Professional Documents
Culture Documents
Mục lục
Tài liệu phụ đạo mệnh lý Manh phái (Một)
Chương 1, Khái luận hệ thống mệnh lý Manh phái
Tiết 1, Phép tắc luận mệnh của mệnh lý Manh phái
Một, Lý pháp
Hai, Tượng pháp
Ba, Kỹ pháp
Tiết 2, Khái niệm cơ bản thường dùng trong Lý pháp
Một, Khái niệm Khách và Chủ
Hai, Khái niệm Thể và Dụng
Ba, Khái niệm Tố công và Công thần, Phế thần
Bốn, Khái niệm năng lượng và hiệu suất
Năm, Khái niệm Tặc thần và Bộ thần
Chương 2, Thủ tượng cung vị tứ trụ
Một, Chư tượng cung vị
Hai, Cung vị cát hung
Chương 3, Loại tượng Thập Thần
Một, Loại tượng Ấn tinh
Hai, Quan Sát tinh
Ba, Tài tinh (Chính Thiên Tài)
Bốn, Thực Thương tinh
Năm, Tỉ Kiếp Lộc Nhận
Tiết 2, Ý nghĩa Thập Thần hư thấu
Một, Hàm nghĩa cụ thể của Thập Thần hư thấu
Hai, Phép dùng Thập Thần hư thấu ở trong ứng kỳ
Chương 4, Phương pháp bắt tay vào Manh phái đoán mệnh cùng tầng lớp mệnh cục Tiết 1,
Phương pháp bắt tay vào Manh phái đoán mệnh
Một, Làm sao bắt tay vào xem Tố công bát tự
Hai, Thế bát tự (hoặc là Đảng)
Tiết 3, Đẳng cấp mệnh cục phú quý bần tiện
Một, Bát tự phú quý
Hai, Bát tự phổ thông
Ba, Bát tự kém
Lúc ban đầu tôi theo Hác Kim Dương tiên sinh, có thật nhiều tuyệt kỹ Manh phái hết sức quý
báu, bởi vì có hạn chế ở sự bảo thủ quy luật truyền lại, Hác tiên sinh cũng không có dạy cho tôi
hết toàn bộ của mình. Mặc dù như vậy, tôi vẫn theo ông ấy học tập được rất nhiều tri thức
mệnh lý, nhưng đều là khá rời rác, rất không có hệ thống. Trước mắt chỗ hình thành hệ thống
lý luận Manh phái khá hoàn chỉnh, là chỗ tôi tổng kết học được đối với tính quy luật, tính hệ
thống của mệnh lý Manh phái từ Hác tiên sinh. Trong đó có rất nhiều lý luận, là lúc tôi trải qua
dốc lòng nghiên cứu các ví dụ đoán mệnh của Hác tiên sinh để lại trong những năm gần đây,
đem hết toàn lực từ trong luyện tập ra được, tuy không phải là truyền lại trực tiếp từ Manh
phái, nhưng trọng tâm của nó vẫn cứ thuộc về mệnh lý Manh phái. Lúc này các lý luận ví dụ
đoán mệnh đối với hai vị Manh sư Hác Kim Dương và Hạ Trọng Kỳ để lại, ngoại trừ ví dụ cá
biệt, phần lớn giải thích đều có thể dành cho là hết sức thích hợp.
Hệ thống lý luận của mệnh lý Manh phái, đặc điểm chủ yếu chính là bỏ qua nhật chủ vượng
suy, không nói đến bát tự cân bằng, đây là tính cải cách dồi dào đối với tư tưởng của mệnh lý
truyền thống, cũng là diễn đạt gần gũi nhất đối với bản chất của mệnh lý. Đồng thời cơ bản là
nó cũng phế bỏ khái niệm Dụng thần và Kỵ thần trong mệnh lý truyền thống, mà chỉ xem kết
cấu của bát tự, tức là xem Tố công của bát tự, xem tượng bát tự. Phải dùng đến một vài loại
khái niệm đó là Khách Chủ, Thể Dụng, năng lượng và hiệu suất, cùng can chi phối hợp để giải
thích một vài phương pháp cơ bản trong mệnh lý, nhưng những khái niệm này đều thuộc về
phạm trù Lý pháp trong khóa học sơ cấp, mà Manh phái đoán mệnh rất lợi hại vẫn là vận dụng
Tượng pháp và Kỹ pháp.
Hệ thống mệnh lý Manh phái giảng chính là Tố công, mà khái niệm Tố công này càng phù hợp
với cuộc sống. Manh phái bỏ không xem nhật chủ suy vượng, là vì sao? Bởi vì nhật chủ suy
vượng ở trong bát tự là không có bất kỳ ý nghĩa nào. Cho tới bây giờ không thấy qua nhật chủ
vượng là người có thân thể mạnh khỏe, cũng không có thấy qua nhật chủ suy thì con người có
thân thể kém. Bản chất mệnh lý bát tự là chỗ mô tả cuộc đời con người, cho nên, nội dung bát
tự mô tả nhất định phải có cùng nội dung cuộc đời là phù hợp với nhau.
Mệnh lý Manh phái luận mệnh có 3 phép tắc lớn, đó là: Một là Lý pháp, hai là Tượng pháp, ba
là Kỹ pháp. Ở trong quá trình phán đoán mệnh cục, cả 3 phép tắc lớn này cũng không phải là
một khái niệm cô lập, mà là phải có sự kết hợp qua lại để vận dụng, chẳng qua là nhằm vào
mệnh cục khác nhau, mà có chỗ nghiêng về phương pháp phán đoán mà thôi.
Chỗ tài liệu này đối với Lý pháp, Tượng pháp cùng Kỹ pháp của Manh phái đều có chỗ đề cập,
trọng điểm nói là giải thích Lý pháp, đều là tri thức nhập môn của mệnh lý Manh phái, tất cần
phải nắm chắc.
Một, Lý pháp
Lý pháp là học tập tri thức cơ sở nhất cùng bắt tay vào phân tích bát tự của mệnh lý Manh
phái. Bao gồm tính chất âm dương ngũ hành, can chi, cùng chỗ phát sinh quy luật tác dụng
hình, xung, khắc, hợp, phá, hại, mộ của chúng, dưới đây là nói đến một vài loại khái niệm cơ
bản về Khách Chủ, Thể Dụng, Tố công, Hiệu suất, can chi phối hợp, can chi hư thực, cũng
thuộc về phạm trù Lý pháp. Xem Tố công bát tự là trọng điểm quan trọng ở trong Lý pháp.
Xem bát tự là phải bắt tay từ đâu chứ? Làm sao có thể từ trong bát tự nhìn ra mệnh chủ là phú
quý hay bần tiện chứ? Ở lúc vận dụng một vài phương diện này chủ yếu vẫn là Lý pháp. Nhưng
sau khi nắm chắc Lý pháp, chỉ mới có phán đoán ra cát hung bát tự, như có thể xem ra đẳng
cấp phú quý bần tiện của một bát tự, cùng khả năng đặc điểm nghề nghiệp, đương nhiên đối
với mỗi một bước đại vận của nó, cùng mỗi một lưu niên cát hung, cũng có thể phán đoán đại
khái, về phần phải nắm sự tình đoán ra rất cụ thể, thì Lý pháp là không thể đoán hết được.
Tổng kết Lý pháp chính là một câu nói, chủ yếu là làm cho bạn có thể đọc hiểu bát tự cát
hung.
Lý pháp là nội dung trọng điểm khóa học sơ cấp của mệnh lý Manh phái, mấu chốt là phải nắm
chắc phương pháp tố công bát tự như thế nào.
Tượng pháp là vật lợi hại nhất của mệnh lý Manh phái, nó là cụ thể hóa và hình tượng hóa để
phán đoán cát hung đối với nguyên mệnh cục cùng đại vận lưu niên. Tượng pháp của mệnh lý
Manh phái bao gồm các loại tượng can chi, tượng cung vị, tượng Thập Thần cùng tượng Thần
Sát. Bản thân kết cấu bát tự là biểu thị một loại tượng, thông qua xem tượng, chúng ta có thể
đem một vài sự tình phán đoán được hết sức cụ thể, giống như tận mắt nhìn thấy hình dáng.
Ví dụ như xem tình huống ở một vận một năm nào đó của một bát tự, dùng Lý pháp chỉ có thể
nhìn ra cát hung, nhưng cụ thể là cát hay là hung ở một phương diện nào đó? Là sinh bệnh,
phá tài hay là có kiện tụng lao tù? Hoặc là năm này có thăng quan, phát tài, nhận được vinh
dự? Như vậy phán đoán cụ thể, thậm chí càng tiến thêm một bước cụ thể hóa, đơn thuần dùng
Lý pháp thì không cách nào biết hết được. Nhưng nếu dùng Tượng pháp thì hoàn toàn có thể
giải quyết được những vấn đề này. Có bát tự, không phân tích đến Tố công, chỉ xem tượng, là
có thể đoán ra rất nhiều sự tình cụ thể. Tóm lại, học tốt Tượng pháp, có thể làm cho suy đoán
bát tự đạt đến cảnh giới xuất thần nhập hóa, hơn nữa Tượng pháp còn phán đoán tính hình
tượng và tính chuẩn xác bát tự, phải cao hơn xa so với Lý pháp.
Thực ra, ở trong quá trình dùng mệnh lý Manh phái đoán mệnh, sử dụng Tượng pháp là không
chỗ nào không có mặt, lớn như một tổ hợp tứ trụ, nhỏ như một tổ can chi của đại vận hoặc lưu
niên, thậm chí một chữ bất kỳ nào đó ở trong toàn bộ mệnh cục, đều sẽ có vận dụng đến
Tượng pháp. Có bát tự có tố công, có bát tự có tượng, có công có tượng đều tồn tại. Quan hệ
giữa Tố công và Tượng, thong thường trước tiên là phải xem Tố công, sau đó lại xem Tượng,
đương nhiên bát tự có công có tượng phải xem cả công và tượng, công và tượng là không có
mâu thuẫn.
Khóa học sơ cấp mệnh lý Manh phái sẽ đề cập đến một bước vận dụng Tượng pháp, như Hoán
tượng, Đái tượng, hàm nghĩa loại Thập Thần cùng hư thấu, nhưng trọng điểm là vận dụng
Tượng pháp ở tầng lớp cao thâm, chủ yếu là đặt ở khóa học trung cấp.
Ba, Kỹ pháp
Kỹ pháp là bộ phận khó nhất trong hệ thống mệnh lý Manh phái, chủ yếu bao gồm một vài
khẩu quyết qua các thời đại của Manh nhân truyền lại. Ví dụ như "Chế khử Tài (hoặc Quan,
Sát) cùng nguyên thần của Tài (hoặc Quan, Sát) là người phát đại tài (hoặc làm quan)", "Tọa
dưới khố Tài (hoặc Quan Sát) hỉ hình xung", "Giáp sinh tháng Dậu hỉ thủy nhuận, Ất sinh tháng
Dậu cần hỏa công", "Ngoại Thực nội Sát là người làm thầy giáo" … Những câu khẩu quyết này
đều là tổng kết kinh nghiệm trải qua nhiều năm hình thành ở trong các thời đại Manh sư đoán
mệnh sinh nhai, có lúc cũng không có nói ra đạo lý cụ thể của nó, nhưng lúc vận dụng lại hết
sức chuẩn xác. Bộ phận nội dung này là tuyệt hoạt của mệnh lý Manh phái. Ví dụ như muốn
xem một vài ví dụ cha mẹ có bị khắc hay không, hoặc là có khỏe mạnh hay không, đều thuộc
về phạm trù Lý pháp, nhưng phải dùng đến Tượng pháp, cuối cùng vẫn là phải nhờ vào Kỹ
pháp để định đoạt. Phân tích tình huống hôn nhân một bát tự, ví dụ như thuộc về hôn nhân có
chất lượng không cao, hay là sẽ có mấy lần hôn nhân, hoặc là cả đời không có hôn nhân, cũng
sẽ có vận dụng đến Lý pháp và Tượng pháp, nhưng mấu chốt vẫn là thông qua Kỹ pháp để
đoán.
Chúng ta đã biết, phép xem mệnh lý truyền thống, chủ yếu là nói nghiên cứu đến cân bằng
mệnh cục. Tức là trước tiên phải lấy Nguyệt lệnh vượng suy làm cơ chuẩn, để phân tích nhật
chủ và những thập thần khác, căn cứ vượng suy để tìm ra dụng thần, kỵ thần của nhật chủ,
đồng thời biện rõ cách cục bát tự …, sau đó căn cứ đại vận lưu niên để phán đoán cát hung
toàn mệnh cục. Mệnh lý Manh phái nếu như đã bỏ đi các loại phương pháp luận mệnh của
mệnh lý truyền thống này, vậy thì nó là dùng phương pháp gì để luận mệnh chứ?
Mệnh lý Manh phái cho rằng, 8 chữ trong tứ trụ là biểu đạt cụ thể đối với cuộc đời của mệnh
chủ. Như vậy, 8 chữ này là làm sao để biểu đạt cuộc đời con người chứ? Phái Manh sư đối với
chỗ này là có đủ nhận thức không phải là tầm thường. Bởi vì mệnh lý Manh phái truyền lại đều
là trải qua truyền lại bằng miệng mà tâm nhận lấy được, không thành lập văn tự, là càng lý
giải tốt chỗ học thuyết này, chúng ta ở lúc nắm chắc trên cơ sở lý luận Manh phái, phải sáng
tạo ra một vài khái niệm trước đây không có, để luận thuật những hệ thống mệnh lý độc đặc
này. Phương pháp đoán mệnh của mệnh lý Manh phái, tất nhiên là không có ly khai ra khỏi
việc vận dụng 3 nguyên tắc lớn Lý pháp, Tượng pháp, Kỹ pháp, học tập nội dung khóa sơ cấp
là lấy Tố công trong Lý pháp làm chủ, trong đó đầu tiên là phải hiểu rõ thường phải dùng đến
mấy khái niệm cơ bản nhất trong Lý pháp.
"Khách" là chỉ người khác hoặc là vật thuộc về người khác, "Chủ" là chỉ bản thân mình hoặc là
vật thuộc về mình. Một đôi khái niệm này ở trong mệnh lý Manh phái có ý nghĩa độc đặc, tức là
chủ yếu dùng để phân biệt vật gì trong mệnh cục là của mình, vật gì là của người khác, cũng
chính là dùng để biểu đạt mệnh chủ quan hệ với thế giới bên ngoài cùng cuộc sống.
Thực ra, Dịch ở trong văn hóa cổ đại có rất nhiều thuật dự trắc ít nhiều cũng có đề cập đến
khái niệm "Khách, Chủ", nhưng rất ít khi dùng ở phương diện mệnh lý tứ trụ. Ví dụ như ở trong
quẻ Lục Hào, hào thế cùng là hào làm Chủ ở trong quẻ, mà Hào ứng cùng nhật nguyệt Hào
biến là Khách; Phong Thủy, Kỳ Môn, Lục Nhâm, Mai Hoa Dịch số đều có nói đến Khách Chủ,
chẳng qua pháp nói của chúng ta là "Chủ và Khách", "Thể và Dụng", "Thiên Địa Nhân", tên gọi
tuy có khác nhau, nhưng bản chất đều là như nhau. Tóm lại, chỗ nói "Khách, Chủ" là muốn
biểu đạt chính là quan hệ giữa "Ta là Chủ thể" cùng "Vật bên ngoài là Khách thể".
Cuộc đời trải qua rất nhiều người và sự việc, cũng đều có thể phân chia ra thành hai bộ phận
lớn, đó là "Khách" và "Chủ", thông qua Ta (Chủ) cùng con người và sự vật ở thế giới bên ngoài
(Khách) phát sinh các loại quan hệ và liên quan, từ đó mà cấu thành vận mệnh cuộc đời rối ren
phức tạp. Mệnh lý Manh phái cho rằng, 8 chữ tứ trụ cùng cuộc đời trải qua và từng loại gặp
được có đủ từng loại quan hệ đối ứng, cuộc đời có cái gì, trong bát tự cũng hẳn là có cái đồng
dạng, có vài cái là của mình, có vài cái lại của người khác, mà Khách và Chủ chính là một loại
phương pháp mô tả làm sao để phân biệt bản thân mình cùng người khác ở trong bát tự.
Khách và Chủ là một đôi khái niệm đối nghịch nhau, phân ra tầng lớp. Trong mệnh lý là từ góc
độ Cung vị tìm ra quan hệ "Ta là Chủ thể" cùng "Vật bên ngoài là Khách thể" giữa Khách và
Chủ. Lấy Lục Thân làm ví dụ, căn cứ hàm nghĩa Khách và Chủ tìm ra phạm vi khác nhau,
"Khách, Chủ"trong mệnh cục tối thiểu có 4 tầng hàm nghĩa như sau:
+ Hàm nghĩa tầng thứ nhất: Nhật can là Chủ, can chi còn lại là Khách.
Nhật can là đại biểu bản thân của mệnh chủ, là Chủ; chi ngày và 3 trụ năm, tháng, giờ đều là
Khách. 7 chữ khác đều là Khách cũng có hàm nghĩa riêng biệt: Tức chi ngày là phối ngẫu, trụ
giờ là con cái, trụ tháng là anh em hoặc là cha mẹ, trụ năm là ông bà hoặc là cha mẹ; so với
nhật chủ, bọn họ đều là "Người khác" phải đối diện với nhật chủ, là Khách của nhật chủ.
+ Hàm nghĩa tầng thứ hai: Trụ ngày là Chủ, trụ khác là Khách.
Trụ ngày là chỗ nhật chủ cùng tọa chi cung phối ngẫu, cả hai tổ thành nhà của nhật chủ; chỗ
tiểu gia đình này còn phải đối diện với nhà của nó, tức là trụ năm là nhà cha mẹ, trụ tháng là
nhà của anh chị em, trụ giờ là nhà của con cái. So với cái nhà của trụ ngày, những nhà khác
đều là "Nhà của người khác". Như vậy, trụ ngày là Chủ, những trụ khác là Khách.
+ Hàm nghĩa tầng thứ ba: Trụ ngày, giờ là Chủ, trụ năm tháng là Khách.
Nhật chủ cùng tọa dưới phối ngẫu, trụ giờ là con cái lại tổ thành một gia đình; trụ năm, tháng
là cha mẹ, anh em, thì là một tiểu gia đình của trụ ngày, giờ phải đối diện. Như vậy, trụ ngày,
giờ thì là Chủ, trụ năm, tháng lại là Khách.
+ Hàm nghĩa tầng thứ tư: Tứ trụ bát tự là Chủ, đại vận lưu niên là Khách.
Từ toàn bộ mệnh cục (bao gồm cả đại vận, lưu niên) mà nói, tứ trụ là đại gia đình của mệnh
chủ, là Chủ; còn đại vận và lưu niên thì là ở bên ngoài, từ bên ngoài tác dụng với bát tự của ta,
sản sinh ảnh hưởng đối với bát tự, thì đại vận lưu niên là Khách. Nhưng đại vận hoặc lưu niên
cùng một chữ xuất hiện trong mệnh cục, thì không phải là Khách, mà là chữ đến trong mệnh
cục, thông thường là biểu thị ứng kỳ của nguyên mệnh cục.
Hàm nghĩa 4 tầng ở trên, ở trong hệ thống Manh phái luận mệnh rất là quan trọng. Thông
thường chỗ nói Chủ vị, chính là chỉ trụ ngày, giờ, trọng điểm là ở trụ ngày. Ở lúc phân tích tứ
trụ cụ thể, phải lấy ý tứ tầng thứ hai làm chủ, xem nhật chủ bát tự (hoặc là Lộc) cùng tọa dưới
chi ngày cùng can chi khác phát sinh quan hệ cái gì. Nếu như trụ giờ thấy Lộc hoặc là chỗ Thực
Thương nhật chủ sinh ra, lúc này cũng có thể lấy trụ giờ làm Chủ vị để xem.
Khách Chi ngày và 3 trụ năm, Trụ năm và trụ tháng, Trụ năm, trụ Đại vận, Lưu
vị tháng, giờ. trụ giờ. tháng. niên.
Bát tự phân chia Chủ Khách, rốt cuộc là có ý nghĩa gì chứ?
Ví dụ như xem Tài và Quan của một mệnh cục, thì xem Tài, Quan rơi ở vị trí nào. Nếu như Tài
Quan rơi ở Chủ vị, biểu thị Tài, Quan này chính là của ta; nếu Tài Quan rơi ở Khách vị, vậy thì
trở thành của người khác. Trước tiên cần phải định vị như vậy, nhưng sau khi định vị như vậy
vẫn chưa đủ, còn phải phân tích quan hệ qua lại giữa Chủ và Khách, xem Tài Quan có cùng ta
(tức là Chủ) có chỗ liên quan hay không, hoặc là có chỗ ta dùng hay không, giữa hai bên có
liên quan hay không, từ đó tiến lên một bước là phân tích tầng lớp của mệnh cục này.
Nếu như năm tháng thấy Tài Quan, đây vốn là biểu thị Tài Quan ở bên ngoài, mặc dù nó rơi ở
Khách vị, nhưng nếu có cùng Chủ vị có liên quan nhất định, nếu như thông qua quan hệ nhất
định bị chỗ Chủ vị chế, hoặc là nó bị chế là bị chỗ chủ vị được, thì chỗ Tài Quan này cũng có
thể trở thành của mình (Loại ví dụ này sau này sẽ nói đến rất nhiều). Nếu như Chủ vị tuy có
Tài Quan, nhưng ở trong mệnh cục không có bị chỗ Thể của nó tác dụng, giống như đem tiền
bạc bỏ vào trong quỹ bảo hiểm, không có đem tiền đi tiêu phí, thì chính là đồng tiền chết, đối
với ta cũng sẽ không mang đến chỗ tốt đẹp gì. Cho nên, đơn thuần Tài Quan ở trên Chủ vị, nếu
như không có Tố công, là không có ý nghĩa gì, Tài Quan tọa chi nhất định cũng phải dùng để tố
công. Có người sẽ không yên tâm, khử Tài ở Chủ vị, có biểu thị là bản thân bị người cướp Tài
hay không? Đương nhiên không phải là nhất định.
Là chỗ ta truy cầu, mục đích của ta là cùng vật của muốn lấy được, một loại này đều thuộc về
"Dụng". Tài và Quan ở trong Thập thần chính là loại vật mà mọi người đều muốn có được và
truy cầu, thuộc về Dụng (cần phải chú ý là, chỗ nói "Dụng" ở đây, cùng chữ "Dụng thần" ở
trong mệnh lý truyền thống là hai khái niệm khác nhau).
Thông thường mà nói, Tài hoặc Quan chính là mục tiêu của mọi người chỗ muốn truy cầu ở
trong cuộc sống, đại biểu tài phú, thân phận, địa vị, vinh dự, quyền lực ở trong cuộc sống hiện
thực, đương nhiên, có vài người truy cầu là ranh giới tinh thần hoặc là tinh thần hưởng thụ, đó
cũng là thuộc về phạm trù của Thực Thương. Mất đi những mục tiêu cuộc sống này, thì ở trong
mệnh cũng sẽ không có ý nghĩa gì.
Nhưng mà, Thực thần và Thương quan có điểm đặc thù, bởi vì hàm nghĩa của Thực Thương là
thuộc về phạm trù của riêng tinh thần con người, có trí lực, tư tưởng, vui vẻ, hưởng thụ, tài
phú, đầu óc, kỹ thuật, thủ nghệ, học lực, cả hai vừa thuộc về bản thân của chúng ta, lại có thể
trở thành vật của chúng ta truy cầu. Căn cứ nhu cầu trong mệnh cục, chúng nó vừa có thể là
Thể, lại vừa có thể là Dụng. Như nhất định phải phân chia, thì Thực thần càng gần với Thể, còn
Thương quan thì gần với Dụng.
Xếp bảng như sau:
Thể Dụng
Nhật chủ, Lộc, Tỉ Kiếp, Ấn tinh Thực thần, Thương quan Tài tinh, Quan (Sát) tinh
Khái niệm phân chia Thể và Dụng, vẫn cứ phải xem Tài Quan có quan hệ cùng với Thể hay
không, tức là xem Thể có đủ thoả mãn dục vọng truy cầu Tài Quan hay không. Ở trong xã hội
hiện thực, Tài Quan tồn tại khắp nơi, có biện pháp lấy được đương nhiên là có thể thăng quan
phát tài, không có biện pháp cũng chỉ có thể ngắm mà nhìn than thở. Mệnh lý là biểu đạt đối
với cuộc đời, chỗ bát tự biểu đạt trong mệnh, cùng đạo lý trong cuộc đời là như nhau.
Tài và Quan ở trong mệnh cục là Dụng, là vật mà Thể muốn truy tìm. Trong mệnh cục có Tài
Quan, cũng không thấy mệnh chủ là có được tài hoặc là làm quan, nếu như Tài Quan cùng Thể
không có quan hệ, mệnh chủ cũng không có. Lấy Quan làm ví dụ, người không làm quan cũng
không nhất định là trong mệnh cục không có quan, trái lại, có lúc Quan Sát ở trong cục rất
vượng, nhưng không có chế không có hóa thì không có công, là hại ở trong cục, trái lại là biểu
thị mệnh chủ ở phương diện Quan là hung. Phép xem Tài cũng vậy, như năm tháng thấy thuộc
về dụng Tài, nhưng cùng Thể không có liên quan, thì Tài này tuy là hiện rõ ở mệnh cục, nhưng
cũng là của người khác. Cho nên, Thể tất cần phải cùng với Dụng có phát sinh quan hệ nhất
định, tức là giữa cả hai có loại quan hệ hình, xung, hợp, hại, phá, mộ, mới có khả năng là sử
dụng Tài, Quan bị nhật chủ (hoặc Thể) lấy được. Bát tự chính là để biểu thuật cuộc đời như
vậy.
Bát tự phân ra Thể Dụng, có ý nghĩa cùng Chủ Khách gần như nhau, đều là chỗ dùng thủ đoạn
của mệnh lý Manh phái phân tích bát tự, chỉ qua là ở góc độ vận dụng khác nhau mà thôi, đều
có phạm vi sử dụng.
Mệnh lý Manh phái dẫn nhập khái niệm năng lượng và hiệu suất, chủ yếu là đánh giá hiệu suất
tố công bát tự cao hay thấp, cũng chính là để phân biệt tầng lớp bát tự phú quý bần tiện, bởi vì
hiệu suất tố công bát tự cao hay thấp, trực tiếp chủ tể được mức độ mệnh chủ phú quý bần
tiện. Hiệu suất Tố công cao, thì tầng lớp bát tự khá cao; hiệu suất tố công kém, thì tầng lớp
bát tự khá thấp. Kết cấu bát tự của người thành công là có hiệu suất mà lợi dụng năng lượng;
bát tự người bình thường thì vừa đúng là không có hiệu suất mà làm lãng phí năng lượng. bát
tự của người thành công thì Công thần nhiều còn Phế thần ít, hoặc là Công thần tuy ít nhưng
hiệu suất Tố công khá cao; bát tự người bình thường thì Phế thần nhiều còn Công thần ít, hoặc
tuy có Công thần nhưng hiệu suất tố công thấp. Thông qua sự đánh giá như vậy, thì chúng ta
có thể từ trong mệnh cục phân biệt ra đẳng cấp phú quý bần tiện của một người. Cụ thể đánh
giá hiệu suất tố công cao thấp như thế nào, ở trong chương tiết sau này chúng ta sẽ nói đến ở
trong các ví dụ cụ thể, sẽ có giảng giải tường tận.
Một chữ ở trong bát tự bị chế, nhưng không có chế tử, loại tình huống này cũng có tố công,
nhưng không gọi là kết cấu"Tặc và Bộ". Hai loại kết cấu của mệnh cục này, phương pháp phân
tích đại vận lưu niên là khác nhau. Ngoài ra, mệnh cục có chữ xem là kết cấu"Tặc và Bộ",
nhưng ở lúc phân tích điều kiện cụ thể, đại vận hoặc lưu niên lại phát hiện Bộ thần xuất hiện
lại ứng cát, ở đây thì thuyết minh chữ nào đó ở trong mệnh cục cũng không có bị chế tử, thì
không phù hợp với kết cấu Tặc và Bộ thần. Cho nên, lúc nào một chữ nào đó ở trong cục chế
sạch, lúc nào là không có chế sạch, nhất định phải phân biệt rõ ràng.
Thực ra, bản chất kết cấu "Tặc bộ", chính là nguyên cục có một phương hình thành thế lớn
mạnh (tức là Bộ thần), chế tử, chế sạch lực lượng bên kia đối nghịch suy nhược (tức là Tặc
thần), nhưng thường là bởi vì lực lượng hai bên khác nhau xa, cho nên hiệu suất Tố công
không cao, đặc biệt là một loại kết cấu "Bộ thần" trong nguyên cục quá vượng mà không có
"Tặc thần" càng là như vậy. Loại tình huống này, thì chỉ có đợi đến đại vận (hoặc là lưu niên)
xuất hiện Tặc thần, bị thế nguyên cục lớn mạnh chế khử, hiệu suất tố công khá cao, bát tự mới
biểu hiện là cát. Đây cũng chính là nguyên nhân căn bản tại sao nói kết cấu "Tặc Bộ" thích đi
đến đại vận Tặc thần (hoặc là lưu niên).
Đưa VD, Càn tạo: Quý Tị, Đinh Tị, Giáp Tuất, Kỷ Tị.
Đại vận: Bính Thìn, Ất Mão, Giáp Dần, Quý Sửu, Nhâm Tý, Tân Hợi, Canh Tuất.
Phân tích: Nhật chủ Giáp mộc vô căn, không xem khí. Bát tự có khí thế, thì xem thế tố công
như thế nào. Địa chi Tị hỏa và Táo thổ Tuất kết đảng thành thế, trụ năm Quý Tị tự hợp, Tị
vượng chế khử Quý thủy, thiên can Đinh khắc Quý (phản khắc), Quý thủy Ấn tinh bị Thực
Thương chế sạch. Tị chế Quý, Tị lại nhập vào Tuất mộ ở Chủ vị, Tuất cũng ở trong thế hỏa thổ,
công này chính là của nhật chủ. Ấn đại biểu quyền lực, chế Ấn đắc quyền, người này chính là
mệnh làm quan.
Mệnh cục hỏa và táo thổ rất vượng, Quý thủy cực nhược mà bị chế sạch sẽ, là kết cấu "Tặc
Bộ", Quý thủy là Tặc thần. Đại vận tẩu đến Quý Sửu, Nhâm Tý, Tặc thần đáo vị, là ứng kỳ
trong cục chế Quý, người này thăng đến chức Phó bí thư Khu ủy.
Trong cục có Ấn tinh Quý thủy thái nhược, Tị hợp chế Quý hiệu suất tố công cũng không lớn,
may là đến đại vận Tặc, Tặc vượng, thì tố công cũng lớn, lại có nhật chủ tọa dưới Tuất thổ có
thể đem Công thần Tị hỏa mộ, mệnh chủ mới làm đại quan. Đây là đặc điểm chủ yếu tố công
của mệnh cục này.
3, Cung vị tứ trụ đại biểu không gian sinh hoạt của mệnh chủ. Trụ năm đại biểu phương xa, trụ
tháng đại biểu tổ tịch, chi ngày đại biểu chỗ ở hiện tại, trụ giờ đại biểu môn hộ. Ví dụ như đoán
mệnh chủ là muốn đi ra khỏi nhà hay không, thì xem ở trên trụ năm và trụ giờ, bởi vì trụ năm
đại biểu phương xa, trụ giờ đại biểu cánh cửa nhà, môn hộ (giờ) đại biểu địa phương xa hơn so
với trụ năm.
4, Cung vị tứ trụ đại biểu người cùng mệnh chủ có tuổi tác khác nhau hoặc là có quan hệ khác
nhau. Trụ năm đại biểu người ngoài, trưởng bối hoặc người già; trụ tháng đại biểu bạn học,
đồng sự, lãnh đạo; chi ngày đại biểu người cùng bản thân có quan hệ hết sức gần gũi (như
chồng hoặc là vợ); trụ giờ đại biểu vãn bối, học trò, bạn bè, thuộc hạ.
5, Cung vị tứ trụ đại biểu bộ vị khác nhau trên thân thể của mệnh chủ. Trụ năm cự ly rất xa
nhật can, đại biểu chân tay, tứ chi; trụ tháng đại biểu bộ phận thân thể (trừ đầu và tứ chi),
như vai, gáy, lưng; chi ngày đại biểu bộ vị rất trọng yếu trên thân thể, như ngũ tạng, lục phủ,
tim, não, tủy; trụ giờ đại biểu khí quan thân thể cùng tương thong với bên ngoài, như bộ vị
đầu, mặt, tay, mắt, mũi, tai, miệng, cơ quan sinh dục, cơ quan bài tiết phải lộ ra bên ngoài.
Đoán ngữ viết: "Nhật chủ tọa căn liền thể thì không thể phá, phá đối với thọ mệnh hoặc là sức
khỏe có tổn hại", bởi vì trụ ngày đại biểu ngũ tạng, lục phủ bộ phận cơ quan trọng yếu nhất
của con người, cho nên trụ ngày không thể bị thương, mà năm tháng đại biểu chân tay, bộ
phận thân thể, tổn thương đối với thọ mệnh con người thong thường sẽ không có ảnh hưởng.
Điều đoán ngữ này chính là từ trong thủ tượng cung vị tứ trụ kéo dài ra.
6, Cung vị tứ trụ đại biểu vật sử dụng của con người. Trụ năm đại biểu vật của trẻ con hoặc là
của người khác; trụ tháng đại biểu tổ sản, gia nghiệp, đơn vị (Quan tinh ở trụ tháng là đại biểu
đơn vị công tác của mệnh chủ), học nghiệp; chi ngày đại biểu nhà cửa, phòng ngũ, tài sản; trụ
giờ vật ở trên môn hộ đại biểu xe, cửa, y phục, nón mũ, mắt kính, hóa trang, tiền tài ra vào. Ví
dụ như xem lúc ngồi xe đi ra khỏi nhà, thì xem từ tụ giờ, bởi vì trụ giờ đại biểu cánh cửa ra
vào.
7, Cung vị tứ trụ đại biểu ý chí và tình thương của con người. Có người ý chí khá suy nhược, dễ
dàng bị chỗ hoàn cảnh bên ngoài ảnh hưởng; trái lại, cũng có người có ý chí kiên cường, có khí
phách, giỏi về làm ảnh hưởng đến người khác, … Những đặc điểm này từ cung vị tứ trụ cũng có
thể nhìn ra.
8, Trong bát tự tứ trụ, thiên can ở bên ngoài, đại biểu hình tượng con người, như đặc trưng
bên ngoài, tính cách dễ làm cho người ngoài nhận biết đặc điểm này; còn địa chi ở bên trong,
đại biểu tính chất nội tại của con người, như thế giới nội tâm, quan hệ cùng người nhà, luôn là
những người có tư tưởng và tâm trạng khá kín đáo. Ví dụ như trong mệnh cục có Chính Ấn ở
thiên can không bị tổn thương là tốt, Lộc ở địa chi lại bị xuyên phá, Chính Ấn đại biểu tâm tính
con người, thuyết minh người này có tâm tính không tốt, bề ngoài nhìn như người tốt, thực tế
ở trong bóng tối chuyện gì xấu cũng đều làm.
Lục thân Ông bà, cha mẹ, Cha mẹ, anh chị Chồng (hoă ̣c Con cái
cha mẹ chồng, em vợ)
cha mẹ vợ.
Phạm vi Tuổi thơ, còn nhỏ Thời kỳ thanh Thời kỳ trung Thời kỳ về già
thời gian niên niên
Chỗ Phương xa, hải nguyên quán, Chỗ ở, nơi làm Môn hộ, ra cửa, phương
Không ngoại, Biên giới quê hương, gốc viê ̣c xa.
gian rễ.
Nhân vật Họ ngoại, người Bạn học, đồng Người rất thân, Vãn bối, trẻ em, học trò,
ngoài, trưởng bối, sự, đồng hương, rất gần. bạn bè, thuô ̣c hạ.
người già lãnh đạo.
Thân thể Chân cẳng, tứ chi Thân thể: lung, Ngực, lục phủ Đầu, mă ̣t, tay, mắt,
gáy, vai ngũ tạng: tim, miê ̣ng, mũi, tai, bô ̣ phâ ̣n
não, tủy. sinh dục, bô ̣ phâ ̣n bài
tiết.
Đồ vật Giầy, vâ ̣t của tổ Tổ sản, gia Nhà cửa, Xe, cửa, y phục, mũ nón,
thượng hoă ̣c của nghiệp, đơn vị, phòng ngũ, tài mắt kính, hóa trang, tiền
người khác. học nghiệp. sản riêng. tài ra vào.
Tình Hoàn cảnh bên Ảnh hưởng cha Thế giới nội Năng lực giao tế và lực
thương ngoài. mẹ tâm. ảnh hưởng.
Hai, Cung vị cát hung
Thông thường mà nói, trụ năm là cát thần mà đắc lực, thì là sinh ra có gia cảnh khá tốt, người
thế hệ ông bà có trải qua sự vinh diệu; nếu bị trụ tháng xung khắc (ngay giờ khá xa, không có
lực xung khắc mà thong thường không phải là kỵ, cụ thể còn phải xem lực lượng lớn hay nhỏ),
thì tổ bối bị phá sản, bại lạc, nhiều thiên biến di dời, đa số tin tức là đại biểu mệnh chủ trước
lúc sinh ra. Ở đây chỗ nói cát thần, tức là Công thần ở trong mệnh cục, là chữ phải dùng ở
trong mệnh cục (hoặc là Thần). Cung vị tố công, tức là Cát thần.
Cát thần ở trụ tháng đắc lực, thì bản thân mệnh chủ có thể hưởng thụ sự che chỡ của trưởng
bối, có thể thừa kế sản nghiệp cha ông để lại; nếu bị trụ năm hoặc là trụ ngày xung khắc, thì
lại đại biểu tin tức rời xa quê hương, duyên lục thân kém, anh em bất hòa.
Cát thần ở chi ngày, chi ngày là cung phối ngẫu, thì là thê hiền phu quý, trung niên có thể
chấn hưng gia nghiệp. Người có mệnh cục loại này, có thể được phối ngẫu trợ giúp, hôn nhân
thong thường đều khá tốt. Nếu bị chi khác khắc, phá hoặc là hóa hợp làm kỵ, thì đại biểu tốt
mà không lâu dài, hoặc là hôn nhân nửa đường phải ly tan, hoặc là góa vợ (chồng) đi thêm
bước nữa. Cụ thể xem hôn nhân như thế nào, sẽ nói ở lớp dạy trung cấp.
Cát thần ở trụ giờ, thì con cháu tài năng xuất chúng, hiếu kính mình; nếu bị xung khắc, thì tốt
mà không lâu bền hoặc là rời xa mình. Nếu trụ giờ là kỵ, thì đại biểu con cháu bất hiếu, hung
ngoan, về già thê lương.
Cần chú ý, nếu như chỗ cát thần ở trụ bị trụ khác kỵ thần xung khắc, mà kỵ thần này lại bị
thần khác chế, thì kỵ này không phải là kỵ. Lúc phân tích mệnh cục phải cẩn thận suy xét,
không thể đường đột mà đưa ra kết luận. Kỵ thần ở đây là chỉ Thập thần ở trong mệnh cục
khởi tác dụng phá hư, cùng chữ Dụng, Kỵ thần trong mệnh lý truyền thống là có phân biệt
khác nhau.
【Loại tượng chung về Chính Thiên Ấn 】: Chức vụ, nghề nghiệp, chức danh, quyền lực,
con dấu, chứng thư, khế ước, trí lực, trí tuệ, tri thức, vinh dự, khen thưởng, hậu đài, học thuật,
học vị, sự nghiệp, đơn vị, nơi công tác, chỗ ở, nhà cửa, y phục, xe, chỗ nương tựa, bảo hộ cho
ta, y dược; chỗ nhân vật đại biểu là thầy giáo, cha mẹ, trưởng bối; đem đối ứng bộ vị thân thể
là đầu, tóc, da, tứ chi.
Ví dụ như muốn xem mua nhà cửa, thì phải xem Ấn và chi ngày (Nhật chủ tọa chi cũng đại
biểu nhà cửa, là nhà của nhật chủ). Trong mệnh cục Ấn bị chế, thông thường là xem được
quyền lực. Đối với học thuật, Chính Ấn là học thuật chính thống, Thiên Ấn là không chính
thống.
1, Chính Ấn: Là cùng sinh nhật chủ dị tính, hàm nghĩa là "Có thể làm cho ta sinh trưởng mà
cùng ta có quan hệ tốt đẹp", hàm nghĩa tâm tính, có ghề nghiệp chính thống, văn hóa, văn
bằng, quyền lực, mẫu thân, hướng nội, ổn định, thích tĩnh không thích động, nhân từ, nhân ái,
khoan dung, tôn nghiêm, có tu dưỡng, phụng hiến, có tâm tín ngưỡng tôn giáo, cần cù, thành
thật, bình an, có phúc khí, trọng danh tiết, có phẩm hạnh, trọng tình cảm, nhẫn nại, hài hoà,
danh lợi đạm bạc, không giỏi giao tiếp.
Chính Ấn quá trọng cũng có biểu hiện là tâm tính mặt phụ, như ỷ lại, lười nhác, theo trào lưu,
không có chủ kiến, thiếu khuyết lực tự cường hoặc là tình cảm, thiếu khuyết tính trôi chảy, tự
cho là đủ, ngu muội, không quả đoán, lực lĩnh ngộ kém, thiếu tinh thần tiến thủ độc lập. Ở
dưới tình huống không có áp lực (Quan Sát là áp lực), dễ sinh tính lười biếng.
Trong mệnh cục Chính Ấn hữu dụng, có thể tham gia hành nghề nhân viên công vụ, giáo sư,
văn hóa, nhân sĩ tôn giáo, sự nghiệp từ thiện, hộ sĩ.
2, Thiên Ấn: Là cùng sinh nhật chủ đồng tính, sinh không tình nguyện, tức là"Sinh ta mà bỏ
ta". Giống như cùng mẹ kế sinh hoạt ở một nơi vậy, tâm tính nhật chủ sẽ trở nên hết sức mẫn
cảm. Hàm nghĩa tâm tính có thể biểu thị lực suy xét cùng lực lĩnh ngộ, mẫn cảm, linh hoạt,
mưu trí, nhiều tư tưởng, thông minh, mưu lược, quỷ quyệt, đầu óc tốt, không nhọc mà có, có
sáng ý và phát minh, không thích học tập sách giáo khoa, không theo trào lưu, nghiêm túc,
độc đoán, có tâm tín ngưỡng tôn giáo …; trong mệnh cục năm tháng có Thiên Ấn, đa số còn
biểu thị cùng máu huyết xa với ông bà cha mẹ, hoặc ít có duyên phận.
Trong mệnh cục có Thiên Ấn quá trọng, cũng có biểu hiện tâm tính mặt phụ, như ích kỷ, lười
biếng, lãnh đạm, phúc bạc, hay bắt bẻ, đầu óc ngu muội, không thông nhân tình, không có
phúc hưởng thụ.
Trong mệnh cục Thiên Ấn hữu dụng, có thể tham gia nghề nghiệp có chức vụ mang tính kỹ
thuật, y sinh, nghệ nhân, nghề ngũ thuật, tôn giáo, tư vấn, luật sư, ký giả, biên tập, tình báo
viên, trinh sát viên, thiết kế sư, nhân viên kỹ thuật.
【Loại tượng chung về Quan Sát 】 là chức vụ, quan chức, quyền lực, công tác, danh vọng,
địa vị, quản lý, pháp quy, quan ti, pháp viện, lao ngục, thù hận, quan hại, tài phú, quan hệ bất
chính; nhân vật đại biểu là cấp trên, lão sư, trưởng bối, phụ thân, chồng hoặc là tình nhân (nữ
mệnh), tiểu nhân, kẻ thù, gian ác, đạo tặc; đối với thân thể người có thể đại biểu là thần kinh,
ngoại thương, tật bệnh. Quan Sát còn có thể đại biểu Tử tức tinh của nam mệnh. Xem con cái
như nhật chủ Kỷ Mão giả định thông minh, Mậu Dần cũng vậy, đặc biệt có nhiều mưu kế,
nhưng đa số có tính khí không tốt, tính báo thù mạnh mẽ. Như trong mệnh cục Quan Sát
không có chế hóa mà thành kỵ, thì đại biểu là kẻ tiểu nhân.
Trong mệnh cục như có Quan Sát, thì nhất định phải bị chế hoặc bị hóa, nếu không thì là hung,
xem là kỵ thần; cho dù không có chế tử chế sạch, chỉ cần phải bị chế hoặc có hóa là có công,
thì luận cát. Quan Sát ở trong mệnh cục tuy không có chế hóa, nhưng đi chế nó mà tố công,
chỉ cần Quan Sát cùng Chủ vị có liên quan, cũng luận cát. Quan Sát chế sạch là làm quan (Cục
bộ chế sạch cũng là làm quan), chế không sạch sẽ cũng xem là có văn hóa. Trong mệnh cục
chế Quan Sát không sạch còn có thể lấy Tài xem. Sát không có công hợp thân thì bị người
quản lý; Sát có công hợp thân là có quyền lực. Trong mệnh cục có Quan Sát hỗn tạp, đại vận
lại hành vận Quan Sát là hung.
Quan Sát hư thấu là có thanh danh, không có quan, cho dù bị chế có tốt, cũng vẫn có thanh
danh, bởi vì Quan Sát thuần túy hư thấu bị chế, là vô dụng. Chẳng qua cũng có tình huống
ngoại lệ, ví dụ như năm tháng có Quan Sát đặc biệt trọng, đến trụ giờ biến khinh mà lại bị chế,
hoặc ngày giờ có Quan Sát đặc biệt trọng, ở năm tháng biến khinh mà bị chế, loại tình huống
này biểu thị là có quan. Tượng loại trong mệnh cục Quan Sát ở tình huống này từ Thực biến
Hư, sau đó bị chế, là dễ dàng có làm quan.
1, Chính Quan: Là cùng nhật chủ khắc dị tính, khắc có tình, hàm nghĩa là có lực quản thúc, lực
khuyên nhủ và lực áp chế, Chính Quan có tính thuần chính, có đủ năng lực quản thúc bản thân
hướng thiện, vốn là người tự lập thân. Hàm nghĩa tâm tính là: Đại biểu chính thống, tuân thủ
pháp luật, chính đạo, quy tắc, truyền thống, học vị, hòa thiện, cao quý, văn nhã, trung thành,
tự chế, thuận tòng, tâm có trách nhiệm, chính nghĩa, có lương tri, khách quan, lý tính, nghiêm
khắc, nghiêm túc, giáo dục chính quy, học nghiệp, gia giáo, đức tính.
Như Chính Quan trong mệnh cục thái quá, cũng biểu hiện là tâm tính mặt phụ, như nhát gan
sợ việc, bảo thủ không chịu thay đổi, vâng vâng dạ dạ, tự ti.
Trong mệnh cục có Chính Quan hữu dụng, có thể tham gia nghề nghiệp có quan chức văn
quan, quan nhỏ, chức vụ hành chính, công vụ viên, văn quan, giáo sư, pháp quan, công chức.
2, Thất Sát: Là cùng nhật chủ đồng tính khắc, là khắc vô tình, hàm nghĩa là: Đả kích, áp chế,
bạo lực, quyền uy, tính tình cương hùng, có đủ tính phản nghịch xưng bá, phải chế hóa mới có
thể giá ngự. Hàm nghĩa tâm tính là quyền lực (lớn hơn so với quyền lực Chính Quan), như vũ
chức, dã tâm, thông minh, tâm trí, bạo lực, độc đoán, bá đạo, cường đạo, hung ác, áp bức, đả
kích, háo cường, kích động, chỉ huy, nhanh nhạy, đa nghi, danh tiếng, mưu kế, tính khí táo
bạo, ghét cay ghét đắng. Địa chi Thất Sát đại biểu tâm lực cường, có tâm kính.
Trong mệnh có Thất Sát là hung thần, có chế hoặc hóa thì hiển lộ ra mặt tốt, Sát Ấn tương
sinh hoặc Sát bị chế là quý; Sát không có chế cũng không có hóa, thì lộ ra mặt hung, nhẹ thì
không phải là công chức, nặng thì theo hướng xấu, như gặp quan phi hình hại, thậm chí khả
năng trở thành kẻ cướp, lười nhác, bệnh nhân.
Trong mệnh cục có Thất Sát hữu dụng, khả năng tham gia nghề Cảnh Sát, Tòa án, cơ quan kỷ
luật kiểm tra, đốc sát, quan quân, quan viên chấp pháp, chính trị gia, mưu lược gia, luật sư,
giáo sư, y sinh.
VD Càn tạo: Nhâm Tý, Tân Hợi, Ất Sửu, Tân Tị.
Đại vận: Nhâm Tý, Quý Sửu, Giáp Dần, Ất Mão, Bính Thìn, Đinh Tị, Mậu Ngọ.
Phân tích: Nhật chủ Ất mộc sinh tháng Hợi, trong Hợi có Giáp mộc, lại có được Hợi thủy sinh,
thì Ất là Hoạt mộc. Hoạt mộc sợ thấy kim, tháng, giờ thấu ra 2 Tân kim Thất Sát kề thân khắc
nhật chủ, là kỵ. Nhưng trụ tháng là Ấn đội mũ Sát, Tân Sát bị chỗ Hợi thủy Ấn tinh tọa dưới
hóa, nguyên thân Hợi thấu đến trụ năm tọa dưới Tý thủy, Tý cùng Sửu Chủ vị hợp, cho nên là
đái tượng hữu dụng, người này sẽ có quan chức. Hợi thủy Chính Ấn có công, đại biểu hắn có
văn hóa hoặc học lực rất cao. Trụ giờ Tân Tị tự hợp, mà trong cục kim thủy vượng, Tị bị Tân
hợp chế, Tân Sát có công, lại hư thấu can giờ, là có danh tiếng và tài năng. Người này có học
lực rất cao, trước mắt ở nước Mỹ quốc lưu học sau Tiến sĩ.
Chú thích: Tạo này mệnh tượng không những có học lực cao, hơn nữa cũng là một mệnh quan.
Nếu như ở trong nước, khẳng định là người làm quan, nhưng hắn sinh hoạt ở nước Mỹ, sẽ
không lấy làm quan là chủ. Cho nên, xem mệnh quan còn phải kết hợp với cuộc sống thực tế,
phải xem xét sự khác biệt giữa trong nước và khu vực.
【Loại tượng Tài tinh nói chung 】 Tài tinh đại biểu tiền bạc và tài phú là phép xem bình
thường, nó còn đại biểu tài vật, gia nghiệp, tất cả vật có giá trị tiền bạc, bất động sản, tài hoa,
dục vọng, cảm tình, sắc dục, sắc tình, hưởng thụ, bản lãnh; ở nhân vật có thể đại biểu thuộc
chúc, cấp phó, vợ hoặc tình nhân (nam mệnh), cha, con trai; đối ứng với thân thể là tất cả cơ
quan bài tiết, ẩm thực, máu huyết, hô hấp. Địa chi có Tài là tượng trưng dục vọng, Thiên Tài ở
nữ nhân thì đại biểu đặc tính của ngôi sao tình cảm, tỏ ra rất là nổi bật. Nữ tính có Tài tinh hữu
dụng thì tình cảm phong phú, Tài tinh bị phá biểu thị nội tâm lạnh lùng hà khắc. Nam nhân
tình cảm thông thường có liên quan đến cùng Thực Thương. Nguyệt lệnh là Tài còn có thể đại
biểu nhà cửa, năm tháng có Tài là đại biểu phụ thân.
Tài tinh hư thấu ở thiên can không phải là tiền tài, mà biểu thị có tài hoa, có năng lực, biết làm
việc, là người có vẻ bề ngoài.
1, Chính Tài: Là chỗ nhật chủ khắc dị tính, có hàm nghĩa là: Chỗ khống chế hoặc hạn chế xác
thịt của ta, có cùng ta quan hệ thân mật, có thể là vật hoặc là người chỗ ta hưởng dụng. Phàm
là tiền bạc, tài vật hoặc là người bị ta chi phối, chỉ cần là chính đáng, danh chính ngôn thuận,
đều có thể lấy Chính Tài để định vị. Chính Tài lại có tính chuyên nhất, trong hôn nhân nam
mệnh thì vợ là lấy Chính Tài để định vị. Hàm nghĩa tâm tính Chính Tài là bình thường mà
không cần suy nghĩ an phận, tự túc, chính đáng, tiết kiệm, bảo thủ, trọng tình cảm, trân trọng,
chuyên nhất, cố chấp, tài hoa, tài khí, như tiền lương, sản nghiệp, gia nghiệp, vợ, thu nhập
chính đáng.
Trong mệnh cục có Chính Tài thái trọng, cũng có biểu hiện tâm tính mặt phụ, như lo được lo
mất, gian lận, không nghĩ đến tiến thủ, thích nhàn hạ, không thích học tập.
Trong mệnh cục có Chính Tài hữu dụng, có thể tham gia nghề nghiệp có tầng lớp ăn lương,
nghề giáo.
2, Thiên Tài: Là chỗ nhật chủ khắc đồng tính, có hàm nghĩa là: Chỗ ta khống chế bất cự vật cụ
thể hoặc là sự kiện nào, nhưng lại không cố chấp ở trên bất cứ chuyện hoặc là vật nào. Thiên
Tài là tất cả tài không thuộc về tiền lương, là vật không có đơn vị, như cổ phiếu, tiền quà biếu,
khen thưởng, nhận hối lộ, vay mượn, cờ bạc, môi giới, làm ăn mua bán, kinh doanh, tài sản
phi pháp, bất nghĩa.
Tâm tính Thiên Tài là phù hoa, thích đầu cơ, hàm nghĩa là bất chính phi pháp, bất ngờ, đa tình,
lãng mạn, dục vọng, sắc tình, phong lưu, đào hoa, khảng khái, hào hoa, khinh tài, giao tế, thủ
đoạn, kỹ nghệ, ngụy trang.
Trong mệnh cục có Thiên Tài hữu dụng, có thể tham gia nghề nghiệp làm ăn mua bán, xí
nghiệp gia, nghề phục vụ, chứng khoán, tư vấn, luật sư, nhà diễn thuyết.
【Loại tượng chung của Thực Thương 】 Đại biểu cuộc sống tinh thần, dục vọng, vui chơi,
tư tưởng, văn chương, ngôn ngữ, tác phẩm, nghệ thuật phẩm, tài phú, đoá hoa, cảnh trí; nhân
vật đại biểu là tổ bối của giới nữ, mẫu thân (Thực thần), con cái, trẻ em, học trò, vãn bối; đối
ứng bộ vị cơ thể là miệng, lưỡi, bộ phận sinh dục, vú, tinh trùng, kinh huyết.
Thực Thương có thể đại biểu sức tưởng tượng, thế giới tình cảm, thích tự do, không muốn bị
quản thúc, nam mệnh là ngôi sao dục vọng. Thực Thương tinh là tình cảm con người hiển lộ ra
bên ngoài, lực biểu đạt, như Thực Thương suy nhược hoặc bị phá, thì biểu hiện là xấu hổ, tự
khép kín, không giỏi giao tế. Thực Thương vượng mà hữu dụng thì có tâm truy cầu.
Ấn tinh khắc phá Thực thần hoặc Thương quan hữu dụng, sẽ có họa lao tù, bởi vì Thực Thương
đại biểu tự do, phá là biểu thị mất đi sự tự do. Thương Thực thấy kim thụ chế có hàm nghĩa là
quân nhân. Nguyên mệnh cục thuộc kết cấu Thực Thương sinh Tài, đại vận hỉ thấy Thực
Thương hoặc là Tài tinh.
1, Thực thần: Là chỗ nhật chủ sinh đồng tính, sinh mà có tình với nhật chủ, hàm nghĩa là ta
giao cho hoặc là thế giới tinh thần của ta, phàm là vật tinh thần và tình cảm cùng ta có liên
quan, đều ở phạm trù Thực thần, chỉ qua là Thực thần biểu hiện ôn hòa mà bình đạm.
Hàm nghĩa tâm tính Thực thần là: Đại biểu chỗ tốt đẹp, thiện lương, ôn hòa, phúc hậu,
hướng nội, văn nhã, bao dưỡng, thoả mãn, đại độ, chính nghĩa, tài khí, tài hoa, khẩu tài, học
tập, cảm ngộ, tư tưởng, cảnh giới, tình thú, khen thưởng, lãng mạn, sức cảm hóa, sức thuyết
phục, thanh danh, chăm sóc, giao phó, phụng hiến, nhân ái, hưởng thụ, vui chơi, tự do, lạc
quan, ăm uống, ca hát, phục vụ.
Thực thần là cát thần, ở trong mệnh cục thông thường là hữu dụng, không sợ quá vượng, chỉ
sợ bị khắc. Thực thần thụ khắc, thì lúc nhỏ thiếu sữa nuôi dưỡng. Trong cục có Kiêu thần đoạt
Thực, thích "Chịu đưng" cùng người khác.
Trong mệnh Thực thần hữu dụng, có thể tham gia nghề nghiệp như học giả, giáo sư, y sinh, tư
vấn, nhà tôn giáo, tư tưởng gia, luật sư, ký giả, quan viên, tác giả, nhà ẩm thực, diễn thuyết,
người chủ trì, âm nhạc gia, biểu diễn nghệ thuật.
(Phụ thêm: Nội Thực thần cách)
Thực thần có phân ra Nội, Ngoại, ở thiên can là Ngoại, ở địa chi là Nội. Thiên can Thực thần
nhiều là làm việc dựa vào nghề kỹ nghệ, kỹ thuật, có sở trường kỹ nghệ, được người tôn trọng;
còn địa chi Thực thần nhiều là nghề nghiệp gian lao vất vả, nhưng một khi thành cách đắc vận
(Nội Thực thần cách hoặc là Nội Thực thần sinh Tài cách), sự nghiệp sẽ thành tựu rất lớn. Thấu
can là "Người ăn ở bên ngoài", như làm nghề thầy giáo được mọi người tôn trọng, là người
khác nuôi hắn; Nội Thực thần là "Bị người ăn", ý là đi nuôi người khác, vì người khác làm dâng
hiến. Nội Thực thần một khi thành cách, đa số là Xí nghiệp gia. (Khẩu quyết Manh phái: Nội
thực thần không thấu là người làm xí nghiệp. )
Nội Thực thần thành cách, thong thường địa chi phải có Thực thần, thiên can không thấu Thực
thần, mới có thể thành cách; cá biệt cũng có thể thiên can thấu ra Thực thần, nhưng địa chi
Thực thần nhất định phải vượng tướng.
2, Thương quan: Là chỗ nhật chủ sinh dị tính, sinh mà vô tình với nhật chủ, có hàm nghĩa là:
bản thân tuỳ tiên dung túng, đồng dạng là sản vật tinh thần, nhưng bởi vì quá cố chấp biểu
hiện ở bản thân mà trở nên không thiết thực tế, là có điểm trái với thường quy. Biểu hiện là
cuồng vọng, không thực tế, thông minh, xảo quyệt, ngạo mạn, khiến cho tư tưởng không tuân
thủ pháp luật, thấy gió theo đà, đầu cơ thủ xảo, hưởng vui, dục vọng, có tính lãng mạn, còn
biểu thị sức tưởng tượng giàu có, sức sáng tạo, thành khí thế thì là người làm ăn lớn.
Hàm nghĩa tâm tính Thương quan là: Sức tưởng tượng, sức biểu hiện, tinh thần phản
nghịch, thủ nghệ, nghệ thuật, tuyệt hoạt, thông minh, sáng ý, khai thác, cảm giác mới mẽ,
không thích học tập sách giáo khoa, phá phách, không thích quản thúc, không tuân theo sự
quản thúc, háo thắng, linh động, giàu biến hóa, nhát gan, không chịu yên với hiện tại, khoe
trương, chủ quan, phóng khoáng, kích động, phong lưu, háo sắc, nói nhiều, phô trương, khoác
lác.
Như trong mệnh cục có Thương quan thái vượng, hoặc Thương quan ở mệnh cục khởi tác dụng
xấu, thì dễ dàng cực đoan, lộ ra tính phóng đãng, không chỉnh tề, hà khắc, hay đố kỵ, ngạo
mạn vô lễ, quỷ kế đa đoan, đầu cơ thủ xảo, không tuân theo quy củ, thậm chí phá phách pháp
luật cùng luân lý đạo đức, có ý thức phạm tội.
Trong mệnh cục có Thương quan hữu dụng, có thể tham gia nghề nghiệp như nghệ thuật gia,
đại sư, thiết kế sư, diễn viên, luật sư, nhân viên kiểm tra kỷ luật, quan viên phản biện, quan
viên thực quyền, nghệ nhân, người làm ăn, hướng dẫn du lịch, tác giả.
【Loại tượng Tỉ Kiếp nói chung 】 Tượng trưng hợp tác và cạnh tranh. Tỉ Kiếp là tinh tranh
đoạt, còn đại biểu anh chị em, Tỉ kiên ôn hòa còn Kiếp tài thì hung bạo; Dương Nhận là hung
trong hung, đại biểu to gan, hung ác, tính khí táo bạo, sự kiện máu đổ, tự cho là đúng, cũng
có tượng là binh đao, súng đạn, phẫu thuật, tai họa, sợ quá vượng hoặc là quá nhược. Cả hai
có thể loại tượng là hợp tác, cạnh tranh, hành động, cơ giới, gậy gộc, thi đấu thể thao, vận
động; nhân vật đại biểu là anh em trai, chị em gái, bằng hữu, đồng hương, đối thủ; đối ứng bộ
vị cơ thể là tay, chân, tứ chi.
1, Tỉ kiên (Lộc): Là cùng nhật chủ tương đồng, có thể đại biểu ta đi hành sử quyền lực, cũng có
thể biểu thị người hợp tác với ta. Lộc là kéo dài nhật chủ ở địa chi, có thể đại biểu nhật chủ
hành sử quyền lực ở địa chi. Hàm nghĩa tâm tính là: họ hàng, độc lập, chủ trương, ý thức bản
thân, tôn quý, độc chiếm, chủ tể, hưởng thụ; vật tượng Lộc là quyền lực, đất phong tước, tài
phú, cung cấp nuôi dưỡng; ở cơ thể con người là thân thể, tứ chi, xác thịt nữ nhân, thọ mệnh.
Lộc ở năm tháng trong bát tự còn có thể xem là mẫu thân, Lộc ở ngày giờ chính là bản thân.
Hàm nghĩa tâm tính Tỉ Kiếp: là tự tin, tự tôn, ý thức bản thân, năng lực tự chủ, tính chủ quan,
tính chủ động, tính độc lập, cá tính, quả đoán, lạnh lùng, họ hàng thân thuộc, bận bịu, kiên trì,
cá nhân, hợp đồng, hợp tác.
Tỉ kiên vốn là vật trợ thân, nếu như thái vượng, cũng dễ dàng có các khuyết điểm như theo
hướng phản diện, biểu hiện là cá tính cố chấp, bảo thủ, ngạo mạn, tuỳ tiện, tự cho là đúng.
Trong mệnh cục có Tỉ kiên hữu dụng, khả năng tham gia nghề nghiệp như vận động viên, nhân
viên huấn luyện giáo dục, lao động thể lực, nghề môi giới, người làm ăn mua bán, tài xế, người
giang hồ.
2, Kiếp tài (Dương Nhận): Là cùng nhật chủ dị tính tương sinh, hàm nghĩa là trợ giúp ta nhưng
có giới hạn, bởi vì Kiếp tài là muốn phân đoạt tiền tài của ta, lấy tranh đoạt làm mục tiêu. Hàm
nghĩa tâm tính Kiếp tài là: lớn gan, hung hãn, có tính công kích, không bao dung, đầu cơ, vận
hành và thao tác, mạo hiểm, khoác lác, tranh cường háo thắng, cấp thiết, kích động, không
hợp tác, đố kỵ, xâm hại, cướp đoạt, chiếm hữu, cậy mạnh, bá đạo, tranh đoạt, chinh chiến,
hung ác, kiên trì, hợp đồng, ích kỷ, hợp tác, thích đứng đầu, không sợ hung hiểm.
Dương Nhận là hung trong hung, tuy là một loại Kiếp tài, nhưng tâm tính so với Kiếp tài hung
hãn hơn. Hàm nghĩa tâm tính là to gan, dũng cảm, hung ác, ác độc, không kể hậu quả, không
sĩ diện, muốn chiếm hữu, xâm hại, bất lợi cho cha; tượng vật là đao, thương, kiếm, phẫu
thuật, binh khí, vũ trang, chính pháp, chấp pháp; ở cơ thể thì là tứ chi, thân thể; Kim Dương
Nhận là đao, là Bạch Hổ, khá là lợi hại.
Bởi vì Dương Nhận là đao thương, nếu trong bát tự thấy nó, nhất định phả dùng nó tốt. Thông
thường Dương Nhận hợp Sát là cát, ngoại trừ chỗ này ra đều là không cát. Dương Nhận thái
vượng, thái nhược đều không tốt, cũng không thể bị hình, bị xung, bị hợp (bất kể đại vận hay
là lưu niên), trừ phi Dương Nhận hợp Sát mới là cát. Dương Nhận thích bị chế phục, chế thì
dụng chính, có thể tham gia nghề nghiệp như quân nhân, cảnh sát, nhân viên chấp pháp, đại
phu ngoại khoa, vận động viên, người luyện võ, cổ phiếu; Dương Nhận không có chế phục, thì
dụng thiên, khả năng tham gia nghề nghiệp như kẻ cướp, cướp của giết người, mưu lợi phi
pháp.
Mệnh lý Manh phái ở trong thực tiễn cho rằng, can dương là có Nhận, còn can âm là không có
Nhận, can âm gặp "Nhận" lấy Kiếp tài xem. Còn Dương Nhận theo Manh phái cùng mệnh lý
truyền thống có sự khác biệt nhỏ, tức là Giáp Dương Nhận ở Mão, Bính Dương nhận ở Ngọ,
Mậu Dương nhận ở Mùi, Canh Dương nhận ở Dậu, Nhâm Dương nhận ở Tý. Nguyên thân can
dương ở thiên can thấy Nhận cũng là Dương nhận, tức là Giáp thấy Ất, Bính thấy Đinh, Mậu
thấy Kỷ, Canh thấy Tân, Nhâm thấy Quý, đều là phía trước Dương nhận, xưng là Thiên can
Dương nhận; nhưng Ất thấy Giáp, Đinh thấy Bính trái lại là không phải Dương nhận, bởi vì can
âm không có Dương nhận.
Trong mệnh có Kiếp tài là hung thần, như có công thì có thể trợ giúp ta được tài, không công
không dụng thì lại dẫn đến phá tài của ta gặp hoạ. Như vô dụng nhưng hư thấu hoặc là bị chế
thì không kỵ.
Trong mệnh có Kiếp tài hữu dụng, khả năng tham gia nghề nghiệp như vận động viên, người
luyện võ, quân nhân, kinh thương, đánh bạc, lừa gạt, trộm cướp.
Ở trong mệnh lý Manh phái, Thập thần Hư thấu chỉ nói đến thiên can mà thôi, địa chi đều là
Thực, không luận Hư thấu; đồng thời Hư thấu cũng chỉ có nói đến thiên can ở trên một trụ
trong tứ trụ, không liên quan đến những trụ khác. Can một trụ Hư thấu, cho dù có căn ở chi
khác, can này ở trụ này cũng luận Hư thấu. Ví dụ như trong một bát tự trụ giờ là Giáp Thân,
thì Giáp mộc toán là Hư thấu, nếu như trụ tháng là Bính Dần, Dần là căn của Giáp, nhưng trụ
giờ Giáp vẫn cứ là Hư thấu; Thập thần hư thấu chỉ có luận 3 trụ năm, tháng, giờ, còn nhật chủ
không luận Hư thấu. Ngoài ra, tượng trụ Mậu Thìn, Kỷ Sửu, thổ mặc dù tọa căn, nhưng lại là
thấp thổ, Thìn Sửu thổ không có lực trợ thổ, Mậu, Kỷ thổ ở trụ này vẫn là rất hư nhược.
Thập Thần hư thấu chủ yếu là biểu tượng. Nó vận dụng ở trong đoán mệnh, chủ yếu là có thể
từ trong mệnh cục ở trên tượng thiên can hư thấu dùng để phán đoán nghề nghiệp, tính cách
của mệnh chủ.
Nhắc nhở:
1) Kim thủy là môn Lý, Mộc hỏa là môn Văn.
2) Trụ năm có Quan hợp nhật chủ, tượng biểu thị có ý là làm quản lý.
Thập Thần hư thấu cùng có thể dùng để xem ứng kỳ được hay không?
Thập Thần ở trong mệnh cục Thực mà là Dụng, sợ hư thấu ở trong đại vận; trong cục hư mà là
dụng, sợ thấy thực ở trong đại vận, hai loại tình huống này đều hung. Nếu như trong cục hỉ hư,
ở trong đại vận tuy là thực nhưng bị chỗ nguyên cục chế hóa, thì không sợ thực, vẫn lấy cát
luận.
Phép xem ứng kỳ Thập Thần hư thấu, nhắm vào mệnh cục cụ thể phải linh hoạt biến thông,
thiết kỵ luận đoán quá cứng nhắc.
Chương 4, Phương pháp bắt tay vào Manh phái đoán mệnh
cùng tầng lớp mệnh cục
Tiết 1, Phương pháp bắt tay vào Manh phái đoán mệnh
Phương pháp mệnh lý Manh phái xem mệnh có nhiều loại, tức là Lý pháp, Tượng pháp, Kỹ
pháp. Nếu như ở Chủ vị (thông thường là trụ ngày) tố công, thì bắt tay vào từ Chủ vị, xem can
hoặc chi ở trụ ngày là tố công như thế nào; nếu như tổ hợp bát tự hình thành khí thế lớn
mạnh, thì có thể bỏ đi Chủ vị không xem, mà chỉ có xem khí thế tố công này là được; nếu như
trong bát tự có tượng, thông qua xem tượng cũng có thể đoán ra rất nhiều vật. Đương nhiên,
mấy loại pháp tắc này thường là phải kết hợp để phân tích bát tự. Phán đoán một bát tự, nếu
như có công, thì trước tiên phải xem tố công; nếu như không có công, thì xem tượng; nếu như
công, tượng đều có, thì cả hai đều phải xem; nếu như công, tượng đều không có, thì bát tự
này rất kém.
Ở trong nội dung khóa sơ cấp có nói qua, trước tiên phải học cách xem tố công bát tự, đây là
một bộ phận rất then chốt.
Như vậy mệnh lý Manh phái là làm sao xem tố công bát tự được chứ?
Cụ thể đến một bát tự, phải bắt tay từ trụ ngày, tức là trước tiên phải xem can ngày, lại xem
chi ngày. Bởi vì trụ ngày là Chủ vị của bát tự, là bản thân nhật chủ, cũng chính là xem một bát
tự phải bắt tay từ Chủ vị của nó, xem bản thân nó cũng xung quanh phát sinh quan hệ như thế
nào.
Xem can ngày phải chú trọng mấy điểm sau đây:
+ Một là, can ngày là có cùng can khác có hợp hay không. Hợp can của nó chỉ có 2 loại tình
huống: Một loại là hợp Chính Quan, còn loại khác là hợp Chính Tài; can ngày hợp với can khác,
chính là vật mà nhật chủ muốn truy cầu, có thể truy cầu được hay không, thì phải xem tổ hợp
trong cục chỗ công hình thành.
+ Hai là, nếu như can ngày không có hợp, thì xem can ngày có sinh hay không, cũng chính là
xem có hay không có Thực thần Thương quan kề gần can ngày (chủ yếu là xem can tháng và
can giờ), nếu như nhật chủ có sinh, đây cũng là vật mà can ngày muốn truy cầu, sau đó thì
xem chỗ Thực thần hoặc Thương quan nhật chủ sinh tố công ở trong bát tự.
+ Ba là, Nếu như can ngày không có sinh không có hợp, nhưng bát tự có thế, vậy thì xem chỗ
tố công của thế này ở trong mệnh cục.
Nếu như can ngày không có hợp không có sinh, lại không ở trong thế, thì bỏ can ngày không
xem, mà chỉ xem chi ngày. Xem những chi khác là có thành đảng thành thế hay không, hoặc
là có quan hệ cùng những chi khác hình, xung, khắc, hại, mộ, cùng tam hợp, lục hợp, ám hợp
hay không? Những chỗ này đều là phương thức chi ngày tố công. Can ngày bát tự có hợp hoặc
có sinh, nhưng địa chi tố công lớn, lúc này phải lấy công của chi ngày làm chủ, can ngày hợp
hoặc sinh chỉ qua là biểu tượng hoặc là biểu ý mà thôi.
Tại sao nói can ngày không có công thì phải xem tọa chi chứ?
Bởi vì mệnh lý Manh phái xem một tổ can chi, cùng mệnh lý truyền thống có chỗ khác nhau,
họ cho rằng một tổ can chi ở trên tượng là đại biểu một nhà, chi là thân thể của can, can là
đầu óc của chi, chỗ địa chi tố công chính là thiên can. Nhật chủ tọa dưới chỗ chi tố công, chính
là nhật chủ, tất nhiên là phải xem nó.
Thông thường xem bát tự mấy điểm này thì có thể bắt tay vào. Cũng có can ngày bát tự cùng
chi ngày đều không tố công, vậy thì phải xem ở chỗ trụ khác có hay không có Lộc thần cùng Tỉ
Kiếp hoặc là Ấn là Thể, xem vị trí của chúng nó ở Chủ vị hay là Khách vị, cùng chúng nó có tố
công hay không. Thập Thần tố công thuộc về Thể khác nhau, thì sẽ có đủ ý nghĩa khác nhau,
lấy Lộc tố công thì tầng lớp khá thấp; địa chi có nhiều Lộc mà thành thế tố công, mặc dù mệnh
cục sẽ không quá kém, cũng có ý cả người vất vả. Bát tự có thế, nhật chủ lại ở trong thế, có
thế lại có công thì hiệu suất là khá cao.
Nếu như can ngày tham gia cùng tố công, thì lấy can ngày làm chủ; nếu như can ngày không
có tố công mà chi ngày tham gia cùng tố công, thì lấy chi ngày làm chủ; nếu như can chi trụ
ngày đều tố công, mà can ngày cùng chi ngày lúc biểu đạt ý tứ nhất trí, thì lấy trụ ngày làm
chủ; nếu như can chi ngày tố công ý hướng không nhất trí, thì bỏ công của địa chi, mà lấy ý
hướng can ngày làm chủ. Nhất định phải lấy Công thần làm trọng tâm để phân tích bát tự.
Tóm lại, nhất định phải tìm được chỗ tố công bát tự ở chỗ nào, sau đó mới có thể đọc hiểu
được bát tự này.
Nhận thức mệnh lý Manh phái đối với bát tự cùng mệnh lý truyền thống là khác nhau, không
lấy bát tự là có tiêu chuẩn cân bằng hay không để phán đoán một bát tự tốt xấu. Trái lại, nó
cho rằng phàm bát tự đại phú quý nhất định là không cân bằng, tức là có thiên về "Thế"ở một
phương, sau đó thông qua thế này đi tố công. Có chủ vị bát tự cùng khí thế này là nhất trí, có
không nhất trí, nếu như Chủ vị không ở trong khí thế này, cũng có thể bỏ qua Chủ vị không
xem, chỉ xem khí thế tố công.
"Thế" chính là một đảng, một đoàn đội. Chúng ta nhìn thấy hiện tượng ở trong xã hội, nhưng
phàm là một nhân sĩ thành công, nhất định chỉ là một cá nhân đi làm sự tình, nó hoặc là có
đảng của mình, hoặc là có đoàn đội của mình, đều là có cánh tay phải cánh tay trái trợ giúp
hắn để cùng làm thành một sự kiện, như vậy mới có thể hình thành thế lực, làm thành chuyện
lớn. Bát tự là mô tả đối với cuộc đời một người, cụ thể đến tố công mệnh cục, thành đảng
thành thế, cũng là cùng một đạo lý. Ví dụ như trong mệnh cục chữ tham gia tố công cũng phân
ra Công thần chủ yếu và Công thần phụ trợ. Công thần tức là bè đảng, còn Phụ thần tức là
đoàn đội hoặc là bang phù. Như Tị hỏa khắc chế Thân kim, gặp Mão mộc, Mão mộc có thể sinh
Tị hỏa, thì Tị hỏa là Công thần chủ yếu, còn Mão mộc là Công thần phụ trợ.
Thế bát tự có nhiều loại tình huống, có thế mộc, thế hỏa, thế kim, thế thủy, cũng có thế táo
thổ và thế thấp thổ. Rất nhiều bát tự vẫn luôn là có 2 đảng thành thế, như mộc hỏa là một
đảng, kim thủy cũng là một đảng, thủy mộc cũng là một đảng, hỏa và táo thổ là một đảng,
kim và thấp thổ cũng là một đảng, thủy và thấp thổ cũng là một đảng. Có một nguyên tắc,
chính là phàm là có 2 hoặc 3 kết hợp, cần phải có cùng đi đối phó địch nhân (tức là thần bị
chế), thì có thể tính là một đảng.
Bát tự sau khi hình thành thế hoặc thành đảng, thì phải xem có tố công hay không, cũng chính
là tất cần phải có thần bị chỗ nó chế. Đơn thuần mà nói, thế mộc có thể chế thổ, cũng có thể
phản phá hư kim; thế hỏa có thể chế kim, cũng có thể phản phá hư thủy; thế kim có thể chế
mộc, cũng có thể phản phá hư hỏa; thế táo thổ có thể phá thủy, cũng có thể phản phá kim,
còn có thể phá hư thấp thổ; thế thấp thổ có thể phá hỏa, cũng có thể phá hư táo thổ.
Tình huống hai đảng thành thế khá là phức tạp, cũng khá trọng yếu, tức là:
+ Mộc hỏa có thế chế kim (trong kim có chứa thủy cũng cùng chế);
+ Hỏa và táo thổ có thế chế thủy (trong thủy có chứa mộc cũng cùng chế), cũng có thể chế
kim (trong kim có chứa thủy cũng cùng chế), cũng có thể chế thấp thổ (trong thấp thổ vật độn
tàng cũng cùng bị chế);
+ Kim thủy có thế chế hỏa (trong hỏa có chứa thổ cũng cùng chế), cũng có thể chế táo thổ
(trong táo thổ vật độn tàng cũng cùng bị chế);
+ Kim và thấp thổ có thế chế mộc hỏa;
+ Thủy và thấp thổ có thế chế táo thổ (hoặc hỏa);
+ Thủy mộc có thế chế thổ (trong thổ có độn tàng cùng bị chế).
Thậm chí cá biệt còn có tình huống mộc và táo thổ chế thấp thổ.
Mệnh lý Manh phái căn cứ tố công bát tự lớn hay nhỏ, đem tất cả bát tự phân ra làm 3 tầng
lớp, tức là có 3 đẳng cấp: Bát tự phú quý, bát tự phổ thông và bát tự kém. Trong đó chỗ bát tự
phú quý và bát tự kém chiếm Tỉ lệ không lớn, còn bát tự phổ thông là chiếm tuyệt đại đa số.
Hơn nữa hai loại kết cấu bát tự ở trước khá là đơn giản và trực quan, dễ phân tích, còn bát tự
phổ thông tố công khá là phức tạp, độ khó giải thích khá lớn.
Nhắc nhở:
1) Khẩu quyết: Chế khử Tài và nguyên thần của Tài là người phát đại tài.
2) Trong mệnh cục bất kỳ một loại kẹp chế nào, như kẹp xung, kẹp khắc, kẹp hợp, kẹp xuyên,
đều không thể đem đối phương chế chết.
VD 10, Càn tạo: Mậu Tý, Quý Hợi, Canh Tuất, Bính Tý.
Đại vận: Giáp Tý, Ất Sửu, Bính Dần, Đinh Mão, Mậu Thìn, Kỷ Tị, Canh Ngọ.
Phân tích: Nhật chủ Canh kim sinh tháng Quý thủy Thực thần, trong cục Thực Thương thành
đoàn, cùng nhật chủ là một khí, kết thành đảng kim thủy, ý là ở chế hỏa và táo thổ. Can năm
Ấn tinh Mậu thổ, bị tọa dưới Tý và can tháng Quý hợp chế; can giờ Bính Sát tuy không có chế,
nhưng tọa Tý hư, Sát hư thấu ở môn hộ biểu thị mệnh chủ có thanh danh. Tọa dưới Tuất là khố
Quan Sát, không có hình xung thì không mở, xung quanh tuy có Hợi Tý thủy Thực Thương,
nhưng hỏa ở trong khố không có cách nào chế, chỉ có ý là tương khắc. Kết cấu mệnh cục là
Thực Thương chế Quan Sát, nhưng Quan Sát ở trong mộ Tuất không có cách nào chế, chỉ có
đợi đại vận thấy Thìn đến hình xung.
Mệnh này hay là ở đại vận đến Thìn xung Tuất, xung khai mà chế chi ngày khố Tuất Quan Sát.
Vận này ở năm Canh Thìn, Canh đến như bản thân nhật chủ đến, lưu niên Thìn lại xung Tuất,
trong Tuất có Đinh hỏa tọa ở dưới, là chức trưởng, người này thăng cấp trưởng phòng; năm
Nhâm Ngọ, mệnh chủ thăng chức Sở trưởng Sở Công an tỉnh Sơn Tây, là cấp phó tỉnh, bởi vì
lưu niên Nhâm Ngọ tự hợp, nguyên cục thủy vượng, Ngọ là nguyên thân của Đinh hỏa tọa dưới
chỗ Tuất khố dẫn ra, nguyên cục có 2 Ngọ xung Tý, Quan tinh Ngọ hỏa bị chỗ Thực Thương
chế, Ngọ đến cũng đại biểu như Tuất đến, biểu thị ứng kỳ.
Nhắc nhở:
1) Khẩu quyết: Tọa dưới Tài Quan lâm khố hỉ hình xung, không hình xung thì không mở ra.
2) Mộ Khố chỉ có hình xung mới có thể chế, như Tuất thổ chỉ có Thìn thổ xung mới có thể chế.
VD 11, Càn tạo: Đinh Hợi, Canh Tuất, Kỷ Tị, Canh Ngọ.
Đại vận: Kỷ Dậu, Mậu Thân, Đinh Mùi, Bính Ngọ, Ất Tị, Giáp Thìn, Quý Mão.
Phân tích: Trong cục hỏa và táo thổ thành thế, nhật chủ Kỷ thổ cùng tọa dưới Ấn tinh Tị hỏa
cũng ở trong thế. Chi giờ Ngọ là Lộc của nhật chủ, hợp xa chi nằm Hợi Tài tinh, nguyên thân
Đinh lại thấu đến trụ năm, hợp Hợi tọa ở dưới; Chi ngày Tị hỏa Ấn tinh xung Hợi, chi tháng
Tuất khắc Hợi. Như vậy, Hợi thủy Tài tinh cùng Giáp mộc Chính Quan độn tàng bị chế rất tốt,
công này cũng rất lớn. Nhật chủ Kỷ và can năm Đinh, chi giờ Ngọ đều xem cùng một tượng, ý
là Quan và nguyên thân của Quan bị chế đều quy về bản thân nhật chủ. Tháng giờ có 2 Canh
thấu can không có chế, nhưng 2 Canh tọa hỏa và táo thổ, cùng hư thấu, Canh lại cùng Hợi
không ở một chỗ, không sinh Hợi thủy, Canh không lấy nguyên thần Hợi xem, ở trong cục cũng
không có tố công, lấy Nhàn thần xem. Kết cấu toàn cục là Quan cùng nguyên thần của Quan
đều bị chế, tất nhiên là mệnh làm đại quan. Bởi vì 2 Canh không có chế, Canh là nguyên thần
của Tài, cho nên không phải là kết cấu Tặc Bộ, hỉ hành vận hỏa và táo thổ chế thủy. Đây là
mệnh tạo của Tưởng Giới Thạch.
Trung niên đến vận Tị, Ngọ, Mùi nam phương hỏa và táo thổ, Hợi thủy Quan tinh bị chế sạch,
quan vận đều hanh thông, một mực thăng đến Ủy viên trưởng Quốc Dân Đảng. Nhưng đến vận
Giáp Thìn, vận Giáp, Giáp là từ trong Hợi thủy nguyên cục đi ra muốn chế, Giáp có thể đại biểu
là tượng Hợi, Giáp mộc ở trong vận lộ rõ ra thiên can lại không có chế, thì Hợi ở nguyên cục
cũng không có cách nào chế, đồng thời Giáp mộc Chính quan thấu thiên là kỵ hợp thân, lại chế
bản thân, ý hướng toàn cục phản nghịch, rất không cát; vận Thìn Hợi nhập mộ, Hợi được bảo
hộ lại không thể bị chế, huống chi Thìn có thể hối Tị hỏa xung Tuất thổ, phá công thần nguyên
cục, cho nên vận Thìn cũng không cát. Thực tế ở trong vận Giáp Thìn rất là xui xẻo, bởi vì ở
trong cục chế Quan, vận Thìn Quan không có chế trái lại chế bản thân, ý là Đảng Cộng Sản
phản Quốc Dân Đảng, ông còn ai nghe lời ông ấy, bản thân ông cũng không còn đường chạy
thoát, cuối cùng chạy đến Đài Loan rồi mất. Thìn là hướng đông nam, Đài Loan vừa đúng ở
phía đông nam Đại lục.
Nhắc nhở:
1) Thiên can hư thấu là rất khó chế chết, trừ phi khắc mà hợp, chỉ có hợp thì chế không chết;
2) Địa chi nguyên cục bị thần chế, không thích đại vận thấu can không có chế hoặc là được
sinh trợ, trợ thì là hung.
Mệnh lý Manh phái là dùng Tố công lớn hay nhỏ cùng hiệu suất cao hay thấp để phân biệt
đẳng cấp phú quý hay bần tiện của bát tự. Công của bát tự phổ thông khẳng định là có, nhưng
đều không lớn, hiệu suất cũng thấp. Thông thường là có hai loại tình huống: Một là, bát tự
không thể hình thành khí thế, nhưng Chủ vị lại có công, bởi vì loại công này không lớn, thì tầng
lớp mệnh cục sẽ thấp; Hai là, mệnh cục bát tự có khí thế, nhưng khí thế này lãng phí, tố công
rất nhỏ, tầng lớp mệnh cục cũng hạ thấp.
Tạo bát tự phổ thông và quyết định một vài vận mệnh con người chính là người phổ thông
(bình thường). Trong xã hội tuyệt đại đa số người cũng đều là người bình thường, bọn họ có
công việc, có nghề nghiệp, có thu nhập, không làm quan lớn, cũng không phát đại tài, trải qua
vui buồn trong cuộc sống rất bình thường, cấu thành quần thể chủ yếu như đại chúng sinh tầm
thường.
Ở trong bát tự đa số đều là bát tự phổ thông, chiếm đa số từ 60-70%, trong chỗ này lại có
phân biệt rất lớn, có vài người khá tốt, có số ít lại xấu hơn một chút, giữa bọn họ có tầng lớp
rất khó phân biệt, Tố công cũng khá phức tạp, không đơn giản như dạng bát tự phú quý.
VD 10, Càn tạo: Tân Hợi, Đinh Dậu, Mậu Thân, Đinh Tị.
Đại vận: Bính Thân, Ất Mùi, Giáp ngọ, Quý Tị, Nhâm Thìn, Tân Mão, Canh Dần.
Phân tích: Nhật chủ Mậu thổ ở chi giờ thấy Tị Lộc, phải lấy Chủ vị xem, Tị hợp Thân, Dậu Thực
Thương, lại xung chi năm Tài tinh Hợi thủy, ý ở chế Thực Thương và Tài, nhưng trong cục kim
thủy thành đảng, căn bản là không có cách nào chế. Lại xem nhật chủ tọa dưới Thân kim Thực
thần, tháng thấy Dậu kim Thương quan, Dậu và nguyên thân Tân kim thấu can năm sinh Hợi
thủy Tài tinh, là kết cấu Thực thương sinh Tài, nhưng Thực Thương sinh Tài này sinh đến vị trí
Khách ở năm tháng, tháng thấu ra Ấn là đơn vị công tác tọa Thực thần, tượng cấp bậc của
người làm công. Tài tinh Hợi thủy không những không có liên quan đến Chủ vị, mà cùng chi giờ
Lộc tương xung, còn cùng nhật chủ tọa chi Thực thần tương xuyên, ý là tài đến lại đi, thủ tài
khốn khó. Tài ở trụ năm là phương xa, cùng chi giờ Lộc ở môn hộ xung Tài, ý là bôn ba tứ xứ,
trong động cầu tài (tường làm công việc tiêu thụ), huống chi lấy Lộc thủ tài cũng là người vất
vả gian khổ.
Thực tế người này bắt đầu làm việc từ năm 1995, đã từng hoán đổi hơn 10 đơn vị, làm qua sản
phẩm chăm sóc sức khoẻ, dược phẩm, sản phẩm cơ điện, chào hàng, cũng đã làm qua tiêu thụ
sản phẩm máy tính, kết quả một việc cũng không thành, tài vận đương nhiên cũng không tốt.
VD 11, Càn tạo: Bính Ngọ, Tân Mão, Ất Sửu, Canh Thìn.
Đại vận: Nhâm Thìn, Quý Tị, Giáp Ngọ, Ất Mùi, Bính Thân, Đinh Dậu, Mậu Tuất.
Phân tích: Nhật chủ Ất mộc hợp trụ giờ Canh kim Chính Quan, lại tọa dưới Sửu thổ khố Quan
Sát, ý là muốn cầu quan. Nhưng chi năm Thực thần Ngọ đến xuyên Sửu, phá khố Quan Sát;
năm tháng có Bính Tân hợp, là Thương quan chế Sát, nhưng địa chi cũng có Mão Thìn xuyên,
Mão Ngọ phá, Lộc cũng bị phá; chi tháng Mão là Lộc, thiên can tọa Tân kim Thất Sát, cũng là
không có Quan (không phải xuyên thì là phá). Ba loại tượng này quyết định mệnh tạo sẽ không
làm quan. Trụ năm Bính hỏa Thương quan tọa Thực thần, Thực Thương là kỹ thuật, hợp Tân
kim Thất Sát, Thương quan hữu dụng, chú định người này phải lấy kỹ thuật, thủ nghệ làm
nghề nghiệp. Tọa chi Sửu thổ nhập mộ Thìn, Canh tọa Thìn lại ở trên môn hộ, có tượng là xe,
người này trước đây lái xe, hiện tại là sửa xe. Sửu là Tài được chính vị đại biểu là vợ, Sửu lại
nhập mộ Thìn, hôn nhân cũng không cát, phải ly hôn. Thê tinh nhập mộ biểu thị hôn nhân khó
chia tay, nhưng cuối cùng vẫn có thể ly tan. Người này hôn nhân lần thứ hai rất tốt, tài vận
cũng sẽ chuyển tốt.
VD 12, Càn tạo: Nhâm Tý, Tân Hợi, Tân Hợi, Đinh Dậu.
Đại vận: Nhâm Tý, Quý Sửu, Giáp Dần, Ất Mão, Bính Thìn, Đinh Tị, Mậu Ngọ.
Phân tích: Nhìn sơ qua tạo này kim thủy Thương quan lại chứa Tài, trụ giờ lại thấy Quan, hẳn
là một mệnh tốt, nhưng nhìn cẩn thận một chút, tọa dưới có Thương quan mang Tài, trụ giờ
thấy Lộc, trên đỉnh đầu Lộc có Sát, chỗ này thì căn bản là không thể làm quan, trụ năm có
Nhâm thủy, Đinh Nhâm hợp là Thương quan chế Sát, nhưng mà năng lượng Đinh hoả quá ít,
đầy bàn toàn kim thủy, cho nên hắn không thể làm quan, mà trụ giờ rơi Lộc, đại bộ phận kết
cấu loại này đều là người chịu khổ, đến vận Tài, vận khí còn được, nhưng sẽ không phú quý,
người này là làm thợ đá, chân bị thương, làm khuân vác kiếm ăn.
Ở trong tát cả bát tự, bát tự xấu cùng bát tự phú quý là một dạng, chỗ tỉ lệ chiếm đều khá ít.
Trong xã hội hiện thực cũng như vậy, những thứ này áo cơm không đủ, không có vợ con, vận
mệnh con người hết sức xấu, khá là ít thấy.
Bát tự xấu thông thường tìm không ra Công thần, Thập Thần ở Chủ vị không tố công, mà Phế
thần ở trong cục lại quá nhiều; hoặc là cũng có công, nhưng hiệu suất Tố công đặc biệt thấp,
hoặc là làm giòn phế tố công, hoặc là Thập Thần phải dùng ở trong cục bị phá. Bát tự càng xấu
thì Phế thần càng nhiều; trái lại, bát tự càng tốt thì Phế thần càng ít.
VD 3, Càn tạo: Quý Mùi, Bính Thìn, Mậu Tuất, Bính Thìn.
Đại vận: Ất Mão, Giáp Dần, Quý Sửu, Nhâm Tý, Tân Hợi, Canh Tuất, Kỷ Dậu.
Phân tích: Nhật chủ Mậu thổ tọa Tuất không lấy căn luận, vốn là có thế lấy phá, nhưng tháng
giờ lại thấu ra Bính hỏa, Bính Mậu cùng một tượng, lấy một chữ mà xem, Tuất là căn Bính, Ý
hướng nhật chủ là muốn dùng Tuất đi tố công, thì Tuất không thể phá. Trong cục có Tuất xung
Thìn, ý ở chế Thìn Tài khố, nhưng 2 Thìn ở nguyệt lệnh vượng mà kết đảng, Tuất không thể
chế, trái lại bị Thìn phá. Trụ năm lại thấy Mùi là táo thổ, vốn là một đảng với Tuất, nhưng Tuất
Mùi tương hình cùng bị tổn thương, Mùi cũng nhập vào mộ Thìn. Muốn phá Công thần Tuất thổ
dùng, may mắn là ở 2 Thìn kẹp xung Tuất chế không chết, người này thọ mệnh sẽ không có
vấn đề. Tuất là Thê cung, bị Thìn chế là tổn thương vợ (Không có vợ hoặc là khắc vợ).
Người này cả đời chính là mệnh nghèo, năm nay hơn 60 tuổi, cả đời không có kết hôn. Nhật
chủ Mậu hợp trụ năm Tài, Tài là cơm áo, là có miếng ăn, trụ năm là vị trí Khách, cũng là người
già, trưởng bối, cuộc sống của hắn có người giả hoặc là trưởng bối cứu giúp (trọng điểm học
tập).
+ Giáp mộc: Là cây đại thụ, là mộc thẳng đứng. Giáp mộc nói điều kiện thành Hoạt mộc, nhất
định là phải có căn lại được thủy sinh. Như trụ Giáp Tý, thì Giáp mộc toán là vô căn.
+ Ất mộc: Là cây cỏ, là mầm giống, là hoa màu, là dây leo, là mộc uốn khúc. Điều kiện thành
hoạt mộc giống như Giáp mộc.
Đối với phân tích Giáp Ất mộc trong mệnh cục, đầu tiên là phải xem Tử mộc hay là Hoạt mộc,
thứ là xem chỗ mùa sinh trưởng. Mộc sinh ở mùa khác nhau, thì hỉ kỵ sẽ khác nhau, nhưng nói
chung lấy Giáp Ất mộc Tử hay Hoạt là chủ.
Mộc phải phân ra Tử và Hoạt, là một loại lý luận đặc biệt của mệnh lý Manh phái. Điều kiện
mộc Tử hay Hoạt, cũng là có điều kiện hết sức nghiêm cách. Hoạt mộc phải có căn lại có thủy,
đây là thuyết pháp khá mơ hồ, nói cặn kẽ, là tất phải cần có phù hợp hai điều kiện như sau:
+ Một, mộc đầu tiên phải có căn, hơn nữa căn này có cự ly phải khá gần nhật chủ, tốt nhất là
ở nguyệt lệnh hoặc là tọa chi, căn ở chi giờ, chi năm quá xa, không lấy có căn luận, có cũng
như không có.
+ Hai, Thủy phải cùng căn mộc liền ở một chỗ, căn mộc được thủy sinh, hoặc là mộc có căn ở
thiên can có thể được thủy vượng sinh, mộc mới có thể thành Hoạt mộc, nếu cự ly thủy quá xa
căn mộc mà sinh không đến, mộc cũng không thể trở thành Hoạt mộc; đương nhiên, bát tự có
thủy sinh mộc mặc dù có xa cách, nhưng nếu như trong cục thủy vượng, thần ngăn cách thủy
quá suy nhược, thì thủy này cũng có thể đến sinh mộc.
Như trụ ngày Giáp Tý, ở trụ năm thấy Mão, thì Mão không thể lấy căn luận, tọa chi tuy là Tý
thủy, nhưng mộc vô căn thì thủy không có cách nào sinh, Giáp mộc cũng là Tử mộc; lại như
trụ ngày là Giáp Tý, ở tháng hoặc trụ giờ thấy Mão, Mão khẳng định là căn Giáp, nhưng Tý
thủy lại không sinh Mão mộc, Giáp mộc tuy có căn, nhưng không thể được thủy sinh, Giáp
cũng là Tử mộc.
Lúc nhật chủ là Hoạt mộc, căn không thể bị thương, bị thương thì ảnh hưởng thọ mệnh hoặc là
sức khoẻ của mệnh chủ, có lúc toàn cục liền bị phá. Hoạt mộc hỉ kiến hỏa, bởi vì hỏa là đoá
hoa và càng phát tú khí; Hoạt mộc phải dựa vào thủy tư nhuận để đất sinh trưởng tốt hơn, cho
nên Hoạt mộc cũng hỉ thủy; nhưng Hoạt mộc sợ kim đến khắc hại, cũng sợ kim đến thương hại
căn, Hoạt mộc rất sợ sắt thép vùi căn, ví dụ như Giáp Thìn gặp Dậu, Ất Mão thấy Thân. Tử mộc
sợ thủy, như tấm ván, ghế, bản, tủ bằng gỗ cùng chúng ta trong sinh hoạt hàng ngày, thấy
thủy thì mục nát, cho nên Tử mộc nếu như thấy thuỷ ở trong cục, tốt nhất là có thể phá đi,
phá thì cát; ngoài ra, Tử mộc thấy hỏa thì bị thiêu đốt, kỵ thấy hoả vượng, thấy thì dễ bị đốt
cháy mà tiêu vong, đoản thọ.
Cần chú ý, Tử mộc lúc là nhật chủ, tọa dưới có căn, cũng không thể bị thương, bởi vì can chi
là nhất thể, tổn thương căn, nhật chủ cũng sống không lâu dài (Tử mộc cũng có vấn đề sống
còn), ví dụ như Giáp Dần, Ất Mão, Ất Mùi, chỗ này có ý nghĩa cùng căn Hoạt mộc không thể bị
thương lại có chỗ khác nhau. Giáp Thìn, Ất Hợi là trụ ngày, căn không thể bị thương, nhưng ở
trong Thìn, Hợi lại có thủy có mộc, chỗ này bản thân đã là Hoạt mộc.
Cần phải chú ý, Giáp là Tử mộc, Tý thuỷ Ấn tinh tọa dưới là có thể bị chế. Ngoài ra, Canh kim
là nguyên thần của thuỷ, hư thấu vô lực, lại cách vị trí không thể sinh Tý thủy, thực ra Tý thủy
là không có nguyên thần đến sinh, cho nên thì rất suy nhược, tuyệt đối không thể nhìn thấy
đến 2 Tý xung Ngọ, thì cho rằng kết cấu mệnh cục là Tý thủy muốn chế Ngọ hỏa.
+ Bính hỏa: Là thái dương, là ánh sáng mặt trời, là thanh danh, là truyền thông, là điện ảnh,
văn hóa, ngữ văn, văn học, …
+ Đinh hỏa: Là đèn đuốc, ánh sao, là vầng sáng, là ánh trăng, chữ viết, văn hóa thần bí (Sửu
cũng có ý là văn hóa thần bí), …
Đặc điểm của Bính Đinh hỏa: Bính Đinh hỏa không mẫn cảm đối với 4 mùa, rất sợ thấp thổ hối
(làm mờ), cũng sợ táo thổ đến hối; gặp đến hai loại tình huống này, thì hỉ thấy mộc, không có
mộc là bần tiện.
Nhắc nhở:
1) Tỉ Kiếp tranh Quan, tranh Tài, phần lớn đều là nhỏ mọn, hay đố kỵ, phẩm hạnh không đoan
chính.
2) Mệnh cục Ấn bị xuyên, cũng biểu thị phẩm tính không tốt (Đoán ngữ này phải có điều kiện
áp dụng).
+ Canh kim: Là khoáng thạch, sắt thép, kim loại, đại biểu kim thô sơ;
+ Tân kim: Là châu báu, đồ trang sức, đá ngọc, đại biểu kim thanh tú.
Nhắc nhở:
1) Quan Sát có chế mà không chế sạch sẽ, thì Quan Sát có thể lấy Tài xem. Loại tình huống
này thì không thích lại thấy Tài, nếu không thì Tài đến sinh Quan, thì Quan không thể chế, trái
lại là phá tài. Đây gọi là "Chế thần có sinh là không có chế". Nếu như bị chế mà bị chế chết,
cũng không thích có thần khác đến sinh, chẳng qua loại tình huống này ít nguy hại hơn so với
"Có chế".
2) Canh tọa Thân Lộc thì không thể bị chế thái quá, chế quá là hung.
Nhắc nhở:
1) Khẩu quyết: Tỉ Kiếp vốn là vật vô tri, vừa gặp Thương quan thế tất quy. Ý là Tỉ Kiếp nếu
như thấy Thương quan thì nhất định sẽ đi sinh.
2) Sửu ở mệnh cục này là có hai hàm nghĩa: xã hội đen và nhà tù.
3) Trụ ngày Tân Dậu sinh giờ Sửu, phần lớn là người xã hội đen.
+ Nhâm thủy: Là nước sông hồ lớn, là thủy vượng, đại thủy.
+ Quý thủy: Là mưa sương, là suối nhỏ, là nước trong chén, có đủ tú khí.
Nhâm Quý thủy nếu như thông nguồn, là có khí thế, nước có ngọn nguồn, không thể chảy hết,
như hết chảy là thọ tuyệt. Xem thủy có nguồn chảy tuyệt hay không, chỉ có lien quan đến thọ
mệnh cuả mệnh chủ, cùng mệnh cục tố công hoặc mệnh chủ đắc Tài đắc Quan thì không có
lien quan. Lại như nhật chủ là thủy nhưng tọa hư, hoặc là vô căn không có gốc hoặc là thủy
không có khí thế, thì bất kể là có chảy tuyệt hay không, chỗ trạng thái thủy này cùng với thủy
trong giới tự nhiên là cùng một đạo lý.
Nguyên nhân mệnh này đoản thọ còn có 2 chỗ: Một là nhật chủ tuy tọa Tý có căn, nhưng bị
chỗ vượng mộc toàn cục tiết; Hai là Dần mộc là Thọ Nguyên tinh, trong nguyên cục rơi Không
vong ở trụ ngày.
VD 2, Càn tạo: Giáp Thìn, Bính Dần, Nhâm Dần, Giáp Thìn.
Đại vận: Đinh Mão, Mậu Thìn, Kỷ Tị, Canh Ngọ, Tân Mùi, Nhâm Thân, Quý Dậu.
Phân tích: Nhật chủ Nhâm tọa Dần mộc Thực thần, nguyên thân Dần là Giáp thấu đến trụ
năm, giờ, 2 Giáp lại tọa trên Thìn thủy khố, thủy này chảy là bất tuyệt, Thọ mệnh nhật chủ sẽ
không có vấn đề. Tọa chi Dần lại phục ngâm đến chi tháng, Dần Thực sinh Bính Tài thấu can,
nguyên thân Dần là Giáp cũng sinh Bính Tài. Tổ hợp mệnh cục Thực thần sinh Tài này là phải
dụng. Kết cấu mệnh cục Thực thần sinh Tài, thong thường phần lớn là làm nghề tự do. Nguyên
cục Bính hỏa Tài tinh cư ở vị trí Khách, trước vận Ngọ thuộc về làm cho thân tộc, chỉ kiếm số
lượng tiền lương không nhiều, chớ nói chi đến chuyện phát tài. Vận Tị là Bính ở trong cục, vẫn
còn đi làm. Giao vận Ngọ, tọa dưới Dần sinh hợp Ngọ Tài, bản thân làm hành nghề hoá trang,
phát tài mấy triệun. Làm nghề hoá trang, là vì ở trong cục mộc nhiều mà vượng, Giáp là hoạt
mộc, Bính là đóa hoa của mộc, là ý nói cây treo hoa thêm màu sắc.
Chúng ta đem một vài tính chất và tác dụng đặc thù đơn độc của ngũ hành can chi bày ra, tiến
hành giải thích tường tận, để tiện mà lý giải và nắm chắc chúng nó trong khi luận mệnh.
Chúng ta ở trong cuộc sống hiện thực nhìn thấy mộc ở trạng thái tồn tại là có 2 loại: tức là
Hoạt mộc và Tử mộc; VD như cây đại thụ, hoa cỏ là Hoạt mộc, con cây cối sau khi chặt đi hoặc
là do gia công mà thành nhà cửa, bàn ghế thì gọi là Tử mộc. Mộc ở trong mệnh cục cũng phân
ra Hoạt mộc và Tử mộc, cả hai tính chất và tác dụng là hoàn toàn khác nhau.
Tại sao gọi là Hoạt mộc? Ở địa chi có căn lại được thủy sinh thì là Hoạt mộc, hai điều kiện
này tất phải đồng thời có đủ; chỉ có thủy sinh mà vô căn hoặc là chỉ có căn mà không có thủy
sinh đều không tính là Hoạt mộc.
Tại sao gọi là Tử mộc? Vô căn lại không có thủy, hoặc là vô căn mà có thủy, hoặc là mộc có
căn mà không được thủy sinh đều là Tử mộc.
Hai loại mộc ở trong mệnh cục có đặc tính sau đây:
1, [Ý nghĩa mộc thấy hỏa] Hoạt mộc là mộc có sinh mệnh, thấy hỏa là đóa hoa của mộc và
càng phát ra thanh tú; Tử mộc là gỗ, thấy hỏa là thiêu cháy, thong thường Tử mộc thấy hỏa
vượng dễ dàng bị đốt cháy, ý nghĩa mệnh lý là đoản thọ.
2, [Ý nghĩa mộc thấy kim] Đặc điểm Hoạt mộc là rất sợ sắt thép chôn căn, tức là sợ kim đến
phá căn mộc, căn mộc bị kim phá là rất khó thành Hoạt mộc, như trụ Giáp Thìn, trong Thìn có
thủy có mộc (Ất mộc), Giáp là Hoạt mộc, thấy Dậu hợp Thìn mà sút đứt căn Ất trong Thìn, thì
Giáp sẽ thụ thương; Tử mộc thì không sợ kim đến hại, trái lại, kim có bổ mộc để lợi cho đốt
cháy.
3, [Ý nghĩa mộc thấy thủy (bao gồm cả đại vận thủy)] Hoạt mộc hỉ thủy, nhất là Hoạt mộc sinh
ở mùa hạ hoặc là khá khô táo, càng thích thủy đến sinh; còn Tử mộc sợ thấy thủy, một loại
tình huống này là thủy đa mộc hủ nát, ngoài loại tình huống này là mộc bị thấp không thể sinh
hỏa.
4, [Ý nghĩa mộc gặp Không vong] Mộc gặp Không vong giống như tư tưởng mộc hư vô. Hoạt
mộc Không vong thì sẽ không lớn mạnh, còn Tử mộc Không vong thì khó mà thành vật dùng.
Không vong có tượng, phép dùng cụ thể sẽ nói ở lớp dạy trung cấp.
5, Căn hoạt mộc có thể dùng âm dương hỗ tương, như Giáp thấy Mão, Ất thấy Dần đều tính là
căn của mình; Tử mộc thì không có đặc điểm này, Giáp là Tử mộc thấy Mão hoặc Ất là Tử mộc
thấy Dần đều là mộc khác, không phải là một nhà, có thể bị phá.
Cần phải chú ý là, cũng không phải lúc mộc là nhật chủ mới có những đặc tính ở trên, bất kể
Thập Thần nào ở trong mệnh cục, thuộc tính như mộc, đều có đủ những đặc điểm kể trên.
Thuộc tính của Tị là hỏa, nhưng lại là chỗ đất kim trường sinh, cho nên nó kiêm đủ hai tính
chất, là tính chất một địa chi duy nhất ở trong Thập nhị Chi tùy theo hoàn cảnh mà thay đổi.
Lúc trong cục hỏa vượng lại có mộc sinh, Tị biểu hiện thuộc tính của hỏa, có thể khắc kim; lúc
trong cục hỏa nhược thổ kim vượng, đặc biệt ở lúc thấy Sửu Dậu, thì nó sẽ quy thuận theo
kim, hợp kim cục trợ kim. Lúc trong cục thấy Tị, thì phải xem trong cục là mộc hỏa vượng hay
là kim thủy vượng, để xác định tính chất thuộc chất của nó, nhưng có lúc tính chất của Tị sẽ
tùy theo đại vận thay đổi mà phát sinh biến hóa, gặp thì phải hết sức chú ý phân định.
Bởi vì tính chất đặc thù của Tị hỏa, trong bát tự lúc Tị hỏa có chiếm vị trí trọng yếu, mệnh chủ
thong thường có đầu óc rất linh hoạt, ứng biến nhanh, tư duy tốt, có sức tưởng tượng phong
phú, mà có tâm lý dễ dàng thay đổi mau chóng.
Tý thủy cùng Nhâm thủy là thủy lưu động, cuồn cuộn chảy xiết, lực sinh mộc yếu; còn Quý
thủy và Hợi thủy là thủy tĩnh, là sương mưa, có thể sinh mộc. Có người hỏi, Tý và Quý, Nhâm
và Hợi không phải là một chữ hay sao? Đó là chúng nó ở trên trời và ở dưới đất khác nhau, khí
thiên can là động, khí địa chi là tĩnh. Như Hợi thủy ở dưới đất là thủy tĩnh, có thể sinh mộc;
còn Hợi ở trên trời là Nhâm thủy là động, lực sinh mộc thì nhược.
Tý Ngọ Mão Dậu gọi là Tứ chính thần, giữa chúng nó lực sinh qua lại không lớn, là không tình
nguyện được sinh. Ví dụ như Tý thủy không sinh Mão mộc, trái lại có ý phá Mão; Mão có ý phá
Ngọ hỏa, lực sinh hỏa không lớn; Ngọ hỏa cũng có thể đi phá Dậu kim. (Giữa Tý và Dậu không
có quan hệ tương phá ) Đồng dạng, lực lượng phản ứng của chúng nó đến thiên can cũng
không lớn. Ví dụ như Đinh Mão hỏa yếu hơn rất nhiều so với Bính Dần hỏa.
Trong Lục thập Giáp Tý tổng cộng có 9 trụ can chi tự hợp, chúng nó là: Đinh Hợi, Kỷ Hợi, Tân
Tị, Quý Tị, Nhâm Ngọ, Giáp Ngọ, Mậu Tý, Bính Tuất (lúc Tuất gặp Mùi hình khai khố, Bính có
thể hợp khắc Tân trong Tuất), Nhâm Tuất (Lúc Tuất gặp Mùi hình khai khố, Nhâm có thể hợp
khắc Đinh trong Tuất). Trong đó 4 trụ địa chi ở trước có thể hợp khắc thiên can.
Cùng một trụ can chi tự hợp, người mạnh có thể chế khử người nhược, phán đoán cường nhược
thì xem khí thế. Lúc trong cục địa chi vượng hoặc có khí thế, địa chi có thể hợp khắc chế khử
thiên can; thiên can vượng hoặc có khí thế, thì thiên can có thể chế khử địa chi. Như trụ Đinh
Hợi, Nhâm thủy trong Hợi vượng thì hợp khắc chế khử Đinh hỏa; lúc trong cục hỏa vượng hoặc
là đắc thế, thì Đinh có thể hợp khắc chế khử địa chi Hợi thủy.
Chú ý:
1) Lúc Tuất gặp Mùi hình thì khai khố, gặp Sửu hình (lúc kim thủy cường) thì có thể phá vật ẩn
tàng trong Tuất, không thuộc về phạm trù tự hợp.
2) Trụ tự hợp, như chi bị chi khác xung, thì can chi không thể tự hợp. Như trụ Đinh Hợi, có Tị
đến xung Hợi, thì Đinh cùng Nhâm thủy trong Hợi không thể tự hợp.
3) Trụ Bính Tuất tự hợp tố công khá là ít thấy.
4) Tự hợp là hợp mà chế, thuộc phương thức tố công, ý là không có hợp bán.
Can chi tự hợp cũng là một loại tình huống Thập Thần tương hợp, hợp thì vượng có thể chế khử
nhược, thuộc về một loại phương thức tố công. Loại phương thức tố công tự hợp này, ở trong
mệnh lý Manh phái là hết sức rộng rãi.
VD 5, Khôn tạo: Ất Mùi, Bính Tuất, Giáp Tý, Ất Hợi. (Mệnh tạo của Lưu Hiểu Khánh)
Đại vận: Đinh Hợi, Mậu Tý, Kỷ Sửu, Canh Dần, Tân Mão, Nhâm Thìn, Quý Tị.
Phân tích: Nhật chủ Giáp mộc ở chi giờ Hợi có căn lại có thủy, tọa dưới cũng là thủy, Giáp là
Hoạt mộc. Địa chi năm tháng là một khối táo thổ, cùng lực lượng đảng thủy ở ngày giờ là
tương đương, không có tố công. Nhưng thiên can nhật chủ sinh Bính hỏa, Bính hỏa Thực thần
lại sinh chi tháng Tuất Tài, đây là kết cấu Thực thần sinh Tài, có công rất lớn, nhất định mệnh
cục phải dùng, mà ngày sau khẳng định là giàu có. Hoạt mộc thấy Bính hỏa là đóa hoa, thuyết
minh mệnh chủ tướng mạo xinh đẹp, Bính hỏa cũng là có tài năng và thanh danh nghệ thuật.
Đây là điều tình huống rất phù hợp với họ Lưu.
Trong Tuất Tài độn tàng Tân kim Quan tinh, Tuất khố bị trụ năm Mùi hình khai, trong Tuất Tân
Quan thì bị Bính hỏa tự hợp. Tân Quan đại biểu đàn ông, Bính Thực thần là mị lực và tình cảm
của nhật chủ, Bính đi hợp Tân, Tân Quan thái nhược, không thể biểu thị đàn ông hiện ra rõ
ràng, chỉ đại biểu họ Lưu dựa vào mỹ sắc cùng trong chốn u ám của mình mà có quan hệ ám
muội, cũng dựa vào sắc đẹp mà lấy được Tuất Tài. Thực tế mệnh này là như vậy, họ Lưu là
thông qua kết giao quyền quý mà phát tài.
4, Đái tượng:
Đái tượng ở trong mệnh lý Manh phái có đủ ý nghĩa hết sức đặc thù, có chia ra nghĩa rộng và
nghĩa hẹp:
+ Nghĩa rộng của Đái tượng là chỉ can chi cùng một trụ xem như một thể, lấy can trụ này làm
đầu óc, lấy chi trụ này làm thân thể, bởi vì chi mang một can nào đó, mà chi này liền có tượng
của can đó.
Ví dụ như:
VD 1, Càn tạo: Ất Mão, Ất Dậu, Tân Tị, Mậu Tuất.
Đại vận: Giáp Thân, Quý Mùi, Nhâm Ngọ, Tân Tị, Canh Thìn, Kỷ Mão, Mậu Dần.
Phân tích: Tạo này mộc hỏa thành thế chế Dậu kim, nhật chủ tọa dưới Tị hỏa Thất Sát cùng
khố hỏa chế Dậu Lộc của nhật chủ, Dậu vốn là Tỉ Kiếp, nhưng Ất mộc Tài tinh tọa trên Dậu, thì
có thể đem Dậu Lộc xem là Tài, ý chế Lộc tức là được Tài.
Mệnh lý Manh phái đối với việc vận dụng Đái tượng, yêu cầu phù hợp với mấy nguyên tắc sau
đây:
1) Trong mệnh cục trụ đái tượng can sinh chi, chỉ có hai loại chủng tình huống có ý nghĩa lớn
nhất, là: Quan (hoặc Sát) đội mũ Tài và Ấn đội mũ Quan (hoặc Sát). Bởi vì đều là Tài, Quan,
Ấn, không phải là quyền lực thì cũng là tiền tài. Ấn đội mũ Quan (hoặc Sát) biểu thị mệnh làm
quan; Quan (hoặc Sát) đội mũ Tài biểu thị là quan quản tài. Còn những tình huống khác như
Thực Thương đái Tỉ Kiếp, Tài đái Thực Thương, Lộc (hoặc Tỉ Kiếp) đội mũ Ấn có tác dụng đối
với nhật chủ là không lớn, thông thường là không luận, nhưng nó vẫn cứ tính là Đái tượng (Tị,
Ngọ vừa là Lộc của Mậu, Kỷ, lại là Ấn, loại tình huống đặc thù này, Lộc đái Quan tức là Ấn đái
Quan), chẳng qua chỉ là không thể mang đến cho nhật chủ chỗ rất tốt mà thôi.
2) Trụ có đủ Đái tượng, tất phải có liên quan cùng Chủ vị (thông thường là trụ ngày, can ngày
hoặc chi ngày đều được), mới luận là Đái tượng. Như cùng Chủ vị không có liên quan, cho dù là
Đái tượng, cũng không có ý nghĩa gì. Phương thức cùng Chủ vị có liên quan như tương hợp
(bao gồm ngũ hợp, lục hợp, tam hợp, bán hợp, ám hợp, tự hợp), tương sinh, Lộc và nguyên
thân hoán tượng, phục ngâm, củng cục, nhập mộ. Quan hệ hình, xung và xuyên thì thông
thường là không thể toán là có liên quan cùng nhật chủ, bởi vì hình, xung và xuyên biểu thị
chỗ đái tượng này cùng nhật chủ là bất hòa, hoặc là không có duyên phận; nhưng hình, xung ở
dưới tình huống có công, cũng có thể toán là có liên quan giữa đái tượng và nhật chủ, cụ thể
mệnh cục phải phân tích cụ thể.
3) Ở trên có trụ Tài đội mũ Quan (can là Quan hoặc Sát, tọa chi là Tài), như có liên quan cùng
nhật chủ, cũng tính là Đái tượng. Nhưng chỗ này thường là Đái tượng chi sinh can. Ý nghĩa
mệnh lý của Tài đội mũ Quan (hoặc Sát) là biểu thị có liên quan đến Quan cùng Tài. Như vậy,
Đái tượng có ý nghĩa thực tế đối với nhật chủ là có 3 loại.
4) Đái tượng ở trong nguyên cục bị phá, hoặc bị đại vận phá, thì cũng sẽ mất đi chỗ có đủ ý
nghĩa của Đái tượng.
5) Điều kiện vận dụng Đái tượng ở trong đại vận, cùng Đái tượng ở trong nguyên mệnh cục
giống nhau, tức là đại vận thấy Ấn đội mũ Quan, Quan đội mũ Tài hoặc là Tài đội mũ Quan,
phải cùng trụ ngày có điều kiện nói ở trên.
Nguyên lý can chi hỗ thông là một quan hệ của can chi phối hợp rất quan trọng ở trong hệ
thống của mệnh lý Manh phái. Hình thức hỗ thông ở can chi trong mệnh cục là lấy Lộc và
nguyên thân, đại biểu cùng một tượng, có thể lấy cùng một chữ mà xem. Ở đây không chỉ giải
thích để cho chúng ta biết tác dụng của một thần ở trong nguyên cục cùng tác dụng duyên
thân của nó, mà còn ở lúc vận dụng ứng kỳ là hết sức trọng yếu.
Nguyên Giá Ất Bín Đinh Mâ ̣u Kỷ Can Tân Nhâm Quý
thân p h h
Lộc Dần Mão Tị Ngọ Tị Ngọ Thân Dâ ̣ Tuất Hợi
u
Lộc là kéo dài từ thiên can đến ở địa chi, là đại biểu thiên can vào địa chi hành sử quyền lực;
còn Nguyên thân là kéo dài từ địa chi đến thiên can, đại biểu địa chi làm việc ở thiên can. Lộc
cùng Nguyên thân xuất hiện ở cùng một mệnh cục, cả hai tồn tại quan hệ hỗ thông qua lại, có
thể xem như là một chữ, Lộc cùng Nguyên thân cùng công cùng quyền ở trong mệnh cục.
Chúng ta phát hiện, Tị ở thiên can có hai nguyên thân Bính, Mậu; Ngọ ở thiên can có 2 nguyên
thân Đinh, Kỷ. Cũng tức là Bính, Mậu cùng Tị Lộc, Đinh Kỷ cùng Ngọ Lộc.
Chỗ mệnh lý Manh phái nói thông căn, là chỉ địa chi là căn thiên can trong cùng một trụ, căn
này nó không thể bị thương, bị thương thì thiên can mất đi chỗ dựa, bị biến nhược hoặc là thụ
thương. Thông căn là chỉ cùng một trụ mà nói, thiên can ở những trụ địa chi khác thấy căn thì
không luận thiên can này thông căn. Tọa khố là chỉ tình huống chi ngày là tứ mộ Thìn Tuất Sửu
Mùi.
1) Giáp Ất mộc lúc là Hoạt mộc, căn có thể hỗ dụng, xưng là "Đằng La hệ Giáp". Hoạt mộc rất
sợ kim chôn căn, như trụ Giáp Thìn thấy Dậu hợp Thìn, trụ Ất Mão thấy Thân hợp Mão, đây là
phá căn Hoạt mộc, thì Hoạt mộc khó sống được. Nhật chủ lúc là Hoạt mộc, căn nếu bị phá, đối
với sức khoẻ hoặc là thọ mệnh của mệnh chủ có tổn hại.
2) Bốn trụ Giáp Thìn, Đinh Mùi, Ất Mùi, Bính Tuất là thiên can tọa khố, nhưng khố tọa ở dưới là
căn của thiên can, xưng là thông căn hoặc liền căn. Lúc ở trụ ngày, can tọa dưới tuyệt đối
không thể bị phá, phá thì thọ mệnh hoặc sức khỏe có tổn hại đối với nhật chủ. Ngoài ra, như
các trụ Ất Hợi, Ất Mão, Giáp Dần, Canh Thân, Tân Dậu, Đinh Tị, Bính Ngọ tuy không phải là tọa
khố, nhưng cũng là tọa chi thông căn, căn này đồng dạng cũng không thể bị phá, phá thì cũng
là tổn thương thọ. Còn có hai trụ Nhâm Tý, Quý Hợi cũng là tọa căn, căn này là có thể bị phá
hay không, đợi mà nghiệm chứng.
3) Ngoại trừ Giáp Thìn, Ất Mùi, Đinh Mùi, Bính Tuất ra, nhật chủ tọa khố đều thích hình xung
mà mở khố, bất luận nam nữ. Mở thì cát, không mở cũng không có trở ngại lớn. Như 16 trụ:
Giáp Tuất, Ất Sửu, Bính Thìn, Đinh Sửu, Mậu Tuất, Mậu Thìn, Kỷ Sửu, Kỷ Mùi, Canh Tuất, Canh
Thìn, Tân Sửu, Tân Mùi, Nhâm Thìn, Nhâm Tuất, Quý Sửu, Quý Mùi đều là tọa khố, lúc chúng
nó là trụ ngày, tọa chi đều có thể bị phá, phá thì thọ mệnh hoặc là sức khỏe không có tổn hại
đối với nhật chủ.
4) Bốn trụ Mậu Tuất, Mậu Thìn, Kỷ Mùi, Kỷ Sửu cũng là thông căn, nhưng chúng nó vừa tọa
khố, vừa can chi tương đồng, lúc là ở trụ ngày, địa chi tất cần phải có hình xung. Khẩu quyết
Manh sư nói: "Tài Quan lâm khố hỉ hình xung, không hình xung thì không cát", "Can và Chi
đồng, tổn phu thương thê". Nhưng phép dùng can và chi đồng không bao gồm 4 trụ như Giáp
Dần, Ất Mão, Bính Ngọ, Đinh Tị. Bốn trụ này lúc là trụ ngày, nếu trong cục không có hình
xung, bất luận nam nữ phần lớn đều là hôn nhân không cát, mức độ không cát phải xem mệnh
cục cụ thể.
Cần phải chú ý, mệnh lệ cá biệt cũng có trụ ngày là bốn trụ Mậu Thìn, Mậu Tuất, Kỷ Sửu, Kỷ
Mùi mà không có hình xung, không những không có hôn nhân không cát, ngược lại là có hôn
nhân tốt, đó là tổ hợp mệnh cục khác nhau, ý muốn biểu đạt cũng tùy theo thay đổi, cho nên,
tuyệt đối không thể vừa thấy loại tổ hợp này, liền võ đoán người ta có hôn nhân không cát. Bất
cứ đoán ngữ mệnh lý nào, đều có tồn tại một vấn đề là phải vận dụng linh hoạt.
"Tài Quan lâm khố hỉ hình xung, không hình xung không phát". Điều đoán ngữ này cũng chỉ là
phép luận thông thường, ở đây hình xung, điều kiện tất yếu là Tài Quan ở trong mộ khố có thể
được rút ra thành chỗ dùng cho nhật chủ, mà không phải là điều kiện đầy đủ. Mệnh cục như có
Tài Quan nhập mộ, mà bị hình xung, mệnh chủ phát hay không phát Tài Quan, cụ thể cũng
phải xem tổ hợp mệnh cục cụ thể.
Chú ý: Trụ Giáp Tý, Giáp là Hư. Trụ Mậu Thìn, Kỷ Sửu tọa thổ là tọa căn, trong bảng biểu ở
dưới tuy thuộc về tọa Thực, nhưng Mậu, Kỷ thổ tọa Thìn, Sửu là thấp thổ, lực thấp thổ trợ thổ
nhược, ở trong thực tế vận dụng, thông thường đem hai trụ Mậu, Kỷ thổ này luận theo nhược.
Hư Thực là một loại trạng thái tồn tại, là nhược hóa, khinh hóa, khí hóa, ứng dụng nó ở trong
bát tự chủ yếu là biểu tượng. Lúc trong tứ trụ một chữ nào đó thích Hư, một khi đại vận thông
căn thấy Thực, chính là một loại trái với bình thường; Trái lại, lúc một chữ nào đó ở trong ở địa
chi tứ trụ vốn lấy Thực là cát, một khi đại vận hư thấu thiên can, cũng là một loại trái với bình
thường. Lấy chỗ này có thể phán đoán ứng kỳ.
Bính Bính Bính Bính Bính Bính Tân Tân Tân Tân Tân Tân
Dần Ngọ Tuất Tý Thân Thìn Sửu Dâ ̣u Tị Hợi Mùi Mão
Đinh Đinh Đinh Đinh Đinh Đinh Nhâm Nhâm Nhâm Nhâm Nhâm Nhâm
Tị Mão Mùi Hợi Sửu Dậu Thân Tý Thìn Tuất Ngọ Dần
Mậu Mậu Mậu Mậu Mậu Mậu Quý Quý Quý Quý Quý Quý
Tuất Ngọ Thìn Tý Thân Dần Hợi Dậu Sửu Tị Mùi Mão
VD 1, Càn tạo: Tân Mão, Bính Thân, Tân Mùi, Quý Tị.
Đại vận: Ất Mùi, Giáp Ngọ, Quý Tị, Nhâm Thìn, Tân Mão, Canh Dần, Kỷ Sửu, Mậu Tý.
Phân tích: Nguyên cục mộc hỏa thành thế, ý là ở chế kim thủy. Mão, Tị hợp Thân, Mùi khắc
Thân, đều là chế Thân; Quý thủy Thực thần Hư thấu ở trụ giờ, mà bị Tị Quan tọa dưới hợp chế,
Quý Hư thấu bị chế là thông minh, có tài ăn nói, là tượng cát. Quý ở trong cục là ở trạng thái
rất tốt, tối kỵ ở đại vận hoặc lưu niên biến thành Thực. Hành vận Tý, Quý đắc lộc biến Thực, Tý
lại bị Mùi tọa dưới xuyên, vận Tý năm Mậu Thân, là đất thủy trường sinh, thủy ở nguyên cục sợ
vượng, năm Thân thủy vượng, ý là cùng nguyên cục phản ngược, cho nên tử vong.
Thực tế, Quý thủy có thể xem là Thọ Nguyên tinh, nguyên cục Quý thủy hỉ Hư, Hư là có thọ,
rất sợ Tý Thực, Thực là tổn thọ. Vận Tý, Quý biến Thực, năm Mậu Thân, Thân Tý bán hợp thủy
cục, thủy được trường sinh đại vượng, ý cùng nguyên cục phản nghịch, là dấu hiệu đại hung.
Nhắc nhở: Can âm, can dương. Như Tý thủy, Hợi thủy đều luận trường sinh ở Thân.
Mấy loại kiểu hình và phép dùng thiên can ngũ hợp, là từ lực lượng hai phương tương hợp lớn
hay nhỏ để phân đích. Lực lượng hai phương chênh lệch, thì bên vượng có thể hợp khử bên
nhược; lực lượng chênh lệch ít, thì bên vượng có đủ hợp thương bên nhược; lực lượng chênh
lệch không nhiều, cả hai đều hợp trói lẫn nhau. Như Giáp vượng có thể hợp khử hợp thương
Kỷ, đồng dạng, Kỷ vượng có thể hợp khử hợp thương Giáp; Canh vượng có thể hợp khử hoặc
hợp thương Ất, còn Ất vượng có thể hợp khử hoặc hợp thương Canh,… Cứ vậy mà loại suy.
Nhắc nhở:
1) Phá không thuộc về phương thức tố công, chủ yếu là biểu tượng, thông thường là đôi bên
phá nhau, cả hai tượng đều bị phá.
2) Thiên can có hợp, thì địa chi không thích bị phá tiếp tục, nếu như địa chi có phá, tượng thiên
can tương hợp sẽ bị phá, biểu thị thiên can muốn hợp thì sự kiện đó làm không thành hoặc là
làm không lâu dài.
2, Hợp Thương:
Hợp thương là chỉ lực lượng song phương tương hợp so sánh không phải là quá lớn, nhưng vẫn
là một phương cường, một phương nhược, một phương tương đối nhược bị bên cường hợp chế
mà thụ thương. Mức độ hợp thương so với hợp khử nhẹ hơn, chủ yếu là trong lực lượng và
phân biệt hai bên, cho nên bên bị hợp thương cũng không có chế tử. Lúc phán đoán lục thân bị
hợp thương, ở trên ứng kỳ hợp thương lục thân so với hợp khử hơi muộn hơn. Trong nguyên
mệnh cục xuất hiện tình hình hợp thương, thông thường cũng đợi thời mà dùng.
Nhắc nhở:
1) Trong cục mộc là Tài, Ất cùng Mão tuy là có quan hệ Lộc cùng Nguyên thân, nhưng từ cung
vị để phân chia, Ất mộc lạc can năm, thì đại biểu phụ thân, còn Mão mộc cư Thê cung đắc
chính vị, thì xem là vợ.
2) Xem một chữ nào đó trong mệnh cục có thể chế tử hay không hoặc là mức độ thụ thương,
một là phải xem căn, hai là phải xem nguyên thần.
3, Hợp lưu:
Hợp lưu, là chỉ can lưu niên cùng một trụ thiên can trong nguyên mệnh cục hoặc là cùng can
đại vận tương hợp, trong nguyên mệnh cục hoặc can trong đại vận bị hợp tất phải có khí hoặc
vượng. Hợp lưu có thể dùng để đoán con người hoặc là lục thân, phần đa dùng để đoán ứng kỳ
hôn nhân, đoán sự dùng khá ít. Phối ngẫu cung và Phối ngẫu tinh bị hợp gọi là lưu lại, lúc Phối
ngẫu tinh nhiều, phùng năm hợp là ứng kỳ, ý là đem chỗ chữ này đại biểu con người được giữ
lại.
Xem tình huống hôn nhân, thiên can ngũ hợp, địa chi lục hợp, tam hợp, ám hợp đều có thể
dùng để đoán ứng kỳ hôn nhân.
4, Hợp bán:
Hợp bán, chính là 2 thiên can hợp nhau, hai bên bởi vì hợp mà ảnh hưởng lẫn nhau, khiến cho
lực lượng và tính chất vốn có không thể phát huy đầy đủ. Điều kiện tiên quyết Hợp bán tất cần
phải là lực lượng hai can hợp nhau cường hay nhược đều phải tương đương. Cụ thể bao gồm
mấy loại tình huống sau đây:
1) Trong nguyên mệnh có 2 trụ thiên can kề gần hợp nhau;
2) Can đại vận cùng bất kỳ một trụ thiên can nào trong nguyên mệnh cục hợp nhau là phải
gần kề hợp nhau, cũng gọi là Hợp bán;
3) Can chi lưu niên cùng một trụ can chi nào đó trong nguyên mệnh cục thiên địa tương hợp, tỉ
như nguyên cục có trụ Đinh Mão, lưu niên là Nhâm Tuất;
4) Can chi tự hợp cũng có thể hợp bán lẫn nhau.
Hợp bán phùng xung thì không hợp (tức là giải hợp), hai bên bị hợp bán mới có thể khôi phục
nguyên tính. Hợp bán giồng như hai người ôm nhau vậy, ai cũng không có cách nào phát huy
tác dụng, là mất đi nguyên tính, chỉ có lúc phùng xung mới có thể hoàn nguyên tính chất vốn
có của nó.
Chỗ nói nguyên tính, tức là chỉ chữ ở nguyên mệnh cục bất kể là có cùng chữ khác hoặc là hợp
hoặc là xung, hoặc là tồn tại giữa tác dụng qua lại của chúng nó, đây đều là trạng thái vốn có
của nó. Nếu như bị đại vận hoặc lưu niên đến hợp, thì liền bị phá hư trạng thái vốn có của nó,
tức là bị trói buộc mà mất đi nguyên tính. Trong nguyên mệnh cục nguyên là chữ phùng hợp
mà có công, thì không thích đại vận hoặc lưu niên đến xung; trong nguyên mệnh cục nguyên
là chữ phùng xung mà có công, cũng không thích đại vận hoặc lưu niên đến hợp. Nguyên mệnh
cục là chữ kỵ hoặc là phải chế thì hỉ bị hợp bán (Như VD 1 ở "Mậu thổ") ở trong chương "
Tường giải đặc tính Thập thiên can". Hai chữ hợp bán không phân ra ai là chủ bán, ai là bị bán,
là cả hai hỗ bán nhau, nhưng một phương tương đối nhược bị tổn hại nghiêm trọng.
(3 VD dưới đây đều chọn từ 《 Tài liệu hàm thụ mệnh lý Manh phái 》. )
VD 2, Khôn tạo: Quý Tị, Giáp Tý, Quý Mão, Quý Hợi.
Đại vận: Ất Sửu, Bính Dần, Đinh Mão, Mậu Thìn, Kỷ Tị, Canh Ngọ, Tân Mùi.
Phân tích: Nhật chủ sinh Giáp mộc Thương quan, Giáp tọa Tý thủy, lại có căn ở chi ngày và
giờ, Giáp là Hoạt mộc, phải dùng đi sinh Tài, là Công thần trong cục. Hành vận Kỷ Tị, Kỷ tọa Tị
hợp Giáp, cả hai đều vượng, là hợp bán, Công thần bị trói buộc là không cát. Thực tế người này
ở vận Mậu Thần đảm nhận chức vụ trong một xí nghiệp, đến vận Kỷ Tị thì chỉ có chức mà
không có quyền. Nhưng ở trong vận này năm Canh Thìn, Canh xung Giáp, giải Giáp Kỷ hợp,
năm này lại lần nữa nhậm chức lại.
5, Hợp động:
Hợp động, cũng tức là ý hợp mà phát động, là chỉ can lưu niên hợp động thiên can mệnh cục
hoặc ở trong đại vận.
Trong mệnh cục hoặc là đại vận một can nào đó lâm vượng địa, vốn là không có hợp mà tĩnh,
lúc gặp lưu niên đến hợp, là can nguyên cục hoặc đại vận bị lưu niên hợp động. Một bên bị hợp
động năm này phải có chuyện.
Hợp động cùng Hợp lưu ở trên phép xem là như nhau, chỉ qua hợp động là chủ sự, còn hợp lưu
là chủ người. Can mệnh cục hoặc đại vận vượng bị can lưu niên hợp, vừa là Hợp lưu, cũng là
Hợp động.
Thiên can ngũ hợp là tượng đôi bên đổi chỗ cho nhau, là nhằm vào nguyên mệnh cục mà nói.
Hai can hợp nhau giống như đôi vợ chồng cùng kết thành một nhà, mặc dù bọn họ vốn là
không giống nhau, nhưng mà một khi cùng nhau hợp đến một chỗ, thì là trong tôi có bạn,
trong bạn có tôi, vốn dĩ bọn họ chỗ tượng đại biểu thì có thể thay đổi cho nhau, xem lẫn nhau.
Đây chính là nguyên lý hỗ hoán tượng hai bên hợp nhau.
Tượng hỗ hoán thiên can ngũ hợp, biểu hiện ở mấy phương diện sau đây:
1) Tính chất và đặc trưng của một phương có thể định nghĩa một phương khác. Như Kiếp tài và
Tài tương hợp, có thể biểu thị tính chất của Tài này là "Cướp lấy tài", thuộc về loại không nhọc
mà có, làm chuyện phi pháp được tài (lúc này cũng có thể nắm Kiếp tài xem như Tài), Kiếp tài
thủ tài thông thường là đại tài. Lại như Thực thần hợp Ấn, Ấn là học vấn, Thực thần là tư
tưởng, cả hai hợp nhau là biểu thị một loại tính chất tư tưởng học vấn, tức là "Học thuật";
mệnh cục có Thực thần hợp Ấn, đa số là làm nghề thầy giáo. Lại như Thương quan hợp Ấn, Ấn
là nghề nghiệp, Thương quan là kỹ nghệ hoặc nghệ thuật, vậy khả năng chính là biểu thị lấy
kỹ năng hoặc kỹ nghệ làm nghề nghiệp.
2) Hai bên biểu thị cùng một loại tin tức, có thể là cùng một người, cũng có thể là cùng một sự
vật. Ví dụ như Thương quan là con cái, Quan cũng là con cái, cả hai hợp nhau là cùng biểu thị
con cái.
3) Một phương có thể thay thế một phương khác. Như Giáp Thương quan cùng Kỷ Quan tương
hợp, Quan vốn là tượng trưng quyền lực, Thương quan hợp Sát, có thể đổi thay nhau mà dùng,
tức là lấy Thương quan trở thành Quan, Thương quan xem như là quyền lực, đương nhiên, Kỷ
thổ Quan tinh cũng có thể đổi thành Thương quan mà xem.
Nguyên lý hỗ hoán Tượng, còn có thể dùng ở địa chi lục hợp và lục xung.
Nhắc nhở:
1) Thiên can tương hợp, không thích địa chi bị xuyên, địa chi xuyên, tượng thiên can hợp liền
phá, ý là sự tình thiên can phải làm nửa đường sẽ bỏ đi, hoặc là làm việc sẽ không lâu dài;
2) Thực thần hợp Ấn là người tham gia loại nghề nghiệp có tính chất tư tưởng văn hóa.
Địa chi lục hợp là chỉ: Tý Sửu hợp, Dần Hợi, Mão Tuất hợp, Thìn Dậu hợp, Tị Thân hợp, Ngọ Mùi
hợp. Địa chi lục hợp cũng lấy hợp làm chủ, thông thường là không có nói hóa. Địa chi lục hợp
cùng thiên can ngũ hợp có chỗ giống nhau, đều là một loại phương thức tố công trong mệnh
cục, cũng tượng trưng ý nghĩa như kết thân, thân cận, hợp tác, trói buộc. Nhưng lục hợp tính
khẩn mật cường hơn, so với phép dùng thiên can ngũ hợp có phức tạp hơn một chút.
Dưới đây là chúng ta luận thuật từ góc độ phép dùng cụ thể địa chi lục hợp khác nhau.
1, Hợp lưu:
Trong mệnh cục lúc xem ứng kỳ kết hôn thường dùng lục hợp, xưng là Hợp lưu. Như trong bát
tự (hoặc đại vận) vốn có Phối ngẫu tinh vượng mà lúc gặp xung, hình, lại gặp lưu niên Thái tuế
hợp là thành hôn, hoặc là cung phối ngẫu gặp lưu niên hợp cũng ứng thành hôn; nguyên cục
có Tinh và Cung (hoặc nhật chủ) có hợp, đại vận lưu niên xung là ứng kỳ; nguyên cục không
có xung cũng không có hợp, lưu niên đi hợp Tinh, Cung là ứng kỳ; dưới tình huống đặc thù còn
ứng Thái tuế lâm Phối ngẫu tinh hợp nhập vào trong nguyên mệnh, đều là ý hợp lưu.
Khoảng 2/3 bát tự, phán đoán ứng kỳ hôn nhân đều phù hợp nguyên tắc hợp lưu (bao gồm cả
ngũ hợp, lục hợp, tam hợp, bán tam hợp, ám hợp). Nhưng cũng có 1/3 bát tự, ứng kỳ hôn
nhân không thể lấy hợp lưu để xem, phải dùng đến những phương pháp khác, cụ thể sẽ nói ở
trong khóa dạy trung cấp.
Nhắc nhở: Xem Phối ngẫu tinh ở trong cục, thông thường trước tiên là xem Chính Quan (hoặc
là Chính Tài), không có Chính Quan (hoặc là Chính Tài) mới xem Thất Sát (hoặc là Thiên Tài),
cho nên trong mệnh cục lúc có Quan Sát cùng thấy thì lấy Chính Quan làm chủ, thứ mới xem
Thất Sát; nhưng nếu như Phối ngẫu tinh đắc chính vị, lại phải lấy cung hôn nhân mà xem.
2, Hợp bán:
Lực lượng hai địa chi tương hợp có suy vượng tương đương gọi là Hợp bán. Hai thần hợp bán sẽ
mất đi nguyên tính, tức là mất đi tác dụng vốn có. Chỗ này cùng phép dùng và hàm nghĩa hợp
bán ở trong thiên can ngũ hợp giống nhau.
Nhưng địa chi hợp bán còn có đặc tính khác với thiên can hợp bán, bởi vì thiên can hợp chỉ có
một loại tình huống là khắc hợp, còn địa chi lục hợp lại còn có sinh hợp, ví dụ như Thìn Dậu
hợp là Thìn thổ sinh Dậu kim, Dần Hợi hợp là Hợi thủy sinh Dần mộc, cả hai kết quả tương hợp,
ở trên có một phương được sinh ý là "Nhận được sự bảo hộ". Bên được sinh ở trong cục là chữ
phải chế, rất không thích có đại vận hoặc lưu niên đến sinh. Như bát tự của Viên Thế Khải, ở
nguyên cục chế Dậu, đến đại vận và lưu niên Thìn, Thìn hợp mà bảo hộ dậu, Dậu không thể bị
chế, khó tránh khỏi hung.
Phép dùng địa chi hợp bán có mấy loại tình huống sau đây:
1) Hợp bán trong bát tự:
Trong bát tự có hai địa chi kề gần tương hợp vượng suy tương đương nhau gọi là Hợp bán.
Nhắc nhở:
1) Bất luận là nam nữ mệnh, Thê tinh (hoặc Quan tinh) đắc chính vị, thì không thích thấy tinh
khác (đặc biệt là tinh ở vị trí Khách) đến hợp, hợp thì là hôn nhân bất thuận, ý là phối ngẫu bị
người khác hợp chạy đi.
2) Nếu như Thê tinh (hoặc là Quan tinh) là Thiên tinh (Thiên Tài hoặc là Thất Sát), thì cũng bị
chế (như tạo của Mai Lan Phương).
2) Địa chi đại vận hợp địa chi nguyên mệnh cục:
Địa chi đại vận cùng một chi nào đó trong bát tự hợp nhau, có thể coi là gần kề cùng địa chi
bát tự tương hợp, trực tiếp tác dụng với nhau. Có hai loại tình huống: Một là, đại vận hợp chữ
ở trong bát tự, cả hai cùng hợp bán với nhau, chủ yếu là chi trong bát tự bị trói buộc, mà mất
đi nguyên tính; đại vận cùng một trụ nào đó trong bát tự thiên địa hợp, vậy càng là hợp
bán. Hai là, chữ ở trong đại vận bị bát tự hợp nhập hoặc là hợp lưu, bị mệnh chủ lấy được.
3) Địa chi lưu niên hợp địa chi bát tự (hoặc đại vận):
Lưu niên hợp bát tự (hoặc là đại vận) cũng có hai loại tình huống: Một là, địa chi lưu niên hợp
nguyên mệnh cục là Hợp động, biểu thị lưu niên dẫn động chữ lưu niên ở trong mệnh cục, chữ
này sẽ phát động mà sản sinh tác dụng. Hai là, địa chi lưu niên hợp mệnh cục là Hợp lưu,
thông thường dùng để xem ứng kỳ hôn nhân, nhưng có lúc cũng dùng ở ứng sự, ý là chữ ở
trong lưu niên bị mệnh cục hợp mà giữ lại, như ở VD 1 là loại tình huống này. Nếu can chi lưu
niên cùng một trụ nào đó ở trong mệnh cục thiên địa hợp, theo hợp bán mà luận, ở đây đã có
nói ở trong thiên can ngũ hợp.
Đang ở hành một đại vận cùng lưu niên nào đó hợp, không phải là hợp bán nhau, mà là ứng kỳ
lưu niên dẫn động đại vận.
Giữa địa chi hợp nhau nói chung là có mấy loại hình như: Trợ hợp, Khắc hợp, Bế khí và Hợp
thương, mặc dù là địa chi tương hợp, nhưng phép dùng cụ thể của chúng nó từng cái lại khác
nhau. Sau đây là phân biệt luận thuật:
1, Trợ hợp:
Hai chi tương hợp, trong đó một chi cùng một chi khác có quan hệ tương sinh, gọi là Trợ hợp.
Địa chi trợ hợp bao gồm3 loại tình huống: Thìn Dậu hợp, Dần Hợi hợp, Ngọ Mùi hợp. Như Thìn
Dậu hợp, Thìn thổ sinh Dậu kim, Dậu kim phùng trợ còn Thìn thổ tiết lực, tác dụng của Thìn
giảm nhược; Dần Hợi hợp là Hợi thủy sinh Dần mộc, Dần mộc phùng trợ còn Hợi thủy tiết lực,
tác dụng của Hợi thủy giảm nhược; Ngọ Mùi hợp là Ngọ hỏa sinh Mùi thổ, Mùi thổ phùng trợ
còn Ngọ hỏa tiết lực, tác dụng của Ngọ hỏa giảm nhược.
2, Khắc hợp:
Hai chi tương hợp, trong đó có một chi cùng một chi khác có quan hệ tương khắc, xưng là Khắc
hợp. Bao gồm có hai loại tình huống: Mão Tuất hợp, Tị Thân hợp. Mão Tuất hợp là Mão mộc
khắc Tuất thổ, Tuất thổ thụ khắc mà tổn thương; lúc Tị hỏa vượng, Tị hợp Thân là khắc Thân
kim, Thân kim thụ thương.
4, Hợp thương:
Trong địa chi khí ẩn tàng bởi vì hợp mà bị khắc, xưng là Hợp thương. Bao gồm 3 loại tình
huống là: Thìn Dậu hợp, Dần Hợi hợp, Tị Thân hợp. Như Thìn Dậu hợp, Ất mộc trong Thìn bị
chỗ Dậu kim khắc thương; Dần Hợi hợp, Bính hỏa trong Dần bị chỗ Nhâm thủy trong Hợi khắc
thương; Tị Thân hợp, Bính hỏa trong Tị bị chỗ Nhâm thủy trong Thân khắc thương. Hợp thương
cũng thuộc về một loại chế pháp, phải phân biệt lực lượng đôi bên lớn hay nhỏ.
Ba, Đặc tính khác nhau của địa chi lục hợp
Nhắc nhở: Trong nguyên cục Tài nhược mà Quan Sát nhiều lại vượng, thuộc về kết cấu Tài
thống Quan. Loại tình huống này phải đem Quan Sát xem như là Tài, có bao nhiêu Quan Sát
thì có bao nhiêu Tài, Sát lớn Tài cũng lớn. Kết cấu Tài thống Quan phép dùng cụ thể sẽ đề cập
ở khóa dạy trung cấp.
Tình huống giống như ở ví dụ này có Thìn Tuất Mão cả ba vị cùng thấy, trước tiên là luận Thìn
Tuất xung khai khố, còn phải là trước tiên luận Mão Tuất hợp đóng khố chứ? Bởi vì ở trong
nguyên mệnh cục Mão ở gần Chủ vị, quan hệ mật thiết hơn so với Thìn và trụ ngày, cho nên
phải lấy đóng khố làm chủ; lại lấy nguyên mệnh cục thuận theo thứ tự trước sau mà nói, Thìn
ở trụ tháng, trước tiên là Thìn khai mở Tuất khố, sau đó lại bị Mão hợp đóng, thực tế người này
trước đây được một khoản tiền, sau đó lại phá tài.
Loại kết cấu này cho dù trụ năm thấy Mão cũng không cát, bởi vì năm Mão xuyên Thìn càng
gần hơn, Thìn bị chế lực suy nhược, không mở được khố Tuất, vẫn là phá tài, loại tổ hợp này
tốt nhất là không nên thấy Mão.
VD 2, Khôn tạo: Bính Ngọ, Nhâm Thìn, Mậu Tuất, Ất Mão.
Đại vận: Tân Mão, Canh Dần, Kỷ Sửu, Mậu Tý, Đinh Hợi, Bính Tuất, Ất Dậu.
Phân tích: Tạo này ở trong cục hỏa và táo thổ có thế, Tuất thổ tọa dưới nhật chủ xung Thìn, ý
là ở dùng Tuất chế Thìn khố Tài (ý hướng chỗ tạo này cùng tạo ở trên Thìn Tuất tương xung
vừa đúng trái nghịch). Thìn Tuất xung khai khố Tài vốn là mệnh phát tài, nhưng không hỉ thấy
sinh ở giờ Mão, Mão hợp trói Tuất thổ, Tuất thổ mất đi nguyên tính, không có lực xung Thìn,
Thìn là khố Tài không mở được còn bị Mão xuyên, đại vận lại một đường đi kim thủy, cho nên
cả đời sẽ không phát tài. Thực tế người này là một nông dân, bởi vì Tỉ kiên Tuất thổ tố công, lại
có Mão Tuất hợp là mộc hợp thổ, Mão là hoa màu, Tuất là thổ địa, có tượng trồng trọt hoa
màu; Bính hỏa là Thái dương, lúc không cao chiếu, là mệnh vất vả gian khổ.
Người này ở năm Ất Dậu, tháng 7 mắc bệnh viêm cơ tim, bởi vì trong nguyên cục Tuất là Công
thần, Tuất là khố hỏa cũng là tim, bị Dậu xuyên phá, lại còn Thìn Dậu hợp, là kỵ thần kim thủy
đắc vượng, cho nên mắc bệnh tim lại còn phá tài. Năm này mặc dù Dậu xung Mão, chế Mão là
hỉ, nhưng Tuất thổ công thần ở trong cục bị pháu. Dậu xung môn hộ là tượng động, người này
vào mùa thu trở về quê hương Cát Lâm.
Nhắc nhở: Công thần ở trong cục không thể bị chữ ở trong mệnh cục, đại vận hoặc là lưu niên
đến phá (bị hợp, xung, xuyên đều là bị phá), phá thì hung. Như ở ví dụ này Tuất bị Mão phá, là
cả đời không có tiền tài hoặc là phá tài.
Địa chi lục hợp cùng thiên can ngũ hợp như nhau, tượng hai bên hợp nhau cũng có thể thay đổi
cho nhau, tức là có thể dùng tin tức lẫn nhau của đối phương. Phép dùng cùng thiên can ngũ
hợp giống nhau, ở đây không nói thêm, chỉ đưa ra ví dụ để thuyết minh.
Địa chi tam hợp cục là chỉ Dần Ngọ Tuất hợp hóa hỏa cục, Hợi Mão Mùi hợp hóa mộc cục, Thân
Tý Thìn hợp hóa thủy cục, Tị Dậu Sửu hợp hóa kim cục. Ở trong tất cả phép hợp, tam hợp cục
là duy nhất có thể hợp hóa, như loại Thân Tý Thìn hợp hóa thủy cục, …
Tam hợp cục là chỗ ngũ hành tụ hội 3 loại Trường sinh, Đế vượng, Mộ khố mà thành cục, giống
như kết đảng ở trong quan hệ xã hội, cho nên cũng gọi là đảng cục. Chủ yếu thể hiện một mục
tiêu và trọng tâm, chúng ta đem Trung thần (tức là Tý, Ngọ, Mão, Dậu ở trong tam hợp cục)
xem như đầu đảng hoặc là thủ lĩnh, còn lại hai thần khác đều là thần phò tá.
Tam hợp cục có tính khẩn mật nhất định, nhưng cùng so sánh với tính khẩn mật của lục hợp
kém hơn một chút, cho nên có thuyết lục hợp là có thể giải được tam hợp.
Lúc đoán ứng kỳ hôn nhân, thường phải dùng đến tam hợp cục. Cần phải chú ý là, tam hợp
thành hay không thành cục, là không có quan hệ gì đến ngũ hành ở thiên can thấu hay không
thấu.
Tam hợp cục không pải là hợp bán. Mỗi một thần ở trong cục đều có độ tự do nhất định, còn có
thể đi tác dụng với những thần khác, nhưng bởi vì có quan hệ hợp cục, cả ba đều nhất tâm
hướng"Đảng", tất nhiên trên lực lượng sẽ có chỗ biến hóa.
Một, Lực lượng biến hóa các thần trong tam hợp cục và bán hợp cục
Trong tam hợp cục có 2 cái thì cũng có thể thành cục, xưng là bán hợp cục. Lực lượng thành
cục tất nhiên phải nhỏ hơn tam hợp cục.
1, Sinh địa bán hợp cục: Hợi Mão bán hợp mộc cục, Dần Ngọ bán hợp hỏa cục, Thân Tý bán
hợp thủy cục, Tị Dậu bán hợp kim cục.
2, Mộ địa bán hợp cục: Mão Mùi bán hợp mộc cục, Ngọ Tuất bán hợp hỏa cục, Dậu Sửu bán
hợp kim cục, Tý Thìn bán hợp thủy cục.
3, Củng cục: Hợi Mùi củng mộc cục, Dần Tuất củng hỏa cục, Tị Sửu củng kim cục, Thân Thìn
củng thủy cục. Củng cục bởi vì không có Trung thần, còn lại hai thần khác là Hư củng được
Trung thần, chỗ này có phép dùng tượng đặc thù, như nguyên cục có Thìn là Tài khố mà không
mở, thì nhật chủ không thể làm chỗ dùng, đại vận nếu như thấy Thân, Thân Thìn củng nhau,
thì có thể củng xuất ra Tài ở trong Thìn nguyên cục, thành chỗ ta dùng, những phép dùng của
các loại khố khác loại suy giống như vậy. Phép dùng cụ thể tỉ mĩ sẽ nói ở lớp trung cấp.
Ba, Phép dùng và các hạng mục chú ý trong tam hợp cục và bán hợp cục
1, Tam hợp cục, bán hợp cục và củng cục ở trong mệnh lý thường dùng ở lúc đoán ứng kỳ hôn
nhân.
2, Vị trí Trung thần ở trong tam hợp cục hết sức trọng yếu, Trung thần rơi ở Chủ vị lâm cát
thần, có tinh khác củng là đại cát; còn tơi ở vị trí Khách bị sinh củng, cho dù là cát thần, cũng
chỉ là thứ cát. VD như nhật chủ tọa Sửu thổ Thực thần, củng trụ tháng Dậu Tài, tức là biểu thị
dùng kỹ thuật của mình thay thế người khác sáng tạo ra tài phú;
3, Lục hợp có thể giải tam hợp. Trong tam hợp cục nếu Trung thần cùng những chi khác có
quan hệ lục hợp, thì tam hợp cục bị tổn hại. Bởi vì tính khẩn mật của lục hợp mạnh hơn tam
hợp cục, cho nên Trung thần sẽ có xu hướng theo lục hợp, theo hợp trói mà luận. Nếu như tam
hợp cục trường sinh chi hoặc mộ nếu có lục hợp, thì trước tiên phải luận lục hợp, còn lại là luận
bán tam hợp.
4, Tam hợp cục tối kỵ xung, xung thì phá hợp; cũng sợ bị xuyên hoặc là hình phá. Nếu như Hợi
Mão Mùi tam hợp mộc cục, lẫn tạp trong đó có một chữ Tị Dậu Sửu, mà chữ này lại kề gần
cùng chỗ thần xung mộc cục, thì mộc tam hợp cục là bị phá cục. Như Dậu đi phá Trung thần
Mão, thì tam hợp mộc cục hoàn toàn không thành; nếu như Tị đi phá Hợi, tuy là tam hợp mộc
cục không thành, còn lại Mão Mùi vẫn bán hợp thành cục; nếu như Sửu đi xung Mùi, thì Hợi
Mão bán hợp cục hoàn thành lập, còn lại loại suy như vậy. Trung thần ơ trong tam hợp cục rất
trọng yếu, như đại vận đến xung Trung thần tam hợp cục, thì tam hợp cục này bị phá.
5, Trung thần song hiện hoặc là đa hiện sẽ không thành tam hợp cục, lấy Trung thần nhập mộ
mà luận.
Nhằm vào đặc điểm tam hợp cục, đặc biệt đưa ra ví dụ phân loại như sau:
[2] Phép dùng trong ứng kỳ hôn nhân trong tam hợp cục: (Hoặc là bán tam hợp và củng cục)
VD 1, Càn tạo: Tân Hợi, Bính Thân, Đinh Sửu, Ất Tị.
Đại vận: Ất Mùi, Giáp Ngọ, Quý Tị, Nhâm Thìn, Tân Mão, Canh Dần, Kỷ Sửu.
Phân tích: Tạo này trụ năm thấy Tân kim Thiên Tài, chi tháng thấy Thân kim Chính Tài. Tị Sửu
củng Tài, củng đến Thê cung, nguyên thân Tị là Bính thấu can tháng hợp trụ năm Tân Quan,
Tân ở trụ năm là phía trước, cho nên lấy trụ năm Tân Tài làm Thê tinh. Tài tinh xuất hiện ở trụ
năm, kết hôn sớm. Vận Ngọ năm Quý Dậu, Tị Dậu Sửu tam hợp Tài cục, lưu niên đem Thê tinh
hợp đến Thê cung, năm này kết hôn.
Nhắc nhở: Tương xuyên không thể khai mộ, chỉ có hình, xung mới có thể khai mộ.
Nhắc nhở:
1) Chữ ở địa chi trong nguyên cục phải chế, không thích thấy có nguyên thân hoặc là vật độn
tàng thấu can không có chế.
2) Tuất thổ lúc là khố Quan Sát, tượng có thể đại biểu là đao, súng, đạn dược….
Phân biệt Lục xung vừa có xung vừa có khắc, có xung không có khắc. Như:
+ Tý Ngọ xung, Tý thủy xung khắc Ngọ hỏa, còn Ngọ hỏa đối với Tý thủy có xung không có
khắc;
+ Mão Dậu xung, Dậu kim xung khắc Mão mộc, còn Mão mộc đối với Dậu kim chỉ có xung
không có khắc;
+ Dần Thân xung, Thân kim xung khắc Dần mộc, còn Dần mộc đối với Thân kim chỉ có xung
mà không có khắc;
+ Tị Hợi xung, Hợi thủy xung khắc Tị hỏa, còn Tị hỏa đối với Hợi thủy chỉ có xung không có
khắc;
+ Thìn Tuất xung và Sửu Mùi xung, là nhân nguyên độn tàng hỗn chiến với nhau, bản khí của
Thìn Tuất Sửu Mùi thổ vì xung mà biến hư.
Tương xung ở trong bát tự có phân biệt: Kề nhau mà xung và Cách vị trí mà xung, cũng có
khác nhau là xung thuận và xung đảo. Kề nhau lực lượng xung cường, cách vị trí xung nhau thì
lực lượng nhược, lực lượng xung xa là suy yếu. Địa chi tương xung, tình hình khác nhau thì có
tác dụng khác nhau.
Lục xung có tương xung trong bát tự, đại vận hoặc lưu niên cùng nguyên mệnh cục xung, cùng
lưu niên và đại vận xung. Các loại hình tương xung, ở trong phép dùng phân tích toàn bộ mệnh
cục là không giống nhau.
VD 4, Càn tạo: Canh Tuất, Mậu Tý, Nhâm Ngọ, Canh Tý.
Đại vận: Kỷ Sửu, Canh Dần, Tân Mão, Nhâm Thìn, Quý Tị, Giáp Ngọ, Ất Mùi.
Phân tích: Ngọ hỏa Tài tinh cư Thê cung là được chính vị, 2 Tý kẹp xung sẽ không xung phá.
Trụ năm lại thấy Tuất và Ngọ là một nhà, Tuất có thể khắc Tý, Tuất lại là căn của Ngọ. Cho
nên Tý Ngọ xung sẽ không khắc vợ.
Nhắc nhở: Kẹp xung ở trong nguyên mệnh cục, không thể đem bên bị xung xung phá hoặc là
xung chế.
Nhắc nhở:
1, Khẩu quyết: Xuyên đảo Dương Nhận, tội một đao.
2, Lộc của nữ mệnh bị Sát xung, là bị cưỡng dâm.
2) Nguyên lý hỗ hoán Tượng cũng áp dụng cho tương xung: Trong bát tự chữ cường xung
nhược gọi là xung phá, xung hư hoặc là chế tử, lúc này tất là có hỗ hoán tượng, tức là bên bị
xung tất có tính chất của bên xung. Giống như nước Mỹ đánh Iraq, sau khi đánh xong nhất
định họ xây dựng lại có mang hình bóng của nước Mỹ. Như ví dụ dưới đây tức là xung mà hoán
tượng.
VD 1, Càn tạo: Đinh Mùi, Quý Sửu, Bính Tý, Nhâm Thìn.
Đại vận: Nhâm Tý, Tân Hợi, Canh Tuất, Kỷ Dậu, Mậu Thân, Đinh Mùi, Bính Ngọ.
Phân tích: Trong cục thấp thổ và thủy vượng, Sửu Mùi xung gần, là Sửu Tài khố chế Mùi, Đinh
hỏa Kiếp tài trong Mùi bị chế. Căn cứ nguyên lý hỗ hoán tượng, đây là Kiếp tài bị chế tất có
chứa tính chất của Tài, tức là đem Đinh hỏa Kiếp tài lấy Tài xem. Trong cục thấp thổ và thủy tố
công, Mùi ở trụ năm là vị trí Khách, nhưng thiên can Đinh Nhâm hợp, Nhâm tọa Thìn, Tý Thìn
bán hợp, đem Đinh "Tài" kéo về Chủ vị. Người này là ông chủ khống chế tài phú cực lớn.
Thập nhị Chi tương xuyên, còn gọi là Thập nhị Chi tương hại, có: Tý Mùi xuyên, Sửu Ngọ
xuyên, Dần Tị xuyên, Mão Thìn xuyên, Thân Hợi xuyên, Dậu Tuất xuyên.
Xung hợp thần tức là tương xuyên. Như Tý muốn cùng Sửu hợp, nhưng Mùi đến xung Sửu, thì
Tý Mùi tương xuyên, thủ tượng "Xem nhau như kẻ thù"; còn lại cứ loại suy.
Mệnh lý Manh phái hết sức chú trọng tương xuyên, bởi vì sự nguy hại cùng lực sát thương phải
thắng hơn tương xung, vận dụng trong đoán mệnh so với tương xung còn trọng yếu hơn. Bởi vì
xung là đến chính diện, lúc không thể đối địch thì còn có thể bỏ chạy, cho nên tương xung còn
có ý là xung chạy, xung động, như Lộc xung Tài hoặc Tài xung Lộc, ý là Tài đến Tài đi, Tài mới
có thể đến trên thân của mình. Còn xuyên thì khác, bởi vì xuyên là đến từ bên hông, không
chính diện, khiến cho người không biết đề phòng, không cách nào bỏ chạy được. Hai bên
xuyên nhau xem như kẻ thù, lực lượng khá lớn, mang đến sự thù địch lẫn nhau, muốn hắn
sống còn ta thì chết, cho nên nguy hại của xuyên tuyệt đối không phải là nhỏ, như Lộc xuyên
Tài hoặc Tài xuyên Lộc, thì Lộc sẽ bị thương hại, rất khó chịu. Bát tự có tổ hợp xuyên, nó nhất
định sẽ ứng sự, là nhất định nói đến, phải chú ý mà phân biệt.
Xuyên cũng là một loại chế pháp, nhưng phải phân ra vượng suy, một bên vượng thì có thể
xuyên đối phương. Cho dù có xuyên khắc nhau, cũng phải xem thế lực hai bên, bên nào đắc
thế thì sẽ xuyên đối phương. Như Dậu Tuất xuyên, vốn Tuất là táo thổ, thông thường sẽ xuyên
Dậu kim, nhưng nếu như trong cục kim vượng còn hỏa thổ nhược, Dậu lại có thể xuyên đảo
Tuất, …
+ Hai, Xuyên là hung tai. Tương xuyên là sự bất hòa giữa hai bên, là không thể điều hòa mâu
thuẫn, một khi gặp nhau, tất nhiên là không cách nào tránh khỏi, phải tiến hành đấu tranh
người chết ta sống. Bát tự có xuyên đa số là hung tai hoặc là tử vong, phần lớn nó gây tổn
thương cho lục thân, xem chữ bị xuyên ở trong bát tự lớn hay nhỏ đại biểu lục thân là có bị
xuyên phá hay không, như xuyên phá, thì có khả năng tử vong.
Ở trong 6 loại phép xuyên, lấy tình huống tương khắc lại xuyên là nghiêm trọng nhất. Như Tý
Mùi xuyên, Mão Thìn xuyên, Dậu Tuất xuyên (Táo thổ làm giòn kim), Sửu Ngọ xuyên (thấp thổ
làm mờ hỏa), mấy loại xuyên này là lợi hại nhất. Còn Thân Hợi xuyên, Dần Tị xuyên là trong
sinh có mang xuyên, lúc bên bị sinh xuyên, còn có ý động, mà lực Sinh xuyên có sát thương
không lớn, không có lớn bằng tính nguy hại của khắc xuyên; nhưng từ trên góc độ xem tượng
mà nói, sinh xuyên cũng là rất lợi hại, không thể xem nó nhỏ được, trong mệnh cục nếu thấy
thì phải đặc biệt chú ý.
Phép dùng Xuyên có 3 tình huống: Tức là xuyên trong bát tự, đại vận xuyên bát tự và lưu
niên xuyên bát tự. Trong 3 loại phép xuyên này, sợ nhất là xuyên trong nguyên mệnh cục và
đại vận xuyên bát tự.
Nguyên mệnh cục tương xuyên, là có hung, loại tình huống này khá là phức tạp, phải theo tình
huống cụ thể trong mệnh cục mà định. Nguyên tắc chung để phán đoán cát hung là: Cát thần
bị xuyên là hung, Hung thần bị xuyên là cát, thần không dùng bị xuyên cũng luận cát. Mộ khố
bị xuyên không phải là mở khai mộ khố, như Mão Thìn xuyên không phải là mở khai Thìn khố.
Xem hôn nhân, lúc cung phu thê hữu dụng thì không thể bị xuyên, bị xuyên thì phá hư; cung
phu thê không có bao nhiêu chỗ dùng, gặp xuyên thì bình thường không ngại. Như Tinh và
Cung xuyên nhau, thông thường là hôn nhân bất thuận, nhưng mức độ sinh xuyên là khá nhẹ,
không có lợi hại như khắc xuyên, tình huống cụ thể còn phải kết hợp với kết cấu trong mệnh
cục, như cung hôn nhân là kỵ, Phối ngẫu tinh xuyên cũng không ngại (như VD 7 ở dưới). Tóm
lại, trong mệnh cục có xuyên, vẫn cần phải đặc biệt chú ý.
Đại vận xuyên nguyên mệnh cục, trong mệnh cục chữ bị xuyên thì trong vận này sẽ có vấn đề,
chữ nào bị xuyên, thì chữ đó bị hung, đại vận này cũng là vận hung. Như cung phối ngẫu bị đại
vận đến xuyên, đại vận này nếu như không có kết hôn, thì rất ít có cơ hội kết hôn (như chữ
chủ xuyên bị lưu niên hợp bán, cũng có thể kết hôn); như kết hôn, thì hôn nhân sẽ xảy ra vấn
đề, nhưng không nhất định ly hôn. Cung Phu thê bị đại vận xuyên, nhất định là hôn nhân
không cát, nhẹ thì cải nhau hoặc là ra sống riêng, thậm chí sẽ ly hôn.
Lưu niên xuyên bát tự ai cũng sẽ gặp đến, thông thường là không lợi hại, bởi vì lưu niên là thời
gian ngắn, phần lớn là biểu thị năm này có tâm tình không tốt, làm việc bất lợi hoặc là có trở
ngại.
Nhắc nhở:
1) Ấn tinh ở năm tháng là mẹ, nhưng Thực thần ở năm tháng cũng là mẹ, không có Ấn thì phải
tìm Thực thần.
2) Hợp mà có thọ, rất sợ giải hợp, phá hợp thì hết thọ.
Nhắc nhở:
1) Trong mệnh cục chỗ Ấn tinh bị khố Nhận chế, là người nắm binh quyền.
2) Phối Ngẫu cung bị xuyên, không phải tất cả mệnh cục hôn nhân đều sẽ có vấn đề, phải xem
kết cấu mệnh cục cụ thể.
Phân tích: (Bốc Văn giải thích) Trong cục có kim rất vượng, kết thành đảng, Dậu Tuất xuyên,
Tuất nhược bị Dậu xuyên đảo. Năm tháng không thấy Ấn, Tuất là Thực thần cư ở chi năm, lấy
là mẹ xem, Dậu xuyên đảo Tuất, biểu thị tổn thương mẹ, thực tế mẹ đã qua đời rất sớm. Đến
vận Hợi, kim thủy thành đảng, thủy vượng lại gặp năm Nhâm Tuất, là Tuất trong cục đến, bị
nguyên cục Dậu xuyên đảo, năm này có tang mẹ. Mệnh cục là Tài tinh chế Tỉ Kiếp khố Dương
nhận (cũng là Thực thần), Thân kim ở Chủ vị có công, hơn nữa công này còn rất lớn, Tài tinh
xuyên đảo Thực thần, biểu thị ý là có tiền, nhưng ở đây không phải là chủ yếu, trọng yếu hơn
là nhật chủ tọa chi Thân kim là đất Quan trường sinh, trong có chứa Quan, Quan xuyên Thực
thần là có công, biểu thị có quyền, là mệnh làm quan.
Bà nội của mệnh chủ cũng ở lúc thanh niên hơn 30 tuổi chết sớm. Trụ năm Thương quan là bà
nội, bởi vì trong cục tuy không có lộ ra Thương quan, nhưng Thương nhược bị chế, có tượng bà
nội mất sớm.
Nhắc nhở: Thực Thương lúc lấy xem là Thọ nguyên tinh, xuyên đảo Thực Thương là tổn thọ.
VD 11, Càn tạo: Giáp Thân, Tân Mùi, Mậu Tý, Bính Thìn.
Đại vận: Nhâm Thân, Quý Dậu, Giáp Tuất, Ất Hợi, Bính Tý, Đinh Sửu, Mậu Dần.
Phân tích: (Bốc Văn giải thích) Tạo này mặc dù có Thân kim cách xa Tý thủy, Tý cũng bị Mùi
xuyên, nhưng Thân Tý Thìn vẫn là có tam hợp cục. Tình huống thông thường, vốn là Mùi thổ
xuyên Tý thủy, nhưng tạo này đảng thủy mạnh, phản xuyên lại Mùi, Mùi là khố Quan Sát bị
chế, cho nên mới là mệnh làm quan. Trụ năm Giáp Thân, Giáp là Sát, là quyền lực, bị tam hợp
cục hợp đến tọa dưới nhật chủ, Trung thần lạc Chủ vị vốn là chức trưởng, nhưng có Tý thủy bị
Mùi xuyên, đem Trung thần Tý ở Chủ vị xuyên Thiên, cho nên là chức phó. Mùi xuyên Tý là
xem tượng, không luận lực lượng hai bên tương xuyên lớn hay nhỏ, chỉ cần có xuyên, thì sẽ
xuyên Thiên, chỗ này cùng Tý vượng xuyên đảo Mùi tố công là không mâu thuẫn. Mệnh cục
người này có Tý Mùi xuyên, hôn nhân lại không cát, vẫn là bởi vì Tý vượng mà xuyên Mùi, chỗ
này phải xem cả hai lực lượng lớn hay nhỏ. Nếu như Mùi vượng xuyên đảo Tý, thì hôn nhân sẽ
khẳng định là có vấn đề. Người này là Phó Huyện trưởng Huyện Vấn Thủy tỉnh Sơn Tây chuyên
quản công nghiệp, sau này vì Huyện Vấn Thủy có chuyện người bị trúng độc rượu chết mà bị
hạ đài. Hác Kim Dương đã từng đoán ông ta cả đời cũng không thể làm quan trưởng mà chỉ
làm chức phó.
VD 12, Càn tạo: Canh Tuất, Mậu Dần, Quý Dậu, Tân Dậu.
Đại vận: Kỷ Mão, Canh Thìn, Tân Tị, Nhâm Ngọ, Quý Mùi, Giáp Thân, Ất Dậu.
Phân tích: Nhật chủ Quý thủy tọa Dậu Ấn, trụ giờ lại thấy Dậu, chi năm Tuất thổ là Tài khố.
Bát tự không có Tài, Tài ám tàng ở trong khố Tuất, 2 Dậu xuyên 1 Tuất, phá Tuất thổ cùng
Đinh Tài trong Tuất. Tài ở trụ năm là cha, Tuất lại là cung cha mẹ, đến vận Tị Phụ tinh xuất
hiện, Dần Tị xuyên, phá Tị hỏa Tài tinh, năm Đinh Sửu, Đinh hỏa xuất hiện lại hư thấu, Sửu
Tuất tương hình lại phá Phụ tinh và Phụ cung, cha qua đời. Đinh Tài trong Tuất lại lấy vợ xem,
Tuất bị Dậu xuyên, Dậu là Thê cung, Cung và Tinh xuyên nhau, cho nên người này đến nay
vẫn chưa có kết hôn (năm 2006).
VD 13, Càn tạo: Nhâm Tý, Nhâm Dần, Canh Thìn, Tân Tị.
Đại vận: Quý Mão, Giáp Thìn, Ất Tị, Bính Ngọ, Đinh Mùi, Mậu Thân, Kỷ Dậu.
Phân tích: Tạo này là một ví dụ ở trong tiết "Hàm nghĩa Thập thần" chương "Loại tượng Thập
thần". Trong cục thấy Dần Tị xuyên, có thể nhìn ra một vài tin tức dưới đây. Lấy chi giờ Tị hỏa
làm con trai, Tị Sát cư ở cung con cái, mệnh chủ vốn là phải sinh con trai, nhưng bị Dần mộc
xuyên Thiên, kết quả là sinh con gái. Mệnh tượng còn hiển lộ cha mẹ không yêu thích đứa bé
này, bởi vì Dần xuyên Tị là cung cha mẹ xuyên cung con cái. Vận Giáp Thìn năm Mậu Dần, Dần
Tị xuyên là động Tị, người này đến làm việc ở ngành Công - Kiểm - Pháp. Vận Ất Tị năm Giáp
Thân, Tị Thân hợp, hợp động Tị hỏa xuyên Dần mộc, Dần là Tài, là phá tài, nguyên cục Ất là
vợ, Vận Ất Tị, là Tị hỏa trên đầu mang Thê tinh Ất mộc, cho nên vì vợ mà phá tài; Thìn thổ là
Thiên Ấn, trong Thìn lại ẩn tàng Thê tinh Ất mộc, bởi vì Thìn là Thiên tinh, có thể loại tượng là
mẹ vợ, cuối cùng là vì cha mẹ vợ phá tài.
Nhắc nhở:
1) Nam mệnh lấy Quan Sát làm con cái (Chính Quan là con gái, Thất Sát là con trai); Nữ mệnh
thì lấy Thực Thương làm con cái (Thực thần là con gái, Thương quan là con trai).
2) Phần lớn tương xuyên là ứng ở phương diện lục thân.
VD 15, Khôn tạo: Nhâm Dần, Canh Tuất, Kỷ Sửu, Canh Ngọ.
Đại vận: Kỷ Dậu, Mậu Thân, Đinh Mùi, Bính Ngọ, Ất Tị, Giáp Thìn, Quý Mão.
Phân tích: (Bốc Văn giải thích) tNgười này là một nhà tổng quản tài vụ công ti lớn, là phó Tổng
Giám đốc. Công ở mệnh cục này là rất lớn, hỏa và táo thổ có thế, Tuất hình Sửu, Ngọ xuyên
Sửu, ý là ở đi khử khố Thương quan Thực thần, trong Sửu cũng có Quý Tài, chế Sửu chính là
chế Tài cùng nguyên thần Tài, cho nên là mệnh phát đại tài. Người này còn khẳng định là làm
ở xí nghiệp, bởi vì Sửu tọa dưới nhật chủ là khố Thực Thương, tượng làm xí nghiệp. Nhưng
trong cục có Sửu Ngọ xuyên Lộc là mao bệnh, Ngọ là cung con cái bị Sửu xuyên, thì phương
diện con cái sẽ có vấn đề, Ngọ xuyên Sửu là Phu cung cùng Lộc bất hòa, Lộc là đại biểu bản
thân, bị chỗ cung hôn nhân Sửu làm mờ Ngọ hỏa, thì hôn nhân cũng sẽ có vấn đề.
Ngọ có thể đại biểu thân thể nhật chủ, Ngọ còn là cung con cái, thì Ngọ chính là tử cung của
mệnh chủ, bị Sửu xuyên, cho nên đoán mắc bệnh ung thư tử cung, ứng ở vận Ngọ. Vận Ngọ
xuyên Lộc, Lộc đến là thọ đến, thông thường là biểu thị sinh mệnh sẽ hết, vận này năm Nhâm
Ngọ là đại hung. Chỗ may mắn gặp được danh y cứu chữa, dùng phụ tử đại nhiệt bổ cứu khí
dương mà cứu sống, đến nay cuộc sống đã tốt. Người này ở trụ năm Dần mộc là nguyên thần
Ngọ hỏa, không bị phá, mà Dần lại hợp Sửu là chế Sửu, Sửu xuyên Ngọ bị giảm lực, cho nên
Dần là cứu tinh của mệnh chủ.
Nhắc nhở: Phải đặc biệt chú ý, ở ví dụ này nguyên mệnh cục hỏa vượng, vận Ngọ hỏa đại
vượng, tại sao Sửu nhược ở nguyên cục xuyên Ngọ, mệnh chủ sẽ vẫn mắc bệnh chứ? Thực ra,
Manh phái xem quan hệ đại vận cùng nguyên cục, phép xem cũng không phải là như vậy. Đại
vận hoặc lưu niên thấy chữ ở trong nguyên cục, bất kể vượng suy như thế nào, đều là ứng kỳ
của chữ đó ở trong nguyên cục. Chữ này ở trong nguyên cục có quan hệ tác dụng gì, đại vận
thấy thì sẽ phát sinh sự tình tương ứng, cũng không phải đơn thuần là biến vượng hay biến
suy. Như tạo này nguyên cục có Ngọ, đại vận Bính Ngọ, lưu niên Nhâm Ngọ hỏa càng vượng,
nhưng nàng vẫn cứ biểu thị là ứng kỳ Sửu xuyên Ngọ ở trong nguyên cục.
VD 17, Khôn tạo: Canh Tuất, Mậu Dần, Kỷ Tị, Giáp Tý.
Đại vận: Đinh Sửu, Bính Tý, Ất Hợi, Giáp Tuất, Quý Dậu, Nhâm Thân, Tân Mùi.
Phân tích: Tạo này nhật chủ Kỷ thổ hợp trụ giờ Giáp Quan, địa chi tháng có Dần mộc Quan
tinh, Dần là Lộc của Giáp, không thích tọa dưới có Tị hỏa xuyên Dần mộc Quan tinh, là Phu và
Cung xuyên Phu tinh, cho nên hôn nhân không tốt, sau khi kết hôn cũng sẽ khắc phu, tất ly
hôn là không nghi ngờ. Nhật chủ hợp Quan biểu thị nhật chủ muốn truy cầu Quan, muốn hôn
nhân, nhưng địa chi lại xuyên Quan, ý là chồng không đi vào được phu cung, cho nên nói đối
tượng liên tiếp hai ba lần, nhưng đến trước mắt là dừng lại, vẫn không có kết hôn. Tị hỏa là Ấn
là cha mẹ, Tị xuyên Dần Quan, là cha mẹ xuyên Quan, nàng tìm bạn trai có cha mẹ đều phản
đối. Vận Ất Hợi, năm Giáp Thân lại nói chuyện với một bạn trai, năm này Giáp hợp nhật chủ
Kỷ, nói chuyện đối tượng, Thân hợp Tị, Tị không xuyên Quan, cuối cùng cha mẹ đồng ý.
Chú thích: Manh sư thường giảng, hôn nhân bất thuận là không thể tránh được, không có
biện pháp. Có người sẽ hỏi, hôn nhân không cát có thể không ly hôn hay không chứ? Là không
thể! Bởi vì khắc phu hoặc khắc thê đến mức độ nghiêm trọng, không ly hôn thì chết, không
chết thì ly hôn. Thà vì hôn nhân mà chết, ngược lại không tốt bằng ly hôn. Cho nên, người bình
thường toán hôn nhân, đều là khuyên hòa mà không khuyên ly tan, nhưng bản thân tôi lại là
nên ly hôn lập tức khuyên ly hôn. Đây là do mệnh tượng của mệnh chủ quyết định, mà nhân
lực không thể thay đổi.
VD 18, Càn tạo: Bính Ngọ, Giáp Ngọ, Đinh Dậu, Canh Tuất.
Đại vận: Ất Mùi, Bính Thân, Đinh Dậu, Mậu Tuất, Kỷ Hợi, Canh Tý, Tân Sửu.
Phân tích: (Bốc Văn giải thích) Tạo này trong cục thấy Dậu Tuất xuyên, Dậu là Thiên Tài, lạc
chính vị lấy vợ xem. Thiên tinh là có thể bị xuyên, có thể Dậu bị Tuất xuyên mà lại tốt hay
không chứ? Không phải vậy! Bởi vì trụ năm thấu Bính, Bính là Tỉ Kiếp, thấu can là tượng tranh
phu, trụ năm Bính tọa Ngọ, địa chi Ngọ hỏa Trung thần song hiện, toàn bộ đều nhập vào khố
Tuất, Tuất là khố Kiếp tài, Tuất lại xuyên Dậu, đại biểu có một bầy đàn ông cùng mệnh chủ
tranh vợ, tượng hôn nhân rất không cát. Tạo này trụ năm nếu là Giáp Ngọ, cho dù ngày, giờ
cũng thấy Dậu Tuất xuyên, cũng không có được khắc thê, bởi vì không có Bính thì năm tháng
Ngọ lấy Lộc xem, Ngọ nhập khố Tuất, Ngọ Tuất đại biểu tượng bản thân nhật chủ, cũng sẽ
không khắc vợ. Cho nên, nguyên nhân tạo này khắc vợ, mấu chốt vẫn là thấu Bính, Bính tọa
Ngọ, Ngọ trở thành tượng đàn ông đến ở bên ngoài, Ngọ nhập Tuất, Tuất xuyên Dậu, ý là vợ
của mình bị chỗ người khác cướp đoạt. Người này có hôn nhân chính xác là rất tệ hại, trước
mắt là đã có 3 lần ly hôn.
Kết cấu mệnh cục là chế Tài, Tài tinh Canh cùng Dậu đều bị chế, tại sao không có Tài? Là bởi
vì chế Tài tố công là Lộc ở năm tháng và trụ giờ khố Tỉ Kiếp, cho nên không có tài vận. Đây là
mệnh khắc vợ nghiêm trọng.
Nhắc nhở:
1) Nhật chủ tọa dưới Phối ngẫu tinh nếu như là Thiên tinh, là có thể bị xuyên. Như nam mệnh
tọa chi Thiên Tài, Nữ mệnh tọa chi Thiên Quan, đều là có thể bị xuyên, xuyên là không có
hung. Nhật chủ tọa phối ngẫu chính tinh, thì tuyệt đối không thể bị xuyên.
2) Trụ ngày Đinh Dậu bị Tuất xuyên, có khả năng hôn nhân xảy ra vấn đề, cũng có khả năng
hôn nhân cũng không có vấn đề, mấu chốt là phải xem đặc điểm những tổ hợp khác ở trong
mệnh cục.
VD 19, Càn tạo: Giáp Thìn, Bính Tý, Kỷ Mùi, Mậu Thìn.
Đại vận: Đinh Sửu, Mậu Dần, Kỷ Mão, Canh Thìn, Tân Tị, Nhâm Ngọ, Quý Mùi.
Phân tích: Tạo này ở trong tiết "Thông căn và tọa Khố" đã nói qua, nhật chủ Kỷ tọa Mùi thổ
khố Quan, trong cục không có hình xung, can và chi lại giống nhau, tượng hôn nhân không cát,
đây là mao bệnh của bát tự này, ở đây chỉ chú trọng nói xuyên ở trong cục. Tháng giờ có Tý
Mùi xuyên, Thê tinh cùng Thê cung xuyên nhau, Thê tinh bị xuyên, ý là vợ không có cách nào
tiến vào Thê cung. Đây là mệnh của một vị hiệu phó trường đại học Sơn Đông, rất có học vấn,
hơn 40 tuổi, ngay cả bạn gái trước mắt cũng đều không có. Loại kết cấu mệnh cục này, chính
là ngay cả dục vọng đi tìm bạn gái cũng không có, thấy nữ đều muốn tránh đi, mọi người đều
đi tìm bạn gái cho hắn, nhưng bản thân cũng không màng đến.
Tại sao hôn nhân của mệnh chủ kém như vậy, nhưng vẫn là một Hiệu phó trường học chứ? Bởi
vì can năm vẫn có chỗ tố công, tức là Giáp mộc Chính Quan hợp nhật chủ, Giáp còn bị chỗ
Bính hỏa Chính Ấn hóa, Ấn lại sinh thân, Ấn là thân phận, Quan là địa vị, Chính Quan hợp thân
cũng là quản lý, khống chế, biểu thị rõ người này tuy không có hôn nhân, nhưng hắn lại là
người có thân phận và địa vị. Thìn tọa dưới Giáp mộc vẫn còn là một Tài khố, Giáp hợp nhật
chủ, còn biểu thị hắn có tiền, thực tế tiền lương của hắn đãi ngộ rất cao.
Thập nhị chi tương hình chủ yếu là chỉ tam hình, tức là: Dần Tị Thân tam hình, Sửu Mùi Tuất
tam hình. Chỗ nói trong nhiều sách mệnh lý còn có Tý Mão hình, thực ra nó là tương phá, ở
phía dưới trong tiết "Tương phá" sẽ nói đến. Về phần nói Thìn Ngọ Dậu Hợi là tự hình, trong
mệnh lý ít thấy ứng nghiệm, mệnh lý Manh phái không dùng chỗ này.
Phép dùng Tam Hình gần như giống Lục xung, đặc biệt là Sửu Mùi Tuất tam hình. Nó cũng
không biểu thị ý là hình phạt, hình pháp, tội ác hoặc tật bệnh. Cùng lục xung hơi có chỗ giống
nhau ở lúc thấy đủ tam hình có ý là chỉ trích, trách móc, vứt bỏ, tổn phá. Còn Dần Tị Thân và
Sửu Tuất Mùi tam hình thông thường là gặp hung tai, là một loại tin tức rất không tốt.
Dần Tị Thân và Sửu Mùi Tuất tam hình đều có thể phân tách ra để giải thích. Tức là:
[ Dần Tị Thân tam hình ]
Tam hình này lấy Dần Tị tương hình làm chủ, trong mệnh cục lấy tương xuyên mà luận. Dần đi
hình Tị, là lấy mộc động hỏa, hỏa hỉ vượng thì cát, kỵ vượng thì hung; Tị đi hình Dần, Dần
động mà tiết, Dần là đại biểu sự vật bị nạn, Dần là kỵ lại cát, nhưng Dần vượng Tị suy thì dần
động. Dần hình Tị còn có thể lấy xung luận, cả hai gần nhau thì phá, xa thì động.
Tị Thân lấy tương hợp làm chủ, Tị hợp Thân gọi là Hình hợp. Dần và Thân theo lục xung mà
luận.
Dần Tị Thân tam hình, hình này chỉ là một loại mang tác dụng phụ, chỉ có lúc cả ba đồng thời
xuất hiện, ý của hình mới thể hiện rõ ràng. Dần Tị Thân tam hình cũng là hung, thông thường
ứng ở lục thân.
Lúc phân tích tam hình ở trong mệnh cục, vẫn cứ phải xem vị trí và lực lượng của chúng nó
cường hay nhược. Thông thường cả 3 tương hình đều sẽ có mức độ khác nhau mà thụ thương,
bên tương đối nhược thụ thương là rất nghiêm trọng, đối ứng lục thân cũng bị thương nghiêm
trọng; vị trí 3 chỗ tương hình khác nhau, thì lúc ứng nghiệm hỏi có sớm có muộn, ở đây ứng kỳ
ở trong đại vận phải xem chỗ vị trí chữ tương hình ở trong nguyên cục.
Nguyên mệnh cục thấy đủ tam hình là hình, như nguyên mệnh cục và đại vận tổ thành tam
hình, hoặc nguyên mệnh cục, đại vận và lưu niên tổ thành tam hình, thì cũng là tam hình, hàm
nghĩa đều như nhau, nhưng loại hình này trong phép dùng lại không hoàn toàn giống nhau.
Như nguyên cục có Sửu Mùi tương xung tố công, thì rất sợ đại vận (hoặc lưu niên) có Tuất
đến; nguyên cục có Sửu Tuất hình tương hình tố công, rất sợ đại vận (hoặc lưu niên) có Mùi
đến. Bởi vì nguyên cục hình xung tố công là cát, lại có kẻ thứ ba đến nhập vào, thì sẽ cấu
thành tam hình, phá tố công trong nguyên cục.
Nhắc nhở: Trong tạo này có một trụ Canh Tuất, Tuất là Tài cư ở cung phụ mẫu, Tuất lấy cha
xem, Canh là Quan tọa trên Tuất, cũng là tượng cha. Vậy thì Canh Tuất một trụ này thì cùng
chung biểu thị là cha, Canh là đầu, Tuất là thân, không thể đơn độc nắm lấy trụ này mà tách
ra xem.
Nhắc nhở: Tài Quan lâm khố không hình xung thì không phát. Nhưng hình xung là điều kiện
tất yếu Tài Quan lâm khố có thể phát, nhưng không phải là điều kiện đầy đủ. Ở lúc khố bị hình
xung, phát hay không phát Tài Quan, còn phải xem kết cấu mệnh cục cụ thể.
Nhiều sách mệnh lý đều chưa từng nhận thức đến tác dụng của tương phá, chỉ có mệnh lý
Manh phái mới coi trọng tương phá cùng phép dùng ở trong mệnh lý.
Thập nhị chi tương phá, tức là: Tý Mão tương phá, Mão Ngọ tương phá, Ngọ Dậu tương phá.
Hai bên phá nhau đều có thể phá nhau, tức là Tý có thể phá Mão, Mão cũng có thể phá Tý, còn
lại cứ loại suy. Nhưng giữa Tý và Dậu thì không có quan hệ tương phá đích.
Chúng ta đều biết, thủy có thể sinh mộc, mộc có thể sinh hỏa, nhưng lúc tương phá thì khác
nhau. Tý thủy không sinh Mão mộc, trái lại là phá Mão; Mão mộc không sinh Ngọ hỏa, trái lại
là phá Ngọ. Tương phá ngoại trừ không có sinh, phá còn có một số ý khác, tức là biểu thị sự vô
tình, phá hư, mục nát, vứt bỏ, phá hao tài sản, sơ hở, thụ thương, không thoải mái, không
hoàn chỉnh, có tì vết. Như Tài tinh bị phá chính là phá tài.
Tương phá là không có tố công, là phá hư lẫn nhau, chỉ có biểu tượng. Nhưng Ngọ phá Dậu là
khác nhau, không giống như Tý là không sinh Mão, Mão không sinh Ngọ, Ngọ vượng lại có thể
khắc Dậu, cho nên Ngọ Dậu phá cũng tố công.
(Đoàn sư nói: Bản thân của nó trước mắt vẫn cứ không cho là giữa Ngọ và Dậu là có quan hệ
tương phá. )
VD 11, Càn tạo: Bính Ngọ, Tân Mão, Giáp Ngọ, Bính Dần.
Đại vận: Nhâm Thìn, Quý Tị, Giáp Ngọ, Ất Mùi, Bính Thân, Đinh Dậu.
Phân tích: Tạo này toàn bộ là khí thế mộc hỏa, chỉ qua là chế thiên can Tân kim. Công rất nhỏ.
Bính Tân hợp Quan tinh, biểu thị tượng cha chết sớm, có 2 địa chi Ngọ đến phá Mão mộc,
người này có hôn nhân rất đặc biệt, cung phu thê gặp phá, lại không tố công, hiện tại đã nhiều
lần tái hôn, ly hôn đã 3 lần. Hiện tại chuẩn bị tái hôn lần thứ 4.
Mộ Khố tức là chỉ địa chi Thìn, Tuất, Sửu, Mùi tứ thổ.
Mộ Khố có nhiều ý tứ như: thu tàng, nhận được, lấy được, khống chế, chiếm hữu …, cũng là
một phương thức tố công chủ yếu ở trong mệnh cục. Mộ khố hỉ hình xung, xung thì là Khố,
không xung thì là Mộ. Mộ là chết, còn Khố là sống. Có lúc Mộ Khố còn biểu thị người chết.
Mệnh lý Manh phái định nghĩa đối với mộ khố có nguyên tắc như sau:
1, Dần, Thân, Tị, Hợi là tứ đại trường sinh, từng chữ thấy mộ khố tất là nhập vào. Tức là: Dần
nhập Mùi mộ, Thân nhập Sửu mộ, Tị nhập Tuất mộ, Hợi nhập Thìn mộ. Tý, Ngọ, Mão, Dậu là tứ
chính lúc thấy mộ xem là bán hợp cục, không phải là nhập mộ, chỉ có lúc Trung thần song hiện
hoặc là chỉ lúc ở dưới tình huống thấy đặc biệt nhược, thấy mộ mới nhập vào.
2, Trong mệnh cục xùng một ngũ hành mà quá nhiều, thấy mộ tất là nhập vào. Tức là chỉ cần
thiên can địa chi ở trong cục liền một chỗ, có 2 cái trở lên, thấy mộ là nhập. Như trụ Tân Dậu,
thấy Sửu thì lấy nhập mộ luận, không luận Dậu Sửu bán hợp cục; lại như 2 Dậu thấy Sửu,
Trung thần song hiện thì luận nhập mộ, không phải là tam hợp cục. Một Thân một Dậu liền
nhau thấy Sửu cũng là nhập mộ (Nếu như Thân Dậu không liền nhau thì Dậu không nhập Sửu
mộ). Nhưng nếu như tượng trụ năm Canh hư thấu, chi giờ có Tân, có chi tháng hoặc ngày là
Sửu, loại tình huống này không luận Canh Tân nhập Sửu mộ.
3, Thiên can tọa Mộ Khố không phải là nhập mộ. Như trụ Tân Sửu, là Tân được cường căn,
không phải là nhập mộ; trụ Nhâm Thìn, là Nhâm thủy tọa căn, không phải là Nhâm nhập Thìn
mộ, … Thiên can Mậu Kỷ thổ cũng lấy địa chi Tuất là mộ, nhưng Mậu Kỷ thổ sẽ không trực tiếp
nhập vào mộ Tuất, chỉ có lúc Kỳ tọa hỏa, mới sẽ cùng với hỏa nhập vào Tuất mộ, như trụ Mậu
Ngọ, Kỷ Tị thấy Tuất, hỏa và thổ đồng thời nhập vào Tuất mộ.
4, Địa chi mộ khố thổ khá là đặc biệt, tức là: Thìn là mộ khố Sửu, Tuất, Mùi, quan hệ giữa
chúng cũng khá là phức tạp. Như Sửu, Mùi chỉ thấy một thì nhập mộ Thìn, nhưng lúc cả hai
đồng thời xuất hiện, bởi vì Sửu Mùi có quan hệ trương xung, Sửu Mùi sẽ không nhập vào mộ
Thìn; nhưng nếu như nguyên cục có Thìn Sửu thấy nhau, thì Sửu phải nhập vào mộ Thìn, đại
vận nếu lại thấy Mùi, thì Mùi này cũng phải nhập vào mộ Thìn trong nguyên cục, lại không luận
Mùi cùng Sửu trong nguyên cục có quan hệ tương xung. Trong mệnh cục nếu như cùng thấy
thủy thổ, gặp Thìn thì thủy nhập vào mộ Thìn, còn thổ thì không nhập vào mộ Thìn (nếu như
trong cục thấy Hợi thấy Mùi, Hợi nhập vào mộ Thìn còn Sửu thì không nhập. Như trụ Quý Sửu,
thì Quý thuận theo ý Sửu. xem như một nhà, thấy Thìn thì đều sẽ nhập vào mộ Thìn). Thìn
Tuất lúc thấy nhau thì luận xung, không phải là Tuất nhập vào mộ Thìn.
Xếp biểu như sau:
Mộ Thìn Tuất Sửu Mùi
thần
5, Chữ ở trong cục nhập mộ, như hai bên thấy mộ, thì chữ đó bị kẹp lại ở giữa, thì chữ này dù
là mộ mà không phải mộ. Chỗ này có đạo lý giống như cùng với kẹp chế thì không có cách nào
chế được.
Nhắc nhở: Tạo này có thấp thổ vượng, thấy Tị hỏa không phải là bị chế, mà là hóa Tài, thuộc
kết cấu Tài thống Quan. Nếu như Thìn Sửu thổ thấy Ngọ, bởi vì Sửu Ngọ tương xuyên, thì Ngọ
hỏa bị chế, lại không phải có ý tương sinh.
Nhắc nhở:
1) Nguyên cục lúc cùng thấy Thìn cùng Mùi, Sửu, nguyên nhân bởi vì Sửu Mùi tương xung, Sửu
Mùi sẽ không nhập mộ Thìn. Nhưng nếu như tạo này nguyên cục có Sửu, Mùi, đại vận lại thấy
Thìn, Sửu nhược bị chế, Sửu vẫn là phải nhập vào mộ Thìn, 2 Mùi lại không nhập vào mộ Thìn,
bởi vì Mùi cùng Thìn Sửu không phải là một đảng.
2) Thương Thực (hoặc khố Thương Thực) nhập mộ là không có tự do, biểu thị là ngồi tù.
Sau đây là phần chúng ta tổng kết mệnh lý Manh phái liên quan với mấy loại hình Tố công
thường thấy.
Bát tự thông qua quan hệ tố công chế nhau giữa Khách Chủ, Thể Dụng, từ đó mà nhận được
vật dùng cho mệnh chủ, gọi là Kết cấu Chế dụng. Hợp, xung, hình, xuyên, khắc đều thuộc về
loại hình Chế pháp. Cho nên loại kết cấu này là rất thường thấy, chiếm phần lớn trong loại hình
tố công bát tự, cho nên chúng ta sẽ có một tiết riêng biệt để giảng giải, ở đây chỉ nói sơ qua.
Nhắc nhở: Nhưng phàm bát tự đại phú đại quý, thông thường đều tổn thương lục thân. Bởi vì
loại bát tự này có thế vượng ở một phương, sẽ chế khử một phương nhược, phương bị chế là
chỗ lục thân thì không tổn thương cũng tàn tật.
Loại bát tự có kết cấu này chiếm tỉ lệ cũng không nhiều, chủ yếu là có 2 loại hình thức, tức là:
Thực Thương tiết tú, Thực Thương sinh Tài.
VD 1, Càn tạo: Nhâm Dần, Quý Mão, Nhâm Tý, Nhâm Dần.
Đại vận: Giáp Thìn, Ất Tị, Bính Ngọ, Đinh Mùi, Mậu Thân, Kỷ Dậu, Canh Tuất.
Phân tích: Toàn mệnh cục có thế thủy mộc, thế này không có tố công. Nhưng trụ ngày Nhâm
Tý sinh địa chi Dần Mão mộc, Dần Mão là Thương quan Thực thần, trong Dần mộc Thực thần
có tàng Bính hỏa Tài tinh, thì Thực Thương có thể chuyển hóa thành Tài. Chỗ ý mệnh cục biểu
đạt là, đem ý tưởng của bản thân (Thực Thương là tư tưởng, ý muốn) biến thành tài phú. Manh
phái xưng loại kết cấu này là thành cách Nội Thực thần, thông thường mệnh tạo này đều là
làm nhà xí nghiệp, thực tế người này là một Chủ tịch xí nghiệp lớn. (VD này giải thích xem ở
chương 3, tiết 1 trong "Hàm nghĩa Thực thần cụ thể").
Thương quan Thực thần hỉ kiến Tài. Ở VD này đại vận vừa lúc đến Tài Quan, đại vận cùng
mệnh cục phối hợp là hết sức tốt.
Nhắc nhở: Thương quan Thực thần hỉ kiến Tài.
Trong mệnh cục nhật chủ hoặc chi ngày là Thể, đi hợp Dụng ở vị trí Khách, loại kết cấu tố công
này là kết cấu dùng hợp. Nhật chủ cư ở thiên can, chỗ Thập Thần hợp tất định là Tài hoặc
Quan, sẽ không hợp với thần khác. Còn chi ngày vừa có thể hợp Tài Quan, cũng có thể hợp
Thực thần, Thương quan. Thập thần hợp chỗ Chủ vị, chính là vật nhật chủ muốn truy cầu. Nhật
chủ có được thuận lợi nhận được chỗ Thập thần hợp hay không, thì phải xem toàn bộ kết cấu
hợp cục. Nếu như chỗ nhật chủ hợp Thập thần mà bị thần khác phá hư, thì bát tự này cũng bị
phá.
Cần phải chú ý, mệnh lý Manh phái tuy không nói nhật chủ vượng suy, nhưng ở lúc nhật chủ
hợp Tài, thì yêu cầu xác minh là phải xem thân cường hay thân nhược. Tại sao chứ? Bởi vì nhật
chủ hợp Tài, thì giống như người cõng trên lưng một cái túi lớn, thân cường có thể đảm nhiệm,
còn thân nhược thì không thể gánh nặng. Cho nên, nhật chủ hợp Tài tất cần phải phân biệt lực
lượng nhật chủ với Tài lớn hay nhỏ. Phán đoán cường nhược giữa nhật chủ với Tài, phép luận
cũng không phải là lấy mệnh lý truyền thống dựa vào nguyệt lệnh mà định, mà là lấy chỗ
chúng nó tọa chi làm chủ, kiêm xem tượng và thế của mệnh cục, phải phân tích tổng hợp.
VD1, Càn tạo: Canh Tý, Bính Tuất, Nhâm Thân, Đinh Mùi.
Đại vận: Đinh Hợi, Mậu Tý, Kỷ Sửu, Canh Dần, Tân Mão, Nhâm Thìn, Quý Tị.
Phân tích: Nhâm thủy tọa Thân là Ấn, lại là đất Trường sinh, trụ năm lại thấy Tý Nhận, nhật
chủ có cường căn lại được Canh Ấn bang phù, thân không nhược. Trụ tháng Bính Tài tọa Tuất,
trụ giờ Đinh Tài tọa Mùi, Bính Đinh là một đảng, đều là tọa cường căn, Tài cũng không nhược.
Nhật chủ hợp Đinh Tài, thân vượng Tài cũng vượng, là phú mệnh. Người này ở vận Nhâm Thìn
tham gia hành nghề khai phá bất động sản, thu được số tiền mấy chục triệu nguyên. Vận
Nhâm Thìn phát, là vì Nhâm đến như bản thân nhật chủ đến, Thìn xung Tuất là mở khai Tài
khố, cho nên phát đại tài.
Nhắc nhở: Thân nhược hợp Tài, cũng hỉ tượng Tài tinh hư thấu.
Nhập mộ, cũng là một loại phương thức tố công. Hàm nghĩa Mộ có thể lý giải là lấy được,
khống chế, quản lý, ủng hộ, chiếm giữ. Hàm nghĩa Mộ Khố ở trong một tiết của chương 6
"Hàm nghĩa Mộ Khố" có nói rõ, tiết này chỉ nói sơ qua, chỉ đưa ra ví dụ phép dùng để thuyết
minh.
Cần phải chú ý, trong mệnh cục chữ tố công nếu như nhập mộ, cũng không có ảnh hưởng đến
tố công, bởi vì tố công cùng nhập mộ là 2 khái niệm và 2 tầng hàm nghĩa, không thể đặt vào
một chỗ mà xem, phải tách ra để xem.