You are on page 1of 6

Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2015

THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC

PROTEASE TINH SẠCH TỪ TÔM SÚ Penaeus monodon


VÀ MỘT SỐ TÍNH CHẤT CƠ BẢN

PURIFICATION AND CHARACTERIZATION OF PROTEASE


FROM BLACK TIGER SHRIMP Penaeus monodon
Nguyễn Lệ Hà1
Ngày nhận bài: 14/5/2014; Ngày phản biện thông qua: 18/8/2014; Ngày duyệt đăng: 10/6/2015

TÓM TẮT
Nghiên cứu đã thực hiện tinh sạch protease từ gan tụy tôm sú và sử dụng để xác định một số tính chất cơ bản.
Hệ protease tôm gồm ít nhất năm loại khác nhau, với ba loại chính quyết định hoạt tính của chúng có phân tử lượng từ
20.200 - 25.000 Da. Protease gan tụy tôm thuộc nhóm protease serine, trong đó các enzyme tựa trypsin đóng vai trò chủ
đạo hoạt động.
Từ khóa: Tôm sú, protease, enzyme tiêu hóa, trypsin, chymotrypsin
ABSTRACT
Proteases were purified from hepatopancreas of Black Tiger Shrimp Penaeus monodon. Protease fraction in shrimp
consisted of at least five different proteases, three of them (with molecular weights from 20.200 - 25.00 Da) were mainly
responsible for the fraction activity. Protease from shrimp Penaeus monodon belonged to serine proteases with trypsin-like
responsible for the main activity.
Key words: Black Tiger shrimp, protease, digestive enzyme, trypsin, chymotrypsin

I. ĐẶT VẤN ĐỀ protease trong dạ dày, ruột và gan tụy của nhiều động
Protease là nhóm enzyme phổ biến trong vật thủy sản ở các vùng nước lạnh (Haard, 1994),
nguyên liệu thủy sản, chịu trách nhiệm chính trong tuy nhiên, thông tin về protease của các thủy sản
quá trình tự phân giải của các protein mô cơ sau nuôi trồng trên địa phận Việt nam vẫn còn rất ít.
khi động vật chết, chúng cũng đóng vai trò gián Nghiên cứu này hướng tới mục đích tinh sạch
tiếp trong hiện tượng biến đen của tôm. Nhiều sản protease từ tôm sú nuôi ở biển Cần Giờ, thành phố
phẩm lên men truyền thống như nước mắm, cá ủ Hồ Chí Minh và xác định một số tính chất của chúng.
chua được sản xuất dựa trên hoạt động của hệ
enzyme có sẵn trong nguyên liệu. Protease cũng II. NGUYÊN LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
đã được tách chiết hoặc tinh chế và sử dụng như Nguyên liệu: Tôm sú sống (cỡ 40-50 con/kg)
phương tiện trợ giúp hiệu quả ở rất nhiều lĩnh vực được vận chuyển từ ao nuôi về phòng thí nghiệm
sản xuất và ngày càng đóng vai trò quan trọng hơn trong bình sục khí, giết chết bằng cách trộn với đá
trong công nghệ thực phẩm. Tiềm năng ứng dụng lạnh sau đó tách nội tạng để riêng trong túi PE, bảo
của protease là vô cùng to lớn, vì vậy, nhiều nhà quản ở -20oC và lấy ra khi cần nghiên cứu, thời gian
nghiên cứu đã thực hiện tách chiết chúng từ các bảo quản không quá bốn tuần.
nguyên liệu khác nhau và xác định tính chất để Tinh sạch protease: Toàn bộ quá trình tách
ứng dụng vào thực tế sản xuất. Cho tới thời điểm chiết và tinh sạch enzyme được thực hiện ở nhiệt
hiện tại, chúng ta đã có khá nhiều thông tin về các độ 0-4oC. Nội tạng tôm được nghiền nhỏ và chiết rút

1
TS. Nguyễn Lệ Hà: Trường Đại học Công nghệ thành phố Hồ Chí Minh

32 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG


Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2015

bằng Tris-HCl 0,05M pH7,5 theo tỉ lệ nguyên liệu: Độ bền nhiệt của protease: khảo sát bằng
dung môi 1: 3(w/v) trong 60 phút sau đó ly tâm (6000 cách ủ enzyme ở nhiệt độ quan tâm 30 phút, sau
vòng/ph, 15 phút) thu dịch chiết, kết tủa dịch chiết đó đo hoạt tính còn lại bằng phương pháp Amano.
với (NH4)2SO4 70% trong 70 phút rồi ly tâm (tương Ảnh hưởng của một số ion kim loại đến hoạt
tự như trên) sau đó loại muối qua đêm bằng màng độ protease: nghiên cứu bằng cách bổ sung chất
thẩm tích. Cặn thu được hòa tan trong đệm photphat định thử với nồng độ 0,001M vào phản ứng xác định
pH7 rồi đem tách trên sắc ký lọc gel Bio-Gel P-100 hoạt tính enzyme.
sử dụng cột 50x1,5cm của Bio- Rad. Tốc độ dòng Ảnh hưởng của một số chất ức chế đặc hiệu
0,14 ml/ phút, thu phân đoạn (2ml/phân đoạn). đến hoạt độ protease: xác định bằng cách ủ chất
Xác định trọng lượng phân tử của protease: định thử với cùng thể tích enzyme sao cho đảm bảo
Dùng phương pháp điện di Zymogram trên điện di đúng nồng độ thích hợp cần thiết, giữ ở 250C trong
đứng Bio-Rad với gel gom 4%, gel phân tán 12% có
15 phút (Garcia-Carreno, 1992), sau đó xác định
bổ sung cơ chất casein 0,1% ở hiệu điện thế 110V,
hoạt tính protease còn lại.
cường độ dòng điện 30A trong thời gian hai giờ.
Xác định hàm lượng protein: Hàm lượng III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
protein được xác định theo phương pháp Bradford
1. Tinh sạch protease từ tôm sú
(Bradford, 1976) dùng albumin huyết thanh bò làm
chất chuẩn.
Xác định hoạt độ protease: thực hiện theo
phương pháp Amano (Amano, 2002) dùng casein
từ sữa (Merck) làm cơ chất. Một đơn vị hoạt độ
protease (U) được định nghĩa là lượng enzyme để
tạo ra lượng amino acid tương đương với 100µg
tyrosine trong 60 phút ở điều kiện nhiệt độ 37±0,5 oC.
Ảnh hưởng của pH, nhiệt độ, nồng độ muối
NaCl đến hoạt độ protease: được xác định bằng
cách cho enzyme tác dụng với cơ chất casein ở các
pH, nhiệt độ, nồng độ NaCl quan tâm khi xác định Hình 1. Sắc ký đồ lọc gel tinh sạch chế phẩm enzyme CPE
hoạt độ. protease nội tạng tôm
Quá trình tinh sạch protease tôm được tóm tắt cho thấy hiệu quả cao của công đoạn tinh sạch:
trong bảng 1. Sắc ký lọc gel thực hiện trên protease phần lớn protein có hoạt tính thấp được loại bỏ, nhờ
tôm sú ghi nhận một đỉnh hoạt độ chủ yếu duy nhất vậy, protease thu nhận có hoạt tính riêng cao và độ
(hình 1) không hề trùng lắp với đỉnh protein ở phía sau tinh sạch tăng lên 16,27 lần.
Bảng 1. Tóm tắt quá trình tinh sạch protease
Tổng hàm lượng Tổng đơn vị hoạt độ protease Hoạt độ riêng Hiệu suất Độ tinh sạch
Bước tinh sạch
protein (mg) (U) (U/mg protein) (%) (lần)

Dịch chiết 655,78 16132,50 24,60 1,00 1,00


Chế phẩm enzyme 169,72 10025,86 59,07 62,15 2,40
Lọc gel 9,75 3902,40 400,25 24,19 16,27

2. Trọng lượng phân tử của protease trong hệ protease tôm nhưng hoạt tính thật sự rất
Điện di đồ protease tôm sú có năm vạch, với ba nhỏ, gần như không đáng kể.
vạch rõ ràng tương ứng với ba protease A, B, C có Nếu so sánh hệ protease trong nội tạng tôm sú
phân tử lượng 20.200, 22.000 và 25.000 Da. Dựa Việt Nam với hệ protease trong bộ phận tiêu hóa ở
vào độ lớn và rõ ràng của vạch có thể suy ra đây tôm sú Đài Loan (Jiang, 1991) ta sẽ thấy một số khác
là ba protease chủ yếu trong nội tạng tôm, trong đó biệt: Protease trong tôm Việt nam có năm loại so với
loại B tỏ ra chiếm ưu thế hơn cả, sau đó là C và cuối bốn ở tôm Đài Loan. Tuy nhiên điểm đáng chú ý là ở
cùng là A. Hai vạch protease D, E ở phía trên có cả hai loại tôm đều có ba protease chủ yếu với trọng
phân tử lượng lần lượt là 35.000 và 40.200 Da. Sự lượng phân tử tương đối thấp và gần nhau, mặc dù
mờ nhạt của các vạch này chứng tỏ chúng tồn tại protease trong tôm Việt Nam đang được nghiên cứu

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 33


Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2015

có phân tử lượng hơi cao hơn một chút (20.200, duy trì hoạt độ tốt (hơn 80% so với cực đại) khi
22.000, 25.000 Da) so với 18.500, 20.900 và 23.300 tăng nhiệt độ lên tới 670C. Việc tiếp tục tăng nhiệt
Da (bao gồm hai trypsin và một chymotrypsin). Điều độ lên cao nữa có tác dụng làm giảm hoạt tính của
này khá tương đồng với kết luận được rút ra khi protease nhanh và gần như bị vô hoạt tại 870C. Nhiệt
nghiên cứu về protease trên bốn loài tôm P. vannamei, độ tối thích của protease từ nội tạng và đầu tôm
P. monodon, P. stylirostris và P. californiensis của sú 620C thấp hơn so với protease từ nội tạng tôm
Albuquerque-Cavalcanti (2001), các protease chính P. orientalis (Oh và cộng sự, 2000) là 700C và cao
(được xác định là trypsin) có trọng lượng phân tử hơn so với tôm P. kerathurus và P. japonicus là
trong khoảng 17.000-22.000 Da. Nghiên cứu trên cá 500C (Galgani, 1984). So với tôm sú P. monodon
chỉ vàng Pricanthus macracanthus đánh bắt ở Thái của Đài loan với nhiệt độ tối thích là 55 và 650C
Lan (Pham, 2006) cũng xác định loại trypsin trong (Jiang, 1991) và tôm bộp, tôm rảo đánh bắt từ biển
ruột cá này có phân tử lượng 23.800 Da, Simpson (Nguyễn Văn Lệ, 1996) hoạt động thích hợp nhất ở
(1984) thì lại chỉ ra phân tử lượng của trypsin ở cá 550 và 600C, tôm sú Việt Nam chỉ thể hiện hoạt tính
tuyết Atlantic, cá tuyết Greenland lần lượt là 24.000 tối đa ở một nhiệt độ là 620C. Protease trong tôm sú
và 23.500 Da. nuôi cũng có nhiệt độ tối thích cao hơn so với của
protease thịt tôm là 500C theo công bố của
Nguyễn Việt Dũng (1999), điều này cho thấy hệ
protease trong nội tạng và thịt tôm không giống
nhau. Protease nôi tạng cá thu, cá ngừ và gan mực
ống đánh bắt ở biển Việt Nam cũng có nhiệt độ tối
thích khá cao là 550C (Đỗ Văn Ninh, 2004).
Như vậy, protease tôm sú nuôi Việt Nam có
nhiệt độ tối thích khá cao và đây chính là một lợi
thế lớn cho ứng dụng vào sản xuất vì sẽ khống chế
được khá nhiều vi sinh vật gây thối.

Hình 2. Điện di đồ Zymogram protease tôm sú 4. Độ bền nhiệt của protease sau tinh sạch
(Độ pha loãng protease sau tinh sạch đưa vào giếng 1:5 lần, Trong hình 4 là đồ thị thể hiện độ bền nhiệt của
giếng 2: 25 lần, giếng 3: 50 lần, giếng 4: 100 lần, giếng 5: 500 lần)
protease tôm sú ở các nhiệt độ khác nhau. Chúng
3. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến hoạt độ protease tỏ ra bền với nhiệt độ trong khoảng 37-520C, thậm
Ảnh hưởng của nhiệt độ đến hoạt độ protease chí ở 520C, protease còn hơn 90% hoạt độ, chỉ từ
tinh sạch được biểu diễn trên đồ thị trong hình 3. nhiệt độ 570C trở đi, con số này mới giảm nhanh và
bị vô hoạt gần như hoàn toàn sau 30 phút ủ ở 770C.
Nghiên cứu trên protease nội tạng tôm Penaeus
orientalis của Oh và cộng sự (2000) về độ bền nhiệt
có khá nhiều điểm tương đồng với tôm sú Penaeus
monodon đang thực hiện (mặc dù tôm sú tỏ ra bền
nhiệt hơn một chút). Với cùng thời gian ủ 30 phút ở
nhiệt độ quan tâm sau đó xác định hoạt tính còn lại
bằng cơ chất casein, protease nội tạng tôm Penaeus
orientalis cũng hầu như không giảm hoạt tính trong
khoảng 40 - 500C, hoạt động rất tốt ở 550C (còn hơn
80% hoạt tính) và chỉ giảm mạnh khi tăng nhiệt độ lên
Hình 3. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến hoạt độ protease
hơn 60oC và gần như mất hoạt tính ở 700C.
Protease tôm sú thể hiện hoạt tính tốt ở vùng Nghiên cứu của Đỗ Văn Ninh (2004) trên
nhiệt độ cao 47 - 670C, đạt giá trị tối đa ở 620C. protease nội tạng cá thu, cá ngừ và gan mực ống sau
Chúng hầu như không hoạt động tại khoảng gần 00C tinh sạch bằng sắc ký lọc gel cho kết quả hoạt độ còn
và trên đó, tăng rất ít ở nhiệt độ dần đạt tới 120C (chỉ lại sau khi ủ 30 phút ở nhiệt độ 600C khoảng 50%,
thể hiện 2,71% hoạt tính so với cực đại), ngay cả cao hơn không nhiều so với protease trong đầu tôm
khi tăng lên thành 270C thì chúng cũng chỉ đạt được bộp và tôm rảo (Nguyễn Văn Lệ, 1996). So với hai
chưa tới 17% hoạt tính. Hoạt độ protease sau đó nghiên cứu trên, protease tôm sú tỏ ra bền nhiệt hơn
tăng đều và mạnh hơn, đạt giá trị cực đại tại 620C, khi ở 620C vẫn còn gần 70% hoạt tính. Tuy nhiên,

34 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG


Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2015

có vẻ như môi trường sống đã ảnh hưởng lớn đến Nếu so với nghiên cứu của Oh và cộng sự
đặc điểm sinh lý và sinh hoá của các quần thể sống (2000) về tính chất của protease từ nội tạng tôm
trong đó, các loài thủy sản nuôi trồng và đánh bắt ở Penaeus orientalis hoạt động tốt trong môi trường
vùng biển nước ta có cùng chung đặc điểm nhiệt độ pH 6-9 thì protease nội tạng tôm sú Penaeus
môi trường sống là vùng nước ấm nên ảnh hưởng monodon có điểm tương đồng là chúng cũng hoạt
của nhiệt độ đến hoạt động của hệ enzyme cũng động tốt ở vùng trung tính đến kiềm nhẹ pH 6 - 9
khá tương đồng: nhiệt độ tối thích và khoảng nhiệt (hoạt tính đạt được từ khoảng 50% trở lên). Tuy
độ thích hợp cho các enzyme này hoạt động thường nhiên, protease tôm sú nhạy cảm với pH hơn nhiều,
khá giống nhau, dao động trong khoảng 55 - 650C, ở pH 7,5 chúng hoạt động tốt nhất nhưng hoạt tính
độ bền nhiệt của chúng dù có khác biệt nhưng chung này giảm nhanh khi giá trị pH thay đổi từ trị số tối ưu
một đặc điểm là bền hơn hẳn so với các protease của về cả hai phía kiềm và acid.
sinh vật sinh trưởng nơi nước lạnh. Kết quả của nghiên cứu này có sự khác biệt
so với công trình của tác giả Phạm Thị Trân Châu
cùng cộng sự: pH tối ưu CPE protease từ đầu tôm
biển là pH 8,5. Nghiên cứu của Nguyễn Việt Dũng
(1999) về protease cơ thịt tôm sú cho thấy enzyme
này hoạt động tốt nhất ở pH 6,6 hơi thấp hơn so với
pH tối ưu của protease từ nội tạng tôm.
Có một điểm cần nhấn mạnh là, protease nội
tạng tôm tỏ ra rất nhạy cảm với pH trong môi trường
trung tính đến kiềm pH 6-9, việc tăng hoặc giảm
Hình 4. Độ bền nhiệt của protease ở các nhiệt độ khác nhau nhẹ pH từ giá trị tối ưu có tác dụng làm hoạt tính
Như vậy, protease tôm sú có độ bền nhiệt tốt protease giảm đáng kể. Đây sẽ là lưu ý cần ghi nhớ
so với các loại thủy sản khác đã được nghiên cứu. khi ứng dụng enzyme này vào quá trình thủy phân
Đây thật sự là lợi thế đáng kể khi áp dụng vào thủy protein để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho protease
phân protein và chế biến thực phẩm nói chung để hoạt động và đạt kết quả mong muốn.
điều khiển phản ứng thuận lợi, bởi vì hầu hết các vi 6. Ảnh hưởng của nồng độ muối ăn đến hoạt độ
sinh vật gây thối không phát triển tốt ở khoảng nhiệt protease sau tinh sạch
độ cao mà ở đó protease tôm sú vẫn hoạt động tốt Kết quả xác định hoạt tính protease nội tạng
37 - 570C, thậm chí 620C. tôm ở các nồng độ muối ăn khác nhau được trình
5. Ảnh hưởng của pH đến hoạt độ protease bày trong đồ thị ở hình 6. Kết quả thực nghiệm cho
Đồ thị trong hình 5 thể hiện mối quan hệ giữa thấy, nồng độ muối ăn ảnh hưởng rất lớn đến hoạt
độ pH và khả năng hoạt động của protease nội tạng tính protease của tôm. Nồng độ muối 0 - 1% cho kết
tôm sú. quả hoạt tính protease tôm đạt cực đại. Hoạt tính
Kết quả nghiên cứu cho thấy protease từ nội này giảm khá đều khi nồng độ muối tiếp tục tăng lên.
tạng và đầu tôm đều thể hiện hoạt tính rất yếu ở
vùng axit pH từ 1 đến 5, tăng nhanh ở pH 6 trở lên,
đạt cực đại tại pH 7,5 rồi giảm nhanh khi pH tăng
trong vùng kiềm, điều này phù hợp với đặc điểm hệ
enzyme của tôm là không có pepsin hoạt động trong
môi trường axit (Haard, 1994).

Hình 6. Ảnh hưởng của nồng độ muối ăn đến độ hoạt động


của protease từ nội tạng và đầu tôm
So sánh với kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của
nồng độ muối đến hoạt tính protease có nguồn gốc
thực vật như bromelin, papain thì protease của tôm
Hình 5. Ảnh hưởng của pH đến độ hoạt động của protease chịu muối tốt hơn nhiều. Các enzyme này thậm chí
thu nhận từ nội tạng và đầu tôm sú còn giữ được hoạt tính tốt hơn so với protease từ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 35


Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2015

nội tạng cá thu, cá ngừ và gan mực ống. Kết quả enzyme tựa trypsin và tựa chymotrypsin ở tôm sú
nghiên cứu của Đỗ Văn Ninh (2004) trên protease Đài Loan (Jiang, 1991). Roy và cộng sự (1996) cũng
nội tạng cá và gan mực cho thấy, các protease này cho biết hiện tượng tương tự quan sát được đối với
có thể duy trì hoạt động ở mức 50 - 60% so với cực collagenase thuộc nhóm protease serin trên đối
đại tại nồng độ muối 6 - 7%, tuy nhiên các protease tượng cua Carcinus maenas. Tất cả những điều này
tôm sú còn tỏ ra ưu việt hơn vì giữ được cùng mức cho phép suy luận, liên kết sulfit đóng vai trò quan
50 - 60% khi nồng độ muối trong môi trường là 13%. trọng tạo nên cấu trúc đặc trưng để protease thể
Hoạt độ tốt của protease nội tạng tôm giúp giải thích hiện được đầy đủ chức năng của mình.
hiện tượng “chín” của mắm tôm ở nồng độ muối cao
8. Ảnh hưởng của một số chất ức chế đến hoạt
nhanh hơn so với mắm cá sản xuất theo phương
độ protease tôm sú
pháp cổ truyền.
Để tìm hiểu cụ thể hơn về các enzyme có mặt
7. Ảnh hưởng của một số kim loại đến hoạt độ trong hệ protease nội tạng tôm, nghiên cứu đã thử
protease tôm sú hoạt tính protease khi có mặt các chất ức chế đặc
Một số nghiên cứu của tác giả trong và ngoài hiệu, kết quả được trình bày trong bảng 2.
nước cho thấy, muối kim loại có thể ảnh hưởng đến Bảng 2. Hoạt tính còn lại (%) của protease
hoạt độ protease. Nghiên cứu đã thử xem xét ảnh nội tạng tôm sú khi có mặt một số chất
hưởng của một số kim loại thường có vai trò quan ức chế đặc hiệu
trọng tới hoạt độ protease nội tạng tôm sú, kết quả
Hợp chất thêm vào Nồng độ Hoạt độ
thể hiện ở hình 7. phản ứng chất thêm vào còn lại (%)
Kết quả thực nghiệm cho thấy, các kim loại
Cu2+, Mn2+ và Fe2+ có tác dụng hoạt hóa protease Đối chứng - 100
PMSF 0,1mM 15
tôm sú, trong đó đáng kể nhất là Mn2+, hoạt độ tăng
SBTI 10mg/ml 32
lên 169,6 %, kế tiếp là Cu2+ 180,9%. Fe2+ cũng có tác TLCK 0,1mM 39
dụng làm tăng hoạt độ protease nhưng không đáng TPCK 0,1mM 81
kể bằng hai trường hợp Cu2+ và Mn2+ (106,9%). EDTA 1 mM 98
1,10-phenanthroline 1 mM 98
Iodoacetate 1 mM 97

Hoạt tính protease tôm sú bị giảm mạnh (chỉ


còn 15%) khi có mặt PMSF, chất ức chế đặc hiệu
của nhóm protease serin, là bằng chứng cho biết
protease tôm sú là thành viên của nhóm này. Đây
là điều được khẳng định lại qua kết quả xác định
hoạt độ khi thêm SBTI vào phản ứng, hoạt độ còn
lại lần lượt là 32 và 33% đối với nội tạng và đầu
Hình 7. Ảnh hưởng của các ion kim loại đến hoạt độ tôm. SBTI là chất ức chế các protease serin, nó kìm
protease tôm sú hãm trypsin, ít nhạy hơn một chút với chymotrypsin.
Các ion kim loại Mo2+, Pb2+, Mg2+, Ba2+, Co2+ Khi có mặt TLCK (chất ức chế trypsin), hoạt độ
hầu như không gây ảnh hưởng đáng kể đến hoạt độ protease còn lại chỉ đạt con số 39%, như vậy, các
protease. Điều này cho phép suy luận chúng không protease chủ yếu trong tôm sú thuộc về loại enzyme
hề liên kết với các protease trong tôm. Hg2+ thì lại tựa trypsin. Ngoài ra, trong tôm sú còn các enzyme
có tác dụng ức chế protease khá rõ, hoạt độ còn tựa chymotrypsin vì TPCK làm giảm nhẹ hoạt tính
lại là 53,66%. Tác dụng ức chế của Zn2+ cũng đáng protease, chỉ còn lại khoảng 80%. EDTA (chất kìm
ghi nhận, tuy nhiên hoạt độ còn lại lớn hơn trường hãm các metalloprotease), 1, 10-phenanthroline
hợp của Hg2+. Klee (1998) thông báo rằng, hai kim (đặc hiệu cao đối với kẽm trong trung tâm hoạt
loại Hg2+ và Zn2+ có thể tạo ra liên kết với nhóm -SH động của metalloprotease) và iodoacetic acid hầu
của enzyme và do đó làm giảm hoạt tính protease. như không ảnh hưởng đến hoạt tính protease, cho
Như vậy, rất có thể, tác dụng ức chế của Hg2+ và thấy rằng, trong nội tạng tôm sú có lẽ không có
Zn2+ đối với protease đầu tôm là do chúng liên kết metalloprotease (như collagenase chẳng hạn) hoặc
với một trung tâm hoạt động không đặc hiệu của tồn tại nhưng với hoạt tính rất thấp.
enzyme này. Báo cáo về tác dụng ức chế của hai Điều khẳng định ở trên xác nhận lại một số điểm
kim loại Hg2+ và Zn2+ cũng được ghi nhận trên một đã được các nhà khoa học ghi nhận. Các nghiên cứu

36 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG


Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2015

thực hiện rải rác ở khắp thế giới trên 50 loài giáp cho việc ứng dụng protease này vào chế biến thực
xác cung cấp thông tin thú vị là hệ tiêu hóa của phẩm vì ức chế được nhiều vi sinh vật gây thối, giúp
các động vật này có hoạt tính proteolytic vô cùng tăng nhanh vận tốc phản ứng thủy phân và gìn giữ
cao (Tsai, 1991), có lẽ do tập quán tiêu thụ thức chất lượng thực phẩm. Hoạt tính protease thể hiện
ăn rất giàu protein (thức ăn nuôi tôm công nghiệp tốt nhất ở pH 7,5, nồng độ muối ăn NaCl 1%. Hoạt
thường chứa 40-50% chất đạm), trong đó, loại độ protease giảm khi có mặt của một số ion kim loại,
protease chính là trypsin và chymotrypsin, với
đặc biệt là Hg2+. Ion Mn2+ làm tăng hoạt tính của
hoạt tính của trypsin chiếm hơn nửa tổng hoạt tính
protease tôm sú.
protease (Ezquerra, 1997).
Kết quả hoạt tính còn lại khi phản ứng với
IV. KẾT LUẬN chất ức chế đặc hiệu cho phép khẳng định,
Protease từ nội tạng tôm sú có ít nhất năm loại protease nội tạng tôm thuộc nhóm protease
protease khác nhau, trong đó, ba protease chiếm serine, trong đó các enzyme tựa trypsin đóng vai
vai trò hoạt động chủ đạo có phân tử lượng 20.200 trò chủ đạo hoạt động. Trong nội tạng tôm sú cũng
đến 25.000 Da. Protease nội tạng tôm sú bền nhiệt, có mặt các enzyme tựa chymotrypsin và hầu như
hoạt động tốt nhất ở 620C. Đây là một lợi thế lớn không có metalloprotease.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


Tiếng Việt
1. Nguyễn Việt Dũng (1999), Nghiên cứu sự biến đổi của tôm sau khi chết và phương pháp bảo quản nguyên liệu, Luận án Tiến
sĩ Kỹ thuật, Trường Đại học Thủy sản Nha Trang.
2. Nguyễn Văn Lệ (1996), Nghiên cứu và sử dụng proteinaza đầu tôm trong chế biến thuỷ sản, Luận án Phó tiến sĩ khoa học sinh
học, Trường Đại học Khoa học tự nhiên - Đại học Quốc gia Hà Nội.
3. Đỗ Văn Ninh, (2004), Tối ưu hóa quá trình phân giải protein của proteza trong thịt cá và thử nghiệm sản xuất sản phẩm mới
từ protein được thủy phân, Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật, Trường Đại học Thủy sản Nha Trang.
Tiếng Anh
4. Amano, (2002), Protease N “Amano” - Assay method for Protease activity (Amano method).
5. Bradford, M.M., (1976), A rapid and sensitive for the quantitation of microgram quantitites of protein utilizing the principle
of protein-dye binding, Analytical Biochemistry 72: 248-254.
6. Cano-Lopez,A., Simpson, B.K., & Haard,N.F., (1987), Extraction of carotenoprotein from shrimp process wastes with the aid
of trypsin from Atlantic cod, J. Food Science, 52, 503-504, 506.
7. Ezquerra, J.M., Garcia-Carreno, F.L. & Haard, N.F., 1997, Effect of feed diets in digestive protease from the hepatopancreas
of white shrimp (Penaeus vannamei), J. Food Biochem, 21, 401-419.
8. Garcia-Carreno, F.L., & Haard, N.F.,(1992), Characterization of proteinase classes in Langostilla (Pleuroncodes planipes) and
crayfish (Pacifastacus astacus) extracts, J. of Food Biochemistry, 17,97-113.
9. Haard, N.F., (1986), Atlantic cod protease, Characterization with casein and milk substrate and influence of separose
immobilization on salt activation, temperature characteristics and milk clotting reaction, Journal of Food Science, 51,
316-326.
10. Jiang, S.T., Moody, M.W. & Chen, H.C., (1991), Purification and characterization of proteases from digestive tract of grass
shrimp (Penaeus monodon), J. Food. Sci. 56, 322-326.
11. Oh, E.S., Kim, D.S., Kim, J.H. & Kim, H.R., (2000), Enzymatic properties of a protease from the hepatopancrease of shrimp,
Penaeus orientalis, J. Food Biochem, 24, 251-264
12. Shamsuzzaman, K., & Haard N. F. (1984), Purification and characterization of a chymotripsin-like protease from gastric
mucosa of harp seal (Paophilus groelandicus), Canadian Journal of Biochemistry and Cell Biology, 62, 699-708.
13. Stefansson, G., & Steingrimsdottir, U. (1990), Application of enzymes for fish processing in Iceland - present and future
aspects, In M. N. Voigt & J. R. Botta (Eds.), Advances in fisheries technology for increased profitability (pp. 237-250).
Lancaster, PA: Technomic Publication.
14. Strom, T., & Raa, J. (1982), A newprocessing method for small pelagic fishes. Infofish Marketing Digest, 3, 24–27.
15. Tsai I.H., Lu P.J and Chuang J.L. (1991), The midgut chymotrypsins of shrimps (Penaeus monodon, Penaeus japonicas and
Penaeus penicillatus), Biochimica et Biophysica Acta 1080: 59-67.

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 37

You might also like