Professional Documents
Culture Documents
II. Phân tích nội dung các phương pháp dạy học tiếng Việt thường được dùng ở
Tiểu học"
• Phương pháp phân tích ngôn ngữ là phương pháp nghiên cứu, tìm hiểu bản
chất của các đơn vị ngôn ngữ, hiện tượng ngôn ngữ thông qua phân tích, so sánh, đối
chiếu. Phương pháp này được sử dụng trong tất cả các phân môn tiếng Việt ở Tiểu
học, nhằm giúp học sinh hiểu rõ cấu trúc, cách thức cấu tạo, ý nghĩa của các đơn vị
ngôn ngữ và hiện tượng ngôn ngữ.
• Phương pháp luyện theo mẫu là phương pháp học sinh tạo ra các đơn vị ngôn
ngữ, lời nói bằng cách mô phỏng lời nói của người khác, của văn bản mẫu. Phương
pháp này được sử dụng trong nhiều phân môn tiếng Việt ở Tiểu học, nhằm giúp học
sinh nắm vững cách sử dụng các đơn vị ngôn ngữ, hiện tượng ngôn ngữ đã học.
• Phương pháp giao tiếp là phương pháp dạy học dựa trên hoạt động giao tiếp
bằng ngôn ngữ. Phương pháp này được sử dụng trong các phân môn tiếng Việt ở Tiểu
học, nhằm giúp học sinh phát triển các kĩ năng giao tiếp bằng ngôn ngữ.
Trong thực tế dạy học, các phương pháp này thường được sử dụng phối hợp chặt chẽ
với nhau, tùy thuộc vào mục tiêu, nội dung, đối tượng học sinh và điều kiện dạy học
cụ thể
Tuần: 2
Lớp: 1
Mục tiêu:
● Nhận biết và đọc đúng tiếng "b".
● Nghe và hiểu câu chuyện "Cái bống".
● Trả lời câu hỏi về nội dung câu chuyện.
Hoạt động:
Mối quan hệ giữa các đối tượng của phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu
học khi lấy HS làm trung tâm:
● Giáo viên:
Giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn các hoạt động học tập của học sinh. Giáo
viên cần nắm vững nội dung bài học, phương pháp dạy học, đặc điểm tâm sinh lý
của học sinh tiểu học để lựa chọn và sử dụng phương pháp dạy học phù hợp, phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
Trong ví dụ trên, giáo viên đã thực hiện tốt vai trò của mình khi:
Học sinh là chủ thể của hoạt động học tập. Học sinh cần tích cực, chủ động, sáng
tạo trong học tập, tự lực tìm tòi, khám phá kiến thức.
Trong ví dụ trên, học sinh đã thể hiện tính tích cực, chủ động, sáng tạo của mình
khi:
Nội dung bài học cần phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh tiểu học, gắn
liền với thực tiễn cuộc sống.
=> Qua ví dụ trên, có thể thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa các đối tượng của phương
pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học khi lấy HS làm trung tâm. Học sinh là trung tâm
của hoạt động dạy học, giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn, đánh giá hoạt động học
tập của học sinh. Nội dung bài học là nguồn tri thức mà học sinh cần tiếp thu. Các đối
tượng này có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, nhằm đạt được mục tiêu dạy học.
Để phát huy mối quan hệ này, giáo viên cần nắm vững đặc điểm tâm sinh lý học sinh
tiểu học, đặc điểm của bài học và lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức dạy học
phù hợp.
Khi lấy học sinh làm trung tâm, mối quan hệ giữa các đối tượng của PPDHTV được
thể hiện như sau:
- Môn học là nền tảng để tổ chức hoạt động dạy và học, định hướng cho
hoạt động dạy của giáo viên. Nội dung môn học là đối tượng mà học sinh cần
chiếm lĩnh, là cơ sở để giáo viên tổ chức các hoạt động học cho học sinh.
- Hoạt động dạy của giáo viên là nhằm giúp học sinh học tập tích cực, chủ
động chiếm lĩnh nội dung môn học. Giáo viên cần lựa chọn các phương pháp,
hình thức dạy học phù hợp để phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của
học sinh trong quá trình học tập.
- Hoạt động học của học sinh là trung tâm của quá trình dạy học. Học sinh
là chủ thể của quá trình học tập, là người trực tiếp chiếm lĩnh nội dung môn
học. Giáo viên chỉ đóng vai trò là người hướng dẫn, tổ chức, điều khiển hoạt
động học của học sinh.
Câu 2: Phân tích nguyên tắc sư phạm trong việc xây dựng yêu cầu cần đạt về
năng lực chung và năng lực văn học ở tiểu học trong chương trình GDPT môn
Ngữ văn (môn tiếng Việt ở tiểu học) năm 2018.
Phân tích nguyên tắc sư phạm trong xây dựng CT TV TH (Phần 2 mục 2.2 trang
47 sách giáo trình)
Nguyên tắc sp đòi hỏi chương trình môn học phải thống nhất với những mục tiêu giáo
dục chung (VD trong CTGDPT 2018)
Nguyên tắc sư phạm đòi hỏi chương trình môn học phải thống nhất với mục tiêu
giáo dục chung, đích cuối cùng là hình thành cho HS những phẩm chất tốt đẹp của
người lao động mới. Chương trình Tiếng Việt, các ngữ liệu, nội dung văn bản lựa
chọn phải hướng tới giáo dục và hình thành nhân cách cho HS.
Ví dụ: Mục tiêu cấp tiểu học giúp HS hình thành và phát triển phẩm chất vs biểu
hiện: yêu thiên nhiên, gia đình quê hương. Trong TV 2, xây dựng các chủ đề nhằm
giúp hs hình thành các biểu hiện đó vd thông qua chủ đề mái ấm yêu thương, gồm các
ngữ liệu về gia đình giúp các e hth và pt biểu hiện yêu gia đình
NTSP đòi hỏi CTT tuân thủ tính vừa sức và tạo sức
- Tâm lí học khẳng định mỗi độ tuổi, học sinh chỉ có thể nhận thức được hoặc làm
được một số việc nhất định. Nếu vượt quá ngưỡng nhận thức của một độ tuổi nào đó
thì hiệu quả dạy học không cao.
- Dạy học vừa sức có nghĩa là trong dạy học phải tạo nên khó khăn vừa sức, những
yêu cầu và nhiệm vụ học tập đề ra phải tương ứng với giới hạn cao nhất của vùng
phát triển trí tuệ gần nhất.
Ví dụ: Lớp 1 yêu cầu HS đọc 40-60 tiếng/1p. Lớp 2 60-70 tiếng/1p
CT được xây dựng theo hướng mở, chỉ dẫn phạm vi ngữ liệu hướng tới mục tiêu GD
chung.
+ Chương trình tiếng việt tiểu học được xây dựng theo hướng mở, chỉ dẫn phạm
vi ngữ liệu hướng tới mục tiêu GD chung. CT TV không giới hạn ngữ liệu, các
bộ sách đc tự do sd ngữ liệu miễn có thể đáp ứng đc mục tiêu GD chung
+ VD ba bộ sách KNTT, CTST, CD thì ngữ liệu đều khác nhau
Sau đó ptich theo ct 2018
Câu 3: Phân tích tác động của quan niệm: “Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp
quan trọng nhất của loài người” (Lê-nin) đối với việc dạy học Tiếng Việt ở tiểu
học. Giải thích tác động của nguyên tắc gắn lí thuyết với thực hành trong Giáo
dục học đối với việc dạy học Tiếng Việt ở tiểu học
- Ý 1: “Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của loài người”
(Lênin).
+ Luận điểm khẳng định ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất và là
phương tiện giao tiếp đặc trưng của loài người. Không có ngôn ngữ, xã hội không thể
tồn tại.
Ví dụ cho thảo, trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp
với nhau trong gia đình, trong công việc, trong học tập,... Nhờ có ngôn ngữ, chúng ta
có thể chia sẻ những suy nghĩ, cảm xúc của mình với người khác, xây dựng các mối
quan hệ xã hội, hợp tác trong công việc, học tập.
Ví dụ cho Vĩnh, các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, lịch sử,... là những sản
phẩm của ngôn ngữ, đã góp phần lưu giữ và truyền đạt tri thức, văn hóa của nhân loại
từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Ví dụ cho Quỳnh, trong học tập, chúng ta sử dụng ngôn ngữ để trao đổi, thảo luận,
thuyết trình,... Nhờ đó, chúng ta có thể phát triển tư duy, sáng tạo, hiểu sâu sắc hơn
các vấn đề.
+ Lý giải
- Mục đích nghiên cứu ngôn ngữ trong nhà trường là phải giúp HS có thể sử
dụng ngôn ngữ làm phương tiện sắc bén để giao tiếp.
- Phát triển lời nói là nhiệm vụ quan trọng nhất của việc dạy học tiếng trong nhà
trường. Tất cả các giờ dạy Tiếng Việt, cả dạy đọc, viết, cả nghiên cứu ngữ pháp,
từ ngữ… phải đi theo khuynh hướng này. HS phải ý thức được chức năng của
ngôn ngữ, nắm vững các phương tiện, kết cấu và quy luật cũng như hoạt động
hành chức của nó. HS cần hiểu rõ người ta nói và viết không phải chỉ để cho
mình mà còn cho người khác, do đó ngôn ngữ cần chính xác, rõ ràng, đúng đắn,
dễ hiểu.
- Đồng thời, vì ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp nên phải lấy hoạt động giao tiếp
làm phương tiện để dạy và học Tiếng Việt.
Ví dụ:
Ví dụ cho Thảo:
Trong bài học "Bài ca Côn Sơn" (Tiếng Việt 4), học sinh được học về bài thơ của
Nguyễn Trãi. Bài thơ ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên Côn Sơn và tâm hồn yêu nước,
yêu thiên nhiên của nhà thơ.
Để hiểu được bài thơ, học sinh cần sử dụng ngôn ngữ để đọc hiểu, phân tích, tổng
hợp,... Từ đó, học sinh sẽ hiểu được ý nghĩa của bài thơ, cảm nhận được vẻ đẹp của
thiên nhiên Côn Sơn và tình yêu nước, yêu thiên nhiên của nhà thơ.
Ví dụ cho Vĩnh:
Trong bài học "Viết đoạn văn kể về một người thân" (Tiếng Việt 5), học sinh được
yêu cầu viết một đoạn văn kể về một người thân của mình.
Để viết được đoạn văn hay, học sinh cần sử dụng ngôn ngữ để diễn đạt suy nghĩ, cảm
xúc của mình về người thân đó. Từ đó, học sinh sẽ thể hiện được tình cảm của mình
đối với người thân, đồng thời rèn luyện được kỹ năng viết đoạn văn.
Ví dụ cho Q:
Trong bài học "Luyện tập cách viết đoạn văn tả cảnh" (Tiếng Việt 6), học sinh được
yêu cầu viết một đoạn văn tả cảnh một buổi sáng mùa xuân.
Để viết được đoạn văn hay, học sinh cần sử dụng ngôn ngữ để quan sát, miêu tả cảnh
vật một buổi sáng mùa xuân. Từ đó, học sinh sẽ thể hiện được cảm nhận của mình về
vẻ đẹp của mùa xuân, đồng thời rèn luyện được kỹ năng viết đoạn văn tả cảnh.
- Ý 2: Giải thích tác động của nguyên tắc gắn lí thuyết với thực hành trong
Giáo dục học đối với việc dạy TV ở tiểu học
Nguyên tắc gắn lí thuyết với thực hành trong Giáo dục học đã tác động tích cực
đến việc dạy học Tiếng Việt ở tiểu học.
Nguyên tắc gắn lí thuyết với thực hành đòi hỏi 1 hoạt động lời nói thường xuyên, biểu
hiện ý nghĩ bằng lời nói, viết cùng với việc thường xuyên vận dụng kiến thức lý thuyết
vào bài tập.
Cụ thể, nguyên tắc này đã:
- Giúp học sinh hiểu rõ và vận dụng hiệu quả các kiến thức, kĩ năng Tiếng
Việt trong thực tế.
Khi học sinh được học Tiếng Việt gắn liền với thực tiễn, các em sẽ hiểu rõ hơn về ý
nghĩa và cách sử dụng các kiến thức, kĩ năng Tiếng Việt trong cuộc sống hàng ngày.
Từ đó, các em có thể vận dụng hiệu quả các kiến thức, kĩ năng này vào thực tế, phục
vụ nhu cầu giao tiếp của mình.
- Giúp học sinh hứng thú và tích cực trong học tập.
Việc học Tiếng Việt gắn liền với thực tiễn sẽ giúp học sinh thấy được tính thiết thực
của môn học, từ đó các em sẽ hứng thú và tích cực hơn trong học tập.
- Giúp học sinh phát triển năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo.
Thực hành là cơ hội để học sinh vận dụng những tri thức, kĩ năng, năng lực đã được
học vào giải quyết các vấn đề thực tiễn. Khi học sinh được tham gia vào các hoạt động
thực hành, học sinh sẽ có cơ hội rèn luyện năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo.
- Giúp học sinh phát triển các phẩm chất và năng lực cần thiết.
Các hoạt động thực hành có thể giúp học sinh phát triển các phẩm chất và năng lực
cần thiết, chẳng hạn như: năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác,
năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo,...
- Một số giải pháp cụ thể để thực hiện nguyên tắc gắn lí thuyết với thực hành
trong việc dạy học Tiếng Việt ở tiểu học: Để thực hiện nguyên tắc gắn lí thuyết
với thực hành trong việc dạy học Tiếng Việt ở tiểu học, cần thực hiện một số
giải pháp cụ thể sau:
+ Lựa chọn nội dung dạy học phù hợp với thực tế.
Nội dung dạy học Tiếng Việt ở tiểu học cần được lựa chọn sao cho phù hợp với thực
tế cuộc sống của học sinh. Ví dụ, khi dạy về chủ đề “Thế giới động vật”, giáo viên có
thể tổ chức cho học sinh tham quan vườn thú hoặc xem các chương trình về thế giới
động vật trên truyền hình.
+ Sử dụng các phương pháp dạy học tích cực.
Các phương pháp dạy học tích cực sẽ giúp học sinh chủ động, tích cực tham gia vào
các hoạt động học tập, từ đó các em có thể vận dụng kiến thức, kĩ năng Tiếng Việt vào
thực tế. Ví dụ, khi dạy về chủ đề “Thơ”, giáo viên có thể tổ chức cho học sinh đóng
kịch, đọc thơ theo nhóm.
+ Tạo cơ hội cho học sinh thực hành.
Giáo viên cần tạo cơ hội cho học sinh thực hành các kiến thức, kĩ năng Tiếng Việt đã
học. Ví dụ, khi dạy về chủ đề “Văn kể chuyện”, giáo viên có thể tổ chức cho học sinh
kể chuyện cho bạn bè nghe.
Ví dụ:
- Để dạy 1 tiết nghe nói ( gắn lí thuyết vs TH), giáo viên có thể đưa ra đoạn
phim, tình huống minh họa → HS xđ mẫu phù hợp → HS thực hành, HS sử
dụng ngoài xã hội như thế nào.
- Khi gặp 1 ng lớn tuổi => “chào” máy móc => thiếu lịch sự → Khó khăn nếu ko
gắn lí thuyết vs TH → giờ học ko đạt mục tiêu và yccđ
Câu 4. Phân tích nguyên tắc sư phạm trong việc xây dựng yêu cầu cần đạt về kĩ
năng Nghe, Nói, Đọc, Viết trong chương trình GDPT môn Ngữ văn (môn tiếng
Việt ở tiểu học) năm 2018.
Form trình bày bài thi:
- Viết lí thuyết:
- Phân tích YCCD về một trong các kĩ năng : nghe, nói, đọc viết
Ví dụ: Về kĩ năng đọc.
- Kĩ thuật đọc có sự nâng cao dần ở các khối lớp. Phù hợp với các đối tượng:
những người bản địa, cả những người nước ngoài.
ngữ liệu đọc có sự mở rộng hơn.
- Chương trình được xây dựng theo hướng mở, giáo viên có thể lấy ngữ liệu bên
ngoài để đáp ứng được yccd về sự phát triển kỹ năng của học sinh.
- Trong bài thi, Chỉ cần lấy ví dụ về tính vừa sức: lớp 1 (biết, nhìn thấy đó là văn
bản) -> lớp 2( đặt ra câu hỏi về văn bản) => có sự thay đổi trong yccd về kỹ
năng viết.
● Tách ra, làm các kỹ năng khác tương tự kỹ năng Đọc.
● Nguyên tắc sư phạm trong việc xây dựng chương trình môn Tiếng Việt
- Đảm bảo tính chuẩn mực: Chương trình môn học phải thống nhất với mục tiêu
giáo dục chung, đích cuối cùng là hình thành cho HS những phẩm chất tốt đẹp
của người lao động mới.
- Đảm bảo tính vừa sức: chương trình phải phù hợp với tâm lý nhận thức của HS
tiểu học.
- Đảm bảo tính tạo sức: CT được xây dựng theo hướng mở, chỉ dẫn phạm vi ngữ
liệu cần lựa chọn để dạy học hướng tới mục tiêu giáo dục chung.
● Phân tích yêu cầu cần đạt về kĩ năng Đọc, Viết, Nói và Nghe ở tiểu học
trong CTGDPT 2018 đã đáp ứng nguyên tắc này.
- Đảm bảo tính chuẩn mực: CT môn học phải phù hợp, thống nhất với mục tiêu
giáo dục chung… (ý 1)
VD: + Trong chương trình môn Tiếng Việt lựa chọn những văn bản hướng đến
giáo dục lí tưởng sống và những phẩm chất đạo đức tốt đẹp cho học sinh.
+ HS của Việt Nam bao gồm cả những người bản địa, cả những người nước
ngoài (con lai học theo chương trình TV), dân tộc,... (đa dạng....) -> chương
trình TV ở mức trung bình để đảm bảo phù hợp với đa số các đối tượng người
học.
- Đảm bảo tính vừa sức: CT phải phù hợp … (Ý 2)
- Yêu cầu cần đạt đối với các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết từ lớp 1 đến lớp 5 được
xây dựng trong CTGDPT môn Ngữ văn 2018 theo trình tự từ đơn giản đến
phức tạp, từ thấp đến cao, từ cụ thể đến trừu tượng . Trình tự này rất phù hợp
và vừa sức với sự phát triển tâm lý và khả năng nhận thức của HS tiểu học (từ 6
– 11 tuổi) – chủ yếu nhận thức trực quan, cụ thể và phát triển từ nhận thức cảm
tính (cảm giác, tri giác) đến nhận thức lý tính (tư duy, tưởng tượng, thực tế).
Cụ thể trong xây dựng YCCD về kỹ năng Nghe, Nói, Đọc, Viết:
● Đọc:
- Ở cấp tiểu học, yêu cầu về đọc gồm yêu cầu về kĩ thuật đọc và kĩ năng đọc
hiểu. Đối với học sinh các lớp đầu cấp (lớp 1, lớp 2), chú trọng cả yêu cầu đọc
đúng với tốc độ phù hợp và đọc hiểu nội dung đơn giản của văn bản. Đối với
học sinh lớp 3, lớp 4 và lớp 5, chú trọng nhiều hơn đến yêu cầu đọc hiểu nội
dung cụ thể, hiểu chủ đề, hiểu bài học rút ra được từ văn bản.
- VD: Yêu cầu cần đạt về tốc độ đọc đối với HS tiểu học được biểu hiện cụ thể
và có độ khó tăng dần theo lớp học
+ Lớp 1: 40-60 tiếng trong 1 phút. Vì ở lớp 1 các em mới được làm quen
mặt chữ, làm quen về âm, vần, cách ghép vần nên khả năng ghép chữ
còn kém, khả năng đọc chưa tốt, chưa nhanh nên trong 1 phút chỉ yêu
cầu các em đọc được từ 40 đến 60 tiếng.
+ Lớp 2: 60-70 tiếng trong 1 phút. Ở lớp 2, các em đã quen dần với mặt
chữ, khả năng ghép chữ tốt hơn so với lớp 1 vì vậy yêu cầu cần đạt về
đọc tăng lên từ 60 đến 70 tiếng trong 1 phút.
+ Lớp 3: 70-80 tiếng trong 1 phút
+ Lớp 4: 80-90 tiếng trong 1 phút
+ Lớp 5: 90-100 tiếng trong 1 phút
=> Ở lớp 3, 4, 5 các em đã quen với mặt chữ, khả năng ghép chữ đã thuần thục nên
yêu cầu cần đạt về số lượng các tiếng các em cần đọc trong một phút cũng cao dần
lên.
● Viết:
- Từ lớp 1 đến lớp 3, viết đúng chính tả, từ vựng, ngữ pháp; viết được một số
câu, đoạn văn ngắn; ở lớp 4 và lớp 5 bước đầu viết được bài văn ngắn hoàn
chỉnh, chủ yếu là bài văn kể, tả và bài giới thiệu đơn giản. Viết được văn bản
kể lại những câu chuyện đã đọc, những sự việc đã chứng kiến, tham gia, những
câu chuyện do học sinh tưởng tượng; miêu tả những sự vật, hiện tượng quen
thuộc; giới thiệu về những sự vật và hoạt động gần gũi với cuộc sống của học
sinh. Viết đoạn văn nêu những cảm xúc, suy nghĩ của học sinh khi đọc một câu
chuyện, bài thơ, khi chứng kiến một sự việc gợi cho học sinh nhiều cảm xúc;
nêu ý kiến về một vấn đề đơn giản trong học tập và đời sống; viết một số kiểu
văn bản như: bản tự thuật, tin nhắn, giấy mời, thời gian biểu, đơn từ,...; bước
đầu biết viết theo quy trình; bài viết cần có đủ ba phần (mở bài, thân bài, kết
bài).
- Ví dụ: Yêu cầu cần đạt về tốc độ viết đối với HS tiểu học được biểu hiện cụ thể
và có độ khó tăng dần theo lớp học:
+ Lớp 1: Tốc độ viết khoảng 30 – 35 chữ trong 15 phút
+ Lớp 2: 50 – 55 chữ trong 15 phút
+ Lớp 3: 65 – 70 chữ trong 15 phút
=> Phân tích tại sao đảm bảo tính vừa sức
- Đối với lớp 1: các em đang trong giai đoạn làm quen với mặt chữ nên khả năng
nghe còn hạn chế, tay còn cứng, khả năng ghép chữ còn kém vì vậy yccd của
chương trình chỉ yêu cầu viết khoảng 30 – 35 chữ trong 15 phút
- Đối với lớp 2: các em quen với mặt chữ, khả năng nghe phát triển hơn, tay linh
hoạt hơn, khả năng ghép chữ đã tốt hơn lớp 1 vì vậy yccd của chương trình cao
viết khoảng 50 – 55 chữ trong 15 phút
- Đối với lớp 3: năng lực của học sinh đã dần hoàn thiện kĩ năng viết nói vì vậy
yccd của chương trình cao hơn viết khoảng 65 – 70 chữ trong 15 phút
● Nói:
- Trình bày dễ hiểu các ý tưởng và cảm xúc; bước đầu biết sử dụng cử chỉ, điệu
bộ thích hợp khi nói; kể lại được một cách rõ ràng câu chuyện đã đọc, đã nghe;
biết chia sẻ, trao đổi những cảm xúc, thái độ, suy nghĩ của mình đối với những
vấn đề được nói đến; biết thuyết minh về một đối tượng hay quy trình đơn giản.
+ Lớp 1: Nói rõ ràng, thành câu. Đặt câu đơn giản
+ Lớp 2: Kể được câu chuyện đơn giản
+ Lớp 3: Nói được về con người, sự vật gần gũi. Một số đặc điểm của
nhân vật qua câu chuyện
+ Lớp 4: Nói tập trung vào mục đích, đề tài. Trình bày được lí lẽ, cho ý
kiến
+ Lớp 5: Điều chỉnh được lời nói. Trình bày ý tưởng rõ ràng, có cảm xúc.
Biết sử dụng cảm xúc, cử chỉ điệu bộ thích hợp. Sử dụng các phương
tiện hỗ trợ để tăng tính biểu đạt.
- Lớp đầu cấp (1,2,3), đặc biệt là hs lớp 1 mới làm quen với các vần, tiếng; vốn
từ của HS còn ít nên HS chỉ nói được câu đơn giản, ngắn gọn. Ngôn ngữ nói
chưa phát triển nhiều. Tư duy của HS thiên về trực quan, cụ thể nên HS có thể
nói về con người, sự vật gần gũi trong cuộc sống.
- Lớp cuối cấp (4,5), vốn từ đã được mở rộng hơn, phát triển khả năng tư duy và
lập luận logic, HS biết cách sắp xếp câu từ cho phù hợp khi viết những đoạn,
bài văn. Tâm lý, tình cảm phát triển, HS có thể biểu hiện được cảm xúc của
mình rõ hơn trong lời nói, giọng điệu.
● Nghe:
- Nghe hiểu với thái độ phù hợp và nắm được nội dung cơ bản; nhận biết được
cảm xúc của người nói; biết cách phản hồi những gì đã nghe.
+ Lớp 1: Nghe hiểu các thông báo, hướng dẫn, yêu cầu, nội quy trong lớp
học. Nghe một câu chuyện và trả lời được các câu hỏi đơn giản: Ai? Cái
gì? Khi nào? Ở đâu?
+ Lớp 2: Nghe và nêu cảm nhận của mình về bài thơ hoặc bài hát. Nghe
câu chuyện dựa vào gợi ý nêu ý kiến về nhân vật chính hoặc một sự việc
trong câu chuyện
+ Lớp 3: Đặt được những câu hỏi có liên quan để hiểu đúng nội dung đã
nghe. Nghe một câu chuyện, tưởng tượng và diễn tả lại dáng vẻ hoặc
hành động, lời nói của một nhân vật trong câu chuyện đó
+ Lớp 4: Ghi lại được những nội dung quan trọng khi nghe ý kiến phát
biểu của người khác.
+ Lớp 5: Biết vừa nghe vừa ghi những nội dung quan trọng từ ý kiến của
người khác. Nhận biết được một số lí lẽ và dẫn chứng mà người nói sử
dụng để thuyết phục người nghe.
- Các lớp đầu cấp tiểu học (Lớp 1, 2, 3) kỹ năng nghe của HS chỉ yêu cầu ở mức
độ hiểu những thông tin cơ bản, hiểu và tưởng tượng trong các tình huống gặp
phải. Các lớp cuối cấp (lớp 4, lớp 5) yêu cầu ở mức độ cao hơn HS cần phải
lắng nghe để ghi lại những nội dung quan trọng, đưa ra các lý lẽ, dẫn chứng để
thuyết phục người nghe.
- Đảm bảo tính mở (tính tạo sức): CT được xây dựng theo hướng mở,... (ý 3)
Chương trình xây dựng theo hướng mở nên GV có thể tự chọn lọc hoặc tự xây dựng
tài liệu học tập, phù hợp với khả năng của học sinh và dựa trên yêu cầu cần đạt của
chương trình.
- Hiện tại có 3 bộ SGK chính, trường học có thể chọn 1 trong 3 bộ sách hoặc có thể
lồng ghép nội dung các bộ sách khác nhau, GV có thể linh hoạt lựa chọn nội dung bài
dạy, linh hoạt trong tổ chức dạy học dựa trên năng lực của học sinh (tùy theo khả năng
lĩnh hội kiến thức của học sinh mà giáo viên điều chỉnh bài dạy của, không rập
khuôn,... tất cả dựa trên chương trình GDPT 2018.
=> Ta thấy, YCCĐ trong CT GDPT Ngữ Văn 2018 đã thể hiện rất rõ nguyên tắc đảm
bảo tính vừa sức cho HS. Các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết đều thể hiện được sự nâng
cao dần qua từng lớp để phù hợp với sự nhận thức của HS. Các YCCĐ đó vừa đảm
bảo tính vừa sức vừa tạo sức giúp HS có thể tự do phát triển khả năng của các em,
không bị gò bó trong khuôn khổ. YCCĐ còn thể hiện được sự thống nhất với mục tiêu
giáo dục chung mà đích cuối cùng là hình thành cho HS những phẩm chất tốt đẹp của
người lao động mới, chương trình linh hoạt, đảm bảo cho tất cả học sinh có thể tiếp
cận chương trình.
Câu 5: Hãy đưa ra một ví dụ minh hoạ về việc tổ chức rèn các thao tác thay thế,
so sánh (phát triển tư duy) trong dạy học đọc hiểu cho học sinh tiểu học. (Chỉ tổ
chức 1 HĐ, đề cho sẵn ngữ liệu)
CÁCH LÀM:
1. Tìm những (hình ảnh đẹp) trong đoạn thơ
2. Những hình ảnh đó có thể thay thế được không (hình ảnh thay thế/từ ngữ thay
thế)> nên lấy từ ngữ ví dụ: từ láy,... các từ đồng nghĩa với từ đó> k thay thế đc vì
phá vỡ cấu trúc, k bắt vần bắt nhịp. Sử dụng từ thay thế để làm câu thơ giàu hình
ảnh, sinh động, tình cảm tg
3. Giải thích vì sao thay thế được/ko thay thế đc
4. Tác giả chủ đích dùng từ ngữ đấy có ý nghĩa gì, phân tích giá trị hình ảnh
5. Cảm nhận về vẻ đẹp của hình ảnh
6. Kết luận (tổ chứ cho hs hđong để tổng kết? giải nghĩa? viết đoạn văn?...)
ĐG so sánh được khong, thay thế được không? (nếu có thì sao/0 thì sao,
thường sẽ 0)
>Kẻ bảng hđ minh họa
Nêu bước, bên dưới kẻ bảng HĐ của GV, HĐ của học sinh, ghi khái quát
Trong bảng: GV (cho HS làm việc nhóm,.... gạch chân những hình ảnh đẹp) →
HĐ của HS: lắng nghe và thực hiện yêu cầu
Ví dụ minh hoạ
Ngữ liệu:
Hạt gạo làng ta
“Có vị phù sa
Của sông Kinh Thầy
Có hương sen thơm
Trong hồ nước đầy.”
* Để hình thành ở trẻ thói quen và kĩ năng quan sát ngôn ngữ và tự điều chỉnh ngôn
ngữ của mình, GV cần dạy cho trẻ em có ý thức quan sát ngôn ngữ của người khác,
quan sát ngôn ngữ của chính mình để phát triển ngôn ngữ và có ý thức điều chỉnh lời
ăn, tiếng nói của mình từ cách phát âm, cách dùng từ, cách đặt câu.
Ví dụ: Khi GV dạy phát âm vần mới cho HS, GV cần thực hành phát âm mẫu, phân
tích vần để HS quan sát và nắm bắt được ngôn ngữ. Sau đó, GV tổ chức cho HS luyện
tập phát âm để HS có cơ hội tự phát hiện lỗi sai cũng như tự điều chỉnh lại lời nói,
ngôn ngữ của mình.
Để rèn cho trẻ thói quen và kĩ năng quan sát điều chỉnh ngôn ngữ cần dạy cho học
sinh tư duy ngôn ngữ
Câu 7: Vận dụng phương pháp giao tiếp để tổ chức hướng dẫn học sinh giải bài
tập sau:
Chọn tiếng thích hợp thay vào ô vuông.
Xinh ... (sắn, xắn)/ Xây ... (xẩm, sẩm)
Bài làm
Phương pháp giao tiếp trong dạy học Tiếng Việt
- Khái niệm: Phương pháp giao tiếp là phương pháp dạy tiếng dựa vào lời nói,
vào những thông báo sinh động, vào việc tổ chức quá trình giao tiếp bằng ngôn
ngữ một cách có hiệu quả trong những tình huống nói năng điển hình và những
tình huống nói năng cụ thể.
Vận dụng phương pháp giao tiếp để giải bài tập.
Bước 1: Giới thiệu và xác định tình huống giao tiếp:
- Đối tượng: học sinh lớp 4 trên địa bàn Hà Nội.(đối tượng khá giỏi hay TB)
- Bài dạy: bài LTVC mở rộng vốn từ.
Hoạt động 3: HS thảo luận trao đổi để tìm thêm - HS thảo luận nhóm và lên trình
một số từ có chứa tiếng “xắn” và “sắn” bày
+ xắn tay, xinh xắn, xắn áo, xắn
quần
+ củ sắn, bột sắn
Hoạt động 4: HS đặt câu với từ đúng vừa tìm - HS thực hành đặt câu và trình
được ở hđ trên. Trình bày trước lớp bày trước lớp.
Xây ... (xẩm, sẩm)
HĐ của GV HĐ của HS
Hoạt động 1: Giải nghĩa của từ “xây”, “xẩm”, - HS giơ tay, tham gia trả lời câu hỏi:
“sẩm” là gì? ….
GV chốt lại nghĩa của các từ: - HS khác nhận xét, nêu ý kiến của mình.
+ từ xây có nghĩa là hành động gắn các vật liệu
gạch đá..
+ từ xẩm có nghĩa là tên một loại dân ca.
+ từ sẩm là từ chỉ trạng thái bắt đầu tối đi.
Hoạt động 2: GV giúp hs đặt nghĩa của từ vào ô - HS thực hành
vuông ( đặt trong đơn vị lớn hơn) xem từ nào là từ
có nghĩa
- GV tổ chức cho HS ghép từ “xây” lần lượt
với các từ “xẩm” và “sẩm”
- GV giải nghĩa hai từ xây xẩm và xây sẩm
- GV chốt lại kết quả sau khi trao đổi:
+ Đáp án là từ xây xẩm, một từ láy có nghĩa là
choáng váng, tối sầm mặt.
+ Từ xây sẩm là từ không có nghĩa.
-
Hoạt động 3: HS thảo luận trao đổi
- HS tham gia thảo luận nhóm 4 để tìm thêm - HS thảo luận nhóm
các từ có chứa tiếng “sẩm” và “xẩm” + Hát xẩm, xây xẩm
+ Sẩm tối
Hoạt động 4: HS đặt câu với những từ vừa tìm - HS thực hành đặt câu và trình bày
được ở hđ trên. Trình bày trước lớp trước lớp.
Câu 8: Vận dụng phương pháp luyện theo mẫu để hướng dẫn học sinh tập viết
chữ “a”.
- Phương pháp rèn luyện theo mẫu là một phương pháp dạy học tiếng Việt.
Trong đó giáo viên hướng dẫn cho học sinh dựa theo mẫu lời nói đã được sách
giáo khoa xây dựng hoặc mẫu của giáo viên để giải quyết các bài tập, rèn kĩ
năng học tập cần thiết.
- Áp dụng pp này vào việc hướng dẫn HS tập viết chữ a
+ Xác định rõ đối tượng dạy học: học sinh yếu, khá, giỏi hoặc tất cả đối tượng
học sinh
+ Lưu ý: không có cột hoạt động học sinh, nếu dùng bảng thì chỉ có cột giáo
viên. Không thì chỉ trình bày theo dòng ko cần bảng.
Bước 1: GV đưa ra mẫu , phân tích mẫu chữ “a” và cho học sinh quan sát
Bước 2: GV thị phạm viết chữ “a” lên bảng
Bước 3: tổ chức cho HS thực hành viết tạo mẫu, hình thành cách viết chữ a hoàn chỉnh
Bước 4: GV kiểm tra và đánh giá kết quả của học sinh
=> Kết luận: Như vậy, sản phẩm của quá trình viết chữ a là học sinh có thể viết thành
thạo chữ a theo đúng quy trình viết các nét.
- Chữ a bao gồm những nét gì? Những nét đó viết như thế nào?
-
Hoạt động của GV Hoạt động của HS
- GV viết chữ a mẫu lên bảng cho -HS quan sát chữ a và xem video.
học sinh quan sát
- GV chiếu hình ảnh chữ a, cho học sinh - HS quan sát và dựa trên chỉ dẫn trực quan của
xem video viết chữ a. GV vào con chữ a để trả lời câu hỏi
-GV đặt câu hỏi, hướng dẫn học sinh phân + Chữ a cao 2li, rộng 2,5 ô và gồm có 2 nét: nét
tích chữ a: cong chữ o và nét móc ngược.
+ Chữ a cao mấy li, rộng bao nhiêu ô
và gồm có mấy nét?
-GV viết mẫu chữ a, khi viết đến nét nào -HS nghe và quan sát chữ mà GV viết.
giáo viên thuyết trình về cách viết nét đó
theo đúng mẫu vừa tạo cho học sinh.
-GV viết mẫu lại nhiều lẫn chữ a trên bảng
và chỉ ra rõ cách viết và cấu tạo cho học
sinh.
- GV tổ chức hoạt động học sinh thực - HS thực hành viết trên bảng đen.
hành. -Các con sau khi viết xong sẽ giơ bảng GV hoc
- GV tổ chức học sinh viết bảng đen về sinh nhận xét.
chữ a vừa học.
- Quan sát cách học sinh viết.
- GV mời một số học sinh lên bảng viết và
các học sinh khác sẽ quan sát và nhận xét.
- GV phát cho HS phiếu viết chữ a - HS thực hành viết chữ a trên phiếu theo đúng
- GV thu phiếu để kiểm tra, đánh giá cách mẫu.
viết của HS đã chính xác hay chưa? chưa
đúng ở đâu để điều chỉnh kịp thời.
Câu 9: Vận dụng phương pháp phân tích ngôn ngữ để tổ chức hướng dẫn học
sinh lớp 5 cảm thụ văn bản sau:
"Trái Đất rộng giàu sang bao thứ tiếng
Cao quý thâm trầm rực rỡ vui tươi
Tiếng Việt rung rinh nhịp đập trái tin người
Như tiếng sáo như dây đàn máu nhỏ."
(Tiếng Việt, Lưu Quang Vũ)
● Giáo viên đặt câu hỏi gợi ý cho học sinh phân tích ngôn ngữ trong văn bản
● Học sinh phân tích ngôn ngữ trong văn bản
Ví dụ:
● Câu hỏi: Trong hai câu thơ đầu, tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật gì để nói về
sự đa dạng của tiếng nói trên thế giới?
● Trả lời: Tác giả sử dụng biện pháp liệt kê:
Biện pháp liệt kê này giúp cho người đọc hình dung được sự đa dạng, phong phú của
tiếng nói trên thế giới. Trên thế giới có rất nhiều thứ tiếng, mỗi thứ tiếng đều có những
nét đẹp riêng.
● Câu hỏi: Trong hai câu thơ cuối, tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật gì để nói
về vẻ đẹp của tiếng Việt?
● Trả lời: Tác giả sử dụng biện pháp so sánh:
Tiếng Việt rung rinh nhịp đập trái tin người Như tiếng sáo như dây đàn
máu nhỏ
Biện pháp so sánh này giúp cho tiếng Việt trở nên sinh động, gần gũi hơn. Tiếng Việt
không chỉ là một thứ ngôn ngữ vô tri vô giác, mà còn là một thứ âm nhạc du dương,
ngọt ngào, mang đậm bản sắc dân tộc.
Bước 3: Thể hiện cảm xúc của bản thân về văn bản
● Giáo viên gợi ý cho học sinh thể hiện cảm xúc của bản thân về văn bản
● Học sinh chia sẻ cảm xúc của bản thân về văn bản
Ví dụ:
Khi đọc đoạn thơ, em cảm thấy vô cùng yêu mến tiếng Việt. Tiếng Việt là một thứ
ngôn ngữ vô cùng giàu đẹp, đa dạng và phong phú. Tiếng Việt có thể diễn đạt được
mọi suy nghĩ, tình cảm của con người.
Em cũng rất tự hào về tiếng Việt. Tiếng Việt là một thứ ngôn ngữ của dân tộc, là linh
hồn, là bản sắc của dân tộc. Em sẽ luôn trân trọng và gìn giữ tiếng Việt.
Kết luận:
Việc vận dụng phương pháp phân tích ngôn ngữ để tổ chức hướng dẫn học sinh lớp 5
cảm thụ văn bản giúp học sinh hiểu được nội dung, ý nghĩa của văn bản một cách sâu
sắc hơn. Đồng thời, giúp học sinh phát triển kỹ năng cảm thụ văn học, từ đó yêu mến
và trân trọng những giá trị văn hóa của dân tộc.
Một số gợi ý cụ thể cho giáo viên khi tổ chức hướng dẫn học sinh cảm thụ văn bản
"Trái Đất rộng giàu sang bao thứ tiếng":
● Khi phân tích ngôn ngữ trong văn bản, giáo viên cần hướng dẫn học sinh chú ý
đến các biện pháp nghệ thuật được sử dụng, như so sánh, nhân hóa, ẩn dụ,...
● Giáo viên cần khuyến khích học sinh chia sẻ cảm xúc của bản thân về văn bản.
● Giáo viên có thể tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động sáng tạo, như viết
bài thơ, bài hát,... về tiếng Việt.