You are on page 1of 44

LỤC HÀO

KỸ PHÁP VÀ ỨNG DỤNG


Tác giả: Vương Hổ Ứng
Dịch giả: An Hạ

1
MỤC LỤC

Lời Dịch giả 3


Trường sinh mười hai cung bí pháp 5
Bí mật của Phi phục 9
Không vong hoạt dụng 12
Quẻ do ai đến gieo! 14
Quẻ đoán mộng 24
Lục hào xạ phúc 26
Lục hào đoán tướng mạo 28
Ngàn vạn không thể bổ 31
Giếng nước nghiên cứu cùng nghiệm chứng luận 33
Con đường trong Lục hào 37
Đoạn bệnh tất lấy Quan quỷ là bệnh sao? 41

2
LỜI DỊCH GIẢ

Sau khi dịch xong quyển Lục hào Chiêm nghiệm Bí pháp, tôi dự định dịch
tặng quý Dịch hữu một đoạn ghi chép trong lớp học trung – cao cấp của Vương Hổ
Ứng nhưng sau khi xem xét mới thấy đoạn ghi chép đó là của một học viên nên khá
lộn xộn và khó dịch. Tuy nhiên, bên cạnh đó các kiến thức trong đoạn ghi chép lại
quá cao siêu bao hàm nhiều kiến thức đọc khá khó hiểu. Do đó, tôi tạm dừng lại tìm
một quyển khác dịch tặng Dịch hữu.

Bất ngờ là quyển chọn được tuy cũng là tạp ghi của Vương Hổ Ứng nhưng lại
có một số luận giải giải đáp đúng những thắc mắc của bản thân, đặc biệt về việc
dùng quẻ Mai hoa và luận theo Lục hào. Do vậy, trân trọng dịch tặng các Dịch hữu
quyển sách mỏng này trước và sẽ sớm dịch, biên tập đoạn ghi chép trung cao cấp đã
hứa để sớm tặng quý Dịch hữu những kiến thức có ích.

Trong quá trình dịch sách, có một số kiến thức nhỏ tôi nắm bắt được cũng xin
giải trình để quý Dịch hữu có thể ngày càng chuẩn xác hơn trong việc gieo và dự
đoán quẻ Lục hào, xin nói sơ qua ở đây:

Gieo quẻ: Vương Hổ Ứng đã nói rõ, để luận đoán chính xác thì việc gieo quẻ
cũng cần chú ý rất nhiều. Một chú ý nhỏ trong việc gieo quẻ đó là lấy thời gian theo
Lịch Tiết khí, với các lý do sau:

1. Lịch sử: Cổ đại không dùng lịch có ngày tháng chính xác như hiện nay mà
dùng lịch theo Tiết khí như Lập xuân là bắt đầu năm mới, Lập hạ là vào
hè. Ngay các môn Huyền học khác cũng rất chú trọng Tiết khí để có thể
lấy được các căn cứ chính xác khi giải đoán.
2. Nghiệm lý: Bản thân trong quá trình nghiên cứu Tử vi trước khi bước sang
Lục hào cũng từng rất đau đầu với các lá số chưa chuẩn giờ. Trong giới Tử
vi cũng tranh cãi rất nhiều về giờ được tính theo giờ hiện đại là không
chính xác. Ngay cả Mỹ cũng có một trang web để xác định giờ Mặt trời
mọc theo từng ngày, từng mùa trong năm, theo đó như giờ Ngọ được xác
định trùng khớp với việc lấy giờ Ngọ theo cọc chôn lấy bóng Mặt trời.
Theo Tiết khí biến đổi, giờ (canh giờ) cũng biến đổi theo.
3. Từ các ví dụ của Vương Hổ Ứng: Trong quá trình dịch quyển sách đầu
tiên, bản thân tôi nhiều quẻ không lấy được chính xác. Thoạt đầu nghĩ sách
có gì đó sai sót. Nhưng sau khi chuyển đổi sang lịch Tiết khí thì tất cả các
quẻ đều được lập chính xác.

Do vậy, việc lập quẻ theo lịch Tiết khí là khá chính xác đối với quẻ dịch.

3
Luận đoán: Trong luận đoán có 2 phần chính; 1, Lý; 2, Tượng. Tăng San Bốc
Dịch cũng như các sách dịch khác ở Việt nam chủ yếu nói về Lý. Lý là sinh khắc
ngũ hành, phần cơ bản khi luận đoán quẻ. Chưa sách nào nói nhiều về Tượng, ngay
cả sách của Vương Hổ Ứng đã được dịch và phát hành cho đến nay ở Việt Nam cũng
chưa có quyển nào nói rõ về Lý và Tượng. Trong khi đó, Lý dùng để luận đoán về
xu hướng, Tượng luận đoán chi tiết và thiên về ứng kỳ.

Hy vọng, các quyển sách khác được dịch sẽ nói rõ về Lý và Tượng để mọi người
có thể nắm bắt được nhiều hơn khi luận quẻ Lục hào.

Chúc các Dịch hữu càng ngày càng có nhiều nghiên cứu thâm sâu và trải nghiệm
thực tế trong luận đoán

Trân trọng./.

4
Trường sinh mười hai cung bí pháp

Các môn dự đoán đều ít nhiều đề cập đến 12 cung trường sinh, bởi vì phương
pháp dự đoán bất đồng mà quan điểm cũng không nhất trí. Về 12 cung trường sinh
ứng dụng trong lục hào (bốc phệ), cổ nhân chỉ chú trọng đến Sinh Vượng Mộ Tuyệt
còn các phần khác đều không dùng, thật là đối với Bốc Phệ đã lãng phí đi rất nhiều
thông tin dự đoán. Nguyên do vì cổ nhân sử dụng 12 cung trường sinh để cân nhắc
sự cát hung của Dụng Thần làm tiêu chuẩn. Sinh vượng mộ tuyệt cố nhiên có ảnh
hưởng đến cát hung của Dụng Thần, nhưng mà 12 cung trường sinh chân chính là
sử dụng trong biện nghĩa, mà không ở biện cát hung, cát hung chủ yếu do Ngũ Hành
sinh khắc quyết định. Các sách như Bốc Phệ Chính Tông từng giảng thuật qua hàm
nghĩa của thai dưỡng mộ (dưỡng chủ hồ nghi, mộ phần nhiều là ám vị. Hóa bệnh là
thương tổn, hóa thai là câu liên. Hung hóa trường sinh, mạnh mà không tan; cát gắn
với mộc dục, bại mà không thành). Chúng ta trong quá trình dự trắc đối mặt với rất
nhiều sự kiện phức tạp, chỉ có mở rộng các loại tin tức, mới có thể đạt tới mức độ
dự đoán cao, đối với sự việc cần xem có thể luận đoán được những sự tình vi tế.

Tôi trong thời gian thực tiễn đã khám phá ta cách dùng chân chính của 12
cung trường sinh, qua thời gian nhiều lần sử dụng vô cùng ứng nghiệm. Nay viết chi
tiết ra đây.

Trường sinh: nguồn gốc, khởi điểm, cội nguồn, nguồn gốc, gốc rễ, nguyên
thủy, mới ra đời, sinh trưởng, sinh ra, phát sinh, trợ giúp, cứu trợ, dựa vào, chỗ dựa
vững chắc, người giúp đỡ, được cứu vớt, bồi dưỡng, chăm sóc, nhận được, tìm kiếm,
thức tỉnh, ăn cơm…

Mộc dục: Tắm rửa, nhập thủy, thoát y, lỏa thể, dâm loạn, dâm tiết, đại tiểu
tiện, đổ nát, khó coi, vô sỉ, ân trạch, chỗ tốt, làm dịu, chiếu cố, có lợi, bại lộ, nhẵn
bóng; trơ trụi, sáng bóng, bóng loáng, thẳng thắn, hưởng thụ, ngủ, điểm bạc nhược,
yếu kém, nơi trí mạng, từ bỏ phòng vệ, không đề phòng, không có năng lực phòng
hộ…

Quan đái: Mặc quần áo, đội mũ, y phục, đang trang điểm, trang phục, bao
trang, túi xách, trang sức, bề ngoài, cao quý, thăng cấp, vinh dự, khen ngợi, phần
thưởng, tán thưởng, giành được chứng thư, phòng hộ, bảo quản, che đậy, nhập ngũ

Lâm quan: Nhà nước, cơ quan, quốc doanh, quan phủ, ra làm quan, đang làm
quan, có vận làm quan, địa vị, nhân viên công vụ; công chức; viên chức, a dua
nghênh tiếp, nịnh hót, có bệnh, tai họa, cách cái chết (ly tử) không xa (bất viễn),
nguy hiểm, sầu lo, tự lực cánh sinh, tự mình nỗ lực, lớn lên, giai đoạn trưởng thành,

5
sắp thành công, phát nguyện, hứa hẹn, biến hóa, xuất quỷ nhập thần, biến hoá tài
tình, có nam nhân ở bên người

Đế vượng: vinh phát, phát đạt, thăng chức, lên cao, đắc ý, thần khí, tỏ vẻ, ra
vẻ (đắc ý, ngạo mạn), tinh thần hưng phấn, huy hoàng, cực hạn, cao triều, cực điểm,
đến cùng, hết mức, điểm cuối, kết cục, cường đại, mạnh mẽ, hùng tráng, cao lớn, am
hiểu, sở trường, có quyền

Suy: vô lực, lực tiểu, mềm yếu, suy yếu, nhỏ yếu, hư nhược, yếu trí, tàn tạ, sa
sút, tiêu điều, suy tàn, xui xẻo, lùi bước, nhược điểm, nhát gan, nhỏ thấp, không có
chỗ dựa, vô năng, không có năng lực, không có bản lãnh, bất học vô thuật, cao không
được thấp không xong, không dám phản kháng.

Bệnh: hàm nghĩa tật bệnh, ổ bệnh, thương tổn, cần uống thuốc, khuyết điểm,
nhược điểm, nơi bất túc, thiếu sót, tật xấu, chỗ sơ hở, điểm sơ hở, chỗ hiểm (trên
thân thể), địa điểm quan trọng, tâm bệnh, hủ bại, vấn đề, ôn thần, ghét, căm ghét,
căm thù, cừu nhân, nhìn hằn thù, coi là kẻ thù, tìm vui,

Tử: Hàm nghĩa tử vong, chung kết, xong đời, ngưng lại, đọng lại, đáng sợ,
yên tĩnh, trống trải, an tĩnh, tàn tạ, sa sút, tiêu điều, không có sinh khí, không có sức
sống, không để ý, để tâm vào chuyện vụn vặt, đi vào chỗ bế tắc, không linh hoạt,
không thể biến thông, bướng bỉnh ngoan cố, chí có 1 con đường tối, ngây ngô, khô
khan, cứng nhắc, vụng về, nghĩ không thoáng, lòng dạ hẹp hòi, không còn dư địa,
không có đường lui

Mộ: Hàm nghĩa kho tàng, ngăn chặn tứ phía, bao dung, bao hàm, cất chứa,
chôn giấu, ẩn núp, đóng kín, thu thập, quyền hạn, quản lý, quản chế, thuộc về, khống
chế, điều khiển, chỉ huy, thâu tóm, cạm bẫy, không tự do, bị quản thúc, bảo vệ, hộ
vệ, hôn mê, bóng tối trở lực, bế tắc, không lưu loát, không thông suốt, kết thúc, ám
muội, hồ đồ, không minh bạch, mê mẫn, si mê, nghĩ không ra, luẩn quẩn trong lòng

Tuyệt: Hàm nghĩa không có đường lui, nguy hiểm, tuyệt địa, tuyệt cảnh, vách
đá, chia tay, đoạn tuyệt, trận quyết chiến, thất vọng, tâm tro ý lạnh, hết hi vọng, tuyệt
vọng, hết thuốc chữa, không thể ra sức, không thể phát triển được lực lượng, lãnh
khốc vô tình, đình chỉ, biến mất, vô ảnh vô tung

Thai: Mang thai, nhược tiểu, nhỏ tuổi, ngây thơ, sơ cấp, cất bước, công tác
chuẩn bị, tính toán sơ bộ, kế hoạch, hình thành, di truyền, tiên thiên, thiên sinh, bản
tính khó dời, cấu kết, bận tâm, bận lòng, quan tâm, ý tưởng, thai là tiểu mộ, có chút
nghĩ không thông, phản ảnh chậm chạp

6
Dưỡng: Thu dưỡng, nghỉ ngơi, liệu dưỡng, dinh dưỡng, tẩm bổ, bồi dưỡng,
dưỡng dục, dựa vào, trợ giúp, nâng đỡ, dưỡng chủ hồ nghi, hàm ý hoài nghi, không
yên lòng, không nỡ, chột dạ, bất an, quan tâm, mới ra đời, sinh trưởng, ký thác, nhận
làm con thừa tự, nhược tiểu

Ví dụ: Ngày Nhâm Thìn tháng Nhâm Tý năm Đinh Sử, có người xem về thai
sản củ vợ gieo được quẻ Thiên Trạch Lý biến Thiên Thủy Tụng

Lấy Tử Tôn làm Dụng Thần. Tử Tôn thân kim trì thế là điềm mang thai, hào
thai của Tử Tôn là mão mộc lâm hào 2 thai vị, cũng là dấu hiệu mang thai. Nguyệt
Kiến Tý thủy sinh hào thai Quan Quỷ mão mộc, Tý thủy là đất mộc dục của mão
mộc là thai nhi lông tóc chưa hình thành, mới vừa mang thai.

Quẻ này Tử Tôn thân kim tử tại Nguyệt Kiến, trong quẻ Phụ Mẫu phát động
khắc là dấu hiệu không hay. Hào động Phụ Mẫu tị hỏa, hào biến Quan Quỷ dần mộc

7
cùng với Tử Tôn thân kim tạo thành tam hình, sợ rằng thai nhi khó có thể sinh hạ.
Tử Tôn là hào dương, hào dương phát động, quẻ lại thuộc cung Cấn, là nam hài. Về
nguyên nhân chết, Tý thủy là đất tử của Tử Tôn thân kim, lại hình hào thai mão mộc,
Tý thủy là tài, sợ là vợ muốn nạo thai.

Hào 6 huynh đệ tuất thổ được Phụ Mẫu tị hỏa sinh trợ, Nhật Thần xung thành
ám động khắc tài, tài không hiện trên quẻ, nhập mộ tại nhật, tuyệt tại hào động Phụ
Mẫu tị hỏa, quẻ biến du hồn, là tin tức việc hai người chia tay. Phụ Mẫu là chứng
thư kết hôn, lâm Huyền Vũ là ngầm định minh ước, nhập mộ tại hào ám động tuất
thổ là cầm không ra chứng thư kết hôn. Tài phục dưới thế, nhập mộ cũng là tượng
kim ốc tàng kiều. Nói rõ là không có giấy hôn thú, gọi là thê tử chẳng qua là đối
tượng sống cùng mà thôi.

Năm Mậu Dần Tử Tôn gặp tuyệt, lại thành tam hình cần đề phòng.
Quả nhiên là ở chung mà chưa kết hôn, nữ phương mang thai. Sau đến năm Mậu
Dần tháng mão, hai người bởi vì mâu thuẫn cãi nhau, nữ phương khăng khăng muốn
chia tay, tự mình phá thai, buồn bã chia tay. Thai nhi là nam hài.

8
Bí mật của Phi – Phục

Cổ nhân tổng kết ra bốn loại tình huống đối với phi phục. Cụ thể như sau:

① Phi sinh Phục được trường sinh;


② Phục sinh Phi là tiết khí;
③ Phi khắc Phục là tổn hại;
④ Phục khắc Phi là xuất bạo.

Không có pháp tắc luận kỹ lưỡng hơn, trên cơ bản là từ góc độ cát hung luận
hai mối quan hệ đó.

Nhưng từ thực tiễn, việc miêu tả máy móc mối quan hệ của Phi – Phục thiếu
rất nhiều khi giải thích thực tế các sự kiện phức tạp, chỉ có xảo diệu linh hoạt phân
rõ mối quan hệ mới có thể khiến kỹ năng luận quẻ đạt tới cảnh giới cao. Bên dưới là
điểm tâm đắc qua một số ví dụ thực tiễn, hi vọng thông qua những ví dụ này, có thể
làm mọi người từ đó ngộ ra chút đạo lý.

Ví dụ: ngày Ất Dậu tháng Nhâm Thìn năm Bính Tý, Thôi nữ sĩ xem chồng
bao giờ trở về? Được quẻ Hỏa Sơn Lữ biến Bát Thuần Cấn.

9
Lấy Quan quỷ làm Dụng thần. Quan quỷ Hợi Thủy không hiện lên quẻ mà
phục dưới hào ba Thê tài Thân kim, Quan quỷ không xuất hiện, lại được quẻ tên là
Hỏa Sơn Lữ, có tượng ra ngoài, cho nên chồng là trốn đi.

Trong quẻ Tử tôn Thìn thổ trì thế khắc Dụng thần, đoán chắc cãi nhau với
chồng, mắng mỏ chồng mà khiến chồng trốn đi. Thôi nữ sĩ nói đúng là như vậy. Ba
ngày trước (ngày Quý Mùi) vợ chồng có phát sinh tranh chấp, nàng mắng "Cút đi!"
Sau đó đi rửa bát, khi đi ra đã không thấy bóng dáng ông chồng đâu nữa. Đến bây
giờ đã ba ngày, ngay cả điện thoại cũng không them gọi về nhà.

Ta thấy Quan quỷ Hợi Thủy được Nhật sinh, quẻ nội lại có Tài hào Dậu kim
phát động sinh trợ, lại phục tại đất trường sinh, nói rõ chồng ở bên ngoài bình an,
không cần lo lắng.

Như vậy chồng nàng đi đâu? Quan quỷ Hợi Thủy phục tại Cấn cung, Cấn là
Đông Bắc, hẳn là đi hướng Đông Bắc. Quan phục dưới Tài, Tài là nữ nhân, nói rõ

10
chồng ở trong nhà một nữ nhân ở hướng Đông Bắc. Phi thần Thê tài Thân kim là đất
trường sinh của Quan quỷ Hợi Thủy, trường sinh là ý nói người phụ nữ này đối xử
với chồng của Thôi nữ sĩ đặc biệt tốt. Cấn là dừng lại, có ý là định cư, có thể hiểu
nghĩa rộng là quê quán, hào ba là quê hương, lại là hào vị Huynh đệ, tổng hợp các
tin tức mà kết luận thì chồng của Thôi nữ sĩ rất có thể đã về quê ở nhà của chị anh
ta.

Ai ngờ Thôi nữ sĩ nói chồng có khả năng về quê vì quê chồng đúng là ở hướng
Đông Bắc. Nhưng nói là ở nhà của chị thì tuyệt đối là không thể, bởi vì chồng của
cô ý căn bản không có chị.

Ta nói không có chị thì không nói được rồi, dù sao chồng nàng cũng ở trong
nhà một nữ nhân, mà nữ nhân này lại đặc biệt tốt đối với chồng nàng. Thôi nữ sĩ liền
loạn lên truy vấn hai người có quan hệ như thế nào? Ta nói ta đoán chính là quan hệ
chị em mà cô nói anh ta không có chị thì ta cũng không rõ. Gặp quẻ Lục hợp Dụng
thần lại vượng, chồng nhất định sẽ trở về, Dụng thần phục tàng chờ hiện, ngày Đinh
Hợi có khả năng sẽ về. Nếu không về liền ứng ngày Quý Tị Nhật xung. Thế là liền
nói: "Quan hệ thế nào thì 20 ngày nữa chồng cô sẽ về, lúc đó hãy hỏi kỹ anh ta"

Kết quả chồng Thôi nữ sĩ về vào giờ Hợi ngày Đinh Hợi, nói là tâm tình không
tốt về nhà chị ở mấy ngày. Hai người kết hôn mấy năm, Thôi nữ sĩ vậy mà không
biết chồng còn có người chị.

11
Không vong hoạt dụng

Ngày Bính Ngọ tháng Quý Tị năm Bính Tý, một thanh niên hơn 20 tuổi xem
về hôn nhân được quẻ Sơn Thủy Mông biến Thiên Phong Cấu.

Lấy Tài hào làm Dụng thần. Phụ mẫu Dần mộc lâm Ứng là Thê vị, Phụ mẫu
là hôn thú, không vong biểu thị không có kết hôn. Tài hào không hiện lên quẻ, nói
rõ trong sinh hoạt không có phụ nữ, cho nên quẻ này chính là tìm đối tượng. Thế hào
động mà sinh Tài hào, nói rõ anh ta đang theo đuổi người khác. Phụ mẫu cũng người
chủ hôn, không vong biểu thị không có bà mối tham dự. Thê tài Dậu kim phục dưới
thế hào Tử tôn Tuất thổ, nói rõ hắn theo đuổi một cô gái ở rất gần.

Sách nói: "Hào ba hào bốn là quê hương", huống chi Thê tài Dậu kim trường
sinh tại Nguyệt khiến Tị hỏa, thế hào cũng được Nguyệt lệnh sinh, sinh từ cùng một
chỗ, cho nên đoán trước mắt anh ta đang đeo đuổi một cô gái đồng hương. Ứng hào
không vong, đối phương không thật tâm. Thê tài lại không có trong quẻ, cô gái luôn
tránh mặt anh ta, ứng khắc thế, cô gái thực lòng không nguyện ý yêu anh ta, anh ta
12
chỉ có một cách theo đuổi người ta.

Hào ba Huynh động hóa Tài, đối tượng là bị cưỡng ép, lâm Đằng Xà, Đằng
Xà chủ quấn quanh, chính là liều chết bám lấy người ta không tha. Tài hào bị Nhật
Gguyệt khắc thương, quẻ nội lại có Huynh đệ Ngọ hỏa phát động, ứng hào không
vong, là tượng không thành.

Suy đoán quả nhiên chính xác, là anh ta đang theo đuổi người ta, cô gái là
đồng hương, cô ta chết sống không đồng ý, trốn tránh, cuối cùng không thành.

13
Quẻ do ai đến gieo!

Dự đoán tối kỵ nay Tần mai Sở, không thể từ đầu đến cuối cùng. Có người
học Lục hào, học được một thời gian ngắn cảm thấy Lục hào không bằng Kỳ môn,
Lục nhâm vì các môn kia chỉ cần dựa vào thời gian, phương vị, đếm số của người
hỏi liền có thể phán đoán, người muốn xem không cần gặp. Lục hào phải gieo quẻ
nên khó khăn hơn, không cách nào dự đoán. Thế là lại đi học Kỳ môn, Lục nhâm.
Có người lại dùng phương thức lấy quẻ của Mai hoa dịch số để luận theo Lục hào,
để bù đắp việc khó lấy quẻ. Từ góc độ lấy quẻ mà xem, tựa hồ thủ pháp khá đa dạng,
nhưng lượng thông tin để xem lại giảm đi rất nhiều. Đầu tiên quẻ Mai hoa dịch số
chỉ có một hào động, sáu mươi bốn quẻ mỗi quẻ chỉ có sáu loại biến hóa, hợp lại là
ba trăm tám mươi bốn loại khóa biến, bởi vậy nó không thể không từ quẻ chủ, quẻ
hỗ, quẻ biến biến hóa để tìm kiếm thông tin. Mà quẻ Lục hào mỗi ngày có 4.096 loại
biến hóa, thêm vào đó người tới hỏi có nhiều sự kiện khác biệt cũng như giới tính
tuổi tác khác biệt, người tới hỏi vào năm tháng ngày khác biệt thì biến hóa càng
nhiều, chí ít có mấy trăm vạn loại thậm chí hơn ngàn vạn loại biến hóa, lượng tin tức
dung nạp cực lớn. Bởi vậy, ta không chủ trương sử dụng Mai hoa dịch số để lấy quẻ
và luận theo Lục hào, huống chi hai hình thức gieo quẻ khác biệt. Mai hoa dịch số
trước định quẻ ngoại sau định quẻ nội, mà Lục hào thì gieo quẻ bắt đầu từ sơ hào đi
lên, hai phương pháp có bản chất khác nhau. Mặc dù có một số quẻ lấy bằng phương
pháp Mai hoa dịch số và luận bằng Lục hào có khi cũng có ứng nghiệm, nhưng dù
sao nguyên nhân hào động biến hóa bị hạn chế, khiến lượng tin tức giảm bớt rất
nhiều, rất khó xuất hiện cái gì như phục ngâm, phản ngâm, tam hợp, khiến cho độ
chuẩn xác của cát hung cùng ứng kỳ cũng bị ảnh hưởng, bởi vậy hình thức lấy quẻ
dễ sử dụng nhất là gieo quẻ.

Nếu người muốn xem quá cấp bách, hoặc khoảng cách xa không tiện đến thì
giải quyết vấn đề lấy quẻ như thế nào? Ta ở chỗ này hướng mọi người giảng một
chút. Lục hào dự đoán từ trước đến nay đều áp dụng hình thức người muốn xem sẽ
gieo quẻ. Sách vở luôn cường điệu tâm thành thì linh, để cầu xem người gieo quẻ
phải chuyên tâm nghĩ mình đến sự việc muốn xem. Tuy vậy, vẫn có quẻ không ứng
nghiệm thì liền quy tội tâm loạn. Trên thực tế quẻ không ứng nghiệm có nhiều loại
tình huống. Có dự đoán sư phán đoán sai lầm cũng có người xem động niệm quá lâu
… vô vàn nguyên nhân bên trong. Đương nhiên cũng không bài trừ hệ thống lý luận
của Lục hào dự đoán còn chưa hoàn thiện, chưa phát hiện ra thêm nhiều quy luật.

Nhiều năm qua ta thông qua thực tiễn phát hiện Lục hào dự đoán mấu chốt ở
chỗ suy nghĩ của người muốn xem như thế nào, chỉ cần người đó có ye niệm xem
thì mặc kệ trong lòng có hay không muốn hỏi chuyện trọng yếu, gieo quẻ tượng bên
trong luôn có thể suy đoán một chút tình huống phù hợp. Mà lúc này gieo quẻ chỉ là

14
một loại hình thức rút quẻ, vô luận ai gieo quẻ cũng được, không quan trọng người
gieo quẻ phải nghĩ đến cái gì đó. Bởi vậy, khi có người gọi điện thoại hoặc email hỏi
thì vô luận là bản thân người đó gieo quẻ hay dự đoán sư gieo quẻ, hay thậm chí
người bên cạnh dự đoán sư thay thế gieo quẻ đều được, sẽ không ảnh hưởng mảy
may đến độ chuẩn xác khi đoán quẻ. Gieo quẻ cũng không cần phải nghĩ vì ai gieo
quẻ, xem chuyện gì, cứ gieo được quẻ rồi kết luận là được. Đoán quẻ thì lấy Dụng
thần vẫn như cũ không thay đổi. Cơ chế này có thể là một loại ý niệm truyền lại hoặc
ma trận tin tức có tác dụng. Dạo gần đây, có người khi gieo quẻ còn có cái gì mật
chú này nọ để gieo quẻ chuẩn hơn, chỉ đơn thuần lòe bịp lấy tiền của người xem chứ
thực không đáng tin. Nguyên lý dự đoán Bát Quái cùng quỷ thần không hề có quan
hệ, mà là một loại nguyên lý tin tức từ vũ trụ. Bởi vậy, gieo quẻ thì cũng không cần
cầu nguyện, cử hành nghi thức gì, càng không cần niệm mật chú. Phía dưới ta đưa
ra một số ví dụ từ thực tiễn lấy các hình thức gieo quẻ, mọi người liền có thể hiểu
rõ.

Ví dụ 1: ngày Kỷ Mão tháng Đinh Sửu năm Kỷ Mão, một vị bạn học thời đại
học đột nhiên gọi điện thoại đến, mời ta gặp mặt, cũng nói có một khách nhân Nhật
Bản muốn gặp ta một lần, thế là ta đến phó ước. Nguyên lai người Nhật Bản kia là
bạn học bằng hữu của ta trong nhiều năm, nghe nói ta hiểu xem dịch, liền muốn biết
một chút xem dịch ra sao. Đơn giản giảng giải, anh ta nói ra xem một lần, thế là ta
liền đưa cho anh ta ba đồng tiền để gieo quẻ, được quẻ Thiên Trạch Lý.

15
Sau khi gieo được quẻ ta hỏi anh ta muốn xem cái gì, anh ta nói cũng không
có cái gì cụ thể muốn hỏi, để cho ta tùy tiện nhìn xem. Ta căn cứ thông tin trong quẻ
nói

① Tử tôn trì thế, Tử tôn là khoái hoạt chi thần, đầu tiên đoán đây là 1 người
vô ưu vô lo. Là người thuộc trường phái yên vui.
② Tử tôn lại là nghệ thuật chi tinh, Thân kim không vong, kim không thì
minh, nhập mộ tại nguyệt lệnh, là tượng như say như dại, đoán anh ta hỉ hoan nghệ
thuật, phi thường si mê, có chút danh tiếng. Lâm Chu Tước, rất thích ca hát.
③ quẻ tên là Thiên Trạch Lý, là tượng hành tẩu, sơ hào là chân, lâm Dịch mã
hợp thế, đoán anh ta không chịu ngồi yên, một năm bốn mùa khắp nơi chu du các
nơi trên thế giới.
④ trong quẻ Quan không có Nguyên thần, Tử tôn trì thế, Phụ mẫu lưỡng
hiện, ta đoán hắn cả đời không có vận làm quan, không có công việc cố định, không
thuộc về một đơn vị nào cả, là một cái người tự do.
⑤ Tài phục dưới thế nhưng hưu tù, ta đoạn anh ta thường không thiếu tiền
16
xài, nhưng cũng không phải là người phi thường giàu có.
⑥ Tử tôn trì thế được Nguyệt sinh, Quan quỷ lâm ứng hào, thế khắc ứng hào,
đoán hắn cả đời không có bệnh gì, ngược lại có thể suy nghĩ vì người khác, vì người
khác giảm bớt thống khổ mang đến sung sướng.

Các suy đoán toàn bộ chính xác. Nguyên lai hắn không có cố định công việc,
là một nhà chụp ảnh tự do, hàng năm có một nửa thời gian ở các nơi quay chụp, sau
đó tại Nhật Bản triển lãm rất được hoan nghênh. Kinh tế của anh ta chủ yếu là dựa
vào chụp ảnh.

Qua ví dụ trên có thể thấy người xem dù không có tâm tình mãnh liệt gì về sự
tình cụ thể muốn hỏi, vẫn như thường có thể từ quẻ người đó gieo ra mà phán đoán
được một chút thông tin, mấu chốt ở chỗ đoán quẻ như thế nào.

Ví dụ 2: ngày Đinh Dậu tháng Canh Thân năm Mậu Dần, Hàn tiên sinh gọi
điện thoại muốn ta đến xem cho anh ta một chút vấn đề bất an trong gia đình. Lúc
đó, trời nắng rát, ta lười đi nên liền bảo: "Hai ba phút nữa gọi lại". Để điện thoại
xuống, tiện tay gieo một quẻ được Phong Lôi Ích biến Thủy Trạch Tiết

17
Thế hào không vong, lại lâm Đằng Xà là tượng đứng ngồi không yên, đồng
thời thế hào lại là Thê tài, Tử tôn Tị hỏa cũng không, ta xem xét quẻ, quẻ bên trong
đã phản ứng vấn đề anh ta muốn hỏi, trong lòng liền đã có tự tin. Chỉ chốc lát sau,
anh ta gọi điện thoại tới hỏi kết quả như thế nào? Ta liền nói: "Nhà anh gần nhất rất
không thuận, mọi người đều bất an, cảm xúc rất không ổn định". Trong quẻ Huynh
đệ hào hai động khắc thế hào, liền đoán anh ta gần đây nhất định phá tài. Hào sáu
Huynh đệ lâm ứng hào Thanh Long đến khắc, ứng là nơi/xứ khác chỗ của anh ta ở,
Thanh Long là thăm người thân, thăm bạn, hào hai là nhà, Câu trần lâm mộc là động
sửa chữa và chế tạo nên đoán: Thứ nhất anh gần nhất đi thăm nhà một người thân,
thứ hai trong nhà anh gần đây cải tạo tu kiến đồ vật bằng gỗ, vì những nguyên nhân
này mà khiến ngươi nhà bất an.

Quả nhiên như đã đoán. Anh ta nói: Gần đây cha vợ bị bệnh nên một nhà ba
người có đến thăm bệnh, vì bệnh tình trở nặng nên người vợ lưu lại chiếu cố bố, anh
ta tự mình lái xe mang đứa con về nhà, nửa đường đụng ngã một xe gắn máy, may
người không bị thương, bồi thường 5 hơn ngàn nguyên mới xong việc. Hai ngày

18
trước, sắp xếp lại đồ đạc, trang trí trong nhà. Kết quả đứa con về nhà, mở cửa nhưng
ngại trong nhà oi bức không hề đóng cửa đi vào, ai ngờ cửa đột nhiên tự động đóng,
quay lại mở thì cũng không được khiến đứa bé sợ khiếp vía gọi điện thoại cho anh
ta, phát hiện cửa bị khóa từ bên ngoài. Loại khả năng này là cực nhỏ. Quẻ này lúc
suy đoán, mặc dù là ta gieo quẻ, nhưng lại như bản thân anh ta gieo, cùng lấy Dụng
thần đến đoán, vẫn phù hợp tình huống thực tế như thường.

Ví dụ 3: ngày Ất Dậu tháng Quý Hợi năm Mậu Dần ta cùng hảo hữu Đoạn
Kiến Nghiệp cùng một bằng hữu hữu khác đang nói chuyện phiếm, có một cô gáo
làm ở cửa hàng sách (sinh năm Tân Sửu) muốn hỏi hôn nhân, ta gieo được quẻ Thiên
Phong Cấu biến Phong Địa Quán.

Lấy Quan làm dụng. Trong quẻ Quan quỷ Ngọ hỏa gặp không, Nguyên thần
không hiện lên quẻ phục tại hào hai Hợi Thủy, Quan bị nguyệt kiến cùng quái trung
Tử tôn Hợi Thủy khắc chế, quẻ nội phản ngâm, xem xét liền biết hôn nhân không
tốt, mâu thuẫn cãi nhau. Đầu tiên Quan quỷ Ngọ hỏa không vong lại hóa xuất Phụ

19
mẫu Mùi thổ tương hợp, sách nói: "Xung không thì thực", gặp hợp cần phải xung
khai, năm Giáp cô gái này tuổi mụ 24 chính là đến tuổi lập gia đìnhc, Tý thủy xung
thực Quan quỷ, lại xung khai Ngọ Mùi, đồng thời lại cùng thế hào Sửu thổ tương
hợp, Sửu là cha mẹ văn thư, lâm Thanh Long, tất chủ sự tình vui mừng, Sửu thổ liền
có thể coi là hôn thú, Thái Tuế hợp biểu thị đạt được, liền đoán năm 1984 kết hôn,
quả nghiệm. Câu đầu tiên được chứng minh, ta liền trong lòng nắm chắc, tiếp tục
tìm kiếm tin tức khác. Quái trung Tử tôn Hợi Thủy cùng nguyệt lệnh cấu thành Hợi
Hợi tự hình, lại lâm vị trí bào thai động mà hóa quỷ hóa tuyệt (hào hai là vị trí bào
thai), thai hào Ngọ hỏa lại không, tin tức bất lợi về con cái rất mạnh, thế là đoán
nàng từng lưu sản, quẻ nội phản ngâm, có tượng lặp đi lặp lại, đoán nàng lưu sản
không chỉ một lần. Quả nhiên là hai lần. Trong quẻ Quan quỷ Ngọ hỏa động mà sinh
thế hào, ta đoán chồng cô ta đối xử rất tốt với cô ấy, nhưng trong quẻ phu tinh Quan
quỷ Ngọ hỏa không mà bị khắc, quẻ nội phản ngâm, không có Tài hào cứu viện, thế
là đoán cô ta hiện giờ muốn ly hôn, mà cãi nhau loạn xạ. Tử tôn Hợi Thủy lâm hào
hai Chu Tước, hào hai là nhà, Chu Tước chủ miệng lưỡi, động mà khắc Quan quỷ,
ta đoán cô ta cơ hồ mỗi ngày đều cãi nhau với chồng. Quẻ này Quan quỷ bị khắc rất
mạnh lại gặp không vong, nhưng Quan quỷ còn tại phu vị (ứng hào là phu vị), lại
cùng đại biểu hôn thú Phụ mẫu Mùi thổ tương hợp, nói rõ còn không có ly dị, nhưng
Mùi thổ không vong, nói rõ chồng nắm chặt giấy hôn thú. Nguyên nhân quẻ nội phản
ngâm, ta đoán nàng náo loạn nhiều lần đều không được.

Đoán đến nơi đây ta ngừng nghỉ dừng một hồi, cô ta thì quá nôn nóng, hỏi có
cách nào hay không? Phía trước suy đoán đều đúng, lại xem tiếp. Nói thật ra, quẻ
như thế là hỏng bét, hôn nhân khẳng định không cách nào duy trì, nhưng ta vì chứng
thực còn có hay tin tức khác có thể khai quật hay không nên không vội mà báo kết
quả cuối cùng. Thế lâm Thanh Long, Thanh Long chủ mỹ mạo cùng háo sắc, cô gái
này dáng dấp tư sắc thật là không tệ, không cần nhìn quẻ, trực tiếp nhìn bản thân liền
có thể chứng thực. Nhưng đấy là quẻ Thiên Phong Cấu, hào từ bên trong có "Nữ
tráng, vật dụng cưới nữ", Sửu thổ gặp Nhật thần Dậu kim là mộc dục, tuy là nữ nhân,
cũng thuộc về hạng "Háo sắc". Hào hai là hào vị bộ phận sinh dục, Tử tôn lại đóng
ở đây, là kị thần của Quan quỷ, lại động lại hóa Quan quỷ, Quan quỷ chủ bệnh, thế
là ta đoán: "Chồng cô có bệnh, không thể quan hệ tình dục, năm 1996 cô ngoại tình."
Nguyên trong quẻ vốn đã có Quan quỷ nhưng lại hóa xuất thêm một Quan quỷ,
không phải dẫn "Lang" nhập thất? Ứng kỳ phán đoán năm 1996 là Bính Tý, xung
thực Quan quỷ, đồng thời người đàn ông này thúc cô ta ly hôn. Bởi vì Tử tôn Hợi
Thủy lâm Chu Tước phát động, Chu Tước là nói chuyện, Hợi Thủy lại là đất Lâm
Quan của thế hào, nói rõ cô ta gặp một người đàn ông. Ai ngờ cô ta thề thốt phủ
nhận, nói không có ngoại tình. Kì quái, tin tức trong quẻ mãnh liệt như vậy, làm sao
lại không có ngoại tình. Ta không thể làm gì khác hơn là nói với cô ta: "Xem ra ý
nghĩ của ta không đúng, xuất hiện sai lầm, cái này quẻ không có nên nếu đoán tiếp

20
tất sẽ sai lầm" Cô ta nghe xong rất nôn nóng nói: "Ta cùng nam nhân kia kết giao
cũng không sâu, là hắn một mực theo đuổi, ta không chủ động đi tìm!" "Nam nhân
kia?" Ta giả ngu."Chính là người thứ ba." Cô ta rốt cục nói thật. Mặc kệ hai người
kết giao sâu hay không, vẫn là có chuyện ngoại tình, chỉ cần chứng minh ta suy luận
không sai quá xa là được. Có mấy người ở đây để một cái cô gái thừa nhận những
việc này cũng đủ thẹn thùng. Ta cuối cùng nói nàng tháng sau sẽ ly hôn. Vì tháng
sau là tháng Tý, Tý thủy xung khai Ngọ Mùi chi hợp, chồng cắt đứt với giấy hôn
thú, Quan quỷ không vong, ứng kỳ cũng là xung không thực không. Nguyên nhân
khắc Quan quỷ Tử tôn Hợi thủy gặp Chu Tước, Chu Tước lại chủ quan ti miệng lưỡi,
thế hào gặp Hợi Thủy là Lâm Quan, nói rõ hắn gặp phải một trận kiện cáo. Cuối
cùng cô ta ra tòa tháng Tý năm 1998 ly hôn.

Ví dụ đầu tiên bản thân người đến xem gieo quẻ nhưng không có việc gì cụ
thể muốn hỏi, ví dụ hai là xem qua điện thoại, ta gieo quẻ, ví dụ ba là người muốn
xem ở đấy, mà ta gieo quẻ. Lúc gieo những quẻ này, mặc dù tình hình khác biệt,
nhưng đều được nghiệm chứng, nói rõ mấy loại phương pháp đều được. Người muốn
xem gieo quẻ thì phải chuyên tâm nghĩ đến việc mình muốn hỏi, không cần phải
tranh luận, bởi vì có quẻ là chính ta gieo. Ta vì người khác gieo quẻ, trong đầu cái
gì cũng chả nghĩ, chỉ cần người khác mở miệng muốn xem tùy tiện cầm lấy đồng
tiền lay động là đủ. Điều này cổ nhân nói "Tâm thành thì linh" cũng không đúng.
Nói thật ra, ta đoán quẻ cũng không có khả năng đạt tới trăm phần trăm, cũng đã gặp
qua người muốn xem tham lam thành không có ứng nghiệm. Dịch học xem đến cùng
là một loại cơ chế gì, còn cần có nhiều người hiểu biết nghiên cứu, thông qua thực
tiễn để chứng minh. Thêm một ví dụ khác để xác định cách gieo quẻ.

Ví dụ 4: Ngày Tân Mão tháng Kỷ Mão năm Canh Thìn, trên TV truyền ra
Thủ tướng Nhật Bản Tiểu Viễn bị bệnh, nữ sĩ Nhật Bản Mutō đang ở nhà ta hỏi cát
hung như thế nào? Lúc ấy ta để một khách nhân ở đó gieo quẻ được Thiên Hỏa Đồng
Nhân biến Hỏa Phong Đỉnh.

21
Lấy ứng hào làm Dụng thần. Ứng hào bị nhật nguyệt khắc thương, quẻ nội lại
có Phụ mẫu Mão mộc phát động khắc, bệnh nặng mà nguy. Ứng lâm hào sáu, hào
sáu chủ đầu, Tử tôn chủ mạch máu, kị thần lại lâm Bạch Hổ phát động, Bạch Hổ chủ
máu, đây lại là quẻ Ly cung, Bát Thuần Ly cũng chủ máu, là mạch máu đầu xảy ra
vấn đề. Lâm Đằng Xà, Đằng Xà chủ chật hẹp, rút về, chính là nguyên nhân mạch
máu đầu đột nhiên co vào mà gây nên. Tuất thổ gặp Mão là tử địa, ba Mão khắc
dụng, chí ít có ba khu xuất huyết não đã hoại tử. Kị thần khắc bên trong mang hợp,
bóng ma bệnh rất khó trừ bỏ. Hào bốn Nguyên thần Ngọ hỏa không vong, hào bốn
chủ tim, Ngọ hỏa cũng chủ tim, không mà không sinh Dụng thần, nói rõ trái tim
cung cấp máu không đủ. Hào năm Thê tài Thân kim động mà hóa xuất Tử tôn Mùi
thổ, Thân là Dụng thần trường sinh chi địa, hào năm chủ miệng, mũi, Thê tài chủ hô
hấp, Tử tôn chủ chữa bệnh. Nói rõ bệnh viện dùng biện pháp hút dưỡng cứu trợ.
Quái trung Tử tôn đa hiện, nói rõ bệnh viện dùng các loại thủ đoạn. Hào hai Tử động
hóa Quan, tiểu tiện cũng xảy ra vấn đề, đồng thời cũng là chữa bệnh có tác dụng
phụ. Tháng Thìn Dụng thần hợp chỗ gặp xung, lại nhập mộ là hung, tháng Tị dụng
lâm tuyệt địa, trong quẻ khắc chế kị thần Thân kim bị hợp, Mão mộc không chế là

22
nhất hậu kỳ hạn, rất khó xuất tháng này, Thê tài Thân kim bị hợp, một hơi lên không
nổi liền xong rồi. Bởi vậy đoán tháng Thìn nếu không hung tháng Tị tất hung. Sau
đó qua đời ở ngày Nhâm Thân tháng Tị.

Những ví dụ trên nói rõ các tình huống gieo quẻ, mọi người không ngại lớn
mật ứng dụng, nhất định có thể đề cao trình độ dự.

23
Quẻ gián đoạn mộng

Trích: « Lục hào quẻ lệ nói thật »

Ví dụ: ngày Đinh Sửu tháng Quý Mùi năm Canh Thìn, Vương tiên sinh xem
công việc được Phong Trạch Trung Phu biến Bát Thuần Tốn.

Lấy Quan quỷ hào làm Dụng thần. Trong quẻ Quan quỷ Mão mộc lưỡng hiện,
lại có hai trọng Phụ mẫu, Quan quỷ đại biểu công việc, Phụ mẫu đại biểu đơn vị làm
việc, là tượng kiêm chức. Quan quỷ Phụ mẫu đều suy, nói rõ bản thân và các đơn vị
kinh tế đều đình trệ. Thế hào là mộ khố của Quan quỷ, lại lâm Bạch Hổ, Bạch Hổ là
uy nghiêm, nói rõ người này rất quyết đoán, công việc quản lý năng lực mạnh, là
người có chức quan. Nhưng Quan quỷ hưu tù, khắc thế, vận làm quan không thông.
Chỗ lâm Thế hào ở quẻ ngoại Quan quỷ Phụ mẫu bất động, công việc chính mặc dù
đình trệ, nhưng vẫn còn tương đối ổn định. Ứng là chỗ khác, ứng Phụ mẫu phát động,
nói rõ nơi kiêm chức sẽ có biến động. Phụ mẫu Tị hỏa là tuyệt địa của Tài, hiệu quả
24
và lợi ích kinh tế tương đối kém. Ứng hào Phụ mẫu hóa Huynh đệ Sửu thổ, hào ba
Huynh đệ động hóa Tử tôn Dậu kim, đây là cách sơn hóa hào, tương đương với Phụ
mẫu Tị hỏa hóa Tử tôn Dậu kim, Dậu kim là tử địa của hỏa, có thể thấy được đơn vị
kiêm chức gặp nguy cơ. Cách hào là huynh đệ Sửu thổ, trong quẻ lại không thấy Tài
hào, chính là nguyên nhân hiệu quả và lợi ích kinh tế không tốt mà đưa tới. Hóa xuất
Tử tôn Dậu kim là Nguyên thần của Tài, lại cách hào hợp Tài (Sửu thổ cùng phục
thần Tý thủy), hào hóa xuất Tị Dậu Sửu tại quẻ biến tạo cục, chính là góp vốn muốn
phát triển. Nhưng Tử tôn Dậu kim không vong, tài chính khó chuẩn bị, cuối cùng
dẫn đến phá sản. Thế hào lâm Bạch Hổ, Bạch Hổ chủ hung hãn, nói rõ bản thân tính
tình không tốt, Bạch Hổ lại chủ bệnh, thế hào là mộ khố của Quan quỷ, Quan quỷ là
bệnh, chính là thể nội có bệnh. Thế hào vượng tướng ám động, lại phải sinh trợ Tị
hỏa, có sinh không thể quá vượng, lấy hỏa là bệnh, lấy thủy làm vui. Cho nên đoán
nóng tính, trong quẻ không thấy thủy, thủy chủ thận, là thận hư. Huynh động ăn mày,
huynh chủ tốn kém, tử là y dược, nói rõ là xem bệnh dùng tiền mua thuốc. Theo hỏa
vượng là bệnh, đoán dùng thuốc là Thanh lương giải độc. Tử tôn không vong lại
không hiện trong quẻ, trước mắt đã ngừng dùng. Hào ba Sửu thổ lâm Đằng Xà phát
động, hào ba là giường, Đằng Xà chủ mộng, Sửu thổ động mà hợp với phục thần Tài
hào Tý thủy, Tài chủ ẩm thực, cho nên đoán ban đêm hay mê đi tìm nước uống.
Huynh đệ Sửu thổ phát động xung thế hào, thế hào ám động xung Huynh đệ Sửu
thổ, là tượng cùng người xung đột, lâm Bạch Hổ, Bạch Hổ là đánh nhau ẩu đả, đoán
ban đêm còn mê đánh nhau.

Vương tiên sinh quả nhiên là thân kiêm hai chức, đơn vị chính hiệu quả và lợi
ích không tốt, đơn vị kiêm chức hiện tại cũng nguy cơ trùng trùng. Hắn tại kiêm
chức đơn vị là quản lý, bởi vì tài chính vận chuyển không tốt, công ty dự định triển
khai cổ phần hóa, nhưng hắn không thấy công ty có thể sáng sủa nên do dự bất định,
đang lo lắng có nên mua cổ phần hay không. Từ giảng tính tình không tốt, bác sĩ nói
hắn nóng tính, từng dùng qua thanh nhiệt giải độc, hiện đã ngừng. Buổi tối xác thực
hay mêm tìm nước uống và thấy mình cầm đao truy sát người khác. Eo có chút không
tốt lắm.

25
Lục hào xạ phúc

Ta dùng Lục hào xạ phúc có hơn 10 ví dụ, tất cả đều là dùng lục thân ngũ
hành sinh khắc đến xem, cùng Mai hoa đoán dịch pháp khác biệt. Hiện đưa ra để cầu
cộng đồng nghiên cứu.

Ví dụ 1: Ngày Nhâm Thân tháng Quý Mùi năm Canh Thìn, bằng hữu Đoạn
Kiến Nghiệp cùng Vương Khai Vũ cùng một chỗ cùng ta nghiên dịch, nói đến Lục
hào xạ phúc, Đoạn Kiến Nghiệp để cho ta đoán một vật trong túi là cái gì, ta gieo
quẻ được Lôi Thủy Giải biến Trạch Thủy Khốn quẻ.

Lấy ứng hào làm dụng. Ứng Lâm Quan quỷ là vật biến ảo khó lường, lâm
Đằng Xà càng chủ kỳ quái. Quan quỷ hóa tiến thần, nên vật có thể bành trướng,
phòng to lên mà bên trong trống. Thế hào là tính chất của vật, Tài cùng Thanh Long
lâm thế chủ vật này có thể ăn. Quan quỷ Thân kim gặp nguyệt kiến Mùi thổ là đất
Quan đái, nói rõ vật này có đóng gói. Lâm Nhật nhập quẻ, vật không chỉ có một.
26
Quẻ thuộc Chấn cung, Chấn là mộc, thuộc về thực vật. Dụng lâm Đằng Xà, sắc là
đen bên trong có mầu vàng nâu. Dụng thần là mạnh (Dần Thân Tị Hợi), chủ đồ vật
mang hơi nhọn.

Đoán xong, anh ta móc đồ vật trong túi ra, chính là mấy cái Bàn Đại Hải.

Ví dụ 2: Ngày Giáp Thân tháng Mậu Thân năm Đinh Sửu, tại buổi dịch học
toạ đàm đang giảng đến Lục hào xạ phúc, một học viên cầm trong tay một cái bình
uống nước để ta xem trong đó thả cái gì? Gieo được quẻ Hỏa Trạch Khuê biến Hỏa
Lôi Phệ Hạp.

Lấy ứng hào làm Dụng thần. Ứng lâm Phụ mẫu chính là tượng văn thư, hào
hai Chu Tước động mà sinh cũng là tượng văn thư, nhật nguyệt song song cùng
Dụng thần tương hợp, chính là tượng trùng điệp, hợp bên trong mang hình, trùng
điệp mà không có quy tắc. Tổng hợp các thông tin trên, đoán trong đó là một chồng
giấy có chữ viết. Kết quả mở ra bên trong là một cuộn tiền.
27
Lục hào đoán tướng mạo

Ví dụ 1: Ngày Quý Mùi tháng Quý Mùi năm Canh Thìn, cùng bạn Vương
Khai Vũ nghiên cứu dịch, đương nói về Lục hào đoán tướng mạo, hình dáng thì anh
ta đưa thử xem một quẻ, nhìn từ trong quẻ có thể xem ra bao nhiêu tin tức, liền xem
một cô gái mà anh ta biết, gieo được quẻ Thủy Trạch Tiết.

Vì quẻ chuyên xem diện mạo người nào đó cho nên lấy thế hào là đối tượng
cần xem. Quẻ Lục hợp, nữ tử này dáng người đầy đặn. Thế hào là Tị hỏa, Dần Thân
Tị Hợi là nhọn, nàng này mặt trái xoan. Lâm Huyền Vũ, lại là Lục hợp quẻ, nàng
này dáng dấp rất gợi cảm, rất hấp dẫn người khác. Hào năm Quan quỷ lâm Đằng Xà,
hào năm là mặt, thổ chủ mũi, Quan quỷ chủ có bệnh, Đằng Xà chủ vết sẹo, cho nên
đoán mũi có sẹo. Hào năm Tuất thổ là mộ khố của Hỏa, Hỏa là mắt, nhập mộ khố là
Quan quỷ, tất chủ mắt cận thị. Kính mắt lấy Phụ mẫu là Dụng thần, Phụ mẫu Thân
kim không vong, không nhận hào năm sinh, chủ mặc dù cận thị cũng không đeo
28
kính. Hào bốn là ngực, Phụ mẫu càng chủ ngực, Tử tôn là vú, Phụ mẫu Thân kim là
tuyệt địa của Tử tôn, Tử tôn lại suy, đoán nàng này ngực nhỏ. Phụ mẫu tại hào bốn
là chủ áo ngực, lâm Câu Trần chủ lại là rất lớn, nhưng không vong, nói rõ bên trong
là không, cho nên đoán nàng này ngực tuy nhỏ nhưng lại mang áo ngực rất lớn. Thế
hào là người Hỏa, là mắt, gặp lục hợp là mắt hai mí, Hỏa tại quẻ nội, cũng là tượng
mắt hai mí. Hào ba Sửu thổ Nguyệt phá, có tượng phân tách, lại là âm hào nên chủ
phía sau, cho nên Sửu thổ là cái mông, nhật xung là động, cho nên khi bước đi thì
mông uốn éo. Kết quả đều đúng.

Ví dụ 2: Ngày Giáp Thân tháng Bính Ngọ năm Đinh Sửu, bằng hữu Đoạn
Kiến Nghiệp muốn đón mệnh lý sư Hách Kim Dương tiên sinh đến tỉnh thành, hỏi
xem thế nào được quẻ Phong Hỏa Gia Nhân biến Phong Địa Quán.

Hách tiên sinh là người trong giang hồ, cả đời lấy đoán mệnh là nghiệp, cho
nên lấy Tử tôn hào làm Dụng thần. Ứng hào Tử tôn Tị hỏa vượng tướng sinh thế
hào, người nhất định có thể đến. Tị hỏa mặc dù cùng Nhật thần tác hợp, nhưng trong

29
quẻ Hợi Thủy động mà xung, là hợp chỗ gặp xung, không sao. Giới người không
tốt, trong quẻ Huynh đệ Mão mộc tam hợp thành cục khắc thế, may mà thế hào
vượng tướng, Mão mộc hưu tù không thành đại hung. Sách nói: "Huynh động có
ngăn" Phụ mẫu là xe, Mão mộc là tử địa của Phụ mẫu Hợi thủy, tại sơ hào, sơ hào
là cước lực, chính là tượng xuất hành bị ngăn trở, cho nên đoán lần này đi đón Hách
tiên sinh sợ sẽ bị kẹt xe ở ngã ba.

Ngày kế tiếp, lái xe tiến đến đón Hách tiên sinh, xe đi nửa đường gặp một ngã
ba, bị một đám người tụ taạp nháo sự, ngăn chặn giao thông, không thể tiến lên, liền
thay đổi tuyến đường mà đi, cùng ngày đem Hách tiên sinh tiếp vào tỉnh thành.

30
Ngàn vạn không thể bổ

Ví dụ: Ngày Ất Mão tháng Mão, một phụ nữ làm tiếp tân nhà khách được
người nhà điện thoại báo bố bệnh tình nguy kịch phải về gấp, trước khi đi xem được
quẻ Thủy Thiên Nhu biến Địa Lôi Phục.

Phân tích: Lấy Phụ mẫu làm Dụng thần, Dụng thần Phụ mẫu Tị hỏa không
hiện lên quẻ, phục tại hào hai Quan quỷ Dần mộc, hào hai là nhà nói rõ Phụ mẫu
bệnh nằm trên giường ở nhà. Dụng thần được Nhật Nguyệt sinh phù, lại có phi hào
động mà sinh, có sinh không khắc là quá vượng, quẻ nội phục ngâm, người bệnh
nằm trên giường phi thường thống khổ. Quẻ gặp du hồn, sinh mệnh hấp hối. Dụng
thần Tị hỏa, vượng mộc sinh trợ, lại gặp Chu Tước là chứng nhiệt, quẻ nội Dần động
sinh bệnh tại lập xuân (lập xuân là tháng Dần). Hào năm Huynh đệ Tuất thổ là dụng
mộ khố của Dụng Thần, Dụng thần quá vượng cần mộ khố cất giữ, hỏa khí tất từ
đây xuất ra làm giảm bệnh tình, thổ là cái mũi, lâm Bạch Hổ động mà hóa xuất Thê
tài Hợi Thủy, tài chủ huyết dịch, Bạch Hổ cũng chủ máu, nhất định chảy máu mũi.
Nhật nguyệt hợp ở mộ khố, là hỏa không thể hàng, trong quẻ hào ba Huynh đệ Thìn
thổ động mà xung khai hỏa khố Tuất thổ, Thìn thổ tức là hỉ thần. Thìn thổ hưu tù, bị
nhật nguyệt hào động tam trọng Quan quỷ khắc chế, hào ba là bụng, quẻ tại Khôn
cung cũng chủ bụng, lâm Câu Trần bụng tất sưng. Hào hai Quan quỷ tuy là Nguyên
thần, nhưng Dụng thần quá vượng, không thích sinh trợ, Nguyên thần cũng thành
cừu địch. Hào hai là bộ phận sinh dục, lâm Chu Tước, đỏ vàng. Trong quẻ hào hai
động xấu, Thê tài Tý thủy tuần không, ẩm thực đã khó ăn. Quẻ gặp du hồn, chủ quên,
đầu óc mơ hồ không nhớ được gì. Tử tôn Thân kim trì thế, tự mình dùng thuốc,
nhưng hưu tù bất lực, hiệu quả không tốt. Quẻ biến lục hợp bệnh gần không nên,
bệnh gần gặp hợp hẳn phải chết. Hôm nay mặc dù hung cũng không sao, đến giờ

31
Dậu xung khai hợp khố tức giải nguy. Nhưng tuần tiếp, Tuất thổ tuần không, chế
Hỏa lực đại giảm, lại gặp ngày Đinh Mão hợp Tuất thổ sinh trợ Dụng thần, tất nguy.
Quẻ nội phục ngâm, bệnh nhân không nên biến hóa chỗ ở, trong quẻ mộc động sinh
hỏa, không nên dùng thủy để chế, Tử tôn là kim nhưng khắc Nguyên thần, trên thân
có thể mang tượng đồng, hoặc mang đồ trang sức, hoặc uống hoàng kim canh có lẽ
có thể cứu. Tài hào là ẩm thực tuần không, phải tránh uống thuốc bổ trợ Mộc sinh
Hỏa.

Ứng nghiệm tình huống: Tật bệnh quả như chỗ đoán, mũi của bố bị chảy
máu, trong bụng như có lửa đốt rất khó chịu, trong nhà gọi điện thoại tới nói bệnh
nhân đã bất tỉnh nhân sự, quan tài cùng áo liệm đều chuẩn bị xong, mau trở về. Nàng
này sau khi trở về, phụ thân ban đêm lại tỉnh lại, cô ta xuất ra một cái tượng phật
đồng nhỏ để phụ thân mang ở trên người, nhưng bố cô không thích, vì chiếu cố bệnh
nhân thuận tiện, anh cô đem phụ thân mang về nhà mình. Về sau vì bị bệnh tật tra
tấn, bố cô không chịu nổi, từng nuốt nhẫn vàng tự sát, chiếc nhẫn kẹt tại trong cổ
họng không thể xuống, bị người phát hiện lấy ra. Đến ngày Đinh Mão, chị cô này
muốn cho bệnh nhân uống đường glu-cô, bị cô ta ngăn cản, không cho uống, nhưng
chị cô nói bệnh nhân không ăn uống quá lâu cần ăn bổ một chút, cũng nói bệnh nhân
tại bệnh viện vẫn dùng đường glu-cô, không có việc gì. Thế là để bệnh nhân uống.
Bệnh nhân uống xong trong bụng nóng rực khó nhịn, toàn thân phát sốt, liền cởi sạch
quần áo nhảy vào thùng nước cũng không xong, cùng ngày qua đời.

32
Giếng nước nghiên cứu cùng nghiệm chứng

Nước là thứ ai cũng không thể thiếu trong cuộc sống, theo khoa học cổ đại,
giếng nước là nơi cung cấp nước chủ yếu bởi vậy cổ nhân phi thường trọng thị xem
về giếng nước.

Nghiên cứu sách cổ Lục hào đều lấy sơ hào là giếng, mà luận đoán đối với
giếng nước cặn kẽ thì không sách nào qua được quyển « Dịch ẩn ». Trong sách miêu
tả giếng nước hàng chục trang sách cực kỳ chu đáo. Nhưng sách « Dịch ẩn » mà thế
nhân đánh giá rất cao, ta lại xem thường. Nhất là đối với người mới học mà nói, dễ
khiến người ngộ nhập, chệch hướng chính đạo Lục hào dự đoán. Trong sách mặc dù
tập hợp không ít tinh hoa, nhưng có một bộ phận nội dung không phải tổng kết trong
thực tiễn mà là tác giả trống rỗng tưởng tượng ra, bịa đặt ra một đống không hợp
dịch lý nói nhảm, lật chương tiết nào cũng có.

Nay vẻn vẹn lấy một ví dụ giếng nước cảnh cáo độc giả, « Dịch ẩn » là sách
có mạch suy nghĩ khoáng đạt nhưng đọc, chớ cứng nhắc, lấy chi là đại pháp.

« Dịch ẩn gia đình chiêm » viết giếng nước "Lấy sơ hào là dụng vậy. Lại lấy
Bạch Hổ Tử tôn Thân kim là dụng." Trong thực tiễn nghiệm chứng, sơ hào là giếng
là đúng, từ lục thân góc độ giảng, vì Tài là ẩm thực, thủy tài chủ thức uống, cái này
cũng có lý. Tử tôn Thân kim chính là đất trường sinh của Thủy, lấy là giếng thì cũng
hợp Lục hào dự đoán đạo lý, Bạch Hổ là đường đi, giếng là đường thủy, lý lẽ cũng
thông. Nhưng trong Lục hào Thanh Long chủ ẩm thực, ta coi là lâm Thanh Long
cũng có thể. Bởi vậy xem « Dịch ẩn » bên trong đối giếng nước định vị là chính xác.
Nhưng luận tiếp liền sai lầm chồng chất. Bởi vì độ dài có hạn, không thể trục câu
luận chứng, liền vạch rõ chỗ sai lầm để mọi người phủ chính.

(1) sơ hợp hào ba, phòng giếng tương liên. Câu này sai tại sơ hào cùng hào ba
vĩnh viễn sẽ không tương hợp.

(2) sơ kim xà động, giếng chôn xác xương. Câu sai vì vô luận Thân Dậu kim,
vĩnh viễn sẽ không lâm sơ hào.

(3) sơ nhâm quý động, suối nhiều. Câu sai tại Nhâm Quý Thủy chỉ có thể xuất
hiện ở quẻ ngoại, sẽ không lâm sơ hào.

(4) sơ thuộc mộc, bên giếng có cây. Canh Dần tân Mão tùng bách mộc. Canh
Thân Tân Dậu thạch lựu mộc. Kỷ Tị quế mộc. Mậu Thìn trúc mộc. Nhâm Ngọ Quý
Mùi dương liễu. Sơ hào có mộc mặc dù có thể có cây, sau đó thuật nạp âm địa chi,

33
không có một cái nào có thể sắp đến sơ hào, huống chi sáu mươi bốn quẻ không có
Quý Mùi hào.

(5) hào hai hổ kim hợp, giếng đá cột. Lấy phân hào pháp đoạn, hào hai là
thành giếng lý chính, nhưng hào hai không có Thân Dậu kim xuất hiện, Thân Dậu
kim hợp hào hai đến là có khả năng.

(6) Canh Tuất Tân Hợi xung sơ hào, đồ trang sức rơi xuống giếng. Nhưng bên
trong sáu mươi bốn quẻ tân Hợi chỉ có thể xuất hiện tại hào hai, mà hào hai sẽ không
cùng sơ hào tương xung.

(7) sơ cầm kim xà động, móc sắt rơi giếng. Lý cùng (2)

Các luận thuật khác phải chờ ứng nghiệm tạm thời không nói, còn những luận
trên thì cả đời dự đoán cũng sợ sẽ không bao giờ gặp được, bởi vì bên trong sáu
mươi bốn quẻ không có loại tình huống đó xuất hiện. Trong sách rất nhiều nội dung
miêu tả đề do tác giả lấy hoàn cảnh sinh hoạt xã hội lúc ấy cho vào trong quẻ để kết
luận, mà không phải là từ trong ứng dụng thực tế phát hiện tổng kết ra kinh nghiệm.
Xã hội hiện đại đã khác rất nhiều, cuốc sống của mọi người phát sinh biến hóa cực
lớn, trừ bộ phận nông thôn, đại bộ phận còn lại dùng tới nước máy, có người từ trước
tới nay chưa từng gặp qua giếng nước. Bởi vậy, với nghiên cứu dự đoán giếng nước
dần dần đã mất đi giá trị, nhưng mà thủy dù sao cũng là thứ thiết yếu trong sinh hoạt
của chúng ta, thay vào đó là thủy cùng cống thoát nước có thể nghiên cứu, ta ở đây
có vài ví dụ ứng nghiệm, bất quá phần luận thuật này chính là giếng nước, cho nên
ở đây liệt kê ứng nghiệm với giếng nước, để chứng minh luận của cổ nhân.

Ví dụ: Năm Kỷ Mão Đoạn Kiến Nghiệp đến vùng núi chơi vào mùa hè cực
nắng, hắn trở lại Thái Nguyên đưa ra một quẻ để ta đoán, Ngày Canh Thìn tháng Tị
hỏi thịt dê có thể ăn hay không? Được quẻ Thiên Sơn Độn biến thiên không quẻ.

34
Vấn đề này từ lẽ thường đi lên giảng có hai loại khả năng: (1) thịt dê có chút
biến chất (2) thân thể người hỏi quẻ khó chịu có lẽ có bệnh nhìn thịt dê phải kiêng.
Nhưng Bát Quái cũng không phải để chúng ta suy đoán chủ quan, cần từ trong quẻ
phân tích tình huống, nếu không dự đoán cũng mất đi ý nghĩa. Đầu tiên lấy Dụng
thần, thịt dê thuộc về thực phẩm, trong Lục hào Tài là ẩm thực, cho nên ứng lấy Tài
hào là Dụng thần. Tài hào Dần mộc không hiện lên quẻ phục dưới hào hai, Tài sinh
thế hào, đối thế hào không có tạo thành tổn thương, cho nên có thể kết luận này thịt
dê có thể ăn. Nhưng quẻ này Huynh đệ độc phát, động mà hóa xuất Thê tài Dần mộc,
cổ nhân nói: "Thần cơ ở hào động", động tất có nguyên nhân. Bởi vậy hào động ta
đoán này thịt dê là nhặt được. Vì sao lại đoán vậy, vì Huynh động hóa Tài là ý bên
ngoài đoạt được. Dụng thần Thê tài Dần mộc phục dưới Ngọ hỏa, Ngọ Hỏa là tử địa
của Dần mộc, do đó ta đoán này thịt dê là dê chết. Dụng thần bị khắc lâm Huyền Vũ,
bệnh tại nguyệt kiến Tị hỏa, Huyền Vũ là loét, nát rữa, thịt dê này có mao bệnh, có
chút nát rữa. Quẻ tên là Thiên Sơn Độn, là tượng giấu kín, lại dụng thần phục tàng,
Nguyên thần Tử tôn cũng không hiện lên quẻ, thịt dê này cũng không phải là có
được từ địa phương lộ thiên. Tử tôn là Nguyên thần của Tài, Tử tôn lại đại biểu động

35
vật, Tử tôn Tý thủy tức là dê. Huynh đệ Thân kim là Tử tôn trường sinh chi địa,
trường sinh có ý là tẩm bổ, cung cấp, lâm Thanh Long, Thanh Long chủ ẩm thực,
tập hợp có thể hiểu thành là đồ ăn, nhưng Tử tôn hưu tù không có rễ, phùng sinh
không dậy nổi, trường sinh hóa xuất Tử tôn tử địa Mão mộc, nói rõ con dê ăn cái gì
đó mà chết. Lục hào Tuất thổ ám động khắc Tử tôn, lâm Xà, Xà chủ ruột, co rút, tử
vong. Tử tôn phục dưới Thìn thổ, Thìn là đập chứa nước, có thể nghĩa rộng là ao
nước, thủy tuyệt tại nguyệt lệnh, trong ao nước cơ hồ khô kiệt. Lâm Bạch Hổ tại Cấn
cung, Bạch Hổ là đường đi, Bát Thuần Cấn, tổng hợp các tin tức trên, đoán thịt dê
là nhặt được trong một cái ao sắp khô cạn tại ven đường. Dê ăn cái gì đó mà chết,
nhưng thịt có thể ăn, chỉ là có chút nát rữa.

Đoán xong quẻ, Đoạn Kiến Nghiệp nói quẻ này đoán cơ bản chính xác, chỉ có
nơi nhặt được dê có chút sai sót. Dê là nhặt tại một cái giếng cạn ở ven đường, từ
đó, ta đột nhiên nhớ tới cổ nhân nói sơ hào là giếng, cảm giác dịch thật kỳ diệu, mình
nghiên cứu không tinh.

Nguyên lai xuống nông thôn cùng mấy người đồng hương nói chuyện phiếm
lúc, đồng hương nói trong thôn có con dê của nhà nào đó trước khi đi còn ăn cỏ, khi
trở về lại lăn ra chết rồi, nguyên nhân không rõ tại sao, mặc dù thịt dê ở địa phương
nghèo khó một năm cũng không mà ăn này rất quý nhưng sợ thịt dê có vấn đề nên
đem dê ném đi. Người nói chuyện này cũng biết chỗ ném con dê, trải qua Lục hào
dự đoán, Đoạn Kiến Nghiệp đoán thịt dê có thể ăn, cho nên mọi người đem dê thu
hồi, cùng nhau đánh chén.

36
Con đường trong Lục hào

Cổ nhân trong thuật Lục hào có cái nhìn dựa trên hai phương diện. Một là
phân hào đoạn pháp, hai là lục thần phân biệt. Bình thường mà nói, hào năm đại biểu
con đường, cái này định vị hết sức chính xác, dùng cũng mười phần ứng nghiệm.
Mà từ lục thần góc độ luận thuật đường đi, « bốc phệ chính tông » cùng [ dịch ẩn ]
đều lấy đằng Xà là Dụng thần để xem. Đại khái vì đường là quanh co khúc khuỷu,
có hàm nghĩa giống Đằng Xà. Nhưng trong thực tiễn, Đằng Xà là đường đi không
ứng nghiệm.

Ta trong thực tiễn phát hiện trong lục thần Bạch Hổ là đường đi, cái này cùng
Bạch Hổ trong lục nhâm là đường đi giống nhau. Thêm nữa, ngoại trừ phương pháp
lấy hào vị cùng lục thần phân biệt còn có thể phân biệt từ góc độ lục thân. Lục thân
Tử tôn là đường đi. Trong quẻ Lục hào vì có mấy tầng quan hệ có thể bắt lấy thông
tin về con đường, bởi vậy phán đoán càng thêm chuẩn xác.

Ví dụ 1: năm 79 ta đi họp lớp ở quê toàn bạn bè 19 năm không gặp mặt. Lúc
ấy trong đám bạn học có một người nghiên cứu Mai hoa dịch số, vì nghe nói ta cũng
nghiên cứu kinh dịch, nói chuyện phiếm vài câu liền nhờ ta xem phong thuỷ nhà ở.
Ngày Ất Hợi tháng Dậu gieo được quẻ Lôi Thiên Đại Tráng.

Ta đoán: Nhà ở là nhà lầu, là nhà của nhà nước đã mua lại, nhà tọa nam hướng
bắc, nhà này phong thuỷ không tốt, người ở không được an bình. Sẽ phát sinh hoả
hoạn, mà cửa lại khó dùng. Về sau sẽ bị lưu sản

Thêm nữa nhà này không lâu nữa sẽ bị phá, bất quá không chỉ phá một lần mà

37
do làm đường sẽ phá nhà vào tháng 7 âm lịch năm 98. Kết quả chỗ đoán đều nghiệm.
Đây là nhà hai tầng, nguyên là nhà nhà nước đã hóa giá, tọa Nam hướng Bắc. Anh
ta vào ở sau đó bị cháy, cửa nhà khó đóng mở. Tháng 7 âm lịch năm 98 vì mở đường
mà bị phá, vì vợ bị hỏng thai.

Quẻ này giải thế nào? Thế hào là Ngọ hỏa, thế hào chủ tọa sơn, nên đoán tọa
Nam hướng bắc. Trạch hào lâm Quan quỷ là nhà nhà nước, Tài sinh, mà Phụ mẫu
trì thế, Phụ mẫu chủ nhà cửa, thế hào vì mình, cho nên mua lại, trạch hào gặp hợp,
tượng trùng điệp, cho nên đoán là nhà lầu.

Chu Tước mộc quỷ nhập trạch, cho nên có nạn hỏa hoạn, hào ba là cửa lâm
Câu Trần chủ câu quẩn chân, lại cùng nguyệt kiến tương hợp, cho nên cửa khó dùng.
Hào năm Thân kim xung khắc hào hai, hào năm là đường đi, Tử tôn Bạch Hổ cũng
là con đường, cho nên vì sửa đường mà phá nhà, Thân kim không vong ứng tháng
Thân, lại Bạch Hổ là lưu sản, Tử tôn không vong, có hỏng thai.

Ví dụ 2: ngày Kỷ Tị tháng Kỷ Mùi năm Mậu Dần, một người muốn xem bệnh
của mẹ gieo được quẻ Trạch Hỏa Cách biến Trạch Thiên Quái.

38
Xem bệnh của mẹ lấy Phụ mẫu làm Dụng thần. Phụ mẫu Dậu kim cư hào năm,
được nguyệt kiến sinh phù, trường sinh tại Nhật thần, Dụng thần vượng tướng, bệnh
không có gì đáng ngại. Quẻ này thuộc Khảm cung, Bát Thuần Khảm, chủ thận, bàng
quang, huyết dịch, nước tiểu các phương diện tật bệnh, cụ thể là bệnh gì cần từ sinh
khắc trong quẻ để phân tích. Đầu tiên xem Quan quỷ Mùi thổ cư hào sáu, là Nguyên
thần của Dụng thần, nhật nguyệt hào động cũng không tổn thương Mùi thổ, mặc dù
Quan quỷ ở bệnh, nhưng ở đây này lại không thể lấy Quan quỷ Mùi thổ là bệnh. Cổ
nhân nói thần cơ ở hào động, quẻ này chỉ có một cái hào động, hào hai Quan quỷ
Sửu thổ Nguyệt phá, động hóa hồi đầu khắc. Quẻ mấu chốt ngay ở chỗ này. Quan
quỷ Sửu thổ là Nguyên thần của Dụng thần, động mà hóa xuất Tử tôn Dần mộc hồi
đầu khắc, hào hai chủ bộ phận sinh dục, Tử tôn cũng chủ bộ phận sinh dục, tất bởi
vậy phương diện tật bệnh mà thống khổ, kết hợp quẻ cung hàm nghĩa, chỉ có nước
tiểu có thể cùng bộ vị này liên hệ, nói rõ mẹ anh ta nội tiết mất cân đối, nước tiểu có
vấn đề. Đến cùng là bệnh gì?" Ta hỏi vị học viên.

"Là bệnh tiểu đường." Anh ta đáp.


39
Ta phân tích tiếp: "Hào hai cũng chủ chân, lâm Bạch Hổ, Bạch Hổ chủ bị
thương, Quan quỷ lâm nguyệt phá, nói rõ là xương chân có khe hở, gãy xương. Đồng
thời nói rõ là tháng này bị thương, có chuyện này hay không?"

"Đúng, mẹ tôi tháng này bị gãy xương."

Ta lại tiếp tục phân tích: "Quan quỷ tại hào hai Bạch Hổ, Bạch Hổ là đường
đi, bị hóa xuất Tử tôn Dần mộc khắc thương, Tử tôn cũng là đường đi, nhưng hào
hai là nhà, chính là đường đi trong nhà, quẻ thuộc Khảm cung, Khảm là hãm, có
tượng cao thấp nhấp nhô, nói rõ là ngã cầu thang nên bị thương, đúng hay không?"

"Đúng!" Anh ta ngạc nhiên trả lời.

"Thế hào là Hợi Thủy, có thể định hướng nhà, tuần không bị xung, lấy đảo
ngược mà chốt, chính là tọa Nam hướng Bắc, nói cách khác, nhà anh ta là nhà lầu
cửa hướng Bắc."

"Một chút cũng không sai!"

"Xem nhà có thể lấy Phụ mẫu làm Dụng thần. Phụ mẫu là Dậu kim, ngũ hành
là số bốn, xếp thứ hào năm, có thể đoán nhà hắn không phải ở tầng thứ tư chính là ở
tầng thứ năm. Nhà ngươi đến cùng là ở tại tầng thứ mấy?" Ta hỏi.

"Tầng thứ tư." Đáp.

"Hào hai Quan quỷ Sửu thổ bị biến hào Tử tôn Dần mộc khắc thương, Dần
Mão ba tám thật, nói rõ mẹ anh ta ngã tại tầng ba bị thương, có phải hay không?"

"Đúng" Anh ta liên tục gật đầu.

"Sửu thổ Nguyệt phá, Tháng Tý hợp, chân mẹ anh tháng Tý sẽ khỏi hẳn,
nhưng hào động hóa hồi đầu khắc, bệnh tiểu đường sẽ rất khó nói."

Ta ứng nghiệm về con đường trong quẻ rất nhiều, chưa hẳn cứ hào năm là
đường đi, mà là từ lục thần, lục thân, hào vị toàn diện phán đoán, nếu không ví dụ
thứ hai sẽ không chuẩn xác.

40
Đoán bệnh tất lấy Quan quỷ là bệnh sao?

Từ xưa đến nay, sách bốc phệ đều lấy Quan quỷ đoán bệnh, đây chẳng qua là
chỉ từ lục thân hàm nghĩa mà luận. Như người thời nay không biết biến báo, không
lấy ngũ hành sinh khắc làm trọng, cứng nhắc cổ đại phương pháp, quẻ quẻ quay
chung quanh Quan quỷ mà, đến cùng có thể có bao nhiêu người đoán chuẩn, phù
hợp tình huống thực tế đây?

Cho nên có người học quẻ nhiều năm, đối cát hung họa phúc mặc dù có thể
nắm chắc, nhưng khi luận bệnh tình chi tiết thì khó. Như một người có nhiều loại tật
bệnh, há có thể là một hào Quan quỷ có khả năng giải quyết vấn đề?

Nhiều năm qua, ta phán đoán về bệnh có hàng trăm ví dụ, có người một bệnh,
có người nhiều bệnh, cũng không phải đều xem chết Quan quỷ để đoán bệnh. Kỳ
thật mỗi lục thân đều có thể làm căn cứ đoán bệnh.

Ví dụ 1: ngày Bính Tý tháng Sửu năm 98, dịch hữu Vương Dịch mời ta đến
nhà và đưa một quẻ do một người đàn ông hỏi bệnh để cho ta phán đoán một chút là
bệnh gì, quẻ Sơn Thủy Mông biến Địa Thủy Sư.

41
Ta đoán: Người này bị tắc máu não, trên đầu mạch máu xảy ra vấn đề, mà
bệnh tình phát triển càng ngày càng nghiêm trọng, mỗi giờ đều rất đau nhức. Anh ta
kỳ quái hỏi, này quẻ Quan quỷ là thủy, vì sao không đoán bệnh thận? Trên thực tế
quẻ này Dần mộc độc phát đến khắc thế hào, lấy lục thân chuyển đổi nguyên lý, khắc
ta là quan quỷ, đương nhiên ứng lấy kị thần đến luận bệnh. Quẻ này thế hào là Tử
tôn, Tử tôn là mạch máu, lâm huyết thần Bạch Hổ càng chủ máu. Hào sáu Dần mộc
Phụ mẫu phát động, Dần mộc là bệnh địa của thế hào Tuất thổ (lấy 12 cung trường
sinh luận), Phụ mẫu chủ đầu, lâm hào sáu càng chủ đầu, động đến khắc thế hẳn là
bệnh ở đầu. Vì thế hào Bạch Hổ Tử tôn bị khắc, hẳn là mạch máu đầu. Phụ mẫu
động hóa tiến thần, bệnh chắc chắn sẽ càng ngày càng nghiêm trọng. Lâm Thanh
Long, Thanh Long chủ đau nhức, cho nên đoán đầu đau nhức. Nếu lấy Quan quỷ là
bệnh liền không khả năng đoán chuẩn xác và tương xứng tình huống thực tế.

Ví dụ 2: ngày Ất Mùi tháng Tý năm 98, một người đàn ông hơn 30 tuổi đến
xem năm nào có con? Gieo được quẻ Lôi Thiên Đại Tráng biến Bát Thuần Càn.

42
Ta đoán: muốn có con là tâm bệnh của anh, sợ cả đời khó có con cái, bởi vì
sinh lý có vấn đề, số lượng tinh trùng không đủ, tỉ lệ sống sót thấp, rất khó khiến vợ
mang thai. Ngoài ra anh còn có bệnh choáng đầu, từng giải phẫu vì bệnh tắc ruột.
Kết quả đều đúng.

Ta phân tích như thế này: Đầu tiên hỏi con cái lấy Tử tôn làm Dụng thần. Tử
tôn Thân kim lâm tử tại nguyệt, chỉ có nhật sinh, quẻ ngoại phục ngâm, Nguyên thần
Thìn thổ tuần không, kị thần Ngọ hỏa trì thế, lại lục xung biến lục xung bất lợi cho
cầu con. Tử tôn Thân kim là bệnh địa của thế hào, cho nên muốn có con là bệnh
trong lòng người đó. Quẻ ngoại phục ngâm, tượng thống khổ. Vì một mực không có
con mà nội tâm buồn khổ. Nguyên thần Thìn thổ lâm hào ba không vong, hào ba mà
bộ vị bộ phận sinh dục, Thìn thổ chủ cơ năng sinh sản. Thìn là mộ khố của Tài, Thê
tài chủ tinh dịch, lâm không vong, cho nên tinh trùng ít, không mà không sinh Tử
tôn, cho nên tỉ lệ sống sót thấp. Hào sáu Tuất thổ phát động, thế hào nhập mộ, hào
sáu là đầu, lâm Huyền Vũ, Huyền Vũ chủ choáng váng, cho nên đoán có chứng
choáng đầu. Anh ta trả lời vừa dùng thuốc Đông y chữa khỏi. Hào hai Quan quỷ là

43
nguyên thần của thế hào, lâm Dần mộc, mộc chủ ruột, hào hai lại là hào vị ruột, lâm
Chu Tước chủ chứng viêm. Nhập mộ tại Nhật thần Mùi thổ, nguyên nhân nhập mộ
khó sinh thế hào, cho nên lấy bệnh luận, đoán là bệnh tắc ruột. Vì Thân kim lâm
Bạch Hổ phát động xung khắc hào hai Quan quỷ Dần mộc, Tử tôn là y dược, Bạch
Hổ là phẫu thuật, cho nên đoán đã giải phẫu.

Bởi vậy, một dự đoán sư nhất định phải nắm giữ hàm nghĩa của từng lục thần,
biết rõ cách dùng từng khái niệm, mới có thể phán đoán chính xác. Quẻ đầu vứt bỏ
Quan quỷ mà không cần, quẻ thứ hai thì vì Quan quỷ bị khắc mà bị bệnh, trong đó
có pháp tắc nhất định.

44

You might also like