You are on page 1of 18

UBND HUYỆN KIM THÀNH

HỘI ĐỒNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

BẢN MÔ TẢ SÁNG KIẾN


Tên sáng kiến: “Một số biện pháp khắc phục những lỗi thông
thường khi nói và viết tiếng anh”
Bộ môn (lĩnh vực): Tiếng Anh
Cấp học: THCS

Năm học 2023 - 2024

1
THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN

1. Tên sáng kiến: Một số biện pháp khắc phục những lỗi thông thường khi
nói và viết tiếng anh.

2. Bộ môn(lĩnh vực) /cấp học áp dụng sáng kiến: môn Tiếng Anh

3. Tác giả:

Họ và tên: NGUYỄN THỊ THANH HỒNG

Ngày tháng/năm sinh: 14/10/1997

Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm Tiếng Anh

Chức vụ/đơn vị công tác: Trường THCS Kim Liên

Điện thoại: 0335966110

4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Tên đơn vị,địa chủ, điện thoại

5. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:

6. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Tháng 1/2023

7. Cam kết không sao chép hoặc vi phạm bản quyền.

TÁC GIẢ XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ ÁP DỤNG

(ký, ghi rõ họ tên) SÁNG KIẾN

XÁC NHẬN CỦA PHÒNG GD&ĐT

(đối với trường mầm non, tiểu học, THCS)

2
TÓM TẮT SÁNG KIẾN

Chúng ta đang sống trong thế kỷ XXI, thế kỷ của nền văn minh hiện
đại, thế kỷ của khoa học công nghệ thông tin. Đất nước ta đang trong thời kỳ
lấy nền kinh tế tri thức làm nền tảng cho sự phát triển và coi giáo dục đào
tạo phải là quốc sách hàng đầu để hoàn thành tốt việc bồi dưỡng nguồn lực
con người. Để phát triển và bảo vệ Tổ quốc theo kịp với các cường quốc
năm châu, đòi hỏi chúng ta phải nắm bắt được các thành tựu tiên tiến nhất và
nuôi dưỡng các hiểu biết ngang tầm thời đại, trong đó Tiếng Anh là một
trong những chìa khoá để mở cánh cửa hội nhập và lĩnh hội những tinh hoa
văn hóa giữa nước ta với các nước trên toàn thế giới.

Bởi vậy hệ thống các môn học trong nhà trường hiện nay là hướng tới
những vấn đề cốt lõi thiết thực đó. Trong những năm gần đây, Đảng, nhà
nước, chính phủ và Bộ giáo dục và đào tạo đã luôn quan tâm và chú trọng
đến việc đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới sách giáo khoa để việc dạy
và học Tiếng Anh đạt hiệu quả cao nhất, đồng thời đặt ra cho người giáo
viên bên cạnh việc bồi dưỡng kiến thức chuyên môn thì phải cải tiến phương
pháp dạy học, nâng cao chất lượng giáo dục theo hướng “Lấy học sinh làm
trung tâm” để đáp ứng mọi yêu cầu của thời đại mới.

V.I.LêNin đã khẳng định rằng: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu
tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn – đó là con đường biện chứng
của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan”. Chính vì
thế trong lĩnh vực giáo dục, một trong những phương pháp hết sức cần thiết
để đi được trên “con đường nhận thức” này chính là “biện pháp khắc phục
những lỗi thông thường khi nói và viết tiếng anh”. Phương pháp này có tác
dụng tối ưu trong việc tạo hứng thú học tập thông qua việc học sinh tự tìm
tòi, khai thác kiến thức, biết điều khiển hoạt động nhận thức của mình và
giúp học sinh dễ dàng chủ động nắm bắt cũng như khắc sâu được lượng kiến
3
thức trong một nội dung hoặc chủ đề của bài học. Ngay từ đầu kì học, tôi đã
nhận thấy rằng bên cạnh một số học sinh có ý thức học tập tốt, năng nổ và
nhiệt tình trong mọi hoạt động học tập, thì cũng còn nhiều em có tinh thần
và thái độ học tập chưa cao, chưa có sự say mê học môn Tiếng Anh vì các
em này thường có cách học bị động, điển hình nhất là việc học từ vựng bằng
cách đọc từ bằng tiếng Anh .

Chính vì vậy, mục đích then chốt của việc xây dựng “Một số biện pháp
khắc phục những lỗi thông thường khi nói và viết tiếng anh” là để phát
huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, từ bỏ thói quen
học tập thụ động và ghi nhớ máy móc, dạy thế nào để học sinh động
não, làm thay đổi chất lượng hoạt động trí tuệ của học sinh, làm phát triển trí
thông minh, trí sáng tạo của các em nhằm đổi mới tính chất hoạt động nhận
thức của học sinh trong quá trình dạy học. Từ đó Các em không còn sợ học
bộ môn Tiếng Anh mà đã dần làm quen và rất hứng thú, chất lượng học tập
từ đó cũng đã tăng lên khá đồng đều. Học sinh tích cực hơn trong mọi hoạt
động học tập môn Tiếng Anh. Các tiết học trở nên sôi nổi và sinh động hơn.
Vốn từ vựng của các em đã được cải thiện đáng kể, việc luyện tập các kỹ
năng Nghe – Nói – Đọc – Viết cũng trở nên thành thạo, dễ dàng hơn. Trong
đề tài này, tôi xin đưa ra “Một số biện pháp khắc phục những lỗi thông
thường khi nói và viết tiếng anh”. Mục đích cuối cùng của biện pháp này
cũng là để nâng cao chất lượng học tập, phát huy tính tích cực, chủ động của
học sinh, làm cho các em ngày càng yêu thích bộ môn Tiếng Anh với kim
chỉ nam ‘‘Học Tiếng Anh là niềm vui’’.

4
A. MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến.
Tiếng Anh là một ngôn ngữ phổ biến và thông dụng trên toàn thế
giới. Tiếng Anh là chìa khóa để nguời học nó có một ngôn ngữ để làm
phương tiện giao tiếp, là chìa khoá mở cánh cửa để bước vào thế giới
hiện đại, tiếp thu các nền văn minh và văn hoá của nhân loại một cách
nhanh nhất. Những thông tin của thế giới hiện đại, những tin tức có giá
trị thời sự quốc tế đều phát đi từ các hãng tin BBC, VOA, Reuter , được
đọc bằng Tiếng Anh. Các công trình nghiên cứu khoa học có giá trị
cũng được viết bằng Tiếng Anh.
Tại Việt Nam, tiếng Anh ngày càng được chú trọng và là một môn học
gây được nhiều hứng thú đối với học sinh. Tuy nhiên, trong quá trình
học tiếng Anh, nhiều em học sinh thường hay mắc các lỗi khi nói và
viết. Những lỗi hay mắc phải do một số nguyên nhân như: thói quen,
thiếu kiến thức thực tế, nói ngọng. Đặc biệt đối với học sinh Hải
Dương, để được thực hành, giao tiếp cùng với người nước ngoài càng
gặp nhiều khó khăn và hạn chế nên vấn đề này xảy ra thường xuyên
qua các bài học ở lớp cũng như quá trình giao tiếp cùng bạn bè.
Chính vì lẽ đó tôi viết sáng kiến kinh nghiệm về " Một số biện pháp
khắc phục những lỗi thông thường khi nói và viết tiếng Anh " nhằm
hỗ trợ cho bài giảng thêm phong phú, đa dạng và có chất lượng hơn,
giúp các em học sinh khắc phục những lỗi thường gặp khi nói và viết
tiếng Anh, tạo cho các em sự hứng thú và tự tin khi giao tiếp bằng tiếng
Anh, cũng cố thêm kiến thức, góp phần giúp các em học tập tốt môn
tiếng Anh.

2. Cơ sở lý luận của vấn đề

Tiến hành nghiên cứu và xem xét các trường hợp mắc lỗi rất tự
nhiên của các em học sinh trong quá trình các em nói và viết tiếng Anh
tại Trường Trung học cơ sở Kim Liên trong thời gian từ năm 2023 đến
năm 2024. Nhưng tập trung nghiên cứu sâu và sữa chữa lỗi tập trung
để có kết quả đối chứng được thực hiện trên học sinh khối 6, 7 trong
năm học 2022-2023.

5
3. Thực trạng của vấn đề

Qua nhiều năm giảng dạy, tôi nhận thấy việc học tiếng Anh của
học sinh là rất khó, học sinh thường hay mắc những lỗi trong lúc nói và
viết tiếng Anh. Qua quá trình học và rèn luyện của học sinh, tôi chú ý
lắng nghe cách học sinh sử dụng từ trong lúc nói và viết sau đó tôi chọn
lọc các lỗi mà các em thường hay mắc phải. Tương tự như vậy tôi tiến
hành ở nhiều lớp cũng với những câu và cấu trúc như nhau để tìm ra
cách giải quyết từng lỗi một cách dễ nhớ nhất. Năm học 2022-2023 là
năm học tiếp tục áp dụng phương pháp mới trong việc giảng dạy và
soạn giảng, đã tạo cho học sinh cơ hội nói và diễn đạt nhiều, nên giúp
cho tôi nhận thấy lỗi ở các em một cách dễ dàng hơn những năm trước
và học sinh cũng có cơ hội tự sửa lỗi mình mắc phải ngay lập tức thông
qua sửa lỗi của bạn hoặc bài tập thực hành ngay tại chỗ qua các hoạt
động theo cặp, theo nhóm. Giáo viên quan sát, lắng nghe học sinh diễn
đạt nội dung trình bày ý kiến của mình trước bạn bè, trước thầy cô giáo,
thông qua các tiết dự giờ. Giáo viên phát hiện, ghi chép lại, tìm cách
giải quyết, đôi khi cần phải tham khảo ý kiến đồng nghiệp để tìm ra
phương hướng giải quyết phù hợp với nội dung bị sai một cách hợp lí
nhất.

6
4. Các giải pháp (biện pháp) thực hiện
Trong quá trình dạy học trên lớp thông qua phương tiện ngôn
ngữ, tôi quan sát, lắng nghe học sinh nói với học sinh, học trả lời các
câu hỏi của cô giáo, học sinh đọc bài, làm bài tập trắc nghiệm để phát
hiện ra các lỗi nói và viết của học sinh. Đôi khi giáo viên bộ môn cũng
tạo ra những tình huống có vấn đề để dẫn dắt học sinh vào các lỗi thông
thường này để cùng nhau giải quyết, nhằm giúp các em ghi nhớ sâu sắc
hơn những từ ngữ đó. Các lỗi này đa số học sinh đều mắc phải trong
suốt quá trình học tập. Trong năm học này thông qua các tiết dạy nói,
các bài viết, các tiết chữa bài tôi đã mạnh dạn đề ra các cách giải quyết,
cụ thể như sau:
- Các trường hợp mắc lỗi.
- Nhận xét.
- Cách giải quyết.
1. Trường hợp 1: Học sinh gặp lỗi khi đọc từ know. Các em thường
đọc là / kờ- nou / thay vì đọc là/ nəʊ /
-Tôi biết rõ anh ấy.
I know him exactly.
* Nhận xét: học sinh khi nghe giáo viên đọc đọc từ know thì học sinh
đọc là / kờ- nou /
Hướng khắc phục: Giáo viên nêu quy tắc đọc của những từ bắt đầu
bằng chữ “k” mà sau nó là một âm “ n ” thì chúng ta không đọc âm “k”
đó.
Câu đúng: I know him exactly.
/ aɪ nəʊ hɪm ɪɡˈzæktli /
2. Trường hợp 2: Dùng hear thay vì listen và ngược lại:
-Tôi nghe thấy ai đó cười.
I listen to somebody laughing.
- Tôi quá mệt để nghe bài học.
I was too tired to hear the lesson.

7
* Nhận xét: Hai động từ trên đều có nghĩa là "nghe". hear (heard/
heard): nghe thấy (không cần chú ý); còn listen (listened/listened):
lắng nghe (có chủ tâm chú ý ).
Câu đúng: I hear somebody laughing.
I was too tired to listen to the lesson.

* Cách giải quyết: Cho học sinh luyện tập: chon hear hay listen điền
vào chỗ trống thích hợp:
- We ..................... carefully.
- Have you ever.....................that song sung in Laos?
- You're not ...................to what I'm saying.
- I've only just ............about Jane's sickness.

3. Trường hợp 3: Dùng nhầm giữa động từ số ít và động từ số nhiều:

Their son are from Australia.

* Nhận xét: khi thấy their thì các em đã cho là số nhiều, vì vậy các em
thường dùng động từ đi theo sau là số nhiều. Người giáo viên cần lưu ý
cách sử dụng động từ theo sau là số ít hay số nhiều phụ thuộc vào danh
từ đóng chức năng chủ ngữ của câu.

Câu đúng: Their son is from Australia.


* Cách giải quyết: Đưa ra các cụm từ hoặc từ sau để các em xác định
danh từ hoặc cụm danh từ này là số nhiều hay số ít:
-Son
-Sons
-Their son
-Their sons
-His son
8
-His sons
4. Trường hợp 4: Dùng " I " thay vì " My " và ngược lại:

This is my school. This is school I.

* Nhận xét: Hầu hết các em học sinh lớp 6 thường nhầm lẫn " school I
" là "trường tôi". Do các em chưa phân biệt được I là đại từ nhân xưng
còn my là tính từ sở hữu.

Câu đúng: This is my school.


* Cách giải quyết: Dùng tấm bìa cát tông hoặc tờ giấy A4 viết bảng
Chủ ngữ, tính từ sở hữu (possessive adjectives) và đại từ sở hữu
(possessive pronouns) để học sinh có thể luôn luôn nhìn và học.
I go to school. This is my school.
Ngoài ra học sinh còn nhầm lẫn học sinh nói:
Her goes to school everyday. Thay vì nói: She goes to school
everyday.
Giáo viên cần ghi bảng sau cho học sinh phân biệt được các đại nhân
xưng và đại từ sở hữu.

Đại từ nhân xưng Tính từ sở hữu Đại từ sở hữu


I My mine
We Our Ours
You Your Yours
They Their Theirs
He His His
She Her Hers
It Its Its
9
5. Trường hợp 5: Dùng nhầm in với on:

The plane is flying on the sky.


The boys are swimming on the river.

* Nhận xét: Theo tiếng Việt của chúng ta là bay trên trời, đi hoặc chạy
trên đường, nhưng trong tiếng Anh là: in the sky; in the river.

Câu đúng: The bird is flying in the sky.


The boys are swimming in the river.

* Cách giải quyết: Giáo viên chúng ta cần phải lưu ý cách nói và viết
tiếng Anh cho học sinh khi sử dụng giới từ.

* Phụ chú: Một số thành ngữ và cụm giới từ với in và on:


+ In particular : Nói riêng
In the tree : Trên cây
In the middle of : ở giữa
In front of : ở phía trước
In short, in brief : Tóm lại
In other words : Nói cách khác
In one word : Nói tóm lại
In all : Tổng cộng
In general : Nói chung

+ On the right : Bên phải

10
On the wall : Trên tường
On the floor : Trên sàn nhà
On the branch : Trên cành cây
On the left : Bên trái

6. Trường hợp 6: Dùng nhầm o'clock thay vì hour và ngược lại:

I always go to bed at 11 hours .

* Nhận xét: Cả hai từ trên đều có nghĩa là giờ, nhưng o'clock: là giờ
đúng chỉ trên đồng hồ, còn hour : là khoảng thời gian.
Câu đúng: I always go to bed at 11 o'clock .
* Cách giải quyết: Cho học sinh thực hành bài tập: Chọn True (T):
đúng hoặc False (F): sai.
(T) He works at 7 o'clock.
(T) She works 8 hours a day
(F) I do my homework 2 o'clock a day

7. Trường hợp 7: Dùng nhầm make thay vì do và ngược lại:

Tom did a chair yesterday.

* Nhận xét: " make " và " do " đều là hai động từ có nghĩa là: làm. To
do: làm ( nói chung ), còn To make: làm ( tạo ra sản phẩm ).

Câu đúng: Tom made a chair yesterday.

11
* Cách giải quyết: Cho học sinh luyện tập chọn do hay make để điền
vào ô trống:
1. Don't ............... a noise.
2. My father and I ..................a desk.
3. I hope I ................. a lot of money.
4. She doesn't want to ................. her homework.
5. Wait! I must ................. a phone call.
6. You should .................. morning exercise.

* Phụ chú: Tuy nhiên do và make còn được dùng trong rất nhiều thành
ngữ thông dụng, chúng ta cần phải học thuộc vì không dựa vào ngữ
nghĩa và qui tắc nào cả.

To make a mistake : phạm lỗi lầm


To make a promise : hứa
To make a speech : phát biểu
To make an excuse : xin lỗi
To make a noise : làm ồn

To do evil  To do good : làm điều ác  thiện


To do one's best : làm hết sức mình

8. Trường hợp 8: Dùng after thay vì behind và ngược lại:

He comes behind me.


The sun rises after the cloud.

* Nhận xét: Các em chưa phân biệt được hai giới từ đồng nghĩa: "sau".
Thật sự cách dùng chúng khác nhau, after vừa có nghĩa là "đằng sau",

12
vừa có nghĩa là "sau khi"; còn behind có nghĩa là " ở đằng sau "
( không hiểu theo thời gian ).
Câu đúng: - He comes after me.
-The sun rises behind the cloud.

* Cách giải quyết: Cho học sinh luyện tập: chọn after hay behind để
điền vào chỗ trống thích hợp:

- I came ..................he had left.


- Who's the girl standing ................Mary ?
- A small road .................my house.
- He got stronger...............his vacation.
- The sun disappeared..................the cloud.
- Your name comes................mine in the list.

9. Trường hợp 9: Dùng tell thay vì say và ngược lại:

The policeman said the man to stand up.

* Nhận xét: Cả hai động từ trên cùng có nghĩa là " nói ", nhưng cách
dùng thì khác nhau. To say ( said /said ) có "to" theo sau dùng với thoai
trực tiếp (direct speech ); còn to tell ( told / told ) không có "to" theo
sau, dùng với thoại ngữ trực tiếp ( direct speech ) hoặc gián tiếp
( indirect speech ).
Ví dụ: - Peter said " I am feeling ill "
hay: Peter said to me " I am feeling ill "
- Peter told me " I am feeling ill "
hay: Peter told ( that ) he was feeling ill.

13
Câu đúng: The policeman told the man to stand up.

* Phụ chú: " To say " dùng trong thoại ngữ trực tiêp với điều kiện
không có túc từ theo sau.
Ví dụ: Jane said (that) her parents were very well
+ Tell somebody
Say somebody
-Nếu trong câu trực tiếp, động từ tường thuật ( reporting verb ) là "say
to" thì trong câu gián tiếp phải đổi thành " tell" ; còn " Say " thì
không đổi
Ví dụ: She said to me " I met your brother yesterday "
She told me that she had met my brother yesterday.

-Nên quen thuộc với những thành ngữ dùng Say và tell .

To say one's prayess : cầu nguyện


To say a good word for : nói tốt về ( ai )
To say one's opinion : phát biểu ý kiến
To tell the truth : nói sự thật
To tell a lie : nói dối
To tell a story : kể chuyện
To tell secret : tiết lộ bí mật
To tell the price : nói giá
To tell one's name : xưng tên

* Cách giải quyết:Cho học sinh thực hành bài tập: Chọn " Say " hoặc
”Tell " để điền vào chỗ trống:
-.................me where you live.
- I could ................. a thing or two about him.

14
- The doctor ................ to me " Stay in bed a few days ".
- I .............. Don't shout ".
- She ............... that she was going to learn to drive.

5. Kết quả nghiên cứu - vận dụng:


Sau một thời gian áp dụng sáng kiến vào việc giảng dạy, tôi đã
tiếp tục tiến hành khảo sát, kiểm tra thực tế cho các học sinh trong việc
áp dụng phương pháp trên trong năm học 2008-2009 tại các lớp 6A1,
6A2, 6A3, 6A4 , 9A1, 9A3 tại trường THCS Trần Hưng Đạo. Kết quả
cho thấy so với thực tế trước khi áp dụng tôi đã thấy các em có nhiều
tiến bộ đáng khích lệ, các em học sinh đã biết tự nhận ra lỗi sai và tự
sửa sai cho nhau một cách tự nhiên trước lớp. Số lượng học sinh khắc
phục được lỗi tăng lên rõ rệt. Sau khi áp dụng từ đầu học kì I cho đến
giữa học kỳ II tôi có kết quả đối chiếu sau đây.

Số liệu cụ thể được thể hiện ở các bảng sau:

Năm học 2022-2023


Lớp Sĩ số Số HS mắc lỗi Số HS khắc phục được
lỗi
6A2 39 25 17
6A4 38 20 15
7A1 45 18 15
7A4 44 16 12

Sau khi vận dụng thành công sáng kiến này, tôi đã trao đổi cùng
với các giáo viên bộ môn trong tổ Tiếng Anh. Các giáo viên trong tổ
cũng nhận thấy vấn đề tôi nêu ra là sát thực tế và cũng là những lỗi mà
học sinh bậc THCS thường mắc phải. Qua các tiết dự giờ, thao giảng
15
các đồng chí giáo viên trong tổ cũng đồng ý với cách giải quyết vấn đề
của tôi. Các đồng chí cũng đồng tình theo cách giải quyết của tôi.
Với kết quả đã đạt được, tôi sẽ tiếp tục vận dụng sáng kiến này cho
những năm học tiếp theo và hy vọng sẽ đạt được những kết quả khả
quan hơn.
Từ kết quả này, tôi sẽ nhân rộng mô hình và phát hiện ra nhiều lỗi sai
thông thường của học sinh để tìm hướng khắc phục nhằm nâng cao chất
lượng dạy và học nói chung và sữa chữa lỗi ở môn Tiếng Anh nói riêng
nhằm mục đích giúp các em học sinh nói Tiếng Anh trôi chảy hơn, viết
đúng hơn. Giúp các em tự tin hơn khi nói Tiếng Anh cùng với các bạn
trong lớp, trong trường, với thầy cô cũng như có một hành trang vững
chắc khi bước vào công việc học tập, cũng như định hướng nghề
nghiệp ở tương lai.

16
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

1. Kết luận

Tiếng Anh cũng như các ngôn ngữ khác, việc viết và nói đúng
ngữ pháp, dùng từ đúng là điều hết sức quan trọng, để người đọc, người
nghe hiểu chính xác ý của người trình bày. Trên đây là một số trường
hợp học sinh hay mắc lỗi khi viết và nói tiếng Anh mà trong quá trình
giảng dạy tôi đã phát hiện ra. Tôi hy vọng sáng kiến nhỏ này sẽ góp
phần giúp các em học sinh khắc phục được những lỗi thông thường khi
viết và nói tiếng Anh, giúp các em học môn tiếng Anh đạt kết quả tốt
hơn.
Trong quá trình viết và vận dụng sáng kiến chắc chắn còn có những
hạn chế và thiếu sót nhất định, tôi rất mong sự góp ý của thầy cô giáo
và đồng nghiệp để sáng kiến được hoàn thiện hơn.

2. Kiến nghị

Tiếng Anh ngày càng trở nên phổ biến và cần thiết trong cuộc
sống hiện đại ngày nay, do đó nó là một môn học quan trọng đối với
học sinh trung học cơ sở . Chính vì lẽ đó tôi hy vọng sự đầu tư và quan
tâm hơn nữa của các cấp lãnh đạo ngành và Nhà nước trong việc trang
bị cơ sở vật chất ( như máy nghe, phòng nghe nhìn, đồ dùng dạy học...)
cũng như việc nâng cao trình độ chuyên môn cho các thầy cô giáo để
giúp cho chúng tôi ngày càng hoàn thiện hơn, chất lượng giảng dạy
môn tiếng Anh được tốt hơn, mục đích cuối cùng là giúp cho các em
học sinh học tốt hơn nữa cho môn tiếng Anh .
Nhà trường nên có máy kết nối in – tơ – nét cho giáo viên có điều
kiện cập nhật thông tin để đáp ứng nhu cầu dạy học, không lạc hậu so
với các trường ở vùng đồng bằng và thành phố.
Các thầy cô giáo bộ môn cần quan tâm hơn nữa đến việc phát
hiện và sữa chữa kịp thời các lỗi trên để các em tiến bộ hơn, nói và viết
đỡ sai hơn.
17
Ngoài ra Ban đại diện cha mẹ học sinh cần mua thêm sách tham
khảo, sách văn phạm, sách bài tập để học sinh có điều kiện đọc thêm để
khắc phục những lỗi thông thường khi giao tiếp Tiếng Anh.

18

You might also like