You are on page 1of 7

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc


Khoa: Giáo dục Tiểu học
Thái Nguyên, ngày 30 tháng 12 năm 2022

BỘ CÂU HỎI DẠY TRỰC TUYẾN


Học phần: PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TIẾNG VIỆT 1
A. BẢNG SỐ LƯỢNG CÂU HỎI THƯỜNG GẶP
Nội dung Số câu hỏi
Chương 1: Một số vấn đề chung về dạy học môn Tiếng Việt ở tiểu học 10
Tổng 10

B. CÂU HỎI CỤ THỂ


1. Chương trình môn Tiếng Việt ở tiểu học được cấu trúc thành mấy giai đoạn?
Anh (chị) hãy nêu nội dung và yêu cầu của mỗi giai đoạn đó.
Trả lời
- Chương trình môn Tiếng Việt ở tiểu học được cấu trúc thành 2 giai đoạn.
+ Giai đoạn 1 (các lớp 1,2,3)
Nội dung dạy học giai đoạn này có nhiệm vụ: hình thành những cơ sở ban đầu cho
việc học đọc, học viết; định hướng cho việc học nghe, học nói trên cơ sở vốn tiếng Việt
mà trẻ em đã có.
Yêu cầu cơ bản với học sinh ở giai đoạn này là đọc thông thạo và hiểu đúng một văn
bản ngắn; viết rõ ràng, đúng chính tả; nghe chủ động; nói chủ động, rành mạch.
+ Giai đoạn 2 (các lớp 4,5)
Nội dung chương trình giai đoạn này nhằm phát triển các kĩ năng nghe, nói, đọc,
viết lên một mức độ cao hơn, hoàn thiện hơn, trong đó yêu cầu viết hoàn chỉnh một số
văn bản, yêu cầu đọc – hiểu được đặc biệt coi trọng.

1
2. Dạy học tiếng Việt theo quan điểm giao tiếp được thể hiện về mặt phương pháp
dạy học như thế nào?.
Trả lời
- Dạy học theo quan điểm giao tiếp ưu tiên áp dụng các phương pháp dạy học,
hình thức dạy học tạo điều kiện phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh.Vì vậy, khi
dạy học tiếng Việt cần tạo điều kiện cho học sinh tham gia vào các hoạt động xã hội, lựa
chọn các phương pháp dạy học, hình thức dạy học xuất hiện môi trường giao tiếp để ở
đó cho học sinh áp dụng những tri thức, kĩ năng phát triển năng lực giao tiếp. Ngoài ra,
còn phải đảm bảo cho học sinh quan sát và phân tích tiếng Việt trong giao tiếp (khi đang
tiến hành hoạt động giao tiếp).
- Ưu tiên lựa chọn các phương pháp dạy học mà các phương pháp đó tạo điều
kiện thuận lợi nhất cho học sinh tiến hành giao tiếp, tạo tình huống giao tiếp để học sinh
quan sát, phân tích và học sinh được giao tiếp với nhau.
3. Nêu tên các loại hoạt động trong một bài học của môn Tiếng Việt thể hiện trong
sách giáo khoa Tiếng Việt chương trình 2018?
Trả lời:
- Hoạt động khởi động trong môn Tiếng Việt là hoạt động HS được định hướng
sự chú ý vào vấn đề mới của bài học dựa trên những kinh nghiệm, hiểu biết của chính
các em. Đây là hoạt động HS bắt đầu học bài mới dựa trên những điều các em đã biết.
- Hoạt động khám phá trong môn Tiếng Việt là hoạt động HS nhận biết, hiểu
những kiến thức mới về tiếng Việt.
- Hoạt động luyện tập trong môn Tiếng Việt là hoạt động HS thực hiện từng phần
của kiến thức hoặc kĩ năng mới để giải quyết một vấn đề đơn giản gần với vấn đề đã
học.
- Hoạt động vận dụng trong môn Tiếng Việt là hoạt động HS sử dụng tổng hợp
những kiến thức kĩ năng mới trong bài và kiến thức, kĩ năng đã học trước đó để thực
hiện giải quyết một vấn đề có trong cuộc sống, trong học tập của HS.

2
4. Nêu tác dụng của kênh hình đối với hoạt động dạy học Tiếng Việt ở tiểu học?
Trả lời:
- Chương trình môn Ngữ văn 2018 xác định nội dung hình thành, phát triển năng
lực giao tiếp cho HS rộng hơn, bao gồm giao tiếp bằng các phương tiện ngôn ngữ và
phương tiện phi ngôn ngữ Theo quan niệm này, môn Ngữ văn nói chung và Tiếng Việt
nói riêng không chỉ dạy HS đọc, viết, nói và nghe các văn bản ngôn ngữ mà còn có
nhiệm vụ hướng dẫn các em hiểu và biết cách tạo lập các văn bản đa phương thức
(multimedia text), tức là những văn bản có sự phối hợp giữa phương tiện ngôn ngữ với
các phương tiện khác như kí hiệu, sơ đồ, biểu đồ, hình ảnh, âm thanh, cử chỉ, hành vi,...
- Chương trình Tiếng Việt tiểu học đã xác định “thông tin bằng hình ảnh (phương
tiện giao tiếp phi ngôn ngữ)” là một kiến thức tiếng Việt cần được học.
5. SGK Tiếng Việt tiểu học thực hiện yêu cầu của Chương trình GDPT phát triển
năng lực ngôn ngữ cho HS như thế nào?
Trả lời:
- Chú trọng phát triển toàn diện các kĩ năng đọc, viết, nghe, nói cho HS, lựa chọn
các giải pháp sư phạm hợp lí về thứ tự dạy các chữ cái, các vần; cách đánh vần; cách
dạy chữ hoa,... nhằm giúp HS học đọc, học viết một cách thuận lợi, hiệu quả nhất.
- Dạy đọc - hiểu trong môn Tiếng Việt là dạy kỹ năng tiếp nhận văn bản.
- Về kĩ năng viết, từ lớp 1 đến lớp 3, viết đúng chính tả, từ vựng, ngữ pháp; viết
được một số câu, đoạn văn ngắn; ở lớp 4 và lớp 5 bước đầu viết được bài văn ngắn hoàn
chỉnh, chủ yếu là bài văn kể, tả và bài giới thiệu đơn giản. Viết được văn bản theo nhiều
kiểu dạng khác nhau theo quy trình; bài viết cần có đủ ba phần (mở bài, thân bài, kết
bài).
- Việc phát triển các kĩ năng nghe, nói được thực hiện thông qua các tiết Kể
chuyện hoặc hoạt động Nói - nghe theo chủ điểm, bước đầu yêu cầu HS biết sử dụng cử
chỉ, điệu bộ thích hợp khi nói; kể lại được một cách rõ ràng câu chuyện đã đọc, đã nghe;

3
biết chia sẻ, trao đổi những cảm xúc, thái độ, suy nghĩ của mình đối với những vấn đề
được nói đến; biết thuyết minh về một đối tượng hay quy trình đơn giản.
6. Chọn một chủ điểm trong sách giáo khoa Tiếng Việt tiểu học, đánh giá mối quan
hệ giữa các phân môn trong chủ điểm đó theo nguyên tắc tích hợp đồng quy.
Trả lời:
Theo nguyên tắc tích hợp ngang các phân môn trong một đơn vị học đều phục vụ
cho chủ điểm, nhưng do đặc trưng của mình, mỗi phân môn có cách thể hiện riêng.
-Tập đọc là nội dung thể hiện chủ điểm trực tiếp nhất. Các bài tập đọc, dù là thơ
hay truyện kể, văn bản miêu tả hay văn bản khoa học, văn bản hành chính hay thư
từ...đều có nội dung phù hợp với chủ điểm trong tuần. Các câu hỏi tìm hiểu bài cũng
nhằm vào những vấn đề liên quan làm cho HS hiểu chủ điểm sâu hơn, chắc hơn.
- Nội dung Kể chuyện: cả ba nội dung luyện tập (kể chuyện được nghe thầy cô kể
trên lớp, kể chuyện em đã được chứng kiến hoặc tham gia, kể chuyện đã nghe, đã đọc
ngoài giờ học) đều yêu cầu HS kể lại những câu chuyện phù hợp với chủ điểm.
- Nội dung viết taọ lập VB: cũng là phân môn thể hiện rõ yêu cầu tích hợp. Các
ngữ liệu trong các tiết Tập làm văn vừa hình thành vừa củng cố khái niệm kể chuyện
cho HS vừa giúp các em hiểu thêm về chủ đề của chủ điểm.
- Trong nội dung Luyện từ và câu, phần trực tiếp thể hiện chủ điểm là Mở rộng
vốn từ. Ở phần này, HS được hướng dẫn để cùng nhau tìm những từ theo mẫu trong
SGK, sắp xếp chúng theo hệ thống nhất định hoặc giải nghĩa chúng. Các từ đều là những
từ thể hiện chủ điểm đang học. Ở các phần khác, trong những điều kiện có thể, SGK sử
dụng ngữ liệu trích từ bài tập đọc hoặc ngữ liệu có liên quan đến chủ điểm đang học.
- Hoạt động viết đều được trích hoặc tóm tắt từ bài tập đọc mới học, trong trường
hợp chọn ngữ liệu mới thì ngữ liệu ấy cũng có nội dung phù hợp với chủ điểm của tuần.
Ngay các bài tập điền chữ, điền từ hay tìm tiếng có âm, vần cho trước nhiều khi cũng
góp phần làm rõ thêm cho chủ điểm…
Câu 7. Phân tích các quan điểm xây dựng chương trình môn tiếng Việt ở tiểu học?.

4
Trả lời:
- Chương trình được xây dựng trên nền tảng lí luận và thực tiễn, cập nhật thành
tựu nghiên cứu về giáo dục học, tâm lí học và phương pháp dạy học Ngữ văn; thành tựu
nghiên cứu về văn học và ngôn ngữ học; thành tựu văn học Việt Nam qua
các thời kì; kinh nghiệm xây dựng chương trình môn Ngữ văn của Việt Nam, đặc biệt
từ đầu thế kỉ XXI đến nay và xu thế quốc tế trong phát triển chương trình nói chung,
chương trình môn Ngữ văn nói riêng những năm gần đây, nhất là chương
trình của những quốc gia phát triển; thực tiễn xã hội, giáo dục, điều kiện kinh tế và
truyền thống văn hoá Việt Nam, đặc biệt là sự đa dạng của đối tượng học sinh xét về
phương diện vùng miền, điều kiện và khả năng học tập.
- Chương trình lấy việc rèn luyện các kĩ năng giao tiếp (đọc, viết, nói và nghe)
làm trục chính xuyên suốt cả ba cấp học nhằm đáp ứng yêu cầu của chương trình theo
định hướng năng lực và bảo đảm tính chỉnh thể, sự nhất quán liên tục trong tất cả các
cấp học, lớp học. Các kiến thức phổ thông cơ bản, nền tảng về tiếng Việt và văn học
được hình thành qua hoạt động dạy học tiếp nhận và tạo lập văn bản; phục vụ trực tiếp
cho yêu cầu rèn luyện các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe.
- Chương trình được xây dựng theo hướng mở, thể hiện ở việc không quy định
chi tiết về nội dung dạy học mà chỉ quy định những yêu cầu cần đạt về đọc, viết, nói và
nghe cho mỗi lớp; quy định một số kiến thức cơ bản, cốt lõi về tiếng Việt, văn học và
một số văn bản có vị trí, ý nghĩa quan trọng của văn học dân tộc là nội dung thống nhất
bắt buộc đối với học sinh toàn quốc.
- Chương trình vừa đáp ứng yêu cầu đổi mới, vừa chú trọng kế thừa và phát huy
những ưu điểm của các chương trình môn Ngữ văn đã có, đặc biệt là chương trình hiện
hành.
Câu 8. Phân tích những điểm mới của chương trình và SGK Tiếng Việt 2018.
Trả lời:
- Hợp (hay tổng) của hai biến cố: Cho A và B là hai biến cố của một phép thử.

5
Hợp của hai biến cố A và B là một biến cố, xuất hiện khi có ít nhất một trong hai biến
cố A hoặc B xuất hiện.
- Giao (hay tích) của hai biến cố: Cho A và B là hai biến cố của một phép thử. Giao
(hay tích) của hai biến cố A và B là biến cố, xuất hiện khi đồng thời cả hai biến cố A và
B cùng xuất hiện.
- Hiệu của hai biến cố: Cho A và B là hai biến cố của một phép thử. Hiệu của
biến cố A đối với biến cố B là một biến cố, xuất hiện khi biến cố A xuất hiện còn biến
cố B không xuất hiện.
Câu 9. Quan điểm tích hợp được thể hiện ở những phương diện nào?
Trả lời:
Quan điểm tích hợp trong dạy học Tiếng Việt được thể hiện ở hai yêu cầu: tích
hợp ngang (đồng quy) và tích hợp dọc (đồng tâm). Theo yêu cầu tích hợp ngang, sách
giáo khoa tích hợp kiến thức tiếng Việt với các mảng kiến thức về văn học, thiên nhiên,
con người và xã hội theo nguyên tắc đồng quy. Hướng tích hợp này được thực hiện
thông qua hệ thống các chủ điểm học tập.
Theo quan điểm tích hợp, các nhiệm vụ cung cấp kiến thức và rèn luyện kĩ năng
gắn bó chặt chẽ với nhau. Các kĩ năng đọc (đọc kĩ thuật, đọc hiểu); viết (viết kĩ thuật,
viết câu, đoạn); nói và nghe cũng được gắn bó chặt chẽ được tập hợp lại xung quanh
trục chủ điểm và các bài học.
Đồng thời ở một đơn vị kiến thức và kĩ năng mới cũng tích hợp những kiến thức
và kĩ năng đã học trước đó theo nguyên tắc đồng tâm gọi là tích hợp dọc: Kiến thức và
kĩ năng của lớp trên bao hàm kiến thức và kĩ năng của lớp dưới nhưng cao hơn, sâu hơn.
Theo yêu cầu tích hợp dọc này, chương trình, SGK toàn cấp học được bố trí thành hai
vòng: Vòng 1 (lớp 1, 2, 3) tập trung hình thành ở học sinh các kĩ năng đọc, viết và phát
triển các kĩ năng nghe, nói với những yêu cầu cơ bản; Vòng 2 (lớp 4, 5) cung cấp cho
HS một số kiến thức sơ giản về tiếng Việt để phát triển các kĩ năng đọc, viết, nói - nghe
ở mức độ cao hơn...

6
Câu 10. Những định hướng của đổi mới phương pháp dạy học.
Trả lời:
- Đổi mới phương pháp theo hướng phát huy cao độ tính tích cực chủ động sáng
tạo của HS trong quá trình lĩnh hội tri thức.
- Đổi mới phương pháp theo hướng kết hợp một cách nhuần nhuyễn và sáng tạo
PPDH truyền thống và hiện đại.
- Đổi mới phương pháp theo hướng phát triển khả năng tự học của học sinh.
- Đổi mới phương pháp theo hướng kết hợp hoạt động cá nhân với hoạt động
nhóm và phát huy khả năng cá nhân.
- Đổi mới phương pháp theo hướng tăng cường kĩ năng thực hành.
- Đổi mới phương pháp theo hướng đổi mới cả phương pháp kiểm tra và đánh giá
kết quả học tập của HS.
GIẢNG VIÊN

TS. Đặng Thị Lệ Tâm

You might also like