Professional Documents
Culture Documents
Topic này chuyên bàn về "thuật trạch cát", tức là phương pháp tuyển
chọn thời gian (tứ trụ năm tháng ngày giờ) sao cho phù hợp với mệnh
người và cuộc đất. Ta có thể thấy tam tài trong phong thủy:
1. GIỚI THIỆU
2. CÁC SAO/PHƯƠNG CÁT CẦN DÙNG TRONG THUẬT PHONG THỦY
2.1 MỘ LONG BIẾN VẬN (niên nguyệt khắc sơn gia)
2.2 THÔNG THIÊN KHIẾU
2.3 TẨU MÃ LỤC NHÂM
2.4 CAI SƠN HOÀNG ĐẠO
2.5 TUẾ LỘC, TUẾ MÃ
BẢNG PHƯƠNG LỘC MÃ CỦA TỪNG NĂM
2.6 PHI CUNG QUÝ NHÂN
2.7 TUẾ ĐỨC - TUẾ ĐỨC HỢP
2.8 TUẾ CHI ĐỨC
2.9 THIÊN ĐẠO - THIÊN ĐỨC
2.10NGUYỆT ĐỨC, NGUYỆT ĐỨC HỢP
2.11 NGÀY THIÊN NGUYỆT
2.12 NGÀY ÂM DƯƠNG BẤT TƯƠNG
2.13 NGÀY Ô PHỆ, Ô PHỆ ĐỐI
2.14 NGÀY ĐẠI HUNG: DƯƠNG CÔNG KỴ NHẬT
1. GIỚI THIỆU
Học thuật trạch cát là một trong những học thuật cổ của Trung Hoa. Đối
chiếu theo thiên địa tự nhiên, dùng âm dương làm biểu lý, dùng ngũ
hành làm kinh vĩ, tạo nên quy luật vận hành luân chuyển trong trời đất.
Từ ngàn xưa không riêng gì xã hội phương Đông, mà loài người nói
chung trên trái đất đều sử dụng việc đoán định thời gian để khởi công
hành sự công việc. Phần này chuyên bàn về các pháp thức hệ trọng
trong thuật trạch cát - rất gần với thuật phong thủy. Pháp tuyển trạch
chính là pháp tạo mệnh, tức là: 1) xem lai long nên lấy cục nào để bổ,
2) xem hướng để liệu phải tránh sát nào, sát nào chế hóa được, dùng
cát tinh chiếu vào, 3) xem bản mệnh chủ nhân mà phù giúp (gọi là
tương chủ). Pháp tạo mệnh cần những nguyên tắc sau:
Trong học thuật phong thủy, có năm cục chính như sau:
TƯƠNG CHỦ
Có nghĩa giúp đỡ chủ mệnh, tức là mệnh nạp âm ngũ hành năm sinh
của người chủ. Đối với âm phần là mệnh nạp âm của người chết làm
chủ. Đối với dương cơ là mệnh nạp âm năm sinh của người chủ quản lý
gia đình làm chủ mệnh. Ví dụ:
Ví dụ 2: lập mộ tại thế đất Dậu long, hành kim, âm long. Ta có hai cục
để bổ:
CÔNG THỨC
xét sơn tọa của ngôi nhà, ngôi mộ sắp lập là gì, rồi đem so sánh với
bảng "Hồng phạm ngũ hành" xem sơn tọa đó thuộc hành gì. Khi đã biết
hành Hồng phạm của sơn đó rồi, tìm mộ khố theo cục tam hợp như sau:
Rồi lấy năm bắt đầu xây dựng, dụng pháp "ngũ thử độn" để tính mộ của
bổn sơn thì biết nạp âm can chi của mộ sơn - đó là khí mộ long của sơn
nhà hay sơn mộ, dùng năm tháng ngày giờ để khởi công theo nguyên
tắc sau:
nạp âm của năm tháng ngày giờ đồng hành với mộ long
nạp âm của năm tháng ngày giờ sinh ra hành của mộ long
nạp âm của năm tháng ngày giờ bị hành của mộ long khắc chế
Cần phải kiêng kỵ dùng nạp âm của bát tự khắc chế hành của
mộ long là đại hung; còn hành của mộ long sinh ra hành nạp âm
của năm tháng ngày giờ là tiểu hung.
--------------------------------------------------------
Phụ lục: Hồng phạm ngũ hành
Hồng phạm ngũ hành lấy:
Giáp, Dần, Thìn, Tốn, Tuất, Khảm, Tân, Thân: bao gồm 8 sơn
thuộc thủy
Ly, Nhâm, Bính, Ất: bao gồm 4 sơn thuộc hỏa
Chấn, Cấn, Tị: bao gồm 3 sơn thuộc mộc
Càn, Hợi, Đoài, Đinh: bao gồm 4 sơn thuộc kim
Sửu, Quý, Khôn, Canh, Mùi: bao gồm 5 sơn thuộc thổ
Hồng phạm ngũ hành còn được gọi là "Đại ngũ hành", bởi nó chỉ ra
nguyên lý giao hợp của bát quái, hóa khí của 10 can, 12 chi nạp âm, rất
là to lớn. Nguyên tắc của nó là "trong tự nhiên, không giao hợp/giao
dịch thì không thành tạo hóa", thật vậy, trong thiên địa tự nhiên cho
đến nam nữ gặp nhau có giao phối mới tạo ra cái mới - vì vậy gọi là đại
ngũ hành.
--------------------------------------------------------
Ví dụ 1:
năm Đinh Hợi, xây dựng căn nhà tọa Mão hướng Dậu. Sơn Mão đem đối
chiếu với bảng Hồng phạm ngũ hành thì thuộc hành mộc, mộc cục thì
mộ khố tại Mùi. Xét năm Đinh Hợi lấy ngũ thử độn thì ta khởi Canh Tý
(canh tý, tân sửu, nhâm dần, quý mão, giáp thìn, ất tị, bính ngọ, đinh
mùi), ta biết rằng vào năm Đinh Hợi, mộ khố của căn nhà tọa Mão là
"Đinh Mùi", có nạp âm là "Thiên hà thủy". Mà năm Đinh Hợi có nạp âm
là "Ốc thượng thổ" - khắc với mộ long là đại hung (gọi là niên khắc sơn
gia). Nếu có thể hoãn lại được thì nên để tới năm Mậu Tý hãy xây dựng.
Còn không hoãn được thì lựa 3 trụ còn lại là Tháng - Ngày - Giờ để lập
thành thế 3 trị 1 cũng tạm tốt (ví dụ tháng Tị - ngày Dậu - giờ Sửu để
thoát khí thổ, sinh cho khí thủy).
Ví dụ 2:
năm Bính Tý xây dựng căn nhà tọa Ất hướng Tân, lấy sơn Ất đối chiếu
bảng Hồng phạm ngũ hành thuộc hành hỏa. Hỏa cục mộ tại Tuất, năm
Bính khởi Mậu tý - Kỷ sửu - Canh dần - Tân mão - Nhâm thìn - Quý tị -
Giáp ngọ - Ất mùi - Bính thân - Đinh dậu - Mậu tuất. Nạp âm mậu tuất
hành mộc, vậy mộc chính là khí của mộ long căn nhà tọa Ất năm Bính
tý. Năm Bính tý nạp âm hành thủy là đại cát, cần lựa thêm tháng ngày
giờ thủy - mộc - thổ, kỵ hành hỏa (tiểu hung) hành kim (đại hung).
Ví dụ 3:
năm Giáp Ngọ, xây dựng căn nhà tọa Tị hướng Hợi. Sơn Tị trong Hồng
phạm thuộc hành mộc, mộ tại Mùi. Năm Giáp Ngọ khởi Giáp Tý... tới
Mùi là Tân Mùi - thuộc hành thổ, mộ long của căn nhà thuộc hành thổ,
mà năm Giáp Ngọ thì hành kim, mộ long của căn nhà sinh xuất cho niên
gia là tiểu hung. Vì vậy phải chọn tháng ngày giờ hành thổ (để vượng
khí mộ long), hành hỏa (để tướng khí long và khắc niên gia), hành thủy
(để hao khí niên gia). Sao cho hình thành cục diện 3 chọi 1 (tháng ngày
giờ chọi với năm).
#2vietnamconcrete
Ly viên
Hội Viên TVLS
3173 Bài viết:
4431 thanks
@Mention
Gửi vào 31/03/2015 - 22:04
2.2 THÔNG THIÊN KHIẾU
Thông thiên khiếu là chân quyết của Dương Quân Tùng, dùng để khai
sơn lập hướng, xây dựng, tu tạo, tu phương, mai táng có thể đè bẹp
mọi hung thần - chuyên nhất cục khí. Pháp này chỉ dùng bát can tứ duy
để lập sơn hướng cùng đồng dụng thời gian bát tự đều trùng tam hợp
mà lập cục.
CÔNG THỨC
Dùng song sơn khởi (giống như pháp quyết thập nhị thần nhưng ghép
tên khác). Lấy năm tháng ngày giờ sao cho được tam hợp cục nhất khí,
đồng thời về mặt địa lý thì chọn song sơn chỉ dùng thiên can tứ duy để
lập sơn hướng mà không dùng địa chi.
vào năm Thân - Tý - Thìn, chọn bát tự thuần khí Thân Tý Thìn
tạo thành thủy cục thì có thể dùng các sơn Khôn, Canh, Tân, Cấn,
Giáp, Ất.
vào năm Dần, Ngọ, Tuất: chọn bát tự thuần khí Dần Ngọ Tuất tạo
thành hỏa cục thì có thể dùng các sơn Cấn, Giáp, Ất, Khôn, Canh,
Tân.
vào năm Tị - Dậu - Sửu: chọn bát tự thuần khí Tị Dậu Sửu tạo
thành kim cục thì có thể dùng các sơn Tốn, Bính, Đinh, Càn,
Nhâm, Quý
vào năm Hợi - Mão - Mùi: chọn bát tự thuần khí Hợi Mão Mùi tạo
thành mộc cục thì có thể dùng các sơn Tốn, Bính, Đinh, Càn,
Nhâm, Quý
Thực ra, bản chất của pháp quyết này là: theo song sơn ngũ hành, chọn
lấy thiên can tứ duy sao cho được Trường sinh, Mộc dục, Quan đới,
Bệnh, Tử, Mộ thì tự nhiên sẽ tránh được tam sát, đại sát và các chư
hung tinh. Nếu được thêm các cát tinh khác cùng chiếu thì tự nhiên cát.
Thanked by 4 Members: coluong70, minhman, minhhuyluu, huygen
#3vietnamconcrete
Ly viên
Hội Viên TVLS
3173 Bài viết:
4431 thanks
@Mention
Gửi vào 31/03/2015 - 22:24
2.3 TẨU MÃ LỤC NHÂM
Pháp thức này dùng bát tự năm tháng ngày giờ tam hợp cục thuần khí
với song sơn, theo pháp thập nhị thần mà khởi - pháp thức cho phép
lấy:
trường sinh, quan đới, đế vượng và ba đối cung của chúng là
bệnh, mộ, tuyệt
như vậy mỗi một tam hợp cục có thể sử dụng được cả thảy 12 sơn.
#4vietnamconcrete
Ly viên
Hội Viên TVLS
3173 Bài viết:
4431 thanks
@Mention
Gửi vào 01/04/2015 - 05:39
2.4 CAI SƠN HOÀNG ĐẠO
Cai sơn hoàng đạo là phương cát thần rất mạnh, chuyên sử dụng để
khai sơn lập hướng, tu tạo rất tốt
CÔNG THỨC
lấy chi của năm muốn sử dụng, đối chiếu với la kinh 24 sơn thuộc bát
quái xem quái nào quản năm đó, rồi dùng quái đối xung với quái quản
lý năm đó mà phiên quái khởi theo pháp thức "Tiểu du niên biến quái"
để chọn ra sao Tham lang, Cự môn, Vũ khúc. Cộng thêm những sơn
thuộc Bát quái nạp giáp tam hợp mà dùng.
như vậy, để tóm gọn lại cho dễ nhìn, ta có bảng Cai sơn hoàng đạo theo
bảng dưới đây (đã bao gồm cả nạp giáp tam hợp). Còn vào năm nào thì
lấy bát tự thời gian tam hợp với năm. Ví dụ năm Tý thì lấy tháng ngày
giờ sao cho thành bộ tam hợp Thân - Tý - Thìn.
Thanked by 1 Member: minhhuyluu
#5vietnamconcrete
Ly viên
Hội Viên TVLS
3173 Bài viết:
4431 thanks
@Mention
Gửi vào 01/04/2015 - 06:01
2.5 TUẾ LỘC, TUẾ MÃ
TUẾ LỘC
Chính là phương Lâm quan của tuế can, trong 12 thần của vòng trường
sinh thì Lâm quan là phương tốt nhất - chính là lúc đang lên và đã hưng
thịnh. Còn phương Đế vượng đã là lúc tốt thái quá, coi chừng suy bại.
Chọn phương Lâm quan trong năm rất thích hợp cho việc xây dựng.
TUẾ MÃ
Tuế mã chính là phương Bệnh của tuế chi, là phương cát thần dùng để
khai sơn lập hướng, tu tạo, xây dựng rất tốt. Tuế mã cũng giống như
tuế lộc, dùng tuế chi theo 12 thần trường sinh khởi để tìm phương bệnh
chính phương tuế mã.
CÁCH DÙNG
Lộc chủ về tài lộc, mã chủ sự trường tồn. Do đó lộc mã thường dùng
chung với nhau để chỉ sự trường tồn và tài lộc. Ví dụ: năm Giáp lộc tại
phương Dần, trong năm này nếu xây nhà hay để mộ tọa Dần hay hướng
Dần là đạt được cát tinh tài lộc đáo sơn/hướng. Nếu vào năm Giáp
Thân, Giáp Tý, Giáp Thìn thì phương Dần được cả lộc lẫn mã. Khi tuyển
trạch, phải lưu ý dùng bát tự tam hợp của năm tháng ngày giờ để bổ
sơn hướng của lộc mã.
#6vietnamconcrete
Ly viên
Hội Viên TVLS
3173 Bài viết:
4431 thanks
@Mention
Gửi vào 01/04/2015 - 06:54
2.6 PHI CUNG QUÝ NHÂN
Qúy nhân là một Cát thần quan trọng trong thuật trạch cát, được phân
ra làm âm quý và dương quý. Nguyên tắc đặc biệt của Quý nhân là Âm
quý phải đáo âm cung, Dương quý phải đáo dương cung mới thật là cát
tường:
Ví dụ: tính xem sao Âm Quý và Dương Quý của năm Ất Mùi 2015 bay
vào cung nào mỗi tháng? Ta biết rằng năm Ất sao Dương quý là Giáp
Thân, sao Âm Quý là Mậu Tý, lần lượt bỏ nguyệt kiến (tên can chi mỗi
tháng) vào trung cung an thuận ta có:
#7vietnamconcrete
Ly viên
Hội Viên TVLS
3173 Bài viết:
4431 thanks
@Mention
Gửi vào 01/04/2015 - 07:03
Mách nước: nếu cứ dùng cửu cung mà phi thì e rằng mất thời gian
lắm. Ngày nay chúng ta có các công cụ siêu mạnh để thay thế, đó là
phần mềm Excel. Như quý bạn có thể thấy ở bảng ví dụ trên, tôi dùng
ếch xeo bày ra các cột:
#8vietnamconcrete
Ly viên
Hội Viên TVLS
3173 Bài viết:
4431 thanks
@Mention
Gửi vào 01/04/2015 - 07:28
2.7 TUẾ ĐỨC - TUẾ ĐỨC HỢP
Tuế đức là cát thần rất hệ trọng, nơi phương nó quản vạn phúc đều tụ
tập, rất thích hợp cho việc tu tạo, xây dựng mới.
cách thức định là năm can dương là gì thì lấy phương có tên can đó làm
phương tuế đức. Năm can âm thì lấy phương có chữ Can hợp làm
phương tuế can đức - xây dựng hay tu tạo tại phương Tuế cát rất cát
lợi.
#9vietnamconcrete
Ly viên
Hội Viên TVLS
3173 Bài viết:
4431 thanks
@Mention
Gửi vào 01/04/2015 - 07:53
2.8 TUẾ CHI ĐỨC
Tuế chi đức được tính theo chi năm, chính là phương vị của chữ chấp,
chữ này xung với chữ Bế của năm, có công năng xung giải bế tắc nên
gọi là tuế chi đức. Phương địa lý có chữ này (ví dụ như năm Tý tuế chi
đức tại phương Tị) rất lợi việc khởi tạo, hành động mọi việc.
#10vietnamconcrete
Ly viên
Hội Viên TVLS
3173 Bài viết:
4431 thanks
@Mention
Gửi vào 01/04/2015 - 09:54
2.9 THIÊN ĐẠO - THIÊN ĐỨC
Thiên đạo - Thiên đức là phương cát nhất của tháng đó trong năm, theo
8 phương. Uy lực của Thiên đức rất mạnh nên phương nó quản rất cát
tường, dùng để làm nhà, xây mộ hoặc tu sửa cùng các việc khác rất có
lợi.
Ta còn có thể dùng phương Thiên đức theo ngày, ví dụ như phương
Thiên đức tháng 1 là phương Đinh, thì ngày Dần phương thiên đức cũng
ở Đinh.
---------------------------------
Đạo và Đức theo Lão tử:
Hán văn:
孔 德 之 容, 惟 道 是 從. 道 之 為 物, 惟 恍 惟 惚. 惚 兮 恍 兮, 其 中 有
象. 恍 兮 惚 兮, 其 中 有 物; 窈 兮 冥 兮, 其 中 有 精. 其 精 甚 真, 其 中
有 信. 自 古 及 今, 其 名 不 去, 以 閱 眾 甫. 吾 何 以 治 眾 甫 之 狀 哉.
以 此.
Chương 21: Khổng đức chi dung, Duy Đạo thị tùng. Đạo chi vi vật, Duy
hoảng duy hốt. Hốt hề hoảng hề, Kì trung hữu tượng, Hoảng hề hốt hề, Kì
trung hữu vật. Yểu hề minh hề, Kì trung hữu tinh. Kì tinh thậm chân, Kì
trung hữu tín. Tự cổ cập kim, Kì danh bất khứ. Dĩ huyệt chúng phủ. Ngô
hà dĩ tri chúng phủ Chi trạng tai? Dĩ thử.
Chương 21: Dáng của Đức lớn, Theo cùng với Đạo, Đạo sinh ra Vật, Thấp
thoáng mập mờ, Thấp thoáng mập mờ, Trong đó có hình. Mập mờ thấp
thoáng, Trong đó có Vật. Sâu xa tăm tối, Trong đó có tinh. Tinh đó rất
thực, Trong đó có tín. Từ xưa đến nay, Tên đó không mất, Gốc của vạn
vật. Ta làm sao biết được Trạng thái của nó? Nhờ đó vậy.
---------------------------------
#11vietnamconcrete
Ly viên
Hội Viên TVLS
3173 Bài viết:
4431 thanks
@Mention
Gửi vào 01/04/2015 - 12:19
2.10 NGUYỆT ĐỨC, NGUYỆT ĐỨC HỢP
Nguyệt đức là cát thần trực tháng và ngày, dụng luôn cho cả phương
hướng lẫn thời gian. Cần chọn cho ngày động thổ, xây dựng và nhiều
việc khác trong sinh hoạt.
CÔNG THỨC
lấy chi tháng để tính
#12vietnamconcrete
Ly viên
Hội Viên TVLS
3173 Bài viết:
4431 thanks
@Mention
Gửi vào 01/04/2015 - 12:40
2.11 NGÀY THIÊN NGUYỆT
Là ngày cát trong tháng, dùng cho việc cưới hỏi - hôn sự rất cát tường
2.12 NGÀY ÂM DƯƠNG BẤT TƯƠNG
Là cát thần trong tháng rất thích hợp cho việc cưới hỏi, hôn sự - nhưng
chỉ trực thời gian (chứ không dùng cho phương địa lý)
2.13 NGÀY Ô PHỆ, Ô PHỆ ĐỐI
Có hai loại ngày đặc biệt dùng cho việc hiếu
#13vietnamconcrete
Ly viên
Hội Viên TVLS
3173 Bài viết:
4431 thanks
@Mention
Gửi vào 01/04/2015 - 13:05
3. CÁC SAO/PHƯƠNG HUNG CẦN TRÁNH TRONG THUẬT PHONG
THỦY
Phần này đưa ra những hung tinh cần tránh, bao gồm có niên sát và
nguyệt sát. Người xem cần nắm rõ các hung sát tinh nào cần tránh, các
biện pháp hóa giải và chế sát cho từng loại hung sát.
Thái tuế: kỵ đáo hướng mà không kỵ đáo sơn, tạo táng hay tu bổ
đều dùng như nhau. Nếu Thái tuế đáo hướng thì tất Tuế phá tại
tọa cung/đáo sơn. Thái tuế cần nhất là phải đi kèm với các cát
tinh, tuyệt đối không nên đi kèm với các hung tinh. Hung sát rất
nên chế hóa, nếu chế được hung sát tức là đã chế Thái tuế vậy.
Tuế phá: là sao Đại hao, Tuế nộ, trong lệ không đưa ra phép chế,
vì thế không thể phạm. Tạo táng hay tu sửa đều kỵ phương Tuế
phá.
Tam sát: bao gồm Kiếp sát, Tai sát, Tuế sát. Tạo táng đều kỵ tọa
sơn, vì đấy là phương sát của Thái tuế, tuy là có cách chế hóa
nhưng vẫn không nên dùng, bởi nếu chế sát thì sẽ khắc đảo tọa
sơn. Duy chỉ có tam sát tại hướng, khi tu phương mà có thể chế
hóa thì nên dùng.
Mậu kỷ đô thiên: chỉ kỵ tu sửa phương, động thổ. Không kỵ khai
sơn lập hướng, nếu có chế hóa thì dùng được.
Âm phủ: trong tạo táng kỵ sao này tại tọa sơn, đây chính là hóa
khí của Thái tuế khắc với hóa khí của nạp giáp vậy. Nếu có chế
hóa thì không sao. Tu phương tu hướng không kỵ.
Niên khắc: kỵ tọa sơn trong tạo táng mà không kỵ các trường hợp
tu sửa đổi mới. Đây là Thái tuế nạp âm khắc Sơn vận nạp âm
vậy, có chế hóa thì không sao.
Chá thoái/Cứu thoái: trong tạo táng kỵ tọa phương bị Chá thoái,
không kỵ hướng vào phương chá thoái. Tu phương cũng kỵ Chá
thoái vào phương tọa, đây là phương "tử" của tam hợp Thái tuế,
vì vậy cần bổ phương này chứ không được khắc chế.
Thiên/địa quan phù: kỵ tu phương, kỵ cả tạo táng. Khi thấy nó
đáo sơn hay đáo trung cung thì kỵ nhập trạch, quy hỏa (đốt lửa
bếp mới), nếu có chế hóa thì quân bình lại nên cát.
Thiên/địa kim thần: kỵ tu phương, động thổ, không kỵ trong mai
táng, có chế hóa thì không sao.
Niên độc hỏa: kỵ tu phương động thổ, không kỵ khai sơn lập
hướng cũng như việc mai táng chôn cát. Nếu có chế hóa không
sao.5
Bính đinh độc hỏa: kỵ tu phương, động thổ; không kỵ khai sơn
lập hướng. Kỵ chính quái chứ không kỵ bàng sơn. Nếu có chế hóa
thì không sao.
Tuần sơn la hầu: kỵ lập hướng, không kỵ khai sơn, nếu tu
phương mà có cát tinh đáo sơn chiếu thì cát.
Đại tướng quân: kỵ tu phương, hưng tạo. Nếu có Thái dương,
tam kỳ đáo thì tốt.
Đại nguyệt kiến: kỵ tu phương động thổ, không kỵ khai sơn. Nếu
có chế hóa thì không sao.
Tiểu nguyệt kiến: kỵ tu phương động thổ, không kỵ an táng. Nếu
có chế hóa thì không sao.
#14vietnamconcrete
Ly viên
Hội Viên TVLS
3173 Bài viết:
4431 thanks
@Mention
Gửi vào 01/04/2015 - 17:56
3.1 THÁI TUẾ
Thái tuế được mệnh danh là vua của các hung thần, rất cần phải chú ý,
không được dùng phương nó quản để xây dựng mộ phần, xây dựng
hoặc tu tạo nhà cửa. Chi năm gì thì thái tuế ở phương đó.
Sao Thái tuế kị tới hướng chứ không kỵ tới Sơn. Khi làm nhà, để mộ,
sửa chữa mà động Thái tuế nơi hướng ắt sẽ khiến Tuế phá sát tới
phương (vì Tuế phá đối xung với Thái tuế). Muốn tu Thái tuế phải lấy
được nhiều sao cát, không nên tụ các sao hung cùng với Thái tuế. Khi
Thái tuế đóng cùng với các sao cát (tại tọa sơn) tức là chế hung sát vậy.
Thái Tuế là tượng của người đứng đầu chúng thần, quản việc sắp đặt
các phương vị. Từ các việc tu tạo cung khuyết, khai thác cương giới
không thể xung phạm. Lê dân bách tính cũng cần phải quay tránh đi,
tuyệt đối không thể chiếm lấy dùng được (nếu không biết phép chế sát).
CÁCH DÙNG:
Kỵ sửa phương đối xung của nó (trên một địa hình nào đó)
Dùng cửu cung độn Thái tuế vào trung cung, nếu thấy Tuế phá
bay tới phương nào thì kỵ sửa phương ấy.
Dùng cửu cung độn Thái tuế vào trung cung, nếu thấy Thái tuế
đóng cùng các hung tinh (mậu kỷ đô thiên, độc hỏa vv...) thì kỵ
sửa phương ấy.
3.2 TUẾ PHÁ - ĐẠI HAO
Là sao Đại hao, Tuế nộ, rất kỵ làm nhà hay để mộ và trong lệ không có
phép chế, không nên phạm vào. Tuế phá là thời xung với Thái tuế, đất
ấy không thể khởi tạo, di cư tới. Cưới gả hay chọn ngày các loại cũng
phải kỵ ngày Tuế phá. Chỉ có đánh dẹp thì từ hướng Thái tuế đánh tới
phương Tuế phá thì được lợi.
Cách dùng:
Kỵ sửa phương Tuế phá, nếu muốn sửa thì cần phải có cát tinh
đóng để chế hóa.
3.3 TAM SÁT: KIẾP SÁT - TAI SÁT - TUẾ SÁT
tam sát bao gồm Kiếp sát, Tai sát và Tuế sát:
Kiếp sát là âm khí của tuế, chủ việc cướp bóc sát hại trộm cướp.
Nếu phạm phải ắt có tổn thương.
Tai sát là ngôi vị của ngũ hành âm khí. Thường đóng trước Kiếp
sát một thời, chủ việc tai bệnh tật ách. Phương nó quản không
thể tu tạo, phạm phải mắc vào bệnh hoạn.
Tuế sát là sát của âm khí, đặc biệt độc. Thường đóng ở tứ quý.
Ta thấy rằng theo tam hợp của ngũ hành của Thái tuế, lấy tam sát trước
ngôi Trường sinh 3 thời và rơi vào vị trí Tuyệt - Thai - Dưỡng, nói cách
khác nó đứng sau chữ Mộ của tam hợp Thái tuế.
Cách dùng:
Kỵ sửa phương tam sát, tuy rằng có phép chế hóa nhưng người
sơ cơ không nắm rõ thì đừng liều dùng.
Ví dụ về phép chế hóa tam sát:
Ví dụ như Tăng công sửa nhà cho Trần Thị tuổi Nhâm Thân: dùng khóa
thể năm Giáp Thân - tháng Mậu Thìn - ngày Nhâm Tý - giờ Canh Tý.
Đây là tam hợp thủy cục (Thân - Thìn - Tý) để chế Tam sát tại Ngọ/Mùi
phương. Nếu không được như thế, không thể khinh thường thử làm.
3.4 ĐẠI TƯỚNG QUÂN
Đại tướng quân chính là đại tướng của tuế, thống ngự uy vũ tổng lĩnh
đánh dẹp. Nếu xuất quân hay công thành đánh trận thì nên dựa lưng
vào chỗ đó mà đánh qua nơi đối xung (với ĐTQ) thì thắng, tu tạo không
thể phạm vào. Khởi lệ là:
năm mạnh (Dần Thân Tị Hợi) lấy Thắng quang gia lên tuế chi,
đếm tới Thiên cương là đại tướng quân.
năm trọng (Tý Ngọ Mão Dậu) lấy Tiểu cát gia lên tuế chi, đếm tới
Thiên cương là đại tướng quân.
năm quý (Thìn Tuất Sửu Mùi) lấy Truyền tống gia lên tuế chi,
đếm tới Thiên cương là đại tướng quân.
Khắc tuế là giặc, tuế khắc là cừu. Giúp Tuế chống lại giặc/cừu nên có
tượng của Đại tướng. Đại tướng quân có công năng của hào tử tôn (hào
bảo) dùng để hóa giải xung khắc từ đối cung của thái tuế:
Thái tuế tại phương Bắc thủy (Hợi, Tý, Sửu) thì phương nam hỏa
(thổ, vì Mậu Kỷ đóng tại phía nam) là Cừu nên dùng đại tướng
(Dậu) phương Tây kim tiết khí cừu mà sinh tuế.
Thái tuế tại phương Đông mộc (Dần, Mão, Thìn) thì phương Tây
kim là giặc, dùng đại tướng (Tý) Bắc phương tiết khí phương tây
mà sinh cho tuế.
Thái tuế tại phương Nam hỏa (Tị Ngọ Mùi) thì phương Bắc thủy là
giặc, dùng đại tướng (Mão) đông phương tiết khí phương Bắc mà
sinh cho tuế.
Thái tuế tại phương Tây kim (Thân Dậu Tuất) thì phương Đông
mộc là cừu, dùng đại tướng phương Nam (hỏa thổ) tiết khí
phương Đông mà sinh cho tuế.
Tại phương của Đại tướng quân kỵ tu bổ, khởi công, hoàn công. Nhưng
nếu có các cát thần như Thái dương, Tam kỳ, Hưu Sinh Khai đáo thì cát.
LUẬN VỀ HÌNH
lấy bộ tam hợp hỏa/kim ra đối chọi với tam hội nhất phương hỏa/kim, ta
thấy
Tị - Dậu - Sửu (tam hợp kim cục) hình Thân - Dậu - Tuất (tam hội
kim cục nhất phương), trong đó thì Tị hình Sửu, Sửu hình Tuất.
Còn Dậu là chính cục của Kim nên tự sát hại.
Dần - Ngọ - Tuất (tam hợp hỏa cục) hình Tị - Ngọ Mùi (tam hội
hỏa cục nhất phương), trong đó thì Dần hình Tị, Tuất hình Mùi.
Còn Ngọ là chính cục của Hỏa nên tự sát hại.
Đây chính là cái lý Kim cương, Hỏa cường. Cương cường quá sinh ra tự
mình sát hại bản thân mình.
lấy bộ tam hợp mộc/thủy ra đối chọi với tam hội nhất phương mộc/thủy:
Thân - Tý - Thìn tam hợp thủy cục hình tam hội mộc cục nhất
phương Dần Mão Thìn. Trong đó thì Thân hình Dần, Tý thì hình
Mão, Thìn là mộ của hai loài thủy mộc nên tự hình.
Hợi - Mão - Mùi tam hợp mộc cục hình tam hội thủy cục nhất
phương Hợi Tý Sửu. Hợi là nơi sinh của hai loài thủy mộc nên tự
hình, Mão hình Tý, Sửu hình Mùi.
Đây chính là cái lý âm nhu thì phải nương nhờ vào nhau mà sống,
nhưng khi cực số thì mộc cậy vào vinh hoa mà âm khí hình dương; thủy
cậy vào âm tà mà dương khí hình âm. Thủy và mộc là hai loài sinh ra
nhau, vậy mà tới khi cực số lại hình nhau - thiên đạo vậy. Cũng là cái lý
vật cực tắc phản.
Trong môn Lục nhâm cách hình rất được coi trọng, có cả thảy các cách
hình sau:
NHẤT TỰ HÌNH
NHỊ TỰ HÌNH
TAM TỰ HÌNH
KIM CƯƠNG CÁCH
HOẢ CƯỜNG CÁCH
LƯU THUỶ XU ĐÔNG CÁCH
MỘC LẠC QUY CAN CÁCH
TỨ THẮNG SÁT CÁCH
HẠ TOÀN HÌNH THƯƠNG CÁCH
TRỢ HÌNH THÀNH QUỶ CÁCH
Các loại hình này cần phải được tránh cả về thời gian lẫn không gian, ví
như trong các hoạt động khai trương, cưới hỏi, động thổ vvv phải tránh
năm tháng ngày giờ Tuế hình. Và khi tu tạo, xây mới phải tránh phương
Tuế hình.
3.6 LỰC SỸ
Kham dư kinh nói rằng "Lực sĩ là ác thần của Tuế, chủ hình uy, nắm việc
giết chóc. Chỗ phương của nó không nên hướng đến, phạm phải khiến
cho người bị dịch bệnh".
Hai sơn Nhâm Quý: năm Dần - Ngọ - Tuất thì phục binh tại
Nhâm, đại họa tại Quý, tai sát tại Tý. Như vậy hai sơn Nhâm, Quý
là tọa sát vào các năm Dần Ngọ Tuất và hướng sát vào các nhâm
Thân - Tý - Thìn.
Hai sơn Bính Đinh: năm Thân - Tý - Thìn nếu tọa tại hai sơn này
gọi là Tọa sát. Nêu tọa hai sơn này vào các năm Dần - Ngọ - Tuất
gọi là hướng sát.
Hai sơn Giáp Ất: nếu tọa tại hai sơn này vào các năm Tị - Dậu -
Sửu thì gọi là tọa sát. Nếu tọa hai sơn này vào các năm Hợi Mão
Mùi thì gọi là hướng sát.
Hai sơn Tân Canh: nếu tọa tại hai sơn này vào các năm Hợi Mão
Mùi thì gọi là tọa sát, nếu tọa vào các năm Tị Dậu Sửu thì gọi là
hướng sát.
Tọa sát thì họa nặng hơn hướng sát, tam sát có thể dùng được nhưng
phải có các cát tinh chế hóa phù hợp mới dùng được. Vả lại chế sát tại
hướng thì dễ hơn chế sát tại tọa (xem lại 3.3)
Xem Thái tuế mang chữ gì, rồi kiểm tra xem phương nào trong miếng
đất đó trùng với tên tháng Mậu Kỷ. Ví dụ: năm Giáp thì phương Thìn, Tị
có Mậu Kỷ đô thiên. Thấy tháng Mậu, Kỷ ở phương nào thì phương ấy
kỵ tu sửa (nhưng lại không kỵ động thổ xây mới - với điều kiện là không
phải cơi nới từ mảnh đất đang sinh sống, nghĩa là không kỵ khai sơn).
Mậu kỷ đô thiên cũng có thể chế hóa được, nhưng phải chế hóa đúng
phép:
Lý thị nói "Mậu Kỷ chiêm phương, thì dùng niên gia nạp âm để khắc
Mậu Kỷ phương nạp âm, nhưng việc sửa nhỏ thì dùng được, việc sửa
lớn thì không nên. Tam sát phương cũng không nên phạm, nhưng có
chế thì sửa được".
3.9 ÂM PHỦ
Phép này dùng ngũ hành hợp hóa của can năm để tính ra phương bị
khắc. Phương Âm Phủ có chính âm phủ và bàng âm phủ. Khi làm nhà
hay để mộ cần phải tránh tọa sơn nằm vào phương này. Nếu có chế hóa
thì không hại, và chỉ quan tâm khi khai sơn lập hướng chứ tu sửa thì
không ngại.
3.10 CHÁ THOÁI
"Cứu thoái" là chữ "Tử" của tam hợp Thái tuế, tức khí bất túc của Thái
tuế:
CÁCH DÙNG:
Trong việc tạo táng đều nên kỵ tọa phương mà không kỵ hướng, rất kỵ
tu phương. Nếu tu phương mà gặp phải Chá thoái thì nên dùng khóa
tam hợp mà bổ
#15vietnamconcrete
Ly viên
Hội Viên TVLS
3173 Bài viết:
4431 thanks
@Mention
Gửi vào 01/04/2015 - 19:05
3.11 THIÊN/ĐỊA QUAN PHÙ
Trước tiên phải biết chữ Quan phù của năm ấy là gì, sau đó:
Dùng Nguyệt kiến độn trung cung, thấy chữ Quan phù của năm
đó độn tới phương nào thì phương đó có phi thiên quan phù (đây
là dùng nguyệt gia)
Trong cửu cung thì mỗi cung chứa 3 sơn, nên khi thiên quan phù đáo
cung nào thì cả 3 sơn đó sẽ tính là có quan phù. Như vậy, khi tính phi
thiên quan phù phải dùng cả hai phương pháp nói trên. Sau đây là bảng
tra:
BẢNG PHI THIÊN QUAN PHÙ NGUYỆT GIA CỦA NĂM THÂN TÝ THÌN
BẢNG PHI THIÊN QUAN PHÙ NGUYỆT GIA CỦA NĂM TỊ DẬU SỬU
BẢNG PHI THIÊN QUAN PHÙ NGUYỆT GIA CỦA NĂM DẦN NGỌ TUẤT
BẢNG PHI THIÊN QUAN PHÙ NGUYỆT GIA CỦA NĂM HỢI MÃO MÙI
3.13 PHI ĐỊA QUAN PHÙ
Cũng theo cách tính của Thiên quan phù, theo các bước sau:
Trước tiên phải biết chữ Địa quan phù của năm đó là gì, sau đó:
Dùng nguyệt kiến độn trung cung, thấy chữ Địa quan phù bay
vào phương nào thì phương đó "dính" Địa quan phù
CHỮ ĐỊA QUAN PHÙ TÍNH THEO NĂM
Thiên địa kim thần kỵ tu phương và động thổ, không kỵ tang chế, nếu
phạm phải phương Thiên địa kim thần cần phải chế hóa (như nói trên).