Professional Documents
Culture Documents
Làm văn nói chung và làm văn nghị luận nói riêng là một phần khó
trong nhà trường phổ thông - một phần thực hành sáng tạo. Nhìn chung,
dưới sự giúp đỡ, hướng dẫn tích cực của giáo viên, học sinh bước đầu đã
có những thành công nhất định. Thế nhưng thực tế cho thấy, làm văn
nghị luận, nhiều học sinh (nhất là học sinh THCS) vẫn còn tỏ ra khó
khăn, lúng túng trong kiến thức và kĩ năng đọc, lĩnh hội và thực hành. Để
tháo gỡ phần nào sự khó khăn, lúng túng ấy, chúng tôi xin được góp một
vài kĩ năng.
Đề tài “Rèn luyện kĩ năng xây dựng đoạn văn cho học sinh THCS”
là kết quả làm công tác trực tiếp dạy học, là kết quả của sự miệt mài tìm
tòi, nghiên cứu, tích luỹ kinh nghiệm nhiều năm của bản thân và đồng
nghiệp cũng như tham khảo một số tài liệu. Hi vọng qua đề tài này, thầy
cô giáo và các em học sinh có thể tìm thấy được điều hữu ích.
Trong quá trình viết, chúng tôi đã nhận được sự động viên, khích lệ và
sự giúp đỡ tích cực, nhiệt tình của nhiều bạn đồng nghiệp, một số tạp chí.
Tuy rằng, bản thân chúng tôi đã cố gắng hết sức, song chắc chắn đề tài
này không tránh khỏi những nhược điểm, thiếu sót. Kính mong quý thầy
cô giáo, quý bạn đồng nghiệp gần xa cho tác giả những lời phê bình xây
dựng để đề tài ngày càng hoàn thiện hơn.
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành !
MAI VĂN NĂM
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tầm quan trọng của việc học và làm văn nghị luận (VNL) của
học sinh (HS) ở trường Trung học cơ sở (THCS)
NL không phải là điều gì xa lạ đối với con người trong cuộc sống. Khi
chúng ta còn bé, còn vô tư và vô tâm đối với nhiều sự việc thì dường như
ta chưa cần nhiều đến NL. Mặc dù vậy, cũng đã có rất nhiều điều ta băn
khoăn, thắc mắc, tò mò, muốn tìm hiểu, muốn giải đáp. Các bài giảng về
tự nhiên và xã hội của các thầy cô giáo đều ít nhiều là các lời NL khác
nhau. Khi ta lớn lên, đã thành người lớn có ý thức và có suy nghĩ thì
nhiều khi có người đến hỏi ta: “Ý kiến của bạn đối với việc đó (hay
chuyện này) như thế nào ?”. Những người lười suy nghĩ hoặc ít trách
nhiệm cũng có thể trả lời: “Tôi không có ý kiến !”. Song, cũng có nhiều
lúc, ta trả lời: “Ý kiến của tôi đối với vấn đề đó là như thế này...”. Như thế
là ta bắt đầu NL. Nếu đem những điều đó viết ra thì đó là VNL. Những
vấn đề đặt ra có thể là những vấn đề cụ thể, thiết thực trong đời sống hằng
ngày; cũng có thể NL về những vấn đề rộng lớn hơn. Có thể nói trong
cuộc sống của con người không nơi đâu và không lúc nào là không có
NL.
Do đó, học và làm văn NL là một công việc, một yêu cầu rất trọng yếu.
Sự mạch lạc trong tư duy, năng lực phân tích tổng hợp khám phá các vấn
đề, năng lực thuyết phục trên cơ sở lí lẽ chặt chẽ có căn cứ xác thực là
một hướng tiếp cận hết sức quan trọng đang đặt ra đối với con người hiện
đại. Việc dạy học VNL vì vậy có giá trị đặc biệt trong nhà trường. Kiến
thức và kĩ năng trong quá trình học tập về NL và cách NL không chỉ giúp
cho HS khả năng làm văn mà còn có tác dụng hình thành năng lực cả về
tư duy và sự thành công trong giao tiếp. Ảnh hưởng của văn NL đạt được
không chỉ trong phạm vi môn Ngữ văn (NV) mà lan toả đối với tất cả các
môn học khác ở trường phổ thông.
Văn NL là một trong sáu dạng văn bản (VB) trong sách giáo khoa
(SGK) NV THCS. Cũng như các văn VB khác, ngoài mục đích văn
chương, VBNL với những giá trị đặc trưng riêng đã đem lại cho người
học (HS) những phát triển mà mỗi dạng VB tạo ra từ chính giá trị của bản
thân tác phẩm. VBNL thuyết phục người đọc, người nghe thông qua hệ
thống luận điểm (LĐ), luận cứ (LC), lập luận (LL) và những hình ảnh
sinh động gắn với thực tiễn.Vẻ đẹp riêng của văn chương NL cuốn hút
hấp dẫn tạo dòng chảy tư duy mạch lạc chặt chẽ trước các vấn đề chính trị
xã hội và cả đời sống nhân sinh.
VBNL được đưa vào SGK NV THCS bắt đầu từ lớp 7 đồng thời với
việc hình thành các kiến thức cho HS về làm VNL. Hướng tích hợp liên
thông nội dung các phân môn trong dạy học NV, đặc biệt với phân môn
Tập làm văn đã giúp cho việc dạy học VBNL có được cơ sở khoa học
vững chắc. HS được trang bị kiến thức đồng thời với việc sử dụng kiến
thức để khám phá các tác phẩm văn chương NL.
Trong thực tế, dạy học tác phẩm văn chương NL tạo ra sự hứng thú của
HS độ tuổi THCS, cũng như làm sáng lên đặc sắc của nghệ thuật, cuốn
hút người đọc, người nghe đối với nghệ thuật LL đầy sức thuyết phục của
tác phẩm dường như không thật dễ. Vì vậy, dạy học VBNL đòi hỏi có sự
chuẩn bị hết sức công phu.
2. Thực trạng dạy và học làm văn NL ở trường THCS
Khách quan mà nói, từ khi tiến hành công cuộc đổi mới giáo dục, dạy
và học bước đầu có nhiều khởi sắc và triển vọng, nhất là GV dạy tích cực
và HS học tích cực. Qua các năm đổi mới phương pháp dạy học ở trường
THCS, chất lượng dạy và học NV không ngừng được nâng cao, trong đó
có làm văn NL. Minh chứng cho điều này là cách diễn đạt, lập luận trong
giao tiếp đời sống xung quanh của HS ngày càng tốt; chất lượng bài viết
về VNL ở trên lớp cũng như qua các kỳ thi đã xuất hiện nhiều em đạt
điểm cao. Nhiều GV hứng thú và thành công trong dạy học văn NL.
Nhiều nơi GV tổ chức bài học về nó diễn ra khá sôi động.
Tuy nhiên, những biểu hiện trên đây diễn ra chưa thường xuyên, chưa
đều khắp. Dạy học làm văn NL vẫn còn bộc lộ hạn chế và vẫn còn điều
để nói.
- Về phía người học: Chúng tôi đã bao lần thăm dò ý kiến các em (lớp
7, 8, 9), trong đó có câu hỏi: “Các em thích học và làm văn NL không ?”.
Đa số chúng tôi nhận được câu trả lời: “ Dạ thưa thầy, NL thì các em
thích nhưng học và làm về nó thì các em cảm thấy khó quá !”. Điều này
thật dễ sẻ chia. Bởi ở lứa tuổi của các em (độ tuổi 11 đến 15) vốn tri thức,
văn hoá, xã hội, kinh nghiệm đời sống chưa trải nhiều; kiến thức và kĩ
năng làm văn NL còn ít.
Trong thiên truyện “Dưới mái trường thân yêu” của tác giả Lê Khắc
Hoan, nhân vật chính là một cậu HS cấp hai rất chăm học đã nhận xét về
mình và về các bạn học một cách hài hước như sau: “Lên lớp 7, chúng tôi
tập làm văn nghị luận. Mới viết được vài câu thì đã hết sạch cả ý. Thế
mới biết lí luận của chúng tôi cùn thật !”. Có lẽ không chỉ ở cấp THCS
mà cả vào đầu cấp THPT, nhiều nhiều HS chúng ta cũng có cảm giác như
nhân vật của thiên truyện trên đây. Cảm giác rằng văn NL sao mà khó
khăn, khô khan, mới viết vài câu đã hết cả ý.
Chính vì thế, các em HS ngại văn NL. Mỗi lần đến giờ làm văn NL,
các em rất “sợ”! So với các kiểu bài khác ( tự sự, miêu tả, biểu cảm...),
bài làm về NL của các em thường đạt điểm thấp hơn.
- Về phía người dạy: Không ít GV nhận xét rằng dạy văn NL vừa khó
lại vừa khô; cảm thấy chưa biết làm cách nào để gây hứng thú cho HS.
GV dạy vẫn dạy, nhưng khi chọn bài để thao giảng, hội giảng thì tỉ lệ các
bài được chọn văn NL thường rất khiêm tốn. Giả sử có hai bài được chọn
để dạy “Viếng lăng Bác” (Viễn Phương) và “Tiếng nói của văn nghệ”
(Nguyễn Đình Thi) thì ít người chọn bài thứ hai. Giả sử có hai bài được
chọn để dạy “Tìm hiểu chung về văn tự sự” và “Tìm hiểu chung về văn
nghị luận” thì ít người chọn bài thứ hai. Vậy nguyên nhân do đâu ?
Thứ nhất, có thể GV chưa tìm được nguồn hứng thú cho dạy học NL.
Thứ hai, có thể GV chưa thật sự tạo ra một sự đột phá, một sự sáng tạo
vượt trội. Hoặc có thể căn bệnh hình thức rơi rớt vẫn còn đấy. Hoặc có
thể tổ chức dạy học còn đơn điệu, cứng nhắc - còn thiên về lối truyền
thụ, thông báo, giảng giải kiến thức trong SGK. Hoặc còn khó khăn trong
cách giúp HS học và thực hành (băn khoăn chưa tìm ra biện pháp, cách
thức rèn luyện). Hoặc “thôi thì...” để cho HS học theo văn mẫu (thuộc
lòng)...
3. Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của đề tài “Rèn luyện kĩ năng
xây dựng đoạn văn NL cho HS THCS” (*)
a. Nâng cao chất lượng dạy học đã và đang là vấn đề bức thiết, được
toàn xã hội quan tâm. Dạy và học phải đổi mới toàn diện: mục tiêu, nội
dung, phương pháp, phương tiện cùng các yêu cầu khác. Dạy học hiện
nay là nhằm phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo, gắn vận dụng.
Định hướng đổi mới theo quan niệm dạy học tiến bộ là: “Dạy cách học và
học cách học”. Đúng như Luật Giáo dục, điều 24.2 đã ghi: “Phương pháp
giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng
tạo của HS; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng
phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn;
tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho HS”. Có
thể nói cốt lõi của dạy học là hướng tới hoạt động học tập chủ động,
chống lại thói quen học tập thụ động. Hoạt động học tập là phải được
nhận thức, đặc trưng ở khát vọng hiểu biết, cố gắng trí tuệ và nghị lực cao
trong quá trình chiếm lĩnh tri thức. Cho nên, đổi mới phương pháp dạy
học theo hướng quy trình hoá việc chuẩn bị và tiến hành dạy học nhằm
tích cực hoá nội dung học tập, hoạt động học tập của HS có ý nghĩa rất
quan trọng. Môn Ngữ văn cũng không nằm ngoài quỹ đạo ấy.
b. Làm văn NL là một việc khó. Muốn học và làm tốt văn NL, con
đường học tập của các em HS THCS vẫn hãy còn xa. Thực tế này đòi hỏi
mỗi thầy, cô giáo chúng ta phải dành nhiều tâm huyết, suy nghĩ, trăn trở;
phải nỗ lực, phát huy sáng tạo, có kế hoạch chỉ đạo, nghiên cứu tìm giải
pháp.
(*). Ý nghĩa của vấn đề “Rèn luyện kĩ năng xây dựng đoạn văn NL cho HS THCS”
Nhiều GV thường băn khoăn nêu câu hỏi: Nên bồi dưỡng văn như thế
nào, theo quy trình nào ? Theo chúng tôi, bồi dưỡng văn cho HS không
nên cho HS học thuộc lòng các bài văn mẫu để bắt chước. (Tất nhiên đọc
văn hay của người khác là điều tốt, với điều kiện phải chủ động, sáng tạo,
chắt lọc cái hay ý đẹp). Bồi dưỡng kiểu đó chỉ tạo ra những con vẹt,
không khác gì con tằm ăn dâu lại nhã ra dâu. Bài văn sẽ không có cá tính,
không có hồn, không làm rung động được người đọc vì giả tạo, thiếu
chân thực. Chúng ta nên bồi dưỡng HS theo hướng sau: +Hướng dẫn đọc
sách, nâng cao cảm thụ văn học, tích luỹ dần các tư liệu văn học; +Làm
giàu vốn ngôn ngữ; +Rèn luyện kĩ năng quan sát, tìm ý, sắp xếp ý; +Trau
dồi cách diễn đạt (luyện nói, luyện viết); +Bồi dưỡng tình cảm, mỹ
cảm,...
Qua nghiên cứu, tìm hiểu mảng làm văn NL, qua thực tế giảng dạy của
bản thân cũng như của đồng nghiệp, qua điều tra cơ bản HS, chúng tôi
nhận thấy không ít thầy cô và HS băn khoăn, lo lắng khi làm văn NL. Để
góp phần giúp GV và HS dạy - học làm văn NL ngày một tốt hơn, chúng
tôi thiết nghĩ đề tài sáng kiến kinh nghiệm “Rèn luyện kĩ năng xây dựng
đoạn văn NL cho HS THCS” là có ý nghĩa. Bởi:
* Đối với dạy học NV
- Nhận thức đậm nét hơn vấn đề “Dạy học lấy HS làm trung tâm”,
“Dạy học hướng vào người học”; GV là người chỉ đạo, dẫn dắt, gợi mở
cho HS học tập.
- Làm thế nào để dạy học hướng vào giúp HS có được tâm lí, nếp quen,
nhu cầu, hưng phấn, năng lực, kĩ năng hình thành tích cực.
- Tổ chức các quan hệ và môi trường học tập đa dạng, giàu cảm xúc
tích cực. Mỗi bài học hay chủ đề học tập được thực hiện dưới nhiều hình
thức khác nhau, tránh nhàm chán, đơn điệu trong quá trình hoạt động của
HS, tạo ra những tình huống nhận thức, giao tiếp, đạo đức... linh hoạt và
sống động.
- Huy động và sử dụng kiến thức, kinh nghiệm sống, kinh nghiệm học
tập của HS ở mức tối đa và đạt hiệu quả học tập tốt nhất.
- Gắn kết giữa lí thuyết và thực tiễn, giữa học và hành, giữa khả năng
và hiện thực; từ đó HS dần dần trở thành những con người chủ động, tự
tin và sáng tạo trong cuộc sống .
* Đối với học và làm văn NL
- HS có ý thức viết đúng, viết hay đoạn văn NL nói riêng, bài văn NL
nói chung. HS từ nhận thức làm văn NL đi đến thực hành, vận dụng văn
NL vào xã hội sau này.
- HS không còn có cảm giác ngại và khó khăn trong học và làm văn
NL.
- HS ngày càng nhận ra việc học và làm văn NL là cần thiết, bổ ích,
hơn nữa, còn hứng thú, hấp dẫn, nếu ta thích và say mê.
- HS em nào cũng có thể viết được một bài văn NL thuyết phục, nếu
nắm được kiến thức cơ bản và thành thạo kĩ năng làm văn NL (tất nhiên
còn cần đến một số yếu tố khác nữa). HS đặt niềm tin lớn: một ngày gần
đây, NL của ta sẽ có chiều sâu trí tuệ, sẽ được nâng tầm, nếu biết cách
đầu tư thoả đáng.
- HS nhận thức được rằng, NL là một hoạt động phức tạp, phong phú
và đa dạng của tư duy, là một năng lực rất tinh vi của trí tuệ con người.
Phải kinh qua rèn luyện dày công và dài lâu mới đạt đến trình độ cao.
Vâng, nhà thơ Xuân Diệu đã đặt tên cho một tập NL của mình: “Dao có
mài mới sắc”.
*****
b.Bài ca dao có bốn câu thì bốn lần chữ “nhớ” được điệp lại như một
(2)
chủ âm. Một nỗi nhớ thật tròn đầy: nhớ mùi vị của quê hương qua canh
rau muống, cà dầm tương, nhớ người thương đã xa. Nhớ tường tận, nhớ
đến từng chi tiết. Mới hay nhớ thương chính là một biểu hiện của tình yêu
thương vậy!
( Trần Đình Sử, Luyện viết bài
văn hay )
Ví dụ:
Nước của Ông là nước Đại Việt “vốn xưng nền văn hiến đã lâu”. Nước
của Ông là một lãnh thổ riêng biệt với “cõi bờ, sông núi đã chia” và
“phong tục Bắc Nam cũng khác”. Nước của Ông là một nước có nền
chính trị riêng biệt đã “cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi bên hùng
cứ một phương”. Nước của Ông là một đỉnh cao trí tuệ, tài năng với
những “hào kiệt đời nào cũng có”.
(Vũ Khiêu, dẫn theo Trần Thanh Đạm –
Làm văn 10)
Đoạn văn trên gồm 4 câu, mỗi câu trình bày một khía cạnh ý nghĩa của
khái niệm “Nước” theo Nguyễn Trãi trong bài “Bình Ngô đại cáo”. Bốn
câu có quan hệ đẳng lập với nhau. Không có câu nào biểu đạt ý chính của
toàn đoạn để trở thành câu chủ đề. Ý chính (LĐ) của toàn đoạn chỉ được
hiểu ngầm qua việc tổng hợp ý của các câu lại: Nguyễn Trãi khi viết
“Bình Ngô đại cáo”, đã nhận thức rõ ràng, đầy đủ về khái niệm đất
nước, quốc gia.
d.Móc xích
Móc xích là cách sắp xếp ý nọ tiếp nối ý kia theo lối ý sau móc nối vào
ý trước (qua những từ ngữ cụ thể, lặp lại) để bổ sung, giải thích cho ý
trước. ĐV thuộc kiểu trình bày này có thể có hoặc không có câu chủ đề.
Sơ đồ LL:
Câu 1
Câu 2
Câu 3
Câu
4…
Ví dụ:
Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải tăng gia sản xuất. Muốn
tăng gia sản xuất tốt thì phải có kĩ thuật cải tiến. Muốn sử dụng tốt kĩ
thuật thì phải có văn hoá. Vậy việc bố trí văn hoá là cực kì cần thiết.
( Hồ
Chí Minh )
e.Lập luận hỗn hợp diễn dịch-quy nạp (tổng-phân-hợp)
Mở đầu nêu ý khái quát, sau đó là những phân tích từng yếu tố, từng
khía cạnh và cuối cùng là câu tổng hợp lại, khẳng định thêm giá trị của
vấn đề.
Ví dụ:
Trong hoàn cảnh “trăm dâu đổ đầu tằm”, ta càng thấy chị Dậu thật
là một người phụ nữ đảm đang, tháo vát. Một mình chị phải giải quyết
mọi khó khăn đột xuất của gia đình, phải đương đầu với những thế lực
tàn bạo: quan lại, cường hào, địa chủ và tay sai của chúng. Chị có khóc
lóc, có kêu trời nhưng chị không nhắm mắt khoanh tay mà tích cực tìm
cách cứu được chồng ra khỏi cơn hoạn nạn. Hình ảnh chị Dậu hiện lên
vững chãi như một chỗ dựa chắc chắn của cả gia đình.
(Nguyễn
Đăng Mạnh)
Đoạn văn trên gồm 4 câu. Câu đầu (tổng): đánh giá tổng quát về nhân
vật chị Dậu, một phụ nữ đảm đang, tháo vát. Hai câu giữa (phân): phân
tích để chứng minh sự đảm đang, tháo vát của chị Dậu. Câu cuối (hợp):
khẳng định thêm vai trò của chị Dậu đối với gia đình.
g.Lập luận loại suy
Loại suy là từ chân lí đã biết ta suy ra một chân lí tương tự, có chung
một lô-gíc bên trong.
Ví dụ:
“Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ
những quyền không ai có thể xâm phạm được. Trong những quyền ấy, có
quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.”
Lời bất hủ ấy trong bản “Tuyên ngôn Độc lập” năm 1776 của nước
Mĩ. Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới sinh
ra đều bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và
quyền tự do.
( Hồ Chí Minh, Tuyên ngôn
Độc lập )
h.Lập luận so sánh (tương đồng, tương phản)
Ví dụ 1:
Mùa thu đến với anh khá đột ngột và bất ngờ, không hẹn trước. Bắt
đầu không phải là những nét đặc trưng của trời mây hay sắc vàng hoa
cúc “Mùa thu vào hoa cúc/ Bao mùa thu hoa vẫn vàng như thế/ Chỉ có
em là khác với em xưa” của Xuân Quỳnh, hay “Với áo mơ phai dệt lá
vàng” của Xuân Diệu…mà là hương ổi thơm náo nức (đang vào độ chín)
và ngọn gió se (nhẹ, khô và hơi lạnh). Một từ “phả” kia thật có hồn. Nếu
Xuân Quỳnh tài hoa dường như thấy được mùa thu trong một động từ
“vào” (“Mùa thu vào hoa cúc”) thì Hữu Thỉnh tài hoa như nghe được
mùa thu vào trong hương ổi bằng động từ “phả”.
Ví dụ 2:
Nếu trong kiệt tác “Chí Phèo”, Nam Cao để cho Chí Phèo tự kết liễu
đời mình bằng nhát dao oan nghiệt thì trong “Lão Hạc”, Nam Cao để
cho lão Hạc cũng tự tìm đến cái chết nhưng bằng bả chó. Chí Phèo đau
đớn vì cả làng Vũ Đại ai cũng coi hắn là con quỷ dữ chứ không phải là
con người. Còn lão Hạc may mắn hơn Chí Phèo ở chỗ lão Hạc được mọi
người quý mến, đồng thời lão cũng là người cao thượng. Chí Phèo bán
nhân phẩm, còn lão Hạc quyết giữ trọn nhân phẩm.
i.Lập luận nêu nghi vấn
Nêu nghi vấn tức là LL theo cách nêu câu hỏi để tự trả lời hoặc để
người đọc tự trả lời.
Ví dụ 1:
Cái gì đã giúp anh ( anh thanh niên trong tác phẩm “Lặng lẽ Sa Pa”
của Nguyễn Thành Long – MVN chú thích ) vượt qua được hoàn cảnh
ấy? Trước hết, đó là anh ý thức trách nhiệm và tình yêu đối với công việc.
Công việc của anh là “đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động
mặt đất, dự vào việc báo trước thời tiết hằng ngày, phục vụ sản xuất,
phục vụ chiến đấu”. Anh hiểu rõ công việc thầm lặng của mình là cần
thiết và có ích cho mọi người, nó gắn liền anh với mọi người và cuộc
sống chung của đất nước. Anh yêu công việc của mình: “Công việc của
cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất”.
Ví dụ 2:
Nhưng trong nỗi oan khiên của Vũ Nương, chiếc bóng kia chỉ là
nguyên nhân trực tiếp. Kể lại “Chuyện người con gái Nam Xương”, nhà
văn như muốn chúng ta cùng ngẫm nghĩ: Đằng sau chiếc bóng oan
nghiệt ấy là duyên cớ sâu xa nào đã khiến một con người dung hạnh như
Vũ Nương mà phải bị dồn tới chỗ không thể sống, không còn đường
sống?
( Đỗ Kim Hồi, Phân tích – bình
giảng
tác phẩm văn học 9, NXB Giáo
dục, 1999 )
k.Lập luận nhân - quả
Ví dụ 1:
Câu chuyện ( Chuyện người con gái Nam Xương – MVN ) lẽ ra chấm
dứt ở đó nhưng dân chúng không chịu nhận cái tình thế đau đớn ấy và cố
đem một nét huyền ảo để an ủi ta. Vì thế mới có đoạn hai, kể chuyện nàng
Vũ xuống thuỷ cung và sau lại còn gặp mặt chồng một lần nữa. ( Nguyễn
Đình Thi )
Ví dụ 2:
Như vậy, trong cuộc sống, không có thành quả nào mà không có công
lao của một ai đó tạo nên. Chính vì thế, trong kho tàng tục ngữ, ca dao
Việt Nam luôn có những lời thấm thía nhắc nhở ta về lòng biết ơn với
nguồn gốc, với công lao của những người đi trước:
- Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
-Ăn quả nhớ kẻ trồng cây.
-Không thầy đố mày làm nên.
Ví dụ 3:
Cử chỉ này là một tín hiệu đầu tiên để bước đầu khẳng định bản chất
(1)
Mã Giám Sinh - tự định vị một cách vô lễ, chướng mắt, sai lệch như vậy
chỉ có thể do tính chất vô học và nhất là tâm lí hợm của kẻ buôn người
giàu có.
( Theo Đặng Thanh Lê – “Giảng văn Truyện Kiều”,
NXB GD, Hà Nội, 1997 )
l.Lập luận nêu phản đề, nêu giả thiết
Đây là LL nêu ra một luận điểm giả định và phát triển nó cho đến cùng
để chứng tỏ đó là luận điểm sai và từ đó mà khẳng định luận điểm của
mình. Nêu phản đề, nêu giả thiết là cách LL lật ngược vấn đề để xem xét.
(1).”Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”
Ví dụ 1:
Giả sử, nếu không có Thơ mới thì sau Cách mạng tháng Tám tình hình
thơ ca sẽ ra sao? Chắc chắn rằng từ các thể thơ cũ: bát cú, tuyệt cú, cổ
phong mà nhảy vọt lên để sớm có được những thành tựu như Tố Hữu,
Nguyễn Đình Thi, Chính Hữu,… trong kháng chiến lần thứ nhất là
chuyện khó quan niệm nổi. Lịch sử là sợi dây chuyền mà mỗi khâu trong
đó đều có vai trò trong quá trình phát triển.
( Lê
Đình Kị )
Ví dụ 2:
Nếu không có mấy câu thơ kết thúc này (“Nay xa cách lòng tôi luôn
tưởng nhớ (…)/ Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!” – MVN ), ta không
biết “Quê hương” được viết trong xa cách, trong niềm tưởng nhớ khôn
nguôi. Những hình ảnh của quê hương trên kia đã trở thành kỉ niệm ám
ảnh, vẫy gọi. “Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!” – câu thơ cuối cùng
cho ta rõ thêm tâm hồn thiết tha thành thực của Tế Hanh.
( Lê Quang Hưng, “Tinh hoa Thơ
mới-
thẩm bình và suy ngẫm”, NXB GD, Hà
Nội, 2001 )
m.Trong một ĐVNL có thể kết hợp nhiều cách LL khác nhau.
Ví dụ 1:
Một làn gió rất nhẹ chỉ làm nước ao hơi gợn và lá vàng khẽ đưa,
không đổi thay không gian yên tĩnh. Tầng mây thưa lơ lửng không che
được bầu trời cao xanh ngắt. Ngõ trúc quanh co như tăng thêm chiều sâu
thanh vắng. Cả bốn câu thơ đã vẽ lên một không khí thanh tĩnh, trong
trẻo của mùa thu.
( Trần Đình Sử, Giảng văn
chọn lọc
Văn học Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia Hà
Nội, 2006 )
ĐVNL trên kết hợp LL quy nạp với song hành.
Ví dụ 2:
Nếu không có mấy câu thơ kết thúc này (“Nay xa cách lòng tôi luôn
tưởng nhớ (…)/ Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!” – MVN ), ta không
biết “Quê hương” được viết trong xa cách, trong niềm tưởng nhớ khôn
nguôi. Những hình ảnh của quê hương trên kia đã trở thành kỉ niệm ám
ảnh, vẫy gọi. “Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!” – câu thơ cuối cùng
cho ta rõ thêm tâm hồn thiết tha thành thực của Tế Hanh.
( Lê Quang Hưng, “Tinh hoa
Thơ mới-
thẩm bình và suy ngẫm”, NXB GD, Hà
Nội, 2001 )
ĐVNL trên kết hợp LL nêu giả thiết với móc xích...
Ví dụ 3:
Văn Nguyên Hồng bao giờ cũng lấp lánh sự sống. Những dòng chữ
đầy chi tiết cứ cựa quậy, phập phồng. Một thứ văn bám riết lấy cuộc đời,
quấn quýt lấy con người. Người ta thường nói nhà văn, nhà thơ cần có ba
yếu tố chủ quan: tài, trí và tâm. Có cây bút chỉ mạnh về tài, về trí. Đọc
Nguyên Hồng thấy tài và tâm, nhất là tâm nổi lên hàng đầu. Mà “chữ
tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Ở những nhà văn chân chính xưa nay, tâm
bao giờ cũng là cái gốc. Tài và trí chỉ là cành, là ngọn. Nguyên Hồng viết
văn như là đặt luôn cái “tâm” nóng hổi của mình trên trang sách. Nếu
cần nói thật khái quát một cái gì chung nhất cho mọi chủ đề tác phẩm
của Nguyên Hồng, thì đó là lòng nhân đạo, một chủ nghĩa nhân đạo bao
giờ cũng thống thiết mãnh liệt.
(Nguyễn Đăng
Mạnh,
Thương tiếc nhà văn
Nguyên Hồng)
ĐV trên đây kết hợp LL tổng-phân-hợp và loại suy.
2.4.3. Các thao tác LL thường gặp trong bài văn NL, ĐVNL
a. Chứng minh: Dùng những lí lẽ và DC để làm sáng tỏ vấn đề đó là
đúng, là đáng tin cậy. (DC là chính, có kết hợp với lí lẽ).
b. Giải thích: Dùng lí lẽ và DC để giúp người đọc hiểu rõ vấn đề.
(Dùng lí lẽ là chính, có kết hợp với DC).
c. Bình luận: Bày tỏ ý kiến, quan điểm của mình về một vấn đề nào
đó, đánh giá xem vấn đề đó đúng hay sai, có ý nghĩa quan trọng như thế
nào, đề xuất thái độ và biện pháp để giải quyết tốt vấn đề.
d. Phân tích: Chia vấn đề ra thành các mặt, các bộ phận, các phương
diện để xem xét.
e. Bình giảng (BG):
BG là một dạng riêng của kiểu bài phân tích. Chúng ta cần nhận ra
giữa phân tích và BG. Phân tích, theo đúng nghĩa của nó, đòi hỏi người
viết phải có thái độ khách quan, đòi hỏi bạn phải xem xét tác phẩm một
cách toàn diện. Bạn cần phải xem xét một cách đầy đủ từ nội dung đến
hình thức của nó. Còn BG có khác. BG lại xoáy vào những ấn tượng chủ
quan (in đậm dấu ấn chủ quan của người viết) và không nhất thiết phải
xem xét toàn diện đối tượng. Người viết chỉ cần lắng nghe mình, chắt lọc
các cảm nhận của mình xem các yếu tố nào, hoặc vài ba yếu tố nào (ý,
hình ảnh, từ ngữ, kết cấu,...) gây thành ấn tượng đậm nhất, lay động mình
sâu xa nhất, nắm lấy nó rồi viết ra. Có thể nói, BG tác động chủ yếu vào
rung cảm thẩm mĩ nơi tâm hồn người đọc. Bởi người bình, thường hiện ra
qua các trang văn của mình như với cốt cách nghệ sỹ.
BG gồm hai công việc là giảng và bình. Hai thao tác này song song và
chuyển hoá lẫn nhau.
-Giảng: giảng giải, cắt nghĩa, lí giải (tức là phân tích).
-Bình: bình phẩm, khen chê cái hay cái đẹp (chủ yếu là khen), biểu
dương; thực chất là bộc lộ sự rung động, say mê, sự cảm kích, cảm phục
của mình trước giá trị của bình diện nào đó của áng văn, bài thơ, trước
tâm hồn và tài hoa của tác giả. Bình là tiếng đồng cảm, tri âm giữa người
bình với tác phẩm, tác giả được bình.
Ví dụ 1:
Bài thơ (“Cảnh khuya” của Hồ Chí Minh – MVN) như một cái bản lề
đặt vào hai chữ “chưa ngủ”. Chưa ngủ vì “cảnh khuya như vẽ” hay chưa
ngủ vì “lo nỗi nước nhà”. Cái bản lề khép mở hai tâm trạng: say thiên
nhiên và lo việc nước; khép mở hai thế giới: động tiên và chiến khu, lãng
mạn và hiện thực.
(Nguyễn Đăng
Mạnh)
Ví dụ 2:
Trong những ngày tết cận xuân kề, nỗi nhớ quê của những người con
xa xứ mong lên tàu để chóng về đoàn tụ với gia đình, làng xóm. Nỗi nhớ
trải dài miên man từ hồi ức đến nỗi nhớ cồn cào, thúc giục, khiến người
con xa xứ sắp được về quê không kiềm được nỗi xúc động đến thành phát
khóc :
Để ta khóc theo chuyến tàu hối hả ?
Ôi, phố hội đông vui, tưng bừng mà sao ta cảm thấy cô đơn, cảm thấy
nghẹn ngào khó tả. Ôi nhìn dòng người trong trời Nam tấp nập đón Tết
mà nước mắt nhà thơ như sắp ứa ra. Chuyến tàu chuyển bánh xa dần, xa
dần và nước mắt cứ dài theo. Một câu hỏi tu từ. Hỏi nhưng không cần
phải trả lời. Tự nó đã bật oà lên nức nở ! Trong phút chốc, lệ ai rưng
rưng :
Chắc vườn xưa chừ ửng vàng hoa cải,
Cha mẹ trông ta – mòn Hòn Kẽm Đá Dừng !
Cái thực, cái mơ đan quyện vào nhau, mơ mơ màng màng. Giọng điệu
lắng xuống trầm buồn. Cảnh và người ở quê nhà lúc này đây lại càng
hiển hiện mồn một trong trí nhớ. Một khoảng cánh xa xôi nay trở thành
một miền thương nhớ khôn nguôi, thúc giục đoạn hồn quê hương. Có nỗi
nhớ nào để so sánh bằng nỗi nhớ "mòn Hòn Kẽm Đá Dừng". Sự thúc giục
nhổ bước chân của những người xa xứ đã đến độ chín mùi.
Ví dụ 3 :
“Đầu súng trăng treo” là một hình ảnh đặc sắc, giàu chất thơ, cô
đọng và ý vị. Nó gợi ra những liên tưởng phong phú. Phải chăng, trăng
là biểu tượng của sự trong sáng và mộng mơ, trăng hoà bình (một ngày
kia trăng hoà bình lại về với họ). Đầu súng là cuộc chiến đấu của người
lính - những người chiến sĩ gan dạ, kiên cường. Họ chiến đấu cho sự
thanh bình, chiến đấu cho ánh trăng mãi nghiêng cười trên đỉnh núi.
Súng và trăng là gần và xa, thực tại và mơ, tỉnh và mê, chất chiến đấu và
chất trữ tình, cứng rắn và hiền dịu, chiến sĩ và thi sĩ...(đừng bảo rằng
người lính nông dân không thi sĩ !). Thì ra cuộc sống chiến đấu tuy gian
khổ, hi sinh vẫn có sự trong trẻo, tràn đầy. “Đầu súng trăng treo”, nó
tượng trưng cho tư thế lạc quan, bình tĩnh, lãng mạn của người bảo vệ Tổ
quốc.
Cái thần của câu thơ “Đầu súng trăng treo” nằm ở từ “treo”. Ta thử
thay bằng một từ khác, chẳng hạn, hoặc từ “mọc” hoặc từ “lên”, hoặc từ
“gác”...thì thật thà quá, làm sao còn nét lãng mạn ? Chỉ có “trăng treo”.
Phải, chỉ có “Đầu súng trăng treo” mới diễn tả hết được cái hay, cái
bồng bềnh thơ mộng của một đêm trăng đứng chờ giặc tới. Có nhiều câu
thơ hay về trăng “Và vầng trăng vượt lên trên quầng lửa” (Phạm Tiến
Duật), “Chỉ một nửa vầng trăng thôi một nửa / Ai bỏ quên ở phía chân
trời...” (Hoàng Hữu) v.v...nhưng có lẽ cô kết nhất, độc đáo nhất vẫn là
“Đầu súng trăng treo”.
@ Lưu ý : Các thao tác NL trên đây có mối quan hệ gắn bó với nhau.
Thao tác này có thể kết hợp với thao tác kia. Tuy nhiên, trong một đề văn
NL, người viết cần xác định được thao tác NL nào chính, thao tác nào là
phụ trợ, đan xen.
2.5. Quan hệ giữa ĐVNL với ĐVNL
a. Quan hệ không phụ thuộc: liệt kê, không gian, thời gian, các mặt,
các đặc điểm, các tác dụng...
Mô hình của quan hệ không phụ thuộc giữa ĐV với ĐV:
ĐV (2) ĐV (1) ...
Ví dụ:
Tiếng súng chưa im nên người lính vẫn phải ra đi, anh ra đi với niềm
tin vào mùa xuân và ra đi để gìn giữ mùa xuân. Lá nguỵ trang giắt quanh
lưng hay chồi non, vẻ tài hoa kín đáo của người lính chợt đã hé lộ, hé lộ
để ngầm mách bảo bước chân anh đang ruổi trên con đường nào ! Hẳn
đó là con đường đến hạnh phúc, đến bình yên. Đấy là mùa xuân trách
nhiệm, mùa xuân gắn với ý thức bảo vệ. Đọc câu thơ của Thanh Hải, chợt
nhớ da diết hình ảnh anh bộ đội Tây Bắc nguỵ trang bằng hoa đào của
Nguyễn Tuân.
Còn đây là mùa xuân của những con người có trách nhiệm, có ý thức
dựng xây. “Lộc” của họ là nương mạ non, làm mầm sống sẽ sinh sôi, làm
nên no đủ và giàu có. “Lộc” ấy cũng thật cụ thể, thiết thực. Cố nhiên là
nó cũng không làm mất đi ý nghĩa biểu trưng của hình ảnh thơ. Mùa xuân
của mỗi người hoá ra là mùa xuân của tất cả mọi người. Mỗi người một
công việc nhưng tất cả đều cùng nhịp bước, “Tất cả như hối hả / Tất cả
như xôn xao” để cùng tiến lên phía trước.
(Nguyễn Trọng Hoàn (chủ biên),
Rèn kĩ năng
cảm thụ thơ văn cho học sinh
lớp 9)
Ở ví dụ trên, mỗi ĐV phân tích một đối tượng.
- ĐV (1): Hình ảnh “Người cầm súng” (nhiệm vụ chiến đấu).
- ĐV (2): Hình ảnh “Người ra đồng” (nhiệm vụ lao động xây dựng).
b. Quan hệ phụ thuộc:
- Giữa các ý chính với ý diễn giải (LL phân tích).
- Giữa ý cụ thể với ý tổng kết, nhận định chung ( LL tổng hợp).
- Quan hệ nhân - quả...
Mô hình của quan hệ phụ thuộc giữa ĐV với ĐV:
ĐV (1)
...
phận, từng phương diện để xem xét. Phép LL này giúp ta hiểu vấn đề
được cụ thể, để nhận thức được các mối liên hệ của sự vật, hiện tượng với
nhau; so sánh, đối chiếu giữa chúng với nhau; vạch ra nguyên nhân, kết
quả, tìm ra xu hướng vận động, phát triển của chúng.
+ Phép LL tổng hợp : (Ngược lại với phân tích) đem các bộ phận, các
(1)
đặc điểm của sự vật, hiện tượng đã phân tích mà liên hệ lại với nhau để
nêu ra nhận định chung. Phép LL này giúp ta khái quát được vấn đề, có
được một tư tưởng toàn diện, có được một bài văn hoàn chỉnh.
Ví dụ:
Văn bản “Trang phục” của Băng Sơn trong “Giao tiếp đời thường”,
SGK Ngữ văn 9, tập 2, trang 9. Có thể thấy mô hình lập luận của văn bản
này như sau:
ĐV (1):
Quy tắc ăn mặc: ăn mặc chỉnh tề
(Ý khái quát/cái chung)
Phân
ĐV (2): ĐV (3):
tích
Ăn mặc phải phù hợp với hoàn cảnh Ăn mặc phải phù hợp với đạo
đức
chung (cộng đồng) và riêng (tuỳ công (giản dị, hoà mình vào cộng
đồng)
việc, sinh hoạt)
(Ý cụ thể/cái riêng/ bộ phận ) ( Ý cụ thể /cái riêng/ bộ phận
)
Tổng
hợp ĐV (4)
Quy tắc chung: trang phục
hợp văn hoá, hợp đạo đức,
hợp môi trường mới là
trang phục đẹp
(Ý tổng hợp/cái chung)
2.6. Liên kết ĐVNL
2.6.1.Tác dụng của việc liên kết(LK) các ĐV trong văn NL
LKĐV trong văn bản là làm cho ý giữa ĐV với ĐV liền mạch với nhau
một cách hợp lí.
2.6.2.LK câu và LKĐV trong văn bản
Các ĐV trong văn bản cũng như các câu trong một ĐV phải LK chặt
chẽ nhau về nội dung và hình thức.
a.Về nội dung
-Các ĐV phải phục vụ chủ đề chung của văn bản, các câu phải phục vụ
chủ đề của ĐV ( LK chủ đề ).
-Các ĐV và các câu phải được sắp xếp theo một trình tự hợp lí ( LK
lô-gíc ).
LK câu và LK ĐV
trước tiên, thoạt tiên, thoạt đầu, thoạt nhìn, mới nhìn, bắt đầu là, một là,
hai là, tiếp theo, sau đó, kế đến, sau nữa, một mặt, mặt khác, thêm vào
đó, ngoài ra, cũng cần bàn thêm, cũng cần nói thêm, cuối cùng, sau cùng,
kết thúc, trước đây, trước kia, ngày trước, ngày nay, hiện tại, sau này,
tương lai,…
a.2.Từ ngữ chỉ quan hệ đối lập: nhưng, song, tuy nhiên, tuy thế, tuy
vậy, thế nhưng, thế mà, trái lại, trái ngược, ngược lại, đối lập với, tương
phản với, đối nghịch với,…
a.3.Các quan hệ từ, đại từ, chỉ từ : đó, này, kia, ấy, nọ, vậy, thế, sao,…
(2)
a.4.Từ ngữ chỉ quan hệ tổng kết, khái quát: nói tóm lại, nhìn chung,
tổng kết chung, tổng kết lại, khái quát lại, chung quy, tóm lại, xét một
cách chung nhất, xét một cách toàn diện, gộp lại, tựu trung lại, tổng thể,
đúc kết lại, kết thúc lại,…
a.5.Từ ngữ chỉ quan hệ tương đồng: tương tự, cũng thế, cũng vậy,
cũng giống như, song song, đi đôi, đi cùng, sánh cùng, song hành,…
a.6.Từ ngữ chỉ quan hệ nhân - quả: bởi vậy, do đó, vì thế, cho nên, vì
vậy, sở dĩ, là vì, là do, tại sao, lí do, nguyên nhân nào, nguyên cớ nào, tại
vì, hậu quả là, kết quả là, sẽ nhận lấy,…
Ví dụ:
Hai ĐV sau nối với nhau bằng từ nối nào, từ ngữ đó chỉ mối quan hệ
gì?
Câu tục ngữ được lưu truyền lại qua nhiều thế hệ đã khẳng định truyền
thống cao quý trong đạo làm người của dân tộc ta. Đó chính là cơ sở tạo
nên sức mạnh đoàn kết để chúng ta lần lượt đánh thắng thù trong giặc
ngoài.
Tuy nhiên, chúng ta cũng cần đánh giá đúng tinh thần của câu “lá
lành đùm lá rách”. Giúp đỡ người yếu đuối, khó khăn là bổn phận cần
thiết nhưng hành động ấy không được xuất phát từ động cơ cá nhân,
không phải lối ban ơn trịch thượng mà phải bắt nguồn từ tình cảm chân
thành yêu thương, thông cảm giữa người và người.
-> Trả lời: Từ nối “tuy nhiên” -> quan hệ tương phản.
b.Dùng câu nối để LK các ĐV
Đó là những câu thường đứng ở đầu hoặc có khi đứng ở cuối đoạn
nhằm mục đích LK đoạn có chứa nó với các đoạn khác. Nội dung thông
tin chứa trong câu nói này hoặc đã đề cập đến ở đoạn trước, phần trước;
hoặc sẽ được trình bày ở đoạn sau, phần sau; hoặc hướng về cả trước cả
sau.
Câu nối có những dạng chính sau:
* Câu nối LK với phần trước, đoạn trước.
Trở lên là một vài ý nghĩ về việc làm văn mà nhiều năm dạy văn tôi
tích luỹ được. Cũng chẳng có ý gì mới lạ… Hoạ chăng có chút khác là tôi
quan tâm nhiều đến trực cảm và trong khâu trực cảm tôi cố nắm bắt cái
gọi là cái thần…
( Lê Trí Viễn, Suy nghĩ về môn
giảng văn )
* Câu nối LK với phần sau, đoạn sau.
Ví dụ:
... Nhưng số mệnh ở đây lại hiện ra dưới hình thức những con người.
Bọn người ấy khá đông. Đày đoạ Kiều không phải chỉ có một người như
trường hợp Thạch Sanh hay Ngọc Hoa, Phạm Tải. Đày đoạ Kiều là một
xã hội. Ta thấy gì trong xã hội ấy ?
(Hoài
Thanh)
* Câu nối LK với cả phần, đoạn trước lẫn phần, đoạn sau.
Ví dụ:
... Cái “thứ mặt sắt” mà “ngây vì tình” ấy quả không lấy gì làm đẹp!
Ông quan đã thế, lại còn bà quan nữa. Đại biểu cho bà quan ở đây là mụ
mẹ Hoạn Thư...
(Hoài Thanh)
c.Dùng đoạn nối để LK các ĐV
Ví dụ:
Cuộc sống thời bí mật đó hình như đã được khá ổn định trên một
khoảng thời gian khá lâu, đủ để thành nếp, đều đặn, nhịp nhàng, cân
đối…sáng ra, tối vào, vào hang, ra suối. Câu thơ vừa nói lên việc tổ chức
cuộc sống khéo léo, vừa nói lên tâm hồn của con người đã sống nhịp
nhàng cùng khung cảnh ấy, tự tại ung dung.
Để thử lại bài toán, ta tạm sửa đi ít chữ, thay đổi cấu trúc câu thơ xem
sao.
Nếu viết: “Tối vào hang, sáng ra bờ suối”… Câu thơ sửa sáng sủa
quá, không hợp với tình hình lịch sử lúc ấy, nhởn nhơ quá, không hợp với
tâm hồn tác giả lúc bấy giờ. Câu thơ sẽ mở về phía “suối”, phía cảnh đẹp
thưởng thức, phía nhà thi sĩ, hơn là khép lại phía “hang”, là chính, Bác
“lai vô ảnh, khứ vô hình”.
(Chế Lan Viên, Học tập nghiên cứu
thơ văn Hồ Chí Minh, NXB Khoa học xã hội, 1979)
2.7.Tách ĐVNL
( Xin xem thêm mục 2.5)
Trong một bài văn thường gồm một số ĐV. Mỗi ĐV thường trình một
ý (một tiểu chủ đề/ một đề tài nhỏ). Cho nên người viết nên tách đoạn để
giúp người đọc dễ theo dõi.
Các căn cứ để tách đoạn:
- Dựa vào vai trò, nhiệm vụ của ĐV trong bố cục của văn bản:
+ ĐV làm phần Mở bài;
+ ĐV (hay nhiều ĐV) làm phần Thân bài;
+ ĐV làm phần Kết bài.
Có thể phát hoạ mô hình bố cục chung của một bài văn NL (để làm cơ
sở cho việc tách ĐV) như sau:
Mở bài (còn gọi là đặt vấn đề) thường là một ĐV, khởi đầu bằng một
ý tổng quát rồi thu hẹp dần đến việc giới thiệu vấn đề cần NL.
Mở bài cần ngắn gọn, gây ấn tượng, tạo hứng thú cho người đọc
(người nghe).
Thân bài (còn gọi là giải quyết vấn đề) thường gồm một số ĐV, mỗi
ĐV triển khai một LĐ. Các LĐ đều tập trung làm nổi bật luận đề (vấn đề
cần NL).
Giữa các đoạn tiếp nối, LK hữu cơ với nhau, xoay quanh chủ đề chung
của bài văn (yêu cầu này không riêng gì phần thân bài mà là yêu cầu của
cả bài: Mở-Thân-Kết).
Kết bài (kết thúc vấn đề) thường là một ĐV, xuất phát từ một ý hẹp
tóm tắt lại vấn đề đã NL, đồng thời mở ra triển vọng áp dụng, liên hệ thực
tế... của vấn đề vào cuộc sống.
Kết bài hay, có thể tạo ra “âm vang”, “dư ba” cho bài văn.
- Dựa vào những biến đổi trong quan hệ nội dung giữa các ĐV
(thường là phần Thân bài):
+ Quan hệ giữa các sự vật, việc, hiện tượng;
+ Quan hệ giữa các điểm không gian;
+ Quan hệ giữa các điểm thời gian;
+ Quan hệ giữa các mặt, các đặc điểm, các tác dụng…
- Tách đoạn theo mục đích tu từ ( để nhấn mạnh, gây ấn tượng, gây
chú ý…).
2.8. Từ ngữ và câu trong ĐVNL
Từ ngữ và câu phải phù hợp với phong cách của văn NL.
a. Từ ngữ trong văn NL, ĐVNL
Trong văn NL thường có một hệ thống từ ngữ lập luận như: tại sao,
thật vậy, tuy thế, cho nên, vì vậy, vậy nên, không chỉ…mà còn, có nghĩa
là, tức là, giả sử, nếu như, trước hết, sau cùng, một mặt, vậy là, nói
chung, tóm lại, tuy nhiên, điều hiển nhiên, điều đáng tiếc, lẽ ra, giá như,
hình như, ai, chỉ, một trong những, những điếu vừa nêu ra, trở lên, trên
đây, rõ ràng, một điều nữa, và, vì thế, nhưng, thực ra, sự thật là, trở lại,
ngược lên, có thể nói, như thế, bao trùm, trên đây, khác với, huống chi,
còn một lẽ nữa, lẽ đương nhiên, tất nhiên, oái oăm thay, bất luận, vô hình
trung,…
b. Kiểu câu trong văn NL, ĐVNL
- Kiểu câu thường là :
+ Câu phán đoán
Ví dụ:
. “Truyện Kiều” là tác phẩm cổ điển vĩ đại của văn học Việt Nam.
. Trải qua nhiều đời, nhân dân ta vẫn quen gọi tác phẩm đó của
Nguyễn Du là “Truyện Kiều”.
Câu phán đoán đưa ra một nhận xét, một ý kiến; hình thức của câu
phán đoán thường là một câu đơn ( câu đơn hai thành phần hoặc câu đơn
mở rộng cụm chủ-vị ).
+ Câu suy luận
Ví dụ:
Do giá trị cao về nội dung và nghệ thuật, nhất là về trình độ sử dụng
tiếng Việt một cách tuyệt diệu, cho nên “Truyện Kiều” được xem là tác
phẩm vĩ đại của văn học cổ điển Việt Nam.
Câu suy luận thường liên kết hai, ba ý phán đoán lại với nhau để thành
một sự lập luận về mối quan hệ giữa sự vật này với sự vật khác. Câu suy
luận thường có hình thức là một câu phức ( câu ghép ), nối với nhau bằng
các từ nối: vì, vì vậy, sở dĩ, cho nên, tuy, tuy vậy, nhưng, mặc dù,…
- Ngoài ra, để tạo sự cảm xúc, tránh NL khô khan, nặng nề, trong văn
NL còn có dùng loại câu kể, tả, biểu cảm…
2.9. Một số lỗi thường gặp trong việc xây dựng ĐVNL
- LC không phù hợp với LĐ (LC không tập trung vào LĐ).
- LC chưa đủ để làm sáng tỏ LĐ (LC mới triển khai một phần của LĐ).
- Các LC mâu thuẫn với nhau (LC trước mâu thuẫn với LC sau).
- LC sắp xếp lộn xộn, không theo một trình tự hợp lí.
- Các LC lặp lại nhau.
- Đứt mạch LC: Ý các câu nêu LC không liên tục mà bị gián đoạn hoặc
“nhảy cóc” về ý.
- Thiếu LĐ.
- LĐ không rõ ràng.
- Dùng phương tiện liên kết không phù hợp (lỗi về liên kết câu, liên kết
ĐV).
- Lỗi về tách đoạn: + Đoạn có dung lượng quá lớn mà không tách; +
Cơ sở phân đoạn thiếu nhất quán.
...
3. Một số lưu ý thêm khi xây dựng ĐVNL
a. Chất văn, giọng văn, từ ngữ độc đáo, câu linh hoạt trong văn NL
* Chất văn trong văn NL
Khổng Tử có đưa ra một LĐ “Ngôn chi vô văn, hành nhi bất viễn”,
nghĩa là lời lẽ nếu không có chất văn chương thì không thể lưu truyền
rộng rãi và lâu dài được.
* Giọng văn và sự thay đổi giọng văn trong văn NL
Trong một bài NL, một ĐVNL, người viết bao giờ cũng thể hiện thái
độ tình cảm, tư tưởng của mình trước vấn đề mà mình đang thảo luận.
Giọng văn là sự thể hiện màu sắc biểu cảm đó. Qua bài văn mà nhận ra
người viết tán thành hay phản đối, ngợi ca hay châm biếm, kính cẩn hay
suồng sã... Hơn nữa để tránh nhàm chán “buồn ngủ”, để bài viết sinh
động, phong phú, người viết cần phải rất linh hoạt trong việc hành văn.
Tránh kiểu viết một giọng đều đều từ đầu chí cuối, tạo cảm giác đơn điệu.
Muốn thế:
Trước hết cần sử dụng linh hoạt hệ thống từ nhân xưng. Để diễn đạt ấn
tượng chủ quan của riêng mình, người viết thường xưng “tôi”: “Tôi cho
rằng”, “tôi nghĩ rằng”, “theo tôi”, “theo chỗ tôi được biết”... Nhưng để
lôi kéo sự đồng tình, đồng cảm, để vấn đề đang được bàn luận trở nên
khách quan, người viết thường xưng: “chúng ta”, “ta”, “người ta”,
“chúng tôi”, “như mọi người đều biết”, “như mọi người đã thấy”, “ai
cũng thừa nhận”, “không ai nghĩ được rằng”, “thiết nghĩ”...
Thứ hai, để tránh sự đơn điệu, lặp lại người viết thường phải thay đổi
bằng những từ đồng nghĩa, ví dụ: nhà văn, nhà thơ, tác giả, ông, anh,...
Chẳng hạn, viết về Tố Hữu, ta có thể dùng khi thì Tố Hữu, khi thì nhà
thơ, rồi tác giả, ông, người thanh niên cộng sản, người con xứ Huế, cánh
chim đầu đàn của thơ ca cách mạng, tác giả của tập thơ “Từ ấy”, người
nghệ sỹ, chiến sỹ, người tù cách mạng,...
Thứ ba, giọng văn còn thể hiện ở cách dùng các từ ngữ như: vâng,
đúng thế, không, điều ấy đã rõ, như vậy, như thế, chẳng lẽ... những từ này
tạo ấn tượng như người viết đang tranh luận và đối thoại trực tiếp với
người đối thoại. Cũng có khi, người viết dùng những từ phủ định như:
phải chăng, nói như thế có đúng không nhỉ,...
Kế đến, trong quá trình viết ĐVNL, không nên chỉ dùng một loại thao
tác tư duy mà luôn thay đổi. Khi thì diễn dịch, khi thì quy nạp; khi thì
phân tích trước DC sau, khi thì DC trước phân tích sau; khi thì liên hệ,
khi so sánh, khi bác bỏ,... cũng là để ĐV, bài văn NL có giọng điệu sinh
động, phong phú, không một chiều hay đơn điệu.
Cuối cùng, giọng văn còn được thể hiện ở nhiều phương diện khác nữa
như dùng từ, đặt câu, nêu ý, cách LL, cách dùng dấu câu, từ cảm thán,...
Ví dụ:
Có thể nói như thế này được chăng : Ai lớn lên mà không được nghe
hát ru thì người ấy chưa đủ hoàn thiện ? Văn minh hiện đại ngày càng
trang bị cho con người đủ thứ. Cát sét, đĩa nhạc, băng hình, điện thoại di
động cài nhạc là hay và rất tiện lợi đấy, nhưng dù hiện đại đến đâu cũng
không thể thay được sữa âm thanh, sữa tâm hồn tự nhiên của hát ru.
(Mai Văn Năm, "Điều kỳ diệu
của hát ru",
Tạp chí TGTT, số 343, 12 –
2009)
* Dùng từ độc đáo trong văn NL
Nhà nghiên cứu, phê bình Hoàng Ngọc Hiến có một ý kiến "đích
đáng" rằng : phải tìm được tác phẩm đích đáng, bài đích đáng, đoạn đích
đáng, câu đích đáng, từ đích đáng mà phân tích, bình giá.
Viết một bài văn, một ĐVNL phải dùng được những từ hay, đoạn hay
rồi mới có bài hay. Dùng từ hay là một trong những yếu tố quyết định để
có diễn đạt hay. Sẽ rất chán cho người đọc, khi một bài viết không dùng
được một từ cho "trúng", cho độc đáo ( nhãn tự).
Ví dụ về cách dùng từ rất độc đáo của Nguyễn Tuân trong bài NL
"Truyện Tắt đèn của Ngô Tất Tố" :
Chương XIII "Tắt đèn" không khác gì một cái lòng chảo đã nguội đi,
đã váng đọng lại một thứ bùn lưu niên, trên đó oằn lên một số sinh vật.
Sinh vật Nghị Quế chồng, sinh vật Nghị Quế vợ, mà lòng tham đã hết tính
người. Sinh vật lí trưởng và lũ sai nha đốc thuế người, tan hoang đi cái
tâm người. Và trên cái sa mạc nhân tâm đó, không còn tia nước nguồn
thương nào cả...
Từ độc đáo mang tính hai mặt, sử dụng đúng lúc, đúng chỗ ta có ĐV,
câu văn hay, ngược lại dễ rơi vào sáo rỗng, khoe chữ. Vì thế trong quá
trình học tập nên có sổ tay dùng từ, giải nghĩa từ và cách sử dụng chúng.
* Viết câu linh hoạt trong văn NL
- Tuỳ từng lúc, từ nơi, tuỳ vào giọng văn của từng ĐV mà có những
loại câu tương ứng để diễn đạt cho phù hợp. Có câu ngắn, câu dài, câu
đơn, câu phức, câu nghi vấn, câu cảm thán, câu khẳng định, câu phủ
định,...
Ví dụ :
Trời đất ơi ! Tú Bà nói không đủ nửa phút mà nước bọt mép của mụ
văng ra mãi tới ngàn năm...
(Xuân Diệu,
Nguyễn Du –
Văn nghệ 18/
1958)
- Một loại câu cũng được vận dụng làm thay đổi giọng văn trong văn
NL là loại câu có hai mệnh đề hô - ứng : "Tuy nhiên ... nhưng", "càng ...
càng", "không những ... mà còn", "vì thế ... cho nên"...
b. Sự đan xen giữa chất trí tuệ và tâm hồn, giữa phương thức NL
và một số phương thức biểu đạt khác trong một bài văn NL
Một bài văn NL nói chung, ĐVNL nói riêng được làm nên bằng sức
mạnh chủ yếu của lí trí người viết. Nhưng, VNL muốn có sức thuyết
phục cao thì cần phải có hình tượng và có sức gợi cảm cao.
Trong con người ta, tình cảm và lí trí không hoàn toàn đối lập nhau mà
trái lại có thể hoà hợp với nhau, bổ trợ cho nhau. Ánh sáng của trí tuệ
giúp tình cảm thêm bền vững và sâu sắc. Ngược lại, tình cảm đến lượt
mình lại có giúp cho những điều được lí trí nêu ra có thêm sức lay động,
có khả năng cảm hoá lòng người. Thực tế cho thấy, những bài VNL hay
là những bài được viết ra không chỉ bằng sự sáng suốt, mạch lạc, chặt chẽ
của trí tuệ mà còn bằng tất cả sự nhiệt tình, tha thiết của tâm hồn ( trái
tim người viết rung động thực sự ). Tương tự, việc đưa yếu tố tự sự, miêu
tả vào bài VNL một cách hợp lí tăng sức thuyết phục của LL, làm cho nội
dung NL được nhận thức một cách dễ dàng, sáng tỏ hơn. “ Hịch tướng sĩ”
- Trần Quốc Tuấn, “Bình Ngô đại cáo” - Nguyễn Trãi, “Một thời đại
trong thi ca” – Hoài Thanh, “Tuyên ngôn Độc lập” - Hồ Chí Minh v.v...
là những văn bản NL có sức lôi cuốn, hấp dẫn người đọc, người nghe nhờ
có sự kết hợp hài hoà các yếu tố trên.
Cần chú ý, trong VNL, vai trò của NL (vai trò của lí lẽ) là chính yếu;
các yếu tố biểu cảm, tự sự, miêu tả, thuyết minh chỉ đóng vai trò phục vụ
cho NL. Đưa các yếu tố này vào văn bản cần tinh tế, khéo léo, nhuần
nhuyễn, tránh phá vỡ mạch NL của bài văn, biến văn NL thành văn biểu
cảm, miêu tả, tự sự…
Khi thực hành tạo lập văn bản NL, ĐVNL, chúng ta cần ghi nhớ:
-NL phải đúng hướng (tập trung làm sáng tỏ vấn đề nêu ra);
-NL phải mạch lạc;
-NL phải chặt chẽ;
-NL phải trong sáng.
c. Những điều tâm niệm khi ta muốn viết văn hay
Theo Giáo sư Vũ Ngọc Khánh, muốn viết văn nên:
-Tạo hứng thú và duy trì hứng thú;
-Làm giàu vốn ngôn ngữ;
-Chăm đọc sách;
-Có nghệ thuật bắt chước;
-Thành thạo cách quan sát, tưởng tượng, suy luận;
-Học ngoài đời;
-Có công phu gọt giũa;
-Và, nhất là có được cái riêng…
Ví dụ: Hãy rút gọn nội dung ĐV sau đây chỉ còn lại một câu.
Thực ra, tình bạn là một trong những tình cảm tốt đẹp của con người.
Những lúc chúng ta phải sống trong cảnh vắng vẻ, cô đơn, chúng ta cảm
thấy cần có những người bạn thân để trao đổi, giãi bày tâm sự. Một
người bạn tốt có thể giúp đỡ ta, khuyến khích ta. Ta cần đến bạn và ta
cần cho bạn nữa.
(Trần Thanh
Đạm)
Dạng 6: Mở rộng ĐV . (2)
Ví dụ: Cho câu chủ đề sau, hãy viết thêm các câu phụ để triển khai ý
câu chủ đề: Tình bạn là một trong những tình cảm tốt đẹp của con người.
Dạng 7: Xác định mối quan hệ giữa ĐV với ĐV.
Ví dụ: Các ĐV trong văn bản sau có mối quan hệ ý nghĩa như thế nào?
THỜI GIAN LÀ VÀNG
Ngạn ngữ có câu: “Thời gian là vàng”. Nhưng vàng thì mua được mà
thời gian không mua được.
Thật vậy, thời gian là sự sống. Bạn vào bệnh viện mà xem, người bệnh
nặng, nếu kịp thời chạy chữa thì sống, để chậm là chết.
Thời gian là thắng lợi. Bạn hỏi các anh bộ đội mà xem, trong chiến
đấu, biết nắm thời cơ, đánh địch đúng lúc là thắng lợi, để mất thời cơ là
thất bại.
Thời gian là tiền. Trong kinh doanh, sản xuất hàng hoá đúng lúc là lãi,
không đúng lúc là lỗ.
(1). Chú giải: Rút gọn là giảm bớt dung lượng của ĐV nhưng vẫn đảm bảo được nội dung chính của
ĐV. Mục đích rút gọn là nhằm giúp HS biết rút ra luận điểm.
(2). Ngược lại với rút gọn, mở rộng ĐV là từ một câu mang nội dung chính triển khai các câu phụ
để làm sáng tỏ ý câu mang nội chính. Mục đích mở rộng ĐV là nhằm giúp HS biết tìm các luận cứ.
Thời gian là tri thức. Phải thường xuyên học tập thì mới giỏi. Học
ngoại ngữ mà bữa đực, bữa cái, thiếu kiên trì, thì học mấy cũng không
giỏi được.
Thế mới biết, nếu biết tận dụng thời gian thì làm được bao nhiêu điều
cho bản thân và cho xã hội. Bỏ phí thời gian thì có hại và sau hối tiếc
cũng không kịp.
(Phương Liên, Ngữ
văn 9, tập 2,
NXB GD
2005)
Dạng 8: Xác định cơ sở để tách ĐV.
Ví dụ1: Hãy phân tích và chỉ ra cơ sở tách ĐV trong phần văn bản sau:
Tiếng súng chưa im nên người lính vẫn phải ra đi, anh ra đi với niềm
tin vào mùa xuân và ra đi để gìn giữ mùa xuân. Lá nguỵ trang giắt quanh
lưng hay chồi non, vẻ tài hoa kín đáo của người lính chợt đã hé lộ, hé lộ
để ngầm mách bảo bước chân anh đang ruổi trên con đường nào ! Hẳn
đó là con đường đến hạnh phúc, đến bình yên. Đấy là mùa xuân trách
nhiệm, mùa xuân gắn với ý thức bảo vệ. Đọc câu thơ của Thanh Hải, chợt
nhớ da diết hình ảnh anh bộ đội Tây Bắc nguỵ trang bằng hoa đào của
Nguyễn Tuân.
Còn đây là mùa xuân của những con người có trách nhiệm, có ý thức
dựng xây. “Lộc” của họ là nương mạ non, làm mầm sống sẽ sinh sôi, làm
nên no đủ và giàu có. “Lộc” ấy cũng thật cụ thể, thiết thực. Cố nhiên là
nó cũng không làm mất đi ý nghĩa biểu trưng của hình ảnh thơ. Mùa xuân
của mỗi người hoá ra là mùa xuân của tất cả mọi người. Mỗi người một
công việc nhưng tất cả đều cùng nhịp bước, “Tất cả như hối hả / Tất cả
như xôn xao” để cùng tiến lên phía trước.
(Nguyễn Trọng Hoàn (chủ biên),
Rèn kĩ năng
cảm thụ thơ văn cho học sinh
lớp 9)
Ví dụ 2: Hãy tách đoạn trong phần trích sau:
Lần thứ nhất người cha nói đến “Người đồng mình thô sơ da thịt” để
nói cho con về sức sống mạnh mẽ, sức mạnh truyền thống của quê
hương; lần thứ hai, người cha nhắc lại như để con khắc cốt ghi xương
rằng: Quê hương mình tuy mộc mạc, chân chất, người đồng mình tuy
“thô sơ da thịt” nhưng sống cao đẹp, nên trên đường đời con phải làm
những điều lớn lao, con phải sống cao thượng, tự trọng để xứng đáng là
“người đồng mình”. Người cha đã truyền cho con mình vẻ đẹp, sức mạnh
của truyền thống quê hương. Thể thơ tự do, với số câu chữ không theo
khuôn định, phù hợp với mạch cảm xúc tự nhiên, linh hoạt của bài thơ.
Nhịp điệu lúc bay bổng, nhẹ nhàng, lúc khúc chiết, rành rọt, lúc mạnh
mẽ, sắc nhọn,… tạo ra sự cộng hưởng hài hoà với những cung bậc tình
cảm khác nhau trong lời người cha truyền thấm sang con. Ngôn ngữ thơ
giản dị, trong sáng, hình ảnh mộc mạc, cô đọng mà vẫn phong phú, sinh
động. Quả đúng là một thứ “ngôn ngữ thổ cẩm” quyến rũ. Y Phương
thấu hiểu và bởi vậy lột tả được cái hồn cốt trong bản sắc truyền thống
của người dân tộc miền núi. Cha nói với con hay chính là lời trao gửi thế
hệ?
( Lưu ý: Trước khi tách đoạn văn nên dựa vào cơ sở tách đoạn, tóm tắt
mỗi đoạn bằng một câu (ý chính của đoạn), dùng kí hiệu (chữ số, hoặc
chữ cái, hoặc các dấu -, dấu + ) để đánh dấu các ý ngang cấp và các ý
khác cấp độ.)
Dạng 9: Xác định LĐ, LC trong ĐV.
Ví dụ: Cho ĐV:
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, nhiều người dân đã nhường
nhà cho bộ đội ở, đem tiền bạc và lúa gạo để nuôi quân. Đáp ứng yêu cầu
khẩn trương của các chiến dịch, có người đã không ngần ngại đem những
vật dụng có giá trị trong gia đình để lót đường cho xe bộ đội qua. Thế là
độc lập, tự do quý hơn của cải.
(Trần Thanh Đạm (chủ biên).
Làm văn 10.
NXB Giáo dục,
H.2000)
Hãy xác định LĐ, LC trong ĐV trên.
Dạng 10: Xác định và phân tích cách LL trong một ĐV.
Ví dụ: ĐV sau được trình bày theo cách LL chính nào? Hãy phân tích
cách LL trong ĐV ấy.
Âm nhạc là một nghệ thuật gắn bó với con người từ khi lọt lòng mẹ cho
tới khi từ biệt cuộc đời. Ngay từ lúc chào đời em bé đã được ôm ấp trong
lời ru nhẹ nhàng của người mẹ. Lớn lên với những bài hát đồng dao,
trưởng thành với những điệu hò lao động, những khúc tình ca vui buồn
với biết bao sinh hoạt nghệ thuật ca hát từ thôn xóm đến thành thị. Người
Việt Nam chúng ta cho tới lúc hết cuộc đời vẫn còn tiếng nhạc vẳng theo
với những điệu hò đưa linh hay điệu kèn đưa đám.
( Phạm Tuyên, Các bạn trẻ đến với
âm nhạc,
NXB Thanh niên,
1982 )
A. Diễn dịch B. Quy nạp C. Song hành D. Móc xích
Dạng 11: Vẽ sơ đồ LL của ĐV
Ví dụ: Cho ĐV sau:
Nghệ thuật trong “Nhật kí trong tù” rất phong phú. Có bài là lời phát
biểu trực tiếp, đọc hiểu ngay. Có bài lại dùng lối ngụ ngôn rất thâm thuý.
Có bài tự sự. Có bài trữ tình hay vừa tự sự vừa trữ tình. Lại có bài châm
biếm. Nghệ thuật châm biếm cũng nhiều vẻ. Khi là tiếng cười mỉa mai.
Khi là tiếng cười phẫn nộ. Cũng có khi đằng sau nụ cười là nước mắt.
( Bảo Quyến. Rèn luyện kĩ năng làm văn
nghị luận.
NXB Giáo dục, H.
2000 )
Vẽ sơ đồ LL trong ĐV trên.
Dạng 12: Sắp xếp các câu không theo thứ tự hợp lí thành một
ĐVNL có trình tự LL mạch lạc, chặt chẽ.
Ví dụ: Hãy sắp xếp các câu văn dưới đây để tạo thành một ĐV hoàn
chỉnh và hợp lí nói về đức tính giản dị của Bác Hồ.
Câu 1: Những chân lí giản dị mà sâu sắc đó lúc thâm nhập vào quả tim
và bộ óc của hàng triệu con người đang chờ đợi nó, thì đó là sức mạnh
vô địch, đó là chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
Câu 2: Suy cho cùng, chân lí, những chân lí lớn của nhân dân ta cũng
như của thời đại là giản dị: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, “Nước
Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể
mòn, song chân lí ấy không bao giờ thay đổi”.
Câu 3: Giản dị trong đời sống, trong quan hệ với mọi người, trong tác
phong, Hồ Chủ tịch cũng rất giản dị trong lời nói và bài viết, vì muốn cho
quần chúng nhân dân hiểu được, nhớ được, làm được.
(Phạm Văn Đồng. Hồ Chủ tịch, hình ảnh của
dân tộc,
tinh hoa của thời đại. NXB Sự thật, H.
1974)
A. (1)-(2)-(3)
B. (3)-(2)-(1)
C. (2)-(3)-(1)
D. (3)-(1)-(2)
Dạng 13: Xác định các từ ngữ LL trong ĐV.
Ví dụ: Các ĐV sau đã lược bỏ đi các từ ngữ LL. Căn cứ vào nội dung
và quan hệ giữa các câu trong đoạn, em hãy điền các từ ngữ LL cho phù
hợp.
a…, giữa các khổ, các phần của “Mùa xuân nho nhỏ” có sự gắn kết
tự nhiên, chặt chẽ, vừa luyến láy vừa được nâng cao. Bài thơ này lay
động tâm hồn chúng ta … chất hoạ gợi cảm, chất nhạc vấn vương, quyến
luyến, … nguyện ước tha thiết, chân thành.Cái nguyện ước “lặng lẽ dâng
cho đời” một “mùa xuân nho nhỏ” kia … của riêng Thanh Hải … đã trở
thành tiếng lòng của nhiều bạn đọc. (Hà Vinh)
(Hà Vinh. Khát vọng hoà nhập, dâng
hiến cho đời.
Ngữ văn 9, tập 2. NXB Giáo dục,
H. 2005)
( Điền các từ: đâu còn, bởi, mà có lẽ, như vậy )
b.Kiều không biết mấy lần nhìn trăng… cảnh trăng mỗi lần một khác:
… rạo rực yêu đương, … gần gũi âu yếm, … bát ngát bao la, … ám ảnh
như một lời trách móc, … cô đơn, … tàn tạ, … mong manh. Có thể nói
thiên nhiên trong “Truyện Kiều” cũng là một nhân vật, một nhân vật
thường vẫn kín đáo, lặng lẽ …không mấy khi không có mặt và luôn luôn
thắm đượm tình người. ( Hoài Thanh )
( Điền các từ: nhưng, khi )
c. … khổ thơ đầu của bài thơ đã mang âm hưởng của sự ngậm ngùi dù
có sắc hồng của hoa đào và sắc óng đen của mực tàu với sắc đỏ của giấy.
Ta hãy đọc: “Mỗi năm hoa đào nở/ Lại thấy ông đồ già/ Bày mực tàu
giấy đỏ/ Bên phố đông người qua”. Có người cho rằng âm hưởng của
phần đầu ( khổ 1 và 2 ) của bài thơ là âm hưởng vui, hân hoan … nó nói
về thời đắc ý, lên hương nhất của ông đồ. … riêng tôi lại cảm thấy không
vui và hoàn toàn không thể hiện một sắc độ nào của niềm hân hoan cả …
tác giả đề cập về thời kì đắc ý nhất của ông đồ. Vì sao? … ngay từ đầu
câu thơ thứ hai tác giả hạ một từ “lại” đối với “mỗi” ở câu thứ nhất. Từ
“lại” có thanh trắc trĩu nặng nhất, từ “mỗi” cũng có thanh trắc trĩu nặng
không kém gì, … tạo cảm giác lặng buồn.
( Phạm Minh Trị, Tạp chí Thế giới
trong ta,
số CĐ 74+75 )
( Điền các từ: vì thế, vì, ngay từ, bởi, dù là, song )
Dạng 14: Phát hiện lỗi dùng từ ngữ trong ĐVNL và chữa lại cho
phù hợp.
Ví dụ: Cho ĐV sau:
Người ta ai mà chẳng biết triết lí sống “uống nước nhớ nguồn” đã hoá
thân thành những tập tục đẹp đẽ của người Việt Nam. Biết ơn các vua
Hùng dựng nước, dân ta có ngày giỗ Tổ Hùng Vương đẹp quá đi . Biết ơn
các thương binh liệt sĩ đã đổ xương máu để giữ hoà bình, chúng ta có
ngày 27/7 .
Hãy phát hiện lỗi dùng từ ngữ trong ĐVNL trên và chữa lại cho phù
hợp.
(Gợi ý trả lời: Dùng từ không phù hợp với đặc điểm của phong cách
văn bản NL: viết như nói, quá nhiều từ ngữ thuộc phong cách ngôn ngữ
sinh hoạt: Người ta ai mà chẳng biết, đẹp quá đi ).
Dạng 15: Chỉ ra kiểu câu thường được sử dụng trong văn NL.
Ví dụ: Cho ĐV sau:
Đời Kiều là một tấm gương oan khổ, một câu chuyện thê thảm về vận
mệnh con người trong xã hội cũ. Dựng lên một con người, một cuộc đời
như vậy là một cách Nguyễn Du phát biểu ý kiến của mình trước những
vấn đề của thời đại. Lời phát biểu ấy trước hết là một tiếng kêu thương.
Một tiếng kêu não nùng, đau đớn, suốt trong quyển truyện không lúc nào
không văng vẳng bên tai.
(Hoài Thanh, Nguyễn Du: một
trái tim,
một nghệ sĩ lớn, NXB Giáo
dục, 1973)
Dạng 16: Phát hiện lỗi dùng câu trong ĐVNL và chữa lại cho
đúng.
Dạng 17: Viết thêm để hoàn chỉnh câu văn.
Ví dụ: Cho ý sau làm câu chủ đề (LĐ) của ĐV: “Qua truyện ngắn
“Chiếc lá cuối cùng”, O hen-ri đã thể hiện rất cảm động tình yêu thương
cao cả giữa những người nghèo khổ”.
Hãy viết tiếp 4 câu để làm sáng tỏ ý trên, trong đó có sử dụng một số
cụm từ mở đầu câu như:
-Tình yêu thương đã khiến cho …
-Cũng với tấm lòng cao cả đó, …
-Đó chẳng phải là …
-Đó chính là …
Dạng 18: Phát hiện và chữa lỗi câu chủ đề (LĐ) trong một ĐV.
Ví dụ: Cho ĐV sau:
Nhân dân ta có truyền thống tôn sư trọng đạo, luôn luôn đề cao vai trò
của người thầy trong cuộc sống mỗi người. Câu tục ngữ “Không thầy đố
mày làm nên” đã khẳng định mạnh mẽ vai trò đó của người thầy. Mỗi
người trong đời, nếu không có một người hiểu biết, giàu kinh nghiệm
truyền thụ, dìu dắt thì khó mà làm nên một việc gì xứng đáng, dù đó là
nghề nông, nghề rèn, nghề khắc chạm, hoặc nghiên cứu khoa học. Do đó
trong cuộc đời mỗi người, học ở bạn bè ( từ “bạn bè” - M.V.N) là quan
trọng nhất.
( Theo Nguyễn Thanh Tú. Văn biểu cảm -
nghị luận.
Ngữ văn 7, tập 2. NXB Giáo dục,
H. 2005)
ĐV trên mắc lỗi về câu chủ đề (LĐ), hãy tìm và chữa lại cho đúng.
Dạng 19: Phát hiện và chữa lại ĐV mắc lỗi về LC.
Ví dụ: Cho ĐV sau:
Triết lí sống “uống nước nhớ nguồn” đã hoá thân thành những tập tục
đẹp đẽ của người Việt Nam. Biết ơn các vua Hùng dựng nước, dân ta có
ngày giỗ Tổ Hùng Vương. Biết ơn các thương binh liệt sĩ đã đổ xương
máu để giữ hoà bình, chúng ta có ngày 27/7. Các em học sinh thi đua học
đi đôi với hành, có thế mới tiến bộ được.
ĐV trên đây mắc lỗi về LC, hãy tìm và chữa lại cho đúng.
Dạng 20: Viết tiếp các câu nêu LC
Ví dụ: Cho ĐV sau và hãy viết tiếp các LC vào chỗ trống để bảo vệ
cho LĐ nêu ra ở câu CĐ:
Trong xã hội “Truyện Kiều”, đồng tiền đã trở thành một sức mạnh tác
quái rất ghê. Quan lại vì tiền … Sai nha vì tiền mà … Sở Khanh vì tiền
(1) (2)
( Theo
Hoài Thanh )
Dạng 21: Chỉ ra đâu là LC lí lẽ, đâu là LC dẫn chứng.
Ví dụ: Cho ĐV sau, hãy chỉ ra LC lí lẽ và LC dẫn chứng.
Trong truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của nhà văn xứ Quảng, nhân vật
anh thanh niên sống một mình ở đỉnh núi Yên Sơn (Sa Pa) cao 2.600m,
quanh năm suốt tháng giữa cái lặng lẽ mênh mông của cỏ cây và mây mù
lạnh lẽo mà không hề cảm thấy cô đơn. Cái gì làm cho anh vượt qua
được hoàn cảnh ấy ? Đó là anh ý thức đúng đắn, sâu sắc về công việc,
lòng yêu nghề và niềm vui cuộc sống. Anh nhận ra rằng, điều hạnh phúc
của mình là đem lại niềm vui cho mọi người: “Hồi chưa vào nghề, những
đêm bầu trời đen kịt, nhìn kĩ mới thấy một ngôi sao xa, cháu cũng nghĩ
ngay ngôi sao kia lẻ loi một mình. Bây giờ làm nghề này cháu không nghĩ
như vậy nữa... Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu
buồn chết mất”. Từ anh thanh niên này, ta lại nghĩ đến cái nghề của ta.
(Mai Văn Năm, “Ngày xuân – nghĩ về nghề
dạy học”,
Tạp chí TGTT, CĐ 83+84 / 1+2-
2009)
Dạng 22: Xác định loại DC (DC bắt buộc, DC mở rộng)
Ví dụ: Chỉ ra DC bắt buộc và DC mở rộng trong các ĐV sau:
[...]. Người đọc thích thú với cấu trúc đối tự nhiên, chặt chẽ và tuyệt
đẹp như trong thơ cổ điển:
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Dòng sông không cuồn cuộn dữ dội và gấp gáp như trong những ngày
mưa lũ mùa hạ. Sông êm ả, dềnh dàng, sông đang lắng lại, đang trầm
xuống trong lững lờ như ngẫm nghĩ, suy tư. Tương phản với sông, chim
lại bắt đầu vội vã. Hơi thu lạnh làm cho chúng phải khẩn trương chuẩn
bị cho chuyến bay tránh rét. Ta thường chỉ chú ý vào sự “vội vã” đối rất
đẹp với sự “dềnh dàng”. Xin chớ quên từ “bắt đầu” rất độc đáo ở đây.
Bắt đầu vội vã thôi, chứ chưa phải là đang vội vã. Phải tinh tế lắm mới
có thể nhận ra sự “bắt đầu” này trong những cánh chim bay. (Cũng như
Huy Cận phải tinh tế lắm mới nhận thấy “trọng lượng” của bóng chiều
rơi xuống cánh chim làm cho nó chao nghiêng “chim nghiêng cánh nhỏ
bóng chiều sa”).
(Vũ Nho, Đi giữa
miền thơ,
NXB Văn học,
1999)
Dạng 23: Tìm DC mở rộng bổ sung cho DC bắt buộc.
Ví dụ: Viết ĐVNL nêu cảm nhận của em về các câu thơ trong bài thơ
“Con cò” của Chế Lan Viên, có đưa DC mở rộng vào ĐV:
À ơi !
Một con cò thôi,
Con cò mẹ hát
Cũng là cuộc đời
Vỗ cánh qua nôi.
Dạng 24: Chỉ ra sự liên kết câu và liên kết đoạn văn.
Ví dụ: Phân tích sự LK về nội dung, về hình thức giữa các câu trong
ĐV, giữa ĐV với ĐV trong phần trích sau:
Trước ngày 9 tháng 3, biết bao lần Việt Nam đã kêu gọi người Pháp
liên minh để chống Nhật. Bọn thực dân Pháp đã không đáp ứng, lại thẳng
tay khủng bố Việt Nam nữa. Thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn
tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng.
Tuy vậy, đối với người Pháp, đồng bào ta vẫn giữ một thái độ khoan
hồng và nhân đạo. Sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp
cho nhiều người Pháp chạy qua biên thuỳ, lại cứu cho nhiều người Pháp
ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng, tài sản của cho họ.
(Hồ Chí Minh, Tuyên ngôn
Độc lập)
Dạng 25: Điền các từ ngữ có tác dụng LK giữa các ĐV.
Ví dụ: Cho hai ĐV sau:
Có lẽ sẽ không khiên cưỡng nếu nói rằng “Nhớ rừng”, với hình tượng
con hổ nằm dài ấy đã tạo nên tư thế của những con người đã thôi nghĩ
đến hành động, những con người mà nhiệt tình làm cách mạng, mà hoài
bão muốn góp phần mình vào sự đổi thay đã không còn.
…, con hổ, hình tượng trung tâm của bài thơ, dù có chịu mất tự do
nhưng vẫn không chịu mất đi niềm kiêu hãnh. […]
( Đỗ Kim Hồi. Nghĩ từ công
việc dạy văn,
NXB Giáo dục, H.
1997 )
( Chọn một trong các từ sau để LK hai ĐV trên: cho nên, trước hết, sau
cùng, ngoài ra, thế nhưng )
(1), (2). Đề bài: Suy nghĩ của em về câu tục ngữ “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”.
Dạng 47: Nhận xét chất văn, giọng văn trong văn NL.
Ví dụ: Em thử nhận xét, đánh giá về chất văn, giọng văn trong phần
trích của văn bản NL sau:
[…]
Trong “Chuyện người con gái Nam Xương”, hình tượng trung tâm là
Vũ Nương đã được xây dựng với tính cách là một phụ nữ đẹp người, đặc
biệt là đẹp nết nhưng lại phải chịu một nỗi oan khiên tày trời. Nàng lại
hiện thân cho thân phận khổ đau của người phụ nữ trong xã hội phong
kiến xưa. Nói thế hoàn toàn không sai nhưng chưa đủ để phân biệt được
giá trị của “Chuyện người con gái Nam Xương” với các tác phẩm khác
cùng nói về phẩm chất tốt đẹp và nỗi khổ của người phụ nữ ở thời trung
đại. Muốn thấy được cái độc đáo và cũng là cái cao siêu của “Chuyện
người con gái Nam Xương”, phải nói thêm điều này. Đó là cái mong
manh, vô cùng mong manh tới độ với tư duy thông thường, trên thế gian
này, chẳng ai có thể nghĩ tới. Nhưng đó là sự thật. Sự thật quá ư khắc
nghiệt đối với hạnh phúc của đàn bà, chẳng riêng gì ở Việt Nam thời
phong kiến, mà còn là với nữ giới ở muôn nơi và muôn đời. Cứ đọc kĩ
“Chuyện người con gái Nam Xương” thì thấy rõ. Có đúng là sự tan nát
hạnh phúc của Vũ Nương đã bắt đầu từ cái bóng của chính Vũ Nương
không? Chồng đi chiến trận, “ngày thường, ở một mình, nàng hay đùa
con, trỏ bóng mình mà bảo là cha Đản”. Cái bóng là gì vậy? Nếu không
phải là một biểu tượng cho sự đồng nhất mình với chồng. Kim-Kiều yêu
nhau, Nguyễn Du đã có một cách nói đến mức sơn cùng thuỷ tận về chữ
“đồng” trong tình yêu: “Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương”.
Nguyễn Dữ trước Nguyễn Du trong “Chuyện người con gái Nam
Xương” lấy cái bóng Vũ Nương để nói là cha Đản, tức là chồng Vũ
Nương, kể cũng là một cách nói sơn cùng thuỷ tận về chữ “đồng” trong
đạo vợ chồng. Vậy mà có ai ngờ được rằng đời Vũ Nương tan nát là bắt
đầu từ đấy. Từ cái bóng kia. Tan nát đến mức thần thánh, trời Phật cũng
chỉ có thể an ủi, bù đắp chút ít chứ không cứu lại được. Rồi nữa, tham gia
vào sự phá nát hạnh phúc của Vũ Nương là ai? Trời ơi! Lại không ai
khác mà chính là đứa con của Vũ Nương. Nó ngây thơ, trong trắng. Nó
hoàn toàn vô tội. Nhưng thực tế khách quan, nó là tác nhân trực tiếp gây
ra sự tan nát hạnh phúc của cuộc đời người mẹ thân yêu của nó. Có đáng
sợ, có khủng khiếp không cho cái gọi là sự ma quái trong cuộc sống con
người ở cõi trần này! Trong “Truyện Kiều”, nàng Kiều bị tan nát hạnh
phúc, chịu hết nạn nọ đến nạn kia là bởi có thằng bán tơ vu oan, có viên
quan quen nghề ăn hối lộ, có Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh chuyên
nghề kiếm ăn ở miền nguyệt hoa, có Hoạn Bà, Hoạn Thư ỷ thế danh gia,
nanh nọc, có Hồ Tôn Hiến nổi tài lật lọng,… có chế độ đa thê, chế độ mại
dâm,… tóm lại là có nguyên nhân xã hội cụ thể, có những kẻ gian ác cụ
thể sờ sờ trước mắt mọi người. Người ta chưa đủ sức chống lại, tiêu diệt
nó mà chỉ biết tìm cách né tránh, lánh xa nó. Đằng này, Vũ Nương làm
sao mà né tránh được những tác nhân phá hoại đời mình một khi nó nằm
ngay trong cái bóng của mình, nằm ngay trong cảnh mình vui đùa với
con, nằm ngay trong khi mình còn muốn gắn bó keo sơn với người chồng
đang phải xa cách, nằm ngay trong một câu nói hồn nhiên, vô tư của đứa
con ngây thơ trong trắng của mình. Tôi muốn nói thế này được chăng: Ở
phương diện thể hiện nguyên nhân đau khổ của người phụ nữ, “Chuyện
người con gái Nam Xương” có ý nghĩa triết học sâu hơn, cao hơn
“Truyện Kiều”, bởi nó đã chạm vào được cái sự ma quái có thực trong
cuộc sống con người muôn thuở. […]
( Nguyễn Đình Chú, Nói thêm về
“Chuyện người
con gái Nam Xương”,trong Tuyển tập
mười năm
Tạp chí Văn học và
Tuổi trẻ,
NXB Giáo dục, Hà
Nội, 2004 )
Dạng 48: Phát hiện lỗi về giọng điệu và chữa lại cho phù hợp.
Dạng 49: Viết câu linh hoạt trong văn NL.
Ví dụ: ĐVNL sau, tác giả sử dụng câu linh hoạt như thế nào?
Nguyên Hồng đã sống hơn 60 năm, đã viết hơn 40 năm, ai biết được
ông đã đổ ra bao nhiêu nước mắt cho đời và cho nghệ thuật. Bây giờ,
nằm dưới ba thước đất, nguồn nước mắt ấy liệu có bao giờ khô cạn được
chăng ?
(Nguyễn Đăng Mạnh,
Thương tiếc
nhà văn Nguyên
Hồng)
Dạng 50: Chỉ ra và nêu tác dụng của việc kết hợp một số phương
thức biểu đạt trong ĐVNL.
Ví dụ: Chỉ ra các yếu tố tự sự và miêu tả trong ĐVNL dưới đây và cho
biết tác dụng của chúng.
Sắp Trung thu. Trời xứ Bắc hẳn trong, trăng hẳn tròn và sáng. Đêm
trước rằm đầu tiên từ ngày bị giam giữ. Mười mấy ngày qua, trừ cái bực
mình ban đầu khi bị bắt giữ vô cớ, cái khẳng định mình vẫn là khách tự
do, chỉ là một xâu những sự vật lỉnh kỉnh, lích kích đáng lạ, đáng cười,
đáng ghét của bộ mặt nhà giam. Bỗng đêm nay trăng sáng quá chừng.
Trong suốt, bao la, huyền ảo, vỗ về. Ngay bên cửa sổ, lồng trong bóng
cây. Đêm nay rất đẹp. Trong lòng rạo rực bao nỗi niềm. Cầm lòng không
đậu, người tù phải thốt lên:
“Đối thử lương tiêu nại nhược hà ?”
(Cảnh đẹp đêm nay, khó hững hờ)
[...] Vậy trước cảnh đẹp đêm nay, trước cái đẹp đêm lành (đối thử
lương tiêu), biết làm sao bây giờ (nại nhược hà) ? Một câu hỏi hay một
câu than đều có nghĩa. Nó là dấu hiệu của một tâm trạng dạt dào nên
sinh băn khoăn. Hơn nữa, bối rối, xao xuyến. Nó ăm ắp tình tứ, nó rạo
rực, nó muốn yêu, muốn thưởng thức, muốn chan hoà, muốn giãi bày,
bộc lộ. Phải đi ra với đêm, phải tắm mình trong nguyệt, phải vui, phải
làm thơ. Tâm trạng người tù như vậy nhưng người tù đành như phải làm
lơ. Như đành để mặc cho đêm đẹp đêm lành, cho trăng mời trăng giục.
Nghĩa là bao nhiêu dạt dào trước đêm, trước cái đẹp cái lành, phải ẩn
vào bên trong, vùi vào im lặng.
(Lê Trí Viễn, Một số
bài giảng
thơ văn Chủ tịch Hồ
Chí Minh)
(Gợi ý trả lời:
-Yếu tố tự sự giúp người đọc hình dung rõ hơn hoàn cảnh sáng tác bài
thơ và tâm trạng của nhà thơ.
-Yếu tố miêu tả làm người đọc trông thấy trước mắt khung cảnh của
đêm trăng và cảm xúc của người tù – thi sỹ, để nhận rõ hơn chiều sâu của
một tâm tư; ở đó, bên trong sự im lặng, có chứa đựng biết bao nhiêu tình
cảm dạt dào trước trăng, trước đêm, trước cái lành cái đẹp.)
Dạng 51: Cho ĐVNL kết hợp với tự sự, miêu tả, biểu cảm. Thử bỏ
các yếu tố tự sự, miêu tả, biểu cảm thì ĐVNL sẽ bị ảnh hưởng như
thế nào; và ngược lại, bỏ yếu tố NL chỉ còn lại tự sự, miêu tả, biểu
cảm thì ĐV ấy sẽ ra sao.
Ví dụ: Cho các ĐVNL sau:
Sắp Trung thu. Trời xứ Bắc hẳn trong, trăng hẳn tròn và sáng. Đêm
trước rằm đầu tiên từ ngày bị giam giữ. Mười mấy ngày qua, trừ cái bực
mình ban đầu khi bị bắt giữ vô cớ, cái khẳng định mình vẫn là khách tự
do, chỉ là một xâu những sự vật lỉnh kỉnh, lích kích đáng lạ, đáng cười,
đáng ghét của bộ mặt nhà giam. Bỗng đêm nay trăng sáng quá chừng.
Trong suốt, bao la, huyền ảo, vỗ về. Ngay bên cửa sổ, lồng trong bóng
cây. Đêm nay rất đẹp. Trong lòng rạo rực bao nỗi niềm. Cầm lòng không
đậu, người tù phải thốt lên:
“Đối thử lương tiêu nại nhược hà ?”
(Cảnh đẹp đêm nay, khó hững hờ)
[...] Vậy trước cảnh đẹp đêm nay, trước cái đẹp đêm lành (đối thử
lương tiêu), biết làm sao bây giờ (nại nhược hà) ? Một câu hỏi hay một
câu than đều có nghĩa. Nó là dấu hiệu của một tâm trạng dạt dào nên
sinh băn khoăn. Hơn nữa, bối rối, xao xuyến. Nó ăm ắp tình tứ, nó rạo
rực, nó muốn yêu, muốn thưởng thức, muốn chan hoà, muốn giãi bày,
bộc lộ. Phải đi ra với đêm, phải tắm mình trong nguyệt, phải vui, phải
làm thơ. Tâm trạng người tù như vậy nhưng người tù đành như phải làm
lơ. Như đành để mặc cho đêm đẹp đêm lành, cho trăng mời trăng giục.
Nghĩa là bao nhiêu dạt dào trước đêm, trước cái đẹp cái lành, phải ẩn
vào bên trong, vùi vào im lặng.
(Lê Trí Viễn, Một số
bài giảng
thơ văn Chủ tịch Hồ
Chí Minh)
Thử bỏ các yếu tố tự sự, miêu tả, biểu cảm thì ĐVNL sẽ bị ảnh hưởng
như thế nào; và ngược lại, bỏ yếu tố NL chỉ còn lại tự sự, miêu tả, biểu
cảm thì ĐV ấy sẽ ra sao ?
Dạng 52: Cho ĐV chỉ có yếu tố NL, sau đó HS đưa thêm các yếu tố
tự sự, miêu tả, biểu cảm vào.
Dạng 53: Thưởng thức và học tập văn NL đầy chất trí tuệ và tâm
hồn, tư duy và hình tượng.
Ví dụ: Đọc các ĐVNL sau đây, em cảm nhận và học tập được gì về
văn NL của tác giả ?
a. ...Và khi nhân nghĩa đã bị xúc phạm thì nhân nghĩa lại mang sức
quật khởi ghê gớm. Đó là lúc Trưng Trắc nghe tin Tô Định giết chồng
mình. Đó là lúc Nguyễn Trãi một đêm nào đó đã đem hết trí tuệ và tâm
hồn mình ra viết “Bình Ngô đại cáo”. Đó là lúc những gốc dừa, bờ kinh
vốn quen mắt thường ngày bỗng biến thành máu thịt và tiếng mẹ hiền ru
ta thời thơ ấu bỗng trở thành mệnh lệnh cho chúng ta lên đường. Có phải
thói quen ấy, thói quen Việt Nam giàu nhân nghĩa không chịu và không
sợ bất cứ một sức mạnh nào đè lên cổ mình đã giúp cô Nguyệt Nga kiên
nhẫn ngồi hoạ tượng người yêu, đã làm cho cô Tấm bị những năm dài
đày đoạ lại trở thành hoàng hậu ? Có phải từ sức sống mãnh liệt đó mà
mỗi lần đất nước bị đâm chém, đất nước lại chuyển mình ghê gớm, một
sự đổ nát lại trỗi dậy trăm vạn niềm tin.
(Nguyễn Thi,
Truyện và kí,
NXB Văn học, Hà
Nội, 1984)
b. Không có gì có thể giải thích nổi sự kiên nhẫn, sức chịu đựng phi
thường ấy, ngoài tình thương con của người mẹ. Đấy chính là “huyền
thoại mẹ” trong hát ru. Gọi là huyền thoại vì sự kiên nhẫn và sức chịu
đựng ấy âm thầm mà thật khổng lồ, lung linh lắm ! Chính vì lẽ đó, trong
ca dao và kho tàng thi ca Việt Nam hình tượng người mẹ hiện lên bao giờ
cũng ắp đầy yêu thương, với nỗi nhớ bao la, da diết nhất. Có ai đếm được
vì sao, có ai đếm được công lao mẹ già ? Công lao nuôi dưỡng và sinh
thành của người mẹ đã đưa các con đến bến bờ bình yên và hạnh phúc.
Ta thật buồn vì một ngày nào đó, ta dầu rời khỏi vòng tay của mẹ, nhưng
ta vẫn vững tin. Ánh mắt lo âu, tình thương của mẹ vẫn hằng dõi mỗi
bước chân thành bại của con. Dù bước chân lành hay bước vấp con đều
có được từ mẹ, mẹ ru con từ thuở trong nôi cho đến những bước đi chập
chững đầu đời, cho đến cả sau này hình bóng mẹ vẫn theo con mãi mãi.
Mẹ chỉ mong sao mỗi bước con đi vững vàng thêm để không vấp ngã.
Một nhà triết học đã bảo rằng hình thức đi của con người là quá trình
bước sau nâng cái ngã của bước trước. Cuộc đời là hình trình của ngã và
dậy bước tiếp. Có lẽ vì thế chăng, tiếng gọi “Mẹ ơi !” bi bô thời thơ ấu
lại trở về thật xót xa, buồn tủi khi ta không còn mẹ nữa : Mẹ đã bằn bặt
đi về vĩnh hằng. Có ai hơn được mẹ, người đã toả ánh sáng ấm áp,
thương yêu, cho ta đủ lòng tin bước những bước nhân ái trong cuộc đời
này ? Có phải chăng, khi ta biết thương mẹ, thì hình như bao giờ cũng
muộn. Ôi, lời ru “Chiều chiều ra đứng ngõ sau – Trông về quê mẹ ruột
đau chín chiều” sao mà nghe đến xao lòng ! Con số chín ( 9 ) mênh
mang, hoang vắng của những nẻo không gian hay “chiều” đã “chín” lên
bởi niềm đau, nỗi nhớ, sự côi cút, đơn lẻ ? Nhưng khi cay đắng của cuộc
đời vây phủ ( có ai san sẻ suốt đời ) là lúc trong ta lại có một tuổi thơ dịu
ngọt với hình ảnh mẹ ta trở về. Nhớ cả những kỉ niệm lỗi lầm thuở thơ dại
ngày xưa : “Mẹ ơi đừng đánh con đau - Để con bắt ốc, hái rau mẹ nhờ” !
(Mai Văn Năm, Điều kỳ diệu của
hát ru,
Tạp chí TGTT, số 343, 12 –
2009)
** Và còn khá nhiều dạng bài tập rèn luyện kĩ năng xây dựng ĐVNL
khác nữa mà mỗi thầy, cô giáo trong quá trình dạy học sẽ tìm tòi, phát
hiện ra. Qua từng năm dạy học, thầy cô rút kinh nghiệm, điều chỉnh, thêm
bớt sao cho phù hợp với đối tượng HS của trường mình.
2. Yêu cầu của việc rèn luyện kĩ năng xây dựng ĐVNL cho HS
a. Yêu cầu tổng quát
- Một số ngữ cảnh liên quan đến việc định hướng nội dung, biện pháp,
cánh thức dạy học để lựa chọn cách thức rèn luyện (hướng ngoại) :
+ Môi trường học tập, không khí học tập.
+ Trạng thái tâm lí của HS (hứng thú, xúc cảm, chú ý, nhu cầu, động
cơ, ý chí...).
+ Điều kiện thời gian, cơ sở vật chất.
(*). Tham khảo thêm : Bài viết “Đa dạng hoá nội dung và hình thức dạy học Ngữ văn địa phương”
của tác giả Mai Văn Năm trên Tạp chí Giáo dục, số 223 (kì 1 – 10/2009).
- Chú ý vấn đề Tích hợp : Tích hợp trong nội bộ môn Ngữ văn (Văn-
Tiếng Việt- Tập làm văn) và tích hợp ngoài bộ môn Ngữ văn.
b. Yêu cầu cụ thể
* Yêu cầu đối với GV
- Nghiên cứu kĩ chương trình làm văn ở trường THCS và đối tượng
HS của từng khối, lớp cụ thể. Tuỳ theo đối tượng HS mà cho rèn luyện
theo từng bước : từ mức độ thấp đến mức độ cao ; từ thực hành nhận biết,
thực hành thông hiểu đến thực hành vận dụng và sáng tạo. Cụ thể :
+ Đối với HS cùng khối lớp : HS yếu, trung bình, khá, giỏi sẽ có mức
độ và cấp độ khác nhau. Chẳng hạn, HS yếu, trung bình nên cho tập viết
ĐVNL theo cách LL diễn dịch và quy nạp ; còn đối với HS khá, giỏi thì
ngoài diễn dịch và quy nạp có thể viết ĐVNL theo cách LL nêu nghi vấn,
so sánh...
+ Đối với HS không cùng khối lớp : HS lớp 7 mới học văn NL nên
tập luyện kĩ năng đơn giản, ở kĩ năng nhận biết và vận dụng ở mức độ
thấp ; HS lớp 8, 9 được rèn luyện lên cao dần ; HS lớp 10, 11, 12 phát
triển cao hơn .
- Cần chú ý đến tính vừa sức, mềm dẻo, linh hoạt, nhạy cảm trong
cách rèn luyện. Nên làm đơn giản kiến thức để làm sao giúp HS tiếp nhận
một cách dễ dàng nhất (cụ thể hoá câu hỏi, sắp xếp hệ thống câu hỏi, bài
tập).
Ví dụ : Nếu GV yêu cầu HS : Hãy nhận xét, đánh giá về cách LL của
tác giả trong ĐV sau :
Tôi thấy Tế Hanh là một người tinh lắm. Tế Hanh đã ghi được đôi nét
rất thần tình về cảnh sinh hoạt chốn quê hương. Người nghe thấy cả
những điều không hình sắc, không thanh âm như "mảnh hồn làng" trên
"cánh buồm giương", như tiếng hát của hương đồng quyến rũ con đường
quê nho nhỏ. Thơ Tế Hanh đưa ta vào một thế giới rất gần gũi thường ta
chỉ thấy một cách mờ mờ, cái thế giới những tình cảm ta đã âm thầm trao
cho cảnh vật : sự mỏi mệt say sưa của con thuyền lúc trở về bến, nỗi khổ
đau chất chứa trên toa tàu nặng trĩu, những vui buồn sầu tủi của một con
đường.
(Hoài Thanh, Thi nhân
Việt Nam)
thì HS khó có thể trả lời. Nhưng nếu hỏi : "ĐV sau đây trình bày LĐ gì
và sử dụng các LC nào ? Từ đó em hãy nhận xét về cách sắp xếp LĐ, LC
và cách diễn dạt của tác giả." thì HS có thể trả lời được.
- Trong quá trình rèn luyện, nếu có khó khăn, vướng mắc xảy ra, GV
cùng HS tìm ra giải pháp giải quyết kịp thời. Nên theo dõi sát sao tình
hình học tập để uốn nắn tinh thần, thái độ rèn luyện, biết được những
thuận lợi cũng như những khó khăn mà HS vấp phải, để từ đó gợi ra
những kinh nghiệm và hứng thú cần thiết nhằm giúp các em vượt qua.
- Tạo môi trường, không khí học tập thân thiện, tôn vinh sự học nói
chung và biểu dương những HS có thành tích học tập tốt, động viên
những HS có tiến bộ. Thường xuyên thăm dò ý kiến từ phía HS, để hiểu
được tâm tư, nguyện vọng của HS. Hãy để cho HS có ý kiến, tự phản hồi,
phản biện, tự đặt câu hỏi. GV chỉ là người định hướng, gợi mở ; HS mới
là trung tâm trong việc chiếm lĩnh tri thức và kĩ năng. Có như vậy bản
thân HS mới trăn trở, cố gắng học hỏi, tìm ra cách học tốt nhất.
- Tổ chức dạy học đa dạng hoá các mối quan hệ tương tác : Thầy-Trò,
Trò-Thầy, Trò-Trò... Không nên áp đặt kiến thức mà phải thực sự tôn
trọng suy nghĩ, sáng tạo của HS.
* Yêu cầu đối với HS
- Chuẩn bị chu đáo : nội dung, tư liệu, lí lẽ, DC, ý kiến, quan điểm...
xung quanh vấn đề cần bàn luận.
- Gắn lí thuyết và thực hành.
- Luyện tập theo từng bước chắc chắn, cẩn thận, không vội vã, có thế
mới nhớ lâu và thành thạo.
- Tập thói quen tìm hiểu đề (xác định đề trên các phương diện: thể
loại (kiểu bài), vấn đề cần NL , phạm vi NL...), tìm ý, lập dàn ý, đọc lại
và sửa chữa để thể hiện ý thức của người làm văn về công việc của mình
(viết về cái gì, viết để làm gì, viết cho ai và viết như thế nào). "Cái gì
được quan niệm chín chắn thì diễn đạt rõ ràng" (N.Boa-lô) .
- Rèn luyện tự giác, chủ động, tích cực, nhất là tạo cho mình một dấu
ấn riêng (tránh một kiểu NL đơn điệu lặp đi lặp lại, gây nhàm chán).
Hãy là một phát hiện, một sáng tạo, dù là nhỏ nhưng đó là ý tưởng hay,
độc đáo của riêng mình – "một nốt trầm xao xuyến". Nói một cách hình
ảnh như nhà thơ Lê Đạt :
Mỗi công dân đều có một dạng vân tay
Mỗi nhà thơ thứ thiệt có một dạng vân chữ
Không trộn lẫn...
134 SL TL SL TL SL TL SL TL
- Đề tài cũng đã góp phần làm cho số lượng HS của Trường THCS
Nguyễn Tri Phương tham gia kì thi HS giỏi Văn đoạt giải khá cao.
+ Năm học 2008 – 2009 : 2 HS đoạt giải III kì thi HS giỏi Văn cấp
huyện ; 1 HS đoạt giải II kì thi HS giỏi Văn cấp tỉnh ; 1 HS đoạt giải III
thi Thuyết trình Văn học cấp huyện.
+ Năm 2009-2010 : 1 HS đoạt giải Khuyến khích kì thi HS giỏi Văn
cấp huyện ; 1 HS đoạt giải I thi Thuyết trình Văn học cấp huyện ( sẽ tham
gia dự thi Thuyết trình Văn học tại tỉnh).
*****
III. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
MỤC LỤC
Lời nói
đầu.............................................................................................................1
I.ĐẶT VẤN
ĐỀ....................................................................................................2
1.Tầm quan trọng của việc học và làm văn NL của HS ở trường
THCS..............2
2.Thực trạng dạy và học làm văn NL ở trường
THCS..........................................3
3.Ý nghĩa của vấn đề rèn luyện kĩ năng xây dựng ĐVNL cho HS
THCS............4
II.GIẢI QUYẾT VẤN
ĐỀ..................................................................................7
A.ĐVNL...................................................................................................
.............7
1.Khái niệm ĐV và
ĐVNL....................................................................................7
2.Trình bày
ĐVNL.................................................................................................8
2.1.Văn
NL.............................................................................................................8
2.2.Cái khó của văn
NL..........................................................................................8
2.3.Cách sử dụng luận điểm, luận
cứ...................................................................10
2.4.Cách xây dựng lập
luận..................................................................................15
2.5.Quan hệ giữa ĐVNL với
ĐVNL....................................................................22
2.6.Liên kết
ĐVNL...............................................................................................26
2.7.Tách
ĐVNL....................................................................................................30
2.8.Từ ngữ và câu trong
ĐVNL...........................................................................31
2.9.Một số lỗi thường gặp trong việc xây dựng
ĐVNL.......................................32
3.Một số lưu ý thêm khi xây dựng
ĐVNL...........................................................33
B.MỘT SỐ DẠNG BÀI TẬP RÈN LUYỆN KĨ NĂNG XÂY
DỰNG
ĐVNL CHO HS
THCS..................................................................................36
C.TINH THẦN CỦA VẤN ĐỀ RÈN LUYỆN KĨ NĂNG XÂY
DỰNG
ĐVNL CHO HS
THCS..................................................................................53
D.KẾT QUẢ CỦA VẤN ĐỀ RÈN LUYỆN KĨ NĂNG XÂY DỰNG
ĐVNL CHO HS
THCS..................................................................................57
III.KẾT THÚC VẤN
ĐỀ...................................................................................59
Tài liệu tham
khảo................................................................................................61
Mục lục