhận diện thể loại và tri giác ngôn Ngữ văn bản
kịch; câu hỏi phát hiện, phân tích yếu tố kịch cũng như câu hỏi gợi mở, đối thoại
cũng được chú ý, ưu tiên. Tuy vậy loại câu hỏi bộc lộ cảm xúc, thái độ, tình cảm
thẩm mĩ còn chưa được chú trọng.
Ba là, qua kết quả khảo sát câu hỏi trong sách giá khoa, tôi nhận thấy phần
lớn nhiều câu hỏi chủ yếu tập trung vào tái hiện kiến thức, thiếu vắng những câu
hỏi mang tính nêu vấn đề, lí giải, đánh giá văn bản, giúp học sinh bộc lộ thái độ,
tình cảm, kiến giải riêng mang cá tính sáng tạo của bản thân học sinh. Điều này đã
làm hạn chế tính tích cực sáng tạo và phát huy tác động đa trị, nhiều chiều của văn
bản kịch đối với tiếp nhận của học sinh.
Việc xây dựng hệ thống câu hỏi theo cấp độ nhằm rèn luyện kĩ năng trong
văn bản kịch cho học sinh THPT vẫn còn nhiều vấn đề cần tiếp tục tìm hiểu,
nghiên cứu, vận dụng thể nghiệm. Công việc thiết kế hệ thống câu hỏi theo cấp độ
26
nhằm nâng cao kĩ năng trong văn bản kịch từ dễ đến khó dựa trên những đặc trưng
văn học kịch sẽ góp phần giúp người dạy, người học phát triển nâng cao các kĩ
năng đọc hiểu văn bản kịch cho học sinh THPT.
Trong quá trình dạy học, giáo viên cần phải đa dạng hóa các phương pháp,
hình thức tổ chức và phương tiện dạy học tác phẩm văn học hoặc theo chuyên đề/
chủ đề lấy học sinh làm trung tâm giúp học sinh tự mình huy động những năng lực
chủ quan, kinh nghiệm cá nhân, tự mình tiếp cận, thâm nhập, phân tích, chiếm lĩnh
tác phẩm một cách hứng thú, tích cực, sáng tạo dưới sự tổ chức, hướng dẫn, giao
nhiệm vụ của giáo viên; học sinh có thể làm việc độc lập (cá nhân), làm việc nhóm,
làm việc chung cả lớp, học trong lớp, ngoài lớp. Có thể cho học sinh trải nghiệm,
yêu cầu các em đóng vai, chụp hình, quay phim, quan sát, thu thập ngữ liệu, thuyết
minh...thể hiện rõ các năng lực có thể hình thành và phát triển.
Qua đó học sinh có được sự trưởng thành và phát triển về trí tuệ, tâm hồn,
nhân cách, năng lực, từ đó nâng cao kĩ năng đọc hiểu tác phẩm theo chuyên đề/
chủ đề. Trên cơ sở lí thuyết tiếp nhận nhằm hướng đến tổ chức quá trình tiếp nhận
một cách có cơ sở khoa học, phù hợp bản chất và logic hoạt động tiếp nhận của
từng học sinh để đem lại hiệu quả. Đồng thời, dạy học văn bản kịch hay chủ đề cần
phải gắn liền với thi pháp thể loại. Bởi đó là công cụ hữu hiệu định hướng tiếp cận,
chiếm lĩnh những giá trị của văn bản kịch một cách đúng hướng và sâu sắc. Tuy
nhiên, qua thực trạng dạy học văn bản kịch hiện nay theo chủ đề, chúng ta có thể
nhận thấy một vấn đề cần được soi rọi từ nhiều góc cạnh khác nhau là hệ thống câu
hỏi trong sách giáo khoa, trong giờ lên lớp của giáo viên còn đang nghiêng về giáo
dục nhận thức hơn là đào tạo về kĩ năng.
Với hiệu lực và hiệu quả không thể phủ nhận của vai trò của câu hỏi hướng
dẫn học sinh đọc hiểu tác phẩm văn chương, xu hướng thiết kế sách giáo khoa Ngữ
văn, giáo án và các giờ lên lớp hiện nay ngày càng chú trọng vấn đề đặt câu hỏi.
Do vậy, về phương pháp dạy học, giáo viên cần tránh máy móc rập khuôn, không
tuyệt đối hóa một phương pháp trong dạy học, viết hay nói và nghe mà biết vận
dụng các phương pháp phù hợp với đối tượng, bối cảnh, nội dung và mục đích của
giờ học. Kết hợp với diễn giảng ngắn với nêu câu hỏi, cho học sinh thảo luận, trình
bày, sử dụng trò chơi; hướng dẫn học sinh cách dùng sơ đồ thể hiện các ý tưởng,
nhất là khi tóm tắt nội dung văn bản, miêu tả hệ thống nhân vật,...Khuyến khích
học sinh tự tìm đọc, biết cách thu thập, chọn lọc tài liệu trên các phương tiện để
thực hiện của cá nhân hay theo nhóm, sau đó trình bày sản phẩm, thảo luận kết quả
trước lớp; rèn luyện kỹ năng sử dụng các phương tiện công nghệ thông tin để hổ
trợ cho việc trình bày. Tổ chức các hoạt động dạy học sao cho khi kết thúc học
sinh hứng thú và vận dụng tốt mang lại hiệu quả cao mà mục tiêu đề ra.
Bên cạnh ấy, giáo viên cũng cần sử dụng các phương tiện trực quan như
tranh ảnh, sân khấu hóa nhân vật nhập vai một vài chi tiết giúp học sinh hiểu rõ đối
27
tượng được miêu tả trong văn bản; dùng sơ đồ để phát triển kĩ năng so sánh, phân
tích, tổng hợp cho học sinh hay sử dụng băng hình, các bộ phim để học sinh so
sánh văn bản gốc với văn bản được chuyển thể... Tuy nhiên cần tránh lạm dụng
hình ảnh vì chất liệu văn chương là ngôn ngữ, có khả năng khơi gợi năng lực tưởng
tượng của học sinh.
Vì vậy, việc sử dụng hệ thống câu hỏi theo cấp độ nhằm khắc phục tình
trạng trên. Với mong muốn góp phần thực hiện mục tiêu dạy cách đọc - viết - nói -
nghe để học sinh có khả năng tự mình phát hiện, khám phá, chiếm lĩnh những giá
trị thẩm mĩ và nhân văn trong một văn bản kịch cụ thể trong chương trình.
2.3. Mô tả phân tích các giải pháp
2.3.1. Các giải pháp cho hệ thống câu hỏi
2.3.1.1. Hệ thống câu hỏi hướng đến mục tiêu bài học, coi trọng mục tiêu
phát triển tư duy, hình thành nâng cao kĩ năng tự đọc, tự khám phá văn bản kịch
cho học sinh.
Dạy học là một quá trình sư phạm tổng thể, mục đích chủ yếu của dạy học
trong nhà trường phổ thông là giúp học sinh biết đọc và tự đọc văn bản; thông qua
đó mà bồi dưỡng, giáo dục phẩm chất, nhân cách học sinh. Mỗi kiểu văn bản có
những đặc trưng riêng, vì thế cần có cách dạy đọc hiểu văn bản phù hợp. Trong đó
giáo viên tổ chức cho học sinh hoạt động nhằm lĩnh hội tri thức và hình thành
những kĩ năng, kĩ xảo tương ứng trong một khoảng thời gian nhất định với một
trình độ nhất định. Có thể nói chất lượng dạy học nói chung phụ thuộc trước hết
vào chất lượng của từng chủ đề/chuyên đề.
Mỗi chủ đề/chuyên đề đều có mục tiêu riêng trên cơ sở mục tiêu chương
trình, sách giá khoa và để đảm bảo chất lượng của mỗi chủ đề/chuyên đề thì người
giáo viên trong quá trình dạy đọc hiểu văn bản nói chung: Yêu cầu học sinh đọc
trực tiếp toàn bộ văn bản, đọc hướng đến khách thể (tác phẩm, tác giả) và cách đọc
hướng tới chủ thể (người đọc); chú ý quan sát các yếu tố hình thức của văn bản, từ
đó có ấn tượng chung và tóm tắt được nội dung chính của văn bản; tổ chức cho học
sinh tìm kiếm, phát hiện phân tích, bước đầu suy luận các ý nghĩa, các thông tin,
thông điệp, quan điểm, thái độ, tư tưởng, tình cảm, cảm xúc được gửi gắm trong
văn bản; hướng dẫn học sinh liên hệ, so sánh giữa các văn bản, bước đầu kết nối
văn bản với bối cảnh lịch sử, văn hóa, xã hội, kết nối văn bản với trải nghiệm cá
nhân học sinh,... để hiểu sâu hơn giá trị của văn bản, biết vận dụng, chuyển hóa
những giá trị ấy thành niềm tin và hành vi ứng xử của cá nhân trong cuộc sống
hàng ngày thông qua cách đọc.
Dạy đọc hiểu văn bản văn học: Văn bản văn học cũng là loại văn bản, nên
cũng cần tuân thủ cách đọc hiểu văn bản nói chung. Tuy nhiên, văn bản văn học
cũng có những đặc điểm riêng vì thế giáo viên cần tổ chức cho học sinh bước đầu
tìm hiểu, giải mã văn bản văn học theo một qui trình phù hợp với đặc trưng của
28
văn bản nghệ thuật. Học sinh cần được hướng dẫn, luyện tập đọc tác phẩm theo qui
trình từ tri nhận văn bản ngôn từ thế giới hình tượng nghệ thuật và hiểu nội dung ý
nghĩa từ đó có ý thức diễn giảng mối quan hệ giữa cái “toàn thể” và chi tiết “bộ
phận” văn bản. Phương pháp dạy học phải tập trung kích hoạt việc đọc tích cực,
sáng tạo ở chủ thể đọc.
Hướng dẫn và khích lệ học sinh chủ động, tự tin, phát huy vai trò “đồng
sáng tạo” trong tiếp nhận tác phẩm, bước đầu biết so sánh đối chiếu, liên hệ mở
rộng, huy động vốn hiểu biết cá nhân, sử dụng trải nghiệm cuộc sống của bản thân
để đọc hiểu, trải nghiệm văn học, phát hiện những giá trị đạo đức, văn hóa và triết
lí nhân sinh, từ đó biết vận dụng, chuyển hóa thành giá trị sống. Khi dạy đọc hiểu,
giáo viên cần chú ý giúp các em tự phát hiện thông điệp, ý nghĩa, góp phần lấp đầy
“khoảng trống” của văn bản. Giáo viên cần có những gợi ý, nhưng không lấy việc
phân tích, bình giảng của mình thay thế cho những suy nghĩ của học sinh; tránh
đọc chép và hạn chế ghi nhớ máy móc. Sử dụng đa dạng các loại câu hỏi ở những
mức độ khác nhau để thực hiện dạy học phân hóa và hướng dẫn học sinh đọc hiểu
văn bản, hình thành kĩ năng đọc.
Tùy thuộc vào đối tượng học sinh ở từng lớp và thể loại của văn bản văn học
mà vận dụng các phương pháp, kĩ thuật và hình thức dạy học đọc hiểu cho phù hợp
như: đọc diễn cảm, đọc phân vai, kể chuyện, đóng vai để giải quyết một tình
huống, diễn kịch, sử dụng câu hỏi, hướng dẫn ghi chép trong tiến trình đọc bằng
các phép ghi chép, phiếu học tập, nhật kí đọc sách, tổ chức cho học sinh thảo luận
về văn bản, vẽ tranh, trải nghiệm, những tình huống mà nhân vật trải qua,... Một
phương pháp dạy học khác như đàm thoại, vấn đáp, diễn giảng, nêu vấn đề,... cũng
cần được vận dụng một cách phù hợp theo yêu cầu phát triển năng lực cho học
sinh.
35
hình thành, phát triển kĩ năng đọc hiểu văn bản kịch cho học sinh để học sinh dần
dần có được kĩ năng, năng lực tự đọc hiểu những văn bản cùng loại.
2.3.1.4. Hệ thống câu hỏi vừa đảm bảo tính hệ thống và phát triển, tính sư
phạm, vừa đảm bảo chuẩn kiến thức và phù hợp với tầm đón nhận của học sinh
Muốn xây dựng hệ thống câu hỏi theo cấp độ nhằm nâng cao kĩ năng đọc
hiểu văn bản kịch cho học sinh, lấy đó làm định hướng giúp các em phát huy tính
tích cực, độc lập trong tư duy, tiếp nhận thì một trong nguyên tắc cần đảm bảo tính
có hệ thống và phát triển. Nguyên tắc này đòi hỏi phải bám sát nội dung văn bản
kịch, chú ý đến mối liên hệ giữa các nội dung, các câu hỏi. Câu hỏi đảm bảo vừa
bám sát những đặc sắc nội dung và hình thức của văn bản kịch vừa phù hợp với
tầm tiếp nhận của học sinh. Có như vậy mới giúp học sinh khám phá, chiếm lĩnh
được những giá trị độc đáo và chiều sâu của văn bản kịch. Đồng thời trình tự câu
hỏi đó cũng phải phù hợp với logic nhận thức của học sinh, có tác dụng dẫn dắt
quá trình tìm kiếm, phát hiện tri thức, kĩ năng cho người học. Có thể hình dung các
câu hỏi tuần tự nối tiếp nhau như những nấc thang trên con đường dẫn học sinh
đến với nội dung cần chiếm lĩnh.
Nói như vậy có nghĩa là trình tự đó là tối ưu và không thể đảo ngược hay
thay đổi mà không ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả dạy học. Câu hỏi phải
đảm bảo tính hệ thống, đồng thời phải đảm bảo nguyên tác phát triển. Các câu hỏi
không chỉ có giá trị chặt chẽ với nhau, cùng hướng tới mục tiêu của chủ đề/ chuyên
đề mà câu hỏi phải có mức độ tăng dần, phải có sự kế thừa và phát triển theo từng
câu hỏi. Một hệ thống câu hỏi khoa học, hợp lí là hệ thống câu hỏi được dẫn dắt
một cách tự nhiên, dễ dàng, thuận lợi cho quá trình tư duy, nhận thức của người
đọc, khiến họ không cảm thấy bị điều khiển mà bị lôi cuốn và thu hút. Và như thế
tính hệ thống phát triển của câu hỏi không chỉ phản ánh logic mà còn trình độ nhận
thức của người học.
Việc thiết kế câu hỏi rèn luyện kĩ năng đọc hiểu văn bản kịch cho học sinh
cũng cần chú ý đến tính sư phạm, đảm bảo các yêu cầu.
Thứ nhất, cách hành văn phải trong sáng, rõ ràng, dễ hiểu, thể hiện được nội
dung muốn hỏi. Một câu hỏi quá lan man dễ khiến học sinh lúng túng trong khi lựa
chọn câu trả lời, nhiều khi dẫn đến việc hiểu sai câu hỏi, như vậy hiệu quả tiếp
nhận sẽ không cao. Câu hỏi đặt ra cho học sinh cần đơn trị, rõ ràng và chính xác về
mặt khoa học.
Thứ hai, hệ thống câu hỏi cần đa dạng, phù hợp với nhiều đối tượng học sinh
và đáp ứng đến nhiều mục đích khác nhau. Một hệ thống câu hỏi tốt phải bao gồm
nhiều loại câu hỏi từ dễ đến khó, từ câu hỏi kiểm tra kiến thức đến câu hỏi về tư
duy, kĩ năng và những câu hỏi mang tính tích hợp, phát triển năng lực. Buộc học
sinh phải trả lời vận dụng kiến thức của nhiều môn học khác nhau. Nếu xây dựng
được hệ thống câu hỏi như thế sẽ tạo điều kiện thuân lợi để các em rèn luyện nâng
36
cao kĩ năng, phương pháp đọc hiểu tác phẩm văn chương, một kĩ năng hiện còn rất
yếu trong học sinh THPT.
Thứ ba câu hỏi phải đảm bảo tính vừa sức, phù hợp với trình độ học sinh,
nhất là phải có cơ sở cho sự tìm kiếm câu trả lời. Hỏi cái gì và hỏi thế nào là hai
vấn đề không thể tùy tiện đối với một người giáo viên. Nguyên tắc sư phạm đòi hỏi
giáo viên không những am hiểu trình độ học sinh (trình độ chung của cả lớp và của
từng em) mà còn phải hiểu rõ vai trò, tính chất của từng loại kiến thức trong bài:
Kiến thức nào là trọng tâm, cơ bản cần khắc họa, đi sâu, kiến thức nào là bổ trợ,
thứ yếu; đặc biệt là phải xây dựng mối liên hệ logic giữa bài học hôm nay và
những bài học trước đó, để có quyết định đúng đắn khi đặt câu hỏi.
Mặt khác hệ thống câu hỏi phải phù hợp với tầm tiếp nhận của học sinh, hay
đảm bảo tính vừa sức, như nguyên tắc giáo dục học đã khẳng định. Trường hợp
câu hỏi không bám sát tác phẩm, hay câu hỏi quá khó hoặc quá dễ, đều có thể làm
giảm sút hiệu quả của giờ đọc hiểu văn bản. Chẳng hạn, khi dạy chủ đề: “Vĩnh biệt
Cửu Trùng Đài” - Nguyễn Huy Tưởng đã viết trong tựa đề: “cầm bút chẳng qua
cùng một bệnh Đam Thiềm”. Dựa và đoạn trích, em hãy lí giải điều mà nhà văn goị
là “bệnh Đan Thiềm”? Theo tôi, đây là câu hỏi khó và nâng cao HS phải có cảm
nhận sâu sắc, am hiểu vốn từ rất phong phú mới có thể giải quyết được vấn đề này.
Trong thời gian một tiết học, cần phải giải quyết vấn đề cùng lúc ta nên đặt câu hỏi
dễ hiểu và dễ phát hiện hơn như: Hãy phân tích những biểu hiện của tấm lòng trân
trọng, hết mình bảo vệ cái tài, cái đẹp của Đam Thiềm? Đối với những dạng câu
hỏi quá dễ cũng gây ra những hiệu ứng không tốt trong tư duy của HS. Những câu
hỏi mang tính chất tái hiện kiến thức ghi nhớ SGK như: “Qua tấn bi kịch của Vũ
Như Tô tác giả đã đặt ra vấn đề gì?” cần được thiết kế lại cụ thể hơn, kích thích
gợi mở hơn; chẳng hạn: “Qua tấn bi kịch của Vũ Như Tô, em có cảm nhận như thế
nào về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống?”
Chính những câu hỏi quá dễ hoặc quá khó, không phù hợp với tầm đón nhận
của HS sẽ làm mất đi hứng thú, niềm vui khám phá của HS; đó là một trong những
lí do khiến cho giờ đọc văn trở nên nhàm chán, ít mang lại tác dụng, hiệu quả về
mặt nhận thức và thẩm mĩ. Xuất phát từ thực tế ấy, tôi thiết nghĩ từ những gợi ý
của hệ thống câu hỏi SGK, SGV cần “cấu tạo lại” một hệ thống câu hỏi phù hợp
hơn, vừa bám sát những đặc sắc nội dung và hình thức của tác phẩm vừa phù hợp
với nhu cầu, trình độ khả năng tiếp nhận của học sinh trong lớp học. Môt hệ thống
câu hỏi được “cấu trúc lại” như vậy sẽ đem lại những hiệu quả đáng kể trong việc
rèn kĩ năng tự đọc hiểu tác phẩm cho học sinh.
2.3.2. Các dạng thức câu hỏi theo cấp độ
2.3.2.1. Giới thiệu chung về khái niệm câu hỏi
Theo Từ điển Tiếng Việt, hỏi là nói ra điều mình muốn người ta cho mình
biết với yêu cầu được trả lời; nói ra điều mình đòi hỏi hoặc mong muốn ở người ta
37
với yêu cầu được đáp ứng. Trong chuyên đề này Câu hỏi và bài tập với việc dạy
học tác phẩm văn chương, Tiến sĩ Nguyễn Quang Cương, khi giới thiệu về thuật
Ngữ câu hỏi cho rằng: “Câu hỏi (question) là loại câu hỏi dùng để hỏi về một nội
dung nào đó chưa rõ, buộc người đọc, người đọc phải trả lời”; mỗi câu hỏi thường
hướng tới một nội dung cụ thể” [03; tr. 9]. Như vậy, có thể nói câu hỏi trong dạy
học là một trong những thành phần tổ chức hoạt động lĩnh hội, nhận thức của học
sinh, là một dạng cấu trúc ngôn ngữ để diễn đạt môt yêu cầu, đòi hỏi, một mệnh
lệnh mà người đọc cần giải quyết. Đặc điểm của câu hỏi: Hướng vào đối tượng tiếp
nhận; đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ, đòi hỏi sự đáp ứng, trả lời.
Câu hỏi thường có cấu trúc: Cái đã biết + Cái chưa biết. Những câu hỏi mà
giáo viên nêu ra trong quá trình dạy học là những cái mà giáo viên chưa biết, đã
nắm chắc nhưng phải đặt ra để học sinh suy nghĩ, tư duy và hành động, trên cơ sở
đó mà thu nhận, chiêm nghiệm mới. Theo một số công trình nghiên cứu, căn cứ
vào đặc điểm có thể phân chia câu hỏi thành ba nhóm sau: Nhóm câu hỏi thứ nhất,
là các câu hỏi thực hiện chức năng củng cố tri thức (tái hiện những điều đã học, hệ
thống hóa bước đầu sự kiện, khái niệm rèn luyện kĩ năng). Nhóm câu hỏi thứ hai,
là những câu hỏi góp phần làm cho HS nắm vững tính logic và các phương pháp tư
duy sáng tạo (hoạt động phân tích, tổng hợp độc lập: so sánh, khái quát, đánh giá,
rút ra kết luận, đào sâu làm giàu hệ thống kiến thức, xác định rõ, cụ thể hóa, phát
triển,...). Nhóm câu hỏi thứ ba là những câu hỏi đòi hỏi ứng dụng những tri thức đã
học được vào thực tế (thể hiện các hành động, hình thành công việc, thể hiện việc
ứng dụng các kĩ năng,...)
Mục đích của việc đặt câu hỏi trong dạy học là giúp giáo viên thực hiện giải
bài tập, luyện tập, luyện tập mở rộng hướng dẫn tổ chức học sinh tham gia vào quá
trình dạy học. Đồng thời thông qua đó kiểm tra, đánh giá kiến thức, kĩ năng của
học sinh và sự quan tâm, hứng thú của các em đối với nội dung học tập.
40
Ví dụ 1: Theo em vì sao lại có những ánh mắt và thái độ khác nhau khi nhìn
nhận và đánh giá Cửu Trùng Đài? Từ đó, em hãy phân tích mâu thuẫn thứ hai của
vở kịch?
Ví dụ 2: Phân tích sự phát triển của xung đột kịch ở màn đối thoại của Hồn
Trương Ba với xác Hàng thịt với người thân?
2.3.2.3. Câu hỏi khái quát
Bên cạnh thao tác phân tích, tổng hợp, khái quát được xem là một thao tác tư
duy quan trọng mà một giờ dạy học tác phẩm cần khai thác được. Khái quát không
chỉ là một thao tác quan trọng khi muốn thâu tóm các giá trị của một tác phẩm mà
còn là sự sắp xếp các giá trị thành một hệ thống trọn vẹn, đầy đủ từ nhiều khía
cạnh, nhiều phương diện của vấn đề. Vì thế, đây là một kĩ năng quan trọng cần rèn
luyện cho học sinh trong quá trình dạy học đọc hiểu văn bản kịch.
Một số câu hỏi dạng khái quát có thể sử dụng như sau:
Ví dụ1: Nỗi đau vỡ mộng của bi kịch Vũ Như Tô thức tỉnh ở chúng ta điều
gì?
Ví dụ 2: Khái quát nội dung và nghệ thuật của đoạn trích “Tình yêu và thù
hận”?
Ví dụ 3: Màn đối thoại của Hồn Trương Ba và Đế thích làm toát lên ý nghĩa
gì?
2.3.2.4. Câu hỏi gợi mở
Gợi mở là cách thức người giáo viên thông qua đàm thoại bằng hệ thống câu
hỏi gợi mở tổ chức, hướng dẫn học sinh tự mình từng bước đi vào tìm tòi, phát
hiện phân tích, khái quát và chiếm lĩnh những giá trị về mặt nội dung và hình thức
của tác phẩm một cách tích cực, sáng tạo. Với hiệu lực và hiệu quả đã được thừa
nhận rộng rãi, hệ thống câu hỏi gợi mở có tác dụng kích thích sự cảm thụ, khơi dậy
tư duy, gây được những phản ứng bên trong của học sinh. Hệ thống câu hỏi gợi mở
cùng với sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh tự tìm tòi, phát hiện tri thức mới,
đồng thời nắm được cách đi tới kiến thức đó; Qua đó phát triển trình độ, tư duy của
học sinh.
Một số câu hỏi gợi mở có thể thiết kế như sau:
Ví dụ 1: Nguyễn Huy Tưởng đã viết trong tựa đề: “cầm bút chẳng qua cùng
một bệnh với Đan Thiềm”. Dựa vào đoạn trích, em cảm nhận gì về điều mà nhà
văn gọi là: “bệnh Đan Thiềm”?
Ví dụ 2: Màn kết của vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt là cảnh khu vườn
của Trương Ba, Trương Ba hóa thân vào những hình ảnh quen thuộc trong gia
đình, cu Tị sống lại ngồi với cái Gái trong vườn, cháu gái ông đang vùi hạt na
xuống đất đất để nó mọc lên cây mới, vì “Ông nội tớ bảo thế. Những cây này sẽ
nối nhau khôn lớn. Mãi mãi...” Theo ý nghĩa cả màn kết này là gì?
41
2.3.2.5. Dạng câu hỏi so sánh liên hệ
So sánh, liên hệ là một dạng câu hỏi có hiệu lực thực sự trong việc làm sáng
tỏ các mối quan hệ trong văn bản kịch, mà đem lại hiệu quả đáng kể trong việc
phân tích, chiếm lĩnh một văn bản kịch cả bề rộng lẫn bề sâu. Câu hỏi so sánh giúp
chúng ta đi sâu phân tích, đối sánh các chi tiết nghệ thuật, các hình tượng thẩm mĩ,
để từ đó phát hiện ra vẻ đẹp độc đáo của đối tượng phân tích, qua đó cảm nhận
được sâu sắc, tinh tế hơn các chi tiết, hình tượng nghệ thuất ấy.
Sử dụng câu hỏi so sánh liên hệ trong dạy học tác phẩm văn chương nói
chung và văn bản kịch nói riêng có một hiệu quả to lớn, không những kích thích,
gây hứng thú, phát huy óc liên tưởng cho học sinh mà còn giúp học sinh tích lũy,
mở rộng, làm phong phú thêm kho tri thức văn học. Vận dụng tốt câu hỏi so sánh
sẽ làm cho giờ đọc hiểu văn bản kịch thêm đa dạng, phong phú, sinh động hơn,
giúp học sinh có được những liên tưởng và phát hiện thú vị để từ đó cảm hiểu văn
bản sâu sắc hơn.
Một số câu hỏi dạng so sánh như sau:
“Trời ơi! Phú cho ta cái tài làm gì? Ôi mộng lớn? Ôi Đan Thiềm! Ôi Cửu
Trùng Đài!” (Vũ Như Tô - Nguyễn Huy Tưởng)
“Chao ôi! Hắn đã viết những gì? Toàn những thứ vô vị, nhạt nhẽo, gợi
những tình cảm rất nhẹ, rất nông, diễn tả một vài ý rất thông thường quấy loãng
trong một thứ văn bằng phẳng và quá ư dễ dãi. Hắn chẳng đem một chút mới lạ gì
đến văn chương. Thế nghĩa là hắn là một kẻ vô ích, một người thừa” (Đời thừa-
Nam Cao)
So sánh tiếng kêu đau đớn tuyệt vọng của Vũ Như Tô và nỗi đau dứt của Hộ
- để thấy được tấm bi kịch của người nghệ sĩ trong xã hội cũ.
Ví dụ 2: Hãy so sánh văn bản truyện cổ tích Hồn Trương Ba, da hàng thịt và
kịch bản Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ để thấy được sự sáng tạo
và triết lí nhân sinh mà tác giả gửi gắm qua vở kịch?
2.3.2.6. Dạng câu hỏi tự bộc lộ tự nhận thức
Dạy học tác phẩm văn học nói chung và Kịch nói riêng cần hướng đến mục
tiêu giúp học sinh tự bộc lộ, tự nhận thức về vấn đề mà văn bản đặt ra; bởi vì tiếp
nhận văn học, giáo dục văn học, vấn đề tự nhận thức, tự giáo dục mới trở thành
cứu cánh. Vì thế, trong vệc rèn luyện cho học sinh kĩ năng đọc hiểu văn bản kịch,
giao viên cần chú ý dạng câu hỏi này.
Ví dụ 1: Nỗi đau vỡ mộng của bi kịch Vũ Như Tô thức tỉnh ở chúng ta điều
gì?
Ví dụ 2: Hãy nêu suy nghĩ của em về câu nói của nhân vật hồn Trương Ba
“Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được làm tôi
toàn vẹn” (Hồn Trương Ba, da hàng thịt - Lưu Quang Vũ).
42
Ví dụ 3: Em có suy nghĩ gì về mối tình của Rô-mê- ô và Giu-li-ét? Tình yêu
ấy có còn phù hợp với thời đại ngày hôm nay hay không?
Có thể nói, xây dựng được một hệ thống câu hỏi phù hợp trong dạy học tác
phẩm văn chương nói chung và dạy học văn bản kịch nói riêng rất quan trọng. Một
hệ thống câu hỏi chính xác, khoa học, hấp dẫn không chỉ có tác dụng giúp học sinh
đi sâu phân tích, chiếm lĩnh cái hay cái đẹp của văn bản văn chương mà còn từng
bước hình thành, rèn luyện cho học sinh kĩ năng tự mình tiếp cận, phân tích, lí giải,
đánh giá văn bản một cách có cơ sở khoa học; đồng thời phát huy tính tích cực,
năng động sáng tạo của học sinh.
45
Câu 2: Văn bản cần được đọc như thế nào? Hãy đọc một đoạn theo yêu cầu
của bản thân? Em hãy phân tích bố cục của đoạn trích? Theo em, đoạn trích tồn tại
những mâu thuẫn kịch nào? Nguyên nhân dẫn đến những mâu thuẫn đó là gì?
Câu 3: Những lời đọc thoại khẩn thiết của Hồn Trương Ba mở đầu đoạn
trích mang ý nghĩa gì? Em hãy đọc lại các lời thoại giữa hồn, thống kê các lời nói
của hai nhân vật và đưa ra nhận xét về dung lượng ngôn từ, giọng điệu và thế quân
bình trong đối thoại giữa hai nhân vật. Từ đó, rút ra kết luận về cuộc đối thoại giữa
hồn và xác? Nhận xét về sự thay đổi giọng điệu (cử chỉ, xưng hô, mục đích, vị thế
trong lời đối thoại) thái độ của xác giữa tám lời thoại đầu và năm lời thoại còn lại?
Sự thay đổi có ý nghĩa nghệ thuật như thế nào? Hàm ý mà tác giả muốn gửi gắm
qua cuộc đối thoại này là gì?
Câu 4: Qua đọc, khảo sát các cuộc hội thoại giữa Hồn Trương Ba và các
nhân vật trong gia đình, em hãy cho biết: Nhân vật Hồn Trương Ba, trong tình
cảnh nhập vào xác anh hàng thịt hiện lên như thế nào qua điểm nhìn của những
người thân? Việc chọn nhiều nhân vật và đều là người thân thiết cùng cất lên tiếng
nói tạo nên hiệu như thế nào? Hãy nhận xét các câu trả lời của Hồn Trương Ba
trong sự kết hợp với hành động sân khấu và cho biết nhân vật đã đón nhận hình
ảnh đó của mình và có thái độ như thế nào?
Câu 5: Hãy chỉ ra sự khác nhau trong quan niệm của Trương Ba và Đế Thích
về ý nghĩa của sự sống. Theo em, Trương Ba trách Đế Thích, người đem lại cho
mình sự sống: Ông cứ nghĩ là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng
cần biết! Có đúng không? Vì sao? Màn đối thoại giữa Trương Ba và Đế Thích toát
lên ý nghĩa gì?
Câu 6: Nhập vào xác anh hàng thịt phàm tục thô thiển, Hồn Trương Ba gặp
bao điều đáng day dứt xấu hổ. Tại sao khi được phép nhập vào cu Tị ngây thơ
trong trắng, nhân vật lại từ chối? Phải chăng tính cách nhân vật này không nhất
quán? Nhận xét về nhân vật Trương Ba từ sự việc này? Có ý kiến cho rằng cái chết
của cu Tị là chi tiết độc đáo có tính “mở nút”. Trình bày ý kiến của mình và đánh
giá cách xây dựng miêu tả nhân vật của tác giả?
Câu 7: Hãy nêu cảm nghĩ của em sau khi đọc đoạn kết? Chủ đề tư tưởng của
đoạn là gì?
Câu 8: Dựa vào đặc điểm thể loại kịch, em hãy nêu đặc sắc nghệ thuật của
tác phẩm?
Câu 9: Từ văn bản, em hiểu gì về thái độ của tác giả đối với một số biểu
hiện tiêu cực lúc bấy giờ? Tác phẩm đem đến cho em bài học nhận thức nào bổ ích
hơn cả?
Câu 10: Trình bày suy nghĩ của em về câu nói của nhân vật hồn Trương Ba
“Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được làm tôi
toàn vẹn” (Hồn Trương Ba, da hàng thịt - Lưu Quang Vũ).
46
Câu 11: So sánh với tâm trạng và thái độ của Trương Ba ở phần kết màn đối thoại
với hàng thịt (Sản phẩm hoàn thành Tốt).
2.4.3.2. Một số định hướng trả lời câu hỏi (sản phẩm của học sinh)
Câu 1
* Cách 1: Sản phẩm lớp 12 a6
GV giao nhiệm vụ cho học sinh ở tiết trước, nhóm trưởng sẽ phân công cho
thành viên trong đội chuẩn bị; hướng dẫn đội chơi sẽ chuẩn bị tối thiếu nội dung
liên quan về tác giải tác phẩm, (mỗi nhóm tự đọc tìm nội dung có liên quan thông
qua hệ thống ô chữ) thông qua thể lệ cuộc chơi cho hai đội, nhận xét kết quả và
tinh thần hưởng ứng trò chơi để động viên học sinh (đội nào tìm nhiều hơn sẽ
thắng; tham gia trò chơi (ô chữ) 1,2,3 ta cùng tìm nào. Sản phẩm mang lại như
mong đợi - Tốt
47
nhóm, tập trung tính rõ ràng, mạch lạc, hấp dẫn của nội dung cũng như hình thức
trình bày. Sau đó giáo viên chốt lại. Sản phẩm hoàn thành tốt
Vị trí đoạn trích: trích từ cảnh VII và đoạn kết của vở kịch.
* Cách 2: Sản phẩm lớp 12 a1
Học sinh tìm hiểu kiến thức về thể kịch, áp dụng kĩ năng trình bày một vấn
đề và nội dung văn thuyết minh để làm việc ở nhà theo nhóm, chuẩn bị thuyết
minh trước lớp (vận dụng kĩ năng nói). Tích hợp kiến thức làm văn: Văn thuyết
minh.
Nhóm 1: Thuyết minh những nét chính về tác giả Lưu Quang Vũ.
Tác giả Lưu Quang Vũ (1948- 1988), quê gốc ở Đà Nẵng, sinh tại Phú Thọ
trong một gia đình trí thức.
+ 1978 - 1988 Là biên tập viên tạp chí Sân khấu và bắt đầu sáng tác kịch ->
đem đến cho sân khấu kịch những tác phẩm chấn động dư luận.
- Ông là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, vẽ tranh, viết truyện, viết tiểu luận,…
và soạn kịch.
- Kịch là phần đóng góp đặc sắc nhất của Lưu Quang Vũ.
Lưu Quang Vũ trở thành 1 hiện tượng đặc biệt của sân khấu, kịch trường
những năm 80 của thế kỉ trước, nhà sọan kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ
thuật hiện đại. Năm 2000 được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ
thuật năm 2000.
- Tóm tắt: Trương Ba, một người làm vườn tốt bụng, khỏe mạnh, giỏi đánh
cờ bị Nam Tào bắt chết nhầm. Vì muốn sửa sai nên Nam Tào và Thích cho hồn
Trương Ba gặp rất nhiều phiền toái: Lí trưởng sách nhiễu, chị hàng thịt đòi chồng,
gia đình Trương Ba cảm thấy xa lạ mà bản thân Trương Ba bị đau khổ vì phải sống
xa lạ, giả tạo. Đặc biệt, thân xác hàng thịt làm Trương Ba nhiễm một số thói xấu và
những nhu cầu vốn không phải là của bản thân ông. Trước nguy cơ tha hóa về
nhân cách và sụ phiền phức phải mượn thân xác của kẻ khác, Trương Ba quyết
định trả lại thân xác cho hàng thịt và chấp nhận cái chết.
- Vị trí đoạn trích: trích tù cảnh VII và đoạn kết của vở kịch.
48
Câu 2
* Cách 1: Sản phẩm lớp 12 a1
Văn bản được trích có hai phần với hai cách đọc khác nhau: Phần tóm lược
với nội dung thuyết minh về vở kịch và chỉ dẫn sân khấu, cần đọc bằng giọng
khách quan, nhịp điệu vừa phải, riêng chỉ dẫn sân khấu ở phần đầu cần được hạ
thấp giọng. Phần văn bản kịch với sự xuất hiện của nhân vật cần được đọc phân
vai, với giọng đọc khác với cá tính nhân vật. Ví dụ giọng đau khổ, bối rối của Hồn
Trương Ba; giọng từ tốn, bình dị và có phần cổ xưa, chân quê của nhân vật bà vợ
Trương Ba; giọng đắc thắng, tự tin một cách khó chịu của nhân vật anh hàng thịt;
giọng đanh thép, cứng cỏi, hồn nhiên của nhân vật cái Gái.
52
Câu 5
* Cách 1: Sản phẩm lớp 12 a6
Những lời độc thoại nội tâm của Trương Ba cho thấy thái độ quyết liệt của
nhân vật này khi muốn thoát khỏi tình trạng giả tạo của xác một nơi hồn một nẻo
của mình: nhưng có thật là không có cách nào khác? Và sự khẳng định dứt khoát:
không cần cái đời sống do mày mang lại! Không cần! Đây là lời độc thoại dẫn tới
quyết định châm hương gọi Đế thích một cách dứt khoát.
Cuộc trò chuyện giữa Trương Ba và hàng thịt trở thành nơi tác giả gửi gắm
những quan niệm về hạnh phúc, về lẽ sống và cái chết. Lời thoại sau đây thật là có
ý nghĩa: sống nhờ vào đồ đạt của cải của người khác đã là chuyện không nên, đằng
này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là
cho tôi sống chứ sống như thế nào thì ông chẳng cần biết! Khi sống nhờ, sống gửi,
sống vấp vá, khi không được là mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa. Đế thích có
cái nhìn khá hời hợt về cuộc sống của con người nói chung và của Trương Ba nói
riêng. Nhân vật Hồn Trương Ba đã ý thức sâu sắc về tình cảnh bi hài của mình và
quyết tâm giải thoát. (Sản phẩm hoàn thành mức Khá)
* Cách 2: Sản phẩm lớp 12 a1 Sản phẩm hoàn thành mức Khá
54
Tác giả gửi gắm thông điệp về cuộc sống: sự sống thật sự có ý nghĩa khi con
người được sống tự nhiên, hài hòa giữa thể xác và tâm hồn. Hạnh phúc của con
người là chiến thắng được bản thân, chiến thắng sự dung tục, hoàn thiện được nhân
cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý. (Sản phẩm hoàn thành mức Khá
– Tốt)
Câu 8, 9: Phát huy được kĩ năng đọc - viết - nghe - nói của học sinh từ đó
thấy được hiệu quả thể hiện qua ngôn ngữ nói trong quá trình trao đổi, giúp học
sinh tự tin trong giao tiếp bộc lộ kĩ năng đặc trưng của bộ môn và hình thành 5
phẩm chất tốt đẹp qua giờ dạy học theo chủ đề.
58
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Trọng Luận (Chủ biên - 2001), Phương pháp dạy học văn (Tập 1),
NXB Giáo dục, Hà Nội.
2. Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên - 2009), Ngữ văn 10, 11, 12, NXB Giáo
dục, Hà Nội.
3. Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên - 2009), Bài tập Ngữ văn 10, 11, 12,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
4. Nguyễn Viết Chữ (2005), Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương
(Theo thể loại), NXB ĐHSP Hà Nội.
5. Nguyễn Quang Cương (2002), Câu hỏi và bài với việc dạy - Tác phẩm
phẩm văn chương trong nhà trường, NXB ĐHQG Hà Nội.
6. Trương Đăng Dung (1998), Từ văn bản đến tác phẩm văn học, NXB
KHXH, Hà Nội.
7. Trương Đăng Dung (2004), Tác phẩm văn học như là quá trình, NXB
KHXH, Hà Nội.
8. Phương Lựu (Chủ biên - 1986), Lí luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
9.Lưu Hải An, Tô Văn Hiến (Chủ biên - 2002), Đặc trưng của Văn học kịch,
Lí luận văn học (tập 2), NXB ĐHSP Hoa Trung Vũ Hán.
10. Mai Xuân Miên (1996), Cơ chế tiếp nhận tác phẩm văn chương, tác
phẩm ĐH & GDCN Số 8.
11. Mai Xuân Miên (1996), Định hướng học sinh tiếp nhận tác phẩm văn
chương trong giờ giảng văn ở Trường Trung học phổ thông, Luận án Tiến sĩ,
ĐHSP Hà Nội.
12. Mai Xuân Miên (1999), Đối thoại trong giờ văn, Tác Phẩm ĐH&GDCN
Số 6
13. Mai Xuân Miên (2005), Dạy đọc hiểu tác phẩm văn chương ở THPT,
Tài liệu bồi dưỡng GV cốt cán THPT về đổi mới phương pháp dạy học - môn Văn
học, Trường Đại Học Quy Nhơn.
14. Mai Xuân Miên (2003), Bài giảng Phương pháp dạy học văn, Trường
Đại học Quy Nhơn.
15. Trần Diệu Nữ (2015), Dạy học tác phẩm kịch trong chương trình trung
học theo đặc trưng thể loại, Tạp chí Khoa học Trường ĐH Quy Nhơn, (số 3 tập 4,
trang 69 -76.)
16. Mai Xuân Miên (2010), Hệ thống bài tập rèn luyện kĩ năng đọc hiểu tác
phẩm tự sự cho học sinh Trung học phổ thông, Đề tài KH &CN cấp Bộ, Trường
Đại Học Quy Nhơn.
17. Hồ Ngọc (1977), Xây dựng cốt truyện kịch, NXB Văn hóa, Hà Nội
18. Trần Đình Sử (Tổng chủ biên - 2008), Ngữ văn Nâng cao 10, 11, 12,
NXB GD, HN.
59
19. Trần Đình Sử (Tổng chủ biên- 2008), Bài tập Ngữ văn Nâng cao 10, 11,
12 NXB Giáo dục, Hà Nội.
20. Trần Đình Sử (1996), Tiếp nhận - bình diện mới của lí luận văn học, Lí
luận và phê bình văn học, NXB HNV, Hà Nội.
21. SGK 10, 11, 12 (Ban cơ bản), NXB, GD, HN, 2010.
22. SGV 10, 11, 12 (Ban cơ bản), NXB, GD, HN, 2010.
23. Trần Đình Sử (1996) Đối thoại - hệ hình mới trong phê bình văn học, Lí
luận và phê bình văn học, Lí luận và phê bình văn học, NXB HNV, Hà Nội.
24. Phạm Viết Vượng (2001), Giáo dục học, NXB ĐHQG HN.
60
61