Professional Documents
Culture Documents
Tính chất của các Can và Chi cùng khí chất kể trên có quan hệ với nhau theo nguyên
lý của Dịch, chúng ta chỉ cần nắm vững các nguyên tắc này:
1. Đồng hành, đồng cực thì đẩy nhau (kỵ nhau nhưng không hại nhau):
- Thìn Tuất (cùng là +Thổ); Sửu Mùi (cùng là -Thổ)
2. Đồng hành mà khác cực thì hút nhau (tương trợ cho mạnh lên):
- Giáp Ất (+ - Mộc)
- Bính Đinh (+ - Hỏa)
* CHI xung nhau: là các chi trên biểu đồ đối nghịch nhau và có hành tương phản tạo
thành "lục xung" rất mạnh:
1)- Tứ Xung (đồng cực khác hành)
- Tý Ngọ (cùng là dương, thủy khắc hỏa)
- Tỵ Hợi (cùng là âm, thủy khắc hỏa)
- Mão Dậu (cùng là âm, kim khắc mộc)
- Dần Thân (cùng là dương, kim khắc mộc)
2)- Nhị xung (đồng cực đồng hành; chỉ có Thổ; nhưng xung mà không có khắc):
- Thìn Tuất
- Sửu Mùi
Ngoài ra còn có loại HẠI nhau, như ỷ mạnh hiếp yếu vậy, cho dù là tương sinh như
Ngọ hỏa sinh cho Sửu thổ; Ngọ là dương, Sửu là âm, nhưng Ngọ và Sửu đứng đối nhau
trên đồ hình tính theo cực âm-dương nên hại nhau chứ không sinh cho nữa. Điều này
không theo cơ chế Khác Hành Sinh Khắc (điểm 4 bài đầu tiên), nên chú ý, loại tương hại
này chỉ để tham khảo thêm mà thôi:
- Tí Mùi - Mão Thìn
- Sửu Ngọ - Thân Hợi
- Dần Tỵ - Dậu Tuất
Nói đến Âm Dương Lệch, thật ra cũng chỉ là 1 thuyết của Tiết Khí. Vua Chu Công viết
là có 24 Tiết Khí, 72 Tiết Hậu. Cứ 5 ngày là 1 tiết hậu, 1 tháng có 6 tiết hậu, 5 x 6 = 30 ngày,
như vậy cứ 3 tiết hậu là 1 Khí 15 ngày.
15 ngày này lại tính trong Lục thập hoa Giáp từ Giáp Tí cho đến Quí Hợi, chia ra làm
4. Thành thử cứ tính cách 12 ngày là có 3 ngày Âm Dương "xô đẩy" nhau (từ này trong
sách TVH). Những ngày này tại vì tính sẵn trong Lục thập Hoa Giáp nên ta có:
Bính Tí, Đinh Sửu, Mậu Dần
Tân Mão, Nhâm Thìn, Quí Tị
Bính Ngọ, Đinh Mùi, Mậu Thân
Tân Dậu, Nhâm Tuất, Quí Hợi
Để ý rằng các ngày này không dính dáng gì đến sự chuyển tiếp của Tiết Khí mà trong
Tử Bình dùng (Lập Xuân qua Kinh Trập, rồi tới Thanh Minh...v.v...) mà chỉ là cách tính "tiết
hậu" trong Lục Thập Hoa Giáp mà thôi. Nếu ai học Thái Ất (dương độn, âm độn) thì chắc
rõ hơn nhiều.
Thành thử đó cũng chỉ là 1 thuyết để chiêm nghiệm và không nhất thiết chỉ nói đến
chuyện "giới tính". Thường là "hôn nhân không thuận" là đề tài. Nhưng thực tế thì nên
xem xung khắc giữa các Chi là rõ nhất. Chỉ có 1 trụ ngày thì không xác định được gì. Vì Tử
Bình là tính chung toàn diện năm tháng ngày giờ, cung mệnh, đại hạn, lưu niên...và không
loại trừ 1 "trụ" nào, nhưng không 1 trụ nào đứng độc lập mà có ý nghĩa chính.
Tứ trụ "thuần dương" hay "thuần âm" cũng thế, là nói trong quan niệm trên. Việc
này thường hay nói đến Can, nhưng Chi thì đã rõ là không phải Chi nào cũng thuần. Nếu
chỉ nói đến bản khí thì Tị và Ngọ tàng âm dương khác. Nhiều dương quá hay nhiều âm quá
thì tính chất cường rất mạnh, nhưng suy thì sụp nhanh chóng, vì nó lộ quá. Nói vậy, không
phải thuần âm mà không gọi là không "lộ". Ở đây là nói tính chất thấy rõ của lọai âm hay
dương cực mạnh hay thuần tính, tuy rằng 100% là không bao giờ có.
Sau khi xác định cơ bản tính chất của nhật chủ và lệnh tháng không có Ấn Kiêu để
sinh trợ cho thân, việc quan sát tứ trụ tiếp tục với sự quan hệ giữa các Địa Chi. Bạn nên
thuộc bảng sinh, khắc, hình, hại, phá, hợp, không vong, vì sẽ phải dùng đến trong nhiều
phần khác trong cung mệnh, đại vận, lưu niên.
1). Tìm xem mối quan hệ giữa các địa chi trong bốn trụ.
Với thí dụ ở phần 1, ta thấy chi Dậu hại chi Tuất:
Năm Tháng Ngày Giờ
Bính Tuất Đinh Dậu Qúy Hợi Bính Thìn
Nhắc lại các loại Hình, Hại, Xung, Phá, Hợp đều phải đứng cạnh nhau trong tứ trụ thì
mới tính. Như thí dụ trên thì Dậu không có quan hệ gì với Hợi và Thìn, mà chỉ tính Tuất
Dậu thuộc loại Hại.
2). Xem mối quan hệ lục thân của các trụ.
Căn bản thì các trụ đại diện cho mối quan hệ họ hàng như sau:
Năm: tổ tiên, ông bà Ngày: Can: chính mình, Chi: chồng, vợ
Tháng: cha mẹ Giờ: con cái
Với thí dụ Dậu hại Tuất ở 2 cung năm và tháng, có thể cho thấy sự mâu thuẫn hay
khó khăn xảy ra giữa ông bà và cha mẹ.
3). So sánh các loại hình hại xung khắc giữa tứ trụ và đại vận.
Bạn phải biết cách lập đại vận là tính từ tháng. Nam sinh năm dương là dương nam,
nữ sinh năm âm là âm nữ, đều tính thuận từ tháng trở đi. Ngược lại, âm nam và dương nữ
phải tính ngược. Điều này không nói lên sự việc vận đi thuận là tốt và vận đi nghịch lại là
xấu. Hoàn toàn phải dựa vào ngũ hành thuận lợi hay bất lợi thì mới biết là vận thuận hay
nghịch vận. Nhưng ở đây ta chỉ chú trọng vào mối quan hệ giữa các Chi với nhau để có
một cái nhìn tổng quát. Lại xin nhắc lại rằng không phải Khắc là luôn luôn xấu và Hợp luôn
luôn tốt. Đôi khi các kị thần họp lại với nhau thì thân chủ càng thêm mệt, vì sự khắc chế
nặng nề, cho dù vận đó trên thiên can xem như là thuận lợi.
Có người chỉ xem địa chi của Vận, không xem thiên can là quan trọng vì cho rằng Can
là thứ yếu. Tôi xem cả hai như nhau, nhất là khi Thiên can biểu hiện lại sự xung khắc sẵn
có trong tứ trụ. Thí dụ như Nhâm khắc Bính trong trụ, đến vận Nhâm thì điều khắc chế
này sẽ xảy ra, cho dù địa chi mang hành dụng thần của mình. Sự khắc chế này giảm thiểu
hay mất hẳn đi lại là một phần khác, xin nói rõ sau.
Tử bình lấy ngày làm chủ và tiết tháng làm lệnh. Hai trụ này là không gian chính
của thời điểm một người sinh ra đời. Trụ năm đã được tính theo vòng 60 niên mệnh, còn
trụ giờ có tầm ảnh hưởng nhất định theo ngày.
Con người quá bé nhỏ trước một nguyên vận 180 năm, đối với 60 năm trung bình
một đời người còn khả dĩ xem xét được, nên 12 tiết lệnh của tháng trong năm có tầm
quan trọng lớn nhất của tứ trụ. Còn trụ giờ bổ sung vào làm cho sự tính toán có thể "nhìn
thấy" được.
Nếu bạn nào đã có kinh nghiệm, thường thì khi có đủ 3 trụ là có thể suy ra được trụ
giờ cho một cá thể thông qua vài phương pháp khác như nhân tướng học và xã hội học.
Quá trình từ sinh cho đến tử của vạn vật có thể chia ra làm 5 giai đoạn lớn hợp với
sự sinh khắc của 5 Hành:
Trung bình cho 1 năm nếu tính gọn là 360 ngày thì mỗi một giai đoạn trên chiếm 72
ngày. Một năm chia ra làm 4 mùa Xuân Hạ Thu Đông có 24 tiết khí thì mỗi tiết trung bình
chiếm 15 ngày. Nhưng theo các địa chi hành quyền trong 12 tháng có tàng chứa bản khí,
trung khí và khí thừa khác nhau thì số ngày này được tính tùy theo tháng với 12 khí
chính như sau (can cuối cùng là bản khí):
Tháng Giêng - Dần - Lập Xuân
- Mậu và Kỷ chung 7 ngày, Bính 7 ngày, Giáp 16 ngày
Tháng Hai - Mão - Kinh trập:
- Giáp 10 ngày, Ất 20 ngày
Tháng Ba - Thìn - Thanh Minh:
- Ất 9 ngày, Quý 3 ngày, Mậu 18 ngày (thổ cuối mùa)
Tháng Tư - Tỵ - Lập Hạ:
- Mậu 5 ngày, Canh 9 ngày, Bính 16 ngày
Tháng sinh trong năm là một trong những quy ước của Tử bình để tính ra được thân
vượng hay nhược. Nó là bước đầu tiên quan trọng khi bạn nhìn vào một tứ trụ. Tiết Khí
trong tháng đó chứa những nhân nguyên (can tàng độn) chính mà chúng ta gọi là "Lệnh".
Từ Lệnh này mà suy ra được sự vượng, suy của 3 trụ kia, cho nên tháng sinh có yêu cầu
cao khi xem xét.
- Tiết Khí: một năm có 24 Tiết Khí, trong đó chia ra 12 Tiết và 12 Khí được tính theo
dương lịch (kinh độ mặt trời). Thường thì người ta hay nói chung là tiết khí, nhưng đúng
ra thì gọi Tiết Lập Xuân, Khí Vũ Thủy.
- Nhân nguyên: như đã có trình bày, mỗi một Chi đều có đủ 5 hành, nhưng chỉ có các
Can tàng có ngũ hành hữu dụng trong Chi đó mới được nêu ra. Có khi bạn chỉ thấy Can
bản khí mà thôi, thí dụ như tiết Kinh Trập, can tàng chính là Ất, nhưng thật ra còn có Giáp
hành quyền 10 ngày đầu, sau đó mới tới Ất. Lý do là Giáp từ Khí của Tiết Lập Xuân còn lại.
- Lệnh: tức là hành chính của khoảng thời gian đó, nói rõ hơn là Can nào đại diện
chính để biết nhật chủ (Can ngày) có tính cách vượng hay suy.
Có 5 Can dương: Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm.
5 Can âm: Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý
Vòng trường sinh của vạn vật không thay đổi theo chu kỳ đi tới:
1. Trường sinh: mọc nầm, nảy sinh 7. Bệnh: khốn đốn, cơ cực
2. Mộc dục: vừa được sinh ra, lố dạng 8. Tử: bị diệt, suy tàn
3. Quan đái: dần dần mạnh lên 9. Mộ: trở về nơi tàng trữ
4. Lâm quan: trưởng thành 10. Tuyệt: tất cả các khí bị mất hết
5. Đế vượng: mạnh mẽ cực độ 11. Thai: khí lại bắt đầu giao nhau, kết
thành thai
6. Suy: bắt đầu giảm chất lượng
12. Dưỡng: đang phát mầm mống
Can dương thì đi thuận, can âm tính ngược trong vòng Trường sinh. Nói thế không
phải là can âm bị tính từ Dưỡng trở về Trường Sinh, mà tính từ Ngọ là thời điểm dương
đã lên cao, bắt đầu trở về quy trình âm.
Một ngày bắt đầu từ giờ Tí cho đến giờ Ngọ giữa trưa là đã thấy bắt đầu âm sinh
trưởng, chiều tối đến giờ Hợi là chấm dứt một vòng. Vì thế các can âm trường sinh (bắt
đầu lố dạng) tại nơi mà các can dương ở giai đoạn Tử.
Để ý rằng khi nói đến Địa Chi thì không đề cập đến quan hệ tương sinh (thí dụ như
không nói Tí sinh Mão, hay Thìn sinh Dậu..) mà chỉ luận đến quan hệ KHẮC, XUNG, HÌNH,
HẠI của các chi lẫn nhau mà thôi.
Nhưng các Chi có hợp lại thành HỘI hay thành CỤC, cũng là nằm trong ý nghĩa của sự
tương trợ, tương sinh cho nhau và chỉ có ảnh hưởng mạnh khi chúng tụ họp lại. Khi xét
trong Tử bình, đầu tiên là xét Tam hội, sau đó là Tam hợp Cục, vì lý do khí của tam hội
mạnh hơn khi chúng dồn về 1 phương hướng, khí của chúng "thuần" nên rất mạnh, còn
Tam Cục thì do vòng trường sinh tạo thành, lẫn nhiều tạp khí.
Cát hay hung của Hội hay Cục là tùy theo tứ trụ. Có khi cần phải cần giải tán Hội, Cục
để cứu lấy thân.
* Tam Hội
1) Phương Đông Mộc = Dần Mão Thìn
2) Phương Nam Hỏa = Tị Ngọ Mùi
3) Phương Tây Kim = Thân Dậu Tuất
4) Phương Bắc Thủy = Hợi Tý Sửu
Về cách Tam kỳ trong Tử bình chưa có nhiều thí dụ để kiểm nghiệm cách cục này "có
thực" hay không. Thật ra, Tam kỳ cách lấy ý từ Lục nhâm mà dùng.
- Canh Giáp Mậu
- Ất Bính Đinh
- Tân Nhâm Quý
Thứ tự của các can này trong tứ trụ có được đảo tới đảo lui mà vẫn gọi là "Tam Kỳ"
hay không thì tôi cho rằng không.
Vì cho dù có thể áp dụng một nguyên lý bất kỳ nào nhập vào một môn khác thì phải
tôn trọng nguyên lý của môn đó. Tử bình xem trọng can ngày và lệnh tháng thì nếu thứ tự
thay đổi là tất cả thay đổi.
Thí dụ như Canh-Giáp-Mậu. Cứ cho đây là một "Tam kỳ", một ngoại cách cực tốt, thì
cũng phải hiểu theo Tử bình thế nào là tốt. Chúng ta phân tích theo Mậu can ngày thì Canh
là Thực và Giáp là Sát.
Nếu đảo thứ tự của Canh Giáp Mậu thì dĩ nhiên Canh hay Giáp là can ngày thì thập
thần cũng không còn là Thực chế Sát nữa.
Canh-Giáp-Mộc vì thế vẫn phải giữ thứ tự mới xét "tam kỳ" được. Can ngày Mậu thổ
đang bị Giáp mộc khắc kế bên, nhưng Giáp bị Canh xuất hiện kiềm chặt ngay, nên có thể
nói Canh kim là con của Thổ đến cứu giải đúng lúc. Năm Canh thì tháng Giáp là Giáp Thân,
lệnh tháng thấu can là một điểm mạnh rõ ràng.
Nội xét 3 can này cộng với lệnh tháng mà nói là quý cách thì đã đúng rồi, chỉ cần thân
không nên quá vượng hay quá nhược làm tứ trụ bất trung hòa, đến đại vận là phát. Thí dụ
như vị trí của Hỏa không nên nhiều quá làm cho Mộc bị chiết giảm thêm, vì dù sao Mộc
cũng là đường quan lộ của Mậu nhật chủ.
*****
Tony Trabert, sinh 16.8.1930 tại Mỹ, không rõ giờ sinh, nhưng cả ngày Mậu Tuất
này, hỏa vượng nhất là giờ Tỵ, tuy thế vẫn kém Kim lực quá thịnh.
THỰC SÁT nhật chủ
Canh Giáp Mậu
Ngọ Thân Tuất
Nhật chủ có quan hệ với tất cả Can và Chi trong tứ trụ; thiên can thấu lộ và các can
tàng trong Chi. Nhưng lệnh tháng vẫn có một ảnh hưởng lớn nhất hầu suy xét căn bản về
độ vượng nhược của thân. 12 cung Sinh Vượng Tử Tuyệt (SVTT) nói rõ hơn về âm dương
và ngũ hành của tứ trụ trong quan hệ giữa các năng lượng ngũ hành đối với lệnh tháng.
Tháng là tượng trưng cho mùa sinh, trong đó các ngũ hành chia nhau nắm lệnh hoặc suy
tàn, hưu tù.
Tuy ở các xứ chỉ có 2 mùa nóng lạnh rõ rệt, nhưng tứ trụ vẫn tính theo 4 mùa Xuân
Hạ Thu Đông là bản tính của vạn vật. Ý nghĩa của 4 mùa chính là được thể hiện qua vòng
Trước đây mọi người đều hiểu là chọn 1 trong 5 cách thường được nhắc tới: Phù,
Ức, Điều hầu, Thông quan, Bịnh dược.
Hầu như tất cả đều lạc lối và phải mò mẫm vì làm sao mà nhận định ngay cách nào
mà xét? Thật ra là không hiểu ý. Phải dò đủ hết các cách, sau đó mới thấy cách nào hợp
lý nhất. Tức là lúc nào cũng phải nhất thiết xem cả các trường hợp nêu ra sau đây một
loạt để có cái nhìn đầu tiên chung về tứ trụ. Bước tiếp theo là xét ĐẠI VẬN, nếu thuận
theo ý nghĩ đầu tiên ta chọn dụng thần thì lấy cách đó, còn không thì phải xét lại cách
khác.
Khi trước có bạn cũng hỏi tôi tại sao phải chọn dụng thần mà không tìm kỵ thần? Tôi
đã trả lời rằng trong cuộc sống nên tìm "bạn" chứ ai lại tìm "kẻ thù", nhưng các bạn đọc
những bước sau đây thoạt nhìn thì sẽ tưởng như tìm kỵ thần vậy. Thật ra chính là phương
pháp loại trừ kỵ thần để tìm cái hữu dụng nhất.
1. Xem Hành nào yếu nhất trong trụ. Lưu ý là nếu khuyết hẳn hành đó thì không
tính là yếu. "Yếu" tức là trong trạng thái từ Suy đến Dưỡng, là dư khí, không nhiều nhưng
có mặt trong tứ trụ.
2. Xem thân vượng – nhược: Tài và Quan là hai đối tượng khắc nhật chủ, tạm gọi là
phe "nghịch". Ấn Kiêu sinh cho Tỉ Kiếp, tạm gọi là phe "bạn". Nếu trong trụ Tài Quan nhiều
hơn, đắc địa và thấu lộ ra thì Tỷ Kiếp là dụng. Nếu Tài Quan quá yếu, Tỷ Kiếp mạnh hơn
thì đảo lại, lúc này "phe bạn" là Tài Quan. Thân vượng hay nhược là ở điểm này.
3. Cân bằng thủy – hỏa: Hãy xem hai cán cân của Kim (Canh Tân Thân Dậu) và Thủy
(Nhâm Quý Tý Hợi) như thế nào. Nếu chúng thịnh vượng quá mức thì tứ trụ bị "lạnh";
dụng thần là Hỏa. Ngược lại nếu Hỏa (Bính Đinh Tỵ Ngọ) và Thổ (Thìn Tuất Sửu Mùi)
nhiều hơn thì tứ trụ quá "nóng", cần phải có Thủy để cân bằng.
Chính Tài là Kỷ thì đối với can ngày Giáp là tính khác với Chính Tài Mậu đối với Ất.
Để ý là các Chính Tài đều có thể hợp với nhật chủ dương can.
Đầu tiên thì giống như tất cả các lục thần khác, Chính Tài hay Thiên Tài có mặt là để
tiết khí Thực Thương và phòng ngừa được việc quá sung mãn của Ấn Kiêu. Chính Tài
không bị hình xung khắc hại thì hỗ trợ tốt cho Quan Sát.
Minh họa qua ngũ hành thì thấy rõ hơn (> sinh; # khắc):
Thực Thương....>Tài .......>Quan
Hỏa......................>Thổ .......>Kim
Tài .... # Ấn
Thổ ... # Thủy
Vì thế khi thân đã vượng thì ngược lại không nên có Ấn Kiêu thêm nữa mà nên có
Tài thần để ngăn chặn không cho thủy mạnh (như nước lớn làm vỡ đê vậy).
Còn thân mà nhược thì trái lại Tài thần (với chức năng là khắc Ấn) sẽ làm mất lực
của Ấn trong khi thân nhược cần được phò sinh. Bởi thế mới nói "tài đa thân nhược" là ý
này, chứ không phải là cứ thân nhược là không có tiền tài. Hành vận mà đúng lúc Ấn mạnh
hoặc hỉ thần tốt thì vẫn phát lộc như thường.
Khi xưa cổ nhân cứ thích nói đến "tài đa thân nhược" là cũng dụng ý nói về thê thiếp
(vợ lớn, vợ bé) trong nhà. Vì Tài cũng là vợ của nhật chủ. Nếu Tài nhiều và mạnh thì trong
nhà vợ đoạt mất quyền hành, nhật chủ thân yếu kém là lép vế! Còn Tài mà kém thì vợ nhu
mì ngoan ngoãn hơn.
Nếu trụ của chồng không có Thực Thương mà còn có Kiếp thịnh vượng thì nên cẩn
thận, có khi hay bị sức lực vũ phu của ông ta hành hạ khổ sở!
Tài còn đại diện cho cha, có mấy trường hợp để nghiệm lý như sau:
Tài - đế vượng : Cha làm ăn khá nhưng tâm tính rất nóng nảy, sôi nổi.
Tài - trường sinh : Cha nhân từ, rộng lượng, thường gặp hạn rất tốt
Kiếp Sát theo sách cho là chỗ TUYỆT của tam cục ngũ hành:
- Cục Thủy (Thân Tí Thìn) gặp Tỵ
- Cục Hỏa (Dần Ngọ Tuất) gặp Hợi
- Cục Kim (Tỵ Dậu Sửu) gặp Dần
- Cục Mộc (Hợi Mão Mùi) gặp Thân
Nhưng Kiếp Sát không chỉ là hung tinh mà còn là cát tinh nữa. Trong trụ thì ảnh
hưởng đến sự học hành cầu tiến của bản thân, trong vận thì thể hiện ra.
Có điều là khi nào biết Kiếp Sát là tốt, khi nào xấu? Theo định nghĩa về KS ở trên thì
lấy ngũ hành tam cục dựa vào. Tức là nếu Mộc là dụng hỉ thần thì gặp Thân là xấu, ngược
lại Mộc là hành kỵ của mình thì gặp KS lại có tác dụng tốt, vì cũng giống như Không Vong;
kỵ thần bị ức chế thì bản thân mình như được thoát nạn.
Như lại nói về Không Vong, mọi thứ rơi vào đây lại là phản tác dụng, vậy ở trụ này,
phải xem Mộc là hỉ hay kỵ trước đã.
Mộc là hỉ thần thì Kiếp Sát "kiếp" Mộc, tức là KS gây hung họa.
Mộc là kỵ thần thì Kiếp Sát là cứu tinh, ngăn không cho Mộc hành động.
Thứ nhì, xem Mộc trong trụ là lục thân gì? Ở trụ nào? Đoán ra ảnh hưởng đến mình
hay người nhà và có thể cũng đoán đúng được giai đoạn nào...v.v...
Nếu trụ ngày là Giáp Tý, trong tứ trụ có các chi Tuất, Hợi là Không vong.
Nếu trụ ngày là Giáp Tuất, trong tứ trụ có các chi Thân, Dậu là Không vong.
Nếu trụ ngày là Giáp Thân, trong tứ trụ có các chi Ngọ, Mùi là Không vong.
Nếu trụ ngày là Giáp Ngọ, trong tứ trụ có các chi Thìn, Tỵ là Không vong.
Nếu trụ ngày là Giáp Dần, trong tứ trụ có các chi Tý, Sửu là Không vong.
Không Vong là trạng thái có thể diễn tả như bị mất phương hướng, trạng thái vô trật
tự, không bám víu. Chữ Không là Rỗng, chữ Vong là Mất. Vậy mọi thứ lọt vào KV không
phải gọi là không có tác dụng gì hết, nhưng hiểu là tác dụng ngược lại cái vốn có.
Cát thần và dụng thần lọt vào KV thì mất điểm tốt. Hung thần và kị thần thì cũng mất
tác dụng xấu của nó.
Những kinh nghiệm sau có thể theo từng tứ trụ xét cho kỹ:
1. Chi nào xung với Chi có KV thì giải được KV. Cẩn thận là kị thần đang bị nhốt trong
KV lại có cơ hội làm loạn! Dụng thần và cát thần thì dĩ nhiên tốt đẹp.
2. Chi có KV được lục hợp, tam hợp không thấy được hóa giải, chỉ có Xung mới giải
được.
Tử bình chân thuyên khi bàn về Vận cũng có câu: Gặp Không thời hung biến cát, cát
biến thành hung. Tức là nói tới :
- nếu vận hạn gặp dung thần, cung trường sinh của nhật chủ là Đế vượng, Lâm quan,
Lộc, có Mã tốt, có Quý Nhân, nhập Mộ khố thời là vận tốt, nhưng Chi của đại vận là KV thì
biến cát thành hung.
- nếu vận hạn gặp Dương nhận, Đào hoa Sát, thân hưu tù, tử tuyệt, có kị thần, cừu
thần mà Chi là KV thì biến hung hóa cát; ý cũng là một cách giải kị thần.
Chủ yếu nhớ KV giống như "đảo ngược tình hình".
Tài, Quan, Ấn nếu tọa vào trụ có Chi mang Không vong thì bị khó khăn như nói ở
trên. Thường thì Không Vong mang cả tính chất thời gian và định tính trong đó, có nghĩa
là nếu Không vong trụ năm thì những biến cố thuộc về khoảng thời gian 1 tuổi đến 17 tuổi
là không tốt đối với bản thân. Xuất thân từ gia đình trung bình, hoặc không được nuôi
dưỡng tốt, phải tự lập quá sớm..v.v...
Lục Hợp như Tuất Mão là chỉ có 2 hành, và rất cần có Can dẫn để còn hóa khí được,
nếu không thì chỉ giải KV trong nghĩa "tạm khóa" các chức năng vô hình của KV, có thể
thân chủ vẫn thành công trong vận, hạn có Can dẫn vậy. Như Tuất Mão phải có Bính hay
"Ám" đây là ngầm, tàng dưới nhân nguyên, nặng thì có ý đe dọa và nếu gặp đại vận
hung thì khó thoát khỏi tai họa, như ám quan thì mất chức, mất việc, nhẹ thì đổi chỗ làm,
con cái có vấn đề, ly thân, ly dị (vì Quan còn là con trai của nam mệnh, là chồng của nữ
mệnh), ám tài thì hao hụt, mất mát trong gia đình, vợ chồng hay bạn bè xung đột (vì Tài
còn là thê thiếp hoặc là cha trong gia đình).
Cách xem của ám hợp/xung là xét thiên can và can tàng trong địa chi của tứ trụ
không được xuất hiện làm mất lộc vị của Ấn, Quan, Tài. Mệnh nam nữ xem giống nhau. Lộc
vị đây không cứ là "tiền" mà nói chung là phúc đức, là thuận, chính, trung hậu.
Thí dụ như Giáp có quan tinh là Tân. Tân lâm quan tại Dậu. Nếu trong trụ có Ất hay
Mão thì lộc vị của quan tinh bị xung.
Giáp Tý thì Quý là Ấn tinh của Giáp. Quý lâm quan (có Lộc) tại Tý. Nếu trong trụ có
địa chi tàng chữ Đinh (Ngọ, Mùi, Tuất) thì vị trí lộc bị ám.
Cách "Tý dao Tỵ cách" cũng là một trong những cách dùng ám xung nhân nguyên
này. Cách này thì phát ở vận Tỵ, nhưng nếu trong trụ có ám xung thì địa chi của vận sẽ
xung mạnh với địa chi có ám, nếu là Quan thì bị bãi chức.
Thật ra, cứ nhớ bảng thiên can xung là tính được nhanh:
Giáp # Mậu
Ất # Kỷ
Bính # Canh
Đinh # Tân
Mậu # Nhâm
Kỷ # Quý
Canh # Giáp
Tân # Ất
Nhâm # Bính
Quý # Đinh
Để ý thấy dương xung dương, âm xung âm. Và kể cả hợp âm dương cũng là ám, tùy
theo phương diện nào thì tính, như Giáp Kỷ hợp Thổ, nếu là dụng hỉ thần thì tốt. Đại vận
gặp trúng thì sự ám hợp hay ám xung động, tức là lúc đó mới có sự việc xảy ra.
Tính gọn mỗi quý có 3 tháng là 90 ngày, mỗi tháng có 30 ngày. Một quý là một tam
hội để nhận định tứ mùa vượng tướng:
- Dần Mão Thìn, mùa Xuân, phương đông
- Tị Ngọ Mùi, mùa Hạ, phương nam
- Thân Dậu Tuất, mùa Thu, phương tây
- Hợi Tý Sửu, mùa Đông, phương Bắc
Sự vật gì cũng đi dần lên, từ yếu sang mạnh, rồi suy và tàn, nên trong mùa, trong
tháng, ngày, giờ đều được suy ra như vậy.
Theo trong bảng tàng can, thí dụ như tháng Dần (Lập Xuân) chứa Giáp, Bính, Mậu thì
có nghĩa là Mậu (thổ) là dư khí của tháng Sửu còn lại 5 ngày, chuyển dần sang Bính hỏa là
trung khí 5 ngày rồi mới đến bản khí của Dần là Giáp mộc 20 ngày.
Sang đến tháng Mão (Kinh Trập) thì Giáp vẫn còn dư khí 7, còn lại 23 ngày do Ất làm
chủ, bởi vì bản khí của Mão là Ất âm mộc.
Qua tháng Thìn (Thanh Minh) thì Ất còn vương lại 7 ngày, đến Quý 5 ngày và Mậu
bản khí của Thìn 18 ngày.
Cứ như vậy mà tính cho đến hết 4 mùa. Điều đáng nói rằng số ngày và dư khí chuyển
như vậy có sách viết khác nhau, thí dụ như Thìn chứa Mậu-Quý-Ất, ý là đọc từ trái sang
phải: bản khí-trung khí-dư khí, nhưng lại có nơi cho rằng Mậu-Ất-Quý mới đúng hơn, v.v...
Sự việc này dẫn đến chuyện tính cách cục theo thứ tự có đảo lại, thí dụ như bạn sinh
trong ngày thứ 8 đến 12 của tiết Thanh Minh thì tính là Quý hay Ất?
Thế nhưng không cần đặt nặng vấn đề này, vì lẽ, cuối cùng vẫn phải xem Quý hay Ất
có lộ ra hay không và tính chung cả thì Thủy và Mộc mạnh hay yếu.
Đặc biệt là 4 tháng cuối mùa Thìn Tuất Sửu Mùi đều thống nhất Thổ chiếm 18 ngày
cuối mùa, còn lại thì trung khí và dư khí chia nhau 7 ngày và 5 ngày.
Đặc điểm thứ hai của các tháng đó thì sách Tam Mệnh Thông Hội trong Chương Luận
Nhân Nguyên, họ không tính âm can mà tính dương can cho trung khí:
Thìn (Thanh Minh) tàng Mậu, Nhâm, Ất (thay vì Quý). Lý do vì Nhâm mộ ở Thìn, hay
nói cách khác, Thìn là mộ khố của hành Thủy.
Mùi (Tiểu thử) tàng Kỷ, Giáp, Đinh (thay vì Ất), vì Giáp mộ ở Mùi. Mùi là mộ khố của
Mộc nói chung.
Trong môn tử bình, trong khi luận cho nam mệnh lấy Tài Quan Ấn làm chính thì nữ
mệnh lấy Quan tinh và Tử tinh mà xét. Đó là vì theo quan niệm trọng nam khinh nữ, lấy
tam tòng tứ đức làm chính. Nếu Quan và Thực có lợi thì mệnh của nữ cũng tốt đẹp, ngược
lại thì xấu. Quan niệm ngày nay có thay đổi, giai cấp thay đổi, nam nữ bình đẳng, nên luận
số vẫn phải theo thời, cả nam lẫn nữ đều xét mệnh cục chung. Tuy nhiên, bình đẳng đến
mức nào có lẽ để mỗi người tự xét đoán. Chỉ xem lại những cách luận cho nữ theo quan
niệm "phu lợi kì phụ tất lợi"* để hiểu và làm tài liệu nghiên cứu.
* (Chồng có lợi thì vợ cũng lợi theo)
Có một cái chung nhất khi luận nam và nữ mệnh, cần nhất là ngũ hành trung hòa, kỵ
mệnh thiên khô và cần phải đắc khí. Nếu nam có 8 cách để luận bình thường, thì nữ cũng
có "bát pháp" và "bát cách".
Bát pháp là 8 mẫu hình dành cho phụ nữ: Thuần, Hòa, Thanh, Quý, Trọc, Lạm,
Xướng, Dâm.
1. Thuần: chỉ có 1 Quan hay 1 Sát lộ, có Tài và Ấn lộ, địa chi không xung, không hình,
không có hỗn tạp (thiên chánh đều có gọi là hỗn tạp).
2. Hòa: tứ trụ trung hòa, không quá vượng, không quá nhược, không có khắc, xung,
hình, hại; gọi là "hòa bình chi tượng". Người bên ngoài thể hiện rất là điềm tĩnh, rất dễ
nhận ra.
3. Thanh: giống như Thuần, chỉ có 1 Quan hay 1 Sát, nếu không lộ cũng không được
hỗn tạp, có Tài sinh Quan hoặc có Ấn trợ thân. Người rất thanh quý và hiền hòa.
4. Quý: có Quan tinh trong trụ, không hỗn tạp, Tài tinh vượng sinh cho Quan, địa chi
không bị hình xung, lại có Quý nhơn hỗ trợ (Thiên đức, Nguyệt đức, Văn Xương).
Dựa vào Bát pháp cổ nhân đặt ra Bát cách (8 cách cục dành riêng cho nữ mệnh):
1. Vượng phu ích tử: giúp được cho chồng nhưng khắc con. Mệnh có Tài tinh sinh
Quan, nhưng Thực Thương bị xung mạnh, nhất là ở trụ giờ, hoặc đất của Thực Thương là
đất suy, bịnh, tử, tuyệt.
2. Vượng tử thương phu: có con nhiều, lợi cho con nhưng không lợi cho chồng. Quan
hay Sát bị phản sinh, hoặc cung phu là tuyệt địa, trong khi Tử tinh được trường sinh, lại có
Tài vượng.
3. Thương phu khắc tử: khắc cả chồng lẫn con. Tệ nhất là can hợp với can của Quan
hay Sát mà không hóa được Khí. Hoặc quan tinh bị đa khắc, thí dụ như 2 Mậu khắc 1
Nhâm. Tử tinh lại ở đất suy bại, bị không vong, hình xung.
4. An tĩnh thủ phận: mệnh trung hòa, tình cảm hợp đạo vợ chồng, chung thủy. Tốt
nhất là can hợp hóa khí thuận với phu tinh, thí dụ như Quan là Hỏa mà có Mậu hợp Quý
đúng thời đắc khí. Tuy nhiên lại có hành khắc chế quan tinh mạnh hơn. Tử tinh cũng đắc
trường sinh, không bị xung hình hại. Mệnh có chồng con thuận thảo, chỉ vì thiếu Tài tinh
nên chỉ thủ phận nội trợ là yên lành.
5. Hoạch tử yểu chiết: mệnh yểu tướng. Thân nhược mà Sát lại mạnh, nguyên cục bị
khắc không có cứu, phu tinh không có, tử tinh làm loạn. Mệnh bị rút khí sớm nên yểu
tướng.
6. Phúc Thọ lưỡng bị: vừa có phúc lại thọ. Chi ngày sinh có Lộc, không bị xung ám,
phu tinh tọa đất trường sinh lại tọa đất Lộc trụ giờ. Cách này quý hiếm, gọi là Hội Lộc