You are on page 1of 94

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KINH THÁNH

Tác giả: Norton Sterrett

Mục Lục

I. NHỮNG ĐIỀU CĂN BẢN

01. Mỗi Cá Nhân Cần Phải Học Kinh Thánh

02. Ai Có Thể Hiểu

03. Cần Hiểu Đúng

04. Điểm Xuất Phát

05. Sử Dụng Dụng Cụ Thích Hợp

06. Tiến Hành Cách Nào

II. NHỮNG NGUYÊN TẮC TỔNG QUÁT

07. Xét Văn Mạch

08. Hiểu Nghĩa Chữ

09. Hiểu Văn Phạm

10. Hiểu Ý Định Tác Giả

11. Nghiên Cứu Bối Cảnh

12. Lấy Kinh Thánh Giải Kinh Thánh

III. NHỮNG NGUYÊN TẮC ĐẶC BIỆT

13. Những Nghĩa Bóng Trong Ngôn Ngữ

14. Biểu Tượng

15. Tiêu Biểu

16. Ngụ Ngôn Và Phúng Dụ

17. Đặc Ngữ Do Thái

18. Thi Phú Do Thái

19. Lời Tiên Tri


20. Giáo Lý

21. Tương Quan Giữa Cựu Và Tân Ước

IV. ÁP DỤNG CÁ NHÂN

22. Hưởng Ứng Lời Thượng Đế

LỜI NÓI ĐẦU

Làm sao tôi có thể hiểu được Kinh Thánh nói gì?

Kinh Thánh ích gì cho cá nhân tôi?

Nếu bạn đọc Kinh Thánh mà không biết làm sao để hiểu thì đây là cuốn sách giúp bạn
hiểu.

Tiến sĩ Norton Sterrett hướng dẫn bạn từ đầu qua những nguyên tắc đọc Kinh Thánh
bằng ngôn ngữ bình thường, và những nguyên tắc giúp hiểu những ví dụ, ẩn dụ, biểu
tượng, tiên tri.của Kinh Thánh. Phần kết luận của ông của ông đưa vào áp dụng cho đời
sống hằng ngày.

Bạn có thể bắt đầu như là một người mới tập sự học Kinh Thánh, nhưng khi đọc xong
cuốn sách bạn sẽ được giúp hiểu Kinh Thánh và kinh nghiệm quyền năng thay đổi trong
đời sống mình.

Đây là cuốn sách đúc kết của nhiều năm kinh nghiệm học và dạy Kinh Thánh của
Norton Sterreet, thành viên chuyên huấn luyện của hội sinh viên Tin Lành Thế Giới
(International Fellowship Evangelical Students)

NHỮNG ĐIỀU CĂN BẢN

MỖI CÁ NHÂN CẦN PHẢI HỌC KINH THÁNH

Kinh Thánh là lời Thượng Đế ban cho chúng ta. Người tín đồ Cơ-đốc tin rằng Thượng
Đế đã ban cho chúng ta món quà kỳ diệu nầy để chúng ta trân trọng giữ gìn, học hỏi hiểu
biết, và vâng theo. Nhưng chúng ta không thể thực hiện được các mục tiêu trên nếu chúng
ta cứ xếp Kinh Thánh cất kỹ, hoặc nếu chúng ta không hiểu Kinh Thánh nói gì. Lời Thượng
Đế là dành cho mỗi một chúng ta. Nó phải soi sáng đường đi chúng ta. Nó phải là lương
thực hằng ngày cho chúng ta.

Ăn thì khác với uống. Nó đòi hỏi phải cắn và nhai kỹ. Cũng vậy, ăn nuốt Lời Thượng Đế
thường đòi hỏi học hỏi, nghiền ngẫm, quan sát, suy tư và hành động. Chúng ta không thể
giới hạn chỉ ăn một ngày trong tuần, vào buổi lễ sáng Chúa Nhật. Cũng không phải chỉ
nhận thức ăn mà người khác đã đãi lọc, loại bỏ những chất cứng, lựa ra một vài miếng
mềm ngon cho mình ăn. Cũng không thể nào chỉ ăn tùy hứng hoặc ăn thừa đồ người khác.

Có lẽ bạn đã cố gắng học Kinh Thánh, nhưng không mấy kết quả. Thế rồi bạn bỏ cuộc,
đành chỉ bỏ ra ít phút mỗi ngày đọc một khúc ngắn trong giờ Tỉnh Tâm ngắn ngủi, coi qua
một chú thích nào đó để tìm ý, rồi cầu nguyện sơ sài. Bạn tìm kiếm những lời hứa, những
mệnh lệnh rõ ràng, nhưng bỏ qua những gì bạn thấy khó. Tuy nhiên bạn không hài lòng và
cảm thấy Thượng Đế muốn bạn nhận được nhiều hơn từ Kinh Thánh. Bạn nghĩ đúng, vì
Thượng Đế truyền dạy chúng ta phải học lời Ngài (Thi 119:9,11). Hơn nữa, Ngài nói rằng
chúng ta có thể hiểu lời Ngài vì có Đức Thánh Linh làm giáo sư cho chúng ta (xem Gi
2:20,27).

Nói thế không có nghĩa là chúng ta không làm gì cả, chỉ để Thượng Đế dạy cho mình.
Chúa Giê-xu đã nói rằng chính Thượng Đế nuôi loài chim, nhưng chim chóc cũng phải bỏ
công sức ra tìm kiếm thức ăn. Thượng Đế hứa nuôi chúng ta bằng lời Ngài, nhưng chúng
ta phải học hỏi. Lương thực đã có đó, chúng ta có thể nuôi mình. Đây là một trong những
ơn phước lớn lao của cuộc sống Cơ-đốc.

NGƯỜI DẠY

Kinh Thánh có nói Thượng Đế ban cho một số người ân tứ dạy dỗ để lo công tác giáo
dục (ICo 12:28 Eph 4:11). Nhưng đó chỉ là một giai đoạn mà Thượng Đế đã sắp đặt để cho
con người hiểu được lời Ngài. Vì câu Kinh Thánh trong thơ Giăng đã trưng trên kia cũng
nói rõ rằng mọi người tin phải nhờ Thánh Linh mà học hỏi.

Nói thế không có nghĩa là chúng ta không đếm xỉa gì tới những giáo sư được Chúa
dùng trong Hội Thánh. Chúng ta không thể nào tự mình biết được mọi thứ. Chúng ta cũng
phải học với người khác và học hỏi nơi họ. Thượng Đế đã đặt để trong Hội Thánh những
người có ơn diễn giải Kinh Thánh và giải thích những giáo lý lớn cho niềm tin chúng ta.

Đặc biệt là các thanh niên trong Chúa, cần phải hỏi ý kiến những tín đồ trưởng thành
hơn, những người đã biết Lời Chúa có thể giúp mình hiểu được. Nếu bạn đọc một đoạn
Kinh Thánh và cảm thấy mình khám phá ra một chân lý mới, hãy trình bày ý đó với một tín
hữu trưởng thành hơn, ý nói không phải bao giờ cũng đúng dầu cho nó xuất phát từ sự học
hỏi, cầu nguyện. Sau khi chia xẻ với người trưởng thành hơn, hãy học lại khúc Kinh Thánh
đó, đối chiếu với những gợi ý của họ.

THÁNH LINH DẠY


Thượng Đế dùng các giáo sư dạy chúng ta, đồng thời Ngài cũng dùng sự nghiên cứu
với tinh thần cầu nguyện của mỗi chúng ta. Nhưng bao nhiêu đó chưa đủ. Chính Thánh
Linh Thượng Đế phải là giáo sư của chúng ta. Chúa Giê-xu đã nói, “Ngài (Đức Thánh Linh)
sẽ dẫn các ngươi vào mọi lẽ thật” và “Ngài sẽ dạy các ngươi mọi điều” (Gi 16:13 14:26).

Đây là một chân lý phước hạnh cho mọi người Cơ-đốc: Thượng Đế đã ban Thánh Linh
để ở với mỗi một người tin, thân thể chúng ta là đền thờ của Ngài (ICo 6:19). Một trong
những công tác của Đức Thánh Linh là soi sáng Kinh Thánh. Nếu chúng ta nhận biết trọng
trách đó của Ngài, chúng ta sẽ hăm hở đào sâu tìm hiểu Kinh Thánh.

Chúng ta cũng sẽ tránh được hai thái độ sai lầm đối với việc học Kinh Thánh. Một là
chúng ta không thể tự tin ở chính mình. Chúng ta sẽ không cho rằng trí óc chúng ta có thể
nắm bắt được chân lý Kinh Thánh mà không cần trợ giúp, rằng nhờ nghiên cứu kỹ càng mà
chúng ta có một kiến thức chuyên biệt về Kinh Thánh, rằng những điều chúng ta hiểu biết
về Kinh Thánh là tối hậu. Chúng ta sẽ có tinh thần khiêm nhường, cảm ơn Chúa về những
điều mình biết được, nhưng cũng nhìn nhận rằng còn có nhiều điều mình cần phải học hỏi.
Sứ đồ Phao-lô, một người có thể nói là biết Kinh Thánh nhiều hơn bất cứ ai đồng thời với
ông, đã được thần cảm để viết những lời khuyên nầy: “Nếu có ai tưởng rằng mình biết điều
gì, người ấy chưa biết như mình đáng phải biết” (ICo 8:2). Ông không nói về tóan hay khoa
học, nhưng về những điều thuộc về Thượng Đế. Chúng ta chẳng có lý do nào để hãnh
diện về kiến thức Kinh Thánh của mình.

Thứ hai, chúng ta không thể nào không nhờ cậy Chúa để hiểu biết Lời Ngài. Chúng ta
chấp nhận sự dạy dỗ của Đức Thánh Linh không chút hoài nghi hay vô tín. Tội vô tín cũng
nặng như tội kiêu căng vậy. Đừng bao giờ coi nhẹ đặc ân được học hỏi với Thượng Đế.

Tuy vậy, một số tín hữu đã nghĩ sai về đặc ân nầy. Họ cho rằng vì Đức Thánh Linh là
thầy dạy của ta thì ta không cần học nữa. Họ cho rằng chúng ta chỉ cần đọc Kinh Thánh
và quỳ gối cầu nguyện xin Chúa dạy chúng ta. Rồi những gì chúng ta nghĩ hay tin đều ra
từ Thượng Đế cả. Theo họ, như thế mới đúng là ăn nuốt lời Chúa. Việc nghiên cứu học hỏi
là không cần thiết.

Đây quả là một kết luận sai lầm. Thượng Đế ban nước uống cho dân Do Thái khi Môi-
se dùng gậy đập hòn đá, nhưng đó là chuyện phi thường. Chúa đòi hỏi Áp-ra-ham và Gia-
cốp phải ra công đào giếng. Nứơc từ Thượng Đế đến với chúng ta qua công việc đào sâu
học hỏi.
Thượng Đế có thể ban cho chúng ta bằng cả hai đường lối siêu nhiên và tự nhiên. Ngài
ban cho chúng ta trí tuệ nhờ đó chúng ta có thể hiểu Ngài, và Ngài cũng bảo chúng ta tẩy
sạch nó và sử dụng nó. Chúng ta phải yêu mến Chúa với tất cả khả năng trí tuệ của chúng
ta (Mat 22:37).

SỰ HIỂU BIẾT THÍCH ĐÁNG NHƯNG CHƯA TRỌN VẸN

Nói rằng chúng ta hiểu Lời Thượng Đế không có nghĩa là chúng ta hiểu tất cả, giải
quyết được mọi nan đề, giải đáp được mọi thắc mắc. Ngay cả những học giả hiểu rành
tiếng Hy Lạp và Hê-bơ-rơ, thông thạo lịch sử, văn hóa v.v...vẫn không thể nào giải thích
thỏa đáng mọi câu ttrong Kinh Thánh. Chẳng hạn, câu “ Vì người chết chịu báp-têm” (ICo
15:29) có nhiều cách giải thích, nhưng không một học giả nào biết chắc câu đó có nghĩa gì.

Câu “Chúa giảng cho các linh hồn bị tù” (IPhi 3:19) cũng gây nhiều tranh luận giữa các học
giả.

Nhưng chúng ta không thể vì thế mà nản chí. Chúng ta có thể hiểu đủ để biết ý Chúa
và vâng theo lệnh Ngài. Thượng Đế muốn chúng ta học lời Ngài, Ngài hứa sẽ giúp chúng
ta hiểu Lời đó và tương giao với Ngài trong ánh sáng. Nhưng Ngài không bảo rằng sự hiểu
biết sẽ đến dễ dàng. Nếu chúng ta thành tâm, thì phước hạnh lớn lao đang chờ đợi chúng
ta.

Chân lý do chính chúng ta tự lãnh hội được, không phải từ người khác, sẽ có giá trị gấp
bội.

Vậy nếu bạn muốn học Kinh Thánh, hãy đọc tiếp. Sáu chương đầu (Phần I) chỉ dẫn
những điều quan trọng ảnh hưởng đến việc học Kinh Thánh. Phần 2 nói về những nguyên
tắc tổng quát trong việc giải nghĩa Kinh Thánh, Phần 3 là những chương đặc biệt, và cuối
cùng là phần áp dụng.

AI CÓ THỂ HIỂU KINH THÁNH

Không phải ai cũng có thể thông giải Kinh Thánh đúng cách. Chân lý trong Kinh Thánh
thuộc linh giới, cho nên chỉ những ai có khả năng tâm linh mới có thể hiểu được Lời
Thượng Đế dành cho những người biết nghe và chịu lắng nghe.

Mỗi tín hữu Cơ-đốc đều đã có ít nhiều điều kiện cần thiết. Còn một số điều kiện khác
có thể thủ đắc. Nếu không có những điều kiện đó họ không có cách gì hiểu Kinh Thánh
cho đúng. Chúng ta hãy xem xét những phẩm tính đó.

1. Một tấm lòng mới (ICo 2:14)


Người thông giải phải được tái sinh. Thông điệp Kinh Thánh nói về Thượng Đế, con
người, và những tương quan giữa con người và Thượng Đế. Như vậy, một người đứng
ngoài mối tương giao đó sẽ không nghe được nhiều điều Thượng Đế đã phán. Họ có thể
thu thập dữ kiện và hiểu được những điểm kỹ thuật của ngôn ngữ. Nếu là học giả, ông ta
có thể có một một kiến thức khá cao về Kinh Thánh, về lịch sử của nó, về những con
người trong đó, và cũng có thể biết được một số giáo huấn nữa. Song một người chưa
nhận được sự sống tâm linh của Thượng Đế thì thiếu hẳn khả năng thiết yếu để hiểu sứ
điệp của Kinh Thánh.

2. Một tấm lòng đói khát (IPhi 2:2)

Chỉ đọc tùy hứng khi thuận tiện thì không thể nào có kiến thức về Kinh Thánh. Nó
không giống như những vỏ sò sặc sỡ nằm dọc bão biển, bạn chỉ cần bỏ ra vài phút để
lượm khi nào bạn thích. Đúng ra, nó giống như quặng mỏ quí giá, bạn chỉ có thể tìm được
khi nào có quyết tâm. Bạn chỉ có quyết tâm nầy khi nào thiết tha muốn biết Thượng Đế và
Lời Ngài.

Có người muốn học Kinh Thánh, nhưng khi đem Kinh Thánh ra đọc thì cảm thấy buồn
ngủ nên quay ra tìm đọc những thứ khác vui hơn như sách báo, nghe radio hoặc xem TV.
Có người chỉ đọc những đoạn dễ, đến khi thấy khó thì bỏ cuộc. Họ không có sự đói khát
để thúc đẩy tiến tới.

3. Một tấm lòng vâng phục (Thi 119:99-100)

Để hiểu Kinh Thánh cho đúng, chúng ta phải sẵn sàng vâng phục thánh ý Thượng Đế
khi Ngài chỉ dạy chúng ta. Kinh Thánh kêu gọi chúng ta hưởng ứng, không phải chỉ phân
tích nó. Nếu chúng ta không chịu hành động, chúng ta không thể nào đạt đến chân lý trọn
vẹn. Một tấm lòng vâng phục sẽ thấy ý nghĩa Kinh Thánh mở ra cho mình.

Thượng Đế đòi hỏi thái độ của tấm lòng, không phải một bản kê khai hành động. Ngài
không đợi cho đến khi chúng ta theo Ngài một thời gian lâu rồi mới bắt đầu dạy chúng ta.
Không Ngài nhìn tấm lòng chúng ta và biết rõ. Khi nào lòng chúng ta hưởng ứng thì Ngài
bắt đầu dạy chúng ta.

Học hỏi và vâng phục đi với nhau từng bước một. Nếu Thượng Đế dạy tôi một điều gì
và tôi vâng phục Ngài, thì tôi có thể mong đợi Ngài dạy cho tôi thêm điều khác nữa. Nếu tôi
không chịu vâng phục thì đừng nên mong tiến bộ. Tôi có thể thu nhận được một số dữ kiện
nhưng chân lý thiết yếu vẫn bị che khuất. Tôi có thể ăn đầy bụng cơm và cà-ri, nhưng
không tiêu hóa được chất Vitamin bổ dưỡng.
4. Một tấm lòng kỷ luật (Mat 7:7)

Một người có tấm lòng kỷ luật bắt đầu làm việc gì thì cứ tiếp tục làm luôn dù gặp khó
khăn. Anh ta sẽ cắt bớt việc khác để dành thì giờ cho việc ưu tiên. Dù phải mất thời gian
lâu để làm xong việc anh ta cũng không lãng bỏ, vì biết rằng điều đó đúng. Học Kinh
Thánh đòi hỏi một tấm lòng như vậy.

Đây là thứ kỷ luật tự giác. Không ai bắt buộc mình phải học Kinh Thánh. Có lúc chúng
ta cảm thấy vui thích phấn khởi, nhưng cũng có những ngày không được như vậy. Tuy
nhiên chúng ta phải giữ kỷ luật, cứ tiếp tục tiến tới, vì không ai có thể đến đích mau lẹ dễ
dàng được. Chúa Giê-xu nói rằng: “Hãy tìm sẽ được,” không phải “hãy xem cầu may đâu
đó thì sẽ được”.

5. Một tấm lòng cầu tiến (Es 50:4)

Một con người cầu tiến, không bao giờ thấy mình học đủ, biết rằng còn rất nhiều điều
mình chưa biết, luôn khiêm nhường sẵn sàng tìm kiếm khám phá những chân lý mới.

Người cầu tiến sẵn sàng học hỏi nơi người khác. Có lẽ chúng ta sẵn sàng học nơi
Chúa, hoặc tưởng mình như vậy, nhưng chúng ta có bằng lòng học hỏi với các anh chị em
khác không, nhất là khi họ nghĩ đúng mà mình sai?

Mỗi người chúng ta đều có ý kiến riêng về kinh Thánh, có những xác tín về những giáo
lý và về ý nghĩa của nhiều đoạn Kinh Thánh. Những ý đó ở đâu ra? Hầu hết đều do những
bài giảng chúng ta đã nghe, sách chúng ta đã đọc, những ý đó chúng ta thu nhận được từ
người khác. Những xác tín chúng ta có thể đúng, có thể sai, hoặc chỉ đúng có một phần.
Chúng ta có sẵn sàng nhận rằng, “tôi sai” không? Nếu không, ta chưa thật sự cầu tiến.

Tấm lòng khiêm nhường, cầu tiến sẽ được Chúa bày tỏ chân lý của Ngài.

Muốn hiểu biết Kinh Thánh thì phải có năm đức tính quan trọng trên. Hễ càng có được
nhiều thì càng học hỏi được nhiều. Nếu muốn có chúng, chúng ta hãy cầu xin Chúa, và
nên bắt đầu học Kinh Thánh ngay khi cầu xin. Nếu chúng ta học hỏi vói tinh thần tìm kiếm,
chắc chắn Chúa sẽ dạy chúng ta.

CẦN HIỂU ĐÚNG

Các học giả Kinh Thánh đã nghiên cứu, suy tư và viết rất nhiều sách về thông giải Kinh
Thánh. Công tác đó cần thiết vì thông giải cho đúng cách là một vấn đề khẩn thiết.
Nhiều câu chúng ta không rõ nghĩa. Chúng ta đọc đi đọc lại mà vẫn thắc mắc không
biết câu nầy có nghĩa gì, có câu có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Bởi vậy chúng ta
cần phải thông giải để làm sáng tỏ ý nghĩa.

HAI CÂU KHÓ

Ví dụ, chúng ta xét thử câu “Chớ mang ách chung với kẻ chẳng tin” (IICo 6:14). Câu nầy
có nghĩa gì? Ách là một thanh gỗ đặt trên cổ của hai con vật giữ chúng với nhau để làm
một công việc kéo cày chẳng hạn. Phải chăng người tin không được mang chung một
thanh gỗ với người không tin? Ý đó ngô nghê quá.

Có phải câu nầy nói về hôn nhân giữa người tin và người không tin? Hay có ý cấm
người tin hùn hạp làm ăn với người không tin? Hoặc nó cấm người tín đồ gia nhập những
hiệp hội như Rotary, Masons, nơi người ta thu nhận đủ loại hội viên?

Còn câu nầy trong Thi Thiên: “Người chết không ngợi khen Chúa” (Thi 115:17) có nghĩa
gì? Phải chăng người tín đồ sau khi chết không còn thờ phượng Thượng Đế?

Hai câu trên đây, cũng như nhiều câu khác nữa, cần được thông giải. Khi ta đọc một
câu Kinh Thánh, bạn có thể hiểu một ý và tôi có thể ý khác, làm thế nào để quyết định ý
nào đúng. Đó là cái khó của công việc thông giải.

VẤN ĐỀ THÔNG ĐẠT

Chúng ta dùng ngôn ngữ để truyền thông. Khi người nầy muốn truyền thông với người
khác, họ nói, viết, hát hay hành động để tỏ ý của mình. Khi người kia hiểu được ý trong lời
nói hay cử chỉ của người nầy, họ đã truyền thông được với nhau.

Nhưng chúng ta thường hay hiểu lầm nhau. Lần đầu tiên tôi nghe một người bạn nói với
tôi: “Anh kéo cẳng tôi”, tôi không hiểu anh ấy tưởng anh ta ngụ một ý gì xấu lắm. Nhưng
bây giờ tôi đã hiểu câu ấy có ý nói bóng là: “Anh giỡn chơi hả” mà thôi. Như vậy, muốn
hiểu nhau cũng như muốn hiểu Kinh Thánh ta cần hiểu rõ ngôn ngữ.

Có những nguyên tắc giúp chúng ta hiểu ngôn ngữ được đem áp dụng cho việc hiểu
Kinh Thánh. Cũng có một số nguyên tắc đặc biệt cho ngôn ngữ của Kinh Thánh. Trong bất
cứ ngành nghề nào cũng có lý thuyết và thực hành, việc thông giải Kinh Thánh cũng vậy.
Trong tiếng Anh việc nghiên cứu các nguyên tắc thông giải gọi là hermeneutics, việc thực
hành các nguyên tắc đó gọi là exegesis hay interpretation. Khi đem trình bày sự thông giải
của mình cho người khác gọi là exposition. Trong sách nầy trước hết chúng ta xét đến
những nguyên tắc, rồi sau đó tìm hiểu cách áp dụng chúng.
CẦN CÓ NGUYÊN TẮC ĐÚNG

Giả thử người đọc Cong 15:28-29 và nhận thấy vấn đề bàn cải ở đây đề cập đến sự cứu
rỗi. Người ấy đọc thấy các nhà lãnh đạo Hội thánh gởi một thông điệp cho các tân tín hữu
ngoại bang ở An-ti-ốt về “một số điều cần thiết”: “Kiêng giữ cho khỏi sự ô uế của thần
tượng, sự tà dâm, sự ăn thịt thú vật chết ngột và huyết.” Đọc xong, ông ta kết luận rằng
muốn được cứu rỗi phải kiêng cử các thứ trên đây.

Ông ta lại đọc trong Gia-cơ “Anh em biết người ta cậy việc làm được xưng công bình,
chớ chẳng những cậy đức tin mà thôi” (Gia 2:24). Câu nầy càng khiến ông ta kết luận rằng
phải nhờ việc làm để được cứu rỗi, rồi xây dựng cuộc sống mình trên niềm tin đó, thế là
ông ta đã hiểu sai lời Chúa và phương pháp cứu rỗi của Ngài. Số phận ông ta tùy thuộc
vào sự thông giải Kinh Thánh đúng hay sai. Trên đây chúng ta chỉ giả thử thôi, nhưng thực
tế đau lòng là có nhiều người đã thật sự hành động như vậy.

Muốn thông giải đúng cần phải có nguyên tắc đúng. Chúng ta không được quyền tự tạo
lấy nguyên tắc hoặc dùng nguyên tắc nào cũng được. Làm cách nào để tìm ra nguyên tắc
đó? Cách thứ nhất là tìm hiểu Tân Ước thông giải Cựu Ước như thế nào. Cách thứ hai là
nghiên cứu các quy luật của ngôn ngữ, những nguyên tắc để hiểu ngôn ngữ nói chung.

Muốn hiểu được một câu nói, chúng ta phải đặt nó trong toàn thể câu chuyện. Đây là
một quy luật của ngôn ngữ, người ta gọi là văn mạch (context), một nguyên tắc căn bản
trong việc thông giải Kinh Thánh.

Có nhiều nguyên tắc thông giải Kinh Thánh chỉ là những quy luật nói chung. Chính
Kinh Thánh cũng soi sáng một số nguyên tắc đó. Ví dụ Chúa Giê-xu bảo các môn đồ hãy
coi chừng men của người Pha-ra-si (Mat 16:6-12). Họ nghĩ theo nghĩa đen và hiểu lầm ý
Ngài, vì vậy Ngài phải giải thích rằng những chữ men Ngài dùng đây là nói về “Điều dạy
dỗ.” Lối nói nầy khi Ngài nói, “Hãy phá hủy đền thờ nầy đi” (Gi 2:19-22), Ngài dùng đền thờ
để chỉ về thân thể Ngài.

Đức Thánh Linh đã cảm xúc việc viết Kinh Thánh bằng ngôn ngữ loài người. Bởi vậy,
phải hiểu những lời đó theo những quy luật của ngôn ngữ, nhất là những qui luật đã được
phát hiện trong chính Kinh Thánh.

ĐIỂM XUẤT PHÁT


Bất cứ hoạt động nào cũng có một khởi điểm. Trong việc học Kinh Thánh, chúng ta bắt
đầu với những xác tín của chúng ta về Kinh Thánh và về phương cách học hỏi thích hợp. Ở
đây tôi chỉ nêu ra chứ không chứng minh những điểm nầy.

Một số người bảo chúng ta không nên làm như vậy. Họ nói chúng ta cần phải có tâm trí
cởi mở khi đến với Kinh Thánh, không nên có một xác tín trước rằng đó là Lời Thượng Đế,
hay đó là chân lý. Theo ý họ, chúng ta nên học Kinh Thánh để thấy những gì Kinh Thánh
tự bày tỏ ra. Nếu đó là Lời Thượng Đế thì nó sẽ bày tỏ ra như thế.

Đó cũng là một cách học Kinh Thánh, nhưng không phải đường hướng chúng ta áp
dụng trong sách nầy. Thứ nhất, vì thực tế không thể có một tâm trí nào hoàn toàn vô tư,
khách quan. Bất cứ ai biết ít nhiều về Kinh Thánh đều có một xác tín nào đó. Thứ hai,
đường hướng đó đòi hỏi phải viết một cuốn sách dày hơn nhiều. Thứ ba, các học giả đã
dùng phương cách đó và đã chứng minh cách hùng hồn rằng Kinh Thánh đến từ Thượng
Đế.

NHỮNG XÁC TÍN CĂN BẢN

Vậy chúng ta bắt đầu từ một số xác tín cơ bản làm nền tảng cho việc học hỏi của
chúng ta. Tất cả các tín hữu Tin Lành đều đồng ý về những xác tín có liên quan tới nội
dung Kinh Thánh. Những xác tín có liên quan đến đường hướng học Kinh Thánh có thể
không được mọi người tán thành, nhưng tôi hy vọng chứng tỏ là chúng hợp lý.

1. Kinh Thánh là Lời Thượng Đế (cả Cựu và Tân ước)

Kinh Thánh được Thượng Đế cảm thúc, bởi vậy Kinh Thánh khác với mọi sách khác.
Nói vắn tắc, những điều Kinh Thánh nói là do Thượng Đế phán. Muốn hiểu Kinh Thánh
cho đúng, bạn cần phải tin rằng đó là Lời Thượng Đế, qua Kinh Thánh Ngài đã phán dạy
loài người, trong đó có bạn. Bạn phải xác nhận rằng những lời tuyên bố trong Kinh Thánh
có thẩm quyền và đáng tin cậy.

Niềm xác tín nầy là căn bản cho việc học Kinh Thánh của chúng ta và ảnh hưởng toàn
thể đường hướng học hỏi của chúng ta, vì việc học Kinh Thánh không phải chỉ là một kỹ
thuật. Thái độ tin tưởng rất quan trọng trong việc hiểu biết. Nếu bạn có nghi ngờ gì thì xin
làm sáng tỏ trước khi bắt đầu học. Hãy cầu nguyện xin Chúa bày tỏ chân lý và tìm đọc
những sách bổ ích về đề tài nầy.

Tuy nhiên chúng ta nên cẩn thận. Thượng Đế có thể không phán những điều mà một
số người tưởng là Kinh Thánh đã nói. Không phải vì chúng ta tin Kinh Thánh là Lời Thượng
Đế mà những gì chúng ta nghĩ về Kinh Thánh đều đúng cả. Chính vì lý do đó mà chúng ta
cần phải thông giải Kinh Thánh cẩn thận.

2. Chúng ta có thể hiểu được Kinh Thánh qua các bản dịch

Một số tín hữu tin rằng chỉ học Kinh Thánh trong tiếng Hy-lạp hay Hê-bơ-rơ thì mới hiểu
đúng nghĩa, nhưng hầu hết các tín hữu từ thời Chúa Giê-xu đến nay đều chỉ biết Kinh
Thánh qua các bản dịch. Ngay như thời nay cũng chỉ có một thiểu số tín hữu được đọc
sách vở của các học giả nghiên cứu Kinh Thánh ở nguyên ngữ. Nhiều thứ tiếng không có
sẵn bình giải (commentary) và Thánh Kinh phụ dẫn (concordance), hoặc sách quá đắt khó
mua nổi. Phải chăng Thượng Đế sắp đặt để cho đa số tín hữu không hiểu được lời Ngài?
Không, các bản dịch đều chuyên chở được ý nhĩa thiết yếu của Kinh Thánh.

Như vậy không có nghĩa là công tác khảo cứu vô bổ. Nó rất quan trọng và có giá trị.
Nhờ sự khảo cứu, chúng ta có thêm nhiều kiến thức và những soi sáng có giá trị, nhất là
trong việc thông giải những điểm khó hiểu trong Kinh Thánh.

Dĩ nhiên, thứ tiếng nguyên thủy của Kinh Thánh không phải là tiếng mẹ đẻ của nhiều
người. Cựu Ước viết bằng tiếng Hê-bơ-rơ (trừ một vài phần bằng tiếng A-ram), Tân Ước
viết bằng tiếng Hi-lạp. Như vậy những bản Kinh Thánh chúng ta dùng đều là những bản
dịch dầu đó là bằng tiếng Anh, tiếng Ấn, tiếng Tamil, hay tiếng Việt. Hầu hết các bản dịch
là do các học giả Cơ-đốc dịch ra với tinh thần cầu nguyện và cẩn trọng, chúng ta có thể tin
tưởng các bản dịch đó. Thí dụ như bản dịch Cựu Ước ra tiếng Hy lạp, thực hiện vào
khoảng năm 280 TC, gọi là bản Septuagint (Bản Bảy Mươi). Kinh Tân Ước thường trích từ
bản dịch nầy hơn là bản tiếng gốc Hê-bơ-rơ (những bản văn chúng ta có ngày nay), như
những câu trích trong Mat 13:14-15 Lu 3:4-6 và Ro 15:12.

Tuy nhiên, không phải tất cả các bản dịch đều được thực hiện cẩn thận, một số không
do những người tin nơi sự thần cảm của Kinh Thánh dịch. Vì vậy bạn cần biết những bản
dịch mình dùng, nhất là bản dịch tiếng Anh, vì tiếng Anh có nhiều bản dịch.

3. Kinh Thánh là nhất quán (unity)

Cựu Ước và Tân Ước không mâu thuẩn nhau trong việc khải minh Thượng Đế. Đúng
ra, cả hai bổ túc lẫn nhau: Cựu Ước chuẩn bị cho Tân Ước và Tân Ước hoàn thành Cựu
Ước.

Tiến trình của sự mặc khải là: Cựu Ước khải minh từng phần và bằng “nhiều cách” còn
Tân Ước ghi lại mặc khải tối hậu của Chúa Giê-xu Cơ-Đốc. Tuy nhiên, Chúa Giê-xu Cơ-
Đốc cũng là trung tâm của Cựu Ước, dù chân dung của Ngài chỉ xuất hiện rời rạc từng
phần. Chúng ta chỉ hiểu được Kinh Thánh khi chúng ta thấy được cái hoàn thể: Đấng Cứu
Thế và kế hoạch cứu rỗi của Thượng Đế qua Ngài.

4. Kinh Thánh tự thông giải chính mình

Nghĩa là, khúc sách nầy soi rọi cho khúc kia. So sánh Kinh Thánh với Kinh Thánh là cơ
bản cho việc thông giải Kinh Thánh. Những câu rõ nghĩa giúp giải thích những câu tối
nghĩa. Những câu nghĩa đen soi sáng cho những câu nghĩa bóng. Lịch sử và giáo huấn
của Tân Ước vén màn bí mật cho những lời tiên tri của Cựu Ước.

Việc so sánh phải cẩn thận, không được một chiều. Ví dụ, có người đọc câu “Ai trong
các ngươi không bỏ mọi sự mình có thì không được làm môn đồ ta” (Lu 14:33), đem so sánh
với lệnh Chúa truyền “Hãy bán hết gia tài phân phát cho kẻ nghèo rối đến đây mà theo ta ”
(18:22), rồi ông ta đem của cải ra cho hết, trong khi còn có vợ và 5 con. Sau khi sạch hết
của cải rồi, ông ta chẳng còn gì nuôi vợ con nữa đành phải sống và nhờ vào của bố thí của
người khác. Người nầy đã so sánh Kinh Thánh cách nông cạn, không để ý tới những câu
khác trong ICo 16:2 ITi 5:8 6:17-19.vv..

5. Ngôn ngữ Kinh Thánh là ngôn ngữ thường tình của con người

Có thời người ta cho rằng Kinh Thánh được viết bằng chữ Hi Lạp linh thiêng của Thiên
đàng, nhưng về sau người ta tìm thấy rằng ngôn ngữ của Tân Ước là thứ ngôn ngữ thông
dụng vào thế kỷ thứ nhất. Ngôn ngữ đó chịu ảnh hưởng của văn hóa Do Thái thời bấy giờ,
cho nên Tân Ước có nhiều thành ngữ đặc biệt của người Do Thái. Có một số chữ có nghĩa
thông dụng, nhưng trong Kinh Thánh nó lại mang một ý nghĩa đặc biệt của người Do Thái,
chẳng hạn như chữ ecclesia (hội thánh) và agapao (yêu thương). Ngôn ngữ tiên tri có
những đặc điểm riêng, chẳng hạn dùng thì quá khứ khi nói về tương lai.

Dầu vậy, hầu hết các người viết Kinh Thánh đều dùng ngôn ngữ thông thường với
những danh từ, động từ vv... ngay cả những hình ảnh dùng cũng giống chúng ta. Khi Kinh
Thánh nói về những cây cối vỗ tay hay núi đồi vui cười, chúng ta thấy không có gì khó
hiểu. Chúng ta có thể tìm thấy những yếu tố ngôn ngữ mình đã biết và áp dụng những qui
luật thông thường của ngôn ngữ.

6. Sự hiểu biết Kinh Thánh phải đi đôi với sự hưởng ứng thành thật, khôn ngoan và
tuân phục
Lời Thượng Đế ban cho chúng ta “Được trọn vẹn và sắm sẵn để làm mọi việc lành” (IITi
3:17). Không một hiểu biết nào về Kinh Thánh là thuần kỹ thuật và lý thuyết suông. Khi

chân lý đã rõ ràng cho tâm trí, thì ý chí phải đáp ứng. Hiểu biết và vâng phục không được
tách rời nhau. Chúng ta học để làm, và chúng ta không thật sự học hỏi nếu chưa bắt đầu
làm.

7. Sự dạy dỗ của Đức Thánh Linh là cần thiết để hiểu Kinh Thánh

“Ngài sẽ dẫn ngươi vào mọi lẽ thật”, Chúa Giê-xu đã phán vậy khi Ngài nói về Đức
Thánh Linh (Gi 16:13). Những sự thuộc về Thánh Linh “phải được xem xét cách thiêng
liêng” (ICo 2:14). Chân lý của Kinh Thánh vượt quá những sự kiện và tin tức trong đó. Ý
nghĩa căn bản của Kinh Thánh thuộc linh giới, nếu ta muốn hiểu phải nhờ Đức Thánh Linh
dạy dỗ.

Trên đây là bảy xác tín làm nền tảng cho sự hiểu biết Kinh Thánh. Bây giờ chúng ta sẽ
xét đến những dụng cụ cần thiết để bắt tay làm việc.

SỬ DỤNG DỤNG CỤ THÍCH HỢP

Có lẽ hầu hết mọi người đều cho rằng những sách tham khảo như sách giải kinh và từ
điển Kinh Thánh là những dụng cụ cần thiết để học Kinh Thánh. Những sách đó chắc chắn
là có ích, vì chúng là công trình của các học giả. Nhưng có nhiều tín hữu, nhất là những
người nghèo thiếu, không thể nào có được những sách đó. Họ có phải đợi cho đến khi mua
được rồi mới học Kinh Thánh không? Nếu vậy, chắc nhiều người phải đợi suốt đời.

Ngoài ra, còn có nhiều tai hại nếu dùng sách tham khảo không đúng cách, nhất là đem
nó thay thế cho việc nghiên cứu cá nhân. Làm vậy không khác nào ăn những đồ ăn đã
nhai sẵn hay tiêu hóa sẵn. Ăn đồ ăn như vậy cũng có đôi chút lợi ích, nhưng ta bị thiệt hại
nhiều thứ: cơ thể ta không được vận động nhai nuốt, ta không được thưởng thức hương vị
thơm ngon của đồ ăn. Trong việc học Kinh Thánh, nếu chỉ đọc điều người khác đã học hỏi
thì còn thiệt thòi nữa. Không có phước lành và niềm vui nào lớn hơn là được học hỏi trực
tiếp với Chúa.

Cái bất lợi trong việc dùng sách tham khảo là những lời chú giải trong đó có thể thay
thế những suy tư của cá nhân. Những chú giải đó không phải là thành phần trong lời Chúa,
các học giả đã nhận thấy có nhiều chú giải sai lầm.

Để khỏi mất phần nghiên cứu học hỏi của riêng mình, bạn hãy nghiên cứu trước rồi mới
dùng các sách khác sau. Những sách đó hữu ích vì chúng cung cấp cho bạn những tin tức
cần thiết mà ta không thể lấy từ Kinh Thánh, chẳng hạn những dữ kiện về nhân văn và địa
lý. Chúng cũng bình giải những khúc Kinh Thánh khó hiểu.

CÁC DỤNG CỤ CĂN BẢN

1. Một quyển Kinh Thánh

Dĩ nhiên Kinh Thánh không phải là dụng cụ mà chính là quyển sách để chúng ta học.
Nhưng để tiện lợi cho việc học chúng ta nên lựa một quyển Kinh Thánh có thể giúp ta học
dễ dàng, chẳng hạn một quyển có in phần chú dẫn các câu tương đương, có lề rộng và
giấy dày để ta ghi chú, hoặc nếu không muốn viết vào Kinh Thánh thì phải có sẵn sổ tay.

2. Các bản dịch hoặc diễn ý Kinh Thánh khác để so sánh

Có một hai quyển loại nầy thì tốt nhưng đừng nên nhiều quá. Nhiều quá sẽ làm cho rối
trí. Các bản dịch có giống nhau không? Tại sao khác? Khác chỗ nào?

3. Một quyển từ điển

Dù là tiếng mẹ đẻ, nhiều khi có những chữ ta không hiểu, vì vậy cần có một quyển từ
điển để tra những chữ khó. Nếu không có từ điển thì ghi những chữ khó ra để tìm từ điển
tra sau.

4. Một quyển sổ tay

Nếu không viết ra, bạn sẽ không thể học tới nơi tới chốn. Việc viết nhiều khi rất buồn tẻ,
nhưng đừng nhường chỗ cho thói ươn lười vì nhờ viết ra bạn thấy nhiều hơn và nhớ nhiều
hơn.

Bạn cần viết gì? Thứ nhất, những dữ kiện. Có khi một dữ kiện lúc đầu có vẻ không
quan trọng, cứ ghi. Về sau bạn có thể thấy nó rất có ý nghĩa. Thứ hai, tham khảo những
đoạn khác, ghi ra. Thứ ba, những thắc mắc hiện ra trong trí. Đừng dừng lại tìm cách trả lời,
nhưng phải ghi lại.

Khi đọc lần đầu, cần ghi lại những ý nảy ra trong trí. Đừng dừng lại, phân tích hay kiểm
tra gì cả. Có lẽ phần lớn những ý đó cuối cùng không có gì quan trọng, nhưng lúc đầu bạn
không thể biết được ý nào quan trọng, ý nào không. Về sau, bạn có thể duyệt lại những lời
bình giải, lựa lọc ra, ghi chú thêm và rút ra kết luận.

NHỮNG DỤNG CỤ KHÁC

Ngoài những dụng cụ chính ở trên, nếu bạn có được những loại sách tham khảo khác
thì rất hữu ích.
1. Thánh Kinh Phù Dẫn (Concordance)

Sách phù dẫn là sách liệt kê những câu có dùng một chữ nào đó. Ví dụ, khi tra chữ
“cầu nguyện” bạn sẽ thấy nó liệt kê tất cả những câu Kinh Thánh có chữ cầu nguyện.
Trong tiếng Anh có hai bộ sách phù dẫn đầy đủ nhất là Young’s Analytical Concordance
và Strong’s Exhautive Concordance. Thánh Kinh Phù Dẫn giúp ta tìm biết các từ ngữ nằm
ở đâu và được dùng như thế nào trong suốt cả Kinh Thánh.

2. Thánh Kinh từ điển

Quyển Thánh Kinh Từ Điển liệt kê và giải nghĩa những từ và những đề tài có trong Kinh
Thánh nhưng không nhất thiết có chỉ dẫn đầy đủ chữ đó nằm ở những chỗ nào trong cả
Kinh Thánh (reference). Chẳng hạn, nó cho biết có bao nhiêu người trong Kinh Thánh
mang tên Giăng và họ là ai. Nó cho những thông tin về bối cảnh lịch sử và văn hóa. Nó
luận giải về một số đề tài, chẳng hạn như khảo cổ học và giáo lý Ba Ngôi, mặc dầu những
chữ đó không có trong Kinh Thánh. Thường nó không giải nghĩa từng câu như trong các
sách bình giải. Nó có ý kiến riêng của tác giả chứ không phải chỉ cho dữ kiện như trong
sách phù dẫn. Quyển từ điển Kinh Thánh tốt nhất trong tiếng Anh là New Bible Dictionary
(của Inter-Varsity Press và Eerdmans).

3. Sách bình giải (Commentary)

Mỗi tác giả bình giải có ý kiến riêng về ý nghĩa của bản văn Kinh Thánh, từng sách
một, từng đoạn một, có khi từng câu từng chữ một. Có những quyển rất là đầy đủ, có
những quyển rất ngắn, chỉ tóm tắt những đoạn hay những chương. Thường thường có
thêm những tài liệu căn bản của mỗi sách như tác giả, thời gian và nơi viết sách, cơ hội
viết, cùng với một dàn bài hay tóm tắt nội dung. Nếu có điều kiện thì bạn nên sắm cho tủ
sách mình một bộ bình giải của toàn bộ Kinh Thánh. Một trong những bộ tốt nhất là bộ
New Bible Commentary (của Inter Varsity Press và Eerdmans).

VIỆC SỬ DỤNG DỤNG CỤ

Dụng cụ giúp cho con người làm việc hữu hiệu hơn, nhưng chính con người phải làm.
Cũng vậy, những dụng cụ giải kinh không làm thế cho người học Kinh Thánh. Những điều
tự bạn tìm hiểu được sẽ có ý nghĩa với bạn hơn là nhờ người khác nói. Cũng như để người
khác giải bài toán giùm mình không thể nào thích thú bằng tự mình giải lấy.
Dĩ nhiên, đôi khi bạn phải nhờ đến các sách tham khảo, vì tự bạn không thể nào giải
quyết được nan đề. Kinh Thánh dạy rằng chúng ta phải “hiệp cùng các thánh đồ mà hiểu
thấu” (Eph 3:18), nghĩa là chúng ta phải học hỏi lẫn nhau trong cùng một thân thể của Chúa.

Trên đây là bảy dụng cụ cần có để học hỏi Lời Chúa. Có thứ cần thiết, có thứ hữu ích
nhưng không thiết yếu. Có thể bạn đã có vài thứ hoặc có tất cả. Dụng cụ tốt chưa hẳn đã
đem lại sự học hỏi tốt, nó còn tùy thuộc vào tinh thần và hành động của người sử dụng
chúng. Khi học Kinh Thánh, phước lành và kiến thức không đến với bạn do bạn có ba bản
dịch Kinh Thánh và quyển Thánh Kinh Phù Dẫn. Chúng đến với bạn khi nào bạn thành tâm
học Kinh Thánh và đi theo sự dạy dỗ của Chúa là Đấng dẫn dắt bạn từng bước một.

TIẾN HÀNH CÁCH NÀO

Bây giờ tới giai đoạn bắt tay vào học, chúng ta sẽ bắt đầu cách nào?

1. Hoạch định việc học

Bạn phải hoạch định việc học thế nào để cho kết quả tối đa. Có nhiều cách. Một là học
mỗi lần một quyển, thay đổi giữa Cựu Ước và Tân Ước. Vì mỗi quyển được viết riêng rẽ,
nên mỗi quyển là một đơn vị của Kinh Thánh.

Nếu trước kia bạn chưa từng học Kinh Thánh thì đừng nên bắt đầu bằng một sách dài
hay khó, như sách Ê-sai chẳng hạn. Tốt nhất là bắt đầu với các sách Phúc Âm, như sách
Mác chẳng hạn, hoặc là một trong các thư tín ngắn như I Giăng hay Phi-líp. Điều quan
trọng là bạn phải có kế hoạch.

Sau khi đã chọn sách, phải ấn định những đoạn ngắn để học, trung bình từ 25 đến 30
câu là vừa. Nhiều bộ Kinh Thánh đã phân sẵn những khúc ngắn rất có ích. Có thể dùng
những phân đoạn dài trong Phúc Âm, và phân đoạn ngắn trong các thư tín. Nếu chọn
nguyên chương thì dễ hơn nhưng như thế thì hơi dài, vả lại nhiều khi ở cuối chương chưa
dứt ý. Tuy nhiên việc lựa chọn nầy không cứng ngắc một chiều.

Ví dụ Mac 1:1-45 có 45 câu quá dài. Phân đoạn đầu qua hàng ở câu 20, vậy ta lấy câu
1-20 làm đoạn đầu.

2. Cầu nguyện cho việc học

Cầu xin Thượng Đế dạy bạn qua Thánh Linh Ngài. Vì biết rằng nếu Chúa không dạy thì
học cũng vô ích nên bạn cần phải cầu nguyện ngay cả khi hoạch định. Mỗi ngày trước khi
học bạn cầu nguyện và mỗi khi gặp nan đề bạn cũng hãy cầu nguyện. Hãy cảm tạ chúa
khi Ngài cho bạn thấy tia sáng và cho lòng bạn vui mừng khi có những ý mới. Khi bạn nghĩ
đến việc áp dụng chân lý, tìm xem mình sẽ phải làm gì, bạn cũng sẽ thấy cần cầu nguyện.
Như vậy, cầu nguyện quyện lấy sự học, từ đầu đến cuối.

3. Đọc

Trước khi bắt đầu học sách nào, nên đọc qua cả quyển một lần. Sách Tin Lành Mác có
vẻ dài, nhưng bạn có thể đọc hết trong một buổi chiều hay trong vòng một hai giờ buổi
chiều. Cái lợi nhận được bù lại công khó dành thì giờ ra đọc: có khái niệm về toàn thể
quyển sách sẽ giúp ích nhiều cho việc hiểu từng phần trong sách.

Mỗi lần bạn đọc, đọc đi đọc lại khúc sách mình chọn. Càng đọc nhiều càng có lợi. Đọc
lần thứ năm - Có khi đến lần thứ mười - bạn sẽ thấy khác lần đầu. Một trong những nhược
điểm của người học Kinh Thánh là muốn hiểu trước khi làm quen với đoạn sách. Họ muốn
biết Chúa muốn nói gì trước khi họ nghe điều Ngài nói. Vì vậy họ đọc vội vã đoạn sách một
lần, rồi suy đoán nghĩa gì. Lời Chúa cần được tôn trọng đúng mức. Cần đọc đi đọc lại
nhiều lần cho tới khi nhập tâm.

Trong khi đọc mấy lần đầu, khoan thông giải vội. Chỉ quan sát, ghi chú nhưng khoan
đào sâu ý nghĩa. Trước hết hãy làm quen với khúc sách.

4. Quan sát

Có thể bạn đọc mà không để ý gì cả. Nhiều khi người ta đọc Kinh Thánh mà không suy
xét. Cũng như khi người ta gặp một nhân vật lớn như vị Tổng thống, nhiều khi hồi hộp
trước sự hiện diện của nhân vật quan trọng ấy mà quên nhận xét hình dáng của ông ta.
Việc suy xét kỹ khi đọc Kinh Thánh rất quan trọng để hiểu nó, vì nếu bạn không biết trong
đó nói gì thì bạn không thể nào hiểu được ý muốn nó nói gì.

Bạn phải quan sát những gì? Chúng ta hãy lấy 1:1-20 làm ví dụ.

a. Văn thể của khúc sách

Nó thuộc thể văn kể chuyện (ký thuật), thơ, giáo dục, hay tiên tri…? Ví dụ, câu 1-3 là
phần giới thiệu, câu 4-20 kể chuyện. Để ý văn thể rất quan trọng vì mỗi thể văn có những
đặc điểm đòi hỏi một lối thông giải khác. Chúng ta sẽ bàn về các đặc điểm nầy sau.

b. Những chữ và nhóm và chữ dùng nhiều lần

Ví dụ, chữ Tin Lành trong câu 1, 14, 15; chữ giảng trong câu 4, 7, 14; chữ ăn năn trong
câu 4, 15; những chữ vừa khi, tức thì, liền trong câu 10, 12, 18, 20. Có khi sự trùng lặp đó
có ý nghĩa, có khi không. Bạn có thể tìm hiểu sau, nhưng trước hết phải ghi ra.
c. Những chữ nối kết (liên từ)

Ví dụ như những chữ và, nhưng, vì, bởi vậy, cho nên. Những chữ nầy nối kết các chữ
hay câu lại với nhau, ảnh hưởng tới ý nghĩa của câu.

Chữ và dùng nhiều lần từ câu 4 đến 20. Đây là một chữ thông thường trong văn kể
chuyện để chỉ việc nầy tiếp theo việc kia. Tuy nhiên, đôi khi thay đổi một liên từ có thể đổi
ý nghĩa một câu. Chẳng hạn câu “Thằng Bi ăn nhiều kẹo vì nó mập” và “Thằng Bi ăn nhiều
kẹo cho nên nó mập” ý khác hẳn nhau dầu cùng chỉ một sự việc. Chữ ‘nhưng’ trong câu 8
có ý nghĩa. Thường chữ nhưng dùng để chỉ sự tương phản. Ở đây nó có chỉ ý đó không?

d. Những chữ chỉ thời gian

Những chữ này được dùng đặc biệt trong văn kể chuyện, như sau khi, rồi thì, lập tức,
trước khi, đến chiều vv... Mác dùng nhiều chữ tương tự trong khúc sách nầy.

e. Những chữ chỉ nơi chốn

Ví dụ như Giu-đê (c.5), Na-xa-rét (c.9), biển Ga-li-lê (c.16).

f. Những chữ đối chiếu, so sánh

Sứ giả của ta đối chiếu với Chúa (c.2, 3), quỉ Sa-tan cám dỗ với thiên sứ hầu việc
(c.13), so sánh Con Đức Chúa Trời với Con yêu dấu của ta (c.1, 11); và Giăng giảng với
Chúa Giê-xu giảng (c.7, 14).

g. Những chữ không biết

Tra những chữ khó trong từ điển.

h. Trọng tâm mỗi câu

Trong những câu dài nên để ý chủ từ, động từ chính và túc từ của chủ từ (nếu có).
Trong 1:14-15, “Chúa Giê-xu đến… giảng… mà rằng” là trọng tâm của câu. Phần còn lại trả
lời những câu hỏi về nó. Chúa Giê-xu giảng khi nào? Sau khi Giăng bị bắt. Ngài giảng gì?
Tin Lành. Ngài nói gì? Kỳ đã trọn.vv...

Thể văn ký thuật thường đơn giản nên ở đây không có nan đề nào. Trong các sách tiên
tri và thơ tín, có những câu dài rắc rối, không dễ gì lựa lọc ra. (xem Eph 1:3-12)

i. Các thành ngữ nói bóng

Chúng ta sẽ bàn rộng hơn ở chương 13. Một số thành ngữ “ta không đáng cúi xuống
mở dây giày Ngài” (c.7), “ta sẽ khiến các ngươi trở nên tay đánh lưới người” (c.17).
j. Trình tự diễn tiến (logical sequences)

Thường thường hai sự việc trong một câu có liên hệ thuận lý nhau-việc nầy là nguyên
nhân gây ra việc kia, hay là lý do để cho việc kia xảy ra. Ví dụ, chữ ‘vì’ trong câu 16 cho ta
thấy lý do họ thả lưới; trong câu 22 Chúa Giê-xu giảng dạy đầy quyền năng khác với thầy
thông giáo là lý do khiến quần chúng kinh ngạc, chữ chìa khóa cũng là vì.

k. Điều gì lạ, bất thường, bất ngờ

Chẳng hạn khi quần áo và thức ăn của Giăng không phải là bình thường (c.6).

l. Các thực thể liên hệ

Có thể là người, việc, vật, phẩm tính, vv... như Chúa Giê-xu, Đức Thánh Linh và “tiếng
từ trời” (của Cha) trong câu 10-11.

m. Văn phạm

Bạn cần chú ý những danh từ, đông từ, tĩnh từ của những câu không rõ nghĩa. Trong
c.5, xứ và dân chúng là chủ từ của động từ đến. Trong c.10, các từng Trời mở ra và Đức
Thánh Linh ngự xuống là túc từ của Ngài thấy.

Còn có nhiều đặc điểm bạn có thể nhận xét được. Càng học nhiều bạn càng mau nhận
ra. Một cách để bạn luyện óc nhận xét là đặt sáu câu hỏi: Ai? Cái gì? Khi nào? Ở đâu?
Cách nào? Tại sao? Những dữ kiện của khúc sách trả lời cho bốn câu hỏi đầu. Các dữ
kiện đó cũng có thể trả lời cho hai câu sau. Chỉ câu hỏi sau cùng đặc biệt hướng dẫn bạn
suy nghiệm, tưởng tượng ra một lý do của một câu hỏi hay hành động, dầu nhiều khi trong
khúc sách không nói đến lí do.

5. Ghi chép

Hãy viết ra những gì mình nhận xét được. Ý nghĩ nếu chỉ để trong đầu óc sẽ rất mơ hồ,
nhưng nếu viết ra thì bạn sẽ thấy rõ ràng. Ngoài ra nó còn giúp bạn làm việc chính xác.

Chỉ viết ra, khoan nối kết các sự kiện. Sau nầy khi nghiên cứu bình giải khúc Kinh
Thánh, bạn sẽ thấy những mấu chốt liên hệ. Bạn sẽ thấy có những điểm ghi chú không
cần thiết, có thể loại đi.

Trong Mác 1 bạn có thể ghi nhận được những địa điểm như Giu-đê, sông Giô-đanh,
đồng vắng Ga-li-lê. Sau khi viết ra, bạn có thể nhìn vào bản đồ và thấy được sự di chuyển
của Chúa Giê-xu: Ngài từ Ga-li-lê đến Giu-đê để chịu báp-têm và cám dỗ, rồi trở về Ga-li-
lê khởi sự thánh vụ và kêu gọi môn đồ.
6. Suy nghĩ và phân tích

Sai khi đọc khúc sách nhiều lần và ghi ra nhận xét, bạn có thể bắt đầu suy nghĩ và bắt
đầu suy gẫm về nó. Hãy tìm hiểu ý nghĩa của các sự kiện.

Chẳng hạn bạn suy gẫm lời tiên tri về sứ giả dọn đường cho Chúa (Mac 1:2). Sứ giả là
ai? Hẳn nhiên là Giăng. Ông dọn đường cho ai? Cho Đấng Cơ-Đốc. Vậy Đấng Cơ-Đốc tức
là Chúa! Những người ăn năn và nhận báp-têm của Giăng đã được chuẩn bị thế nào để
dọn đường cho Đấng Cơ-Đốc đến? Sứ điệp của Giăng trong c.7-8 đã đem lại kết quả gì?
Suy gẫm cách nầy giúp bạn khám phá ra ý nghĩa của bản văn.

Bạn có thể thấy sự cám dỗ đến ngay sau lời tuyên bố từ Trời (c.11-12) là một sự kiện
đáng chú ý. Điều nầy khiến ta nghĩ thế nào về sự cám dỗ và người bị cám dỗ? Nhân đó
chúng ta có thể được an ủi khi cảm thấy nản lòng và bứt rứt vì bị cám dỗ.

Những câu hỏi nêu ra trong khi suy nghĩ có thể có câu trả lời ngay, có thể không. Bạn
có thể hỏi phải chăng c.5 ngụ ý rằng cả dân chúng Giê-ru-sa-lem và Giu-đê đều xưng tội
và chịu lễ báp-têm. Bạn vẫn không trả lời thẳng câu hỏi nầy, nhưng đó là một trong những
câu hỏi bạn cần giải đáp trong khi thông giải. Viết câu hỏi ra để tìm hiểu thêm.

Đừng nản lòng vì những câu hỏi nêu lên mà bạn không thể giải thích được. Cứ giữ nó
trong óc và trong sổ tay bạn. Rồi trong khi nghiên cứu bạn có thể trả lời được một số câu.
Có thể những câu bạn chẳng bao giờ có thể tìm được câu trả lời thỏa đáng. Thượng Đế
không hứa giải đáp hết mọi thắc mắc của chúng ta ngay bây giờ, nhưng Ngài hứa ban ánh
sáng cần thiết cho chúng ta.

7. Dùng những nguyên tắc thông giải

Chúng ta sẽ xét đến những nguyên tắc nầy trong những chương sau.

8. Áp dụng ý nghĩa của khúc sách

Nghĩa là xét những khía cạnh liên quan đến cuộc sống của mình và Hội Thánh ngày
nay. Bạn phải để ý thông giải và áp dụng. Khi bạn thông giải, bạn chỉ giải thích ý nghĩa và
diễn đạt nó ra mà không cần đề cập tới một người nào. Khi bạn áp dụng bạn tự xét con
người mình đáp ứng như thế nào. Thứ nhất là những điều Thượng Đế phán. Thứ hai là
những điều Thượng Đế muốn bạn làm.

Áp dụng sai có thể đưa tới hành vi kỳ quặc, tai hại. Chúng ta sẽ xét đến điều nầy ở cuối
sách.
Chúng ta đã xét qua những bước chính trong việc học Kinh Thánh theo một thứ tự hợp
lý. Cần nên giữ theo thứ tự đó. Tuy nhiên, có một số bước có thể thực hiện cùng một lúc,
như đọc, quan sát, viết và cầu nguyện chẳng hạn. Nếu bạn có những bước đó sẵn trong
trí, bạn có thể đem ra thi hành cách tự động mà vẫn cẩn thận, rồi Thánh Linh sẽ giúp cho
việc học hỏi của bạn có hiệu quả.

NHỮNG NGUYÊN TẮC TỔNG QUÁT

XÉT VĂN MẠCH

Có những “quy luật” hay “nguyên tắc” tổng quát hướng dẫn chúng ta thông giải mọi
ngôn ngữ - kể chuyện, bài giảng, thơ hay bất cứ loại nào. Nguyên tắc thứ nhất có thể nói
đơn giản là: Thông giải một khúc sách trong văn mạch của nó. Văn mạch nghĩa là toàn bộ
đoạn văn cả phía trước và phía sau khúc sách ta nghiên cứu.

Nói chung người ta đồng ý có hai thứ văn mạch. Văn mạch trực tiếp, hay văn mạch
gần, gồm những câu nằm ngay trước hay sau câu đó. Văn mạch xa có thể là chương trước
hay chương sau hoặc một nơi nào đó của quyển sách.

Văn mạch có nhiều hình thức. Thường thường, muốn hiểu một chữ phải hiểu nó trong
một câu hay một đoạn văn. Như vậy, câu đó là văn mạch của chữ. Một câu văn đứng một
mình có thể là rất tối nghĩa, muốn hiểu cần phải xem một đoạn văn chứa nó: Đó là văn
mạch của câu văn. Ví dụ các dụ ngôn của Chúa Giê-xu thường được kể ra nhân một cơ
hội đặc biệt nào đó, từ đó Chúa rút ra một chân lý nào đó. Bối cảnh và cách áp dụng của
Ngài là văn mạch của Ngài kể. Thơ (Thi ca) là một hình thức ngôn ngữ đặc biệt. Thơ trong
tiếng Do Thái thường được viết thành từng cặp, nửa nầy là văn mạch của nữa kia. Toàn
thể chương Thi Thiên là văn mạch cho từng cặp.

Có một điều tốt các tín hữu Cơ-đốc thường làm có thể khiến họ không ý thức được tầm
quan trọng của văn mạch. Đó là việc học thuộc từng câu Kinh Thánh. Dĩ nhiên điều nầy
tốt. Chúng ta cần giấu lời Chúa trong lòng. Vì chúng ta không thể học thuộc cả sách hay
cả đoạn nên phần lớn chúng ta đều học từng câu một.

Nhưng có lẽ chúng ta đã học thuộc một số câu mà quên rằng chúng chỉ là một phần
của những câu văn dài (ví dụ Ro 3:23). Chắc chắn không thể hiểu đúng nghĩa những câu
đó nếu không đọc trọn câu văn dài, thế nhưng chúng ta chỉ học thuộc có một phần, rồi
xem phần nằm trong ký ức chúng ta như là một câu trọn vẹn. Chúng ta thường áp dụng
những lời hứa trong Kinh Thánh theo cách đó. Nhiều lúc có những điều kiện cho lời hứa
nằm trong câu trước, nhưng chúng ta chỉ học thuộc và yêu thích lời hứa mà không biết đến
điều kiện Thượng Đế đòi hỏi cho lời hứa đó. Một ví dụ sáng tỏ nhất là Es 58:11 “Đức Giê-
hô-va sẽ cứ dắt đưa ngươi...” trước lời hứa là hai mệnh đề điều kiện cách bắt đầu bằng
chữ nếu: “Nếu ngươi cất bỏ cái ách… nếu ngươi mở lòng cho kẻ đói...” (c.9, 10).

Một thói quen tốt khác đôi khi cũng đem lại hậu quả có hại là việc dùng sách phù dẫn
để học các từ ngữ trong Kinh Thánh tra tìm những câu có từ ngữ ân điển hay kiên nhẫn thì
dễ hơn là nghiên cứu mỗi câu trong cả mạch văn của nó. Vì vậy chúng ta cứ lấy từng câu
1, liên kết nó với đề tài rồi rút ra áp dụng. Điều nầy dễ khiến chúng ta đánh mất ý nghĩa
của nhiều đoạn trong Kinh Thánh.

Chúng ta thử áp dụng nguyên tắc văn mạch trong Gi 9:3. Câu nầy trong bản Authorized
Version dịch là: “anh ta cũng như cha mẹ anh ta đều không phạm tội”. Nếu chỉ đọc riêng
câu nầy thì ta tưởng Chúa nói gia đình nầy không hề phạm tội. Nhưng nếu tham khảo
những nơi khác trong Kinh Thánh, ta sẽ thấy Kinh Thánh dạy rõ rằng ngoài Chúa Giê-xu
ra, không một người nào trên trần gian nầy là không có tội (Ro 3:9-10,23). Giả sử có người
bào chữa, “Câu nầy cũng là Kinh Thánh, không cần biết nơi khác nói gì, chỉ biết câu nầy
nói rằng ba người nầy không phạm tội.” Làm sao ta biện bác với họ?

Chúng ta phải dùng văn mạch. Đây là một câu Chúa trả lời cho một thắc mắc của môn
đồ. Họ không hỏi, “Những người đó có phạm tội không? mà hỏi, “Ai phạm tội mà người đó
sinh ra bị mù?” Nói cách khác, “Người nầy bị mù là hậu quả tội lỗi ai, của anh ta hay cha
mẹ anh ta?” Chúa Giê-xu đã trả lời trực tiếp, như bản tiếng Việt dịch, “Đó chẳng phải tại
người hay tại cha mẹ người đã phạm tội, nhưng ấy để cho việc Đức Chúa Trời được tỏ ra
trong người.”

Như vậy, văn mạch giúp soi sáng những chỗ khó hiểu hoặc mâu thuẩn với những sự
dạy dỗ trong các đoạn Kinh Thánh khác.

NHỮNG QUI TẮC HƯỚNG DẪN VIỆC GIẢI KINH.

Không phải lúc nào cũng có thể thấy được sức mạnh của văn mạch. Sau đây là một số
quy tắc hướng dẫn để giúp ta.

1. Hãy suy nghĩ tìm ra tất cả những nghĩa mà câu (hay chữ) đó có thể có

Bạn có thể nghĩ ra một hay nhiều nghĩa. Hãy viết ra (Điều nầy không có nghĩa là bạn
phải thêu dệt tưởng tượng). Bạn có thấy nan đề nào trong việc thông giải không? Hãy viết
ra. Làm vậy bạn sẽ thấy luôn luôn có ích lợi.
2. Hãy đọc câu đó trong văn mạch

Bạn cần phải làm quen với nội dung của khúc sách có chứa câu đó, bởi vậy, phải nhớ
bao gồm đủ văn mạch. Cần đủ để bao quát hết diễn tiến của tư tưởng hay biến cố. Nếu
chỉ đọc vài câu bạn có thể không thấy hết. Lần đầu đọc lướt qua, không để thì giờ giải
quyết thắc mắc. Lần sau đọc lại kỹ càng, ghi những liên hệ giữa các chữ và ý.

3. Nghiên cứu câu đó cẩn thận hơn

Để ý những liên từ (thường nằm ở đầu câu), xem những chữ đó nối kết các câu ra sao.
Hãy xem phần bàn luận về liên từ ở chương 6.

4. Ghi những chữ chính được dùng nhiều lần

Không cần ghi những chữ không quan trọng như và, thì. Đặc biệt chú ý tới những chữ
trong câu đó có lặp lại trong văn mạch. Rất có thể nó cho biết chủ đề và tương quan giữa
các phần với nhau. Để ý những chữ đồng nghĩa, ví dụ những chữ dự, ăn, uống, trong ICo
10:14-31.

5. Thử viết lại cả khúc sách bằng lời mình

Làm vậy để thấy bạn có hiểu khúc sách không và có thể diễn đạt ý rõ ràng không.

6. Thử trả lời câu hỏi

Câu nầy có nghĩa gì trong văn mạch của nó? Nếu bạn không thể trả lời, có thể bạn cần
phải nghiên cứu thêm. Tuy nhiên, có những câu khó mà cả những học giả cũng không
đồng ý với nhau, vậy đừng nản lòng nếu bạn không thể hiểu được rõ ràng. Hãy bằng lòng
để dành cho Chúa một vài điều, về sau Ngài có thể soi sáng chúng ta.

MỘT VÍ DỤ

Chúng ta hãy thử áp dụng các qui tắc trên cho 10:23. “Mọi sự đều có phép làm nhưng
chẳng phải mọi sự đều có ích; mọi sự đều có phép làm, nhưng chẳng phải mọi sự đều làm
gương tốt.” Câu nầy có nghĩa gì? Chữ mọi sự có nghĩa là bất cứ điều gì chăng? Như vậy
thì tội lỗi như giết người, gian dâm, ích kỉ, thờ hình tượng-đều có phép làm chăng? chắc
không thể có nghĩa như vậy. Nhưng làm sao chúng ta biết được?

Bằng cách đọc cả chương. Câu 6 bảo chúng ta “chớ buông mình theo tình dục xấu”;
câu 7 và 14 truyền lệnh “đừng thờ hình tượng”; câu 8 nói “chớ dâm dục.” Như vậy là có
một số điều không được phép làm. Văn mạch cho ta thấy có một số giới hạn. Khi viết câu
23, Phao-lô không thể tự mâu thuẫn với mình và với các phần khác trong Kinh Thánh. Văn
mạch cho ta thấy giải thích theo ý riêng của câu đó là sai. Văn mạch có thể giúp ta biết
được nghĩa đúng của nó không?

Đọc chương 10 một lần nữa và quan sát. Chủ đề là gì? Có chữ nào lập nhiều lần
không? Có lẽ bạn để ý ngay rằng chữ ăn, uống đều liên hệ đến chữ dự phần. Cũng hãy để
ý đến cơ hội và hoàn cảnh xảy ra những chữ đó. Rồi bạn lại để ý xung quanh câu 23 đều
nói về ăn uống. Ăn và uống gì? Nếu ta so sánh câu 19 và 28 ta sẽ thấy câu trả lời rõ ràng-
thức ăn cúng cho thần tượng.

Trong câu 23 Phao-lô đưa ra một đối chiếu: Mọi sự đều có phép làm nhưng không phải
đều ích lợi; không phải tất cả đều xây dựng. Trong những câu sau ông có nói đến điều gì
được phép làm mà không ích lợi không? Rõ ràng là có. Để ý đặc biệt câu 32, 33, ông rất
quan tâm đến vinh hiển của Thượng Đế và giúp ích kẻ khác. Như vậy có những hành động
được phép làm, như ăn của cúng thần tượng, nhưng cần phải tránh nếu nó khiến kẻ khác
vấp phạm và không làm vinh hiển danh Chúa. Đó là ý nghĩa của câu 23.

LÚC NÀO CŨNG CẦN VĂN MẠCH SAO?

Phải chăng văn mạch luôn luôn quan trọng trong Kinh Thánh? Có trường hợp nào
không cần đến nó không? Chẳng hạn, những câu trong sách Châm Ngôn hay một vài sự
việc trong các sách Tin Lành (như Lu 13:18-24).

Chắc chắn có nhiều đoạn sách không nằm trong văn mạch. Nhiều câu châm ngôn là
những câu độc lập không dính dáng gì đến những câu trước và sau nó. (Châm Ngôn là
những câu ngắn, tự nó có đầy đủ ý nghĩa). Các tác giả những phần trước thuật trong Kinh
Thánh phải tuyển lựa một số sự việc, dữ kiện, hay diễn văn, và bỏ đi một số khác. Như vậy
không thể nào có sự liên tục trọn vẹn được. Nhiều khi họ ghép lại với nhau những đơn vị
không cùng xảy ra với nhau. Có khi dễ thấy điểm nối kết, có khi không. (Ví dụ, trong 12:49-
59, có nhiều đề tài không liên hệ gì với nhau bao nhiêu) Đừng nghĩ rằng lúc nào cũng có

một điểm liên kết.

Cần nên nhớ hai điều. Đừng vội cho rằng không có liên lạc gì khi mới nhìn qua, vì bạn
có thể tìm ra manh mối sau khi nghiên cứu thêm. Cũng đừng cố nghĩ ra một điểm liên kết
không có thật. Chúng ta đừng ép buộc bản văn hoặc gán cho nó ý nghĩa mà nó không có.

Dầu có vài ngoại lệ, nguyên tắc giải kinh đầu tiên vẫn là: giải kinh theo ánh sáng của
văn mạch.

HIỂU NGHĨA CHỮ


Nguyên tắc thứ hai của việc giải kinh là: thông giải theo nghĩa đúng của chữ. Dĩ nhiên,
vấn đề là làm sao tìm ra nghĩa đúng, muốn vậy, ta cần phải nghĩ đến chữ một cách tổng
quát, chữ là gì, chữ có nghĩa gì? Chữ là viên gạch xây dựng tư tưởng, lời nói và sự thông
đạt. Chữ đem ghép lại một cách có ý nghĩa sẽ làm thành ngôn ngữ là công cụ chính để
con người giao thông lẫn nhau. Hơn nữa, Thượng Đế trong Kinh Thánh sử dụng ngôn ngữ,
phần lớn là ngôn ngữ thông dụng, để truyền đạt cho con người.

Chữ hay từ là một đơn vị ngôn ngữ tự nó có ý nghĩa; nhưng vì thường thường một chữ
có hai ba ý nghĩa nên một chữ dùng một mình không thể rõ nghĩa. Ví dụ khi tôi chỉ nói chữ
đá, bạn không biết là tôi nói về thứ khoáng chất cứng, hay một cái vung chân. Bạn cần
phải có chữ khác để làm rõ nghĩa.

Trong Kh 5:5, chữ sư tử chỉ về Chúa Giê-xu Cơ-Đốc, nhưng trong IPhi 5:8 nó lại chỉ về
ma quỉ. Trong hai trường hợp trên, những chữ khác đã làm rõ nghĩa của chữ sư tử. Ta sẽ
càng thấy rõ tầm quan trọng của văn mạch khi biết thêm những yếu tố của chữ.

1. Chữ hay tiếng thay đổi theo thời gian

Người ta dùng chúng theo cách khác thời trước. Ví dụ, chữ “bác sĩ” nguyên ngữ có
nghĩa là người học rộng, về sau dùng quen thành có nghĩa là thầy thuốc hay một tiến sĩ y
khoa. Bản tiếng Anh Authorized Version có nhiều chữ cổ ngày nay không còn dùng hoặc
đã đổi nghĩa.

Nếu muốn giải đúng ý nghĩa của chữ, ta cần phải biết chắc rằng chữ dùng trong bản
Kinh Thánh chúng ta đang học ngày nay vẫn còn hiểu đúng nghĩa như vậy.

2. Những chữ khác nhau có thể cùng nghĩa

Một số học giả nói rằng nghĩa của hai chữ khác nhau không bao giờ giống hệt nhau,
nhưng đôi khi chúng gần nhau đến nỗi các khác biệt không còn thành vấn đề nữa. Ví dụ
anh ta đang đi chậm rãi, từ từ hay thong thả, đối với bạn chẳng khác gì mấy, điều bạn
muốn là anh ta hãy đi nhanh lên, mau lên, gấp lên. Nhiều lúc Kinh Thánh dùng chữ khác
nhau. Chúng ta thường dùng những chữ đồng nghĩa để khỏi trùng lặp, Kinh Thánh cũng
vậy. Xem cách Mat 20:21 và Mac 10:37 dùng chữ nước và vinh hiển.

Mặc khác, đôi khi chúng ta đổi một chữ đang dùng để nhắm một nghĩa khác. Có thể
chúng ta muốn có một nghĩa mạnh hơn hay chính xác hơn. Chữ thứ hai có thể đồng nghĩa
với chữ trước nhưng hơn khác. Các người viết Kinh Thánh cũng vậy.
Hai chữ khẩn nguyện, cầu xin, trong ITi 2:1 là đồng nghĩa. Chúng có diễn tả hai loại cầu
nguyện khác nhau, hay chỉ lặp lại để nhấn mạnh lời khuyên?

3. Kinh Thánh đề cập đến những sự việc không nằm trong lối suy nghĩ thông thường
của thế gian

Nghĩa của chữ dùng trong quán cà phê có thể không giống với nghĩa chữ đó khi dùng
trong Kinh Thánh. Ví dụ, khi bạn nghe nói một người công bình, bạn nghĩ ngay đến một
người không thiên vị, ngay thẳng. Đó là một phần ý nghĩa khi Kinh Thánh nói Thượng Đế là
công bình. Nhưng khi nói người chưa tin Chúa là công bình hay công chính trước mặt
Thượng Đế, thì nó có ý nghĩa đặc biệt. Người tin được Thượng Đế xem là công bình nhờ
sự chết chuộc tội của Con Ngài. Nghĩa thông thường của từ ngữ công bình không áp dụng
ở đây.

4. Cùng một chữ có thể khác nghĩa

Có khi dùng một chữ nằm trong một khúc sách có thể khác nghĩa. Thường thường cái
khác nhau là ở nơi nghĩa bóng và nghĩa đen. Exe 44:5-6 soi sáng điều này. Trong câu 5, chữ
nhà có nghĩa đen là đền thờ. Nhưng trong câu 6 cả quốc gia được gọi là nhà. Chữ nhà
được dùng theo nghĩa đen và nghĩa bóng trong hai câu liên tiếp.

Có một số chữ, nhất là những chữ thuộc về tôn giáo, Tân Ước thường cho nghĩa đầy
đủ, chính xác hơn là Cựu Ước. Ví dụ chữ công bình trong Cựu Ước thường dùng để chỉ cá
tính của một người. Nhưng trong Tân Ước, đó là sự công bình của Chúa Giê-xu Cơ-Đốc
mà Thượng Đế kể cho người tin khi họ tin nhận Chúa Giê-xu làm Đấng Cứu chuộc mình
(Ro 5:17 Phi 3:9). Thật ra Cựu Ước đôi khi cũng ngụ ý nhưng không rõ ràng như trong Tân
Ước (xem Sa 15:6). Một chữ nữa là hi vọng. Hi vọng của người tin trong Cựu Ước chỉ có
tính cách chung chung rằng mình sẽ nhờ ơn Chúa được phước trong đời sau. Nhưng người
Cơ-đốc thì hi vọng rõ ràng nơi sự tái lâm của Chúa và sự viên thành của sự cứu rỗi để trở
nên giống như Ngài (IGi 3:2-3).

LÀM THẾ NÀO ĐỂ TÌM HIỂU CHỮ

Muốn hiểu Kinh Thánh phải hiểu rõ nghĩa chữ. Ta rất dễ lướt qua một chữ mình không
hiểu. Khi làm vậy, ta không thể nào hiểu trọn vẹn nghĩa một câu hay một đoạn được. Khi
gặp một chữ mình không hiểu thì đừng tiếp tục đọc tới. Hãy dừng lại và tìm hiểu nghĩa chữ.
Lời Thượng Đế rất quan trọng không thể đọc qua loa được. Có những phương cách nào để
tìm hiểu nghĩa chữ?
1. Tra từ điển

Có những chữ khó cần phải tra từ điển. Có những chữ trong Kinh Thánh tiếng Việt
không thể tìm thấy trong từ điển Việt Nam. Muốn tìm hiểu phải xem chữ tương đương trong
tiếng Anh hoặc Pháp, Đức, Hy Lạp, Hy-bá-lai...rồi tra từ điển tiếng đó.

Từ điển thông dụng ít khi cho ta biết nghĩa của chữ khi nó được dùng trong Kinh Thánh,
vì vậy nó chỉ giúp ích được phần nào thôi.

2. Tìm hiểu chữ trong văn mạch

IISa 2:14 nói, “Áp-ne nói cùng Giô-áp rằng: Những kẻ trai trẻ nầy hãy chổi dậy và trững
giỡn trước mặt chúng ta” Câu ấy nghe có vẻ như ông ta sắp bày ra một trò chơi, nhưng
văn mạch cho biết đây là một cuộc chiến đấu, giữa hai ông vua và hai đạo quân. Câu 16
cho thấy rằng các gã thanh niên đó đã thật sự giết nhau. Như vậy, chữ trững giỡn trong
văn mạch có ý hài hước.

“Vì Đức Giê-hô-va biết đường người công bình.” (Thi 1:6). Có lẽ chúng ta nghĩ câu nầy
có nghĩa rằng vì Thượng Đế biết hết mọi sự, nên Ngài biết những người công bình làm gì.
Nhưng khi chúng ta nhìn vào văn mạch gần đó, tức là phần thứ nhì của câu, chúng ta sẽ
thấy chữ biết có một ý nghĩa mạnh mẽ hơn. Đường nầy được Đức Giê-hô-va biết đến, còn
đường kia thì bị diệt vong. Đem đối chiếu, ta thấy trong sự biết của Ngài có bao hàm sự
bảo vệ và chăm sóc. Có những câu khác trong Kinh Thánh cũng nói đến sự biết của
Thượng Đế theo nghĩa nầy (Sa 18:19).

Thêm một ví dụ nữa. Ch 14:15 trong bản tiếng Anh nói: “Người đơn sơ tin mọi sự.” Câu
nầy mới nhìn có vẻ là một câu nói tốt về đức tin của một người có tâm hồn giản dị không
thắc mắc, chỉ tin cậy Thượng Đế một cách đơn sơ. Nhưng xem lại văn mạch thì thấy nghĩa
thật của nó là đối chiếu giữa người đơn sơ đây là người nhẹ dạ, khờ khạo dễ bị lừa. Sự đơn
sơ ở đây là một nhược điểm. Tin mọi sự không phải là khôn ngoan mà là khờ dại.

Kinh Thánh có rất nhiều chữ nhờ có văn mạch mới làm cho rõ nghĩa. Nếu bạn thấy có
một chữ không rõ nghĩa, hãy dừng lại, xem cả khúc sách có chứa chữ đó. Nếu cần hãy
đọc lại nữa, hầu hết bạn có thể tìm được một chìa khóa nào đó cho ý nghĩa của chữ.

3. Dùng sách phù dẫn

Trên kia tôi đã nói qua về ích lợi của sách phù dẫn (chương 5). Lý tưởng nhất là ta có
thể biết hết những câu tham chiếu trong Kinh Thánh. Nhưng những sách phù dẫn nhỏ
không liệt kê hết mọi câu tham chiếu, còn những sách lớn thì lại có quá nhiều câu. Vậy
bạn phải làm sao?

Hầu hết các quyển Kinh Thánh tham chiếu có chứa ngoài lề những câu khác có chứa
một chữ quan trọng trong câu đang đọc. Điều đó giúp ích rất nhiều. Rồi bạn càng học Kinh
Thánh, bạn sẽ thêm nhiều câu tham chiếu khi bạn nhớ lại những khúc sách có chứa
những chữ đặc biệt. Vì chữ có nhiều nghĩa khác nhau, nên không phải lúc nào những khúc
sách tương ứng cũng soi sáng cho phần sách bạn đang học.

Trong Tit 3:5 có câu “Ngài cứu chúng ta.” Cả câu cũng như văn mạch của nó đều cho
thấy nó có nghĩa là cứu tâm linh khỏi tội lỗi. Nhưng khi Lu-ca viết “Chúng ta chẳng còn
trông cậy được cứu nữa” (Cong 27:20), thì ông không nói về sự cứu tâm linh mà về sự cứu
khỏi đắm tàu. Đem so sánh như vậy có vẻ ngây ngô vì điều đó quá rõ ai cũng thấy cả.
Nhưng trong Kinh Thánh nhiều khi ý chính không rõ ràng như vậy, chúng ta cần xem xét
kỹ lưỡng khi thấy chữ đó trong các đoạn khác. Chẳng hạn, trong Mat 24:13, thì sao?

Bạn thử tìm xem những chữ sau đây: Gian ác, trong Gie 18:11 (hai lần, một nghĩa?);
chó, trong IIVua 9:10 và Thi 22:16, thân thể, Eph 3:6 (xem các nơi khác trong Ê-phê-sô có
dùng chữ nầy), anh em, Mat 25:40, mão triều thiên, Thi 103:4, lời hứa, Eph 3:6 (xem cả sách).

HIỂU VĂN PHẠM

Nguyên tắc thứ ba là: thông giải theo văn phạm của câu. Văn phạm là gì? Những nhà
văn phạm cho là gồm hai thứ: hình thức giữa các chữ và tương quan giữa các chữ. Cả hai
đều ảnh hưởng tới ý nghĩa, nhưng chúng ta đặc biệt để ý tới phần thứ hai.

Chữ luôn luôn được dùng trong kết hợp chứ không riêng rẽ, và chỉ cách nầy nó mới rõ
nghĩa. Khi chữ kết hợp với chữ khác thì nghĩa nó hiện rõ. Có lẽ một chữ như chữ ui tự nó
có thể có nghĩa là tiếng kêu của người bị đau. Nhưng tại sao? có phải tại anh ta bị ong
chích, bị ngồi phải gai, hay bị ngắt véo? Vẫn cần có những chữ khác để làm cho nó rõ
nghĩa hơn.

Muốn giao thông với nhau, cả hai người phải hiểu các chữ liên hệ với nhau ra sao trong
một câu. Như vậy nghĩa là cả hai phải hiểu văn phạm phân loại cách kết hợp các chữ.

Lấy ví dụ câu ICo 11:27, “Bởi đó, ai ăn bánh hoặc uống chén của Chúa cách không xứng
đáng..” Khi ta hỏi nghĩa của cách không xứng đáng ta muốn hỏi nó nói về ai hay về ăn và
uống. Nói cách khác, câu nầy muốn nói ‘ai’ không xứng đáng hay “ăn”, “uống” không xứng
đáng? Nhiều người tưởng là nói đến chữ đầu - rằng một người không xứng đáng thì không
được phép dự lễ hội thông (tiệc thánh). Rồi vì họ cảm thấy mình không xứng đáng nên
không tham dự nữa. Tuy nhiên, khi nhìn vào văn phạm, ta thấy ngay nó không có nghĩa
đó. Cách không xứng đáng là trạng từ. Nó bổ nghĩa cho động từ chứ không phải danh từ,
vậy nó bổ nghĩa cho ăn và uống chớ không thể cho người được.

Trong Gi 21:15, Chúa Giê-xu hỏi Phi-e-rơ, “Hỡi Si-môn, con Giô-na, ngươi yêu ta hơn
những thứ nầy (tiếng Anh: these) chăng?” Chúng ta nghĩ ngay, hơn cái gì, hơn ai? Những
thứ nầy (these) trong tiếng Anh là một chỉ định từ để chỉ người hay vật ở gần, vừa được
hay sắp được nhắc tới. Những người ở gần lúc đó là ai? Một số môn đồ. Những vật gần đó
là gì? Cá vừa mới kéo lên. Như vậy, hiểu văn phạm giúp ta thấy được hai ý mà từ ngữ trên
có thể có. Chúng ta lại dùng các nguyên tắc khác để chọn xem ý nào là đúng. Văn mạch
(c.1) cho biết rằng Phi-e-rơ đã quay lại nghề đánh cá, dù ông đã được Chúa kêu gọi rời bỏ.
Như vậy ông có thể yêu cá (nghề) hơn Chúa Giê-xu. Trước đó ông đã từng tuyên bố rằng
ông yêu Chúa Giê-xu hơn các môn đồ khác (Mat 26:33), như vậy có lẽ Ngài muốn thách
thức ông về lời ông đã khoe.

Văn phạm không phải lúc nào cũng cho ta biết ý nghĩa thật, nhưng nó cho thấy nghĩa
có thể có. Ta không thể chấp nhận một nghĩa dẫm lên văn phạm. Như vậy văn phạm cần
thiết để hiểu Kinh Thánh. Điều nầy không lạ, vì Kinh Thánh phải được hiểu theo những qui
luật ngôn ngữ của con người.

BIẾT CÁC YẾU TỐ VĂN PHẠM

Nếu chúng ta phải thông giải Kinh Thánh theo văn phạm, thì chúng ta cần phải biết về
văn phạm. Phải xem lại các sách về văn phạm. Phải biết rõ các thành phần trong ngôn
ngữ: danh từ, động từ, đại danh từ, tĩnh từ, trạng từ, giới từ, liên từ và thán từ. Điều quan
trọng là biết các thành phần liên hệ với nhau ra sao trong câu. Bạn không cần phải biết hết
những điểm tinh tế, nhưng phải biết hết những điều căn bản.

Trong một câu thông thường, những gì ở trong câu đều nói về chủ từ. Chủ từ là cái gì
đó, làm cái gì đó, hay được hoặc bị một điều gì đó: Nam là một đứa bé. Nó hái trộm trái
cây và bị ba nó đánh đòn. Thường thường chủ từ nằm ở đầu câu. Thượng Đế là tình
thương, câu nầy nói về Thượng Đế. Có đôi khi trong thi ca người ta đảo ngược chủ từ ra
sau. Nhưng phải cẩn thận, khi ta nói “tình thương là Thượng Đế” thì câu nói đã đổi nghĩa.
Có người cho rằng hai câu trên cũng cùng một nghĩa, nhưng như vậy là đồng hóa Thượng
Đế với tình thương. Tình thương của bà mẹ không phải là Thượng Đế. Vậy ta phải để ý
xem thứ tự của chữ ảnh hưởng tới ý nghĩa như thế nào.
ĐỘNG TỪ VÀ THÌ CỦA ĐỘNG TỪ.

- Động từ là những chữ biểu lộ “hành động” trong câu.

- Phải biết thì của động từ: “tôi ăn” “tôi đã ăn” “tôi sẽ ăn”.

1. Quá khứ

Nói về chuyện đã xảy ra trong quá khứ. Có thể chỉ xảy ra một lần trong quá khứ. Ro 7:9,
“Tội lỗi đã sống lại và tôi đã chết” có thể xảy ra nhiều lần, lặp đi lặp lại như một thói quen
trong quá khứ. ICo 13:11, “tôi nói như con trẻ… suy xét như con trẻ.”

2. Hiện tại

Chỉ một chân lý phổ quát, không bị giới hạn bởi thời gian. Gi 4:24 “Đức Chúa trời là sự
yêu thương” hay là diễn tả một điều gì luôn luôn là như vậy. Lu 12:54 “Ngài lại phán cùng
đòan dân rằng: Khi các ngươi thấy đám mây nổi lên phương tây, liền nói rằng: Sẽ nóng
nực, thì quả có vậy.” Việc nầy luôn luôn xảy ra như thế. Mat 23:13 “Khốn cho các ngươi,
thầy thông giáo và người Pha-ri-si, là kẻ giả hình! Vì các ngươi đóng nước thiên đàng trước
mặt người ta, các ngươi không vào đó bao giờ, mà có ai muốn vào, thì lại ngăn trở. ” Chỉ
một thái độ và hành động cứ tiếp tục xảy ra. Cũng có thể chỉ về tương lai thường xảy ra
ngay sau đó. 26:2 “ Đến lễ Vượt Qua”.

3. Tương Lai

Thường thỉ về những gì xảy ra trong tương lai. Gi 14:3 , “ta sẽ đến”. Nhưng cũng có khi
dùng như một mệnh lệnh. Mat 5:21 “Ngươi không được giết người.” Vấn đề đặc biệt thuộc
lời tiên tri, nhất là Cựu Ước (Chương 19 số 4). Hầu hết những lời tiên tri về tương lai đều
dùng thì tương lai nhưng không phải tất cả. Ví dụ : Es 53:1-12 hầu hết dùng quá khứ nhưng
chỉ về Chúa Cứu Thế trong tương lai, đôi khi thì hiện tại lại dùng chỉ tương lai. IGi 3:6, người
nào phạm tội thì đã không thấy hoặc biết Đức Chúa Trời. Có phải theo nghĩa tuyệt đối
không?

Xem thì hiện tại của “phạm tội”. Thì hiện tại có nhiều nghĩa. Cần xem văn mạch.

a. IGi 2:11-14 Giăng viết cho tín hữu.

b. Rõ ràng là ông nói họ có thể phạm tội.

c. Ông gồm luôn cả ông trong đó (1:8 3:16-18).

Vậy ai phạm tội đều không phải là Cơ-đốc nhân không? Nếu vậy tại sao ông nói: “Tôi
viết cho anh em để anh em không phạm tội” (2:1) và “Nếu chúng ta nói chúng ta không có
tội, thì chúng ta lừa dối mình.” (1:8). Thì hiện tại đây có ý chỉ liên tục, thói quen cứ làm hoài
hoài, chứ không phải một lần vấp ngã.

ĐẠI DANH TỪ, CHỦ HỮU TỪ LIÊN TỪ (Pronouns, Genetives and Conjunctions)

Động từ là hành động của chủ từ đối với túc từ. Đôi khi tương quan này không có nghĩa.
Ví dụ: tôi thương con tôi hơn vợ tôi. Câu này có thể có nghĩa: “tôi thương con tôi hơn tôi
thương vợ tôi.” Hoặc, “tôi thương con tôi hơn vợ tôi thương con tôi.”

Đại danh từ này dùng thay thế danh từ làm chủ từ hay túc từ, đôi khi không rõ nghĩa
lắm, nhất là khi có nhiều nhân vật trong cùng một câu chuyện.

Thay đổi liên từ trong một câu thường làm đổi nghĩa câu đó. Xem câu : “Tôi ăn rau và
tôi mạnh”. Thay liên từ và bằng những liên từ nên, vậy mà, mặc dầu, nhưng và xem nghĩa
câu thay đổi như thế nào.

Ví dụ: 3 chữ “vì” trong Lu 12:15,22,32 khác nhau.

Vài qui tắc hướng dẫn

1. Nếu có câu hay đoạn không rõ nghĩa, hãy tìm chữ chìa khóa và xem văn phạm của
nó, nó thuộc loại từ gì, liên hệ với các từ ngữ khác như thế nào.

2. Xem liên hệ của từ ngữ này với những từ ngữ chung quanh nó.

3. Xem trong phần này nó có thể có bao nhiêu nghĩa.

4. Nếu có nhiều nghĩa, hãy xét tới nguyên tắc khác.

Xem IICo 5:19. “Đức Chúa Trời ở trong Đấng Christ làm cho thế gian hòa lại với Ngài. ”
Đại danh từ Ngài chỉ về Đức Chúa Trời hay Đấng Christ? Đức Chúa Trời ở trong Đấng
Christ làm cho thế gian hòa lại, hay Đức Chúa Trời làm cho thế gian hòa lại trong Đấng
Christ?

HIỂU Ý ĐỊNH TÁC GIẢ

Nguyên tắc thứ tư là giải kinh theo chủ đích và bố cục của tác giả. Hai điều này có liên
hệ mật thiết với nhau nên ta có thể xét chung với nhau, dầu ta biết là chúng khác nhau.

Chủ đích của tác giả là điều tác giả định trong trí khi viết. Khi Giăng viết IGi 5:13, “Ta
viết những điều này cho các con, hầu cho các con biết mình có sự sống đời đời”. Ông đã
nói rõ chủ đích của ông.
Bố cục của tác giả là cách của ông sắp sếp bài viết để đưa đến chủ đích trên. Thư Ê-
phê-sô cho ta thấy rõ kết cấu: Ba chương đầu nói về sự kêu gọi người tín đồ, ba chương
sau bàn về hành vi cư xử của người. Ta biết được điều này phần nào nhờ chữ vậy ở đầu
chương 4.

Trong những ví dụ trên đây ta dễ thấy chủ đích và bố cục, nhưng không phải luôn luôn
như vậy. Hầu hết các sách trong Kinh Thánh đều không nói đến chủ đích, và đa số rất khó
biết. Bố cục sách thường dễ thấy hơn chủ đích. Nguyên tắc thư tư này khó áp dụng vì
thường thường nó tìm ra chủ đích và bố cục của tác giả, bởi vậy chúng ta không dùng
nhiều. Nhưng nó rất quan trọng, vì vậy chúng ta thử xem ví dụ về cách áp dụng nó.

CHỦ ĐÍCH TÁC GIẢ

Trong Gi 20:31, Giăng nói chủ đích của ông khi viết sách Phúc Âm: “Nhưng những việc
này đã chép để cho các ngươi tin rằng Đức Chúa Giê-xu là Đấng Christ, tức là Con Đức
Chúa Trời, và để khi các người tin rằng Ngài là Con Thượng Đế và nhờ đức tin đó mà được
sự sống đời đời” (cứu rỗi). Ở đây có ba thực tế quan trọng: con người Chúa Cứu Thế, đức
tin và sự sống. Giăng nói rằng ông viết về các phép lạ để người ta kinh nghiệm được
những thực tế đó.

Như vậy có thể suy ra rằng, mọi phép lạ có lẽ phát hiện một điều gì đó về Chúa và về
đức tin và sự sống. Chúng ta cần ghi nhớ trong trí khi tìm hiểu ý nghĩa của mọi phép lạ.
Hãy lấy ví dụ phép lạ lấy trong 2:1-11 . Nó cho biết gì về con người Chúa Giê-xu? Chắc
chắn nó cho biết rằng Ngài là Đấng Tạo Hóa, tể trị thế giới vật chất. Các môn đồ cũng
nhận biết phép lạ của Ngài đã “bày tỏ vinh hiển của Ngài” như trong câu 11 .

Dấu lạ cũng bày tỏ một điều gì đó về cuộc sống tâm linh. Cuộc sống con người đầy dẫy
những thất bại, giống như buổi tiệc hết rượu ở Ca-na. Nhưng Chúa Cơ-Đốc ban sự sống
sung mãn, không thiếu thốn, với phẩm chất cao (rượu ngon) . Đó là một cuộc sống đầy đủ
và vui thỏa.

Ở đây cũng có sự dạy dỗ về đức tin nữa. Lòng tin cậy của Ma-ri bày tỏ trong câu 5:
“Người bảo chi, hãy vâng theo cả”. Đức tin dẫn đến hành động vâng phục, những người
đầy tớ đã vâng theo lời Chúa Giê-xu. Ngài đã hành động qua sự tin cậy và vâng phục nó,
nên người ta đã thấy phép lạ. Các môn đồ đã chứng kiến điều đó và “tin Ngài” (c. 11). Như
vậy, nhờ biết được mục đích của Giăng ta thấy được động lực tinh thần của các phép lạ.

BỐ CỤC CỦA TÁC GIẢ


Ta có thể lấy sách Sáng-thế-ký làm mẫu để học giải kinh qua bố cục của sách. Đọc kỹ
sách Sáng-Thế-Ký, ta sẽ thấy câu “Đây là dòng dõi của....” lặp đi lặp lại nhiều lần trong Sa
2:4 5:1 6:9 10:1 11:10,27 25:12,19 36:1,9 37:2). Một câu được dùng nhiều lần như thế không

phải là ngẫu nhiên. Nó có ý nghĩa gì , có thể giúp ta hiểu quyển sách không? Để thấy sức
mạnh của câu đó ở mỗi chỗ, hãy lập một bản chia cột, ghi những sự kiện liên hệ đến mỗi
câu.

Trong khi tìm tòi như thế, sẽ có nhiều dữ kiện được đưa ra ánh sáng. Ví dụ: Sáng-thế-
ký có hai phần: phần đầu từ đầu cho đến Áp-ra-ham; phần thứ hai, Áp-ra-ham và các
thánh tổ sau ông. Phần đầu chỉ tác giả, phần nhì kể những sự tích của cá nhân. Cả quyển
sách chúng tỏ kế hoạch của Thượng Đế được thực hiện qua “hột giống” hay đường dây
kỉnh kiền. Nó cho ta thấy Thượng Đế đích thân chăm sóc cho Ích-ma-ên và Ê–sai, nhưng
cũng cho biết họ không nằm trong đường dây của mục đích Ngài. Áp-ra-ham và Gia-cốp
được dành cho chỗ quan trọng, dầu họ có nhiều khuyết điểm, vì họ đã được Thượng Đế
chọn cho mục đích của Ngài.

Như vậy, khi nào có thể biết được chủ đích và bố cục của quyến sách, chúng ta phải
thông giải theo ánh sáng đó.

TÌM CHỦ ĐÍCH VÀ BỐ CỤC

Sau đây là vài gợi ý để tìm hiểu chủ đích và bố cục của tác giả.

1. Thử để ý xem sách có nói rõ chủ đích không

Nếu không, có chỗ nào ám chỉ không? Trong hai thư Cô-rinh-tô, không có chỗ nào
Phao-lô nói rõ chủ đích của ông, nhưng chúng ta có thể tìm thấy bằng cách so sánh
những khúc như ICo 1:11 3:4 4:6 5:6 7:1,18 8:1 12:1 16:1 IICo 2:3-4 7:5-8 10:13. Nhờ những đoạn
này, ta biết rằng một số tín hữu là thân nhân của Cơ-lô-ê đã báo cho Phao-lô tin không vui
về Hội Thánh bác bỏ thẩm quyền của Phao-lô vì có một giáo sư khác ăn nói hùng biện
hơn. Rồi các tín hữu Cô-rinh-tô đã viết cho Phao-lô một thư, hỏi ông một số vấn đề. Ông
trả lời (I Cô-rinh-tô), dùng những lời lẽ rất mạnh bạo, nên ông sợ có người phiền lòng. Khi
Tít trở về báo tin rằng người Cô-rinh-tô đã đáp ứng thuận lợi, ông lại viết nữa (II Cô-rinh-
tô), cho họ biết ông cảm tạ Thượng Đế nhưng đồng thời cũng cảnh báo họ về những sứ đồ
giả. Do những sự kiện đó, ta có thể suy luận ra chủ đích của ông khi viết mỗi thư.

Tuy nhiên phải cẩn thận khi chỉ dùng những sự kiện gián tiếp để suy đoán. Cần phải có
những dấu chỉ rõ ràng. Nếu chỉ phỏng đoán từ những câu mơ hồ thì không tốt. Ta không
buộc phải biết chủ đích mỗi sách mới hiểu được sách đó, nhưng nếu biết rỏ chủ đích sẽ
giúp ích cho ta nhiều trong việc tìm hiểu.

2. Những lời đề cập đến cá nhân thường cho thấy chủ đích của sách

Ngoài ra, những chủ đề được lặp nhiều lần hay nhấn mạnh có thể cho biết chủ đích.
Chắc Ma-thi-ơ viết sách Phúc Âm ít nhất là để biểu dương chân lý của Nước Trời, vì ông
nói đến nó nhiều lần.

3. Tìm cấu trúc của quyển sách

Có thể có những điểm phân chia rõ ràng, như Ro 12:1 Eph 4:1. Có thể có những câu lặp
lại nhiều lần như trong Sáng Thế Ký. Nhưng cũng phải cẩn thận. Nhóm chữ “các nơi trên
trời” dùng năm lần trong thư Ê-phê-sô nhưng không đánh dấu sự phân chia quyển sách.

4. Khi đã thấy rõ mục đích hay bố cục, phải ghi nhớ nó khi học các phần trong sách,
phải thông giải cho phù hợp với nó

Phi 2:1-8 là một khúc sách cho thấy chủ đích của tác giả. Các nhóm từ đồng tình yêu

thương, đồng tâm, đồng tư tưởng, hiệp ý, chứng tỏ rằng Phao-lô quan tâm đến phẩm chất
của tình thân hữu giữa các tín hữu Phi-líp. Vì vậy, trong câu 5-8 ông đem gương Chúa
Giê-xu ra nhắc họ. Ngài có một tâm tình, và hành động theo tâm tình đó. Ngài chẳng nắm
giữ lấy sự bình đẳng với Thượng Đế (c.6); Ngài tự làm cho trống không (c.7); Ngài hạ mình
xuống đến đỗi chịu chết cái chết nhục nhã của tên phạm nhân trên thập tự giá (c.8). Như
vậy cái chết của Chúa Giê-xu được đưa ra để làm gương cho sự hạ mình. Ở đây, điểm
chính về sự chết của Ngài không phải là bày tỏ tình thương Thượng Đế hay để chuộc tội
như ta thấy trong các đoạn khác. Những điểm tác giả nhấn mạnh trong mỗi đoạn đều phản
chiếu phần nào chủ đích của ông.

Sau đây là một số đoạn để bạn có thể áp dụng nguyên tắc giải kinh thứ tư:

Ch 1:1-6: chủ đích ghi ở đây ảnh hưởng đến ý nghĩa các đoạn khác như thế nào?

Trong sách Truyền Đạo, nhóm chữ dưới mặt trời có thể là chìa khóa cho quyển sách
nầy. Biết như vậy có giúp ích cho việc tìm hiểu các câu khó như 20:17,20,24 9:4 không?

Lu 1:1-4 : Trả lời câu hỏi giống như của Châm Ngôn.

Trong Ga 1:1-24 hãy xét chủ đích của Phao lô căn cứ vào chữ Tin Lành được gặp lại
nhiều lần và cách mở đầu đột ngột của ông (không có cảm tạ).
Nghiên cứu Co 2:4,8,16,20-22, và đưa ra những gợi ý về chủ đích của Phao-lô cho sách
Cô-lô-se.

NGHIÊN CỨU BỐI CẢNH

Nguyên tắc thứ năm là: thông giải dưới ánh sáng của bối cảnh lịch sử, địa lý, văn hóa,
được nhiều chừng nào tốt chừng nấy.

Các biến cố trong Kinh Thánh xảy ra vào một thời điểm nào đó trong lịch sử. Chúng có
dự phần trong văn hóa của những người sống lúc đó, phần lớn là người Do Thái. Tân Ước
liên hệ với văn hóa của Palestine vào thế kỷ đầu tiên cũng như lịch sử lúc đó và trước đó.
Chúng ta sẽ hiểu sai Tân Ước nếu ta giải thích theo văn hóa chúng ta ngày nay.

Chúng ta nên nhớ rằng, cùng một hành động, lời nói hay sự việc rất có thể có những ý
nghĩa rất khác nhau trong những nền văn hóa khác nhau. Ví dụ ở Ấn Độ bạn gọi ai là con
cú hay con loài cú là bạn nhục mạ người đó, nhưng ở Mỹ thì đó là lời khen. Đối với người
Ấn Độ nó có nghĩa là ngu ngốc, nhưng đối với người Mỹ thì lại là khôn ngoan!

Một thành ngữ có nghĩa nào đó trong một nền văn hóa hay trong một thời kỳ nào đó có
thể không có ý nghĩa trong một nền văn hóa khác, trong một thời kỳ khác. Vì ý nghĩa thay
đổi nên ta cần biết ý nghĩa của câu Kinh Thánh trong bối cảnh văn hóa của nó. Trong IIVua
2:9, Ê-li-sê xin Ê-li được phần gấp đôi thần linh của Ê-li. Nhưng xét theo bối cảnh văn hóa
của hai vị nầy (nhất là Phu 2:1-7) thì hình như Ê-li-sê được phần gia tài của người con đầu
lòng: ông ấy muốn làm người kế nghiệp Ê-li.

Vậy hãy nhớ rằng, ý nghĩa đầu tiên sơ khởi của một khúc sách là ý nghĩa mà nó có
trong bối cảnh văn hóa và lịch sử, nghĩa là ý nghĩa của nó đối với những người đang sống
lúc đó. Chúng ta cần phải hiểu nghĩa đó càng đúng càng tốt.

Trong Lu 9:23, Chúa Giê-xu nói rằng ai muốn theo Ngài phải “Vác thập tự giá mình mỗi
ngày”. Chúng ta nói đến thập tự giá là nói đến những nỗi khó khăn, khổ sở, thử thách. Tuy
nhiên vào thời Chúa Giê-xu người vác thập tự giá là người tử tội đi đến pháp trường. Người
ấy vác thập tự giá đi đến chỗ chết. Người thời Chúa Giê-xu hiểu lời Ngài theo nghĩa đó. Họ
biết rằng Ngài nói về sự chết (thể xác hay tinh thần), chứ không phải về sự khổ sở. Các
đoạn khác trong các sách Phúc Âm, nhất là những đoạn nói về sự chết của Chúa, nêu rõ ý
nghĩa nầy. Chúng ta chỉ nên diễn giải theo ý nghĩa đó.

Chúng ta biết rằng chúng ta không thể nào tìm biết ý nghĩa nguyên thủy của tất cả các
đoạn, chẳng hạn như Xu 28:30 “ U-rim và Thu-mim” ICo 15:29 “Vì người chết chịu báp-têm…”
không một học giả nào có thể biết chắc nghĩa nguyên thủy của nó là gì. Tuy nhiên, nhờ
dùng các nguyên tắc giải kinh, ta có thể biết ý nghĩa nguyên thủy của phần lớn, và căn cứ
vào đó mà thông giải.

Chúng ta cũng nhận biết rằng nhiều phần Kinh Thánh có những ý nghĩa đầy đủ hơn
mức độ hiểu biết của người đương thời. Khi Thượng Đế phán lời hứa đầu tiên về sự ra đời
của Đấng Cứu Thế trong Sa 3:15, không ai lúc ấy có thể biết ý nghĩa trọn vẹn “Gót chân”
của “dòng dõi người nữ” và đầu “bị giày đạp là gì.”

ISa 12:17 có thể dùng làm ví dụ về bối cảnh văn hóa giúp ta hiểu ý nghĩa như thế nào.

Sa-mu-ên nói rằng ông sẽ kêu cầu Chúa giáng mưa xuống vào mùa giặt lúa mì. Bình
thường từ tháng tư cho đến tháng mười không có mưa, vì mùa gặt lúa mì là từ giữa tháng
tư đến giữa tháng năm. Đây là bằng chứng về quyền năng của Thượng Đế, chứng tỏ cho
dân chúng biết rằng Sa-mu-ên nói theo lệnh Ngài.

Trong Mac 11:12-14 (và Mat 21:18-19) ghi lại chuyện Chúa rủa cây vả. Mac 11:13 dường
như nói rằng Chúa rủa cây vả vì nó không có trái dầu lúc đó không phải là mùa vả, nghe
qua có vẻ bất công. Nhưng dầu không phải mùa, những cây vả tốt vẫn có một ít trái. Cây
vả nầy không có chút trái nào chứng tỏ là nó đã cằn cỗi.

Bối cảnh gồm nhiều yếu tố:

1. Yếu tố lịch sử

Da 5:7 Đa-ni-ên được lập làm quan cai trị đứng hàng thứ ba vì Bên-xát-xa và cha vua

đang cùng cai trị, nghĩa là đã có hai người cai trị hàng đầu rồi.

Mat 2:22: Lịch sử cho biết rằng vua Ạc-chê-lau đe dọa tính mạng Chúa Giê-xu nhiều hơn

cha ông ta.

2. Yếu tố địa lý

Gi 4:4 Chúa Giê-xu phải đi ngang qua Sa-ma-ri vì tỉnh nầy nằm giữa Giu-đê và Ga-li-lê.

Gio 2:23: Có hai mùa mưa chính, mưa sớm hay mùa thu vào gieo cấy, mưa muộn hay

mưa vào mùa xuân lúc mùa màng sắp chín.

3. Yếu tố văn hóa (xã hội , tôn giáo hay vật chất)

Lu 9:59. Chôn cha là nghĩa vụ thiêng liêng của người con trai trưởng và có thể phải đợi

nhiều năm nếu người cha chưa chết.


Gi 13:3-5: Rửa chân cho khách là bổn phận của đầy tớ, ắt hẳn không một môn đồ nào

lúc ấy tình nguyện làm công việc nầy.

TÌM HIỂU BỐI CẢNH

Muốn dựa vào bối cảnh để giải kinh thì phải tìm hiểu bối cảnh đó. Làm thế nào để biết
bối cảnh? Chúng ta có thể có những tài liệu quí báu nhờ công trình của các học giả Kinh
Thánh trong các từ điển Kinh Thánh, sách địa lý bình giải vv... Nếu bạn có quyển nào, hãy
dùng quyển đó. Một nguyên tắc mà chúng ta đã ghi nhận là Kinh Thánh chính là người giải
kinh tốt nhất. Kinh Thánh cho ta các thông tin cần biết về bối cảnh của những đoạn khó
hiểu nhất.

Sau đây là vài bước cần theo để biết được tin tức cần thiết.

1. Học Kinh Thánh

Hãy đọc, đọc và đọc Kinh Thánh. Bạn càng quen với toàn bộ Kinh Thánh, thì càng biết
nhiều về bối cảnh để thông giải nó. Hãy đọc các sách lịch sử: Lịch sử Cựu Ước và Tân
Ước. Bộ sách Ngũ Kinh chứa đựng nhiều bối cảnh văn hóa cho phần còn lại của Kinh
Thánh, nhất là Tân Ước. Những phần sau cũng có thể soi rọi cho những phần trước. Nhờ
đọc nhiều và nghiền ngẫm, bạn có thể biết được những thời kỳ và văn hóa của những
người trong Kinh Thánh.

2. Ghi chép trong khi đọc

Hãy ghi chi tiết về những nhân vật trong Kinh Thánh, các phong tục, đặc điểm của xứ.
Để ý những điều bất thường, những chữ lạ v.v... rồi đem tra từ điển và ghi nghĩa ra. Khi ghi
một sự kiện nào thì ghi luôn câu Kinh Thánh tham chiếu. Nó sẽ giúp bạn dễ tìm sau nầy và
kiểm tra cho chính xác. Ghi chép là một dụng cụ hữu ích để hiểu Kinh Thánh. Nó giúp bạn
ghi nhớ và làm gia tăng kho kiến thức của bạn.

3. Nếu bạn có quyển Kinh Thánh có phần chú dẫn, hãy dùng nó

Thường những câu Tân Ước hay chú dẫn Cựu Ước. Bên cạnh Gi 3:14 nói về Môi-se treo
con rắn lên, có chú dẫn câu Dan 21:9. Tuy nhiên, những chú dẫn ghi trong Kinh Thánh
không đầy đủ, nên bạn cần ghi những chú dẫn riêng của bạn trong khi tra cứu. Khi một
câu nào nhắc tới câu khác, hãy ghi nó vào lề.

4. Dùng bản đồ trong Kinh Thánh để tìm các địa điểm

Nếu bạn đọc sách Giô-suê mà biết được những địa điểm trong đó, bạn sẽ hiểu được kế
hoạch chinh phục Ca-na-an.
5. Nếu bạn có các loại sách khác, hãy dùng chúng

Trước hết là từ điển. Chữ nào có liên quan đến văn hóa được giải thích trong phần định
nghĩa nó. Những chữ như trống cơm, đờn cầm, diêm sinh, v.v. Đều có liên hệ đến văn hóa.
Các từ điển và sách bình giải đều có giải thích những sự vật có tính cách văn hóa, vì
chúng ảnh hưởng đến việc giải kinh.

CÁC QUI TẮC HƯỚNG DẪN

Sau khi đã có tin tức về bối cảnh của đoạn sách, bạn bắt đầu nghĩ đến việc thông giải.
Có ba qui tắc hướng dẫn hữu ích:

1. Xem xét cẩn thận những điểm chưa biết hoặc lẫn lộn và để ý xem, nếu biết bối cảnh
sẽ giúp ta hiểu hơn như thế nào.

2. Nghĩ xem khúc sách có nghĩa gì đối với người thời đó.

3. Tìm hiểu nghĩa nào thích hợp cho chúng ta trong nền văn hóa chúng ta ngày nay áp
dụng nó.

Chúng ta hãy lấy Cac 13:3-5 làm ví dụ, trong khúc nầy thiên sứ của Chúa nói với vợ Ma-
nô-a rằng con trai mà bà sắp có thai sẽ là “người Na-xi-rê cho Đức Chúa Trời từ trong lòng
mẹ”. Thiên sứ nói người Na-xi-rê có nghĩa gì? Một quyển Kinh Thánh có chú dẫn chắc
chắn sẽ chú dẫn Dân số ký 6. Nếu bạn không có Kinh Thánh chú dẫn, có thể tra từ điển
Kinh Thánh, nó sẽ định nghĩa chữ đó và chỉ cho bạn Dân số ký đoạn 6 để bạn hiểu tường
tận hơn. Theo sách Dân Số Ký, người Na-xi-rê là người tuyên thệ biệt mình riêng ra và
dâng đời mình cho Chúa. Để thực hiện lời hứa nguyện đó, người ấy phải cử kiêng nhiều
thứ trong cuộc sống hàng ngày: cử uống rượu nho và ăn những vật gì có liên hệ đến cây
nho, cử cắt tóc và không được dụng đến người chết.

Ý nghĩa của việc nầy hình như là khi một người muốn biệt mình ra cho Chúa cho một
mục đích đặc biệt nào đó để làm một công tác gì đó, và hứa nguyện sẽ làm như vậy, thì
người ấy tự tách mình ra khỏi một số hoạt động mà bình thường vẫn được phép. Nho là
một nông phẩm chính ở Palestine, một nguồn thức ăn và thức uống chính của người Do
Thái. Cắt tóc hình như là bình thường đối với người đàn ông, vì không cắt tóc là dấu hiệu
biệt riêng. Khi có đám tang, phải đụng chạm đến xác chết để chuẩn bị việc chôn cất, đó là
một nghĩa vụ bình thường, dầu Dan 19:1-22 Le 21:1-24 dạy rằng các thầy tế lễ không làm
được việc đó ngoại trừ cho những thân nhân ruột thịt, nhưng người Na-xi-rê phải kiêng cử
hoàn toàn. Kinh Thánh không nói lý do tại sao phải kiêng cử hoàn toàn. Kinh Thánh không
nói lý do tại sao phải kiêng cử đặc biệt những thứ nầy mà không kiêng thứ khác. Chắc
chắn là người Na-xi-rê vẫn được tự do trong hầu hết các nghề nghiệp bình thường.

Như vậy, điều dạy dỗ cho người thời bấy giờ là khi một người muốn biệt riêng ra cho
Chúa, họ phải tuyên hứa, và để giữ lời hứa đó họ phải kiêng cử một số hoạt động và
nhiệm vụ bình thường. Đây là điều kiện đặt cho cậu bé Sam-sôn từ trong lòng mẹ. Hẳn
nhiên ở đây cha mẹ phải đứng ra tuyên hứa thay cho Sam-sôn.

Nếu chúng ta muốn áp dụng cho mình, thì Tân Ước không có những huấn thị chỉ dẫn
rõ ràng phải làm cách nào. Thật ra trong Tân Ước không có dùng chữ Na-xi-rê. Như vậy
chúng ta phải áp dụng nguyên tắc đã đề ra trong Cựu Ước. Một tín đồ thời nay có thể
muốn biệt riêng ra cho một mục đích nào đó của Chúa. Như vậy người đó có thể hứa
nguyện, và để thực hiện lời hứa đó, người ấy phải tách mình ra khỏi một số hoạt động. Các
hoạt động trong Dân số ký đoạn 6 có lẽ không thích hợp, nhưng người ấy có thể nhờ Chúa
hướng dẫn cần phải làm gì để đánh dấu sự biệt riêng của mình. Người ấy có thể hỏi ý kiến
những người lãnh đạo tinh thần. Tuy nhiên, người ấy không bị ràng buộc pháp lý nào trong
việc nầy.

Trên đây là phương hướng giải kinh nhờ ánh sáng của bối cảnh. Đối với nhiều đoạn
kinh, việc tìm hiểu bối cảnh và ý nghĩa đương thời của nó áp dụng nó vào thời đại nầy là cả
một vấn đề gai góc. Nhưng càng tra cứu nhiều những đoạn như vậy, ánh sáng càng đến
nhiều hơn: bạn sẽ hiểu lời Chúa nhiều hơn.

Tra cứu thêm: IVua 13:1-34 (ý nghĩa của Bê-tên trong tương quan với Giu-đa) IIVua 3:11
(Ê-li-sê đổ nước) 4:1-7 (tình cảnh người đàn bà) Mat 8:4 (tỏ mình cho thầy tế lễ) Cong 15:20,29
(tới mức độ nào những điều cần thiết nầy là những điều nền tảng, và tới mức độ nào chúng
là những tiểu tiết phù phiếm của người Do Thái?) ICo 11:1-16 (mạng che mặt phụ nữ có phải
là yếu tố văn hóa không?) IITi 1:8 (kẻ tù của Chúa).

LẤY KINH THÁNH GIẢI KINH THÁNH

Nguyên tắc thứ sáu là: thông giải mỗi khúc nhờ vào giáo huấn của toàn bộ Kinh Thánh.
Nói cách khác là “dùng Kinh Thánh để giải Kinh Thánh.” Nếu bạn theo đúng những nguyên
tắc khác mà kết quả lời giải của bạn đi ngược giáo huấn của Kinh Thánh, thì cần phải xét
lại lời giải của bạn. Kinh Thánh không tự mâu thuẩn với chính mình. Kinh Thánh từ đầu chí
cuối là một mặc khải, đưa ra một sứ điệp về Thượng Đế.

Chúng ta đã thấy rằng học một câu hay khúc Kinh Thánh phải nghiên cứu văn mạch
của nó - tức là những câu, những khúc hay những chương trước và sau nó. Nguyên tắc
thứ tư nầy hàm ý rằng toàn bộ Kinh Thánh là văn mạch tối hậu của khúc sách. Ta chỉ có
thể tìm thấy sứ điệp Kinh Thánh về một đề tài nào bằng cách nghiên cứu tất cả các đoạn
sách có liên hệ tới nó. Nếu ta chỉ nghiên cứu một vài đoạn, có lẽ chúng ta sẽ không hiểu
được giáo huấn của Kinh Thánh.

Giả sử bạn đi ngang qua một cánh rừng. Trước mặt bạn là một con sông rất khó vượt
qua. Nếu bạn không biết gì về toàn thể khu vực, bạn sẽ cố gắng lội qua sông, nhưng nếu
bạn biết rằng sau một phần tư dặm về phía tay phải, con sông bắt đầu lượn quanh và đổi
hướng, thì bạn chỉ cần chịu khó đi theo khúc quẹo của con sông. Kiến thức tổng quát sẽ
giúp bạn vượt được khó khăn lớn, có khi tránh được nguy hiểm.

Biết toàn thể Kinh Thánh sẽ giúp chúng ta khỏi tưởng rằng mình đã hiểu một câu Kinh
Thánh trong khi thật ra chúng ta đã hiểu lầm nó. Ví dụ, chúng ta đọc Eph 3:14 Phao lô viết:
“Vì cớ đó mà tôi quỳ gối trước mặt Cha.” Chúng ta có thể kết luận rằng vì Phao-lô quì gối
cầu nguyện, nên Kinh Thánh dạy chúng ta cũng phải quì khi cầu nguyện. Kết luận đó
không đúng với những câu khác cho thấy rằng đứng hay nằm sấp đều là những tư thế cầu
nguyện tốt, cũng như có những câu nói rằng đều đẹp lòng Thượng Đế là thái độ của tấm
lòng chứ không phải tư thế của thân thể.

Các tà giáo có vẻ như có thẩm quyền của Kinh Thánh, tuy nhiên những người dạy các
giáo lý đó chỉ dùng một số đoạn Kinh Thánh hợp với tà thuyết của họ và bỏ qua các đoạn
khác. Muốn khỏi tin những giáo lý sai lầm, chúng ta phải dùng sứ điệp của toàn bộ Kinh
Thánh để kiểm tra lại câu ta hiểu có đúng không. Chúng ta giữ thái độ khiêm nhường
không vội đưa ra những kết luận chung quyết và giáo điều nếu chưa xét nó dưới ánh sáng
của toàn thể lời Thượng Đế.

Một số học giả Kinh Thánh chỉ xét có một phần Kinh Thánh khi thông giải hay thiết lập
giáo lý. Ví dụ, họ đem những hạn chế về ăn uống trong Cựu Ước áp dụng cho tín hữu Cơ-
đốc ngày nay. Hay họ chỉ dựa vào những lời Thượng Đế hứa ban phước cho những người
giữ luật pháp Ngài trong Cựu Ước, rồi không kể đến những giáo huấn của Tân Ước về
cách Thượng Đế xưng công bình, kết luận rằng người thời Cựu Ước có thể là công bình
trước mặt Thượng Đế nhờ tuân theo luật pháp.

Đối với giáo lý ngày Sa-bát, nguyên tắc nầy cũng rất hệ trọng. Trong Cựu Ước, huấn thị
bảo giữ ngày Sa-bát tức là ngày thứ bảy làm ngày nghỉ là điều rất rõ ràng, nhưng nếu
muốn biết sự dạy dỗ đầy đủ của cả Kinh Thánh, nhất là ý nghĩa của giáo lý đó đối với ngày
nay, chúng ta phải xét cả Cựu Ước lẫn Tân Ước, kể cả tương quan giữa hai giao ước và ý
nghĩa của sự phục sinh Chúa Giê-xu và thói quen của Hội Thánh ban đầu.

Mặt khác, có những người chỉ lấy Tân Ước mà không đến xỉa gì đến Cựu Ước. Dầu họ
có đọc Cựu Ước để hiểu Tân Ước, họ cho rằng Tân Ước có đủ mọi chân lý cần thiết cho
người tín đồ Cơ-đốc. Trong chương 21, chúng ta sẽ xét đến tương quan giữa Cựu Ước và
Tân Ước, nên ở đây chúng ta chỉ ghi nhận rằng toàn bộ Kinh Thánh là mặc khải của
Thượng Đế, và mỗi phần phải được hiểu theo ý nghĩa của toàn bộ.

Những người chỉ rút chân lý ra từ các sách Phúc Âm hay Công vụ Sứ đồ mà không đối
chiếu với sự dạy dỗ của các thư tín cũng không tôn trọng nguyên tắc nầy. Một số tín hữu
rút giáo lý về báp-têm bằng Thánh Linh hầu như hoàn toàn từ sách Công Vụ. Báp-têm
bằng Thánh Linh là một chân lý quan trọng, ta chỉ có thể hiểu nó khi xét sự dạy dỗ của
toàn bộ Tân Ước.

NHỮNG KHÚC SÁCH SONG HÀNH

Một cách để biết sự dạy dỗ của toàn thể Kinh Thánh là nghiên cứu những khúc song
hành: những câu ở những nơi khác nhau cùng nói về một điều, ví dụ một số lời dạy của
Chúa Giê-xu và sự việc ghi trong các sách Phúc Âm. Một phần lịch sử trong sách Sa-mu-
ên và các Vua song hành với nhau dầu không đúng hẳn.

Khi xét những đoạn song hành, cần nhớ những điều nầy:

1. Chúng phải đúng là song hành

Nhiều khi chúng có những chữ giống nhau nhưng không phải song hành. Phải có ý
giống nhau mới gọi là song hành.

2. Để ý cẩn thận những dị biệt cũng như tương đồng

Hãy viết ra và xem cho rõ. Xem thử những chỗ dị biệt ảnh hưởng đến ý nghĩa như thế
nào.

Trong Mat 10:34 Chúa Giê-xu nói, “Ta đến không phải để đem hòa bình nhưng đem
gươm giáo.” Câu này có nghĩa đen chăng? Khi chúng ta đọc văn mạch, chúng ta thấy có
chữ thù nghịch (c.36) gợi lên hình ảnh chiến đấu.

Lu 12:51 là một khúc song hành. Hai câu gần như giống ý nhau nhưng không hẳn như
vậy. Gươm giáo đổi thành chia rẽ. Cả hai câu đều nói về người nhà và sự chia rẽ trong gia
đình, nhưng với những chi tiết khác nhau. Như vậy ý hai câu giống nhau vì văn mạch cũng
tương đương. Gươm giáo tượng trưng cho chiến đấu, bởi vậy cũng có nghĩa chia rẽ. Từ
đây, chúng ta có thể hỏi câu trong Ma-thi-ơ có ý dùng chữ gươm thật không. Khi chúng ta
đọc Mat 10:37-38, chúng ta thấy vấn đề phải đối diện ở đây là đặt ai ở hàng đầu. Nếu ta đặt
Chúa ở hàng đầu trong cuộc sống thì ta sẽ có thể phải chia rẽ với gia đình.

Không phải lúc nào cũng có những khúc sách song hành, bởi vậy nguyên tắc nầy
không quan trọng bằng nguyên tắc văn mạch. Nhưng bạn cũng nên nghiên cứu thêm vài
ví dụ: (1) So sánh ICo 8:6 và Co 1:16. Có người cho rằng 1:16 nói về cuộc tạo dựng tâm linh
mới (2) Có người liên kết Es 9:6-7 với ISa 17:40 qua số năm (năm tên, năm cục đá). Bạn thấy
có liên hệ gì không.?

BIẾT TOÀN BỘ KINH THÁNH

Làm sao ta có thể biết toàn bộ Kinh Thánh? Sau đây là vài chỉ dẫn.

1. Tích cực đọc Kinh Thánh

Cần có một kế hoạch đọc Kinh Thánh trong một thời gian đều đặn, liên tục trong một
năm chẳng hạn. Một phương cách đơn giản để học hết Kinh Thánh trong một năm là mỗi
ngày đọc ba chương và Chúa nhật đọc năm chương. Nếu giữ đều đặn và ghi chú, bạn có
thể nhớ được nhiều khúc sách và tập so sánh Kinh Thánh vói Kinh Thánh. Không làm như
vậy, việc học Kinh Thánh của bạn sẽ tiến chậm hơn.

2. Học Kinh Thánh đều đặn

Đọc không chưa đủ. Bạn cần kết hợp đọc với học và dành đủ thì giờ cho việc đó. Cố
gắng lập chương trình học từng sách một cho đến khi hoàn tất.

Có lẽ bạn cảm thấy nản chí, nghĩ rằng mình không bao giờ có thể biết toàn thể Kinh
Thánh, hoặc là phải mất nhiều năm mới đạt được. Ý đó cũng phần nào đúng. Không ai có
thể biết Kinh Thánh trọn vẹn dù đã học hàng chục năm. Tuy nhiên, cứ đọc và học đều đặn
một cách có hệ thống và với tinh thần cầu nguyện, chắc chắn sự hiểu biết lời Chúa của
bạn sẽ gia tăng.

NHỮNG NGUYÊN TẮC ĐẶC BIỆT

NHỮNG NGHĨA BÓNG TRONG NGÔN NGỮ

Trong phần nầy chúng ta nhìn vào một số tiêu biểu đặc biệt của ngôn ngữ và các
nguyên tắc giúp chúng ta hiểu chúng.

Chữ có nghĩa bóng hay dụ ngữ (figures of speech) là chữ hay nhóm chữ dùng để diễn
đạt một điều gì khác hơn là nghĩa đen, nghĩa tự nhiên của nó. Chúng ta ai cũng có dùng
những thành ngữ như vậy. Khi chúng ta nói, “anh ta đâm bị thóc thọc bị gạo” chúng ta
không có ý nói đến tóc gạo mà nói đến sự xúi giục chia rẽ. Nếu tôi nói, “Tôi tức cười muốn
chết”, bạn khỏi cần phải lo sợ hay buồn rầu cho tôi vì câu nói đó không có ý nghĩ là “tôi
muốn chết” mà có nghĩa là tôi cười tột độ, lúc nầy tôi đang vui.

Nhưng ý bóng mà người ta dùng trong ngôn ngữ bình thường không đúng với nghĩa
đen nhưng vẫn đúng. Chúng chỉ diễn đạt sự thật bằng một lối khác, linh động và thú vị
hơn. Chúng ta nhận được nghĩa của chúng ngay mà không phải dừng lại để suy nghĩ hay
tưởng tượng; trí óc chúng ta tự động dịch nó ra.

Tuy nhiên, việc nhận biết nghĩa bóng trong ngôn ngữ Kinh Thánh rất quan trọng. Đôi
khi việc hiểu chữ theo nghĩa đen hay bóng không có gì quan trọng, nhưng lắm lúc là cả
một vấn đề có tầm mức lịch sử. Vào thời kỳ Cải Cách Giáo Hội, Martin Luter và Ulrich
Zwingly là hai nhà đại lãnh tụ bất đồng ý kiến về câu Chúa nói, đây là thân thể ta trong lễ
Tiệc Thánh. Giáo Hội Công Giáo La Mã dạy rằng câu đó hiểu hiểu theo nghĩa đen. Luther
cũng hiểu theo nghĩa đen dầu không đến mức độ của quan điểm Công Giáo nhưng
Zwingly thì nhấn mạnh rằng đó ý bóng, rằng bánh và rượu tiêu biểu cho thân thể và huyết
của Chúa, và Chúa hiện diện trong lễ hội thông (Tiệc Thánh) một cách thiêng liêng chứ
không phải vật chất. Sự bất đồng ý kiến của hai ông đã khiến cho giáo hội phân rẽ.

CÁC DỤ NGỮ SO SÁNH

1. Ẩn dụ (Metaphor)

Ẩn dụ hàm ý so sánh hai thứ mà căn bản không giống nhau. Nếu bạn so sánh con chó
và con đà điểu thì bạn không có ẩn dụ vì cả hai đều là con vật; nhưng nếu bạn so sánh
con người với cây cối là bạn đã làm một ẩn dụ. Hình thức thông thường của ẩn dụ là “A” và
“B”, nghĩa là A cũng giống như B: Tôi là một con sâu. Nó là một con lừa. Thượng Đế là
tảng đá của tôi.

Còn có nhiều hình thức nói bóng khác như: chén cứu rỗi (cứu rỗi là cái chén), bánh khổ
nạn v.v.. hoặc nói con chó chết nầy thay vì nói người nầy là con chó chết. Có khi đó là một
hành động: Ngài thắt lưng tôi bằng sự vui mừng (thay vì nói sự vui mừng là thắt lưng tôi).

Tất cả những ẩn dụ nầy cho thấy rằng có một điểm so sánh giữa hai thứ mà phần
chính là không giống nhau. Hãy xét ẩn dụ chót ở trên. Làm sao sự vui mừng lại giống như
thắt lưng, hay giây nịt? Cái nịt dùng để làm gì? Nó giữ quần áo và chuẩn bị cho con người
đi ra làm việc. Có phần nào sức mạnh và an ninh trong đó. Cũng vậy, sự vui mừng đem
sức mạnh và an ninh cho tâm linh.
Hãy nhìn vào những câu tham chiếu dưới đây và suy nghĩ từng câu một: Gios 1:8 IIVua
7:2 Giop 13:25 41:14 Thi 109:29 Es 1:31 7:4 Mat 26:26 Lu 11:39 IICo 5:1-4 Eph 1:18.

2. Tỉ dụ (Simile)

Tỉ dụ cũng rất giống như ẩn dụ, nhưng nói rõ so sánh, dùng chữ giống như hay cũng
như. Nếu chúng ta nói, “Tôi cũng như sâu bọ” hay “Thượng Đế giống như tảng đá cho
chúng ta”, ý nghĩa cũng giống như những ẩn dụ trên kia. Ẩn dụ thì sống động hơn, nhưng
có lẽ không được rõ ràng và dễ bị hiểu lầm hơn.

Giop 41:15 là một tỉ dụ: “Trái tim nó cứng như đá.” Câu nầy nêu lên điểm so sánh: Cả hai
thứ đều cứng. Dĩ nhiên chúng ta biết rằng một bên là cứng của vật chất và một bên là
cứng phi vật chất. Đó là một cách nói sống động để mô tả trái tim cứng, nghĩa là tính khí
bướng bỉnh, ngang tàng.

Hầu hết các tỉ dụ đều có đưa ra điểm so sánh, nhưng có khi nó chỉ nói hai thứ giống
nhau và để cho chúng ta nghĩ ra chúng giống nhau thế nào. Mi 7:4 nói, “người lành hơn hết
trong chúng nó giống như chà chuôm.” Giống như con chà chuôm là thế nào? Vì câu văn
không nói rõ nên chúng ta phải xem văn mạch để tìm điểm so sánh.

Thường những vật thiên nhiên được dùng để so sánh. Có khi cùng một sự vật mà một
đặc tính được dùng cho tỉ dụ nầy, còn đặc tính khác lại được dùng cho một tỉ dụ khác hẳn.
Có khi hai tỉ dụ tương phản nhau. Os 6:4 “Lòng nhân từ các ngươi như sương móc tan ra
buổi sáng mai”, dùng đặc tính mau tan của sương móc. Câu nầy mô tả tình yêu bất trung.
Trong 14:5, Thượng Đế phán, “Ta sẽ là sương móc cho Y-sơ-ra-ên.” Những hàng kế tiếp
chứng tỏ rằng Ngài có ý nói về đặc tính của sương là làm cho cây cối sống và lớn lên. (Hãy
xem những tỉ dụ khác nhau dùng từ ngữ bồ câu: Thi 55:6 Es 59:11 Gie 48:28 Os 7:11).

Đây là một số câu tham chiếu, dùng tỉ dụ về hành động cũng như đặc tính: Cac 7:12 Thi
59:6 92:12 133:2-3 Ch 10:26 Es 9:18,19 Gie 17:6 Mat 17:20 25:32-33 Lu 17:24 IPhi 2:2.

QUI TẮC HƯỚNG DẪN

Để thông giải những dụ ngữ so sánh, chúng ta hãy áp dụng các bước sau đây:

1. Để ý xem điểm so sánh có nằm trong câu hay văn mạch không

Nếu có, hãy lấy đó làm chìa khóa để giải, ví dụ, trong IVua 12:4 dân chúng nói với Rô-
bô-am, “Thân phụ vua đã làm cho ách chúng tôi nặng quá.” Chúng ta có thể xem trong văn
mạch để biết câu đó có ý nghĩa gì.
2. Nếu trong đó không có nói tới điểm so sánh, hãy lấy nghĩa tự nhiên của vật dùng so
sánh làm nghĩa căn bản

Es 1:30, “Ngươi sẽ như… vườn không nước.” Một cái vườn như vậy vào mùa hè sẽ như
thế nào? Dĩ nhiên là nó chết. Đó là ý nghĩa tự nhiên của hình ảnh đó. Văn mạch xác nhận
ý nghĩa tiêu diệt.

3. Dùng những khúc sách song hành (nếu có)

Nên nhớ rằng một vật có thể có hai nghĩa trong hai tỉ dụ khác nhau, và phải cẩn thận.
Đừng tưởng tượng quá đến độ đưa ra những lời giải kỳ cục. Trong Mat 11:29 Chúa Giê-xu
nói, “Hãy mang lấy ách của ta.” Rõ ràng đó là một ẩn dụ. Nhưng nó có nghĩa gì? Chúng ta
không cần suy nghĩ để tìm một nghĩa bí ẩn. Sa 27:40 Es 47:6 Gie 27:8 28:14 đã chỉ rõ ý nghĩa
việc mang ách của một người khác.

CÁC DỤ NGỮ TƯƠNG QUAN

Trong hai loại dụ ngữ dưới đây, người ta dùng một từ ngữ thay thế cho từ ngữ khác
tương quan với nó, người ta nhắc tới A nhưng kỳ thật có nghĩa B.

1. Hoán dụ (Metonymy)

Hoán dụ là một loại dụ ngữ gợi ra một ý nào đó bằng một từ có ý niệm liên tưởng tới ý
đó. Có thể hai ý đó có tương quan nhân quả (Giop 34:6 bản AV “Cung thương tích của tôi
không chữa lành được.” Chữ cung ở đây được dùng thay thế cho thương tích do cung gây
ra); có thể là dấu hiệu của một cái gì đặc biệt (“chìa khóa của Đa-vít,” Kh 3:7, ở đây chìa
khóa biểu hiện và thay thế cho chữ quyền lực); có khi tên tác giả thay thế cho tác phẩm
(IICo 3:15, “Mỗi khi đọc Môi-se,” tên Môi-se thay thế cho tác phẩm của ông); hay địa danh
thay thế cho nhân dân ở đó (Mat 3:5, “Cả xứ Giu-đê đều đi ra,” Giu-đê thay thế cho nhân
dân của nó).

Hãy xem thêm Sa 49:10 Phu 17:6 Gios 10:21 Ch 10:21 Gie 21:7 Os 1:2 Cong 6:7 11:23 ICo 10:21.

2. Cải dụ (Synecdoche)

Cải dụ là một loại dụ ngữ dùng một từ bao quát thay cho một từ đơn lẻ hay ngược lại.
Một phần thay thế cho toàn thể, hay toàn thể thay cho một phần; số ít thay cho số nhiều
hay số nhiều thay cho số ít. Sa 42:38 bản AV, “làm cho tóc bạc của ta đau lòng xuống âm
phủ” nhưng là tất cả con người ông. Một phần thay cho toàn thể. Gie 25:29, “ta gọi một
thanh gươm nghịch cùng dân cư trên đất.” Một thanh gươm ở đây đại diện cho nhiều
gươm, số ít dùng thay cho số nhiều.
Nghiên cứu thêm Gios 7:1,11 Sa 14:15 IISa 16:21 Giop 29:11 Es 2:4 Mat 6:11 12:40.

Để giải hai loại hoán dụ và cải dụ, hãy theo hai điều chỉ dẫn dưới đây.

a. Quan sát cẩn thận

Hiểu theo nghĩa đen của chữ đó có vô lý hay lộn xộn không? Es 22:22 nói, “Ta sẽ đặt
trên vai ngươi chìa khóa của nhà Đa-vít.” Nếu hiểu nghĩa đen ta sẽ bật cười, nhưng đó là
một dụ ngữ chỉ thế lực quyền hành.

b. Dùng văn mạch và hoàn cảnh trong đoạn văn để tìm nghĩa bóng

Phu 19:15 nói về “Miệng của hai người chứng.” Nghiên cứu văn mạch, miệng có nghĩa
gì? nay thay thế cho “nói, làm chứng”.

CÁC LOẠI DỤ NGỮ KHÁC

1. Hô ngữ (Apostrophe)

Đây là một lối nói trực tiếp với người hay vật vắng mặt tưởng tượng. Thi 68:16, “Hỡi các
núi có nhiều chót, sao các ngươi ngó cách ganh ghét?” Tác giả nói với núi như là chúng có
thể nghe được. Es 54:1, “Hỡi kẻ son sẻ, hãy hát”; văn mạch cho thấy rằng Chúa nói với một
dân tộc, không phải với một người đàn bà. Hô ngữ là một cách nói linh hoạt để thêm sức
sống cho chữ viết. Thường thì nghĩa nó đã rõ ràng như vậy và văn mạch cũng cho biết đó
không phải là nghĩa đen, nên việc giải nó không có gì khó khăn. Xem IISa 18:33 IVua 13:2 Es
14:12 Gie 22:29 47:6 Exe 37:4. Các tiên tri Cựu Ước thường hay dùng loại hô ngữ nầy.

2. Nhân cách hóa (Personification)

Nói về một vật hay sự việc như là một người, nghĩa là gắn nhân tính cho những sự vật
không phải là người. Thi 98:8, “Nguyện các sông vỗ tay.” Tác giả biết rằng sông có tay. Ông
chỉ dùng một lời bóng bẩy, linh động để nói rằng thiên nhiên cũng được phước do sự hiện
diện của Chúa.

Nhân cách hóa thường được dùng chung với hô ngữ. Chúng ta đọc trong Phu 32:1, “Hỡi
các từng trời, hãy lắng tai” và trong Es 44:23, “Hỡi các từng trời, hãy hát.” Vì nghĩa đen
không thể nào có và thường là khôi hài, nên ta nhận ra nghĩa bóng không khó. Nhưng làm
sao để giải nó? Xem Thi 19:2: “Ngày này giảng cho ngày kia.” Ngày không nói được nhưng
trong câu 1 các động từ rao truyền và giải tỏ song hành nhau, và cả đoạn nói rằng thiên
nhiên bày tỏ Thượng Đế và công việc của Ngài. Như vậy văn mạch làm sáng tỏ ý nghĩa.

Xem thêm Gios 24:27 Thi 77:16 114:3 Ch 1:20 6:22 Gie 14:7 46:10 Mat 6:34 Gia 1:15.
3. Ngoa dụ (Hyperbole)

Đây là lời nói cố tình phóng đại để nhấn mạnh. Cả người viết cũng như người đọc đều
phải nhận biết đó là cố ý. Nếu không độc giả sẽ tưởng tác giả đánh lừa hay coi thường sự
thật. Khi tác giả Thi Thiên nói, “Những suối lệ chảy từ mắt tôi” (Thi 119:136), ông không nói
theo nghĩa đen. Suối không thể nào chảy trong mắt được. Ông hết sức buồn vì người ta
không chịu giữ luật Thượng Đế; dụ ngữ nầy diễn tả niềm đau vô hạn của ông.

Lời Chúa nói về những người bị đày khỏi xư, “tiếng lá khua sẽ làm cho họ chạy trốn” (Le
26:36), có phải là nghĩa đen không? Hẳn là không, đây chỉ là nhấn mạnh hoàn cảnh khốn

khó khi bị lưu đày: Họ luôn luôn sống trong nguy nan sợ hãi.

Cũng hãy đọc Phu 1:28 IVua 1:40 IISa 1:23 Thi 119:20 Gie 19:4 23:9 Gi 21:25.

4. Vấn dụ (Interrogation)

Dụ ngữ nầy là một câu hỏi đặc biệt - câu hỏi chỉ có một câu trả lời. Vì câu trả lời đã rõ
ràng, nên người viết không cần phải viết ra. Trong Gie 32:27, Thượng Đế hỏi, “Ta là Giê-hô-
va, Đức Chúa Trời của mọi xác thịt, có điều gì quá khó cho ta chăng?” Đây không phải là
câu hỏi để thảo luận. Độc giả không thể nói, “Có thể có và có thể không.” Chỉ có một câu
trả lời là không. Câu hỏi đó nói cùng một ý với Giê-rê-mi trong câu 27 cùng chương,
“Không có sự gì quá khó cho Ngài.” Trong câu 27 Chúa cũng nói một câu tương tự, nhưng
bằng cách đặt câu hỏi để làm nổi bật điểm chính ấy bằng cách tự trả lời trong trí, không
phải là nghe Chúa trả lời.

Vấn dụ, có thể dùng cho những mục đích khác nhau. Có khi nó muốn lưu ý một điều gì
đó, có khi nó giới thiệu một đề tài. Thi 8:4. “Loài người là chi mà Chúa nhớ đến?” Gie 23:29,
“Lời ta há chẳng như lửa sao?” Thông giải những vấn dụ không có gì khó khăn. Chỉ cần
đổi câu hỏi ra câu xác định là thấy nghĩa ngay. Ví dụ, lời ta giống như lửa.

Nghiên cứu thêm Giop 21:22 Gie 2:11 13:23 30:6 Am 3:3-4 Ap 1:5 Mat 7:16 ICo 10:22.

5. Châm biếm (Irony)

Dụ ngữ này khác với những loại khác, vì nó nói ngược lại với ý nó muốn nói. Nó được
dùng để nhấn mạnh. Cũng như ngoa dụ, người nghe có thể nhận thấy ngay nên không
phải là chuyện lừa gạt. Thường thường giọng người nói cho biết ngay đó là châm biếm.
Nhưng vì Kinh Thánh là chữ viết không phải là tiếng nói, nên chúng ta khó nhận ra châm
biếm.
Trong IISa 6:20, vợ vua Đa-vít nói, “Hôm nay vua Y-sơ-ra-ên, được vinh hiển thay.” Lời
nói tiếp theo cho thấy bà ấy muốn nói vua tự làm nhục mình. Trong IVua 22:15, vị tiên tri của
Chúa tiên báo sự thành công của cuộc viễn chinh, giống y như các tiên tri giả tiên đoán.
Tuy nhiên, rõ ràng là ông ấy nói châm biếm, vì văn mạch cho thấy vị tiên tri biết là nó sẽ
thất bại. Nếu câu 15 không phải là châm biếm, thì vị tiên tri đã nói dối.

Thật khó biết được một đoạn văn châm biếm, nhưng phần nhiều đều tỏ rõ. Khi nào bạn
thấy không chắc, thì hãy suy nghĩ cả hai lối. Hãy xét nó như một câu thật tình và coi thử nó
có hợp lý trong văn mạch không, rồi sau đó lại xét nó như một câu châm biếm. Thường
thường, nó hiện rõ nghĩa để ta lựa chọn.

Xem thêm Dan 24:11 IIVua 18:27 Giop 12:2 38:21 Xa 11:13 ICo 4:8 IICo 11:19.

Còn có ba thứ dụ ngữ nữa ít khi dùng nên không quan trọng bằng.

Uyển ngữ (euphemism) là thay thế một tiếng tục hay một tiếng bị kiêng kỵ, bằng một
tiếng thanh, nhẹ nhàng hơn Cong 7:60 dùng chữ “người ngủ” thay vì người chết. Cac 19:22
dùng “để chúng ta biết hắn” thay cho đồng tính luyến ái.

Giảm ngữ (Litotes) nói một điều gì bằng cách phủ nhận phản nghĩa của nó, như ta nói
không xa lắm khi muốn nói là gần. Trong Thi 51:17 Chúa không “khinh dể” có nghĩa là Chúa
chấp nhận. Trong ISa 16:8 “Sẽ không đâm hai lần” có nghĩa là sẽ giết bằng nhát gươm đầu
tiên.

Thặng ngữ (Pleonasm) dùng những tiếng dư thừa, như trong IISa 7:22, “chúng ta nghe
bằng tai chúng ta”, hay Phu 3:27, “hãy lấy mắt ngươi mà nhìn nó.” Một số bản dịch bỏ
những chữ thừa đi.

Các dụ ngữ làm tăng vẽ đẹp, sự sinh động và nhấn mạnh cho ngôn ngữ. Nếu chúng ta
nhận ra và giải thích chúng trong Kinh Thánh, Lời Thượng Đế sẽ đến với chúng ta mạnh
mẽ và trong sáng hơn. Biết được chúng sẽ giúp chúng ta hiểu được nhiều câu có vẻ như
mâu thuẩn. Lời Chúa thật giàu ý nghĩa. Hãy cám ơn Ngài vì những dụ ngữ giúp ta hiểu
thêm ý nghĩa đó.

BIỂU TƯỢNG

(Symbols)

Biểu tượng là một cái gì gợi ra hay tượng trưng cho một ý nghĩa nào đó ngoài nghĩa
chính của nó. Nó có thể là một vật tự nhiên như con bồ câu, hoặc một vật chế tạo, như
thập tự giá. Trong đời sống thường ngày của chúng ta hay dùng biểu tượng. Người ta
mang huy chương phù hiệu để biểu hiệu cho các thành tích của mình. Các gián điệp và
thám tử dùng những chữ có nghĩa đặc biệt chỉ có người trong bọn mới hiểu.

Kinh Thánh cũng dùng biểu tượng. Chúng có thể là tự nhiên hay siêu nhiên. Có thể là
những sự vật có thật hay chỉ thấy trong thị tượng. Chúng có thể là đồ vật (như muối hay
chân đèn), hành động (như ăn cuốn sách hay xây một thành phố tí hon), nghi lễ (như Báp-
têm hay Vượt Qua), vật liệu (như vải trắng); con số, màu sắc, tên (như Sô-đôm và Ai-cập
dùng cho Giê-ru-sa-lem), kim khí (như vàng hay đồng), nữ trang (như ngọc châu) sinh vật
(như sư tử hay bồ câu) hoặc các vật khác.

Biểu tượng có thể minh giải chân lý mà cũng có thể che khuất nó. Nó che khuất chân lý
đối với những người không hiểu ý nghĩa tượng trưng mà chỉ thấy nghĩa tự nhiên. Kinh
Thánh thường không chỉ rõ biểu tượng mà để cho người đọc tự nhận ra. Vì vậy chúng ta
phải tra cứu cẩn thận, không bỏ qua biểu tượng nhưng cũng không phải thấy biểu tượng ở
những nơi không có nó. Biểu tượng là một phương tiện diễn đạt chân lý, nhưng chúng ta
có thể phạm nhiều sai lầm nghiêm trọng nếu chúng ta không nhận định đúng.

Các ẩn dụ của Kinh Thánh thường là những biểu tượng, ví dụ, “đây là thân thể ta… đây
là máu huyết ta” (Mac 14:22,24). Chúng ta có thể nhận thấy ở đây là bánh biểu tượng của
thân thể Chúa và rượu là biểu tượng cho máu huyết Ngài. Nhìn vào văn mạch ta thấy ngay
ý nghĩa căn bản: Vì thân thể Ngài bị tan nát và máu Ngài bị đổ ra cho đến chết, chúng ta
bẻ bánh và rót rượu để tượng trưng cho sự chết đó. Nhưng còn ý nghĩa khác nữa. Tại sao
chúng ta ăn và uống? Có nhiều khúc, như Gi 6:32-35,48-63 7:37-39, cho thấy rằng ăn và uống
là những hành động tượng trưng. Tượng trưng cho cái gì? Nếu chúng ta hiểu lời Chúa bảo
hãy ăn thịt Ngài và uống máu Ngài theo nghĩa đen (Gi 6:53), là Ngài đã buộc chúng ta phải
ăn thịt người, một trong những hành động sa đọa nhất của con người tội lỗi. Biết được biểu
tượng, ta có thể tránh được lỗi lầm tai hại.

Cùng một vật có thể tượng trưng cho nhiều thứ, như nước tượng trưng cho cả tẩy sạch
và hủy diệt. Chúng ta đừng nên cho rằng ý nghĩa biểu tượng trong một đoạn thể nào thì
trong các đoạn khác cũng như vậy. Màu đỏ đối với chúng ta là màu của máu và tượng
trưng cho sự chết chuộc tội của Chúa Giê-xu. Nhưng chúng ta sẽ khá ngạc nhiên khi tra
cứu tất cả những câu có chữ này và những chữ đồng nghĩa như đỏ điều, đỏ sặm. Trong Es
1:18 chỉ tội lỗi 63:2 chỉ sự đoán phạt, nó thay tội lỗi; trong Ch 23:31, rượu màu đỏ; trong Mat

16:2, là màu trời, và trong Na 2:3 là lính tráng. Hình như không có một đoạn nào nói rõ màu

nầy tượng trưng cho sự chết của Chúa. Nếu chúng ta tin nghĩa đó, chúng ta cứ việc tin
nhưng không có bằng chứng rõ ràng của Kinh Thánh, như vậy chúng ta cho nghĩa đó là có
thể có chứ không chắc chắn. Còn con rắn có nghĩa gì? (Gi 3:14 Kh 20:2).

CÁC CON SỐ TƯỢNG TRƯNG

Kinh Thánh dùng nhiều con số theo nghĩa tượng trưng. Con số nổi bật nhất là số bảy.
Không có câu nào nói nó là biểu tượng, nhưng khi chúng ta nghiên cứu các câu có dùng
nó thì chúng ta cảm thấy nó hàm ý cao hơn là nghĩa đen. Nếu đem xét hết các câu đó thì
rất khó - vì có hơn 600 câu - nhưng bạn có thể xem những câu sau đây: Sa 29:18 41:2,18
50:10 Xu 12:15 25:37 Le 4:6 26:24 Dan 23:1 Phu 28:7 Gios 6:4 Ru 4:15 Thi 119:164 Ch 24:16 26:16 Xa
4:2 Mat 12:45 Cong 6:3 và Kh 1:4. Những câu nầy cho thấy con số bảy thường mang theo ý

nghĩa trọn vẹn, hoàn thành, hay toàn thể. Tuy nhiên có những câu không mang ý nghĩa đó,
vì vậy chúng ta phải xét cẩn thận.

Những con số khác được dùng theo nghĩa tượng trưng là số ba (thường liên hệ đến Ba
Ngôi - Dan 6:24-27 Es 6:3 Mat 28:19 IICo 13:14 Kh 4:8), số bốn (thường liên hệ đến toàn thể trái
đất hay tạo vật - Gie 49:36 Exe 37:9 Es 11:12 Lu 13:29 Kh 7:1), số mười hai (thường liên hệ đến
toàn thể dân Chúa - Sa 49:28 Xu 28:21 Gios 4:9 Mat 10:1 Kh 21:12,14), và số bốn mươi (thường
liên hệ đến sự thử thách hay phán xét - Sa 7:4 Xu 24:18 Dan 14:34 Phu 8:1-5 Mat 4:2).

Những con số nầy có lẽ một số con số nữa được dùng với nghĩa tượng trưng trong Kinh
Thánh, nhưng đừng nên nghĩ rằng chỗ nào có chúng đều có nghĩa tượng trưng. Nếu
không, bảy con trai của Gióp sẽ có nghĩa trọn vẹn và ba con gái sẽ chỉ về Ba Ngôi, ba chữ
thánh thay, thánh thay, thánh thay, trong Es 6:3 có thể tượng trưng cho Ba Ngôi, nhưng ba
tháng Môi-se được cha mẹ đem giấu (Cong 7:20) và ba ngày Phao-lô không thấy ánh sáng
(9:9) dường như chẳng có nghĩa gì rõ rệt.

CÁC QUI TẮC HƯỚNG DẪN.

Để tìm hiểu những biểu tượng trong Kinh Thánh, ta nên theo một số qui tắc hướng dẫn.

1. Nghiên cứu cách Kinh Thánh giải thích biểu tượng

Chú ý chữ sư tử trong IPhi 5:8 và mưa trong Es 55:10-11. Trên kia chúng ta thấy chữ
sương móc trong Os 6:4 và 14:15, và mỗi tỉ dụ có ý nghĩa tượng trưng khác nhau. Nếu đó là
biểu tượng tổng quát, như màu sắc, hãy dùng sách phù dẫn để tìm những câu tham chiếu
càng nhiều càng tốt và xem Kinh Thánh đưa ra bao nghĩa tượng trưng. Có thể bạn cần giữ
một danh sách những biểu tượng mà bạn tìm được trong khi nghiên cứu.
2. Khi nghiên cứu những sự vật thiên nhiên, hãy ghi chú những đặc tính thiên nhiên
của chúng

Nghĩa tượng trưng sẽ tìm thấy trong đó; ví dụ, chiên con gợi ý nhu mì, muối nói về sự
bảo tồn, con heo chỉ sự dơ dáy. Xem đặc tính nào chỉ ý nghĩa trong đoạn văn bạn đang
đọc.

3. Nghiên cứu bản văn

Bản văn là nguồn trợ lực chính để quyết định ý nghĩa biểu tượng. Chẳng hạn Gie 24:1-3
tả thị tượng của Giê-rê-mi về hai giỏ trái vả, một giỏ trái tốt, một giỏ trái xấu. Trong câu 4-
10, Chúa giải nghĩa biểu tượng: Trái vả biểu tượng cho hai nhóm dân. Những người đi đày
là trái vả tốt; vua và những người còn ở lại trong thành phố là trái xấu.

4. Tránh gán cho nó ý nghĩa chỉ có trong đầu bạn mà không ra từ Kinh Thánh

Nếu không có bằng chứng rõ ràng thì cùng lắm bạn chỉ có thể nói là nó có thể có nghĩa
nầy nọ, chứ không thể võ đoán rằng ý nghĩa nó là thế nầy.

Một số câu có lẽ có biểu tượng trong đó là Xu 13:21 Thi 69:2 với Es 44:3 Exe 1:13 với He
12:29 Exe 37:1-4 Mi 4:13 với Thi 107:16 Mat 17:2 với Kh 19:8.

TIÊU BIỂU

Tiêu biểu (types) là một lãnh vực quan trọng và phức tạp trong viêc giải kinh. Các học
giả Kinh Thánh nhiều khi không đồng ý nhau về những vấn đề liên quan đến các tiêu biểu.
Các tiêu biểu làm nổi bật nhiều khía cạnh của chân lý quý báu và cần yếu.

Có nhiều loại tiêu biểu: người (như A-đam, Môi-se, Ê-li, Mên-chi-xê-đéc), biến cố (nước
lụt, treo con rắn bằng đồng lên), vật dụng (bàn thờ dâng tế, hương, chiên con), nơi chốn
(Ca-na-an, Giê-ru-sa-lem), và chức vụ (tiên tri, tế lễ).

Tiêu biểu có thể định nghĩa là những điều được Thượng Đế định đặt trong Cựu Ước để
dự báo về thực tại thuộc linh trong Tân Ước. Ba điểm then chốt là:

1. Tiêu biểu do Thượng Đế định đặt. Chúng ta phải thấy bằng chứng trong Kinh Thánh
về tương quan giữa tiêu biểu và sự thành nghiệm của nó. Nếu Tân Ước có đề cập đến
những điều song hành với sự kiện nào đó trong Cựu Ước thì không còn gì hoài nghi cả.
Nếu Tân Ước không nhắc tới, thì chúng ta phải cẩn thận. Trong trường hợp đó, mối tương
liên phải rõ ràng để không có gì ngờ vực được. Có thể có những hình ảnh song song nhỏ
giữa Cựu Ước và Tân Ước mà người giàu tưởng tượng mới có thể tìm thấy dễ dàng. Tuy
nhiên giải kinh không thể dựa vào tưởng tượng. Chúng ta phải xem xét bằng chứng và chỉ
xem là tiêu biểu những điều nào có những song hành rõ ràng không thể do tình cờ được.

2. Tiêu biểu ở trong Cựu Ước, điều thành nghiệm (gọi là kháng biểu-antitype) ở trong
Tân Ước. Điều này phân biệt tiêu biểu với các loại dụ ngữ (figures) khác như biểu hiệu
(symbols) và dụ ngôn (parables), những loại nầy có thể áp dụng ý nghĩa thuộc linh cho sự
việc xảy ra cùng trong lúc ấy.

3. Tiêu biểu là “cái bóng”. Có thể là một sự vật hữu hình, như lều tạm chẳng hạn; tuy
nhiên đó chỉ là cái bóng nếu đem so với thực tế thuộc linh thành nghiệm của nó. Trong một
bức hình của cái cây, không có “cây thực tế” trong tấm hình, dầu có những “thực tế giấy”,
“thực tế hóa chất”; tuy nhiên tấm hình vẫn giống cây thật. Cũng vậy, lều tạm là có thật - nó
là thực tế hữu hình và có ý nghĩa riêng - nhưng nó cũng có ý nghĩa chỉ về thực tế Chúa
Giê-xu Cơ-Đốc là đường dẫn đến Thượng Đế.

Một tiêu biểu thường hay gồm có một vài biểu tượng, như vậy ta giải thích chúng trong
ý nghĩa tiêu biểu. Ví dụ viên thượng tế là tiêu biểu cho Chúa Giê-xu Cơ-Đốc. Vậy áo của
ông tượng trưng cho cái gì (Xu 28:39 He 4:14)? Tân Ước có thể không áp dụng biểu tượng
khi nói đến tiêu biểu đó.

Vấn đề trước tiên và có lẽ là vấn đề chính yếu, là làm sao nhận ra những tiêu biểu
không được nhắc đến trong Tân Ước. Các học giả Kinh Thánh có hai quan điểm cực đoan
về vấn đề nầy. Một số chủ trương rằng chúng ta chỉ nên xem và tiêu biểu những gì Tân
Ước cho là tiêu biểu. Quan điểm nầy phát hiện từ niềm tin quyết rằng Thượng Đế đặt ra
các tiêu biểu, khi chúng ta gọi các điều khác là tiêu biểu, chúng ta chỉ dùng óc tưởng tượng
chứ không phải giải kinh. Một số khác chủ trương rằng mọi điều trong Cựu Ước đều chỉ về
Tân Ước: như vậy ý nghĩa của tiêu biểu có thể tìm thấy trong từng chi tiết. Ý nghĩa đã có ở
đó, chúng ta chỉ cần tìm ra thôi.

Một nguyên tắc tốt trong việc giải kinh là chúng ta nên tìm ra ý nghĩa trong Kinh Thánh
chứ không phải gán ý nghĩa cho nó. Vì vậy, tốt hơn ta nên chọn lập trường trung dung về
vấn đề tiêu biểu, chấp nhận những tiêu biểu có đề cập trong Tân Ước và sự kiện nào trong
Cựu Ước có những thực tế song hành rõ ràng trong Tân Ước không phải do tình cờ. Dĩ
nhiên, người học Kinh Thánh phải sử dụng óc phán đoán với tinh thần cầu nguyện để
tránh thái độ giáo điều hay chỉ trích những người khác ý kiến với mình.

Chúa Giê-xu đã giải thích cho hai môn đồ (Lu 24:47) những điều chỉ về Ngài trong cả
Kinh Thánh Cựu Ước. Trên đoạn đường buổi chiều Chúa Nhật hôm đó, Ngài không thể
nào bàn luận hết mọi đoạn (mọi việc, mọi người) trong Cựu Ước. Không thể gán ép cho
câu này ý nghĩa là mọi điều trong Cựu Ước đều là tiêu biểu, nhưng nó chứng tỏ rằng Cựu
Ước đầy dẫy hình ảnh Chúa Giê-xu Cơ-Đốc.

THÔNG GIẢI TÂN ƯỚC

Để giúp chúng ta nhìn thấy những sự kiện song hành, chúng ta cần quan sát cách Tân
Ước giải thích một số tiêu biểu.

1. Treo con rắn bằng đồng lên đồng vắng (Gi 3:14-15).

Trước hết chúng ta liệt kê hết các sự kiện trong Dân 21, rồi ghi chú những điều song
hành với chân lý Tân Ước.

Dan 21:4-9 Gi 3:14-15

Dân chúng lằm bằm Không nhắc tới

Thượng Đế sai rắn lửa đến, Không nhắc tới

nhiều người chết

Dân chúng xưng nhận, chúng tôi Không nhắc tới

phạm tội

Môi-se cầu nguyện cho họ Không nhắc tới

Thượng Đế ra lệnh cho ông Thượng Đế ra lệnh cho ông Chúa Giê-xu Cơ-Đốc bị

làm một con rắn lửa làm một con rắn lửa treo lên

Môi-se làm con rắn Môi-se làm con rắn bằng Không nói đồng là biểu

bằng đồng treo lên cây sào đồng treo lên cây sào tượng gì

Ai nhìn đều được lành Hễ ai tin thì được sự sống đời đời.

Hãy để ý rằng Tân Ước bỏ qua hầu hết các chi tiết trong biến cố của Cựu Ước. Điều
nầy không có nghĩa là chúng không có ý nghĩa tiêu biểu, nhưng nó cho thấy rằng sự giải
kinh trong Tân Ước không quan tâm tới chúng. Tân Ước chỉ quan tâm tới sự kiện chính
yếu: Con rắn được treo lên, dân chúng nhìn vào nó được lành. Một số học giả Kinh Thánh
cho rằng những chữ Môi-se treo con rắn lên nơi đồng vắng thể nào cho ta có quyền tìm ý
nghĩa trong các chi tiết khác. Có lẽ như vậy, nhưng chúng ta nên nhớ rằng chính Kinh
Thánh không cho ta biết điều đó.

2. Lễ Vượt Qua
Chúng ta liệt kê các đặt tính của tiêu biểu và cách thông giải của Tân Ước.

Xu 12:3-13 ICo 5:7-8

Mỗi nhà dâng một Chúa Giê-xu Cơ-Đốc

chiên con làm sinh tế là sinh tế

Một con chiên hay dê đực một Không nhắc tới

tuổi vào ngày thứ mười và giữ

tới ngày thứ mười bốn

Con chiên bị giết vào buổi tối Không nhắc tới

Rảy máu lên cột cửa và đà cửa Không nhắc tới

Thịt đem nướng ăn Không nhắc tới

Ăn thịt với bánh không men và rau đắng Ăn thịt với bánh không men Tín đồ Cơ-đốc
phải

và rau đắng ăn với bánh không men

của thành tâm thực ý

Đồ ăn thừa đem đốt Không nhắc tới

Ăn vội vã-lưng thắt, tay cầm gậy, Không nhắc tới

chân mang giày

Thượng Đế thấy máu và vượt qua Không nhắc tới

Hãy để ý cách thông giải của chính Kinh Thánh có nhiều điều song hành rõ ràng mà
Kinh Thánh không nói tới: sinh tế là giống đực, bị giết vào buổi chiều; Thượng Đế vượt qua
khi thấy máu sinh tế bôi trên cửa. Có nhiều điểm song hành khác nữa, không có nơi nào
trong Kinh Thánh nhắc đến.

CÓ THỂ CÓ NHỮNG TIÊU BIỂU TA KHÔNG NHÌN THẤY

Chúng ta cần xét đến những sự việc mà nhiều học giả xem là tiêu biểu mà Tân Ước
không nhắc tới. Một trong những sự việc quan trọng là việc Áp-ra-ham dâng I-sác trên núi
Mô-ri-a chép trong Sa 22:1-24. Sự kiện nầy rất quen thuộc. Thượng Đế bảo Áp-ra-ham lên
núi dâng con làm sinh tế. Áp-ra-ham vâng lời: Ông lập một bàn thờ trên núi và đặt I-sác lên
để giết. Rồi Chúa bảo ông dừng tay, nói rằng hành động của ông đã chứng tỏ lòng vâng
phục của ông. Chúa dự bị một vật khác thay cho I-sác, một con dê rừng, Áp-ra-ham đã
dùng nó để dâng sinh tế thay cho I-sác trước khi dẫn I-sác trở về nhà. Cốt lõi câu chuyện
là Chúa thử thách Áp-ra-ham và tinh thần vâng phục của ông.

Tân Ước bình luận chuyện nầy hai lần. Trong He 11:17 nói Áp-ra-ham chịu thử thách và
bởi đức tin ông đã hy sinh I-sác. Ông tin rằng Thượng Đế có thể đem đứa con lời hứa trở
về từ cõi chết, nói theo nghĩa bóng, ông có thể nhận lại I-sác, khi I-sác sống lại. Gia 2:21-22
nói rằng Áp-ra-ham được xưng công bình nhờ hành động dâng I-sác, và bởi hành động đó
đức tin ông được trọn vẹn. Không có đoạn nào nói rằng sự việc trên là dự tả sự việc
Thượng Đế hiến dâng con Ngài là Chúa Giê-xu Cơ-Đốc trên thập tự giá. Sứ điệp ta nhận
được ở đây nói về kinh nghiệm của Áp-ra-ham: ông chịu thử thách, chứng tỏ lòng tin và
tinh thần vâng phục. Dầu ở đây nói đến một sinh tế thay thế trên bàn thờ, đó là thay thế
cho người con, không phải người con thay thế làm sinh tế. Điều này đảo ngược lại kháng
biểu (anti-type, điều thành nghiệm của tiêu biểu) trong đó Chúa Giê-xu Cơ-Đốc hi sinh cho
tội nhân.

Vậy nếu chúng ta nói rằng điều nầy tiêu biểu sự chết của Chúa Giê-xu Cơ-Đốc, chúng
ta nói rằng có thể có nghĩa như vậy, chứ không phải là chắc chắn như vậy. Chúng ta phải
nhấn mạnh điều gì Kinh Thánh nhấn mạnh. Cả Sáng-thế-ký và các đoạn Tân Ước đều
nhấn mạnh sự thử thách và tinh thần vâng phục của Áp-ra-ham. Biến sự hi sinh I-sác
thành sự chết của Chúa Giê-xu Cơ-Đốc là thay đổi điểm nhấn mạnh này. Chúng ta có thể
nói tới sự hy sinh của Áp-ra-ham khi ông dâng con mình làm sinh tế, nhưng sự thử thách
và tinh thần vâng phục của ông ăn khớp với kháng biểu, vì Thượng Đế là Cha không thể
nào chịu thử thách hay vâng phục một ai lớn hơn Ngài.

Một câu chuyện phổ thông nữa là Giô-sép. Từ khi còn nhỏ cho đến khi làm quan cai trị
xứ Ai-cập, đời ông có những chi tiết song hành lạ lùng với đời sống Chúa Giê-xu Cơ-Đốc.
Chúng ta có thể nghiên cứu Sáng 37-50, ghi ra những chi tiết và xem thử những điểm
song hành có phải là trùng hợp ngẫu nhiên không. Nếu không, chúng ta có thể có lý do
chính đáng để xem Giô-sép là tiêu biểu của Chúa Giê-xu Cơ-Đốc.

Trong Ga 4:21-31 một câu chuyện Cựu Ước được trình bày theo ý nghĩa thuộc linh hay
tiêu biểu. Một số học giả cho đây là phúng dụ (allegory) hơn là tiêu biểu, nhưng có vài
điểm trong câu chuyện của A-ga và Ích-ma-ên, Sa-ra và I-sác được đem ra đối chiếu song
hành. Như vậy chúng ta kết luận rằng tiêu biểu không cần phải chỉ có một điểm; tuy nhiên
đó là cách Tân Ước thường giải thích chúng.

CÁC QUI TẮC HƯỚNG DẪN


Chúng ta cần dựa vào một số nguyên tắc khi nghiên cứu các tiêu biểu:

1. Chỉ trừ một số thị tượng, các tiêu biểu là những việc thực sự xảy ra trong lịch sử, các
kháng biểu cũng vậy; thường có một căn bản lịch sử. Lễ Vượt Qua trong lịch sử Y-sơ-ra-ên
chỉ về sự chết của Chúa Giê-xu Cơ-Đốc trong lịch sử (nhưng có một ý nghĩa thuộc linh).

2. Tiêu biểu là hình ảnh vật chất dự tả những thực tế thuộc linh. Ví dụ trong Gi 3:14 việc
nhìn cụ thể con rắn tiêu biểu cho việc nhìn bằng tâm linh qua đức tin.

3. Sự thành nghiệm cao hơn tiêu biểu. Xem Gi 1:29. Chiên con của Thượng Đế cao hơn
chiên con thật biết chừng nào!

4. Trong sự so sánh có một trung tâm điểm, đôi khi còn có những chi tiết phụ nữa.
Chúng ta đã thấy điều nầy khi bàn về 3:14-15 và ICo 5:7-8.

5. Sự thành nghiệm thuộc linh ra từ ý nghĩa tự nhiên của tiêu biểu. Ý nghĩa song hành
phải tự nhiên, không phải liên kết gượng ép hay tưởng tượng: “Như Môi-se - thì Con
Người.” Vài đoạn trích sau đây chứng tỏ nhiều nhà giải kinh đã không tôn trọng nguyên tắc
nầy.

Một người viết về con chiên lễ Vượt Qua: “Con chiên bị bắt vào ngày thứ mười và được
giữ đến ngày thứ mười bốn, chứng tỏ rằng Chúa Giê-xu Cơ-Đốc đã định trước trong cõi đời
đời, nhưng đến kỳ Ngài mới tỏ mình ra cho chúng ta.” Có bằng chứng gì về điều nầy
không?

Một người khác lấy một số vật thanh sạch làm tiêu biểu (Le 11:4-6); “Hành động nhai lại
có lẽ là cách mô tả sự giữ mình tốt, như vậy biểu minh cho một người Cơ-đốc chân thật.
Một người Cơ-đốc chân thật phải ăn nói đúng đắn (nhai lại), và bước đi đúng đắn (móng rẽ
ra). Rồi nữa, “ Nhai lại chỉ sự suy gẫm Kinh Thánh nói về những điều thuộc về Thượng Đế
và những điều đẹp lòng Ngài. Nó chỉ về sự suy nghĩ kỉnh kiền như trong Thi 1:2 v.v. nếu
chúng ta bước đi với Chúa và nói về những điều thuộc về Thượng Đế, thì chúng ta là
những tín đồ ‘thanh sạch’, và được chấp nhận trước mặt Thượng Đế.” Trong câu 7 của
chương Kinh Thánh trên có nói con heo có móng rẽ nhưng không nhai lại. Nếu vậy, con
heo có bước đi “thanh sạch” không, dầu nó nói không đúng đắn? Chúng ta hãy coi chừng
những ý cưỡng ép.

6. Đừng căn cứ tiêu biểu trên những thứ như màu sắc, con số, vật liệu hình dáng v.v.
Nếu có một tiêu biểu và có một chi tiết như con số ăn khớp với nó khít khao, cũng vẫn nên
để tiêu biểu dựa vào cái gì căn bản hơn là con số.
7. Đừng nên chủ trương giáo điều khi Tân Ước không nói rõ. Đây là một số đoạn có thể
có tiêu biểu hoặc không. Hãy nghiên cứu cẩn thận.

Sa 2:2-3: Sự an nghỉ của Thượng Đế có phải là tiêu biểu cho sự an nghỉ của người Cơ-

đốc trong Chúa Giê-xu Cơ-Đốc không?

7:1-5: Chiếc tàu là tiêu biểu cho sự cứu rỗi trong Chúa?

Xu 30:17-21: Chậu rửa là tiêu biểu cho sự rửa sạch tội?

Le 4:1-35 Của lễ chuộc tội tiêu biểu cho sự chuộc tội của Chúa Giê-xu Cơ-Đốc?

Phu 18:15: Môi-se là tiêu biểu về Chúa Giê-xu Cơ-Đốc là vị tiên tri?

IVua 17:12: Hai cây gậy tiêu biểu cho thập tự giá?

He 9:24: Lều tạm tiêu biểu cho Chúa Giê-xu Cơ-Đốc, con đường đến Thượng Đế?

TIÊU BIỂU VÀ BIỂU TƯỢNG

Trước khi sang chương khác, tôi tóm tắt dưới đây những điểm khác biệt giữa biểu
tượng và tiêu biểu, vì chúng thường trùng hợp nhau.

1. Tiêu biểu là có thật (sự kiện lịch sử) còn biểu tượng có thể không.

2. Tiêu biểu nằm trong Cựu Ước, sự thành nghiệm của nó ở trong Tân Ước. Biểu tượng
không kể thời gian.

3. Tiêu biểu là đặc biệt (một sự việc). Biểu tượng có thể tổng quát.

4. Tiêu biểu có thể có vài chi tiết. Biểu tượng có một điểm chính thôi.

5. Tiêu biểu có thể bao gồm nhiều biểu tượng.

NGỤ NGÔN VÀ PHÚNG DỤ

(Parables and Allegories)

NGỤ NGÔN

Ngụ ngôn thường được định nghĩa là một câu chuyện kể với mục đích đưa ra một chân
lý về luân lý hay tâm linh. Đó là một chuyện thường có trên đời nhưng không thật sự xảy
ra. Có người gọi ngụ ngôn là “một chuyện trần gian có nghĩa thiên thượng.” Chúng ta cũng
có thể gọi nó là một tỉ dụ (simile) nới rộng vì nó cũng so sánh. Thường trong các sách
Phúc Âm, Chúa Giê-xu mở đầu các ngụ ngôn bằng câu “Nước thiên đàng giống như…”
(xem Mat 22:1). Tuy nhiên nhiều ngụ ngôn không bắt đầu giống như vậy, như trong 21:33,
“Hãy nghe lời ví dụ khác: Có một chủ nhà kia...”
Trong Tân Ước có nhiều ngụ ngôn , nhưng hầu hết ở ba sách Phúc Âm đầu. Sách
Phúc Âm Giăng không có ngụ ngôn nào, nhưng Giăng có ghi một số phúng dụ, như trong
chương 10 và 15.

Ngụ ngôn có ba yếu tố: khung cảnh, câu chuyện và ứng dụng. Một số ngụ ngôn của
Chúa không có ghi khung cảnh, một số khác không có phần ứng dụng. Một vài ngụ ngôn
chỉ kể chuyện, Chúa kể ngụ ngôn về Người Sa-ma-ri Nhân Từ để trả lời cho câu hỏi của vị
luật sư, đến phút chót, Ngài ứng dụng sứ điệp (Lu 10:25-37). Trong Mat 21:33-41 khung cảnh
là vụ tranh cãi về quyền hành, lời cảnh cáo về sự phán xét là phần ứng dụng. Trong 13:3-9
và Lu 13:18-19 thiếu một vài yếu tố – trong phần đầu thiếu khung cảnh, phần sau thiếu cả
khung cảnh lẫn phần ứng dụng. Nơi nào văn mạch cho biết khung cảnh và cách ứng dụng,
thì việc giải ngụ ngôn dễ dàng hơn; nếu không có một hay cả hai yếu tố đó ta sẽ khó khăn
hơn.

Thường khung cảnh là chìa khóa mở vào câu chuyện. Ví dụ, trong 15:1-32, những lời
phản đối của nhóm Pha-ri-si và các thầy thông giáo đã khiến Chúa kể ba ngụ ngôn. Cả ba
ngụ ngôn đều xoay quanh bài học dạy rằng Thượng Đế vui mừng khi tội nhân ăn năn, như
vậy không nên phản đối khi Chúa Giê-xu tiếp nhận họ.

Các ngụ ngôn thường có một điểm chính. Chúng ta không cần phải tìm cho ra ý nghĩa
trong mọi chi tiết nhưng tìm sứ điệp trung tâm. Chúng ta làm như vậy vì chính Chúa Giê-xu
áp dụng cách đó cho các ngụ ngôn của Ngài. Trong 15:1-32, Chúa Giê-xu ứng dụng ngụ
ngôn về Con Chiên lạc: “Trên trời sẽ vui mừng vì một tội nhân ăn năn hơn là chín mươi
chín người công bình không cần ăn năn” (c.7). Câu 10 cũng giải thích tương tự cho ngụ
ngôn kế tiếp. Phần cốt lõi của Con Trai Phóng Đãng cũng ý như vậy, tuy có thêm nhiều chi
tiết. Chúa giải thích ngụ ngôn Người Sa-ma-ri Nhân Từ như thế nào? Ngài để cho ông luật
sư giải thích: Người Sa-ma-ri chứng tỏ là người lân cận. Chúa bảo, “Hãy đi và làm như
vậy.” Ngài chẳng nhắc gì đến ý nghĩa của tên cướp, hai người qua đường, con lừa, đồng
tiền và chủ quán.

Trong ngụ ngôn không phải lúc nào Chúa cũng chỉ nêu có một điểm. Ngài ứng dụng
nhiều chi tiết trong ngụ ngôn về Người Làm Công Trong Vườn Nho cũng vậy (Ma 20).
Trong khi chúng ta tìm hiểu những khác biệt của chúng, chúng ta vẫn cần nhớ rằng đó là
ngoại lệ, qui luật chung là ngụ ngôn chỉ có một bài học chính.

Trong thời sơ khai của Hội Thánh, một số nhà thần học hình bóng hóa các đoạn Kinh
Thánh đã tìm ra những ý nghĩa lạ lùng trong các chi tiết ngụ ngôn. Origen là một trong các
nhà thần học đó, ông đã đưa ra lời giải thích như sau về người Sa-ma-ri Nhân từ: A-đam là
người bị lọt vào tay bọn cướp. Giê-ru-sa-lem tượng trưng cho thiên đàng, Giê-ri-cô là thế
gian. Bọn cướp là ma quỉ và quỉ sứ, còn thầy tế lễ đại diện cho lụât pháp và người Lê-vi
đại diện cho các vị tiên tri. Dĩ nhiên Chúa Giê-xu là người Sa-ma-ri, thân thể Ngài là con
vật cỡi, Hội Thánh là quán trọ. Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con là hai đồng Đơ-ni-ê. Sự
tái lâm của Chúa là lời hứa trở lại của người Sa-ma-ri. Sự giải nghĩa nầy ăn khớp với một
số chi tiết, nhưng trong đoạn Kinh Thánh chẳng có một chút xíu nào gợi ý cho những lời
giải thích đó. Như vậy lời giải của Origen không dựa căn bản trên Kinh Thánh, nếu chúng
ta theo ông chúng ta sẽ đi lông bông.

Có lẽ Chúa Giê-xu đã kể một số ngụ ngôn nhiều lần. Chuyện Con Chiên Lạc thấy có
hai khung cảnh. Trong Ma 18 nó liên quan đến sự săn sóc của Thượng Đế đối với trẻ em,
còn trong 15:1-32 thì lại liên hệ đến sự quan tâm Ngài đối với tội nhân. Tuy nhiên, cả hai
trường hợp đều nhấn mạnh sự săn sóc yêu thương của Thượng Đế.

CÁC QUI TẮC HƯỚNG DẪN

1. Trước hết nghĩ đến nghĩa tự nhiên của câu chuyện

Bài học thuộc linh phải căn cứ trên đó.

2. Để ý cơ hội kể chuyện nếu có

Ví dụ, hãy xét tình hình đã đưa đến ngụ ngôn ngắn Chúa kể trong nhà người Pha-ri-si
(7:41-43). Bạn không cần phải bận tâm nếu đoạn sách không ghi rõ khung cảnh, vì bạn có
thể nhờ những điều khác để hiểu ý nghĩa. Nếu có ghi rõ khung cảnh thì nó rất quan trọng;
và bạn phải nhận ra tương quan giữa nó và sứ điệp.

3. Kiểm tra ý nghĩa với giáo huấn trực tiếp của Kinh Thánh

Vì ngụ ngôn là ngôn ngữ hình bóng, nên chúng ta không dùng chúng để thiết lập giáo
lý; nhưng chúng xác nhận chân lý đã được trình bày ở nơi khác trong Kinh Thánh. Ví dụ,
nếu chúng ta dùng ngụ ngôn Con Trai Phóng Đãng để qui định phương cách tội nhân trở
về cùng Thượng Đế, thì chúng ta sẽ bảo chỉ cần ăn năn là đủ, không cần phải có sự chuộc
tội của Chúa Cứu Thế.

4. Nếu câu chuyện có những nan đề khó hiểu, hãy tìm ánh sáng trong bối cảnh văn
hóa và lịch sử.
Ví dụ, nhiều học giả biết rằng theo phong tục, người chủ tiệc cưới phân phát áo lễ cho
khách đến dự. Điều nầy giải thích tại sao người không có áo lễ lại bị đối xử nghiêm khắc
như thế (Mat 22:11-13): Ông ta đã được cung cấp mà không chịu dùng.

NHỮNG NGƯỜI LÀM CÔNG TRONG VƯỜN NHO

Chúng ta thử áp dụng qui tắc hướng dẫn trên để giải ngụ ngôn những Người Làm Công
Trong Vườn Nho (20:1-16).

Trước hết theo nguyên tắc căn bản là đọc và quan sát khúc sách với cả văn mạch của
nó. Vì câu 1 bắt đầu bằng chữ vả, chúng ta biết rằng ngụ ngôn liên hệ với chương 19. Để ý
chữ cuối cùng của chương 19 và liên kết nó với câu 16 của chương 20. Trong mấy câu
nầy, những chữ nào có ý nghĩa nhấ? Bạn có thấy những chữ đó nhiều lần trong câu
chuyện không (xem c.8, 10, 12, 14)? Bạn có thấy mối liên hệ giữa chữ vả trong câu 20:1
với chữ như vậy trong 20:16 không?

Tiếp theo, xem câu chuyện soi sáng hai câu nầy thể nào? Trong câu chuyện có điều gì
chót trở thành đầu và đầu trở thành chót không? Dĩ nhiên họ được trả trước, nhưng họ là
người dẫn đầu không? Nếu so sánh lương giờ thì sao?

Tại sao người chủ lại đối xử với những người công nhân đến sau đặc biệt vậy? So sánh
điều kiện làm việc của hai nhóm người (c.2, 7). Bạn thấy có tinh thần khác nhau giữa hai
nhóm người không? Trở lại chương 19 xem Phi-e-rơ tỏ ra tinh thần như thế nào, nên nhớ
rằng lời ông nói đã đem lại cơ hội để Chúa kể câu chuyện. Người luật sư giàu trẻ tuổi
(19:22) có tỏ ra tinh thần như Phi-e-rơ không? Có lẽ những chữ có và nhận được trong
19:21,27,29 và 20:9,10 có thể cho thấy mối liên kết. Bây giờ bạn có thể nói ra ý nghĩa trung

tâm của ngụ ngôn không?

Chúng ta đã xét cẩn thận khung cảnh của ngụ ngôn và cách Chúa Giê-xu ứng dụng
nó. Chúng ta đã quan sát cẩn thận những chữ lặp nhiều lần và những liên từ. Ngụ ngôn
trong văn mạch của nó có một sứ điệp mạnh mẽ - một lời cảnh báo nghiêm trọng cho
những người giống như Phi-e-rơ quá chú tâm tới những sự gì mình sẽ nhận được. Chúa
Giê-xu muốn bảo họ rằng, coi chừng, những kẻ đứng hàng đầu sẽ xuống hàng chót trong
ngày cuối cùng.

Sau đây là một số ngụ ngôn để nghiên cứu:

Mac 4:30-32: Hột cải

Lu 7:41-43 : Hai con nợ


11:5-8 : Người bạn giữa đêm khuya

16:19-31 : Người giàu và La-xa-rơ (đây có phải là ngụ ngôn không?)

18:1-8: Quan tòa bất công

PHÚNG DỤ (Allegory)

Tưởng cần nên xét qua loại phúng dụ cùng với ngụ ngôn vì chúng có phần giống nhau.
Một phúng dụ cũng có thể gọi là một ẩn dụ (metaphor) nới rộng. Ẩn dụ đơn giản nói A là B.
Phúng dụ nói A là B, C là D và E là F, khi A, C và E biểu thị những phần liên quan trong
một câu chuyện hay một bức tranh. Phúng dụ trong Giăng 10 là một câu chuyện nhiều
hơn, còn trong chương 15 là một bức tranh nhiều hơn.

Trong Gi 15:1-27 Chúa Giê-xu nói, “Ta là cây nho thật, Cha ta là người trồng nho, ...các
ngươi là nhánh” (c.1, 5). Đây là cấu trúc căn bản của phúng dụ. Rồi Chúa Giê-xu đưa ra ý
nghĩa thuộc linh của những đặc điểm khác trong mối liên hệ nầy: Nhánh phải ở trong cây
nho và sinh trái; người trồng nho tỉa sửa nhánh nho để có trái và cắt bỏ những nhánh
không ra trái; trái đem vinh dự cho người trồng nho.

Chúng ta có thể thấy ý nghĩa cơ bản ngay trong phúng dụ, không cần phải đi ra ngoài
(Vì lý do đó, phúng dụ thường dễ thông giải hơn các hình thức ngôn ngữ khác). Nói thế
không có nghĩa là mọi đều trong phúng dụ đều rõ ràng. Có một số đặc điểm bị bỏ qua
không giải đến, và chúng ta gặp khó khăn khi tìm ý nghĩa đúng cho chúng. Những nhánh
không trái bị chặt đi và đem đốt. Ý nghĩa thuộc linh của nó là gì? Câu 6 nói đây là một thật
sự kinh khiếp nhưng không nói rõ ý như thế nào. Như vậy chúng ta phải tự tìm lấy.

10:1-42 dùng phúng dụ về Người Chăn Tốt và Bầy Chiên. Chúng ta thử ghi ra những

đặc điểm và những điều diễn giải trong đó:

Người chăn Chúa Giê-xu

Chiên Không nói tới

Người giữ cửa Không nói tới

Chuồng chiên Không nói tới

Cửa Chúa Giê-xu

Quân cướp Những kẻ “đến trước” Chúa

Người lạ Không nói tới

Muông sói Không nói tới


Kẻ chăn thuê Không nói tới

Có điều lạ là Chúa nói rất ít ý nghĩa của phúng dụ nầy, và để cho chúng ta tự tìm thấy.
Ngài chẳng nói gì nhiều hơn là tự nhận mình là người chăn và cái cửa. Chúng ta còn phải
tìm những ai đã đến trước Ngài. Trong phân đoạn này có những gợi ý giải thích những đặc
điểm khác. Ngài biết chiên mình và họ biết tiếng Ngài, điều đó chỉ cho biết họ là những
người tin Ngài (môn đồ Ngài). Quân cướp không đi vào cửa chính chắc phải là những lãnh
tụ tôn giáo giả không chịu nhìn nhận Chúa Giê-xu. Kẻ chăn thuê cũng là người chăn giả,
như vậy là chỉ về lãnh tụ tôn giáo. Nhưng chuồng chiên, muông sói và người lạ thì không
biết là gì. Từ đó ta kết luận rằng không cần thiết phải tìm cho hết ý nghĩa của từng chi tiết.
Tuy trong phúng dụ có những chi tiết có ý nghĩa, nó vẫn tập trung vào một số diểm chính,
như chúng ta thấy cách Chúa giải 10:1-42.

Cựu Ước có một số phúng dụ trong Thi 80:8-15 Ch 5:15-20 Tr 12:3-7.

QUI TẮC HƯỚNG DẪN

1. Chú ý những chi tiết hay đặc điểm của phúng dụ. Nên liệt kê ra như đã làm trên kia.

2. Để ý cách thông giải mọi đặc điểm. Cũng liệt kê ra

3. Xét những đặc điểm khác, xem có thể tìm hiểu ý nghĩa từ những khúc Kinh Thánh
khác không? Ví dụ, hình ảnh ấy có dùng nơi nào khác trong Kinh Thánh không? Tuy vậy,
đừng vội căn cứ vào đó mà quyết giải, nên nhớ rằng một vật có thể dùng cho những ẩn dụ
có nghĩa trái ngược nhau. Hãy xem cách giải đó là có thể chấp nhận, chứ không phải là
chắc chắn.

4. Đừng cố tìm cho ra hết ý nghĩa của mọi đặc điểm. Chúa đã không làm điều nầy cho
các phúng dụ trong Gi 10:1-42 15:1-37. Chỉ xét những cách giải nào thật rõ ràng, không thể
nghi ngờ. Đừng gán ép ý nghĩa tưởng tượng.

ĐẶC NGỮ DO THÁI

(Idioms)

Đặc ngữ là một lối diễn ý đặc biệt của một ngôn ngữ nào đó. Mỗi ngôn ngữ đều có một
lối nói riêng khi đề cập đến một vấn đề hay sự việc. Đặc ngữ là những khuôn mau diễn ý
của một dân tộc khi họ nói thứ tiếng của họ.
Trong tiếng Ấn người ta nói, “Ikkis bis ka farq hai” có nghĩa đen là “đó là cái khác biệt
giữa 20 và 21.” Thật ra nó có nghĩa là “chẳng có gì khác biệt cả,” cũng giống như tiếng Việt
có câu “Nửa đêm, giờ Tí, canh ba; vợ tôi con gái, đàn bà, nữ nhi”.

Tiếng Do Thái cũng có đặc ngữ như vậy. Một số đặc ngữ là lối nói hình bóng, nhưng vì
chúng có tính cách đặc thù của lối suy nghĩ Do Thái nên chúng ta xét riêng ở chương nầy.
Những đặc ngữ đó nằm trong cả Cựu Ước lẫn Tân Ước, vì người viết hầu hết là người Do
Thái.

Bản dịch Anh ngữ cũ AV có nhiều thành ngữ Do Thái hơn những bản dịch mói như
RSV. Ví dụ Exe 44:12, bản AV dịch, “Ta đã đưa tay ta lên” là một hành động tuyên thệ trước
tòa án, nên bản RSV dịch, “Ta đã thề về chúng nó.” Làm như vậy là đúng, miễn là ý dịch
ra diễn tả đúng ý chính. Phải hết sức cẩn thận để theo đúng nguyên tắc đó.

Ví dụ một tín đồ Sudan đọc câu Gi 14:1 trong tiếng Suduk nói rằng: “Lá gan các ngươi
đừng run rẩy.” Và dịch nguyên văn như thế ra cho ta nghe, ta sẽ không hiểu ông ta muốn
nói gì. Những đặc ngữ như vậy cần phải chuyển nghĩa để người đọc hiểu.

Một số đặc ngữ có những tên gọi đặc biệt. Dưới đây ta sẽ xét một số đặc ngữ thường
gặp.

1. Nhân dạng ngữ (Anthropomorphism)

Những đặc ngữ nầy dùng những từ ngữ mô tả hình dạng con người khi nói về Thượng
Đế. Đây là một loại ẩn ngữ rất thường dùng trong Kinh Thánh. Trong các ngôn ngữ khác
cũng thường có, đặc biệt ở đây ta chỉ xét trong ngôn ngữ Do Thái.

Nhiều câu Kinh Thánh nhất là Cựu Ước nói về Thượng Đế như là Ngài có những bộ
phận trong thân thể. Mặt: Xu 33:23 Thi 10:11 Gie 21:10. Mắt: IISu 7:16 Thi 11:4 Gie 16:17, Tai: Thi
10:17 Es 37:17 Da 9:18, Mũi: Xu 15:8 Thi 18:15 Es 65:5, Miệng: IVua 8:24 Es 34:16 Mi 4:4, Tiếng:
Giop 40:9 Da 9:11,14 Tay: Phu 11:2 Es 62:8 Gie 21:5 Bàn tay: Xu 33:23 Es 50:2 Gie 1:9, Lưng: Xu
33:23 Es 38:17 Gie 18:17 Linh hồn và lòng (tim): Sa 6:6 IISu 7:16 Thi 11:5 Bàn chân: Xu 24:10 Thi
77:19 Es 60:13 Hình dạng: Thi 17:15.

Loại đặc ngữ nầy cũng có thể nhận thấy dưới hình thức khác, không nhắc đến các bộ
phận thân thể nhưng ngụ ý đến bằng những từ ngữ mô tả hành động như ngồi hoặc bước
đi. (Xem Thi 78:65 113:5 Es 26:21 Am 7:7).

Nếu những đặc ngữ trên không thể hiểu theo nghĩa đen, thì ta phải hiểu chúng như thế
nào? Chìa khóa để hiểu là hỏi xem chi thể nầy dùng làm gì? Chúng ta làm việc, đòi hỏi
sức mạnh. Thường thường tay mặt bao giờ cũng mạnh hơn tay trái. Vì vậy khi Kinh Thánh
muốn nói đến sức mạnh của Thượng Đế thì dùng hình ảnh tay mặt của Ngài thi triển năng
lực. Mắt chúng ta dùng làm gì? Để xem và biết người hoặc vật khác. “Mắt” của Thượng Đế
ngụ ý Ngài biết chúng ta và mọi tạo vật. Tai chúng ta để làm gì? Để nhận những lời truyền
đạt. Như vậy khi Thượng Đế “mở tai” Ngài ra có nghĩa là Ngài sẵn sàng nghe lời ta nói.

Chúng ta cũng có thể liên kết những câu dùng hình dạng con người để nói về Thượng
Đế với những mô tả Ngài bằng tình cảm con người. Thượng Đế buồn rầu, nhớ lại, ăn năn
(Sa 6:6 19:29 Gie 18:8,10) Những câu trên diễn tả một thực tại về Thượng Đế vượt lên trên
tình cảm thông thường của con người rất nhiều. Tuy nhiên, sự ăn năn của Ngài là một
trường hợp đặc biệt. ISa 15:9 nói rằng Ngài chẳng phải là người để phải ăn năn. Vì Thượng
Đế là bất biến nên nói cho đúng nghĩa thì Ngài chẳng thể ăn năn được. Nhưng Thượng Đế
đối xử với con người theo thái độ của họ, nên khi họ thay đổi thái độ, cách cư xử của Ngài
cũng thay đổi theo. Bởi vậy, trông như Ngài là ăn năn, nhưng kỳ thật là không (Xem Gie
26:12-13).

2. Dùng tuyệt đối thay cho tương đối

Tuyệt đối ở đây có nghĩa là “hoàn toàn không liên hệ gì đến những điều khác”; tương
đối là “có liên hệ hay so sánh”. Nó ưa ăn thịt là một câu nói tuyệt đối. Nó thích thịt bò hơn
thịt gà là một câu tương đối, vì có sự so sánh giữa thịt bò và thịt gà.

Trong một số câu Kinh Thánh, đặc ngữ nầy rất quan trọng, phải hiểu nó mới hiểu được
nghĩa của câu Kinh Thánh. Trong Gie 7:22-23 Thượng Đế phán, “Vì khi ta đem tổ phụ các
ngươi ra khỏi đất Ai-cập, ta chẳng hề phán và chẳng truyền mạng lệnh gì về của lễ thiêu
và các của lễ. Nhưng nầy là mạng lệnh ta đã truyền cho họ, “Hãy vâng theo tiếng ta...” Các
sách Xuất Ai-cập và Lê-vi-ký có nói rằng Thượng Đế đã truyền lịnh về các của lễ khi Ngài
đem dân Do Thái ra khỏi Ai-cập. Những người cấp tiến đã dùng câu trên để quả quyết
rằng các sách xuất Ai-cập và Lê-vi ký không phải là những sự kiện lịch sử chính xác, mà
chỉ phản ánh một số ý niệm cổ sơ, sai lầm về Thượng Đế. Tuy nhiên, câu Kinh Thánh
trong Giê-rê-mi là một trường hợp dùng cái tuyệt đối thay thế cho tương đối. Thượng Đế có
nói về các của lễ, nhưng Ngài còn quan tâm tới tấm lòng con người và sự vâng phục của
họ hơn cả những thứ đó. Xem thêm Xu 16:8 Phu 5:2-3 Thi 51:16-17 ICo 1:17 9:9-10 Phi 2:4 Gi
3:18.

Một hình thức khác của đặc ngữ nầy được dùng trong những câu như Lu 14:26. Có ai
thật sự ghét gia đình mình, ngay cả vợ con mình nữa, để theo Chúa không? Làm vậy là
trái với Eph 5:25 và nhiều câu khác nữa. Câu nầy dùng phương thức tuyệt đối để diễn tả ý
nghĩa tương đối: tất cả các tình yêu cũng như quyền lợi khác đều đặt hàng thứ yếu sau sự
tận hiến cho Chúa (so sánh Mat 10:37). Xem Ro 9:13.

Làm sao bạn biết được đặc ngữ nầy? Trước hết hãy xét nó như một câu nghĩa đen. Nó
có nghĩa không? Nếu không, hãy xem như một thành ngữ. Nghiên cứu nó trong văn mạch,
bạn sẽ thấy một vài điểm giúp bạn xác định được nghĩa đúng của nó.

3. Dùng tương đối thay cho tuyệt đối

Loại đặc ngữ nầy trái ngược với loại trên. Ở đây nghĩa thì tuyệt đối mà hình thức lại
tương đối. Trong Lu 11:31-32 Chúa Giê-xu nói “Có một cái gì còn hơn Sa-lô-môn (và) một
cái gì hơn Giô-na” Cái gì được đem so sánh với Sa-lô-môn và Giô-na ở đây? Không có cái
gì khác ngoài Chúa ra? Ngài lớn hơn họ biết chừng nào? Nếu chỉ là người thì sự so sánh
còn có lý, đằng nầy Ngài là con Thượng Đế, làm sao có thể so sánh được. Cái khác biệt là
tuyệt đối nhưng được diễn tả bằng phưong thức tương đối.

Thường thường loại thành ngữ nầy rõ ràng, nhờ văn mạch cho thấy. Muốn nói rõ, ta có
thể hỏi, lớn hơn chừng nào? Suy nghĩ một lúc ta có thể hiểu ngay đó là nghĩa đen hay đặc
ngữ. Hãy xem những câu ISa 15:22 Exo 9:13 Thi 118:8-9 Ch 21:3 He 1:4 3:3 6:9.

4. “Con trai hay con gái của”

Đặc ngữ nầy diễn tả nhiều nghĩa:

a. Con trai là dòng dõi thế hệ sau, dùng để chỉ cả chắt chít nữa. Người Do Thái dùng
chữ sinh cũng với nghĩa tương tự. Chữ đó có thể nói về con trai thật hay một người khác về
sau cùng trong một dòng dõi. Không phải là họ quên tên cha hay là viết cẩu thả, nhưng là
họ dùng đặc ngữ nầy. Điều nầy giải thích những chỗ ta có thể tưởng là lầm lỗi. Mat 1:8 nói
là Giô-ram sinh Ô-xia, nhưng ISu 3:11-12 cho thấy giữa hai người nầy còn có ba đời nữa
(tên A-xa-ria cũng là một với Ô-xia, cũng như tên Vũ và Võ trong tiếng Việt). Xem thêm
IVua 15:3 ISu 26:24.

b. Một người có đức tính nào đó thì được gọi là con trai của đức tính đó. Trong Cong
4:36, các sứ đồ đặt tên một người Ba-na-ba, nghĩa là con trai của sự khích lệ, vì người nầy

có đức tính ấy (Cũng xem Giop 41:34 Es 14:12 Mat 8:12 Lu 10:6 Eph 2:3 5:6 ITe 5:5).

c. Con trai ta để tỏ sự âu yếm, con trai của ông để tỏ lòng tôn kính, khi không có liên hệ
huyết thống. Xem ISa 24:16 và 25:8.

d. Thượng Đế gọi cả dân tộc là con trai như trong Gie 31:9 (xem Os 11:1).
e. Công dân được gọi là những con trai của dân tộc. Xem Ca 4:2 và Xa 9:13. Cả dân tộc
được gọi là con gái hay gái đồng trinh của Si-ôn (Ca 2:13).

Giải các đặc ngữ nầy không có gì khó khăn. Khi bạn đã hiểu những trường hợp trên,
bạn có thể xét từng câu trong văn mạch của nó.

Các gia phả thì không được rõ ràng như thế, nhiều khi bạn phải so sánh với đoạn khác,
có lúc bạn phải so sánh với những đoạn khác, có lúc bạn không thể đoán quyết được.

Cũng cần nên nhớ rằng hầu hết những chữ con trai của bạn gặp là nghĩa đen chứ
không phải đặc ngữ. Ngoài ra có vài trường hợp đặc biệt. Các con trai của Đức Chúa Trời
trong Giop 1:6 và 2:1 nói về thiên sứ. Các con trai loài người hình như chỉ có nghĩa là “những
người”, và con trai loài người cũng chỉ về “người” như trong nhiều câu sách Ê-xê-chi-ên.

Có một cách dùng đặc biệt nữa của nhóm từ ngữ con trai của, một trong những danh
hiệu của Chúa Giê-xu, đó là Con Trai (Con) của Thượng Đế. Trong hầu hết các đoạn văn
Tân Ước, chữ nầy dùng để chỉ thần tính của Ngài, đồng thể tính với Đức Chúa Cha. Từ
ngữ này, không có nghĩa là Chúa Giê-xu thấp kém hơn Thượng Đế, nhưng có nghĩa Ngài
là chính Thượng Đế. Xem Gi 10:33-36 19:7 He 1:8.

Những người tin cũng được gọi là con cái (những con trai) của Thượng Đế. Điều nầy để
chỉ rằng họ cũng được “dự phần trong bản tính thiên thượng” (IIPhi 1:4) và được vinh hiển
như Chúa (IGi 3:2). Họ không bao giờ trở thành Thượng Đế, nhưng họ luôn luôn là tôi tớ và
thờ phượng Thượng Đế mãi mãi (Kh 22:3).

5. Mãi mãi

Nghĩa đen chữ nầy là đời đời, như trong Thi 9:7 và 45:6. Nó có thể là đặc ngữ với nghĩa
“liên tục không gián đoạn suốt đời hay suốt thời gian tồn tại của đối tượng.” Xu 21:6 nói rằng
người đầy tớ nào thương mến chủ, muốn tiếp tục ở với chủ thì hãy xỏ lỗ tai để chỉ dấu rằng
anh ta “sẽ phục vụ chủ mãi mãi”. Vì chủ ở đây có lúc chết nên việc phục vụ phải có lúc
chấm dứt. Chữ mãi mãi ở đây có nghĩa là việc phục vụ sẽ cứ tiếp tục bao lâu người chủ và
tớ còn sống. Thi 72:17 “Danh ngươi sẽ còn mãi mãi. Hễ mặt trời còn đến chừng nào danh
ngươi sẽ noi theo chừng nấy.” Chữ mãi mãi tương đương với “mặt trời còn tồn tại”.

Nghĩa đặc biệt của từ mãi mãi không làm giảm cường độ của nghĩa chính. Cái gì mãi
mãi sẽ cứ tồn tại bao lâu người hay sự vật vẫn còn, nhất là khi nói về lời hứa hay tuyên bố
của Thượng Đế. Lời hứa của Thượng Đế là chắc chắn. Chẳng ai dám nêu câu hỏi là một
sự vật đó có thật là bất tận không. Tuy nhiên, để hiểu chính xác ngôn ngữ Kinh Thánh,
chúng ta cần biết đặc ngữ đó. Xem thêm IVua 5:27 IISu 7:16 Thi 49:11 Es 32:14-15 Gie 31:35-36.

CÁC QUI TẮC HƯỚNG DẪN.

1. Học các đặc ngữ và cách dùng chúng.

2. Xét một câu theo nghĩa đen trước. Nếu thấy không có nghĩa thì hãy xem trong đó có
đặc ngữ không.

3. Nghiên cứu văn mạch. Hầu như lúc nào bạn cũng có thể tìm được chìa khóa để giải
nghĩa.

Kinh Thánh còn nhiều đặc ngữ nữa ở đây chưa đề cập đến. Nếu được, bạn hãy tra cứu
thêm các sách khác để tìm hiểu chúng.

THI PHÚ DO THÁI

Thi phú là phương tiện diễn đạt những tư tưởng và cảm xúc sâu xa cũng như cao
thượng nhất trong tâm hồn con người. Chúng ta biết thi phú là gì nhưng có lẽ không thể
nào định nghĩa được. Đó là văn thể có cấu trúc nhịp nhàng và thường viết theo âm vận.
Ngôn ngữ của nó thường thanh thoát và đẹp đẽ.

Kinh Thánh có rất nhiều thi phú: không phải chỉ Thi Thiên; Châm Ngôn mà còn có
Gióp, Nhã Ca, Ca Thương và một phần các sách tiên tri nữa. Ngay cả những lời Chúa Giê-
xu cũng có vẻ thơ nữa (Xem Mat 7:6 và Gi 6:35). Nhiều khúc thi phú trong Kinh Thánh không
in thành dòng theo hình thức thơ nên khó nhận ra.

CÁC ĐẶC ĐIỂM THI PHÚ

Các đặc điểm thi phú của Kinh Thánh có thể thấy rõ trong nguyên văn tiếng Do Thái,
nhưng khi dịch ra, một số đặc điểm bị mất đi. Để giúp việc giải kinh, chúng ta cần biết
những khúc nào là thi phú trong bản dịch Kinh Thánh của chúng ta.

1. Song hành (Parallelism)

Đặc điểm chính của thi phú Do Thái là tiết tấu của ý tưởng (không phải của âm vận) gọi
là song hành. Điều nầy có nghĩa là thi phú được viết thành câu kép, một câu gồm hai dòng
liên hệ với nhau. Thỉnh thoảng có những câu ba dòng ( Es 41:5) hoặc có khi bốn (Thi 27:1),
nhưng thường là hai.

Ví dụ:

Xin hãy rửa hết các gian ác tôi


Và tẩy sạch tội lỗi khỏi tôi ! (51:2)

Tương quan giữa hai dòng trong câu thơ không phải luôn luôn giống nhau. Thật ra,
chúng ta có thể nói đến nhiều loại song hành, mỗi loại có một tên riêng như sau:

a. Song hành điệp ý (Repetition): diễn đạt bằng những câu tương đồng, hay đồng
nghĩa. Ví dụ Es 1:3

Y-sơ-ra-ên chẳng biết

Dân ta chẳng thông hiểu,

dòng thứ hai lập lại ý dòng đầu để làm sáng tỏ ý, hay nhấn mạnh. Thi 33:2 cũng vậy:

Hãy dùng đờn cầm cảm tạ Đức Giê-hô-va,

hãy dùng đờn sắt mười dây mà ngợi khen Ngài.

Dòng thứ nhì dùng nhạc cụ và hành động khác nhưng cũng cùng một ý với dòng trên.

Trong những câu song hành như thế này, ta có thể nhờ ý dòng nầy mà hiểu được dòng
kia. Ví dụ Es 45:7:

“ Ấy chính ta là Đấng gây nên sự sáng và dựng nên sự tối tăm, làm nên sự bình an và
dựng nên sự tai vạ.”

Ở dòng trên, hai chữ “sự sáng” và “tối tăm” là phản nghĩa, thì dòng dưới hai chữ “bình
an” và “tai vạ” cũng phải phản nghĩa.

Trong bản tiếng Anh Authorized Version, chữ “tai vạ” dịch là: “evil” là “sự xấu xa, gian
ác” thì thành ra Thượng Đế dựng nên sự ác. Bản tiếng Việt dịch thành “tai vạ” như vậy là
đúng.

b. Tương Phản (Contrast): dùng lối song hành đối nghịch (antithetic). Hai dòng diễn tả
những tư tưởng trái ngược hay có khi mâu thuẫn nhau. Thường thường dòng thứ hai bắt
đầu bằng chữ nhưng để tỏ ý tương phản. Như trong Ch 15:1

Lời đáp êm dịu làm nguôi cơn giận

Nhưng lời xẳng xớm trêu thạnh nộ thêm

Mười bốn câu đầu trong Châm Ngôn 10 đều là những câu song hành đối nghịch.

c. Bổ ý (Addition) dùng lối song hành tổng hợp (synthetic). Trong lối nầy, dòng thứ hai
bổ túc ý cho dòng trước (Thi 9:10 104:5). Một số học giả cho rằng đây không đúng là loại thơ
song hành, nhưng vì hai dòng của câu thơ có liên quan nhau và cấu trúc cân đối nên
chúng ta có thể liệt vào loại đó.

d. Trương (Expansion) dùng lối song hành tiệm tiến (climatic). Dòng sau lặp lại một
phần dòng trước nhưng thêm vào đó ý mới. 34:4

Tôi tìm cầu Đức Giê-hô-va, Ngài đáp lời tôi

và giải cứu tôi khỏi mọi điều sơ hãi.

Phần nào ở dòng trên được mở rộng ở dòng dưới?

e. Chuyển hình (Transformation) dùng lối song hành biểu hiện (emblematic), có nghĩa
là dùng biểu tượng, biểu hiệu. Vì cả hai dòng cùng nói một điều, nên đây cũng là song
hành đồng nghĩa. Ví dụ 42:1.

Hỡi Đức Giê-hô-va, linh hồn con ao ước Chúa

như nai cái thèm khe nước

Hình ảnh con nai cái khát nước làm tăng sức mạnh và vẻ sống động cho tác giả mô tả
tấm lòng ngưỡng vọng Chúa.

Es 46:11 nói về Đức Giê-hô-va “gọi chim ó đến từ phương đông và gọi người làm mưu
của ta đến từ xứ xa.” Nhờ biết cách kết cấu theo lối song hành của câu thơ, ta hiểu rằng
chữ “chim ó” không có nghĩa đen mà là chỉ người làm mưu sĩ.

Bạn sẽ thấy nhiều câu không ăn khớp với một dạng nào trên đây cả. Không gọi tên loại
nào được thì cũng không sao, vì thường bạn có thể thấy ý nghĩa rõ ràng (ví dụ Thi 47:4,9).

Có rất nhiều hình thức song hành, mà không phải lúc nào cũng rõ ràng. Có những
dòng có cấu trúc hay ý dở dang. Những người viết Kinh Thánh không máy móc khi họ viết
thi phú. Nhiều khi họ kết hợp hai hay ba câu khép thành một câu song hành.

Chúng ta thông giải các câu song hành như thế nào? Khi chúng ta biết những dòng thơ
có liên quan với nhau, chúng ta sẽ không xét từng dòng riêng mà phải tìm cho ra mối liên
hệ. Chúng ta cũng đã biết qua một số quan hệ của chúng thế nào rồi, như vậy khi nào có
nghi ngờ gì về ý nghĩa thì hãy thử qua những dạng khác để xem dạng nào thích hợp nhất.
Ví dụ, xem 22:16

Vì những chó bao quanh tôi

một lũ hung ác vây phủ tôi,

chúng nó đâm lũng tay chân tôi


Có lẽ là người viết đã bị bầy chó bao vây thật, dầu điều nầy có vẻ hơi lạ. Nếu đó là câu
song hành biểu hiện thì chó tượng trưng cho lũ hung ác trong dòng thứ hai. Khi ta đọc
trong chương Thi Thiên nầy, ta thấy có một số hình bóng khác như “tôi là một con trùng”
(c.6), ta hiểu câu trên là loại song hành biểu hiệu.

2. Ảnh tượng (Imagery)

Tất cả thi phú đều có ngôn ngữ hình bóng: những hình ảnh đẹp đẽ, táo bạo, gây cảm
xúc. Chúng ta đã học về những dụ ngữ tức là những hình ảnh ví von trong Thi ca Do Thái,
và cũng học qua cách giải chúng.

3. Ngoa ngữ (Hyperbolic language)

Thi phú thường diễn tả cảm xúc mạnh mẽ. Nhà thơ có khuynh hướng dùng lời lẽ khoa
đại (quá lố) để diễn tả cảm xúc mãnh liệt của mình. Nếu chúng ta không nhận biết được
những câu như vậy, chúng ta sẽ thấy nhiều đoạn Kinh Thánh thật khó hiểu.

Ví dụ Giop 6:26, “Lời nói của người ngã lòng chỉ như luồng gió.” Đó là một lối nói khoa
đại. Ông cũng dùng lối nói ngông cuồng như vậy trong 16:12-13. Ông nói Đức Chúa Trời
“Nắm cổ tôi và nghiền nát tôi... Ngài bắn lủng hông tôi.” Ở đây ông không nói theo nghĩa
đen nhưng muốn nhấn mạnh cảm xúc mạnh mẽ sâu xa của mình.

Đây cũng là loại ngôn ngữ thường thấy trong các Thi Thiên gọi là Thi Thiên nguyền rủa,
trong đó tác giả kêu xin Thượng Đế rủa sả hay phán xét kẻ thù ông. Xem Thi 58:6-11 59:5,13
69:22-23 109:6-15 137:8-9 139:19-22 143:12.

Thông giải những Thi Thiên nầy là một nan đề, vì thái độ của người viết đi ngược lại
thái độ từ bi, yêu thương của Thượng Đế đối với tội nhân. Nếu ta bảo rằng tác giả nói thật
những cảm nghĩ của mình nhưng những cảm nghĩ đó không phù hợp với ý muốn và mục
đích của Thượng Đế, thì ta sẽ trở nên hoang mang không biết trong tất cả Thi Thiên, chỗ
nào là ý người, chỗ nào là ý Thượng Đế. Nan đề nầy không thể nào giải đáp cách đơn giản
được. Chúng ta cần xét cả đoạn cẩn thận, nhất là dựa theo ý của đề mục Thi Thiên. Sau
đây là một số điểm gợi ý:

a. Một số câu nói mạnh bạo có nghĩa bóng, không phải nghĩa đen. Những câu Thi
Thiên như “nguyền mắt chúng nó bị tối tăm,” “bẻ gảy răng trong miệng chúng nó,” “người
công bình sẽ dầm chân mình trong máu kẻ ác,” “những kẻ bắt con nhỏ chúng nó đập vào
đá thật là sung sướng,” nếu hiểu theo nghĩa đen thì thật bất công cho người viết. Người
viết muốn tỏ tấm lòng nồng nàn yêu mến Thượng Đế, không muốn thấy danh dự, chân lý
và sự thánh khiết của Ngài bị hoen ố vì những kẻ phản loạn chống nghịch Ngài và khinh bỉ
lòng nhân từ Ngài. Cảm xúc mãnh liệt đưa tới ngôn ngữ mạnh bạo. Có lẽ lý do khiến
chúng ta khó hiểu họ là vì chúng ta không có nhiệt tình với Chúa bằng người viết Thi
Thiên.

b. Người viết không chỉ nói đến kẻ thù riêng của mình mà nói đến kẻ thù Thượng Đế.
Đó không phải là cuộc tranh cải cá nhân. 139:1-24, cho thấy rõ người viết nói: Ông ta ghét
kẻ ác vì họ chống nghịch Thượng Đế. Bạn có thể thấy một số câu Tân Ước, kể cả lời của
Chúa Giê-xu cũng có ý tương tự. Mat 18:5-6 ICo 16:22 Ga 1:8-9 Kh 6:10 18:20.

c. Hãy để ý cách Đavít đối xử với Sau-lơ khác xa những lời ông viết về kẻ thù của ông,
trong đó có Sau-lơ. Trong Thi 18:40 ông nói “Còn những kẻ ghét tôi, tôi đã diệt chúng nó
rồi.” Hãy xem đầu đề Thi Thiên. Trong ISa 24:1-7 26:1-11, chúng ta thấy hai lần ông đối xử
với Sau-lơ rất nhẫn nhục, kiềm chế không làm hại Sau-lơ. So sánh hai phần Kinh Thánh
với nhau giúp ta xác nhận lời nói trên kia là ngoa ngữ.

Thi phú trong Kinh Thánh đi thẳng vào tấm lòng chúng ta vì nó phát xuất từ những
người tội lỗi như chúng ta, những người cần và nhận biết ơn thương xót của Thượng Đế.
Họ đã trút đổ những nỗi niềm hổ thẹn, yêu mến, biết ơn và tận hiến. Trong thi phú Kinh
Thánh, chúng ta thấy chính mình và tập nhìn thấy Thượng Đế.

QUI TẮC HƯỚNG DẪN GIẢI KINH

1. Phân tích những dòng câu thơ kép để xem chúng liên hệ với nhau như thế nào. Tìm
những chữ đồng nghĩa, phản nghĩa và những chữ quan trọng như: “nhưng, vì vậy, cho
nên...” Xem thử có chỗ nào chỉ cho biết một dòng là nghĩa thật còn dòng kia là nghĩa bóng
không.

2. Tìm những ẩn dụ, dụ ngữ. Xem chương 13.

3. Khi xét những câu thơ mạnh bạo nên nhớ rằng thi phú không dùng một ngôn ngữ
như văn xuôi. Nên nhớ rằng ngôn ngữ đó diễn tả cảm xúc của người viết đối với kẻ thù của
Thượng Đế, không phải chỉ là kẻ thù của mình.

LỜI TIÊN TRI

Theo nghĩa nguyên thủy, nhà tiên tri là một phát ngôn viên, một người nói thay cho
người khác. Xu 4:16 nói A-rôn là nhà tiên tri của Môi-se, nói những lời Môi-se dặn. Như vậy
nhà tiên tri của Thượng Đế là người nói thay Thượng Đế, truyền lại thông điệp của Thượng
Đế. Ông ta nói với người ta chính yếu là về hiện tại; ông có thể nói hoặc không nói về
tương lai. Nhưng phần đông chúng ta đều hiểu lời tiên tri nói về vị lai, nên ở đây sẽ dùng
chữ nầy theo nghĩa đó trong khi giải kinh. Chúng ta sẽ tìm hiểu những câu Kinh Thánh
Thượng Đế dùng để mặc khải tương lai.

Có rất nhiều lời tiên báo về tương lai trong Kinh Thánh, cả Cựu Ước lẫn Tân Ước.
Chúng gồm có nhiều loại:

1. Những lời tiên báo tức thì

Ứng nghiệm trong một thời gian ngắn sau khi nói. 14:4,13-17 Gie 38:18.

2. Những lời tiên tri của Cựu Ước ứng nghiệm trong thời Cựu Ước

Phu 28:53 và Ca 4:10 Gios 6:26 và IVua 16:34.

3. Những lời tiên tri của Cựu Ước ứng nghiệm trong thời Tân Ước

Những lời nầy phần lớn nói về Chúa Cứu Thế, về ngôi vị và thánh vụ của Ngài. Đây là
phần chính mà chúng ta sẽ đến.

4. Những lời tiên tri của Tân Ước ứng nghiệm trong thời Tân Ước

Phần lớn những lời nầy liên hệ đến sự tái lâm của Chúa, chúng ta sẽ nghiên cứu kỹ.
Mat 16:21 và 27:1-66.

5. Những lời tiên tri của Cựu Ước và Tân Ước chưa được ứng nghiệm

Phần lớn những lời nầy liên hệ đến sự tái lâm của Chúa, chúng ta cũng sẽ nghiên cứu
kỹ.

Có một số những nhóm nầy trùng nhau. Ví dụ một số lời kinh Cựu Ước có liên quan
đến cả 2 lần đến trần gian của Chúa Giê-xu.

Lời tiên tri có khi không phải chỉ tiên đoán tương lai, như ITi 4:1. Nhiều chỗ dùng biểu
tượng để nói tiên tri. Khải tượng cũng thường được Thượng Đế dùng để truyền đạt sứ điệp
tiên tri. Ngay cả vị tiên tri cũng cần được thông giải những khải tượng đó, như Đa 4 và Khải
7.

CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA LỜI TIÊN TRI.

1. Quan điểm tiên tri

Ở đây là điểm nhìn của nhà tiên tri. Nhà tiên tri nhìn từ xa những biến cố được Thượng
Đế mặc khải cho ông. Như người đứng nhìn dãy Hi-mã-lạp-sơn từ xa, tưởng các ngọn núi
rất gần nhau, nhưng khi đến nơi thì mới biết là rất xa. Cũng vậy các nhà tiên tri thường nói
gộp hai biến cố giáng sinh và tái lâm của Chúa Cứu Thế lại với nhau, tưởng chừng như hai
“đỉnh” đó gần nhau, nhưng chúng ta đã biết khoảng cách thời gian giữa các việc đó chẳng
gần chút nào.

Ví dụ, Chúa Giê-xu Cơ-Đốc đã đọc Es 61:1-3 và nói lời đó đã được ứng nghiệm ngày
hôm đó (Lu 4:16-21). Tuy nhiên, trong Ê-sai có nói đến “năm ban ơn” và “ngày báo thù”.
Chúa đọc phần đầu nhưng dừng lại trước phần thứ nhì. Tại sao? Ngày báo thù nói về thời
kỳ nào? hẳn nhiên không phải là lúc Ngài đến lần đầu. Phần nầy chưa được ứng nghiệm
nên Ngài không đọc tới, nhưng trong lời tiên tri, cả hai được đặt bên cạnh nhau. Xem Sa
3:15 và Thi 22:1-31.

2. Ứng nghiệm gần và ứng nghiệm xa

Nhiều lời tiên tri nói trước hết về một biến cố gần, nhưng Thượng Đế là Đấng cai quản
lịch sử, nên Ngài cũng cho lời đó về sau được ứng nghiệm trọn vẹn hơn. Ví dụ IISa 7:12-16
là lời Thượng Đế hứa ban một con trai nối ngôi Đavít. Lời nầy nói về Sa-lô-môn có những
chi tiết như câu 14b chỉ có thể nói về Sa-lô-môn thôi. Nhưng trong He 1:5, câu 14 lại được
ứng dụng cho Chúa Cứu Thế: Ngài là con trai lớn của Đavít và Sa-lô-môn là tiêu biểu cho
Ngài. Sa-lô-môn là con Vua Đa-vít và là con của Đức Chúa Trời. Chúa Giê-xu cũng vậy,
nhưng với một ý nghĩa sâu xa hơn.

Xem Ha 1:5-6 và Cong 13:41. Ha 1:5-6 và Cong 13:41 là một trường hợp khác mà thẩm
quyền Tân Ước cho chúng ta thấy ý nghĩa đôi của lời tiên tri được ứng nghiệm. Khi thấy
như thế nầy thì chúng ta biết chắc được lời giải thích. Nếu không có thì chúng ta không
nên xác quyết một cách độc đoán, giáo điều.

Một lời tiên tri có đặc điểm nầy nhưng rất khó là lời Ê-sai nói về sự sinh ra đồng trinh
của Chúa (Es 7:14). Đây là lời tiên tri nói về thời A-háp. Văn mạch (c.16, 17) cho thấy lời
tiên tri được ứng nghiệm vào lúc đó, như vậy lúc đó phải có một em bé sinh ra. Nhưng Ma-
thi-ơ áp dụng lời tiên tri nầy cho Chúa (Mat 1:22-23). Điều nầy nêu lên một nan đề khá lớn:
phải chăng thời A-háp đã có một gái đồng trinh sinh con? Không có bằng chứng tài liệu
nào cả. Có lẽ lúc vị tiên tri nói thì có một trinh nữ, rồi sau đó trinh nữ nầy lấy chồng sinh
con cái. Có người nêu nghi vấn về ý nghĩa chữ Do Thái được dịch thành chữ “gái đồng
trinh”. Tuy nhiên, văn mạch trong Ma-thi-ơ cho thấy ông dùng theo nghĩa đồng trinh thật
sự. Lời tiên tri nầy rất khó giải, nhiều học giả không đồng ý nhau, nhưng rõ ràng là có
nghĩa đôi, và có chỉ về Chúa Giê-xu.

3. Ngôn ngữ hình bóng


Lời tiên tri dùng rất nhiều biểu hiện, hình bóng, nhưng cũng có những câu có nghĩa
đen. Cái khó trong việc giải lời tiên tri là không biết nó được ứng nghiệm theo nghĩa đen,
nghĩa bóng, hay nghĩa thiêng liêng. Phương hướng của chúng ta là dựa vào lời tiên tri đã
ứng nghiệm để hiểu lời chưa ứng nghiệm. Chúng ta phải xem Tân Ước giải lời tiên tri Cựu
Ước như thế nào.

a. Phải chăng theo Tân Ước những lời tiên tri sau đây được ứng nghiệm theo nghĩa
đen?

Mi 5:2 và Mat 2:6: nơi Chúa sinh là Bết-lê-hem.

Xa 9:9 và Ma 21:5 Chúa vào thành Giê-ru-sa-lem như vị vua, cưỡi lừa.

Es 56:7 và Mat 21:13 nhà Đức Chúa Trời, đền thờ theo nghĩa đen, nhà cầu nguyện.

Es 7:14 và Mat 1:22-23: gái đồng trinh sinh con.

Thi 22:18 và Gi 19:23-24: quân lính chia nhau áo xống Chúa và bắt thăm.

b. Phải chăng những lời tiên tri sau đây được ứng nghiệm theo nghĩa bóng?

Thi 118:22 và Cong 4:11 IPhi 2:7: Chúa là hòn đá bị loại.

Es 22:22 và Kh 3:7: chìa khóa trên vai chỉ về vương quyền.

Xa 13:7 và Mat 26:31 Chúa là người chăn bị hành hung

c. Phải chăng những lời tiên tri sau đây được ứng nghiệm một cách thiêng liêng, một
thực tại nghĩa đen trong Cựu Ước dự chỉ về một thực tại thiêng liêng trong Tân Ước?

Gie 31:31-34 và He 8:8-12 10:15-17

Es 2:2-3 và He 12:22

Am 9:11 và Cong 15:16-17

Nếu Tân Ước giải những lời tiên tri theo ba cách đó thì chúng ta cũng có thể giải các lời
tiên tri bằng một trong ba cách đó. Điều nầy không giúp chúng ta biết dễ dàng phải dùng
cách nào để giải cho đúng, nhưng ít ra cũng biết được có những cách nào để dùng.

4. Văn phạm đặc biệt

Đôi khi lời tiên tri có cách dùng đặc biệt.

a. Động từ ở thì quá khứ có thể dùng cho những biến cố tương lai. Lời tiên tri về Chúa
trong Es 53:1-12 cho đến câu 10a đều dùng động từ ở thì quá khứ, tuy nó nói về tương lai.
Câu 10b-12 là ở thì tương lai (nói về sự xảy ra sau khi Chúa chịu đau khổ), dầu nó không
phải là tương lai xa hơn phần đầu so với thời kỳ nói tiên tri.

b. Thì hiện tại có dùng cho tương lai. Xa 9:9 “Kìa vua ngươi đến” ở thì hiện tại, nhưng nó
hướng về tương lai.

5. Những lời tiên báo có điều kiện và vô điều kiện

Tuy phần lớn những lời tiên tri là vô điều kiện, nghĩa là Thượng Đế tuyên bố những điều
xảy ra không tùy thuộc vào một yếu tố nào khác, nhưng có những lời ứng nghiệm tùy thái
độ đáp ứng của dân chúng. Thường thường đó là những lời nói về phước lành hay sự phán
xét. Tuy nhiên chúng vẫn là những lời tiên tri thật, như Phu 28:1-68 Gie 18:8,10 26:12-13 Es
18:30-32 33:13-15 Gi 3:4 (xem văn mạch). Văn mạch của lời tiên tri rất quan trọng, vì nếu có

một điều kiện nào thì điều kiện đó nằm ngay trong văn mạch.

6. Bày tỏ và che giấu sự thật

Có người cho rằng lời tiên tri chỉ là lịch sử viết trước, vì có những lời tiên tri nói trước cả
những chi tiết của biến cố. Thật ra có những lời tiên tri che giấu cũng như bày tỏ sự thật.
Trong Da 7:15-16 nói Đa-ni-ên thấy một thị tượng về bốn con thú, ông xin giải thích và được
một vị cho biết đó là bốn vua hay bốn nước, nhưng rồi không cho biết hết các chi tiết nên
chắc ông không biết trước được là những vua nào. Sự thật đã bị che dấu trong thị tượng.
Như vậy chúng ta phải cẩn thận đừng nghĩ rằng mình có thể giải được các lời tiên tri cách
chắc chắn.

MỘT LỜI TIÊN TRI CHÍNH YẾU

Những đặc điểm nêu trên của lời tiên tri trong Kinh Thánh rất quan trọng cần phải nhớ,
chúng hướng dẫn ta trong việc nghiên cứu và giải thích lời tiên tri. Chúng giúp ta hiểu được
một trong những lời tiên tri quan trọng nhất sau dây của Cựu Ước.

Lời tiên tri đầu tiên nói trực tiếp về Chúa Cứu Thế là Sa 3:5. Ta có thể thấy câu nầy
mang nhiều đặc điểm như đã nói trên, ngoài ra còn chứa những chủ đề trung tâm của lời
tiên tri trong cả Kinh Thánh.

1. Quan điểm tiên tri

Những biến cố tương lai nào được nói đến trong việc cắn gót chân dòng dõi người nữ
và giày đạp đầu con rắn? Dầu ở đây nói chung cả hai, nhưng chúng được ứng nghiệm cho
cả hai lần của Chúa Cứu Thế để chịu đau khổ và để toàn thắng.

2. Ứng nghiệm gần và xa


Sự thù nghịch giữa giữa Ê-va và con rắn ứng nghiệm gần trong đời Ê-va. Ứng nghiệm
xa của nó là cuộc xung đột giữa Chúa Cứu Thế và Sa-tan.

3. Ngôn ngữ hình bóng

“Đạp đầu” và “cắn gót chân” không thể là nghĩa đen; chúng có ý nghĩa thiêng liêng vượt
xa sự tổn hại thể chất.

4. Bày tỏ và che giấu sự thật

Có sự thật đã được bày tỏ, nhưng ý nghĩa trọn vẹn của lời tiên tri có thể hiểu được nhờ
những lời tiên tri và những biến cố về sau soi sáng.

5. Chủ đề xung đột

Cả Kinh Thánh nói về cuộc xung đột nầy: giữa Thượng Đế và Sa-tan; giữa dân Thượng
Đế và thế lực ma quỉ. Đấng Cứu Thế, dòng dõi người đàn bà, bước vào lịch sử để chiến
thắng cuộc xung đột.

6. Chủ đề về mục đích tể trị của Thượng Đế

Thượng Đế phán: “Ta sẽ khiến.” Trong suốt Kinh Thánh, mục đích của Thượng Đế cứ
lần lượt được thực hiện, dầu dường như có lúc Sa-tan nắm lợi thế. Sách Khải Thị bày tỏ
mục đích ấy cuối cùng được thực hiện ra sao.

7. Chủ đề về Đấng Thiên Sai (Mê-si-a)

Nhóm chữ “dòng dõi người nữ” và đại danh từ “người” (giống đực) chứng tỏ câu nầy nói
về một người.

8. Chủ đề về đau khổ của Đấng Thiên Sai

“Mầy sẽ cắn gót chân người” Thương tích đó không làm cho chết nhưng chắc chắn gây
đau đớn.

9. Chủ đề về sự chiến thắng của Đấng Thiên Sai

“Người sẽ chà đạp đầu mày” chỉ về chiến thắng tối hậu của Đấng Thiên Sai. So sánh
sự cách biệt giữa đầu và gót chân để thấy tính cách quyết định của trận đấu.

Hai chủ đề cuối cùng là những chủ đề trung tâm của lời tiên tri. Chúa Giê-xu cũng như
các sứ đồ đều chú trọng những chủ đề nầy (Lu 24:25-26 IPhi 1:11): sự chịu khổ nạn và sự
vinh quang của Chúa Giê-xu. Đó cũng là hai trọng điểm của lời tiên tri Cựu Ước. Tất cả
những chủ đề khác đều liên hệ ý nghĩa đến hai chủ đề nầy.
CÁC QUI TẮC HƯỚNG DẪN GIẢI KINH

1. Nghiên cứu cách Tân Ước giải lời tiên tri

Không phải chỉ trong khi tìm cách thông giải lời tiên tri mà cũng cả trong những lúc học
Tân Ước bình thường nữa. (Hãy ghi vào một cuốn sổ những đoạn, câu Kinh Thánh tiên tri
và những gì bạn học được).

2. Tìm hiểu ý nghĩa của lời tiên tri trước hết cho người đồng thời, sự ứng nghiệm gần và
sứ điệp thực tiễn của nó

Cần học điều nầy trước khi tìm hiểu về sự ứng nghiệm tương lai. Ví dụ, sách A-ghê nói
gì về sự xây nhà Chúa? Xem Exo 4:24-5:2 để biết bối cảnh của lời A-ghê. Lời ông kêu gọi
nhà Thượng Đế liên kết với lời ông tiên báo về hành động của Thượng Đế trong tương lai
để chứng tỏ quyền uy của Ngài trên trời, dưới đất và ban phước cho dân Ngài. He 12:26-29
nêu ra ứng nghiệm xa.

3. Xét nghĩa đen

Nghĩa có rõ ràng không; văn mạch hay những phần Kinh Thánh liên hệ khác có khó
hiểu không? Es 11:6-9 vẽ bức tranh đại đồng trong tương lai nầy có thể hiểu theo nghĩa đen
không? Thú hoang có thể sống chung với thú nhà và trẻ con không? Bạn có nhận thấy
những chỗ nào chỉ ra nghĩa bóng trong khúc sách không? Xem c.1, 4-5. Những câu nầy có
thể cho ta hiểu câu 6-9 theo nghĩa bóng không?

4. Luôn ghi nhớ trong trí những đặc điểm của lời tiên tri đã học trên

Tìm xem trong khúc sách có đặc điểm nào trong số đó không, nếu có, hãy giải theo
đặc điểm đó. Ví dụ Gi 5:28-29 là lời tiên tri về sự sống lại. Hay nó nói trước về hai sự sống
lại? Ngôn ngữ cho ta hiểu cả hai cách. Nên nhớ đôi khi lời tiên tri gộp các biến cố cách biệt
xa nhau lại chung với nhau. Bạn biết rằng hai sự phục sinh có thể cách biệt nhau về thời
gian. Vậy bạn phải nghiên cứu các đoạn khác để xem chúng có cách biệt hay không.

5. Tìm xem trong khúc sách có những dụ ngữ, biểu hiệu, đặc ngữ...nào không

Nếu có, hãy giải thích theo các qui tắc hướng dẫn của những loại đó.

Lời tiên tri không phải là đề tài dễ học, nhưng đó là một trong những phương tiện
Thượng Đế dùng để truyền dạy chân lý của Ngài cho chúng ta. Chúng ta sẽ được đền bù
nếu dành thì giờ cầu nguyện và học hỏi lãnh vực quan trọng nầy.

GIÁO LÝ
Từ ngữ “giáo lý” được dùng theo hai cách: (1) nói về chân lý tổng quát, một hệ thống
chân lý, và (2) nói về một chân lý đặc biệt, như sự tái lâm của Chúa. Kinh Thánh làm căn
bản cho cả hai. Vậy, muốn hình thành giáo lý đúng, phải hiểu ý nghĩa Kinh Thánh.

Kinh Thánh không phải là quyển sách giáo khoa, luận về từng giáo lý một. Một lý do là
giáo lý không phải là một ngành học là mà chân lý giúp ta sống. Thượng Đế ban Kinh
Thánh cho chúng ta để chúng ta sống trong tương giao với Ngài và theo theo ý Ngài muốn
(IITi 3:16). Trong những phân đoạn như IGi 3:2-3 “khi Chúa hiện ra chúng ta sẽ trở nên giống
như Ngài... Ai có hy vọng đó thì tự mình làm sạch mình như chính Ngài là tinh sạch.” Việc
chúng ta tin vào sự tái lâm của Chúa khiến chúng ta phải sống một đời sống thanh sạch
(Cũng xem thêm các phần giáo lý quan trọng như Es 40:27-31 Phi 2:5-8).

Vì vậy, Kinh Thánh đem chân lý Thượng Đế cho chúng ta qua hoàn cảnh sống. Chúng
ta học giáo lý qua cuộc đời Áp-ra-ham, qua những cuộc tranh đấu của Đavít, qua những lời
của các vị tiên tri kêu gọi dân Y-sơ-ra-ên. Ngay cả những thư tín giáo lý trong Tân Ước
cũng là những bức thư viết cho các tín đồ để giúp họ sống cuộc đời Cơ-đốc. Vì vậy một
chân lý có thể nằm rải rác ở nhiều chỗ.

PHƯƠNG HƯỚNG HỌC GIÁO LÝ

Chúng ta cần bắt đầu bằng những xác tín nào?

1. Kinh Thánh đem cho chúng ta giáo lý mà Thượng Đế muốn chúng ta biết

Xem IITi 3:16-17 thì thấy rõ (chữ “dạy dỗ” có thể dịch “giáo lý”).

2. Kinh Thánh là nguồn giáo lý đầy đủ

Ngoài Kinh Thánh ra không có nguồn thẩm quyền nào khác. Dù truyền thống của giáo
hội, lý trí hay trực giác của con người hay bất cứ điều gì khác cũng phải lấy Kinh Thánh
làm căn bản.

3. Kinh Thánh trình bày giáo lý cách nhất quán

Giáo lý trong Tân Ước không mâu thuẩn với Cựu Ước. Phao lô không mâu thuẩn với
Gia-cơ. Kinh Thánh là sự mặc khải tỏ tường và nhất quán chân lý của Thượng Đế.

Tuy nhiên, ở những phần khác nhau trong Kinh Thánh có những chỗ nhấn mạnh khác
nhau. Giê-rê-mi nhấn mạnh sự phán xét của Thượng Đế, trong khi Ô-sê nói nhiều về lòng
thương xót của Ngài. Nhưng chúng ta không thể bảo là Cựu Ước dạy về sự thịnh nộ của
Thượng Đế còn Tân Ước nói về tình yêu Ngài. Cả hai đều nói về tình yêu và sự thịnh nộ
của Thượng Đế.
Hơn nữa, sự mặc khải chân lý của Thượng Đế có tính cách tiệm tiến. Tân Ước là tuyệt
đỉnh của mặc khải Thượng Đế nên nó khác Cựu Ước.

4. Chúng ta học biết giáo lý bằng cách nghiên cứu tất cả các đoạn có đề cập đến một
đề tài đặc biệt

Vì chúng ta cần biết Kinh Thánh nói thế nào về một đề tài nào đó, chúng ta phải nghiên
cứu tất cả để tìm biết. Chúng ta không đem ý kiến chúng ta vào để nhờ Kinh Thánh xác
nhận. Chúng ta cũng không thể thiết lập giáo lý của chúng ta dựa trên chỉ một hai câu Kinh
Thánh.

5. Chúng ta không trông mong biết hết mọi điều về Thượng Đế

Thượng Đế là Đấng Tạo hóa vô hạn, chúng ta không thể nào biết hết mọi chân lý về
Ngài. Do đó chúng ta sẽ tìm thấy trong Kinh Thánh những điều khó hiểu, những vấn nạn
không thể trả lời được. Chúng ta tiếp nhận và sống với những điều chúng ta có thể hiểu
được, và tin cậy Thượng Đế về những điều vượt quá tầm hiểu của chúng ta.

6. Chúng ta biết có những nghịch lý trong Kinh Thánh

Một nghịch lý (paradox) là chân lý ở một vài giai đoạn có vẻ mâu thuẩn nhau, nhưng
vẫn được dạy rằng Chúa Cơ-Đốc vừa là Thượng Đế vừa là người. Thượng Đế là vô hạn,
người thì hữu hạn. Làm sao Chúa Giê-xu Cơ-Đốc có thể là vô hạn vừa là hữu hạn được?
Nhưng theo lời Kinh Thánh, Ngài là như vậy. Các học giả không thể giải đáp nan đề đó,
nhưng họ cũng như chúng ta phải chấp nhận điều Kinh Thánh dạy và xem cả hai chân lý
đều là hai mặt của chân lý về Chúa Giê-xu Cơ-Đốc.

CÁC QUI TẮC HƯỚNG DẪN GIẢI KINH

1. Giáo lý phải dựa vào những câu nghĩa đen hơn là những khúc Kinh Thánh có nghĩa
bóng

Những đoạn có nghĩa bóng (như ngụ ngôn) thường được dùng để dạy một bài học gì
đó. Chúng ta dễ lấy chi tiết của câu chuyện làm thành một phần của giáo lý vốn không
phải là chủ đích của câu chuyện. Hơn nữa giải nghĩa hình bóng thì rắc rối hơn giải nghĩa
những câu xác định thường. Ví dụ, một số nhà thần học phóng lý (liberal) đã lấy câu
chuyện con trai hoang đàng để dạy về cách tội nhân trở về cùng Thượng Đế là vì vị cha
yêu thương chỉ đòi hỏi tội nhân phải ăn năn thôi. Theo họ, việc Chúa Cứu Thế chịu khổ
thay cho tội nhân là không cần thiết.
Xem phóng dụ cây nho và cành (Gi 15:1-27). Một số cành bị đốt. Có phải những cành
nầy chỉ về những người tin Chúa thật hay không? Có thể nào tin Chúa thật mà cuối cùng
lại bị đốt? Nếu vậy thì theo nghĩa như thế nào? Giải đáp cho những câu hỏi nầy phải tìm
trong những câu nói rõ ràng thì phân đoạn này mới minh chứng được cho chân lý. Nếu
thiết lập giáo lý từ đoạn Kinh Thánh nầy thì không khôn tí nào.

2. Giáo lý phải dựa vào những câu rõ nghĩa hơn là những câu tối nghĩa

Ví dụ IPhi 3:19 nói Chúa Giê-xu “đi giảng cho những linh hồn bị tù.” Các học giả bất
đồng ý kiến về ý nghĩa câu nầy. Vì vậy, nếu dùng câu nầy để kết luận rằng tội nhân còn cơ
hội ăn năn sau khi chết là không khôn ngoan. Vì các câu nói rõ ràng thì cho thấy không có
cơ hội thứ hai.

3. Giáo lý phải dựa vào những đoạn giáo huấn hơn là những đoạn lịch sử

Phần lớn những sách tiên tri , những bài giảng của Chúa, những thư tín đều có tính
cách giáo huấn. Các khúc sách lịch sử chỉ ghi lại biến cố, nên sự dạy dỗ trong đó chỉ có
tính cách gián tiếp hoặc ngụ ý của hành động một người nào. Ví dụ Mat 8:24 kể câu chuyện
Chúa Giê-xu ngủ giữa cơn bão trong khi các môn đồ sợ hãi. Chúng ta có thể dựa vào đó
để kết luận rằng Thượng Đế không biết và cũng không cần để ý đến những cơn hiểm nguy
của chúng ta chăng?

4. Giáo lý phải dựa vào tất cả những khúc sách liên hệ, không phải chỉ một vài đoạn

Nếu chỉ dựa vào một số phân đoạn nhỏ để thiết lập giáo lý, rồi cố giải thích các đoạn
khác cho phù hợp với giáo lý nầy, là làm một điều sai lầm.

Ví dụ, có người xem ITe 1:10 và 5:9 thấy chép “Chúa Giê-xu là Đấng giải cứu chúng ta
khỏi cơn thạnh nộ” và kết luận rằng Thượng Đế sẽ chẳng để Hội Thánh trải qua cơn đại
nạn (great tribulation), như vậy là ông ta đã không chịu đọc Mat 24:29-51. Giải kinh cách đó
không thể nào tìm được giáo lý đúng.

Vấn đề là có những giáo lý có hàng trăm câu, đoạn Kinh Thánh liên hệ. Phải mất rất
nhiều thì giờ để đọc qua hết những khúc sách đó chưa nói đến thì giờ nghiên cứu tìm hiểu
cặn kẽ. Có thể bạn không thể nào làm nổi. Nhưng ít ra bạn cũng nên cố gắng nghiên cứu
vài giáo lý theo lối nầy, vì nó sẽ giúp bạn rất nhiều trong việc hiểu chân lý của Chúa.

Đừng thất vọng nếu bạn không thể tự mình học hết các giáo lý. Bạn có thể học với các
giáo sư qua sách vở, bài giảng hay các lớp học Kinh Thánh. Đó là những người Chúa dùng
trong thiên chức dạy dỗ gây dựng đức tin Hội Thánh.
5. Tìm nghĩa từ ngữ để học một số giáo lý

Nhất là khi giáo lý tóm tắt trong một chữ của Kinh Thánh như chữ Sa-bát. Hãy dùng
Thánh Kinh Phù Dẫn, và ghi nhớ những điểm nầy:

a. Có những giáo lý mà Kinh Thánh không có chữ nào để gọi. Ví dụ, giáo lý Ba Ngôi.

b. Có những khúc sách trình bày một giáo lý mà không nhắc đến tên gọi giáo lý ấy. Ví
dụ ITe 4:3 có dùng chữ “thánh hóa” IGi 1:1-10 3:1-24 tuy cũng bàn về vấn đề nầy nhưng
không dùng tới chữ đó.

c. Một số giáo lý có hơn một tên gọi. Như giáo lý thánh hóa, còn có những chữ thánh
khiết, tẩy sạch, .v.v... Không phải chỉ nghiên cứu một chữ mà bỏ qua những chữ khác.

6. Phải hiểu một khúc sách theo nguyên tắc giải kinh chung

Đừng bao giờ rời bỏ những qui tắc căn bản cho việc giải kinh.

7. Phải cẩn thận về việc thiết lập giáo lý bằng cách suy diễn

Bạn học được một chân lý nào đó trong Kinh Thánh rồi kết luận rằng nếu điều đó là
đúng thì điều nầy hay điều kia cũng sẽ đúng. Bạn chỉ suy diễn ra chứ Kinh Thánh không
có dạy rõ ràng.

Ví dụ, có học giả thấy Kinh Thánh dạy rõ Thượng Đế lựa chọn một số người. Rồi họ
suy luận rằng Thượng Đế chắc cũng có lựa chọn một số khác để chịu trầm luân. Nhưng đó
chỉ là suy diễn, Kinh Thánh không có nói gì về điều đó. Suy diễn có thể đúng có thể sai,
nhưng dầu có đúng đi nữa chúng ta cũng chỉ có thể xem đó là suy diễn mà thôi.

8. Cẩn thận về những phỏng đoán (Speculation) về giáo ly

Thường trong khi suy gẫm Kinh Thánh, chúng ta dễ suy tưởng rộng ra. Chẳng hạn,
chúng ta có thể nghĩ như trong cõi đời đời có những trẻ em và người lớn, hoặc trong tương
lai mình sẽ ở trên những hành tinh khác. Đúng hay sai, đó chỉ là những phỏng đoán, Kinh
Thánh không có dạy, chúng ta phải cẩn thận.

9. Trong khi thiết lập, tin tưởng, hay dạy dỗ giáo lý, cần phải nhấn mạnh điều Kinh
Thánh nhấn mạnh

Mỗi chân lý điều quan trọng, nhưng có những chân lý quan trọng hơn những chân lý
khác. Chân lý về sự tái lâm của Chúa Giê-xu là quan trọng hơn về vấn đề Hội Thánh có ở
lại dưới đất trong thời kỳ đại nạn không. Phao lô trong ICo 1:17 cho thấy ông nhận biết
những gì ưu tiên trong chức vụ của ông, gợi ý cho thấy rằng trong giáo lý cũng có ưu tiên.
10. Tìm trọng điểm thực tế của giáo lý

Thường thì Kinh Thánh cho biết điểm thực tế đó, vì đó là mục đích của Thượng Đế khi
Ngài mặc khải chân lý.

GIÁO LÝ BA NGÔI

Chúng ta sẽ xét qua giáo lý Ba Ngôi, một giáo lý quan trọng hàng đầu của Kinh Thánh.

Tên gọi của giáo lý này là do các học giả đặt ta sau khi nghiên cứu những chân lý đã
được bày tỏ trong Kinh Thánh:

1. Có một Thượng Đế mà thôi: Phu 6:4 ITi 2:5, v.v...

2. Có một hữu thể thiên thượng gọi là “Cha”, cũng là Thượng Đế: Ro 1:7 Eph 4:6 Phi 2:11.

3. Có một hữu thể thiên thượng gọi là “Giê-xu Cơ-Đốc, Con Thượng Đế”, Ngài cũng là
Thượng Đế : Gi 5:18 He 1:8 IIPhi 1:1 IGi 4:15.

4. Có một hữu thể thiên thượng nữa gọi là “Thánh Linh”, Ngài cũng là Thượng Đế: Cong
5:3-4.

5. Có sự phân biệt giữa ba hữu thể nầy:

Mat 3:16: Chúa Giê-xu, Thánh Linh, và tiếng từ trời.

Gi 14:26: Đức Chúa Cha sẽ sai Đấng Tâm Vấn (Counseler) đến.

15:26: Đức Chúa Giê-xu sẽ sai Đấng Tâm Vấn đến.

5:20: Đức Chúa Cha yêu thương Đức Chúa Con.

Làm sao kết hợp cả năm chân lý ấy của Kinh Thánh? Cả ba vị đều là Thượng Đế, vậy
mà chỉ có một Thượng Đế. Cả ba đều khác biệt nhau, vậy không thể bảo đó là những
phẩm tính, những phương diện, hay những thể dạng của một hữu thể. Như vậy, đây là
chân lý chúng ta không thể nào hiểu trọn vẹn. Nhưng Hội Thánh trải qua các đời đã chấp
nhận như vậy. Giáo lý ấy được xác nhận trong các đoạn khác, như Mat 28:19 IICo 13:14 Kh
1:4-5.

6. Giáo lý phải sản sinh sự thành kính. Khi học giáo lý, chúng ta phải tìm hiểu và vâng
theo sứ điệp của Thượng Đế. Việc sống theo ý Chúa tùy thuộc vào sự tăng trưởng hiểu
biết của chúng ta về Chúa. Cần chịu khó tìm học chúng ta sẽ gặt được nhiều kết qủa
thiêng liêng.

TƯƠNG QUAN GIỮA CỰU và TÂN ƯỚC


Nhiều người thấy Cựu Ước rắc rối nên họ bỏ qua không chịu tìm hiểu, họ chỉ đọc là
Tân Ước và có lẽ thêm Thi Thiên mà thôi. Nhưng Thượng Đế đã ban toàn bộ Kinh Thánh
cho chúng ta gồm cả Cựu và Tân Ước, và Ngài muốn chúng ta hiểu trọn vẹn Lời Ngài. Vậy
chúng ta nên học toàn bộ Kinh Thánh như thế nào?

NHỮNG ĐIỂM ĐỒNG NHẤT

Muốn hiểu Cựu Ước thì phải xem Tân Ước nhìn nó như thế nào. Chúng ta có thể tìm
thấy câu trả lời trong một số đoạn.

1. Thượng Đế là tác giả

Theo He 1:1-3, Thượng Đế phán với các tổ phụ qua các vị tiên tri. Các sách tiên tri đều
nằm trong Cựu Ước nên Cựu Ước là lời Thượng Đế. IITi 3:14-17 nói rằng “Cả Kinh Thánh
đều là bỏi Đức Chúa Trời soi dẫn.” Vào thời Ti-mô-thê chỉ có Cựu Ước là Kinh Thánh vì
Tân Ước lúc đo chưa được thiết lập. Như vậy cả hai câu Tân Ước trên đều tuyên bố
Thượng Đế là tác giả của Cựu Ước, và đó là quan điểm của cả Tân Ước. Hãy xem thêm
Cong 26:23 Ro 1:17 9:25 IICo 6:2,16.

2. Một kế hoạch cứu chuộc

Tân Ước còn có nhiều điều để nói về Cựu Ước hơn là chỉ nói đó là lời Thượng Đế.
Trong IITi 3:15, Phao-Lô nói với Ti-mô-thê rằng “Kinh Thánh có thể khiến con khôn ngoan
để được cứu” (c.15). Nói cách khác, nó chứng tỏ kế hoạch cứu chuộc của Thượng Đế, nó
cho người ta biết làm sao để được cứu khỏi tội lỗi.

Trong Ro 4:1-9 Phao-lô nói về kinh nghiệm tâm linh của Áp-ra-ham và Đavít. Theo ông,
họ được Thượng Đế xưng là công chính không phải do việc làm của họ, mà nhờ hồng ân
Thượng Đế và bởi lòng tin của họ. Chúng ta cũng vậy. Đó là căn bản để cho họ cũng như
chúng ta được cứu chuộc. Trong thời Cựu Ước, người ta đã biết kế hoạch cứu chuộc của
Thượng Đế. Xem Cong 24:14-15 Ro 4:10-25 8:1-3 11:13-24 Ga 3:6-29 Gia 2:18-26.

Chẳng những cho chúng ta biết mình được cứu cách nào, Cựu Ước còn dạy chúng ta
đi trong đường lối Thượng Đế. (Xem ICo 10:6,11 IITi 3:16-17).

3. Chúa Cứu Thế là trung tâm

Cựu Ước chẳng những nói về sự cứu chuộc, mà còn đặt trọng tâm nơi ngôi vị của Chúa
Giê-xu Cơ-Đốc. Ngài xuất hiện nhiều cách trong Cựu Ước.

a. Trong những công tác vĩ đại


Theo Gi 1:1-3 Co 1:16 và He 1:2, Chúa Cứu Thế có dự phần trong cuộc sáng tạo. Chúng
ta không biết Ngài dự phần cách nào, nhưng Tân Ước nói rõ Ngài có dự phần. Co 1:17 còn
nói “muôn vật được dựng nên trong Ngài,” nghĩa là mọi sự tồn tại là nhờ ơn thần hựu của
Ngài.

b. Trong những lần xuất hiện

Trong Cựu Ước có nhiều chỗ nói Thượng Đế hiện ra dưới dạng người. Cựu Ước ghi lại
một số lần Thượng Đế xuất hiện dưới dạng người. Có bằng chứng cho ta hiểu rằng khi
Thượng Đế xuất hiện theo cách đó thì đấy chính là Chúa Cơ-Đốc (Đấng Christ). Điều nầy
không có nghĩa là lúc ấy Chúa Cơ-Đốc đã trở thành người bằng xương bằng thịt, nhưng chỉ
có nghĩa là Ngài hiện ra trong hình người mà thôi. Sa 16:1-16 là một ví dụ. “Thiên sứ của
Đức Giê-hô-va” xuất hiện trước A-ga (c.7), tỏ ra uy quyền (c.10). A-ga nhận biết Vị nầy là
ai (c.13). Có một số chỗ trong Kinh Thánh cho thấy “Thiên sứ của Đức Chúa Trời”, là linh
thiêng đó chính là Ngài; còn khi nói “một thiên sứ” là chỉ thiên sứ thường (phân biệt mạo từ
xác định và bất định). (xem 22:11-12 31:11-13).

Chúng ta có thể thấy rõ vị nầy chính là Thượng Đế, nhưng tại sao chúng ta lại nghĩ đây
chính là Chúa Cơ-Đốc (Christ)? Một lý do: Chúa Cơ-Đốc (Christ) là mặc khải Thượng Đế.
Nhiều câu Kinh Thánh nói vậy. Vì vậy chúng ta có thể cho rằng khi Thượng Đế xuất hiện
thì đó chính là Chúa Cơ-Đốc (Christ).

c. Trong sự giải cứu dân tộc Do Thái

Trong ICo 10:1-11 Phao-Lô nhắc lại lịch sử Thượng Đế giải cứu dân Do Thái khỏi Ai-cập
đưa họ vào đồng vắng trước khi vào định cư nơi đất hứa. Những biến cố đó là bài học dạy
chúng ta cách Thượng Đế đối đãi với dân Ngài. Nhưng Phao-lô cũng cho thấy Chúa Giê-xu
Cơ-Đốc cũng có mặt trong lịch sử đó (c.4). Lịch sử đó là lịch sử giải cứu, nó nằm trong bức
tranh giải cứu lớn mà Chúa Giê-xu Cơ-Đốc thực hiện cho chúng ta.

d. Trong sự giải cứu cá nhân

Trong thời kỳ Cựu Ước, Thượng Đế đã tìm kiếm những cá nhân như Áp-ra-ham, Đa-vít,
và nhiều người khác, đưa họ đến đức tin và vâng phục (Hê 11). Họ được cứu chuộc về
phương diện tâm linh, sự cứu chuộc này chỉ qua Chúa Giê-xu Cơ-Đốc. Dầu họ không biết
trọn vẹn mặc khải về sự chết, phục sinh và giải cứu của Đấng Cứu Thế ( Lu 24:45-47).
Thượng Đế bày tỏ nguyên tắc chuộc tội qua hệ thống tế lễ và các lời tiên tri. Người nào có
tâm linh được soi sáng đã thấy ngày của Đấng Cứu Thế và có một khái niệm về công tác
của Ngài (Gi 8:56). Hê 11 cho thấy rằng dầu có những cách biệt quan trọng, người tin thời
Cựu Ước cũng có cùng một căn bản như người tín đồ Cơ-đốc.

e. Trong các tiêu biểu

Chúng ta đã học qua trên kia và đã thấy Chúa Cứu Thế được bày tỏ trong các tiêu biểu
như thế nào (xem chương 15).

f. Trong những lời tiên tri trực tiếp (xem chương 19).

Toàn thể Kinh Thánh đều tập trung vào Chúa Cơ-Đốc (Christ) và làm chứng cho Ngài
(5:39). Chính Chúa dạy các môn đệ về Ngài trong Kinh Thánh (Lu 24:25-27) và quở trách họ
vì họ không hiểu Kinh Thánh nói về Ngài. Vì thế chúng ta phải tìm biết Chúa Cơ-Đốc mặc
khải trong Cựu Ước. Nhưng chúng ta phải dùng Tân Ước để kiểm chứng Cựu Ước và Tân
Ước mặc khải đầy trọn về Chúa Cơ-Đốc .

Ba điểm chỉ đồng nhất căn bản của cả Kinh Thánh là: (1) Cả Cựu Ước và Tân Ước đều
đến từ Thượng Đế, (2) cả hai đều bày tỏ cùng một kế hoạch cứu rỗi của Thượng Đế, (3) kế
hoạch đó tập trung trong Chúa Cứu Thế Giê-xu.

CÁC ĐIỂM TƯƠNG PHẢN

Thượng Đế cũng chỉ tỏ có những điểm trong Cựu Ước tương phản với những mặc khải
trong Tân Ước. Ít nhất có ba loại. Thứ nhất, tương phản giữa toàn thể thời Cựu Ước với
những thời kỳ của Tân Ước trong đó có sự mặc khải của Thượng Đế. Thứ hai là tương
phản giữa luật pháp của Cựu Ước, hay giao ước Thượng Đế lập với dân Do Thái, với mặc
khải của Tân Ước trong Giao Ước Mới. Thứ ba, tương phản, có thể là mâu thuẫn nữa giữa
cách hiểu lầm của Do-thái-giáo về sự giải cứu nhờ việc làm với mặc khải với Tân Ước về
ơn cứu độ bởi đức tin. Đây không phải là sự mâu thuẩn của Thượng Đế mà là sự hiểu biết
của con người về chương trình của Thượng Đế.

Ba điểm đầu trong chương nầy cho thấy Thượng Đế không có hai cách cứu rỗi hay hai
cách sống đối nghịch nhau. Nên chúng ta không cần phải tốn thì giờ với sự hiểu lầm của
người Do Thái, chúng ta chỉ cần biết những điểm nầy nằm ở đâu trong Kinh Thánh thôi
(Cong 15:7-11 Ro 9:30 10:13 Ga 3:1-29).

Chúng ta chỉ xét hai đoạn đầu vì loại sau không phải là việc của Thượng Đế mà chỉ là
sự hiểu biết của con người đối với kế hoạch Thượng Đế.

1. Thời đại cũ và thời đại mới


He 7:16,24,28 9:10 chỉ ra sự tương phản về thời gian. Cựu Ước chỉ có một thời, còn Tân

Ước thì vĩnh viễn. Đó là sự tương phản giữa cái tạm thời và cái thường hằng.

Mac 1:15 Ga 4:3-4 có nói đến kỳ đã trọn. Điều đó hàm ý một thời kỳ chưa trọn, thời kỳ

chuẩn bị. Tân Ước xem Cựu Ước là thời kỳ đó. Thế giới và dân Do Thái phải chuẩn bị cho
Đấng Cơ-Đốc giáng thế. Có một sự tương phản giữa chuẩn bị và hoàn thành.

Tân Ước có đề cập đến nhiều điều trong Cựu Ước được ứng nghiệm (như Mat 1:22 2:17-
18 4:14-16 Cong 3:18,21-24 8:32-35 13:27-29). Đây là sự tương phản giữa tiên báo và ứng

nghiệm.

Cựu Ước đề cập chính yếu đến một dân tộc, dân Do Thái. Trong Tân Ước, Thượng Đế
đối xử với mọi dân tộc như nhau (Mat 10:5-6 Cong 3:26 10:34-35 18:5-6) đây là tương phản giữa
một dân tộc và mọi dân tộc.

Còn một tương phản nữa đề cập trong He 7:19 9:15 10:4-7,10,14 11:39-40, đó là giữa một
phần (partial) và toàn phần (full); giữa bất toàn (imperfection) và toàn vẹn (perfection). Sự
toàn vẹn và bất toàn không có liên hệ trực tiếp gì đến tội lỗi như là có sự toàn vẹn không
tội lỗi (sinless perfection), nhưng là liên hệ đến sự hoàn tất (completeness) công việc của
Thượng Đế trong giai đoạn.

2. Giao ước cũ và giao ước mới.

Ngoài sự tương phản giữa hai thời kỳ nói trên còn có sự tương phản giữa hai giao ước.

He 8:5 9:11 12:18-24 nói đến giai đoạn thế hạ hay vật chất của Cựu Ước tương phản với
đối tượng thiêng liêng của Tân Ước. Có những đặc điểm thế hạ chỉ về những thực tại
thiêng liêng. Tuy nhiên, tương phản nầy không phải là tuyệt đối He 11:1-46 cho thấy những
người tin trong Cựu Ước cũng có những mục tiêu và hy vọng thiên thượng.

8:2,5 10:1 Co 2:16-17 cho biết những sự việc vật chất, thế hạ trong Cựu Ước là cái bóng,
là bản sao cho cái thật. Cái thật ở trên trời nhưng được bày tỏ trong Tân Ước. Lều tạm
tương phản (contrast) với thực tại trên trời và thực tại tâm linh chúng ta có ngày nay, chỗ
cho sự hiện diện của Thượng Đế.

Điều nầy cho thấy trong phần nghi lễ của luật Môi-se, những chỉ dẫn về dâng lễ vật (Le
1:1-8:36), giữ các ngày lễ (23:1-44), xây cất lều tạm (Xu 25:1-28:43) và theo đúng nghi thức

(29:1-30:38) là những phần nổi bật. Các luật dân sự (Le 13:1-59 về bệnh phung cùi, và 25:1-55
về cho mượn tiền và nô lệ)...Tại sao ta không giữ theo những luật nầy? Vì như He 9:11-14
10:1-10 trong Tân Ước ta thấy luật đó là cái bóng của những thực tại thiêng liêng mà Đấng
Cơ-Đốc đã thiết lập và Thượng Đế đã dẹp bỏ cái bóng. Bây giờ chúng ta tìm theo cái thực
chứ không theo cái bóng. Khó phân định rõ phần nào trong luật Cựu Ước chỉ là cái bóng
hay có giá trị vĩnh cửu. Càng học lời Chúa chúng ta càng dễ phân biệt hơn.

Chúng ta thấy rõ cái tương phản thứ ba nói trong Gie 31:31,34 Ro 8:3 và He 7:8, đó là
tương phản yếu đuối và mạnh mẽ. Nói vậy không phải là quyền năng Thượng Đế không
bày tỏ trong Cựu Ước. Nhưng luật pháp Thượng Đế có một nhược điểm là con người
không thể giữ được. Đó là căn bản của sự tương phản giữa luật pháp và Tân Ước. Trong
Tân Ước, Thượng Đế đặt luật Ngài trong lòng người để họ nhờ Thánh Linh mà giữ luật
Ngài.

Một số học giả thấy một tương phản giữa Cựu Ước và Tân Ước, đó là luật pháp và ân
huệ. Rồi họ kết luận rằng tín đồ thời nay không dính dáng gì đến Mười Điều Răn, vì Mười
Điều Răn là một phần hay có thể là trung tâm của luật pháp.

Để giải đáp vấn đề nầy, ta nghiên cứu nhiều câu Tân Ước như Mat 15:3-7 Mac 10:19 Lu
4:8 11:2 Ro 1:23 ICo 5:11, v.v... và thấy rằng Tân Ước nhắc đến chín trong mười điều răn, như

vậy Mười Điều Răn là một phần của Tân Ước, luật của Thượng Đế cho chúng ta. Chỉ có
một điều không nhắc tới là điều răn thứ tư: “Hãy nhớ ngày nghỉ đặng làm nên ngày thánh.”
Nhưng Hội Thánh sơ khai có bỏ ngày Sa-bát không? Có bằng chứng nào cho thấy họ đã
giữ ngày thứ nhất trong tuần thay cho ngày Sa-bát (Xem Cong 20:7 ICo 16:2).

Như vậy, dầu Mười Điều Răn được ban cho dân Do Thái trong bộ luật, rõ ràng đó là
tiêu chuẩn vĩnh viễn của Thượng Đế cho dân Ngài. Dầu điều răn thứ tư không lập lại
nguyên văn, nhưng nguyên tắc về “ngày của Chúa” dường như đã thịnh hành vào thời các
tín hữu đầu tiên. Chúng ta cũng nên nhớ rằng thứ bảy được Thượng Đế biệt riêng từ lúc
tạo thiên lập địa, không phải đến khi ban luật pháp mới có.

Nhiều người còn cho rằng luân lý Cựu Ước cũng không hòa hợp với Tân Ước không
những vì tiêu chuẩn thời đó không đạt tới trình độ của Tân Ước mà đôi khi Thượng Đế
cũng không quở trách người ta về phẩm hạnh của họ.

Trong một số trường hợp, dường như luật của Cựu Ước kém đạo đức hơn Tân Ước.
Thượng Đế ra lệnh dân Do Thái tuyệt diệt dân A-ma-léc (Xu 17:8-16). Các dân tộc khác
cũng phải bị tiêu diệt (34:12-26 và Phu 7:1-5). Trong vài trường hợp, Thượng Đế còn truyền
lệnh giết cả đàn bà và trẻ em (20:16-18). Hành động của Thượng Đế dường như không phù
hợp với bản chất yêu thương nhân từ của Ngài đối với thế gian. Vậy chúng ta phải hiểu vấn
đề nầy thế nào?
Trước hết, chúng ta nên nhớ rằng các dân tộc bị tiêu diệt rất là bại hoại. Họ chẳng có
một tiêu chuẩn thánh thiện hay thờ phụng chân chính nào. Thượng Đế không tìm cách làm
trong sạch một quốc gia vì Ngài yêu quốc gia đó hơn những nước khác. Dân Do Thái
không tốt gì hơn, họ chẳng có tiêu chuẩn gì cho đến khi Chúa dạy họ. Nhưng Ngài chọn họ
để làm họ thành một dân công chính, biệt riêng họ, dạy cho họ những tiêu chuẩn của Ngài,
họ cần phải lánh xa sự bại hoại xung quanh.

Hơn nữa Thượng Đế đã kiên nhẫn với các dân tộc đó lâu rồi. Mấy trăm năm trước khi
Do Thái ra khỏi Ai-cập, Ngài đã nói, “Tội của dân A-mô-rít chưa trọn” (Sa 15:16). Tội ác của
một dân tộc tới thời điểm đầy trọn khi họ không chịu ăn năn từ bỏ gian ác để quay lại cùng
Thượng Đế. Trước đó Ngài vẫn chờ đợi, nhưng tới điểm đó rồi, Ngài phải phán xét. Sự
phán xét của Ngài có thể là bằng chiến tranh, giết chóc. Hành động của Ngài cũng giống
những giải phẩu cắt đi một ung nhọt của cơ thể bệnh hoạn. Sự thật đã chứng tỏ; vì dân Do
Thái không tiêu diệt những dân tộc đó nên họ đã bị những dân tộc đó làm bại hoại ( Dan
25:1-2 31:1-20 và Cac 2:1-4).

Còn một thắc mắc nữa là Thượng Đế cho phép đa thê và ly dị dễ dàng. Những lãnh tụ
tinh thần như Áp-ra-ham, Đa-vít có nhiều vợ mà không cảm thấy sai và không bị Chúa quở
trách. Luật Do Thái cho phép người đàn ông bỏ vợ chỉ cần trao cho vợ “ một tờ ly dị” là đủ
(Phu 24:1-4).

Để giải quyết vấn đề nầy, ta cần nhờ ánh sáng của Chúa Giê-xu giải đáp về vấn đề li dị
trong Mat 19:3-9. Ngài nói rằng sở dĩ Thượng Đế hạ thấp tiêu chuẩn trong Cựu Ước là vì
“lòng các ngươi cứng cỏi”. Họ chưa học được những nguyên tắc cao hơn nên Ngài không
đòi buộc họ. Ngài dạy họ từ từ, cũng như với trẻ em vậy.

Tóm lại, chúng ta cần nhớ những nguyên tắc căn bản khi so sánh luân lý của Cựu Ước
và Tân Ước.

a. Thượng Đế bày tỏ ý Ngài cho loài người cách tiệm tiến

Trong thời kỳ trước Thượng Đế chưa bày tỏ cho họ những tiêu chuẩn đầy đủ như thời
của Chúa Giê-xu Cơ-Đốc.

b. Nhiều khi những điều các vị thánh thời xưa làm không hẳn là điều Thượng Đế bảo
họ làm

Có khi họ còn lìa bỏ ý muốn Thượng Đế nữa (Xem IVua 10:23,26 11:1-3 Phu 16:16-17).

c. Có khi Thượng Đế cho phép những điều mà Ngài không chuẩn y


Nói cách khác, Ngài không ưng thuận, nhưng Ngài dung chịu (Mat 10:3-9).

d. Ngôn ngữ bạo động

Thường có trong Thi ca để bày tỏ xúc cảm mạnh mẽ đối với những kẻ xúc phạm danh
dự và chân lý Thượng Đế không nên diễn giải như văn xuôi (Xem Thi 58:6).

Ta thấy tương quan giữa Cựu Ước và Tân Ước, những tương đồng cũng như tương
phản giữa hai phần của Kinh Thánh, và biết rằng cả hai đều là mặc khải của Thượng Đế
cho người ở mọi thời đại.

ÁP DỤNG CÁ NHÂN

HƯỞNG ỨNG LỜI THƯỢNG ĐẾ

Chúng ta đã xét qua một số nguyên tắc, chung cũng như riêng, trong việc học và giải
Kinh. Trước khi bạn bắt đầu học và giải Kinh Thánh, bạn nên đọc lại chương sáu. Những
đề nghị trong đó rất quan trọng, sẽ giúp ích nhiều cho bạn.

Trước khi thật sự học, chúng ta cần nghĩ về mục tiêu thật sự của sự hiểu biết Lời
Thượng Đế. Mục đích của Thượng Đế là gì khi Ngài ban Kinh Thánh cho chúng ta? Chính
lời Ngài cho chúng ta biết : để chúng ta trở nên con cái Thượng Đế và làm vinh hiển danh
Ngài.

Một người có thể học Kinh Thánh rất nhiều về mặt lý thuyết và kỹ thuật, nhưng người
ấy chỉ hiểu biết thật sự khi hưởng ứng đòi hỏi của Thượng Đế qua lời Ngài. Kinh Thánh có
một chiều kích tâm linh mà con người chỉ lãnh hội được khi đem ý chí hưởng ứng lời Ngài
phán, chứ không phải khi lấy lý trí phân tích ngôn ngữ.

Ví dụ, chúng ta học Ro 12:1, phân tích và hiểu biết hết những công dụng và ý nghĩa của
những chữ trong đó như vậy nên, của lễ, sống và biết câu nầy dạy rằng chúng ta phải
sống tận hiến cho Thượng Đế. Nhưng nếu tất cả những hiểu biết đó chỉ là một mớ lý
thuyết thì chúng ta chưa thật sự hiểu câu Kinh Thánh.

Hiểu Kinh Thánh một cách thuần lý thuyết chỉ là hiểu nghĩa “chữ” của Kinh Thánh,
nhưng “chữ làm cho chết” (2:29 IICo 3:6). Học chân lý thiêng liêng hay đạo đức mà không
chấp nhận sự thánh thức của nó thì càng làm cho tâm linh chai lỳ. Vì vậy ta phải cẩn thận
đừng học Kinh Thánh như một ngành học của đời.
Hơn nữa, những đòi hỏi của Kinh Thánh có tính cách thẩm quyền, không phải để lựa
chọn. Thượng Đế không đề nghị mà Ngài ra lệnh cho chúng ta. Chúng ta chỉ có một lựa
chọn là vâng phục. Vâng phục là chìa khóa để hiểu Kinh Thánh.

HƯỞNG ỨNG THÔNG ĐIỆP THƯỢNG ĐẾ

Hưởng ứng thông điệp Thượng Đế không phải chỉ là vâng phục theo những lệnh trực
tiếp của Ngài mà còn có nhiều cách khác nữa.

1. Bằng cách tuân theo những lệnh truyền và cấm chỉ của Thượng Đế

Thượng Đế bảo chúng ta phải làm điều gì đó hoặc đừng làm điều gì đó.

Một số mệnh lệnh Ngài truyền cho cá nhân hay một nhóm người trong một hoàn cảnh
đặc biệt nào đó. Như Chúa Giê-xu bảo một thanh niên, “Hãy đi, bán hết gia tài mà phân
phát cho kẻ nghèo rồi đến đây theo ta” (Mat 19:21). Văn mạch cho thấy của cải anh ta là
một một trở ngại cho anh theo Chúa. Như vậy Ngài bảo anh ta làm điều đó, nhưng không
bảo mọi người như vậy. Một lần Chúa bảo một người được chữa lành muốn theo Ngài:
“Hãy về nhà thuật lại những điều Chúa đã làm cho ngươi.” Đó là lệnh đặc biệt cho người
đó vì Ngài có việc cho anh ta làm. Cũng như trước lễ Ngũ Tuần Chúa đã bảo môn đồ, “Hãy
ở lại trong thành, cho đến khi các ngươi được mặc lấy quyền phép từ trên cao.”

Tuy mệnh lệnh đặc biệt chỉ áp dụng cho một người hay một nhóm người, nhưng nơi
gốc rễ thâm sâu của mệnh lệnh đó có những nguyên tắc mà Thánh Linh muốn cho ta áp
dụng. Ví dụ trong lệnh truyền cho người thanh niên có một nguyên tắc, có lẽ đó là mỗi
người nên gạt bỏ mọi trở ngại để theo Chúa. Có thể Chúa muốn tất cả chúng ta đều áp
dụng nguyên tắc đó.

Có những mệnh lệnh khác tổng quát hơn: “Hỡi anh em, hãy vui mừng trong Chúa” (Phi
3:1). “Vậy, anh em hoặc ăn hoặc uống hay làm điều gì cũng hãy vì vinh hiển Đức Chúa
Trời mà làm” (ICo 10:31) hay Ch 27:1 “Đừng khoe về ngày mai, vì không biết ngày mai sẽ ra
sao”, và rất nhiều mệnh lệnh khác nữa. Chúng ta hãy tìm hiểu và thông giải cho đúng, rồi
vâng theo.

Nhiều câu Kinh Thánh (như Gi 14:15 Ro 8:4 IGi 2:3 5:3) chỉ ra rằng chúng ta có nghĩa vụ
phải tuân lệnh Chúa, vì sự tuân phục đó chứng tỏ chúng ta yêu mến Ngài. chúng ta phải
thực hiện sự công chính của luật pháp Thượng Đế. Phao-lô đề cập đến vấn đề nầy trong
ICo 9:1-27. Ông trở nên mọi cách cho mọi người nhưng không có nghĩa là ông không bị luật

Chúa ràng buộc.


Như vậy luật pháp Thượng Đế đặt trên chúng ta. Khi chúng ta học Cựu Ước, chúng ta
phải thấy cái nào cho thời đó và cái nào là vô thời hạn. Ngay trong Tân Ước, cũng có
những điều Chúa truyền có tính cách văn hóa đặc biệt của thời đó, nhưng trong đó có
những nguyên tắc chung cho mọi thời. Xem Gi 13:14-15, Chúa Giê-xu rửa chân cho môn đồ
và bảo họ theo gương Ngài. Một số học giả cũng liệt những chỉ thị của Phaolô về việc đàn
bà để tóc và trùm đầu, giữ yên lặng trong buổi nhóm (ICo 11:2-16 14:33-35) cũng thuộc vào
loại đó.

2. Bằng cách lãnh nhận những điều Chúa hứa và tránh những điều Ngài răn đe

Trước hết chúng ta phải biết có nhiều loại lời hứa và ngăm đe khác nhau. Có những lời
hứa vô điều kiện, Thượng Đế nói Ngài sẽ ban điều tốt cho con người bất kể họ hành động
ra sao. Ví dụ lời hứa trong Sa 9:11 nói rằng Ngài sẽ không dùng nước lụt hủy diệt trái đất
nữa. Nó không tùy thuộc hành vi con người, đó là lời hứa vô điều kiện của Thượng Đế.
Chúng ta nhận và cảm ơn về những lời hứa đó, nhưng cũng nghiên cứu cẩn thận xem có
thật và vô điều kiện không. Vì có khi có điều kiện nhưng không thấy rõ ngay (Xem 15:14-16
Gie 22:5).

Hầu hết các lời hứa trong Kinh Thánh là có điều kiện. Những lời hứa có điều kiện có khi
nói rõ điều kiện theo sau bằng chữ Nếu ngươi hay những chữ nào khác tương tự. (xem Phu
28:2-3 Ro 10:9 Kh 2:7) có khi lời hứa đưa ra điều kiện gián tiếp, như ISa 2:30, “ta sẽ tôn trọng
người nào tôn trọng ta.” Có khi điều kiện không nằm trong cùng một câu với lời hứa (Xem
Gie 31:34 và văn mạch Es 58:1-14). Một khi đã là lời hứa có điều kiện, chúng ta không thể

nào nhận lời hứa nếu không làm theo điều kiện, tìm cách thực hiện nó, rồi bởi đức tin vui
nhận lời hứa.

Những lời hứa của Kinh Thánh cũng có thể là trực tiếp hay gián tiếp. Những lời hứa
trực tiếp thì rõ ràng, như “ta sẽ bổ sức cho ngươi” (41:10). Những lời hứa gián tiếp thì không
dễ dàng nhận thấy như vậy, như câu He 10:34 “vì anh em biết có của quý hơn hằng còn
luôn.” Một số học giả cho rằng đó là câu diễn tả sự kiện hơn là lời hứa vì nó nói về cái
người ta có hơn là cái sẽ được. Nhưng vì đây là của cải trên trời tương phản với của cải
dưới đất, ta chỉ có thể hưởng trọn trong tương lai, nên chúng ta có thể xem là lời hứa gián
tiếp.

Dù là trực tiếp hay gián tiếp, các lời hứa cần được học hỏi cẩn thận, với tinh thần cầu
nguyện và lòng tin, ta tiến tới nhận lãnh.
Ngăm đe là những lời tuyên bố nghiêm trọng về sự trừng phạt của Thượng Đế. Ngài
phạt người ta vì điều họ làm, vì tội họ phạm; như vậy, tất cả những lời ngăm đe đều có
điều kiện. Trong Phu 28:1-68 có một danh sách rủa sả dài tiếp theo một danh sách phước
lành. Các phước lành mở đầu bằng Nếu các ngươi chăm chỉ vâng theo và các điều rủa sả
mở đầu bằng Nếu các ngươi không vâng theo.

Chúng ta áp dụng lời ngăm đe bằng cách tìm hiểu cả lời ngăm đe và điều kiện, rồi vâng
theo điều kiện, như vậy sẽ tránh được điều ngăm đe.

3. Bằng cách học hỏi những gương tốt cũng như gương xấu

Chúng ta có thể học hỏi qua những điều các nhân vật trong Kinh Thánh nói về mình và
những điều Kinh Thánh nói về họ. Như trong các lời làm chứng của các thi thiên, tiên tri và
Phao lô, Phi-e-rơ trong các thư tín.

Đôi khi thật khó mà bình giải những hành động, lời của các nhân vật trong Kinh Thánh.
Không thể định được đó là gương tốt hay gương xấu. Phao-lô và Ba-na-ba đều đúng cả
hay sai cả trong vụ cải vả nhau về Mác (Cong 15:36-41), hay có một người đúng một người
sai? Hành động của Phaolô trong 16:3 hay trong 21:26 thì sao? Có người cũng nêu lên câu
hỏi tương tự về các Thi Thiên Rủa Sả. Không dễ gì trả lời những câu hỏi nầy. Chúng ta
phải học tập cẩn thận với tinh thần cầu nguyện.

Chúng ta phải tìm ra nguyên tắc nằm sau mỗi gương mà áp dụng vào hoàn cảnh
chúng ta. Ví dụ Ro 2:17-25, câu 25 nói về người Do Thái có cắt bì, có luật pháp mà không
làm theo. Nguyên tắc là: bạn có sự mặc khải và răn giới của Chúa mà nếu bạn không làm
theo thì việc giữ nghi lễ chẳng ích lợi gì. Áp dụng cho chúng ta là chúng ta có những nghi
lễ như Tiệc Thánh, Báp-têm, những nghi lễ chỉ có ích cho ta khi vâng phục Lời Thượng Đế,
còn không thì chẳng ích lợi gì cả. Những gương trong Kinh Thánh là nhắm cho chúng ta
(ICo 10:6,11). Chúng ta phải tìm hiểu những nguyên tắc thuộc linh trong đó rồi nhờ ơn Chúa
mà làm theo.

4. Bằng cách tin vào những lời tuyên bố về chân lý của Thượng Đế

Nhiều câu không có những lời kêu gọi hay mệnh lệnh trực tiếp, mà chỉ khẳng định một
điều gì đó là chân lý. Thường thường đó là những câu tuyên bố về Thượng Đế có kèm theo
một lời kêu gọi con người phải làm gì. Ví dụ câu Gi 4:24 “Đức Chúa Trời là thần nên ai thờ
phượng Ngài phải lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ lạy.” (Xem Xu 19:4-6 Thi 9:7-10.). Có câu chỉ
tuyên bố chân lý, không có kêu gọi (Xem Xu 34:6-7 Thi 8:1 24:1-2). Có thể những câu gần đó
có nói tới mệnh lệnh liên hệ ít nhiều tới chân lý đó, nhưng không trực tiếp liên hệ.
Không phải vì chúng ta tin mà những lời đó trở thành chân lý. Đó là chân lý dù chúng ta
tin hay không. Chúng ta chỉ tiếp nhận và cảm ơn Thượng Đế. Tuy nhiên, kinh nghiệm
chúng ta về chân lý còn tùy thuộc chúng ta có hành động theo ý đó hay không. Thượng Đế
là Đấng tha thứ, nhưng kinh nghiệm về sự tha thứ của tôi còn tùy thuộc tôi có ăn năn tội
lỗi, xưng ra và nhận sự chết của Chúa làm căn bản cho sự xóa tội không. Chúng ta cần có
đức tin như trẻ thơ để nhận những điều Kinh Thánh nói về Thượng Đế và những điều Ngài
làm.

5. Bằng cách làm theo những điều giáo huấn trực tiếp

Những điều giáo huấn nầy không hẳn phân biệt với 4 điểm kia, nhưng dạy trực tiếp về
Thượng Đế và công việc Ngài. Những giáo huấn nầy không có hình thức mệnh lệnh hoặc
kêu gọi trực tiếp.

Như I Cô 13 nói về tình yêu thương của người Cơ-đốc. Phao-lô không hề bảo, “anh em
phải yêu thương như thế nầy” Ông chỉ dạy, “Tình thương là như vậy” nhưng sự kêu gọi và
thách thức gián tiếp rất mạnh mẽ. Tôi cảm thấy ngay đó là điều tôi phải làm. Nếu tôi không
có, tôi phải nhờ Thượng Đế giúp tôi yêu thương như chương Kinh Thánh đã mô tả. Đối với
những lời dạy dỗ như vậy, tôi cần đáp ứng như thế nào? Trước hết, tôi nhìn nhận đó là ý
muốn Thượng Đế đối với tôi. Rồi tôi tìm cách tuân theo, nhờ vào sức mạnh của Thượng
Đế.

HIỂU BIẾT KINH THÁNH

Sau khi bạn biết những điều cần thiết để học và giải kinh, vẫn còn một đòi hỏi căn bản
nữa là bạn phải khát khao lời Thượng Đế. Nếu bạn đói khát Thượng Đế và chân lý Ngài,
bạn sẽ đọc Kinh Thánh đọc đi đọc lại mãi cho thấm nhuần chân lý.

Nếu bạn không có niềm xác tín sâu xa rằng Lời Thượng Đế là 100% chân thật và cần
thiết cho đời sống bạn, thì hãy cầu nguyện như Đavít rằng: “ Xin hãy dựng trong con một
tấm lòng trong sạch, và làm mới lại con một thần linh ngay thẳng” (Thi 51:10), và cầu xin
Ngài giúp bạn có thể nói như Đa-vít: “Tôi yêu luật pháp Ngài biết bao! Trọn ngày tôi suy
gẫm về luật pháp ấy” Hãy cầu nguyện trong khi đọc và đọc trong khi cầu nguyện.

Rồi phải biết rằng sự học hỏi của bạn đòi hỏi bạn đáp ứng Lời Thượng Đế. Đó không
phải chỉ là phân tích phê bình một quyển sách, nhưng là đối diện với Thượng Đế hằng
sống. Thượng Đế chờ đợi bạn tăng trưởng trong sự vâng phục, tin tưởng, và yêu thương
đối với Ngài và Lời Ngài, và Ngài sẽ giúp bạn từng bước một. Tóm lại, nhờ hồng ân Ngài,
bạn sẽ hiểu biết Kinh Thánh.

You might also like