You are on page 1of 16

Rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 1

Sự mong muốn lớn nhất của trẻ là được đến trường, được học đọc, học viết. Biết đọc, biết viết
là cả một thế giới mở ra trước mắt các em.

 
I. PHẦN MỞ ĐẦU:
 
I.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
I.1.1. Cơ sở lý luận:
       Sự mong muốn lớn nhất của trẻ là được đến trường, được học đọc, học viết. Biết đọc, biết
viết là cả một thế giới mở ra trước mắt các em.
       Xuất phát từ quan điểm chung là dạy Tập đọc kết hợp dạy ngữ và rèn đọc cho các em học
tiếng mẹ đẻ. Hiện nay, ngành Giáo dục nói chung và bậc Tiểu học nói riêng, đã và đang tiến
hành phương pháp dạy học đối với tất cả các môn học trong đó có môn Tập đọc. Mặt khác, tập
đọc là một phân môn mang tính tổng hợp, bởi bên cạnh việc dạy học chúng ta còn trau dồi
kiến thức về Tiếng Việt, kiến thức về văn học, về đời sống, giáo dục tình cảm, thẩm mĩ cho
học sinh. Phân môn Tập đọc góp phần hình thành và phát triển kỹ năng đọc cho học sinh bằng
một trong bốn kỹ năng cơ bản mà học sinh Tiểu học cần phải nắm vững. Hiện nay, ở nhà
trường Tiểu học, việc rèn kỹ năng đọc đạt kết quả chưa cao. Tình trạng này do nhiều nguyên
nhân, song nguyên nhân lớn nhất là cách thức về phương pháp rèn đọc chưa được coi trọng.
Trên thực tế, nếu không có kỹ năng đọc thì học sinh không có điều kiện để học các môn học
khác, không thể tiếp thu tri thức của nhân loại. Vì vậy, việc dạy đọc cho học sinh có ý nghĩa to
lớn. Thông qua dạy đọc, giáo viên giúp học sinh đọc đúng, đọc hay và bồi dưỡng cho các em
cái hay, cái đẹp trong cuộc sống. Giáo viên phải đặc biệt coi trọng và chú ý đến việc dạy văn
kết hợp với dạy ngữ cho học sinh học tiếng mẹ đẻ một cách toàn diện. Dạy đọc đúng với dạy
đọc hay, dạy đọc “ngôn ngữ” với dạy đọc “văn học”. Đó chính là cơ sở dạy học cho học sinh
trưởng thành và phát triển cả về trí tuệ và tâm hồn, nhân cách và tri thức.
        Với học sinh lớp 1, các em bước đầu biết đọc thì giáo viên cần hướng dẫn đọc đúng, đọc
nhanh, đọc lưu loát trôi chảy. Với học sinh lớp 3, giáo viên yêu cầu cao hơn nữa. Không chỉ
đọc đúng, đọc nhanh mà còn phải đọc diễn cảm, đọc phải thể hiện được nội dung tình cảm của
bài. Để từ đó các em có thể bộc lộ tình cảm của mình qua mỗi bài đọc một cách khác nhau.
Với chương trình thử nghiệm Tiếng Việt Tiểu học 2000, tôi đã và đang từng bước thực hiện
nhiệm vụ dạy tốt môn Tiếng Việt, trong đó có phân môn Tập đọc. Từ đó người giáo viên thấy
rõ và xác định được việc dạy học tập đọc cho học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp 1 nói
riêng là một việc làm hết sức cần thiết. Chúng ta phải làm thế nào để thông qua môn Tập đọc
giúp học sinh không những đạt được năng lực đọc mà phải hiểu nội dung của văn bản và các
thể loại từ văn xuôi đến thơ ca. Hiểu được ý đồ của tác giả và bút pháp nghệ thuật mà mỗi tác
giả đã thể hiện trong tác phẩm. Hay nói một cách khác, giáo viên phải tìm phương pháp tiếp
cận làm cho học sinh có cảm tình với bài đó, thúc đẩy học sinh biểu lộ tình cảm, thái độ tự
nhiên thông qua giọng đọc.
        Trong thực tế hiện nay, để thực hiện được vấn đề này, người giáo viên phải thay đổi cách
truyền thụ để các em có thể nắm bắt được tri thức, thực hiện việc dạy theo hướng đổi mới.
        Mặt khác, việc dạy đọc cho học sinh đã có từ lâu và cũng có nhiều tài liệu đề cập đến.
Tất cả đều khẳng định vai trò của việc dạy đọc - đọc hiểu - đọc diễn cảm cho học sinh. Vì vậy,
trong quá trình dạy phân môn Tập đọc, giáo viên cần quan tâm đến tất cả các yếu tố cấu
thành chất lượng phân môn Tập đọc và đặc biệt là việc dạy đọc cho học sinh phải được coi
trọng. Thông qua việc dạy đọc giúp các em hiểu văn bản, tiếp thu và chiếm lĩnh kiến thức. Biết
đọc diễn cảm là thể hiện được những cảm xúc, tình cảm theo từng nội dung.
I.1.2. Cơ sở thực tiễn:
        Mặc dù lâu nay các thầy cô giáo đã và đang thực hiện viậc rèn đọc đúng, đọc diễn cảm
cho học sinh, nhất là đối với học sinh tiểu học, nhưng điều đó vẫn còn bị hạn chế.
        Bản thân tôi là một giáo viên Tiểu học đã trực tiếp dạy lớp 1 với chương trình Tiểu học
2000, tôi thấy được quá trình dạy đọc đúng - đọc diễn cảm cho học sinh Tiểu học là rất quan
trọng. Đối với học sinh lớp 4-5, việc đọc diễn cảm và đọc đúng đã là vấn đề khó thì đối với học
sinh lớp 1 lại càng khó hơn nhiều. Bởi vì các em đều là học sinh mới bắt đầu đến trường, việc
làm quen với các con số và mặt chữ còn khó khăn thì việc đòi hỏi các em đọc đúng, đọc diền
cảm lại càng khó.Nhưng nếu được quan tâm rèn luyện thì các em dần dần sẽ tiếp thu được.
Thực tế khảo sát chất lượng của phân môn Tập đọc đầu năm của học sinh cho thấy, học sinh
phát âm sai rất nhiều, phổ biến là sai các phụ âm đầu, vần và dấu thanh. Học sinh thường
phát âm sai phụ âm đầu l/n, ch/tr, s/x và các thanh hỏi – ngã. Học sinh đọc bài chưa biết ngắt
nghỉ dấu chấm, dấu phẩy trong một bài văn, bài thơ. Các em chưa biết đọc diễn cảm, hạ giọng
hay kéo dài giọng… ở câu thơ, câu văn nào để người nghe cảm thấy cái hay của bài thơ hoặc
bài văn đó.
        Về giáo viên, việc rèn cho học sinh kỹ năng đọc còn có một số hạn chế cần khắc
phục. Hơn nữa quy trình phân môn Tập đọc thử nghiệm Tiểu học 2000 còn mới mẻ nên
tôi phải vừa làm, vừa tìm tòi học hỏi để tự bồi dưỡng bản thân, trang bị cho mình một vũ
khí sắc bén để dạy học đạt kết quả cao. Là một giáo viên, tôi không thể không lo ngại
trước kết quả khảo sát phân môn Tập đọc của lớp 1A.          Cụ thể đầu năm 2009 – 2010
tôi tiến hành khảo sát như sau:
Đọc ngọng Đọc sai p/âm Đọc sai dấu Đọc đúng Đọc diễn cảm
TSHS/27
TS % TS % TS % TS % TS %

Khảo sát đầu


4 15 12 44 3 11 8 30 0  
năm
 
        Xuất phát từ cơ sở lý luận và trước thực tế trên của lớp thì với yêu cầu của chương trình
thực nghiệm môn Tiếng Việt tiểu học 2000. Tôi có băn khoăn suy nghĩ là phải làm gì và làm
như thế nào để các em phát âm chuẩn, đọc đúng, đọc diễn cảm.
        Với đề tài này, tôi mạnh dạn trình bày một số phương pháp rèn kỹ năng đọc cho học sinh
lớp 1 nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy đọc. Khi viết đề tài này tôi đã phát huy tất cả kiến
thức được học, được bồi dưỡng qua các lớp học chuyên môn và học hỏi, kế thừa kinh nghiệm
của đồng nghiệp đi trước. Đặc biệt là kinh nghiệm thực tế qua các giờ dạy mà đối tượng chính
là học sinh của mình. Do đó tôi muốn đưa ra những phương pháp đặc trưng ở góc độ chủ quan
mà tôi đã tiếp thu được trong đợt bồi dưỡng hè 2004. Từ nhận thức trên, bản thân tôi đã rút
ra bài học “Rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 1 thông qua môn Tập đọc”.
 
I.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
       Bản thân tôi khi nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích tìm ra phương pháp và hướng đi
giúp học sinh học tập tốt hơn. Qua đó từng bước nâng cao năng lực đọc đúng, đọc hay, đọc
diễn cảm của mỗi học sinh.
 Về đọc đúng: Học sinh đọc đúng các phụ âm đầu vần, thanh, đọc đúng tiếng từ, câu,
đoạn văn, bài văn, bài thơ.
 Đọc hay, đọc diễn cảm: Học sinh khi đọc bài văn, bài thơ phải biết ngắt nghỉ đúng các
dấu chấm, dấu phẩy, dấu chấm hỏi, dấu chấm cảm. Khi đọc biết lên giọng, hạ giọng ở
những câu văn, bài thơ, hơn nữa là đọc phân vai.
 Học sinh hiểu được nội dung văn bản và thể loại (văn xuôi hay thơ), từ đó học sinh có
thái độ, tình cảm đúng trong cuộc sống.
 Thông qua dạy học giúp các em có điều kiện tiếp cận và nắm bắt các môn học, hiểu
các văn bản, tiếp thu và chiếm lĩnh được tri thức, tự tin khi giao tiếp nhằm góp phần hình
thành nhân cách con người Việt Nam hiện đại, phát triển toàn diện về mọi mặt Đức - Trí -
Thể - Mĩ cho học sinh.
 
I.3. THỜI GIAN - ĐỊA ĐIỂM:
a) Lập đề cương nghiên cứu:
     Thời gian nghiên cứu từ tháng 9/2009 đến tháng 5/2010.
b) Triển khai nghiên cứu:
     Thời gian nghiên cứu từ tháng 1/2010 đến tháng 5/2010.
c) Hoàn thành đề tài:  15/5/2010
*) Phương pháp nghiên cứu.
a. Đối với giáo viên:
        Giáo viên tự học hỏi kinh nghiệm và phương pháp truyền thụ ở những đồng nghiệp có
kinh nghiệm trong giảng dạy về những điểm hợp lý và chưa hợp lý. Phải xem các giáo viên
thường sử dụng phương pháp gì trong quá trình rèn đọc đúng và đọc diễn cảm.
        Nghiên cứu tài liệu hướng dẫn dành cho giáo viên với chương trình thử nghiệm 2000 để
rút ra những phương pháp tối ưu nhất.
       Thường xuyên dự giờ thăm lớp các đồng nghiệp để học tập và rút kinh nghiệm cho bản
thân.
       Tham gia các buổi sinh hoạt chuyên môn của tổ và tham dự các chuyên đề do trường,
phòng giáo dục tổ chức để đưa ra các phương pháp cải tiến. Trên cơ sở phát huy những ưu
điểm của phương pháp dạy truyền thống áp dụng vào dạy học theo hướng đổi mới phù hợp với
đối tượng học sinh của lớp mình.
      Dạy một số giờ theo sách thử nghiệm để giáo viên trong tổ và chuyên môn trường dự giờ
góp ý.
      Thường xuyên tiến hành khảo sát chất lượng phân môn Tập đọc hàng tháng, kỳ khi mà
học sinh đã được rèn đọc để so sánh thấy được hiệu quả của phương pháp mới.
b. Đối với học sinh:
       Học sinh trong lớp phải đủ sách giáo khoa Tiếng Việt tập 1 và tập 2 của chương trình Tiểu
học 2000. Có đủ vở Bài tập Tiếng Việt – Bài tập Tiếng Việt nâng cao để phục vụ cho học sinh
học phân môn Tập đọc.
*) Giả thiết khoa học:
       Đối với phân môn Tập đọc, muốn học tốt học sinh phải có kỹ năng đọc và hiểu nội dung
bài, giá trị nghệ thuật của bài. Từ đó học sinh biết cách thể hiện cảm xúc của giọng đọc một
cách đúng mức.
       Khi đã được trang bị năng lực đọc, kỹ năng đọc tốt, học sinh sẽ ham thích tìm hiểu, biết
bộc lộ tình cảm một cách đúng mức trong cuộc sống xã hội.
        Ngoài ra để học tốt các em cần phải có vốn ngôn ngữ phong phú, đa dạng. Có như vậy
các em sẽ có đủ điều kiện học tốt các môn học khác.
        Dạy học tốt phân môn Tập đọc còn giúp học sinh có một vốn ngữ chuẩn mực để tiếp thu
tri thức khoa học và tự nhiên xã hội.
        Nhiều tài liệu và các chuyên gia nghiên cứu đã nhận định: Dạy - Học tốt phân môn Tập
đọc sẽ tạo tiền đề cho các em bước vào lĩnh vực khoa học một cách vững chắc.
I.4. ĐÓNG GÓP MỚI VỀ MẶT LÝ LUẬN, VỀ MẶT THỰC TIỄN:
        Để xây dựng một đề tài thì việc nghiên cứu lý luận là không thể thiếu được. Khi nghiên
cứu đề tài này tôi đã nghiên cứu, tham khảo các sách giáo khoa, sách giáo viên và nhiều tài
liệu có liên quan đến việc nghiên cứu đề tài này.
        Thông qua đề tài này nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ sau đây:
 Rèn kỹ năng và năng lực đọc cho học sinh.
 Trau dồi kiến thức văn học, kiến thức ngôn ngữ, kiến thức đời sống cho học sinh.
 Giáo dục thẩm mĩ - tình cảm - phát triển tư duy cho học sinh.
 Học sinh học môn Tiếng Việt có kết quả cao trong đó có phân môn Tập đọc.
 Học sinh đọc tốt còn giúp các em học tốt các môn khác.
        Để tiến hành làm đề tài này, tôi đã nghiên cứu sách giáo khoa phân môn Tập đọc lớp 1
để tìm hiểu nội dung, cấu trúc của chương trình. Tìm hiểu việc dạy và học của các em có hệ
thống nội dung bài học (nội dung sách giáo khoa thử nghiệm Tiếng Việt Tiểu học 2000).
Nghiên cứu tài liệu hướng dẫn dành cho giáo viên của môn Tiếng Việt trong đó có phân môn
Tập đọc lớp 1. Nghiên cứu rút kinh nghiệm qua từng tiết dạy để rút ra những điều cần thực
hiện.
       Nghiên cứu tài liệu có liên quan đến môn Tiếng Việt nhất là phân môn Tập đọc.
       Học hỏi các đồng nghiệp trong trường nhất là giáo viên khối 1. Vì vậy đây cũng là dịp để
bản thân tôi học hỏi và tham gia các tài liệu tham khảo của các chuyên gia nghiên cứu dạy
phân môn Tập đọc cho học sinh và qua đó có thể tự bồi dưỡng bản thân.
       Ở đề tài này tôi tập trung nghiên cứu các đối tượng là học sinh lớp 1 trường Tiểu học An
Sinh A - Đông Triều - Quảng Ninh.
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
II. PHẦN NỘI DUNG:
 
II.1. CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN
        Học sinh Tiểu học ở độ tuổi 6-12 tuổi là giai đoạn phát triển mới của tư duy. Ở lứa tuổi
này trẻ em có những đặc điểm riêng, đó là tri giác của các em còn mang tính trực quan cụ thể
vì kinh nghiệm sống của các em còn hạn chế. Vì thế, trẻ thường lẫn các đối tượng có hình
dạng hay cách phát âm các âm, tiếng, từ na ná giống nhau, chưa biết phân biệt đâu là đúng,
là sai. Ở lứa tuổi học sinh Tiểu học, các em chủ yếu học và chơi. Đây là hai hoạt động đan xen
nhau. Trẻ em nặng tính hồn nhiên, ngây thơ trong sáng. Các em dễ tin và nghe lời thầy cô, tin
vào khả năng học tập của chính bản thân các em, tin vào những điều nhà trường, gia đình, xã
hội đã dạy dỗ các em nên người. Ở lứa tuổi này tâm lý của các em là thích được khen hơn chê,
cho nên khi các em đọc bài tốt, đạt điểm cao, được thầy cô khen, bạn bè quý mến các em rất
thích. Vì vậy người giáo viên Tiểu học phải nắm bắt được tâm sinh lý học sinh Tiểu học. Do đó
khi nghiên cứu đề tài sử dụng phương pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1 qua môn Tập đọc là rất
phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của các em.
 
II.2. CHƯƠNG 2: NỘI DUNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
II.2.1. Các thành tựu đã đạt được trong thời gian qua:
       Hội thảo Quốc gia về đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học đã đề ra các quan điểm chỉ
đạo đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học, cụ thể là:
      Quán triệt và vận dụng hợp lý mục tiêu của giáo dục Tiểu học trong mọi trường học ở bậc
Tiểu học.
      Trong mọi hoạt động dạy học phải đảm bảo sự bình đẳng về cơ hội phát triển năng lực và
sở trường của từng học sinh hay là quan điểm của dạy học cá thể hoá.
Đổi mới quá trình dạy học, phương pháp dạy học là một quá trình lâu dài nó gắn liền với đổi
mới mục tiêu nội dung, cơ sở vật chất để phù hợp với điều kiện từng địa phương. Đưa các hình
thức tổ chức dạy học mới vào trường Tiểu học tạo điều kiện cho giáo viên có thể tổ chức dạy
học mới theo các hình thức đã và đang được triển khai ở một số địa phương.
       Với đề tài này cho phép các nhà khoa học nghiên cứu trên nhiều phương diện ở nhiều góc
độ, tiếp cận trong các phạm vi lớn nhỏ, ở những địa phương có đặc thù khác nhau.
       Thông qua kết quả của việc điều tra, khảo sát chất lượng bộ môn Tập đọc lớp 1; tìm hiểu
kinh nghiệm đúc kết của giáo viên trực tiếp giảng dạy thông qua việc nghiên cứu chương trình,
tài liệu để có phương pháp rèn kỹ năng đọc cho học sinh các lớp 1 nói riêng đạt kết quả cao
nhất.
II.2.2. Nghiên cứu chương trình sách giáo khoa:
       Qua việc nghiên cứu một số tài liệu Sư phạm tôi đã rút ra một số điểm đáng lưu ý như
sau:
      - Giáo trình “Phương pháp dạy học Tiếng Việt” trong các phương pháp dạy Tập đọc có
phương pháp trực quan và phương pháp luyện tập là hết sức quan trọng. Trực quan không chỉ
là tranh ảnh hay vật thực mà nó còn là giọng đọc mẫu của giáo viên - một hình thức sinh động
và có hiệu quả. Giáo viên phải đọc đúng thể loại, đúng ngữ điệu, biểu hiện tình cảm qua nét
mặt, cử chỉ, điệu bộ. Bên cạnh đó còn hình thức trực quan thứ hai là ghi các tiếng khó, câu
khó, đoạn khó đọc vào bảng phụ để học sinh tri giác cụ thể hơn. Giáo viên cần chép rõ ràng và
hướng dẫn tỉ mỉ. Đó chính là các hình thức trực quan rất cần thiết cho việc rèn đọc. Các em có
đọc đúng thì mới có thể viết được đúng. Ở phương pháp luyện tập sẽ có các quá trình luyện
tập là: đọc đúng âm, tiếng, câu; biết ngắt nghỉ đúng chỗ khi đọc. Giọng đọc phải thể hiện qua
bài văn hay bài thơ và thể hiện cảm xúc qua nội dung bài đọc. Đọc sai chỗ ngắt giọng phản
ánh một cách hiểu sai nghĩa hoặc ít ra một cách đọc không để ý đến nghĩa.
        Vì vậy, đọc đúng ngữ điệu nói chung, ngắt giọng đọc đúng nói riêng vừa là mục đích của
việc dạy đọc thành tiếng, vừa là phương tiện giúp học sinh chiếm lĩnh nội dung bài đọc. Bài
này chỉ ra cơ sở ngữ nghĩa, ngữ pháp của chỗ ngắt giọng, chỗ cần phát âm đúng. Thực tế học
sinh lớp 1 luyện đọc đúng là nhiệm vụ trọng tâm bởi theo chương trình Tập đọc trong sách
Tiếng Việt 1 chỉ có 13 tuần bao gồm cả nội dung ôn tập và thi. Bên cạnh đó học sinh vừa
chuyển từ phần vần sang tập đọc thì mục tiêu chính là giúp các em nhận diện chữ để đọc
đúng, đọc trôi chảy lưu loát, biết ngắt nghỉ hơi hợp lý, lưu ý cả cách đọc nhấn giọng.
       - Giáo trình “Rèn kỹ năng sử dụng Tiếng Việt”. Muốn rèn cho các em có kỹ năng, phương
pháp đọc tốt thì trước tiên giáo viên cần phát hiện những nguyên nhân dẫn đến đọc sai, từ đó
áp dụng các cách thức, các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt trong quá trình áp dụng qua việc
nghiên cứu để hướng dẫn học sinh.
       Việc áp dụng ngữ điệu đọc phù hợp làm tiêu chuẩn tức là cách xác định chính xác tiết tấu
của giọng đọc, nhịp điệu đọc, cường độ, độ cao, sắc thái giọng đọc, nét mặt, cử chỉ, điệu bộ
trong khi đọc để người nghe dễ hiểu, cảm nhận được cái hay, cái đẹp trong bài văn, bài thơ.
        Về tốc độ âm lượng đọc: Mỗi bài Tập đọc có tốc độ âm lượng đọc khác nhau. Như vậy
người giáo viên cần phải nắm chắc các kỹ thuật trên để làm mẫu cho học sinh và hướng dẫn
truyền thụ lại cho các em những kỹ thuật đó. Khi học sinh đã hoàn chỉnh các kỹ thuật trên
cũng chính là đã đạt đỉnh cao của phương pháp rèn đọc cho học sinh Tiểu học.
      Chương trình sách giáo khoa Tiếng Việt 1:       
 Chương trình Tiếng Việt 1 chia thành 3 phần cơ bản.
+  Học vần:  Chữ cái:     Tuần 1 - Tuần 6
                     Vần     :      Tuần 7 - Tuầm 24
+  Tập đọc:   Tuần 25 - Tuần 35.
 Chương trình Tập đọc lớp 1 bao gồm cả phần nội dung kiến thức mới và nội dung kiến
thức ôn tập là 13 tuần. Trong đó cũng được phân thành các chủ đề sau:
+  Chủ đề nhà trường          : 4 tuần
+  Chủ đề gia đình               : 4 tuần
+  Chủ đề thiên nhiên - Đất nước: 4 tuần
    Riêng tuần 35 dành cho phần ôn tập và kiểm tra.
 Các bài Tập đọc được xếp theo chủ đề gần gũi, đan xen, kết hợp, phân bố rất hợp lý.
 Nội dung là những bài văn, bài thơ, những câu chuyện ngắn, hay, hấp dẫn, gắn với
cuộc sống sinh hoạt của các em.
 Đặc biệt ở mỗi bài Tập đọc thường có tranh minh hoạ với màu sắc đẹp, hình ảnh sinh
động phù hợp với nội dung từng bài.
II.2.3. Những vấn đề thực tiễn:
     Tôi tiến hành điều tra trường Tiểu học An Sinh A - Đông Triều:
II.2.3.1. Về giáo viên:
      Phương thức điều tra giáo viên bằng phiếu thăm dò: Đánh dấu vào ô trống theo đồng chí
là đúng, là thường thực hiện dạy tập đọc hoặc nêu hình thức mà giáo viên thường làm.
     Câu 1: Đồng chí cho biết trong một giờ Tập đọc ở lớp 1, đồng chí đã rèn đọc cho học sinh
như thế nào, hãy kể cách làm cụ thể?
       Câu 2: Trong một giờ Tập đọc, đồng chí đã chú ý đối tượng học sinh nào?           Đồng chí
hãy đánh dấu x vào ô trống mà đồng chí cho là đúng:
                           Học sinh khá – giỏi
                           Học sinh trung bình
                            Học sinh yếu kém
     Câu 3: Trong số hình thức dạy học sau đây, đồng chí thường chọn những hình thức nào?
Hãy đánh dấu x vào ô mà đồng chí cho là đúng:
                           Dạy học cá nhân
                           Dạy học theo nhóm
                           Dạy học cả lớp
     Hình thức dạy học nào là quan trọng nhất (ghi cụ thể tên hình thức dạy đó).
       Câu 4: Đồng chí hãy kể tên những phương pháp mà đồng chí đã vận dụng để dạy một giờ
Tập đọc cho học sinh lớp 1.
*Thực trạng của giáo viên:
a. Ưu điểm:
       Thực tế dạy học ở trường tiểu học An Sinh A cho thấy: Giáo viên đã tìm hiểu kỹ bài dạy
và truyền đạt đủ kiến thức cơ bản theo yêu cầu sách giáo khoa với việc phát huy tính tích cực
của học sinh. Họ dành thời gian cho học sinh làm việc với sách giáo khoa. Kết hợp nhiều
phương pháp trong một tiết dạy như: giảng giải trực quan, vấn đáp, gợi mở để dẫn dắt học
sinh tìm ra kiến thức. Giáo viên luôn có sự chuẩn bị đồ dùng trực quan.
b. Một số tồn tại:
       Khi dạy một tiết Tập đọc, nhiều giáo viên chưa thực sự chú ý rèn đọc cho học sinh khi học
sinh đọc sai. Số ít giáo viên chưa chú ý tới việc luyện cách đọc một câu văn dài, học sinh đọc
còn gặp nhiều khó khăn.
       Hầu hết các tiết dạy về Tập đọc, khi sử dụng các hình thức trực quan thì chỉ dừng ở chỗ
giáo viên làm động tác minh hoạ hoặc đưa ra vật thực. Một số bài dạy chay không phóng to
được hình vẽ. Nhiều khi ác tranh đưa ra còn hạn hẹp, kém về hình thức. Điều này không gây
được hứng thú học tập cho các em. Do tập tục địa phương nên các em rất hay đọc ngọng phụ
âm l/n, ch/tr, s/x và ngọng về dấu hỏi – ngã.
        Mặt khác, số ít giáo viên chưa chú ý cho học sinh cách đọc đúng nhịp điệu thơ, đọc ngắc
ngứ những câu văn dài. Trong khi tìm hiểu nội dung bài, một số giáo viên dành nhiều thời gian
để giảng giải, đàm thoại (thầy hỏi – trò suy nghĩ, sau đó gọi 1 – 2 em lên trả lời). Vì vậy, giáo
viên chưa kiểm soát được số đông học sinh trong lớp và dành nhiều thời gian hợp lý cho các
em hoạt động tự tìm kiếm, lĩnh hội kiến thức theo khả năng của mình.
   * Nguyên nhân:
     Nguyên nhân của một số tồn tại kể trên là do giáo viên chưa nghiên cứu kỹ nội dung của
sách giáo khoa và sách hướng dẫn giảng dạy để từ đó chọn phương pháp dạy và nội dung dạy
học một cách thích hợp nhất.
II.2.3.2. Thực trạng của học sinh:
Tôi đã tiến hành điều tra học sinh lớp 1A tổng số là 27 em.
 Phương thức điều tra 1: Bằng hình thức thăm dò điền vào dàn ý, vào ô trống mà em
cho là đúng hoặc hình thức lựa chọn từ thích hợp để điền vào ô trống.
        Câu 1: Điền vào chỗ trống n hoặc l.
                 Cây ….úa,     ……ấu cơm,    ……ăn tròn.
      Câu 2: Điền vào chỗ trống chao hay trao.
                  ………… ơi!, …………giải thưởng.
        Câu 3: Điền vào chỗ trống n hoặc ng.
                 Cây bà……., bà….. ghế.
      Điều tra kết quả phương thức 1:
        Câu 1: 65,5% học sinh trả lời đúng.
        Câu 2: 87% học sinh trả lời đúng.
        Câu 3: 50% học sinh trả lời đúng.
      Từ kết quả điều tra phương thức trên tôi thấy học sinh đọc sai nhiều nhất là phụ âm l/n,
s/x. Hai phụ âm này học sinh hay đọc sai, trong đó có một phần lỗi học sinh chưa chú ý và
giáo viên đọc chưa chuẩn.
 Phương thức điều tra 2:
      Tôi tiến hành điều tra vào lớp giảng dạy và khảo sát cụ thể qua việc đọc của từng học
sinh.
      Qua điều tra thực tế việc đọc của học sinh, tôi thấy thực trạng của học sinh lớp tôi có ưu
nhược điểm sau đây:
 Ưu điểm:
  Năm học 2009 – 2010, học sinh đã được học nhiều bài Tập đọc bằng giáo án điện tử tạo điều
kiện tốt cho học sinh trong giờ học. Nói chung đa số học sinh đọc được nội dung bài và bước
đầu có kỹ năng đọc đúng. Đã có một số em biết áp dụng vào giờ ngoại khoá.
       Một số em đã biết đọc diễn cảm và có ý thức học tập tốt, hăng hái phát biểu ý kiến xây
dựng bài.
 Hạn chế:
       Một số em chưa thực sự hiếu học, hay quên đồ dung học tập, chưa chuẩn bị đầy đủ trước
khi đến lớp. Một số học sinh yếu vừa đọc vừa đánh vần, số đông học sinh khác đọc trôi chảy
song chưa biết nhấn mạnh ở các từ ngữ cần chú ý cũng như cách ngắt nghỉ đúng dấu câu.
       Ví dụ: Chỗ ngừng giọng giữa chủ ngữ và vị ngữ, giữa động từ và bổ ngữ. Đó là chưa kể
trong thơ, hầu như người ta đã bỏ các dấu câu, nhiều bài văn xuôi tác giả không dùng các dấu
phẩy như yêu cầu của nhà trường. Đây là nguyên nhân dẫn đến học sinh không đọc đúng chỗ
ngắt giọng ở những câu dài có cấu trúc ngữ pháp phức tạp.
       Ngắt giọng hay là đích của dạy học và cũng là một trong những phương tiện để dạy tiếp
cận, chiếm lĩnh văn bản được đọc. Từ đó các em đọc đúng phụ âm đầu, ngắt giọng đúng và
hay; tôi đã hướng dẫn để các em cảm thụ được nội dung bài học theo từng chủ điểm. Nhờ đó
các em trau dồi cho mình vốn từ phong phú, cách viết trong sáng, mạch lạc, bố cục chặt chẽ,
nội dung hấp dẫn trong phân môn Tập đọc.
      Qua quá trình thực tế dạy Tập đọc cho học sinh lớp 1 nhiều em tiếp thu bài nhanh, đọc
tốt, song vẫn còn tồn tại một số em đọc chưa thạo.
      Học sinh lớp 1 Trường Tiểu học An Sinh A – Đông Triều, trong không khí xã hội hóa giáo
dục của ngày khai giảng năm học mới, phụ huynh đưa con em đến trường, các em từ nhiều
vùng quê khác nhau theo cha mẹ đến đây lập nghiệp. Tiếng nói địa phương mang tính chất
vùng miền đã để lộ sự giao thoa đến cách phát âm của một số học sinh trong lớp. Chủ yếu là
lẫn lộn phụ âm đầu l/n. Một số em khi được gọi đọc bài còn mắc nhiều lỗi phát âm, đọc và trả
lời các câu hỏi còn nhỏ, trả lời không đủ câu, đọc kéo dài….Có thể nói, đó là nguyên nhân
khách quan tác động “vô thức” đến một số ít học sinh.
 
II.3. CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU – KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
      Tập đọc là phân môn chủ yếu rèn cho học sinh kỹ năng đọc, từ mức độ nhận biết để đọc
đúng, rõ rang đến mức độ cao hơn là đọc lưu loát, biết ngắt nghỉ, lên -  xuống giọng và thể
hiện thái độ tình cảm qua bài Tập đọc, học sinh hiểu được nội dung của bài.
     Để đạt được mục đích ấy, trước hết người giáo viên phải có phương pháp rèn đọc đúng, có
các hình thức rèn đọc cũng như tinh thần trách nhiệm đối với nghề trên cơ sở giúp học sinh
nhận thức được việc rèn đọc trong trường Tiểu học. Từ đó áp dụng các phương pháp rèn đọc
linh hoạt sẽ đem lại kết quả khả quan hơn.
II.3.1. Phương pháp trực quan:
 Phương pháp này phù hợp với tư duy, tâm lý lứa tuổi ở bậc Tiểu học:
    Ở phương pháp này giáo viên đưa ra những bức tranh minh hoạ bằng vật thật cho từng bài
(gọi chung là đồ dung học tập) để phục vụ cho quá trình rèn đọc của học sinh kết hợp đọc hiểu
và bước vào đọc diễn cảm tốt.
    b. Các hình thức trực quan (Cách dạy):
     * Giọng đọc mẫu của giáo viên: Đây là một hình thức trực quan sinh động và có hiệu
quả đáng kể, có tác dụng làm mẫu cho học sinh luyện đọc. Do đó, muốn rèn đọc cho học sinh
tôi luôn chuẩn bị trước các bài ở nhà để cho học sinh đọc đúng các thể loại, đúng ngữ điệu,
tránh đọc đều đều mà cần phải biết biểu hiện tình cảm của mình qua cử chỉ, ánh mắt, nét
mặt, nụ cười khi đọc.
      *Luyện đọc từ khó:
       Khi hướng dẫn học sinh phát âm tôi thường phân tích cho các em thấy sự khác biệt giữa
cách phát âm đúng với cách phát âm sai mà học sinh thường mắc như các tiếng có phụ âm
l/n, ch/tr, s/x.
       Điều này cần hướng dẫn tỉ mỉ và có trực quan cho các em thấy được sự khác nhau của nó
để phân biệt rõ khi đọc phát âm cho đúng. Đặc biệt đối với học sinh yếu, tôi còn sử dụng các
trực quan cụ thể để các em thấy được hệ thống cách phát âm như môi, răng, lưỡi (bộ máy
phát âm) khi phát âm nó như thế nào. Cụ thể hơn, tôi làm mẫu trực tiếp để học sinh quan sát
và luyện cách phát âm.
       Ngoài hình thức trên, tôi còn ghi các từ khó để luyện đọc bằng phấn màu lên bảng (bảng
phụ) . Tôi dùng phấn màu ghi các phụ âm, vần khó, làm nổi bật các phụ âm, vần khó trong
các từ luyện đọc để các em được nhìn (bằng mắt), được tập phát âm (bằng miệng), được nghe
(bằng tai) và có thể được viết bằng tay vào bảng con. Có như vậy các em sẽ nhớ lâu và đọc
đúng.
       Giáo viên đọc mẫu – Học sinh giỏi luyện đọc.
       Học sinh thường đọc sai phụ âm, sai vần luyện đọc. Học sinh yếu cần luyện nhiều và tôi
yêu cầu học sinh phân tích các từ có tiếng, vần mà các em hay đọc sai để nắm bắt rõ hơn. Đa
số học sinh đọc tốt, trừ một số trường hợp đặc biệt (các em bị dị tật về bộ máy phát âm) còn
lại với cách rèn đọc trên các em đã đọc tốt.
 Luyện đọc câu – đoạn – bài:
      Kết hợp với rèn phát âm đúng tiếng, từ có phụ âm, có vần học sinh hay phát âm sai; tôi
còn rèn cho học sinh biết ngắt, nghỉ đúng dấu chấm, dấu phẩy và đọc lưu loát (đây là yêu cầu
trọng tâm của hcọ sinh lớp 1).
      Bước sáng phần đọc, đa số các em còn đọc chưa chuẩn, đọc còn ngắc ngứ, đọc từng âm,
tiếng. Một số học sinh yếu còn phải dừng lại để đánh vần. Nhiều em chưa biết nghỉ hơi đúng
lúc, đúng chỗ. Để khắc phục tình trạng này, tôi đã dành nhiều thời gian hơn cho việc luyện
đọc. Tuy nhiên vẫn đảm bảo đủ nội dung trong một giờ Tập đọc. Dùng thời gian thích đáng
cho việc luyện đọc (ở lớp và ở nhà).
       Khi học sinh đọc tôi theo dõi để nhắc nhở học sinh ngắt nghỉ đúng dấu chấm, dấu phẩy.
Đọc rõ từng cụm từ, câu, tránh đọc kéo dài giọng.
       Đối với học sinh yếu phần luyện đọc chưa đạt yêu cầu, các em dung bút chì đánh dấu vào
sách giáo khoa, về nhà tự luyện đọc, tiết học sau tôi kiểm tra.
       Rèn kỹ năng đọc: đọc câu, đoạn hay cả bài, tôi luôn hướng dẫn các em rất tỉ mỉ. Trong
các giờ Tập đọc, tôi thường chép sẵn các đoạn văn hay thơ cần lưu ý về cách đọc. Nếu là bài
đọc thuộc long cũng cần phải chép ra bảng phụ để học sinh tri giác cụ thể, cần chép rõ rang
mới có tác dụng trực quan tốt.
      Khi dạy học thuộc long, tôi chép bài lên bảng (bảng phụ) rồi luyện đọc cho các em bằng
phương pháp xoá dần chỉ để lại từ điểm tựa. Phần này làm trực quan tốt thì các em học dễ
nhớ và thuộc bài nhanh hơn so với phương pháp để học sinh đọc ở sách giáo khoa.
 Dùng tranh ảnh, vật thật:
      Đây là phương pháp có tác dụng không khó trong việc rèn kỹ năng đọc cho học sinh.
Nhưng khi đã sử dụng tranh ảnh thì các bức tranh đó phải to, đẹp, rõ rang. Nếu không có điều
kiện phóng to, tôi sử dụng tranh ảnh minh hoạ ngay ở trong sách giáo khoa. Tuỳ từng bài để
ta có thể sử dụng trực quan cho phù hợp.
      Tôi yêu cầu học sinh khi đọc phải nhấn mạnh các từ chỉ màu, sắc, độ.
      Học sinh phải nhớ từ cần nhấn mạnh. Luyện đọc từ cần nhấn mạnh, ngay cả các em yếu
cũng đọc được.
      Sử dụng phương pháp này giúp học sinh có kỹ năng đọc và tiếp thu bài tốt, đọc diễn cảm
bài.
      Giúp học sinh dễ hiểu bài hơn và gây hứng thú cho học sinh khi đọc, nhằm khắc sâu kỹ
năng đọc và nắm nội dung bài của học sinh. Phương pháp này nhằm củng cố niềm tin vững
chắc cho học sinh.
II.3.2. Phương pháp đàm thoại:
    a. Phương pháp này phù hợp với tâm lý trẻ nhỏ, các em thích được hoạt động (hoạt động
lời nói).
     Phương pháp đàm thoại được thực hiện trên cơ sở trao đổi câu hỏi phục vụ cho nội dung
bài. Ở đây có thể thấy, giáo viên nêu câu hỏi dẫn dắt, gợi mở; trò tìm tòi, khám phá, chiếm
lĩnh kiến thức. Ngược lại, trò có thể nêu câu hỏi thắc mắc để giáo viên có thể hướng dẫn và
giải đáp.
   b. Các hình thức đàm thoại:
    - Bước 1: Rèn cho học sinh.
    Khi rèn kỹ năng đọc và hiểu cho học sinh, tôi thường chuẩn bị trước câu hỏi sao cho phù
hợp với học sinh và bài đọc. Muốn học sinh hiểu nội dung, trước hết học sinh phải có kỹ năng
đọc đó là: Đọc đúng lưu loát, trôi chảy bài đọc. Có đọc thông văn bản thì các em mới hiểu nội
dung bài và hiểu giá trị nghệ thuật của bài dẫn đến sự cảm thụ tốt và đọc diễn cảm tốt hơn.
Để đạt những yêu cầu đó, tôi thường đưa ra những câu hỏi cần sử dụng đúng lúc, đúng chỗ,
phù hợp với từng bài đọc.
Bước 2: Rèn đọc hiểu cho học sinh.
     Kết hợp với việc rèn đọc đúng, cần rèn đọc hiểu cho học sinh. Đọc hiểu ở đây có thể là từ
khoá, từ trung tâm, câu, đoạn, bài.
     Tóm lại, trong giai đoạn đổi mới phương pháp dạy học, phương pháp đàm thoại chỉ dùng
để gợi mở, dẫn dắt để học sinh hiểu và chiếm lĩnh kiến thức chứ không sử dụng trong suốt quá
trình dạy đọc mà cần phải xen kẽ những phương pháp khác để bài dạy đạt kết quả cao và học
sinh không chán.
Tác dụng của phương pháp đàm thoại:
Phương pháp đàm thoại là tạo cho học sinh phát triển giao tiếp (giao tiếp giữa cô và trò). Khi
sử dụng phương pháp này ngoài việc có tác dụng giúp học sinh tiếp thu kiến thức còn có tác
dụng kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh. Giáo viên kịp thời điều chỉnh nội dung
và phương pháp dạy học của mình cho phù hợp với đối tượng học sinh.
  II.3.3. Phương pháp luyện tập:
  a. Phương pháp luyện tập:
    Đây là phương pháp chủ yếu, thường xuyên sử dụng khi dạy học, học phân môn Tập đọc.
Với phương pháp này, tôi hướng dẫn học sinh vận dụng thực hành tốt. Dưới sự hướng dẫn của
giáo viên, học sinh rèn kỹ năng, kỹ xảo khi luyện đọc. Tôi luông hướng dẫn học sinh luyện tập
có ý thức và kiểm tra ngay kết quả luyện tập tại lớp cụ thể.
  b. Các biện pháp luyện tập:
  b.1. Luyện đọc đúng:
     Là đọc thành tiếng, yêu cầu đọc trôi chảy, lưu loát và rèn cho học sinh biết ngừng nghỉ
đúng chỗ, biết phân biệt câu thơ, dòng thơ.
     Ngoài việc rèn cho học sinh biết ngắt nghỉ đúng dấu chấm, dấu phẩy. Tôi còn hướng dẫn
học sinh biết ngắt hơi sau các dấu hai chấm, dấu chấm than, chấm lửng… (đối với bài văn
xuôi).
  b.2 Luyện đọc thầm:
    Đối với học sinh lớp 1, đọc thầm khó hơn đọc thành tiếng, do các em chưa có ý thức tập
trung cao để theo dõi bài đọc. Thường thì các em bỏ sót tiếng, dòng trong bài đọc. Tôi đã theo
dõi khi các em đọc thầm, một số em chưa có ý thức tự giác khi làm việc này. Để hướng dẫn
học sinh đọc thầm tốt, tôi yêu cầu các em làm theo hướng dẫn của tôi.
   - Yêu cầu tất cả học sinh theo dõi vào bài, đọc phải đầy đủ các tiếng trong câu (lưu ý không
đọc lướt).
   - Yêu cầu học sinh đọc thầm bằng mắt, học sinh tập bỏ dần thói quen đọc thành tiếng lầm
rầm (phát ra tiếng nhẩm nhỏ).
   - Giao câu hỏi gắn với nội dung đoạn, bài đọc.
   - Khi đọc cố gắng không dùng ngón tay hay que tính để chỉ vào từng chữ, dòng trong sách
(trừ trường hợp với những em quá yếu).
   - Kiểm tra đọc thầm của các em, tôi đã tiến hành kiểm tra bằng cách yêu cầu các em trả lời
câu hỏi nội dung của đoạn vừa đọc đến đâu.
    Nếu học sinh đọc thầm tốt thì các em đã hiểu được nội dung của đoạn đó, các em sẽ trả lời
câu hỏi được tốt hơn.
    Đối với học sinh yếu, tôi thường xuyên quan tâm hơn và giúp đỡ các em bằng cách:
   - Lưu ý hơn trong giờ Tập đọc.
   - Thường xuyên uốn nắn việc phát âm sai.
   - Giúp học sinh đọc dứt khoát hơn từng cụm từ trong câu ngắn. Với câu dài, tôi hướng dẫn
học sinh vạch nhịp bằng bút chì vào sách giáo khoa, để các em ngắt nghỉ hơi đúng chỗ.
   - Đề ra yêu cầu đọc ở nhà, có như vậy mới buộc học sinh đọc lại những từ, cụm từ, câu chưa
trôi chảy để hôm sau tôi kiểm tra xem các em đọc đã đạt yêu cầu chưa.
   - Bố trí những em khá ngồi gần để kèm cặp.
       b.3. Hình htức luyện tập ở nhà:
    Hình thức này cũng góp phần tích cực giúp học sinh đọc lại những từ, cụm từ, rèn luyện kỹ
năng đọc, tôi thường áp dụng và thực hiện như sau:
   - Với học sinh yếu: Luyện đọc từ, cụm từ, câu, cả bài.
   - Với học sinh trung bình, khá: Luyện đọc trôi chảy, lưu loát cả bài.
   - Với học sinh giỏi: Đọc diễn cảm toàn bài.
   Để đạt được mục đích trên, tôi hướng dẫn trước ở trên lớp thật tỉ mỉ, cụ thể để học sinh về
nhà luyện đọc.
   Yêu cầu kiểm tra kết quả luyện đọc theo từng cặp.
   Ngoài ra cần kết hợp giữa gia đình và giáo viên chủ nhiệm để hỗ trợ kèm cặp những em còn
đọc yếu.
    b.4. Tổ chức trò chơi Tiếng Việt:
    Có nhiều hình thức trò chơi  Tiếng Việt, tuỳ từng bài đọc để áp dụng trò chơi sao cho phù
hợp. Trong khâu rèn kỹ năng đọc nói riêng và dạy bài Tập đọc nói chung, tôi thường áp dụng
các trò chơi Tiếng Việt như:
 Thi đọc đúng các từ, cụm từ có các phụ âm hay mắc lỗi khi đọc.
 Thi đọc nối tiếp đoạn văn, câu thơ, khổ thơ trong bài đọc thuộc lòng.
 Thi tìm các từ còn thiếu trong đoạn văn, thơ.
 Đọc một câu biết cả đoạn.
     Khi chơi trò chơi, tất cả các đối tượng học sinh trong lớp đề được chơi, kể cả những học
sinh yếu cũng được chọn tham gia để các em cũng được hoà nhập và giúp các em học tập có ý
thức hơn.
II.3.4. Dạy thử nghiệm:
     Qua quá trình điều tra, nghiên cứu tìm ra những tồn tại cũng như nguyên nhân dẫn đến
tồn tại. Đề ra những biện pháp rèn kỹ năng đọc đúng cho học sinh lớp 1, tôi đã tiến hành dạy
thử nghiệm 2 tiết Tập đọc ở lớp 1 để chứng minh cho những biện pháp đề xuất của mình, tạo
kết quả cho giờ học.
 
Tập đọc lớp 1: BÀN TAY MẸ
 
A. Mục đích, yêu cầu:
  1. Học sinh đọc trơn cả bài. Chú ý phát âm đúng các từ ngữ: yêu nhất, nấu cơm, rám nắng…
Biết nghỉ hơi khi gặp dấu chấm.
  2. Ôn các vần an, at; tìm được các tiếng có vần an, vần at.
  3. - H–ểu các từ ngữ trong bài: rám nắng, xương xương.
      - Nói lại được tình cảm và ý nghĩ của bạn nhỏ khi nhìn đôi bàn tay mẹ. Hiểu tấm lòng yêu
quý, biết ơn m ẹ của bạn.
      - Trả lời được các câu hỏi theo tranh nói về sự chăm sóc của bố mẹ với em.
B. Đồ dùng dạy học:
     - Tranh minh hoạ bài đọc.
     - Bộ chữ.
C. Các hoạt động dạy học:

Hoạt động của giáo viên Hoạt động của học sinh

I. Kiểm tra bài cũ: (5’)  


- Đọc bài “Cái nhãn vở” trong Sgk và trả lời câu - 2 Hs đọc và trả lời.
 hỏi 1, 2 trong Sgk.  
- Gv nhận xét, cho điểm.  
II. Bài mới:  
1. Giới thiệu bài: (1’) Gv nêu.  
2. Hướng dẫn hs luyện đọc: (20’)  
a. Gv đọc mẫu bài văn. - Hs theo dõi.
b. Hs luyện đọc:  
*Luyện đọc tiếng, từ ngữ:  
- Luyện đọc các tiếng, từ khó: yêu nhất, nấu - Vài Hs đọc.
cơm, rám nắng, xương xương.
- Phân tích tiếng: yêu, nắng, xương.
 
- Gv giải nghĩa từ: rám nắng, xương xương.
 
* Luyện đọc câu:
- Vài hs nêu.
- Đọc từng câu trong bài.
 
- Đọc nối tiếp câu trong bài.
- Hs đọc nhẩm.
- Luyện đọc câu: Đi làm về, mẹ lại đi chợ, …, giặt
- Mỗi hs đọc 1 câu nối tiếp nhau.
một chậu tã lót đầy.
- Vài hs đọc.
* Luyện đọc đoạn bài:
 
- Luyện đọc nối tiếp đoạn.
 
- Thi đọc trước lớp cả bài.
- Vài hs đọc
- Nhận xét, tính điểm thi đua.
- Hs đọc thi nhóm 3 hs.
- Đọc đồng thanh toàn bài.
 
3. Ôn các vần an, at:  (12’)
- Hs đọc cá nhân, tập thể.
a. Tìm tiếng trong bài có vần an:
 
- Yêu cầu hs tìm nhanh.
 
- Đọc từ tìm được: bàn tay.
- Hs tìm và nêu
- Phân tích tiếng bàn.
- Vài hs đọc.
b. Tìm tiếng ngoài bài có vần an, vần at:
- 1 vài hs nêu.
- Đọc mẫu trong Sgk.
 
- Gv tổ chức cho hs thi tìm đúng, nhanh những
 
tiếng, từ có vần an, vần at.
- Hs thi đua theo tổ.
Tiết 2
 
4. Luyện đọc kết hợp tìm hiểu bài và luyện nói:
 
a. Tìm hiểu bài: (20’)
 
- Đọc câu hỏi 1.
 
- Đọc nối tiếp 2 đoạn đầu.
- 1 hs đọc.
+ Bàn tay mẹ làm những việc gì cho chị em Bình?
- 2 hs đọc.
- Đọc yêu cầu 2.
- 1 vài hs nêu.
- Luyện đọc câu văn diễn tả tình cảm của Bình với
- 1 hs đọc.
đôi bàn tay mẹ.
- Vài hs đọc.
- Thi đọc toàn bài.
 
b. Luyện nói: (10’)
- 3 hs đại diện 3 tổ đọc.
- Nhìn tranh 1 thực hành hỏi đáp theo mẫu.
 
- Thực hành hỏi đáp theo các tranh 2, 3, 4.
- 2 hs thực hiện.
- Yêu cầu hs tự hỏi đáp.
- 3 cặp hs thực hiện.
5. Củng cố, dặn dò: (5’)
- Vài cặp hs thực hành.
- Đọc lại toàn bài.
 
- Gv nhận xét giờ học.
- 1 hs đọc.
- Dặn hs về nhà luyện đọc bài, chuẩn bị bài “cái
Bống”.
 
II.3.5. Kết quả thực nghiệm:
Qua quá trình áp dụng đề tài vào dạy thực nghiệm đã thu được kết quả như sau:
Lớp 1 A: Sĩ số 27
Đọc ngọng Đọc sai p/âm Đọc sai dấu Đọc đúng Đọc diễn cảm
TSHS/27
TS % TS % TS % TS % TS %

Khảo sát cuối


2 7,5 6 22 1 3.7 17 66,8 0 0
kỳ I

Khảo sát cả
0 0 2 7,5 0 0 25 92.5 0 0
năm
 
 
 
 
 
 
 
III. PHẦN KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ:
      Ngôn ngữ là một công cụ giao tiếp đặc biệt. Con người cũng như các động vật khác
thường giao tiếp với nhau bằng tín hiệu. Trong đó có tín hiệu ngôn ngữ được thể hiện ở dạng
nói và viết.
      Để mỗi tiết học mang lại hiệu quả cao, người giáo viên phải đầu tư thời gian một cách hợp
lý nhằm lựa chọn nội dung và phương pháp dạy học cho kỹ càng, phù hợp. Đồng thời người
giáo viên phải thực sự năng động, sáng tạo, luông trăn trở tìm tòi suy nghĩ, hình thức tổ chức
dạy học, ví dụ: có nhiều tiết dạy giáo án điện tử để gây hứng thú trong học tập cho học sinh;
sao cho mọi học sinh đều có niềm say mê, hứng thú trong học tập.
      Trong quá trình dạy - học Tập đọc phải nắm vững đặc điểm tâm sinh lý của học sinh. học
sinh lớp 1, các em thích được động viên, khuyến khích, thích được chiều chuộng, gần gũi. Để
thực hiện mỗi tiết dạy, giáo viên cần hiểu thật rõ, nắm vững nội dung, yêu cầu của từng tiết,
toàn bài phải đọc giọng điệu chung như thế nào, tốc độ, cường độ, chỗ nào phải nhấn giọng,
hạ giọng, từ nào, câu nào học sinh hay đọc sai, đọc lẫn… để giờ dạy có hiệu quả.
     Nắm chắc đặc trưng của phân môn Tập đọc 1, trong giờ học, tôi phân bố thời gian theo
trình tự giáo án nhưng chú trọng các yếu tố.
      Đọc mẫu của giáo viên: Đọc mẫu nhằm giới thiệu, tạo hứng thú và tâm thế học tập.
      Nếu giáo viên đọc mẫu cho học sinh tốt cũng đã dạy cho học sinh được rất nhiều. Đọc câu,
đoạn nhằm minh họa, hướng dẫn, gợi ý giúp học sinh tự tìm cách đọc. 
      Trong chương trình Tiếng Việt mới, phân môn Tập đọc có nhiệm vụ rõ ràng hơn, đó là rèn
luyện cho học sinh các kỹ năng đọc, nghe và nói. Đọc là quá trình tiếp nhận thông tin; do đó
các kỹ năng đọc, nghe và nói có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Sự tạo thành các kỹ năng này
giúp học sinh đạt kết quả cao trong giao tiếp. Sách giáo khoa Tiếng Việt mới thể hiện rõ quan
điểm giao tiếp qua việc lựa chọn hệ thống ngữ điệu cho dạy học.
      Qua quá trình tìm hiểu công việc học tập của học sinh và công tác giảng dạy của giáo viên
đối với phân môn Tập đọc trong trường tiểu học, đồng thời thông qua chất lượng kiểm tra cuối
năm, tôi thấy lớp 1A có nhiều tiến bộ. Song kết quả đạt được chưa hẳn là cao, bởi sự tìm tòi
sáng tạo trong chuyên môn còn hạn chế. Vì vậy kết quả đạt được chưa được như mong muốn.
Dạy Tập đọc quả là một vấn đề không đơn giản chút nào, nên muốn có kết quả cao thì cả thầy
lẫn trò đều phải cố gắng, phải kiên trì trong quá trình rèn đọc. Muốn vậy giáo viên phải luôn
luôn cố gắng đọc đúng, đọc chuẩn, diễn cảm.
      Ngoài ra còn phải nêu cao tinh thần trách nhiệm của người giáo viên, luôn cải tiến phương
pháp soạn giảng, sửa lỗi kịp thời cho từng học sinh.
      Qua thực tế, tôi thấy mình cần cố gắng rèn luyện, học tập nghiên cứu tài liệu, sách báo,
học hỏi những đồng nghiệp giàu kinh nghiệm giảng dạy.
      Tôi tự rút ra bài học cho mình: Muốn đạt được mục đích mà mình mong muốn thì bản thân
phải có niềm tin, niềm say mê thực sự, luôn kiên trì, nhẫn nại, rèn luyện không ngừng. Chính
niềm say mê ấy sẽ giúp ta có them sức mạnh to lớn, cuốn hút ta đi vào tìm tòi sáng tạo.
       Do điều kiện khả năng có hạn, đề tài còn nhiều thiếu sót, có những vấn đề chưa thể đề
cập đến. Mặc dù bản thân tôi đẫ hết sức cố gắng; rất mong được sự giúp đỡ, góp ý,bổ xung
của đồng nghiệp, đặc biệt tổ chuyên môn Phòng giáo dục - đào tạo huyện Đông Triều đã giúp
đỡ tôi hoàn thành đề tài này.
 
An Sinh, ngày 15 tháng 5 năm 2010
                                                                       Người viết
 
 
 
                                                                            Nguyễn Thị Thậm
 
 
 
 
 
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO - PHỤ LỤC:
                                                                                            Trang
I. Phần mở đầu                                                                                                 1
I.1. Lý do chọn đề tài                                                                                         1
I.2. Mục đích nghiên cứu                                                                                   4
I.3. Thời gian, địa điểm                                                                                      4
I.4. Đóng góp mới về mặt lý luận, về mặt thực tiễn                                           6
II. Phần nội dung                                                                                              8
II.1. Chương I: Tổng quan                                                                                  8
II.2. Chương II: Nội dung vấn đề nghiên cứu                                                    8
II.2.1. Các thành tựu đã đạt được trong thời gian qua                                        8
II.2.2. Nghiên cứu chương trình sách giáo khoa                                                9
II.2.3. Những vấn đề thực tiễn                                                                           11
II.3.Chương III: Phương pháp nghiên cứu - kết quả nghiên cứu                       24
II.3.1. Phương pháp trực quan                                                                           15
II.3.2. Phương pháp đàm thoại                                                                           17
II.3.3. Phương pháp luyện tập                                                                            18
II.3.4. Dạy thử nghiệm                                                                                       20     
II.3.5. Kết quả thực nghiệm                                                                                22
III. Phần kết luận - kiến nghị                                                                          23
 
 
 
 
 
 
 
 
V. NHẬN XÉT CỦA BGH NHÀ TRƯỜNG, PHÒNG GD&ĐT:
………………………………………………………………………………………………

You might also like