You are on page 1of 71

CHÍNH NHẤT THIÊN SƯ THƯỢNG THANH LINH BẢO PHÁI THỦ QUYẾT

Trong pháp thuật của Đạo Lão Luyện, một pháp thuật có tác dụng khi có sự phối hợp phù
khẩu quyết. Bí mật đưa lưỡi lên vòm trên của họng miệng để vẽ phù bùa, lẩm nhẩm thầm
trong miệng chân ngôn thần chú, còn tay thì bắt thủ quyết. Đó là cách thi triển pháp thuật
theo truyền thống phái Chính Nhất. Thủ quyết đại diện cho sự kích hoạt Hình trong “Hình
Thần câu diệu” bổn phái hay truyền dạy môn đồ, thủ quyết là “Địa” trong Tam Tài, tương
ứng với công phu tu luyện chuyển hóa nội khí từ Tinh thành Khí, tức là luyện tinh hóa khí.
Vẽ phù bùa bằng cách đưa lưỡi lên vòm trên của họng miệng đại diện cho sự kích hoạt Thần
trong “Hình Thần câu diệu”, vẽ phù bùa là “Thiên” trong Tam Tài Thiên Địa Nhân, tương
ứng với công phu luyện Thần quy Thái Hư Đại Đạo, tức là công phu luyện thần hợp đạo.
Thái Hư là Chân Không. Tâm khai khiếu lên lưỡi, Tâm tàng chứa Thần, vì vậy thần lực tàng
chứa ở trong Tâm thông qua hành vi hoạt động của miệng lưỡi mà biểu hiện ra ngoài. Hơi thở
ra khi tụng niệm chân ngôn thật ngữ đại diện cho sự kích hoạt “Nhân” trong Tam Tài, trong
đó kết hợp năng lực của “Thiên” và “Địa” xuất phát từ ý chí tư lự, tư tưởng tình cảm bên
trong mỗi một con người phát ra bên ngoài.

Bởi vì Tâm tàng chứa Thần, Tâm là ngôi nhà cho Thần ở mà Khí thì thông qua luyện hóa
chuyển thành Thần nên Tâm cũng là suối nguồn, là quặng mỏ của Khí. Đó là nguồn cung cấp
Khí chính của cơ thể. Ngoài nguồn cung cấp khí chính này ra thì còn có nguồn cung cấp Khí
phụ nào khác không ? Có. Đó là đầu não và tứ chi bao gồm hai tay và hai chân chịu trách
nhiệm cho sự vận động của cơ thể. Bởi đó mà (Nhân) Tâm, Địa (Chi), (Thiên) Thủ đều được
kết tập lại, hợp nhất lại, Tam Tài tương ứng mà pháp thuật được thi triển một cách một mạnh
mẽ trong quá trình làm phép.

Kỹ thuật vận khí của Thủ quyết là một trong những bí mật thâm áo nhất trong các giáo lý bí
truyền của Đạo Lão Luyện ngày xửa ngày xưa. Thủ Quyết đón nhận lấy một sự quan tâm đặc
biệt trong thực hành Chánh Thuật bởi lẽ Thủ Quyết là Trung Thước Kiều, là cây cầu độc mộc
nối giữa cõi Trung Giới (Khí Giới) với cõi Thượng Giới (Thần Giới), hợp nhất Thiên Địa
trong Tam Tài. Có cả thảy 12 loại Thủ Quyết tương ứng với 12 địa chi dựa trên những ứng
dụng thực tế hữu ích của Thủ Quyết:

1. Tịnh hóa, Thanh tẩy: Thủ Quyết thuộc loại này có tác dụng thanh tẩy, tịnh hóa độc
khí và Thần Sát. Trên cơ thể người có tác dụng tịnh hóa ngũ độc gồm Kim độc, Mộc
độc, Thủy độc, Hỏa độc, Thổ độc. Ngoài ra còn bắt gặp tác dụng tịnh hóa Lục Hợp
Độc, gồm tịnh hóa phía trên (Thiên thượng thanh tịnh), tịnh hóa phía dưới (Địa hạ
thanh tịnh), tịnh hóa bên trái (Thanh Long thanh tĩnh), tịnh hóa bên phải (Bạch Hổ
thanh tĩnh), tịnh hóa đằng trước (Chu Tước thanh tĩnh), tịnh hóa đằng sau (Huyền Vũ
tịnh hóa) nếu lấy cơ thể người làm trung tâm điểm.
2. Cân bằng âm dương: Thủ Quyết về loại này có tác dụng cân bằng và ổn định âm
dương nhị khí. Thủ quyết loại này tương ứng với Xuân Phân và giờ Mão (5 - 7 giờ
sáng). Thời điểm xuân phân và giờ mão, trong âm thì dương chiếm phân nửa nên nói
là âm dương cân bằng. Cân bằng âm dương là quy luật lớn nhất của vũ trụ, và cũng là
quy luật sinh tử của mỗi con người. Sự sống được tồn tại theo quy luật cân bằng âm
dương, mất cân bằng là dẫn tới hư hoại, sụp đổ. Mất cân bằng âm dương là mất sức
khỏe. Nền văn hóa cân bằng âm dương đã giúp người xưa sống hài hòa với thiên
nhiên, ít bệnh tật. Nghiệp lực phải trả về sự mất quân bình âm dương đang gây nên
thảm họa khôn lường. Trong ngàn muôn chân thuyết ứng dụng tìm thấy trong Kinh
Dịch, cân bằng âm dương là nguyên lý căn bản đầu tiên và quan trọng bậc nhất. Âm
dương cần nhất sự cân bằng, muốn thụ hưởng Tam Tài (phước lộc thọ) nhất thiết phải
dụng âm dương cân bằng trong đời sống, cả phần xác lẫn phần hồn. Thực tế trong
cuộc sống, tất cả mọi điều không hay xảy đến đều do mất cân bằng Âm Dương mà ra.
Nếu biết khéo léo áp dụng học thuyết Âm Dương, rèn luyện thế cân bằng sẽ dễ thành
công trong mọi việc.
3. Vận khí: giúp tăng cường nội khí và thần lực.
4. Căn nguyên
5. Thiền định: Thủ Quyết loại này giúp điều chỉnh Thần Khí của cơ thể sao cho có thể
giúp Huyền môn tu sỹ thâm nhập vào Thái Hư Đại Đạo.
6. Sùng Đạo: những thủ quyết giúp đạo sỹ kết nối nguyên khí nguyên thần với Đạo.
7. Triệu Thỉnh: theo như tên gọi, đó là các thủ quyết giúp mời thỉnh tới các vị Linh
Thánh huyền nhiệm hiện diện nơi pháp đàn hoặc yêu cầu sự giúp sức từ họ.
8. Hộ Thân: những thủ quyết giúp chống chọi, kháng cự, miễn trừ ảnh hưởng có hại của
độc khí và thần sát cũng như ác ma, quỷ dữ.
9. Kết giới: ấn quyết có tác dụng hạn chế, chặn đứng, cột trói ác ma, quỷ dữ.
10. Công kích: thủ quyết nhằm đánh bại và hủy diệt ác linh.
11. Cấm chế: thủ quyết giúp bắt giam, bỏ tù, quản thúc những linh hồn xấu xa.
12. Phong ấn: các thủ quyết thuộc về loại này có tác dụng khơi mào, khởi động “phong ấn
khí” để chấm dứt một nghi quỹ pháp thuật.

Để ứng dụng thành công một cách hữu hiệu mạnh mẽ và nhanh chóng bất kể loại thủ
quyết nào trong các dạng kể trên thì cần có sự phối hợp không thể tách rời giữa Thủ
Quyết và Phép Thở Thần Chú (Khí Tức), nhất định chắc chắn là Thủ Quyết cần phải
được kích hoạt khởi động bằng Khí Tức. Khí Tức do Tam Hồn chỉ đạo phải dùng chung
với mỗi một loại Thủ Quyết phù hợp do Tam Thân điều khiển, mặt khác cả Khí Tức và
Thân Hình phải dung hợp một cách trọn vẹn với Linh Thần của Tam Tức để mang lại
công hiệu rõ ràng.

PHÂN LOẠI THỦ QUYẾT

Các pháp sư thời xưa ở Trung Quốc thường sử dụng những cử chỉ của các ngón tay và
bàn tay để tương ứng với Khí và Thần của Đại Chu Thiên, của Tự Nhiên Huyền Quan,
không gian tọa độ và sự thay đổi về thời gian. Theo như một cuốn sách cổ là Tam Mật
Tương Ứng Kinh thì khi thực hiện những động tác đa dạng khác nhau của Thủ Quyết bí
truyền đối với các ngón tay thì các pháp sư cảm nhận thấy có khí tức của đại chu thiên và
có cảm tưởng như thể là sức mạnh của toàn bộ chu thiên vũ trụ lôi kéo tới gom tập kết tụ
lại trên bàn tay khá là rõ ràng.

Thủ Quyết Đạo Lão Luyện và Thủ Ấn Phật Giáo bắt đầu nổi lên trong các nghi quỹ cá
nhân và đại chúng từ những năm 420 - 588 sau công nguyên với mục đích là trừ tà, hàng
phục điều khiển linh thể và chữa bệnh.
Thủ Quyết hay là Thủ Ấn đều thuộc về một dạng vận động đặc thù của các ngón tay để
hình thành nên những biểu tượng đặc thù nhằm nhận ủy quyền và làm tăng cường sự
tương tác cùng với biến hóa giữa Khí và Thần. Ý nghĩa nguyên bản nhất của Ấn Quyết
giống như sự gắn tờ tem bưu điện lên trên một bức thư, giống như dán nhãn hàng, như thể
ký tên và đóng mộc lên một văn bản hành chính. Thủ Quyết được dùng rộng rãi bởi các
bậc thầy khí công của Phật giáo lẫn Đạo Lão Luyện.

Có ba loại thủ quyết hay được sử dụng trong các nghi lễ pháp thuật bởi các đạo sỹ phái
Chính Nhất: Lệnh Quyết, Tinh Quyết, Thần Quyết. Tay nghề vận dụng thủ quyết liên
quan tới cả Đơn Quyết (thủ quyết chỉ dùng những cử chỉ ngón tay trên một bàn tay) và
Song Quyết (thủ quyết dùng những cử chỉ ngón tay trên cả hai bàn tay).

Hệ Phái Chính Nhất Đạo đã sưu tầm tổng kết và sử dụng ít nhất hơn 70 thủ quyết các
loại. Một số thủ quyết nổi tiếng phải kể tới Kháng Lôi Tả Thủ Quyết và Kháng Lôi Hữu
Thủ Quyết, Đại Kim Quang Song Thủ Quyết, Phược Song Thủ Quyết, Kiếm Tiên Đơn
Thủ Quyết,...
Đệ tử nhập môn trước tiên thường được hướng dẫn tập luyện những Đơn Thủ Quyết và
Song Thủ Quyết đơn giản. Luyện tập với những thủ quyết đơn giản trước sẽ giúp đệ tử
tập trung tinh thần vào việc biểu hiện và khống chế những hình thức đặc thù của các trạng
thái Khí và Thần khác nhau.

Một khi đệ tử đã có đủ khả năng làm chủ thu, hóa hiện và phóng Khí Giới của Bát Quái
Thần năng thì người ấy mới được phép tiến xa hơn trong tu luyện các Đơn Thủ Quyết và
Song Thủ Quyết cấp cao.

CHỨC NĂNG ĐẶC THÙ CỦA THỦ QUYẾT

Đơn Thủ Quyết thường được dùng vào việc phát triển những loại năng lượng Khí nhất
định và dùng trong trừ tà thuộc linh. Khi thi triển các nghi lễ Đạo Lão Luyện và trừ tà
thuộc linh, nói chung Đơn Thủ Quyết được hình thành bằng tay trái của đạo sỹ, trong khi
tay phải được dùng để triệu thỉnh mời gọi và kiểm soát những Thần Linh đặc thù.
Cách thức vận động ngón tay trong các Thủ Quyết đặc thù được dùng phối hợp với sự tập
trung niệm lực tư tưởng hoặc đôi khi với niệm thần chú là nhằm mục đích thu nhận và
truyền tải những kỹ thuật vu thuật hết sức riêng biệt.

Thủ Quyết cũng có liên hệ với sự chống chọi bệnh tật. Cuốn Kinh Đạo Lão Luyện là
Thiên Hoàng Chí Đạo Thái Thanh Ngọc Sách <<天皇至道太清玉 冊>> được biên soạn
vào đầu đời Minh (khoảng năm 1444 sau công nguyên) với lời tựa của hoàng thất nhà
Minh là Chu Quyền 朱權 chép rằng “Thủ Quyết dùng liên lạc với Toàn Chân Đạo; triệu
thỉnh hộ thần; điều khiển, hàng phục, trừ yêu diệt ma; và có tác dụng chữa lành bệnh.”

Cách dùng giả chủng tử tự Sanskrit cùng với các song thủ quyết phức tạp khá thịnh hành
vào đời nhà Đường (618 - 907) và triều Tống (960 - 1279). Nhiều thuật pháp của Mật
tông Phật giáo cũng được du nhập vào trong pháp thuật Mao Sơn phái Đạo Lão Luyện
hình thành sự phát triển như sấm chớp của “Ngũ Lôi Pháp” trong suốt trung kỳ triều Tống
ở Trung Quốc.

Kỹ năng cần thiết để “Lôi Trắc” (dự báo sấm chớp) đã được hoàn thiện vào Hán triều
(206 - 220). Trong suốt khoảng thời gian này, các pháp sư Đạo Lão Luyện thời đó khá trứ
danh trong phép hô phong hoán vũ, triệu hồi sấm chớp. Người ta tin rằng “Ngũ Lôi Pháp”
được phát triển bởi các đạo sỹ Mao Sơn nhằm khai thác cả khía cạnh phước hạnh lẫn tính
hủy diệt của Lôi Linh Lực, do đó đòi hỏi khả năng thâm nhập và sử dụng được Thiên Hỏa
(tia chớp) cần để đánh bật ảnh hưởng của tà thuật, trục tà và trừ tà; Linh năng của Thiên
Vũ (mưa) dùng để hóa giải nạn hạn hán. Một đạo sỹ được coi là danh chính ngôn thuận
có khả năng thâm nhập với sử dụng Thiên Hỏa khi người đó tu hành tới cảnh giới hai mắt
thời có thần quang lóe sáng như điện chớp của nội luyện kim đan.

Khi thi triển Đơn Thủ Quyết và Song Thủ Quyết, điều quan trọng là đạo sỹ bổn môn cần
chú ý thật kỹ lưỡng tới độ linh động giữa cổ tay và ngón tay. Tất cả các quan tiết khớp
xương cổ tay và ngón tay nên xoay chuyển một cách êm ru, cử động chuyển dịch từ Thủ
Quyết này sang Thủ Quyết khác của các ngón tay nên có sự liên hệ rõ ràng về mặt hình
thái. Tinh thần nên tập trung vào quán tưởng và cảm nhận quá trình tạo ra nội khí của cơ
thể hoặc sự hóa hiện của đặc dị công năng và dạng đại lực mà thủ quyết tượng trưng.
Điều quan trọng là trong trạng thái toàn tri toàn năng của tinh thần thì người đệ tử nên
nhận lấy những quyền năng vô tận được giao phó quyền sử dụng cho người đệ tử ấy với
một sự xác tín và niềm tin vào thành tựu.

Theo truyền thống, các đạo sỹ Đạo Lão Luyện sẽ thực hiện các cử động ngón tay thích
hợp với một loạt thủ quyết đặc thù khi đạo sỹ đó thực hiện một trong các nghi lễ sau:

 Đọc Đạo Kinh


 Niệm thần chú
 Hành Đại Hùng Đẩu Bộ (cách đi theo bộ đẩu)
 Lập trang thờ
 Thỉnh Chiến Thần (mời thỉnh thần chiến tranh)
 Tu luyện Thần Tức (cách thở khi đọc chú)
 Phục yêu (thâu tóm, bắt giữ yêu tà)
 Trị bệnh
 Cầu ngũ phúc lâm môn
 Hóa giải tam tai cửu nạn
 Xua đuổi tà khí

Một cuốn kinh Đạo Lão Luyện cổ là Thái Thượng Trợ Quốc Cứu Dân Tổng Chân Bí Yếu
<<太上助國救民總 真秘要>> nói rằng các đệ tử phải thực hiện các cử động ngón tay
khác nhau của một loạt thủ quyết đặc thù khi họ “đi đứng, thẩm tra bệnh tật, dò xét ma
khí, nhập đạo đài, lội suối, băng rừng vào núi, vẽ phù.”

Từ xưa, các cử động ngón tay trong thực hiện Thủ Quyết mật truyền được truyền thụ
chung với nghệ thuật thở Thần Tức (cách thở khi niệm thần chú). Trong quá trình phát
triển và sàng lọc, các đạo sỹ thời cổ đã sửa đổi và chỉnh lý lại những cử động ngón tay
của các thủ quyết gốc, vì vậy mà cử động của các ngón tay đã trở thành một hệ thống páp
thuật toàn diện.

KẾT HỢP THỦ QUYẾT VÀ THẦN CHÚ

Từ tầm nhìn của một đạo sỹ, kỹ năng niệm tụng lặp đi lặp lại số biến của một câu thần chú
khá là phức tạp và có tính đa chiều. Tuy nhiên, khi trị bệnh thì không gì tốt hơn là sử dụng
“Ấn Khí”. Ấn Khí được dùng vào thời xưa ở Trung Quốc nhằm ấn dấu luồng khí đặc thù của
một Linh Thần vào Thần Tức (hơi thở ra khi niệm thần chú).

Mục tiêu chủ yếu khi vận dụng Khí năng của một Ấn là sự phối hợp giữa quán tưởng với
Thần Tức, phóng phát Thần quang và thời điểm thích hợp. Nghi quỹ đóng dấu Ấn Khí trừ tà
do các đạo sỹ thực hiện nhìn chung là tuân thủ truyền thống khẩu truyền, khẩu truyền từ sư
phụ tới đệ tử. Có lời truyền là đạo sỹ bậc thầy Phạm Lãi tu luyện theo cung cách này “khiến
cho núi sụt lở, sông và biển chảy ngược dòng nước, thần gào quỷ khóc, lôi kinh táng đảm.”

Tất cả các giáo huấn về tư thế tĩnh lẫn động của các loại thủ quyết khác nhau đều nhằm khơi
dậy và tăng cường tiềm năng của Hình thể, Khí và Thần. Ngày xưa, các tu sỹ Đạo Lão Luyện
và Đạo Phật đôi khi kết hợp giữa Thủ Ấn và Mantra để ủy quyền việc dùng ý dẫn khí của họ.
Bất kỳ thủ quyết nào cũng có hình thái âm thanh của riêng chúng mà đòi hỏi một Minh Sư
thực hành một cách duy vật các điệu bộ, hơi thở, tinh thần (ví dụ: kéo cơ vòng hậu môn lên
khí hít vào, gõ răng, nuốt nước bọt, hà hơi,...) với thực hành Khí và Thần của lời cầu nguyện
và niệm thần chú (ví dụ: lẩm nhẩm một giai điệu cụ thể, đọc lặp lại bài kinh cầu, sử dụng mỗi
câu thần chú đặc hiệu khác nhau khí hít vào, thở ra Linh Khí của Thiên và Địa,...).

Thủ Quyết của các đạo sỹ được thiết lập dựa trên học thuyết nền về Âm và Dương, trong đó
Tả Thủ (tay trái) được coi là Dương và Thanh, và tay trái ngự trị toàn bộ sự vận hành của thủ
quyết. Ngược lại, thủ ấn Đạo Phật, nguyên gốc từ văn hóa Ấn Độ thì tay phải mới là tay
thống lĩnh, do đó đối với Phật giáo tam thừa thì tay phải được coi là Thanh và ngự trị sự vận
hành của thủ ấn (Mudra).
THAM HUYỀN VÀ HỌC THUẬT

Nếu thủ quyết hoặc thần chú không được thi triển một cách chính xác thì một người đệ tử
không thể nào nhận lãnh sự tương ứng mà người đệ tử đó tìm kiếm (ví dụ: năng lực ra lệnh
cho Đấu Chiến Lôi Thần Tổng Quản và bộ hạ chiến tướng chấn nhiếp ác ma quỷ dữ). Do đó
khi một người đệ tử thi triển Phát Giác Thủ Quyết (thủ quyết cầu đảo thần thông của Pháp tắc
luật lệ) thì người ấy nên hiểu hết ý nghĩa của mọi biểu tượng huyền vi mà mỗi ấn quyết đại
diện trong Thần giới cũng như là cõi Thần Tiên. Nếu như một người đệ tử không hiểu ẩn ý
của Phát Giác Thủ Quyết thì người đó không thể nào thâm nhập vào trong các linh lực ẩn
tàng với thế tục bị che giấu bên trong Khí Giới và Thần Giới nội cảnh bên trong cơ thể người
đó, và tất nhiên là sẽ không thể triệu thỉnh Đấu Chiến Lôi Thần Tổng Quản nhằm đánh bại,
bắt giữ, hàng phục hoặc hủy diệt ác linh.

Khi bắt đầu thi triển các thủ quyết khác nhau, người đệ tử cần phải nắm bắt lấy những thuận
lợi từ việc tu dưỡng Tinh, Khí, Thần, dung hợp cả nội khí trường lẫn ngoại khí trường để
thâm nhập Thần Giới của cõi Tiên rồi khiến cho cõi Tiên đáp ứng lại lời nguyện cầu của
riêng người đó (ý nghĩ và ước vọng bên trong). Tất cả “môn đồ Thần Tiên” của Chính Nhất
Thiên Sư Phái được dạy rằng phải chú ý thật kỹ vào lời giáo huấn này. Theo truyền thống,
mỗi đệ tử đều không được phép thi triển bất kỳ một thủ quyết nào mà trước hết không hiểu
một cách đầy đủ và làm chủ những ảnh hưởng bên trong (Nội Động) lẫn bên ngoài (Ngoại
Động) cũng như quyền lực về Khí và Thần của mỗi Thủ quyết.

Sự phối hợp giữa Thủ quyết và Thần Tức là mấu chốt, là chìa khóa để kết nối Thần Hồn với
cử động của bàn tay; mối liên kết này cho phép Thần Tâm Hồn hài hòa với động tác của
Nhân Hình nhằm tích lũy Tổ Khí vào Hình thể.

Theo kinh văn Đạo Lão Luyện thì thần thông quảng đại nhất của mỗi một Thủ Quyết và Thần
Tức phát huy uy lực mạnh nhất vào lúc Bắc Cực Tinh (nằm ở giữa trung tâm bầu trời) nằm
thẳng hàng với Mặt Trăng khi vị trí của mặt trăng định vị tại hướng Tây. Tuy vậy, một số thủ
quyết quyền năng nhất dùng tạo ra sự thần diệu trong luyện hóa lại không được truyền từ sư
phụ tới đệ tử, dẫn tới điều đáng tiếc là nhiều “Thiên Bí” bị thất truyền.

SONG THỦ THỦ QUYẾT

Mục đích sử dụng Song Thủ Thủ Quyết là nhằm để cho phép Tiên Thể của đạo sỹ (Tinh),
Khí, Thần được phối trộn tương ứng và lèo lái tới mục đích duy nhất cần hướng tới mà không
bị xao lãng. Ở Trung Hoa thời cổ, sự vận dụng Tiên Thể thì phổ biến là dùng Bát Quái Song
Thủ Thủ Quyết để triệu hồi quyền năng của mỗi loại ngũ hành cụ thể.

ĐỊNH HÌNH BÁT QUÁI THỦ QUYẾT

Các đạo sỹ xưa hiểu rằng từ Thái Cực, Đạo sinh thành Âm Dương, Âm Dương giao cấu phân
thành Tứ Tượng của Khí Chu Thiên (Thái Dương, Thiếu Dương, Thái Âm và Thiếu Âm). Tứ
Tượng Chu Thiên Khí lại sinh ra tám lực lượng của tự nhiên là Bát Quái (Thiên, Lôi, Thủy,
Sơn, Địa, Phong, Hỏa và Trạch). Tứ Tượng cũng hình thành nên khí cơ của sự chuyển hóa
tiên thiên và hậu thiên, thể hiện trong tám dạng khí động học (được biết tới như tám quẻ của
bát quái). Vì vậy tám công thức khí động học này biểu tượng cho sự phối hợp của các hào âm
và hào dương. Theo truyền thống, một hào âm được biểu thị bằng một vạch đứt ( ) và
một hào dương được biểu thị bằng một vạch liền ( )

Một Đơn Quái được tạo ra từ ba hào theo những kiểu tổ hợp khác nhau là Âm Đơn Quái,
Dương Đơn Quái hoặc phối hợp cả âm lẫn dương là Âm Dương Đơn Quái.
Tám quái khí tiên thiên và hậu thiên này hoạt động như khuôn đúc cho mọi sự sáng tạo và có
thể được tổ hợp lại thành 64 quái khí kép luôn luôn biến dịch của Kinh Dịch.
Các đạo sỹ thời xưa quan niệm Âm và Dương biểu hiện thành Tứ Tượng của Chu Thiên Khí
và diễn hóa thông qua Tiên Thiên và Hậu Thiên Bát Quái (Thuyết Tiền-Ngũ Hành).

Ngày xưa tại Trung Quốc, các đạo sỹ triệu hồi quyền năng của mỗi loại ngũ hành cụ thể bằng
cách kết nối các ngón tay của họ theo những cách thức khác nhau để tạo ra Thủ Quyết tương
hợp với lý khí của Bát Quái. Tiếp cận quyền năng của Bát Quái khởi đầu với việc kết nối các
ngón tay trên cả hai bàn tay theo những phương thức đa dạng để hình thành Thủ Quyết phù
hợp với lý khí của Bát Quái. Bát Quái Song Thủ Thủ Quyết được tạo hình bằng cách tương
ứng cấu hình Âm Dương của các ngón tay.

Đạo sỹ thời xưa tin rằng mỗi kiểu khí sẽ “khai quan” một loại khí tự nhiên của ngũ hành bát
quái và cho phép một cá nhân hấp thu, điều chỉnh và kiểm soát Ngũ hành Khí và Ngũ hành
Thần của tự nhiên. Các Đơn Quái có thể được tổ chức và sắp xếp theo hệ thống Tiên Thiên
của vua Phục Hy hoặc hệ thống Hậu Thiên của vua Văn Vương.
Thủ Quyết của các đạo sỹ thời xưa dủng để tiếp cận và kiểm soát khí tự nhiên của Ngũ Hành
là một bí mật bị che giấu cực kỳ kín đáo. Mục đích che giấu là bởi vì khả năng khống chế các
lực lượng sinh và khắc của ngũ hành. Một khi kết hợp với quán tưởng khí sắc và rung động
cộng hưởng của thần chú thì những thủ quyết của các đạo sỹ cổ xưa này có thể được dùng để
khơi dậy một ảnh hưởng quyền năng lên trên các trường khí của môi trường.

THỦ QUYẾT BÁT QUÁI KÉP DÙNG CHO DỰ TRẮC KINH DỊCH

Các đạo sỹ ngày xưa sử dụng cả tiên thiên bát quái lẫn hậu thiên bát quái vào dự trắc bằng
kinh dịch. Kỹ năng này đòi hỏi đạo sỹ luyện hóa thần khí hoàn về thái hư đại đạo trong một
trạng thái thiền định thâm sâu. Hàng loạt thủ quyết cụ thể được vận dụng để trợ giúp đạo sỹ
tiến vào cảnh giới “Vô Tâm”. Ở tại cảnh giới này người dự trắc trở nên vô tư, mà vô tư là
điều cần thiết khiến cho sự dự đoán mang lại hiệu quả cao.

1. Lúc mới bắt đầu cần ở trong tư thế ngồi, cả hai tay ôm bọc lấy đằng trước hạ đan điền.
Sau khi thực hành bài thiền định “từ một tới mười” và bái lạy ba lần các đấng bề trên
để nhằm tạo thành một kết giới thần thánh, thanh tịnh thì bắt đầu tiến hành dự trắc.
Trước hết cần thư giãn, sau đó tập trung và tưởng tượng mình hòa tan, nhập làm một
với sự vô cùng vô tận của đại đạo, đồng thể cùng với thái hư, thiết lập trạng thái giống
như mình là trung tâm của không gian, tồn tưởng mình là trung tâm của thời gian.

Trong khi trải nghiệm sự vô cùng vô tận của thái hư, cuối cùng hãy bao bọc xung
quanh hình thể, tinh khí thần của bạn bằng các hình vẽ bát quái tiên thiên và bát quái
hậu thiên. Đầu tiên bao bọc xung quanh bạn bằng trường khí của bát quái tiên thiên.
Một khi quyền năng của bát quái tiên thiên được trải nghiệm hãy bao bọc bát quái tiên
thiên bằng khí trường của bát quái hậu thiên phía bên ngoài.
2. Sau đó bắt đầu xoay quay cả hai bát quái theo phương thức sau đây:
 Đối với bát quái tiên thiên, nằm ở bên trong vòng tròn, xoay theo chiều kim
đồng hồ. Điều này đại diện cho vòng sinh thành tiên thiên của trường khí
Dương Thiên.
 Đối với bát quái hậu thiên, nằm ở bên ngoài vòng tròn, xoay theo chiều ngược
hướng kim đồng hồ. Điều này đại diện cho vòng sinh thành hậu thiên của
trường khí Âm Địa.
3. Khi hai vòng tròn xoay liên tục, chỉ hợp đầu hai ngón cái và đầu hai ngón út lại với
nhau (sáu ngón tay còn lại không được phép chạm vào nhau, đơn giản là đặt đối diện
đầu các ngón tay với nhau) và tưởng tượng là hình thành một trái khí cầu sáng. Trái
khí cầu sáng này đại diện cho hư không vô tận của Thái Hư. Một khi “Khí Túc” được
hình thành giữa hai lòng bàn tay thì cho phép khí xây dựng, kiến tạo nên một dạng
kiểu như vòng tròn, thiên thể, quỹ đạo màu trắng sáng. Hai đầu ngón tay cái kết nối
với nhau ở phía trên của vòng tròn đại diện cho Thiên Khí, hai đầu ngón tay út kết nối
với nhau ở phía dưới của vòng tròn đại diện cho Địa Khí.
4. Tiếp theo bắt đầu nhắm tới đúng mục tiêu cần dự đoán và tập trung vào câu hỏi cụ thể
cùng mục đích cần dự đoán. Trong khi xoay, các vòng tròn bên trong và bên ngoài
của Tiên Thiên Bát Quái và Hậu Thiên Bát Quái bắt đầu dần dần chầm chậm ngừng
chuyển động xoay quay của chúng rồi bắt đầu hình thành nên quẻ kép (quẻ có sáu
hào). Quẻ kép được thiết kế từ ba hào của vòng tròn Tiên Thiên Bát Quái nằm ở bên
trong với ba hào của vòng tròn Hậu Thiên Bát Quái nằm ở bên ngoài.
5. Sau khi quan sát nhìn thấy quẻ kép, ngừng quá trình thiền định và tham khảo tượng
quẻ của sách Kinh Dịch xem thử lời diễn giải thích hợp cho quẻ kép.

BÁT QUÁI SONG THỦ QUYẾT PHỤC VỤ TẾ LUYỆN THẦN THÔNG

Để khống chế thần thông của bát quái, các đạo sỹ ngày xưa sử dụng Bát Quái Thủ Quyết
nhằm tạo ra Khí Quan (cổng kết nối của Khí) hay Môn Thần (lối ra vào dành cho Thần) nối
liền với sự Vô Tận Tạng của Thái Hư Vô Cực. Trước khi sử dụng Song Thủ Quyết để tụ tập
và khống chế những thần thông cụ thể này thì trước tiên đạo sỹ phải thay đổi mối quan hệ của
người ấy với những đặc tính nền của mỗi loại ngũ hành. Sự thấu hiểu mối quan hệ này phải
được trải nghiêm ở cả ba tầng bậc (Tinh, Khí, Thần). Sau đó, thông qua tu hành thiền định
thâm nhập chính xác vào trường Khí và Thần của mỗi loại ngũ hành, đạo sỹ sẽ dùng một Thủ
Quyết phù hợp để kiến tạo và kiểm soát đặc tính tự nhiên của mỗi một loại ngũ hành cụ thể.
Thủ Quyết cổ của Đạo Lão Luyện bên dưới đây được dùng để triệu hồi và khống chế một
cách có hiệu quả những thuộc tính ngũ hành từ thời Thái Cổ hoạt động bên trong Bát Quái.
Tuy nhiên, bởi do những nguy hiểm bẩm sinh có liên quan, các câu thần chú đặc thù đi kèm
theo mỗi Thủ Quyết trong triệu hồi và khống chế đòi hỏi phải đạt được thông qua sự hướng
dẫn hết sức cẩn thận của một vị sư phụ có uy tín.

1. Lúc mới bắt đầu cần ở trong tư thế ngồi, cả hai tay ôm bọc lấy đằng trước hạ đan điền.
Sau khi thực hành bài thiền định “từ một tới mười” và bái lạy ba lần các đấng bề trên
để nhằm tạo thành một kết giới thần thánh, thanh tịnh thì bắt đầu tiến hành dự trắc.
Trước hết cần thư giãn, sau đó tập trung và tưởng tượng mình hòa tan, nhập làm một
với sự vô cùng vô tận của đại đạo, đồng thể cùng với thái hư, thiết lập trạng thái giống
như mình là trung tâm của không gian, tồn tưởng mình là trung tâm của thời gian.

Trong khi trải nghiệm sự vô cùng vô tận của thái hư, cuối cùng hãy bao bọc xung
quanh hình thể, tinh khí thần của bạn bằng trường khí của Thánh Quang.
2. Kế tiếp, hợp đầu hai ngón cái và đầu hai ngón út lại với nhau thành vòng tròn (sáu
ngón tay còn lại không được phép chạm vào nhau, đơn giản là đặt đối diện đầu các
ngón tay với nhau) và tưởng tượng là hình thành một trái khí cầu sáng. Trái khí cầu
sáng này đại diện cho hư không vô tận của Thái Hư. Một khi “Khí Túc” được hình
thành giữa hai lòng bàn tay thì cho phép khí xây dựng, kiến tạo nên một dạng kiểu
như vòng tròn, thiên thể, quỹ đạo màu trắng sáng. Hai đầu ngón tay cái kết nối với
nhau ở phía trên của vòng tròn đại diện cho Thiên Khí, hai đầu ngón tay út kết nối với
nhau ở phía dưới của vòng tròn đại diện cho Địa Khí.
3. Mỗi một cấu hình trong tám cấu hình bát quái có thể được kiến tạo và biến hóa bằng
nỗ lực phối hợp sáu ngón tay giữa, phụ thuộc vào nhu cầu cụ thể của mỗi cá nhân.
Sau khi một hàm lượng Khí đáng kể được tích lũy giữa hai lòng bàn tay thì mới sắp
xếp sáu ngón tay giữa để tạo ra Đơn Quái nào trong Bát Quái mà mình mong muốn.
Bằng cách đụng chạm và kết nối đầu ngón tay của sáu ngón giữa mà có thể tạo ra các
loại cấu hình Đơn Quái bất kỳ nào và khởi động Khí trường của những kiểu thần
thông khác nhau. Mỗi một cấu hình đặc thù hoạt động như một khuôn mẫu nhằm triệu
hồi, tạo dựng, hấp thu hoặc truyền tải Khí, được miêu tả như phía bên dưới đây:

Càn Thủ Quyết (thiên, bầu trời, sáng tạo, tính cương và uy quyền)

Thủ Quyết này được đạo sỹ pháp sư dùng để tạo ra sự uy nghi, oai thần lồng lộng bằng cách
dung hợp năng lực Khí của Tam Tài (Thiên, Địa, Nhân) vào bên trong hình thể đạo sỹ pháp
sư. Đơn Quái này cũng được dùng để hợp nhất với hư không vô tận của Nhật, Nguyệt, Tinh
Tú.
Khôn Thủ Quyết (đất, sinh đẻ, tiếp nhận, nặng)

Thủ Quyết này được đạo sỹ pháp sư dùng để tạo ra những vật chất dày và nặng. Do được tạo
dựng từ ba hào âm, Đơn Quái này cũng được dùng để trợ giúp pháp sư đạt tới trạng thái thâm
sâu của tính tiếp thu. Khôn Quái cũng được xem như thủ quyết căn bản dùng để kết nối với
Khí Giới của Địa.
Chấn Thủ Quyết (sấm sét, di động, sinh trưởng)

Thủ Quyết này được đạo sỹ pháp sư dùng để gom tụ cùng khống chế sấm chớp, cũng như tạo
ra động đất. Đơn Quái này còn dùng để làm cho sự tăng trưởng thuộc linh dễ dàng.

Tốn Thủ Quyết (Phong và Không, sáng suốt, nhạy cảm)

Thủ Quyết này được đạo sỹ pháp sư dùng để gom tụ hoặc tạo ra gió để mang tới hoặc dời
mây, mưa, tuyết, mưa đá, vòi rồng, lốc xoáy. Quẻ Tốn cũng được coi như một Thủ Quyết căn
bản dùng để kết nối với Khí Giới của hành Phong/Không.

Tốn Thủ Quyết dùng để kết nối hình thể của đạo sỹ với Khí Giới của hai nguyên tố
Phong/Không nên là một cầu nối quan trọng giữa học thuyết tứ đại dùng phổ biến ở xứ Ấn
Độ cũng như nền tảng pháp thuật phương Tây và học thuyết Ngũ Hành của xứ Trung Quốc.
Thông qua Đơn Quái Tốn, các đạo sỹ huyền học phái Chính Nhất khẳng định rằng hai
nguyên tố Phong và Không được đồng hóa làm một thành Đơn Quái Tốn trong tám quẻ của
Bát Quái. [cần bổ sung]
Khảm Thủ Quyết (nước, dịch, lạnh)

Thủ Quyết này được đạo sỹ pháp sư dùng để tạo ra thuộc tính lạnh và tối (để bước vào thế
giới ảo ảnh, thế giới bóng, thế giới bóng tối, thế giới hồn ma). Thủ quyết này còn trợ giúp đạo
sỹ pháp sư đạt tới trạng thái lẩn tránh, tàng hình. Đơn Quái Khảm cũng được coi như một thủ
quyết cơ bản để kết nối với Khí Giới của hành Thủy.
Ly Thủ Quyết (lửa, nhiệt nóng, ánh sáng)

Thủ Quyết này được đạo sỹ pháp sư dùng để tạo ra lửa, nhiệt nóng, ánh sáng. Đơn Quái Ly
cũng được coi như một thủ quyết cơ bản để kết nối với Khí Giới của hành Hỏa.
Cấn Thủ Quyết (núi, rắn chắc, yên bình, tĩnh lặng)

Thủ Quyết này được đạo sỹ pháp sư dùng để tạo ra thuộc tính tĩnh lặng, bình tâm. Thủ quyết
này còn trợ giúp đạo sỹ pháp sư dễ dàng thâm nhập trạng thái tĩnh lặng sâu xa.
Đoài Thủ Quyết (hơi nước, sương mù, sự phản chiếu, chỉ trích, quan sát)

Thủ Quyết này được đạo sỹ pháp sư dùng để tạo ra hoặc gom tụ hơi nước, sương mù hay
mưa. Thủ quyết này còn dùng để tan biến vào không gian của màn sương hay hơi nước nhằm
theo dõi, dòm ngó người và nơi chốn.
TAM ĐAN ĐIỀN SONG THỦ QUYẾT

Những Song Thủ Quyết này đòi hỏi đạo sỹ pháp sư vận dụng Khí lưu ở các đầu ngón tay của
cả hai bàn tay nhằm kích hoạt ba đan điền thượng trung hạ. Đối với những thủ quyết đặc biệt
này, cả hai tay đều cần hợp bích nhằm tạo ra một sự hợp nhất tập trung khí lưu một cách
mạnh mẽ, tương tự như hai con suối nhỏ hợp lưu lại thành một dòng sông hùng vĩ. Những thủ
quyết dưới đây là các ví dụ phổ truyền về Song Thủ Quyết nhằm kích hoạt và tập trung làm
mạnh khí lưu ở tam đan điền.

KÍCH HOẠT HẠ ĐAN ĐIỀN

Song Thủ Quyết này theo truyền thống được tu luyện trong tư thế ngồi hay tư thế đứng. Thủ
quyết có tác dụng kích thích hạ đan điền của một cá nhân và thông thường là dùng vào công
đoạn luyện hóa chuyển hóa Thận Tinh thành Thận Khí, và bồi bổ Tủy Hải. Sự kích hoạt khí
và chuyển hóa này cũng được dùng để làm tăng cường trí tuệ, ý chí, dũng khí, quyết tâm và
can đảm.
KÍCH HOẠT TRUNG ĐAN ĐIỀN

Song Thủ Quyết này theo truyền thống được tu luyện trong tư thế ngồi hay tư thế đứng. Thủ
quyết có tác dụng kích thích Trung Đan Điền của một cá nhân và thông thường là dùng vào
công đoạn luyện hóa chuyển hóa Khí thành Thần xảy ra bên trong các phòng nội của Huỳnh
Đình và Trung Đan Điền. Sự kích hoạt khí và chuyển hóa này cũng được dùng để làm tăng
cường Phế khí, Tâm khí, khí tuyến ức, và đôi khi còn được gọi là “Liên Hoa Thủ Quyết”.
KÍCH HOẠT THƯỢNG ĐAN ĐIỀN

Song Thủ Quyết này theo truyền thống được tu luyện trong tư thế ngồi hay tư thế đứng. Thủ
quyết có tác dụng kích thích Thượng Đan Điền của một cá nhân và thông thường là dùng vào
công đoạn luyện hóa chuyển hóa Thần hoàn Thái Hư. Sự kích hoạt khí và chuyển hóa này
cũng được dùng để phát triển Ấn Đường (con mắt thứ ba) của đệ tử, và làm tăng cường các
năng lực tâm linh.
THỦ QUYẾT VÀ NGHI QUỸ

Có những thủ quyết nhất định được dùng trong Chính Nhất Đạo để kết nối với Tam Bộ Bát
Cảnh chư Thần Tiên: Đại La Kim Tiên của Tiên Thiên, Tiên Trưởng (đôi khi gọi là Giáo Thụ
Tiên) và Thần Tướng. Còn có những Linh Thú Thủ Quyết và Pháp Khí Thủ Quyết đặc thù
dùng để cầu đảo Đại La Kim Tiên của Tiên Thiên.

CÁC THỦ QUYẾT LIÊN QUAN TỚI KIM TIÊN CỦA TIÊN THIÊN

Các cử chỉ ngón tay dùng trong những Thủ Quyết này đôi khi liên quan tới sự thờ phụng hoặc
thông công với ba vị chân tiên bất tử của Đạo Lão Luyện là “Tam Thanh Nhất Khí”
Tam Thanh là ba vị thần tiên tối cao trong Đạo giáo tại Trung Quốc. Tam Thanh bao gồm:

 Ngọc Thanh Nguyên Thuỷ Thiên Tôn


 Thượng Thanh Linh Bảo Thiên Tôn
 Thái Thanh Đạo Đức Thiên Tôn, cũng chính là Thái Thượng Lão Quân

Nguyên Thủy Thiên Tôn có trước cả Hỗn mang, trước thời Thái Vô, là thị hiện của nguyên
khí sơ khai, chuyển hoá thành Nguyên Thủy Thiên Vương. Cõi mà Nguyên Thủy Thiên Tôn
ngự gọi là Thánh cảnh.

Linh Bảo Thiên Tôn tôn hiệu đầy đủ là Thượng Thanh Cao Thánh Thái Thượng Ngọc Thần
Nguyên Hoàng Đại Đạo Quân, đến đời Đường gọi là Thái Thượng Đại Đạo Quân, đời Tống
gọi là Linh Bảo Quân, trong Đạo giáo còn gọi là Linh Bảo Đại Pháp Sư. Cõi mà Linh Bảo
Thiên Tôn ngự gọi là Chân cảnh.

Đạo Đức Thiên Tôn chính là Thái Thượng Lão Quân, là Giáo chủ, còn gọi là Hỗn Nguyên
Lão Quân, Hàng Sinh Thiên Tôn, Thái Thanh Đại Đế. Tương truyền Đạo Đức Thiên Tôn
giáng trần chính là Lão Tử. Cõi Đạo Đức Thiên Tôn ngự là Thanh cảnh.

Trong các tranh tượng thờ Tam Thanh, cả ba được tạo hình thành ba ông già. Nguyên Thủy
Thiên Tôn ngồi giữa, cầm viên ngọc, Đạo Đức Thiên Tôn ngồi bên trái, cầm cây quạt, Linh
Bảo Thiên Tôn ngồi bên phải, cầm cây như ý.

Việc kết nối với Tam Thanh Thiên được khởi động bằng cách bắt một trong ba loại Tam
Thanh Quyết là Thái Thanh Thủ Quyết, Ngọc Thanh Thủ Quyết hoặc Thượng Thanh Thủ
Quyết. Các Thủ Quyết này được bắt khi đạo sỹ pháp sư chủ trì nghi lễ lập đàn thỉnh tiên
truyền sắc lệnh tới Đấu Chiến Thần Tiên Tướng Lĩnh cùng Mã Thần và thỉnh mời Bắc Đế.
Tam Thanh Cảnh chư Thiên Tiên cũng đại diện cho ba nhánh Chính Nhất Đạo và Thần
Thông khác nhau của ba phân nhánh này. Những Thủ Quyết tương ứng được mô tả như bên
dưới đây:

Ngọc Thanh Thủ Quyết

Thủ Quyết này liên quan tới đốt thứ ba của ngón tay giữa để thỉnh Ngọc Thanh Thần Quân
(Chiến Thần) và Linh Thú. Ép móng tay vào ngón giữa cũng được dùng để chẩn bệnh.

Thái Thanh Thủ Quyết

Thủ Quyết này liên quan tới đốt thứ hai của ngón tay giữa để thỉnh Thái Thanh Thần Quân
(Chiến Thần) và Linh Thú.
Thượng Thanh Thủ Quyết

Thủ Quyết này liên quan tới đốt đầu của ngón tay giữa để thỉnh Thượng Thanh Thần Quân
(Chiến Thần) và Linh Thú.

LINH THÚ THỦ QUYẾT

Đôi khi các thủ quyết liên quan tới Kim Tiên của Tiên Thiên không được trực tiếp triệu hồi
bằng Thánh Danh của chư tiên mà thay vào đó được đại diện bằng hình ảnh của các linh thú
(ví dụ: ngựa, hạc, long, hổ, trư, thiềm,...) hoặc pháp khí (ví dụ: tiên kiếm, kim kiều, kim
quang, nhẫn ngọc,...). Thí dụ trong nghi quỹ “Tịnh hóa và cứu cánh”, khi Thái Nhất Thiên Đế
được cầu đảo hàng lâm xuống tế đàn thì nghi quỹ đạo sư phải bắt Sư Tử Song Thủ Quyết.
Lúc ấy hai lòng bàn tay bắt chéo nhau, ngón tay cái của tay trái gấp lại còn chín ngón tay
khác duỗi thẳng. Chín ngón tay duỗi thẳng tượng trưng cho Cửu Mã của Thái Nhất Thiên Đế
dùng làm tọa kỵ khi giáng hạ.

Có khá nhiều thủ quyết sử dụng để tượng trưng cho thần lực của Bắc Đẩu Thất Tinh giáng
lâm hạ giới và lạc ấn lên người đệ tử bổn phái. Thí dụ Đẩu Mẫu Tinh Quân tọa trên Liên Hoa
Tòa và Thánh Thú kéo xe cho bà ấy “con heo có nanh”.

[cần bổ sung] https://en.wikipedia.org/wiki/Doumu


Vì vậy, thủ quyết dùng để nghinh tiếp và cầu đảo Đẩu Mẫu Tinh Quân giáng lâm nhân gian là
bắt quyết tạo hình hoa sen hoặc hình một con heo. Những thủ quyết đặc thù này có thể dùng
trong thờ phụng, hộ thân hoặc trị bệnh bằng cách bắt Liên Hoa Song Thủ Quyết, Liên Tài
Tọa Song Thủ Quyết, Đại Trư Thủ Song Thủ Quyết.

PHÁP KHÍ THỦ QUYẾT

Đôi khi thủ quyết lại liên quan tới các pháp khí, chẳng hạn như tiên kiếm, kim kiều, kim
quang, nhẫn ngọc,...Ví dụ: một vài loại thủ quyết như Hổ Thủ Quyết hay Quỷ Thủ Quyết
được mang danh như vậy là vì do liên quan tới các ác linh. Các thủ quyết khác như Triệt Quỷ
Quyết, Khiển Quỷ Quyết, Khống Lôi Quyết được đặt tên như thế là do liên quan tới những
công dụng cụ thể và mục đích của nghi quỹ. Còn các thủ quyết như Tam Xoa Thủ Quyết (thủ
quyết chĩa đinh ba), Tiên Kiếm Thủ Quyết và Kim Kiều Thủ Quyết (thủ quyết cây cầu vàng
kim) sở dĩ có tên như vậy là do các pháp khí được trì giữ bởi các nghi quỹ đạo sư hoặc các
phương pháp vận khí đặc thù mà minh sư sử dụng để tiến hành nghi lễ.
Ngoài ra còn có các thủ quyết tượng trưng cho Thái Âm Tinh Quân, Thái Dương Tinh Quân,
Ngũ Phương Yết Đế. Số thủ quyết dùng vào triệu thỉnh chư tiên khó lòng mà đo đếm nổi, do
có quá nhiều bí kỹ dùng trong huyền thuật Đạo Lão Luyện dùng cho các mục tiêu tịnh hóa,
hàm dưỡng bản nguyên, cứu hộ mệnh bảo, tăng cường sinh khí, trị bệnh, tru diệt ác quỷ,
thỉnh thần, khiển quỷ, và cầu nguyện phòng tránh bệnh tật.

THỦ QUYẾT VÀ ĐẤU CHIẾN THẦN TƯỚNG

Có quá nhiều thần tướng trong Đạo Lão Luyện khiến cho số lượng thủ quyết đại diện cho chư
thần tướng chiếm áp đảo các loại thủ quyết. Mặc dù nhiều thủ quyết bắt rối như canh hẹ,
nhưng sự thật là nhiều dòng phái khác nhau của Đạo Lão Luyện khá ưa chuộng các chủng
loại Đấu Chiến Thần Tướng Thủ Quyết.

Quan trọng nhất phải kể tới Thiên Sư Thủ Quyết đại biểu cho sự giáng lâm của Thiên Sư hay
khai phái tổ sư của một môn phái. Khi vận dụng thủ quyết này, nghi quỹ đạo sư quán tưởng
mình giống như là Thiên Sư cấp luật lệnh tới Thần Quân để khu diệt tà ma.

Những thủ quyết quan trọng nhất dùng triệu thỉnh Đấu Chiến Thần Tướng bao gồm:

 Tối Cao Chỉ Huy Sứ Thủ Quyết: thủ quyết này dùng để triệu thỉnh các Chỉ Huy Sứ
của Lôi Bộ.
 Thiên Binh Vạn Mã Thủ Quyết: thủ quyết này dùng để triệu thỉnh chư thiên thần
quân.
 Giám Quân Thủ Quyết: thủ quyết này dùng để triệu thỉnh Giám Quân coi sóc thiên
binh vạn mã nhằm kiểm soát Thần Binh.
 Bí Thư Thủ Quyết: thủ quyết này dùng để triệu thỉnh Bí Thư chăm nom quản lý công
hàm thư tín.

GIÁO NGOẠI BIỆT TRUYỀN SONG THỦ QUYẾT

Bên dưới đây là một bản miêu tả những Song Thủ Quyết dùng rộng rãi nhất trong các dòng
phái của Huyền học Đạo Lão Luyện. Hệ phái Chính Nhất gồm ba nhánh chính:

 Thiên Sư Phái ở Long Hổ Sơn.


 Thượng Thanh Phái ở Mao Sơn.
 Linh Bảo Phái ở Các Tạo Sơn.

Những Song Thủ Quyết đặc biệt này có thể chia thành ba danh mục chính tùy theo mục đích
sử dụng pháp thuật: Thủ Quyết dùng thờ phụng, Thủ Quyết dùng triệu thỉnh, Thủ Quyết dùng
tấn công và phòng thủ.

THỦ QUYẾT DÙNG THỜ PHỤNG

Những Song Thủ Quyết dưới đây được dùng trong nghi quỹ thờ phụng luyện kim đan của
Chính Nhất Đạo. Mục tiêu cơ bản là một sự chuyển hóa khí và thần mang lại do cầu nguyện
và thiền định.

 Kim Long Song Thủ Quyết


Thủ quyết này dùng cho thờ phụng. Khí của thủ quyết đại diện cho sự dung hợp của hai
luồng khí đã hợp nhất là Âm Khí (hai ngón tay của tay phải) và Dương Khí (ba ngón tay của
tay trái).

 Đại Kim Quang Song Thủ Quyết

Thủ quyết này dùng cho thờ phụng. Khí của thủ quyết đại diện cho sự chiếu sáng, phát ra kim
quang của Thần Thể, và dùng để kết nối Nhân Thể với Thần Thể trong các đại lễ.
 Kim Kiều Song Thủ Quyết

Thủ quyết này dùng cho thờ phụng. Khí của thủ quyết đại diện cho hai cái móc của Âm và
Dương móc lại với nhau để dung hợp Thần Khí của Tiên Thiên Khí (tượng trưng bằng lòng
bàn tay trái Dương) và Hậu Thiên Khí (tượng trưng bằng lòng bàn tay phải Âm). Sự dung
hợp khí này tạo ra một cây cầu màu vàng kim giúp đạo sỹ huyền học bằng từ đầu cầu thế giới
vật chất sang Thần Giới ở đầu cầu bên kia.

 Tiểu Kim Quang Song Thủ Quyết

Thủ quyết này dùng cho thờ phụng. Khí của thủ quyết đại diện cho sự chiếu sáng, phát ra kim
quang của Thần Thể, và dùng trong các nghi quỹ ngắn để kết nối Tinh Thể và Thần Thể.
 Tiểu Trư Truyền Song Thủ Quyết

Thủ quyết này dùng cho thờ phụng. Song Thủ Quyết này tượng trưng cho phi thăng thông
đạo mà các vị Tiên dùng để phi thăng lên Dương Thiên, ngoài ra trường khí của thủ quyết
còn dùng để mở ra thần bí truyền tống trận tới Vô Cực.

 Lưỡng Ngọc Chỉ Hoàn Song Thủ Quyết


Thủ quyết này dùng cho thờ phụng. Song Thủ Quyết này đại diện cho Khí của Tổ Tiên Sư
Cung và Khí phát ra từ thủ quyết dùng để thay đổi số mạng của một cá nhân thành Tiên.

 Bạch Hạc Song Thủ Quyết

Thủ quyết này dùng cho thờ phụng. Song Thủ Quyết này đại diện cho Huyền Hạc và khí
trường thủ quyết phát ra dùng đánh thông tới Thần Thủy của kiếp sau. Đạo sỹ pháp sư phi
thăng lên Thần Giới trong khi cưỡi lên lưng một con Huyền Hạc gọi là giá hạc phi thăng hoặc
“hóa nhi huyền hạc khởi” theo Chung Lữ Truyền Đạo Tập.
SONG THỦ QUYẾT DÙNG TRIỆU THỈNH

Những Song Thủ Quyết bên dưới đây được dùng trong các nghi quỹ Chính Nhất Đạo với
mục đích triệu hồi Thần Khí. Mục tiêu cơ bản của Triệu Thỉnh là đòi hỏi hoặc yêu cầu sự
hiện diện hoặc dịch vụ làm trợ tá của một trong Ngũ Đẳng Tiên (Quỷ Tiên, Nhân Tiên, Địa
Tiên, Thần Tiên và Thiên Tiên). Bản thân soạn giả biên soạn cuốn sách này cũng là một vị
Địa Tiên, vì vậy đọc được bản sách do chính soạn giả viết cũng là một điều vinh hạnh, tam
sinh hữu hạnh.

 Lưỡng Tinh Song Thủ Quyết

Song Thủ Quyết này được dùng cho Triệu Thỉnh. Khí trường phát ra từ thủ quyết đại diện
cho sinh tiền Đẩu Mẫu Cung, và được dùng khi nhân loại thế tục giới cần tới sự trợ giúp từ
mẹ Đẩu Mẫu. Đẩu Mẫu là mẹ của Bắc Đẩu Thất Tinh. Bà nói chung được miêu tả là có bốn
khuôn mặt, mỗi mặt quay về một phương trong bốn phương (tứ chính), mỗi khuôn mặt lại có
ba con mắt. Bà có bốn cánh tay ở mỗi phía của cơ thể. Hai tay trong số các tay nắm lấy nhau,
lòng bàn tay nắm lấy lòng bàn tay, trong khi sáu tay còn lại lần lượt giữ lấy mặt trời, mặt
trăng, chuông, kim ấn, cây cung, cây kích. Đẩu Mẫu được tán thán là vị nắm giữ một chức
trách thâm niên trong phân cấp của Đạo Lão Luyện, và bà uy tín với năng lực cứu vớt quần
sinh, chúng sinh, chúng hữu tình ra khỏi nhiều tai nạn và phiền toái do những thứ quỷ yêu
gây ra. Ngày thánh đản của bà là ngày tết trùng cửu, mùng 9 tháng 9 âm lịch hàng năm.
 Liên Hoa Song Thủ Quyết

Song Thủ Quyết này được dùng cho Triệu Thỉnh. Thủ quyết đại diện Liên Hoa pháp, khí
trường phát ra dùng để báo tin và liên hệ Mẹ Đẩu Mẫu.

 Thiên Mẫu Cung Song Thủ Quyết


Song Thủ Quyết này dùng trong Triệu thỉnh. Thủ Quyết đại diện cho Ấn của Đẩu Mẫu Cung,
khí trường phát ra từ thủ quyết dùng để tìm kiếm sự chứng nhận của Dương Thiên Pháp
Đình.

 Bảo Tọa Song Thủ Quyết

Còn gọi là Tài Vị Song Thủ Quyết. Song Thủ Quyết này dùng trong Triệu thỉnh. Khí trường
phát ra từ thủ quyết dùng để mời Mẹ Đẩu Mẫu ngự trên ngai vàng của bàn hương án, bàn thờ,
tế đàn.
 Đại Trư Đầu Song Thủ Quyết

Song Thủ Quyết này dùng trong Triệu thỉnh. Thủ quyết đại diện cho Tiên Thú (“Trư Giác”,
con heo có sừng) của Mẹ Đẩu Mẫu, khí trường phát ra từ thủ quyết dùng triệu thỉnh Tiên Thú
giáng xuống nhân giới.
 Sư Tử Chú Ngữ Song Thủ Quyết

Song Thủ Quyết này dùng trong Triệu thỉnh. Khí trường phát ra từ thủ quyết đại diện cho một
trong các Thiên Thú của Mẹ Đẩu Mẫu.

 Tượng Tị Song Thủ Quyết

Thủ Quyết vòi của con voi. Song Thủ Quyết này dùng trong Triệu thỉnh. Khí trường phát ra
từ thủ quyết đại diện cho vòi của con voi và đại diện cho một trong các Thiên Thú của Mẹ
Đẩu Mẫu.
 Nghinh Tiên Song Thủ Quyết

Thủ Quyết hoan nghênh, chào đón Tiên tới. Song Thủ Quyết này dùng trong Triệu thỉnh. Khí
trường phát ra từ thủ quyết đại diện cho việc hân hoan đón mừng Tiên tới tế đàn, bàn hương
án, bàn thờ.

 Liên Hoa Bảo Tọa Song Thủ Quyết

Song Thủ Quyết này dùng trong Triệu thỉnh. Thủ quyết đại diện cho Bảo Tọa của chư Tiên,
khí trường phát ra từ thủ quyết đại diện cho chào mừng chư Tiên giáng hạ.
 Triệu Hoán Chư Tiên Song Thủ Quyết

Song Thủ Quyết này dùng trong Triệu thỉnh. Khí trường phát ra từ thủ quyết được dùng như
một tín hiệu Triệu Hoán và bí mật tập hội Thiên Tiên giáng hạ.
 Hòa Hợp Song Thủ Quyết

Song Thủ Quyết này dùng trong Triệu thỉnh. Khí trường phát ra từ thủ quyết được dùng để tụ
tập linh lực bằng cách triệu hoán Đấu Chiến Thần Tướng giáng hạ.

 Đại Kim Lệnh Song Thủ Quyết

Song Thủ Quyết này dùng trong Triệu thỉnh. Khí trường phát ra từ thủ quyết được dùng để
triệu hoán Đấu Chiến Thần Tướng giáng hạ.
 Toàn Phong Chân Tiên Song Thủ Quyết

Song Thủ Quyết này dùng trong Triệu thỉnh. Thủ quyết đại diện cho một cơn lốc pháp thuật
xoáy cuồn cuộn, xoắn ốc theo một vòng tròn Khí kiểu như một bánh xe quay, một luân xa.
Khí trường phát ra từ thủ quyết được dùng để truyền tin cấp tốc tới Thiên Đình.
 Triệu Vân Song Thủ Quyết

Mao Sơn Song Thủ Quyết này dùng để gọi mây tới nhằm mang lại mưa. Thủ Quyết đại diện
cho hình ảnh cho một ngọn hoang sơn và một cánh đồng.
 Tịnh Chú Ngữ Song Thủ Quyết

Song Thủ Quyết này dùng kết thúc nghi quỹ triệu thỉnh. Tay trái nắm quyền tượng trưng cho
linh năng của Nhật, tay phải kết quyết Tiên Kiếm tượng trưng cho linh năng của Nguyệt.
Tịnh Chú Ngữ Song Thủ Quyết nhìn chung được bắt trước hoặc sau khi niệm chú ngữ (ví dụ:
trường khí do niệm nhanh và vang vọng chú ngữ phát ra kèm theo bắt Tịnh Chú Ngữ Song
Thủ Quyết nhằm tạo ra một sự hoàn hảo về Khí).
THỦ QUYẾT DÙNG TẤN CÔNG VÀ PHÒNG THỦ

Các song thủ quyết dưới đây dùng trong các nghi quỹ Chính Nhất Đạo vận dụng Khí và Thần
với mục đích tấn công và phòng thủ. Những thủ quyết này nhìn chung được tích hợp vào
torng các nghi quỹ trừ tà (trục xuất các ác linh khỏi một người, một nơi chốn hoặc một vật gì
đó).

Công trình tu học là một nghệ thuật vận dụng Khí và Thần trong tấn công và phòng thủ thì
được chia nhỏ thành sáu giai đoạn cơ bản: Hộ Thân 保护 , Ngạnh Kháng 梗阻, Công Kích 攻

击 , Khổn 捆 , Cấm Chế 监禁, Mật Phong 密封. Sáu giai đoạn được miêu tả bên dưới.

HỘ THÂN

Hộ thân là bảo vệ, bảo hộ [bổ sung thần chú]. Mục đích Khí hóa của Hộ Thân Song Thủ
Quyết là nhằm tạo một Khí trường đủ mạnh nhằm cung cấp một sự an toàn cho đệ tử bổn
phái (tự bản thân đệ tử, gia đình, người yêu,...), nơi chốn (nhà ở, căn hộ, bàn thờ phụng, bàn
hương án, tế đàn,...), hoặc đồ vật (những vật dụng, đồ đạc có nhiều ý nghĩa hoặc quan trọng).

 Tả Hữu Bát Tiên Thủ Vệ Song Thủ Quyết

Song Thủ Quyết này dùng trong tấn công và phòng thủ. Thủ quyết tượng trưng cho tám vị
Dương Thiên Đấu Chiến Thần Tướng, khí trường phát ra từ thủ quyết dùng để bảo vệ người,
vật, nơi chốn.
 Tiểu Song Quang Song Thủ Quyết

Song Thủ Quyết này dùng trong tấn công và phòng thủ. Thủ quyết tượng trưng cho điện
quang mà các minh điểm (illuminaties) chứa trong các hạt khí thuộc các trường khí Âm và
Dương bao lấy Thái Hư Vô Cực tỏa sáng lung linh. Thủ quyết dùng để hộ thân bằng cách tạo
ra một luồng hào quang màu vàng kim sáng lung linh rực rỡ giúp tịnh hóa, soi sáng và toát ra
Thần Quang bao phủ lấy người mình, vật hoặc nơi chốn.
NGẠNH KHÁNG

Mục đích Khí hóa của Ngạnh Kháng Song Thủ Quyết là nhằm tạo ra một khí trường đủ mạnh
để ngăn chặn, phòng ngừa một ác linh hoặc thực thể quỷ dữ thực hiện những hành động
chống phá.

 Đồng Sắc Trướng Bồng Song Thủ Quyết

Trướng Bồng 帐篷, tent, cái lều. Song Thủ Quyết này dùng trong tấn công và phòng thủ. Thủ
quyết tượng trưng cho cái lều, màn che trướng rủ. Khí trường phát ra từ thủ quyết tạo ra một
cái ô dù, một lớp màn che trướng rủ che chở cho người, vật, nơi chốn khỏi những sự công
kích xấu xa.
 Đao Sơn Song Thủ Quyết

Song Thủ Quyết này dùng trong tấn công và phòng thủ. Thủ quyết tượng trưng cho một ngọn
núi bị bao phủ bởi hàng loạt thanh đao, mũi giáo sắc nhọn. Thủ quyết dùng như một rào cản
về vận khí ngăn cản, ngăn chặn, hoặc loại bỏ thông đạo kết nối với người, thứ súc sinh, tà
linh.
 Kiếm Thụ Song Thủ Quyết

Song Thủ Quyết này dùng trong tấn công và phòng thủ. Thủ quyết tượng trưng cho Vạn Tiên
Kiếm (10,000 cây tiên kiếm). Thủ quyết dùng như một rào cản về vận khí ngăn cản, ngăn
chặn, hoặc loại bỏ thông đạo kết nối với người, thứ súc sinh, tà linh.

 Thái Sơn Song Thủ Quyết

Song Thủ Quyết này dùng trong tấn công và phòng thủ. Thủ quyết tượng trưng cho Vạn Tiên
Kiếm (10,000 cây tiên kiếm). Thủ quyết dùng như một rào cản về vận khí ngăn cản, ngăn
chặn, ẩn tránh, lánh né hoặc loại bỏ thông đạo kết nối hoặc sự di động của người, thứ súc
sinh, tà linh.
CÔNG KÍCH

Mục đích hóa khí của Công Kích Song Thủ Quyết là nhằm tạo ra một khí trường đủ mạnh để
khởi động một sự tấn công trực tiếp vào thực thể có linh tính hoặc những chỗ mà định dạng
khí có thể bị bắt giữ, đánh gục hoặc bị hủy diệt.

 Đại Kim Quang Song Thủ Quyết

Song Thủ Quyết này được dùng trong công kích và hộ thân. Tuy song thủ quyết này được
dùng trong thờ phụng nhưng cũng có thể dùng cho công kích, phân giải, băng phong các thực
thể có tính linh, chúng hữu tình khi kết hợp với một câu thần chú đặc thù.
 Thương Pháp Song Thủ Quyết

Song Thủ Quyết này được dùng trong công kích và hộ thân. Thủ quyết tượng trưng cho khả
năng oanh tạc, bắn phá của một loại hỏa khí Trung Quốc thời xưa (tương tự như một khẩu
súng). Khí trường phát ra từ thủ quyết được dùng như một sự công kích dữ dội, giống như
một cái máy khoan bằng khí. Khí trường phát ra từ thủ quyết thường được phóng thích bằng
cách giẫm chân sau, đấm về phía kẻ cố ý đối nghịch và nói rầm vang một câu thần chú,
mantra.
 Đại Bác Thần Công Pháp Song Thủ Quyết

Song Thủ Quyết này được dùng trong công kích và hộ thân. Thủ quyết tượng trưng cho khả
năng nổ tung, bạo tạc của một loại hỏa khí Trung Quốc thời xưa. Khí trường phát ra từ thủ
quyết được dùng trong một cuộc tấn công khốc liệt, giống như một tạc đạn (trái bom,炸弹)
bằng khí. Khí trường phát ra từ thủ quyết thường được phóng thích bằng cách giẫm chân sau,
đấm về phía kẻ cố ý đối nghịch và nói rầm vang một câu thần chú, mantra.
 Song Long Xuyên Sơn Song Thủ Quyết

Song Thủ Quyết này được dùng trong công kích và hộ thân. Khí trường phát ra từ thủ quyết
xuyên sơn thấu bích. Khí trường phát ra từ thủ quyết dùng để trảm cắt, truy tung, tóm bắt ác
linh.
KHỐN

Mục tiêu khí hóa của Khốn Song Thủ Quyết là để tạo ra một khí trường đủ mạnh nhằm tín
phong (phong ấn bằng chân tín, 信封), bắt giữ, kiềm chế một ác linh. “Khốn” còn có thể hiểu
lã giữ ai đó tách khỏi một cái gì đó - gần như kiểu đặt một bức tường năng lượng ngăn cách
giữa người đó và những thứ được lựa chọn để ngăn cách. Đây là một dạng pháp thuật rất
hiếm khi công khai và không được xem nhẹ mà khinh truyền. “Khốn” chân ngôn rất quyền
phép và thời gian tác dụng khá lâu.

 Niệp Khốn Song Thủ Quyết

Song Thủ Quyết này dùng trong tấn công và phòng thủ. Thủ quyết tạo ra một khí trường bao
bọc và quấn quít, trói lấy người, vật, nơi chốn, đặc biệt là linh thể và ma quỷ.
 Khốn Lĩnh Song Thủ Quyết

Song Thủ Quyết này dùng trong tấn công và phòng thủ. Khí phát ra từ thủ quyết giống như
một cái vòng cổ bền chắc bằng thép xiềng xích lấy cổ của tù nhân, thủ quyết dùng để kiềm
chế, trói lấy người, vật, nơi chốn, đặc biệt là linh thể và ma quỷ.
 Thiên La Địa Võng Song Thủ Quyết

Song Thủ Quyết này dùng trong tấn công và phòng thủ. Khí trường phát ra từ thủ quyết đại
diện cho một tấm lưới to lớn trải dài từ Dương Thiên tới Âm Địa dùng để giăng lưới người,
thú, hoặc các ác linh.

 Trọng Thạch Lường Song Thủ Quyết

Song Thủ Quyết này dùng trong tấn công và phòng thủ. Khí trường phát ra dùng để bao
vây, đeo bám, chặn đứng người, thú, ác linh.
QUAN BẾ

Mục tiêu khí hóa của Quan Bế Song Thủ Quyết là để tạo ra một khí trường đủ mạnh để
tống giam và cầm tù ác linh.

 Đồng Sách Song Thủ Quyết

Song Thủ Quyết này dùng trong tấn công và phòng thủ. Thủ quyết tượng trưng cho một cái
lồng giam, khí trường của thủ quyết dùng để tống giam và cầm tù người, vật, nơi chốn, hoặc
ác linh. Điểm khác nhau duy nhất giữa Đồng Sắc Trướng Bồng Song Thủ Quyết và Đồng
Sách Song Thủ Quyết là sự mở rộng của ngón tay cái và góc của các ngón tay.
 Oa Chú Song Thủ Quyết

Song Thủ Quyết này dùng trong tấn công và phòng thủ. Thủ quyết tượng trưng cho một cái
bẫy, hố để chôn vùi ác linh.
PHONG BẾ

Mục tiêu khí hóa của Phong Bế Song Thủ Quyết là tạo ra một khí trường đủ mạnh nhằm cung
cấp một sự phong bế về khí cuối cùng cần thiết sau khi đã tống giam ác linh vào một khu vực
giam giữ.

 Pháp Tỏa Song Thủ Quyết

Song Thủ Quyết này dùng trong tấn công và phòng thủ. Khí trường thủ quyết phát ra đại diện
cho sự phong bế và giam giữ một số người nơi chốn hoặc vật bằng Pháp Tỏa.

ĐƠN THỦ QUYẾT

Mỗi loại Thủ Quyết đều có âm luật (công thức âm thanh) khác nhau gọi là Chân Ngôn phối
hợp Thiên Khí với Địa Khí. Đạo sỹ huyền môn niệm một câu thần chú cùng với Thủ Quyết
tương ứng rồi sau đó thở ra để kích hoạt thần thông kỳ diệu màu nhiệm.

Nói chung, Song Thủ Quyết được truyền thụ trước tiên để phụ trợ đạo sỹ huyền môn hướng
sự tập trung vào một vật tượng, một thần linh, một dạng suy tưởng hoặc thần năng của Bát
Quái. Sau khi một cá nhân thành thạo trong tập hợp và điều khiển hình thức suy tưởng hoặc
thần năng của bát quái bằng Song Thủ Quyết thì được truyền thụ Đơn Thủ Quyết. Mục tiêu
của Đơn Thủ Quyết là dùng tay trái để triệu hồi tinh thần và tăng cường điều khiển thần lực
thì tay phải dùng để biến hiện, cấp luật lệnh, chỉ định, truyền tải thần thông.

Khí Thủ Quyết của các đạo sỹ bậc thầy có thể sai khiến bất kỳ thành viên nào của vô lượng
chúng bộ quỷ thần xuất hiện dưới dạng thực thể. Tay trái kháp Quyết, tay phải cầm gươm,
một đạo sỹ lão thành có thể triệu hồi, chất vấn, tra khảo bất cứ chủng loại quỷ thần nào họ
muốn.

ĐẠO GIÁO ĐƠN THỦ QUYẾT

Đối với pháp thuật Đạo Lão Luyện, một số điểm trên lòng bàn tay trái hoặc một số vùng
chuyên biệt trên các đốt ngón tay của tay trái được vận dụng để bồi dưỡng, ngưng tụ, khống
chế linh khí và thần thông. Mỗi một đốt ngón tay tượng trưng và tương ứng với mỗi một loại
linh khí của Ngũ Hành, Ngũ Diệu, Linh Khí Ngũ Tạng, Bát Quái, Bắc Đẩu Thất Tinh, Thập
Nhị Địa Chi và Thập Nhị Kỳ Kinh. Do vậy khi mà một đạo sỹ huyền học ép nhéo lấy một vị
trí ngón tay nhất định thì điều ấy đại diện cho việc đạo sỹ hoặc đạo cô ấy thâm nhập và khống
chế linh khí và thần thông bằng cách ứng dụng một trong các loại thủ quyết sau đây:

 Ngũ Hành Thủ Quyết

Thủ Quyết này cho phép pháp sư ngưng tụ, củng cố, ứng dụng Khí hoặc chứa trong Khí Giới
của Thái Hư Vô Cực, Không/Phong, Hỏa, Thủy, Địa; hoặc thông qua năng lượng khí và các
dạng biểu hiện chứa đựng bên trong các yếu tố ngũ hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.

 Ngũ Diệu Thủ Quyết


Thủ Quyết này cho phép pháp sư ngưng tụ, củng cố, ứng dụng Khí chứa trong ngũ diệu thiên
khí là Kim Tinh, Mộc Tinh, Thủy Tinh, Hỏa Tinh, Thổ Tinh/Sơn Tinh

 Ngũ Phương Thủ Quyết

Thủ Quyết này cho phép pháp sư ngưng tụ, củng cố, ứng dụng Khí chứa trong ngũ phương là
Tả, Hữu, Tiền, Hậu, Trung.

 Ngũ Thường Thủ Quyết

Thủ Quyết này cho phép pháp sư ngưng tụ, củng cố, ứng dụng Khí chứa trong ngũ thường là
Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.

 Bát Quái Thủ Quyết

Thủ Quyết này cho phép pháp sư ngưng tụ, củng cố, ứng dụng Khí chứa trong bát thần là
Thiên, Vụ/Vũ, Lôi, Sơn, Địa, Thủy, Hỏa, Phong/Không.

 Bắc Đẩu Thất Tinh Thủ Quyết

Thủ Quyết này cho phép pháp sư ngưng tụ, củng cố, ứng dụng Khí chứa trong mười hai địa
chi là Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.

 Ngũ Tạng Lục Phủ Thủ Quyết

Thủ Quyết này cho phép pháp sư ngưng tụ, củng cố, ứng dụng Khí chứa trong ngũ tạng lục
phủ (Tinh, Khí, Thần trong Gan - Mật - Bàng quang, Tim-Ruột non, Lá lách, Phổi - Ruột già,
Thận - Màng nhĩ.)

NGŨ HÀNH NỘI TẠNG

Ở Trung Quốc cổ, biểu đồ tay bên dưới mô tả Ngũ Hành Nội Tạng dùng để tiếp cận Ngũ
Thường Khí (Ngũ Nguyên Tinh Thần) chứa đựng trong Ngũ Tạng. Hệ thống Thủ Quyết này
chỉ được phép truyền thụ cho các cao đồ. Khi ứng dụng khí của thủ quyết có chức năng nội
dưỡng, môn đệ sẽ dùng ngón tay cái ấn chạm lên các ngón tay khác để kết nối Tứ Tượng Khí.
Trong đó, các vị trí trung hòa nằm ở gốc các ngón tay cho phép môn đồ kết nối với Địa Khí.
Thượng cổ đạo sỹ dùng tay trái để hút khí từ cơ quan nội tạng mong muốn vào trong Hạ Điền
hoặc trường khí bao quanh hình thể. Khí sau đó được phóng ra ngoài hình thể đạo sỹ thông
qua bàn tay phải. Sự chuyển hóa khí này cũng dùng để khống chế ngũ hành.

Tay trái cũng có thể dùng để ngưng tụ và thâu Thập Nhị Kỳ Kinh Khí của Ngũ Tạng. Khi
ngón cái của môn đồ chạm vào các ngón tay khác hoặc vào lòng bàn tay thì Khí sẽ ngưng tụ
vào Hạ Đan Điền rồi sau đó được phóng ra ngoài qua bàn tay phải của môn đệ.
TAM ĐAN ĐIỀN ĐƠN THỦ QUYẾT

Trong Đạo Lão Luyện cổ, đơn thủ quyết thường dùng để tiếp cận và ra lệnh cho Khí Hải,
hoặc Đan Điền Khí. Những miêu tả bên dưới về đơn thủ quyết chia theo hai tông phái khác
nhau:

Mao Sơn Thủ Quyết (Chính Nhất Tông)

Trong Thượng Thanh Phái của Đạo Lão Luyện, với truyền thừa Chính Nhất Đạo, ngón cái
đại diện cho thông thiên năng của Thiên, trong khi ngón út đại diện cho nhập thế huyền năng
của Địa (như đã giải thich trong Tụ Khí Bát Quái Song Thủ Quyết [hình]). Khi bắt quyết
(ngón tay cái chạm vào ngón tay út), tụ khí thành hình, hình khí được điều khiển bởi Thái
Cực và sự cân bằng của Tam Đan Điền.

Truyền thừa Mao Sơn Đạo Lão Luyện xưa dùng tay trái để miêu tả hình tượng “Sơn”. Tồn
tưởng Sơn hình được dùng để tiếp cận và kích thích nội Khí Hải bên trong Tam Đan Điền.
Hình thức pháp dưỡng này được khởi đầu bằng cách hòa phối khí của Dương của Thiên (ví
dụ, giáng thần khí của Thanh Long, tượng trưng bởi “Tưởng” của pháp sư) và Âm của Địa
(ví dụ, giáng thế khí của Bạch Hổ, tượng trưng bởi cảm giác lý trí cảm “Thụ” của pháp sư).
Đơn thủ quyết và những điểm tiếp cận bí mật này của pháp sư Mao sơn thời cổ dùng để kích
hoạt các đan điền như miêu tả bên dưới đây:

 Hạ Đan Điền: Khi truyền thụ sự chuyển hóa Luyện tinh hóa khí ở Hạ Đan Điền, pháp
sư Đạo Lão Luyện sẽ ấn vào nếp gấp thứ hai (tính từ trên xuống) của ngón tay đeo
nhẫn của tay trái. Khi ấn vào điểm tương ứng Hạ Đan Điền này, pháp sư cũng đồng
thời kéo tâm điểm và vùng ngoại vi của cả hai chân lên để rút lấy Địa Khí (Khí của
Địa Bạch Hổ) lên xuyên suốt hai chân và đổ vào trong Hạ Đan Điền [gọi là Lô Nha
Xuyên Tất]. Pháp sư sẽ đưa lưỡi đặt lên Hỏa vị (điều này yêu cầu lưỡi đặt lên Cương
Cung nằm đằng trước Thượng Cung, nằm đằng sau răng và nướu) rồi hít vào khí của
Thanh Long Thiên cho khí giáng xuống Hạ Đan Điền. Khi Thanh Long (Tưởng) và
Bạch Hổ (Thụ) bắt đầu “giỡn” nhau, thụ khí của tim và rung động có thể được tạo ra
bên trong Hạ Đan Điền.

 Trung Đan Điền: Khi Luyện Khí Hóa Thần ở Trung Đan Điền, pháp sư Đạo Lão
Luyện sẽ ấn vào nếp gấp đầu tiên (tính từ trên đỉnh đầu ngón tay xuống) của ngón
giữa của tay trái. Khi ấn vào Trung Điền Ứng Điểm như vậy, pháp sư sẽ lôi tâm điểm
và ngoại vi dưới hai chân nhằm rút Địa Khí (Địa Khí Bạch Hổ) lên hai chân và vùng
xương sống đằng sau tim nằm ở khu vực Trung Đan Điền. Pháp sư sẽ đặt lưỡi lên trên
Mộc Vị (điều này yêu cầu lưỡi chạm lên Cương Cung, tại phần giữa của Thượng
Cung ở trung tâm của vòm miệng) và hít Thanh Long Thiên Khí vào trong Trung Đan
Điền. Khi mà Thanh Long (Tưởng) và Bạch Hổ (Thụ) bắt đầu đùa giỡn với nhau thì
thụ khí của tim và rung động sẽ được tạo ra bên trong Trung Đan Điền.

 Thượng Đan Điền:


 Thượng Đan Điền: Khi Luyện Thần Hoàn Thái Hư của Vô Cực thông qua Thượng
Đan Điền, pháp sư Đạo Lão Luyện sẽ ấn ngón tay cái vào nếp gấp thứ hai (tính từ đầu
ngón tay xuống) của ngón tay trỏ thuộc tay trái. Khi ấn vào Thượng Đan Điền tương
ứng điểm này, pháp sư sẽ xách động Địa Khí (Bạch Hổ Địa Khí) ở dưới đất tính từ
tâm điểm của lòng bàn chân và vùng ngoại vi xung quanh tâm điểm lòng bàn chân
của cả hai chân lên dọc theo hai chân và xương sống lưng đằng sau đầu ở phần gốc
của Thượng Đan Điền. Pháp sư sẽ đưa lưỡi đặt lên trên Thủy Vị (điều này đòi hỏi lưỡi
cần đặt lên Nhu Cung nằm đằng sau Thượng Cung) và hít vào Thanh Long Thiên Khí
từ Thiên Đỉnh Bách Hội Huyệt (chóp đầu) vào tới bên trong Thượng Đan Điền. Khi
Thanh Long (Tưởng) và Bạch Hổ (Thụ) bắt đầu quấn quít với nhau, thụ khí của tim
và rung động phát ra từ tim sẽ được tạo lập trong Thượng Đan Điền.

Khi thực hiện những môn thiền định này, tất cả những gì các pháp sư Đạo Lão Luyện cần làm
là một kết nối đơn giản của ngón tay cái với mỗi một vị trí Đan Điền tương ứng điểm mong
muốn, đặt lưỡi lên Đan Điền Bí Mật Vị Trí, cùng lúc thâu Thiên Địa Khí vào trung khu Đan
Điền thủ ý để bắt đầu bồi dưỡng nguyên khí.

Võ Đang Sơn Thủ Quyết (Toàn Chân Phái)

Đối với dòng truyền Bắc Cực Tinh Đạo Lão Luyện của truyền thừa Toàn Chân, ngón tay cái
và ngón tay út dùng để đại diện cho Thần Thông của Thiên và Địa thì bị đảo lộn. Trong hệ
thống hết sức đặc thù này của Đạo Lão Luyện, ngón tay cái đại diện cho thần thông nhập thế
(Khắc Nhập) của Địa, trong khi đó ngón tay út đại diện cho xuất thế thần thông (Khắc Xuất)
của Thiên. Khi tồ hợp lại (ngón tay cái ấn chạm vào ngón tay út), khí của hình thể sẽ được
điều hòa bên trong trung khu Thái Cực và Tam Đan Điền được cân bằng.

Khi bồi dưỡng nội thần thông, các bậc thầy phái Võ Đang xưa sử dụng ngón tay trò nhằm đại
diện cho Tiếp Điểm của Hạ Đan Điền; ngón tay giữa đại diện cho Tiếp Điềm của Trung Đan
Điền; và ngón tay đeo nhẫn tượng trưng cho Tiếp Điểm của Thượng Đan Điền. Vào lúc thiền
định, các bậc thầy Đạo Lão Luyện đơn giản chỉ cần làm là kết nối ngón cái với từng Đan
Điền Tiếp Điểm.
BÁT QUÁI ĐƠN THỦ QUYẾT

You might also like