You are on page 1of 11

CÂU HỎI THẢO LUẬN LỚP ĐẢNG VIÊN MỚI

KHÓA I NĂM 2021

Câu 1: Cần làm gì để vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh?
Hiện nay, trong công cuộc đổi mới của đất nước ta, Đảng ta đã lấy chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam chỉ đạo mọi hoạt động của
toàn Đảng. Đảng và Nhà nước ta vận dụng sáng tạo tư tưởng của Lênin trong
Chính sách kinh tế mới, đề ra nhiều chủ trương, đường lối đúng đắn trong việc sử
dụng quan hệ hàng hóa - tiền tệ, tạo ra các đòn bẩy kinh tế thúc đẩy kinh tế đất
nước phát triển. Cho đến nay, các chủ trương, đường lối lớn có ý nghĩa chiến
lược của Đảng đã được thực hiện đạt kết quả tốt.
Điều kiện hiện nay, kinh tế nước ta đang gặp khó khăn tạm thời do tác động
của suy giảm kinh tế toàn cầu, Đảng và Nhà nước ta vẫn xác định phát triển kinh
tế thị trường định hướng CNXH, thực hiện cho bằng được mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đây cũng là mục tiêu xuyên
suốt, trung tâm của những giải pháp điều hành nền kinh tế như kiềm chế lạm
phát, ổn định nền kinh tế vĩ mô,  thúc đẩy sản xuất kinh doanh, đảm bảo an sinh
xã hội. Nhà nước ta luôn gắn phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội,
như thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, xóa đói, giảm nghèo,…
Với bản thân, hiện là một đảng viên mới thì phải cần làm gì để vận dụng và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn
hiện nay, để phấn đấu trở thành một đảng viên chính thức. Đó là một điều làm
cho tôi phải trăn trở.
Để thực hiện được điều đó, thứ nhất, bản thân cần phải nắm chắc bản chất
cách mạng và khoa học, năm chắc những nguyên lý, tư tưởng cơ bản của chủ
nghĩa Mac-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để vận dụng đúng đắn, sáng tạo vào
thực tiễn nước ta, và cần thực hiện các yêu cầu sau:
* Một là, cần nắm vững nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mac-Lênin. Khi
vận dụng một quan điểm tư tưởng nào đó của chủ nghĩa Mac-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh phải nắm chắc bối cảnh ra đời, phạm vi nhiệm vụ mà tư tưởng, nguyên
lý đó phải giải quyết. Không thể dựa vào một câu nói, một luận điểm tư tưởng
của C.Mac, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh mà không rõ bối
cảnh ra đời của nó như thế nào đã bê nguyên xi vận dụng vào tình hình thực tiễn,
bởi vì có những luận điểm tư tưởng mà các nhà kinh điển đưa ra chỉ mang tính
chất dự báo, hoặc có những luận điểm, tư tưởng do có người đọc không kỹ nên có
thể dẫn đến hiểu nhầm và vận dụng máy móc.
* Hai là, khi vận dụng, phải nắm chắc đặc điểm nước ta, xuất phát đầy đủ từ
tình hình thực tiễn đất nước, xác định rõ những yêu cầu và nhiệm vụ thực tiễn
cần giải quyết, đồng thời cân nhắc kỹ lưỡng bối cảnh quốc tế.
* Ba là, phải đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn
đất nước, tham khảo kinh nghiệm đất nước, từ đó khái quát thành những bài học
cho cách mạng nước ta trong từng giai đoạn, từng thời kỳ.
Việc vận dụng Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều
kiện thực tiễn nước ta hiện nay đang là vấn đề mà Đảng và toàn dân chúng ta
quan tâm, coi đó là một trong những nhiệm vụ hàng đầu. Vận dụng chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phải đi liền với bổ sung và phát triển dựa trên
những vấn đề mà thực tiễn đặt ra. Phải chăm chú phát hiện, tổng kết thực tiễn để
tìm ra cái mới của lý luận, bổ sung cho khi tàng lý luận Mácxít, dùng nó như 1
kim chỉ nam dẫn đường, chứ không phải kinh thánh để rơi vào giáo điều.
* Bốn là, muốn vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta cần phải vững các hệ thống quan điểm tư tưởng
của Người, nắm chắc mục tiêu, yêu cầu từng giai đoạn, gắng chặc với tổng kết
thực tiễn để hiểu sâu sắc quá trình vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn
Việt Nam, để hình thành hệ thống quan điểm tư tưởng của Người về cách mạng
Việt Nam. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng
con người, về độc lập dân tộc gắng liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại, về sức mạnh của nhân dân, sức mạnh của khối đại
đoàn kết dân tộc, về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nhà nước thực sự của
nhân dân, do dân và vì dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, về phát triển
kinh tế và văn hoá, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân, về đạo đức cách mạng, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, về chăm
lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, về xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh, cán bộ Đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành
của nhân dân... Chỉ thông qua quá trình đó chúng ta mới có thể góp phần phát
triển chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thứ hai, bản thân cần phải kiên quyết đấu tranh chống những luận điệu và
thủ đoạn đã kích, phủ nhận, xuyên tạc chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh:
Bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là bảo vệ nguyên tắc lý
luận của nó. Những nguyên tắc lý luận có giá trị bền vững nằm trong toàn bộ các
bộ phận cấu thành của nó, trước hết thể hiện trong các học thuyết của chủ nghĩa
Mác-Lênin và những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh đã nêu ở trên.
Để đấu tranh có hiệu quả, bản thân cần phải nắm có hệ thống từng luận điểm
của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, gắng liền với hoàn cảnh lịch sử
và yêu cầu cụ thể cần giải quyết. Đồng thời phải tiếp tục phát triển chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới, đưa những tư tưởng ,
quan điểm đó vào thực tế cuộc sống, đem lại hiệu quả thiết thực nhằm hiện thực
hoá thắng lợi những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội, hiện thực hoá thắng
lợi mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Đó là
cách tốt nhất để bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Bản thân cần phải kiên quyết đấu tranh chống tư tưởng cơ hội, xét lại và bảo
thủ, giáo điều. Cả hai loại đó đều rất nguy hiểm, nhất là khi các thế lực thù địch
lồng ghép vào chiến lược "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực tư tưởng, văn hoá.
Bên cạnh những luận điệu không mới, đã từng tồn tại từ khi chủ
nghĩa      Mac-Lênin ra đời đến nay, chúng tập trung khai thác các khía cạnh mới,
sự sụp đổ của chế độ XH XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu, chủ nghĩa tư
bản còn sức phát triển cùng với sự phát triển như vũ bảo của khoa học công nghệ,
xuyên tạc, bôi đen những thành quả của chủ nghĩa xã hội, cho chủ nghĩa    Mác-
Lênin là ảo tưởng, đã lỗi thời, không thể vận dụng được trong xã hội hiện nay,
đồng thời đề cao hệ tư tưởng tư sản, xã hội tư sản.
Mặc khác, chúng còn sử dụng các chiêu bài "dân chủ", "tôn giáo" để ra sức
chống phá ta. Lợi dụng chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và nhà
nước ta, các thế lực thù địch ở bên trong đã đội lốt tôn giáo để hoạt động nhằm
giành giật quần chúng, xây dựng lực lượng nhằm chống phá chế độ ta, các thế lực
phản động ở ngoài nước đang ra sức lợi dụng danh nghĩa dân chủ, nhân quyền để
can thiệp vào nội bộ nước ta.
Trong cuộc đấu tranh vô cùng gay go và quyết liệt này, hơn ai hết, Đảng
phải là người đi đầu kiên quyết đấu tranh để bảo vệ nền tảng tư tưởng, bảo vệ
cương lĩnh, đường lối, ...Muốn vậy, trước hết và chủ yếu là người đảng viên,
chúng ta phải có lập trường tư tưởng, vững vàng, không mơ hồ, dao động, phải
nói và làm theo nghị quyết, thực hiện đúng cương lĩnh, điều lệ Đảng và pháp luật
của nhà nước, kiên định những vấn đề về quan điểm có tính nguyên tắc của
Đảng: "Độc lập dân tộc gắng liền với chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của
Đảng và dân tộc ta, chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư
tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng, Đảng Cộng Sản Việt Nam là
lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam, không chấp nhận "đa nguyên, đa
Đảng". Nhà nước Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân, thực hiện
khối đại đoàn kết toàn dân trên nền tảng liên minh của giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản
trong tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng, kết hợp chủ nghĩa chân chính
yêu nước và chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân".
Sự nghiệp đổi mới theo định hường XH XHCN do Đảng ta khởi xướng và
lãnh đạo nhằm xây dựng nước Việt Nam "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh". Đây là một cuộc cải biến cách mạng toàn diện, sâu sắc
và triệt để, đòi hỏi phải phát huy cao độ nhiệt tình cách mạng, sức mạnh đoàn kết
và tài trí sáng tạo của toàn dân tộc, đưa nước ta ra khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc
hậu, xây dựng đất nước thành một quốc gia giàu mạnh, có nền kinh tế phồn vinh,
khoa học kỹ thuật hiện đại, có chế độ chính trị ổn định và vững mạnh, đồng thời
có một nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người và lối
sống Việt Nam thể hiện được những đặc trưng của CNXH. Một sự nghiệp vĩ đại
như vậy đòi hỏi phải có sự dẫn dắt của hệ tư tưởng tiên tiến. Đó là chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề có tính
nguyên tắc cơ bản nhất đối với Đảng và nhân dân ta, trung thành với chủ
nghĩa   Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh có nghĩa là nắm vững bản chất cách
mạng, khoa học và nhân đạo, vận dụng một cách đúng đắn, thích hợp vào điều
kiện thực tiễn nước ta, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh một cách sáng tạo, kiên quyết đấu tranh chống những luận điệu và thủ
đoạn đả kích, phủ nhận, xuyên tạc chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh từ phía những thế lực thù địch.
Trong tình hình hiện nay, việc nghiên cứu, học tập để nắm vững, vận dụng
sáng tạo và bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là một nhiệm
vụ quan trọng hàng đầu của mọi cán bộ, đảng viên và toàn dân ta.
Tóm lại, muốn vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới hiện nay, bản thân cần phải học tập
nghiên cứu nghiêm túc, có hệ thống, tìm hiểu đúng đắn, nắm vững những nội
dung cốt lõi và phương pháp luận cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh.Vì vậy, chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc nhở chúng ta phải nâng cao
tư tưởng về chủ nghĩa Mác-Lênin để dùng lập trường quan điểm, phương pháp
của chủ nghĩa Mác-Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích
một cách đúng đắn đặc điểm của nước ta. Có như thế, chúng ta mới có thể dần
dần hiểu được qui luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra được những
đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng chủ nghĩa xã hội thích
hợp với tình hình của đất nước.
Câu 2: Phân tích sự phát triển nhận thức của Đảng ta về đặc trưng cơ
bản của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng?
Những đặc trưng cơ bản XH XHCN mà nhân dân ta xây dựng trong Cương
lĩnh đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Có 8 đặc trưng :
1. Mục tiêu chung.
- Cương lĩnh năm 2011: Dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn
minh .
(ĐH XI, XII: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh).
2. Chế độ chính trị.
- Cương lĩnh năm 1991: Do nhân dân lao động làm chủ
- Cương lĩnh năm 2011: Do nhân dân làm chủ
3. Nền kinh tế.
- Cương lĩnh năm 1991: Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên LLSX
hiện đại và chế độ công hữu về các TLSX chủ yếu.
- Cương lĩnh năm 2011: Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng
sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp.
4. Nền văn hóa.
- Cương lĩnh năm 1991: Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Cương lĩnh năm 2011: Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
5. Về con người.
- Cương lĩnh năm 1991: Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột,
bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.
- Cương lĩnh năm 2011: Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột,
bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.
6. Vấn đề dân tộc.
- Cương lĩnh năm 1991: Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và
giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
- Cương lĩnh năm 2011: Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình
đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
7. Về Nhà nước.
- Cương lĩnh năm 1991: Chưa xác định
- Cương lĩnh năm 2011: Có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
8. Chính sách đối ngoại.
- Cương lĩnh năm 1991: Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất
cả các nước trên thế giới.
- Cương lĩnh năm 2011: Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên
thế giới.
Lần đầu tiên trong Cương lĩnh 1991 đã đưa ra 6 đặc trưng cơ bản của xã
hội xã hội chủ nghĩa đó là: “Do nhân dân lao động làm chủ; Có một nền kinh tế
phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư
liệu sản xuất chủ yếu; Có nền văn hóa tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Con
người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng
theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn
diện cá nhân; Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng
tiến bộ; Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế
giới”.
Những đặc trưng đó vừa thể hiện tính phổ biến theo học thuyết Mác –
Lênin về chủ nghĩa xã hội, vừa thể hiện tính đặc thù dân tộc, có tính đến những
đặc điểm của thời đại; có quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau.
Những đặc trưng này là những đặc trưng bản chất để nhận biết về chủ nghĩa xã
hội và là những nét phác thảo cơ bản vê mô hình chủ nghĩa nước ta trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Từ sáu đặc trưng trên có thể thấy nhận thức mới của Đảng ta về mô hình xã
hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã thể hiện những nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, xác định vai trò làm chủ của xã hội xã hội chủ nghĩa là nhân dân
lao động. Nhân dân lao động không chỉ có vị thế mà còn có năng lực để làm chủ
xã hội. Trong chủ nghĩa xã hội, quần chúng nhân dân lao động được giải phóng
và có điều kiện phát triển toàn diện.
Thứ hai, lực lượng sản xuất phát triển cao là điều kiện, tiền đề để tăng năng
suất lao động, tạo cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống của
nhân dân. Tuy nhiên, để nhân dân lao động được hưởng những thành quả do sức
lao động của mình đòi hỏi phải thực hiện chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất
chủ yếu. Bởi vì, đó là điều kiện để thực hiện những lợi ích kinh tế cơ bản. Chế độ
công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu là bản chất kinh tế của chủ nghĩa xã hội,
là cơ sở bảo đảm cho nhân dân lao động làm chủ về kinh tế.
Thứ ba, khi xác định xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc là đặc trưng của chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đặt con người vào trung tâm của sự
phát triển. Vì về bản chất, văn hóa là những hoạt động sáng tạo của con người
hướng tới những giá trị nhân văn, nhân bản, là khát vọng hướng tới cái Chân,
Thiện, Mỹ nhằm hoàn thiện con người, hoàn thiện xã hội. Nói tới văn hóa là nói
tới con người, do vậy phát huy vai trò của văn hóa trong phát triển chính là phát
huy những năng lực, bản chất của con người. Đó là cơ sở cho việc hoạch định
chiến lược phát triển bền vững của đất nước.
Thứ tư, Đảng ta coi xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, vì chỉ có đoàn kết
chúng ta mới tập trung được con người với sức mạnh trí tuệ, sức sáng tạo, ý chí
tự lực, tự cường, nhân cách cao đẹp,… vào quá trình phát triển đất nước. Điều
này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với nước ta, khi nguồn lực tài chính và
nguồn lực vật chất cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội còn hạn hẹp, trong
khi đó nguồn lực con người Việt Nam lại vô cùng phong phú, nếu biết phát huy
nó sẽ trở thành nguồn lực to lớn cho sự phát triển bền vững. Đảng ta coi đoàn kết
là chiến lược cách mạng vì mục tiêu chung của dân tộc chứ không nhằm phục vụ
cho lợi ích của riêng một giai cấp, tầng lớp nào. Vì vậy, xây dựng khối đại đoàn
kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị.
Trên cơ sở phân tích thực tiễn cách mạnh Việt Nam, nhận định về bối cảnh
thời đại, Đại hội XI của Đảng (2011) một lần nữa tiếp tục khẳng định: “Theo quy
luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”. Đại
hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), trong đó có sự bổ sung và phát triển
thêm nhiều điểm mới về mô hình của chủ nghĩa xã hội so với Cương lĩnh năm
1991. Kế thừa mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa của Đại hội X, cương lĩnh xây
dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011)
do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (1/2011) thông qua đã xác
định: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân lao động làm chủ; có nền
kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất
tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc
trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng
phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các
nước trên thế giới”.
Chúng ta có thể thấy, so với Cương lĩnh năm 1991 và Văn kiện Đại hội X,
sự phát triển nhận thức Đảng về mô hình của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong
Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) có những điểm mới sau:
Thứ nhất, có thêm hai đặc trưng: Đặc trưng về mục tiêu tổng quát của chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
và đặc trưng “có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Hai đặc trưng này, Đại hội X đã bổ
sung. Điểm mới so với Đại hội X là chuyển từ “dân chủ” lên trước “công bằng”
trong đặc trưng tổng quát, bởi vì, cả lý luận và thực tiễn đều chỉ rõ, dân chủ là
điều kiện, tiền đề của công bằng, văn minh. Việc thực hiện đầy đủ những nội
dung của đặc trưng này là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, đặc trưng kinh tế: Cương lĩnh 1991 diễn đạt đặc trưng này là có
nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công
hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Từ thực tiễn đổi mới, Đại hội X đã sửa lại và
trong cụm từ chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu bằng cụm từ quan
hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sau Đại hội X
vẫn còn có ý kiến tranh luận về vấn đề này. Có ý kiến cho rằng bỏ chế độ công
hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu là dọn đường cho tư hữu hóa, là từ bỏ chủ
nghĩa xã hội. Nên trong dự thảo Cương lĩnh trình Đại hội XI đã lấy lại quan điểm
của Cương lĩnh 1991, tức là có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Tại Đại hội XI,
đa số các đại biểu cho rằng diễn đạt như Đại hội X là đúng và bổ sung chữ “tiến
bộ” và bỏ cụm từ: “với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”. Như vậy, việc
xác định về đặc trưng kinh tế như Đại hội X và Cương lĩnh (bổ sung, phát triển
năm 2011) là sự kế thừa, bổ sung, phát triển Cương lĩnh năm 1991. Đồng thời,
cách diễn đạt của Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) cũng thể hiện bước
phát triển, cụ thể hóa hơn so với Đại hội X: Nội hàm của phạm trù “phù hợp”
rộng hơn; bổ sung tính chất “tiến bộ” cho quan hệ sản xuất.
Thứ ba, đặc trưng con người, Cương lĩnh năm 1991 xác định: Con người
được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo
lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện
cá nhân. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: “Con người có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”.
Như vậy, so với Cương lĩnh năm 1991, Cương lĩnh (Bổ sung, phát triển
năm 2011) không dùng cụm từ con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột,
bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động. Sở dĩ như vậy là vì, mục tiêu
của chủ nghĩa xã hội là xóa bỏ mọi áp bức, bóc lột, bất công. Quá trình bảo đảm
cho con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cũng là quá trình xóa bỏ
mọi áp bức, bóc lột, bất công và tạo ra những điều kiện về kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội để phát triển toàn diện con người. Đặc trưng này đã phản ánh sâu sắc
quan điểm của Đảng ta về con người là trung tâm của sự nghiệp xây dựng xã hội
mới, là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội hướng tới giải phóng con người nhằm phát
triển mọi tiềm năng của con người. Đây cũng chính là thể hiện bản chất nhân văn
chủ nghĩa xã hội.
Thứ tư, đặc trưng dân tộc, Cương lĩnh năm 1991 xác định: Các dân tộc
trong nước bình đẳng, đoàn kết giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Cương lĩnh (bổ sung,
phát triển năm 2011) đã xác định: “Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình
đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển”. Ở đây, Đảng ta không
dùng cụm từ các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam là vì, Việt Nam là một quốc
gia thống nhất gồm nhiều dân tộc cùng sinh sống. Các dân tộc ở nước ta có
truyền thống đoàn kết lâu đời trong sự nghiệp đấu tranh dựng nước và giữ nước,
xây dựng một cộng đồng dân tộc thống nhất. Mặt khác, cộng đồng dân tộc Việt
Nam còn bao gồm cả đồng bào ta đang định cư ở nước ngoài. Hiện nay, người
Việt Nam đang định cư ở nước ngoài có khoảng trên 4 triệu người. Đây là một bộ
phận quan trọng của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Với cách diễn đạt như vậy là
để khơi dậy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, động viên đồng bào Việt
Nam định cư ở nước ngoài hướng về quê hương tham gia xây dựng đất nước,
đóng góp cho Tổ quốc.
Thứ năm, đặc trưng về hợp tác quốc tế, Cương lĩnh 1991 xác định: “Có
quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới”. Cương
lĩnh (bổ sung, phát triển 2011) đã mở rộng thành “có quan hệ hữu nghị và hợp tác
với các nước trên thế giới”. Như vậy, so với Cương lĩnh năm 1991, Cương lĩnh
(Bổ sung, phát triển năm 2011) không dùng cụm từ nhân dân tất cả các nước mà
dùng cụm từ các nước. Đây là sự phát triển tư duy mới của Đảng về đối ngoại,
phát huy truyền thống hòa hiếu, nhân ái, hữu nghị, hợp tác văn minh của nền
ngoại giao Việt Nam. Đảng ta dùng cụm từ các nước ở đây đã bao hàm cả Nhà
nước và nhân dân các nước trong đó, đồng thời là để chỉ các quốc gia có chế độ
chính trị khác nhau, có điểm xuất phát về kinh tế, chính trị, xã hội không giống
nhau, thậm chí mục tiêu tiến lên khác nhau nhưng vẫn có thể tìm thấy những
tiếng nói chung trên nhiều vấn đề mà mỗi nước quan tâm, trên cơ sở giữ vững
nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi và không can thiệp vào công việc nội bộ của
nhau, khai thác tốt nhất những yếu tố quốc tế thuận lợi và không can thiệp vào
công việc nội bộ của nhau, khai thác tốt nhất những yếu tố quốc tế thuận lợi phục
vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đồng thời, chỉ rõ quan
hệ ngoại giao của nước ta không chỉ là hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước
mà còn bao gồm cả ngoại giao nhân dân, các đoàn thể, các hội, các doanh nghiệp
với các đối tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã
hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, mô hình và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta được xác định ngày càng rõ hơn và ngày càng được hiện thực
hóa trong cuộc sống. Có thể thấy rằng, sự nhận thức về mô hình xã hội xã hội chủ
nghĩa của Đảng ta là một quá trình, vừa là sự phản ánh, tổng kết kinh nghiệm vừa
là quá trình vươn lên định hướng cho thực tiễn đổi mới. Từ những phác thảo đầu
tiên được thể hiện trong Cương lĩnh năm 1991, mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa
mà Đảng và nhân dân ta phấn đấu xây dựng gồm 6 đặc trưng. Qua quá trình bổ
sung, phát triển từ Đại hội VIII đến đại hội XI của Đảng, đặc biệt Đại hội X đã bổ
sung vào mô hình chủ nghĩa xã hội thêm hai đặc trưng mới. Đến Cương lĩnh bổ
sung, phát triển 2011, Đảng ta đã nhận thức rõ hơn về mô hình chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam với tám đặc trưng với một số nhận thức mới hơn so với tám đặc trưng
ở Đại hội X đã đề ra. Đến đây, mô hình chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã được định
hình rõ nét. Mô hình đó bao quát toàn bộ những giá trị tốt đẹp, thể hiện đúng bản
chất xã hội xã hội chủ nghĩa của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh. Được vận dụng và phát triển sáng tạo cho phù hợp với các điệu kiện Việt
Nam, thể hiện khát vọng cao đẹp, lý tưởng nhân văn của con người, văn hóa, dân
tộc Việt Nam. Những đặc trưng thể hiện các yếu tố tạo nên mô hình xã hội chủ
nghĩaViệt Nam đã được thể nghiệm, đúc kết qua thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã
hội không chỉ ở Việt Nam mà của nhiều nước trên thế giới. Các yếu tố của mô
hình này cũng đã được bổ sung và phát triển tư duy lý luận và tổng kết thực tiễn
của suốt quá trình lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội với 11 kỳ Đại
hội của Đảng. Với quan điểm biện chứng của sự phát triển, Đảng Cộng sản Việt
Nam khẳng định rằng, xã hội xã hội chủ nghĩa với những đặc trưng trên là một
mô hình mới; nó đúng và phù hợp với hiện tại, song có thể không đáp ứng đầy đủ
đòi hỏi của tương lai, cho nên nó cần không ngừng được đổi mới, bổ sung và phát
triển vì mục tiêu cuối cùng là một xã hội xã hội chủ nghĩa đích thực./
Câu 3: Trình bày nội dung phát huy dân chủ trong giai đoạn hiện nay?

Câu 4: Trình bày nhiệm vụ, giải pháp hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể
chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam?
4. Phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội
- Tập trung hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, giải quyết tốt hơn quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và
xã hội
- Phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo nhằm tạo bứt
phá nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế
- Phát triển nguồn nhân lực, giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu nhân lực
chất lượng cao của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế
- Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với
đổi mới mô hình tăng trưởng, bảo đảm thực chất, hiệu quả; phát triển nền kinh tế
số; thúc đẩy tăng trưởng nhanh, bền vững trên cơ sở ổn định kinh tế vĩ mô
- Phát triển kết cấu hạ tầng, kinh tế vùng, kinh tế biển, lấy các đô thị làm
động lực phát triển vùng và đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới
- Phát triển văn hoá, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; không
ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân
- Quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên; tăng cường bảo vệ môi trường và
ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai
- Củng cố, tăng cường quốc phòng, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật
tự, an toàn xã hội; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia
- Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, hội nhập và vị thế, uy tín của Việt
Nam trên trường quốc tế
- Tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo phát
triển, liêm chính, hành động; đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết
kiệm, chống lãng phí, tạo đột phá trong cải cách hành chính
Câu 5: Trình bày nhiệm vụ, giải pháp phát triển giáo dục - đào tạo,
khoa học công nghệ ở địa phương hiện nay?
b) Nhiệm vụ và giải pháp phát triển giáo dục - đào tạo:
(1) Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của GDĐT theo
hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học.
(2) Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống GD mở,
học tập suất đời và xây dựng XH học tập.
(3) Đổi mới căn bản công tác quản lý GDĐT, bảo đảm dân chủ, thống nhất;
tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở GDĐT; coi trọng quản lý
chất lượng.
(4) Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới
GDĐT.
(5) Đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động sự tham gia đóng góp
của toàn xã hội; nâng cao hiệu quả đầu tư để phát triển GDĐT.
(6) Nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu và ứng dụng KHCN, đặc biệt
là khoa học GD và khoa học quản lý.
b) Nhiệm vụ, giải pháp phát triển khoa học công nghệ:
(1) Ưu tiên tập trung đầu tư phát triển và ứng dụng KHCN ;
(2) Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ về tổ chức, cơ chế quản lý, cơ chế
hoạt động KHCN;
(3) Xây dựng chiến lược phát triển KHCN. Tăng cường hợp tác quốc tế.
(4) Có cơ chế đổi mới công nghệ theo hướng ứng dụng CN mới, CN hiện
đại. Huy động mạnh các nguồn vốn đầu tư phát triển KHCN.
(5) Quy hoạch, sắp xếp lại hệ thống tổ chức KHCN. Phát triển thị trường
KHCN. Thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức KHCN công
lập.
(6) Tăng cường liên kết các tổ chức KHCN với doanh nghiệp; mở rộng hình
thức liên kết giữa Nhà nước, nhà KH, nhà DN, nhà nông. Khuyến khích, tạo điều
kiện để các DN tham gia nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ KHKT, đổi
mới CN.
(7) Xây dựng và thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng, đãi
ngộ, tôn vinh đội ngũ cán bộ KHCN. Thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy
tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo,tư vấn, phản biện của các
nhà KH.
(8) Phát huy và tăng cường tiềm lực KHCN quốc gia. Tập trung đầu tư phát
triển một số viện KHCN, trường ĐH cấp QG và một số khu CN cao, vùng kinh tế
trọng điểm theo mô hình tiên tiến của thế giới.
Câu 6: Phân tích mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp tăng cường quốc
phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, môi trường hòa bình ổn định trong
những năm tới; người đảng viên phải có trách nhiệm như thế nào trong việc
quán triệt và tổ chức thực hiện?

a) Mục tiêu
Đại hội XII của Đảng xác định: “Mục tiêu trọng yếu của quốc phòng, an ninh là:
Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị,
tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, kiên quyết, kiên trì
đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo
vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ lợi ích
quốc gia – dân tộc; bảo vệ nền văn hóa dân tộc, giữ vững môi trường hòa bình,
ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội”.
Mục tiêu trên bao quát toàn bộ những nội dung cơ bản, cốt lõi của Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa cả về mặt tự nhiên – lịch sử và mặt chính trị - xã hội mà
Đảng, Nhà nước, mọi tình huống, mọi hoàn cảnh. Các nội dung đó quan hệ chặt
chẽ và tác động biện chứng với nhau. Bảo vệ nội dung này cũng góp phần và tạo
điều kiện bảo vệ nội dung khác và ngược lại, không xem nhẹ một nội dung nào.
Tính chất rộng lớn, toàn diện của mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa trong tình hình mới quy định tính chất rộng lớn, toàn diện của mục tiêu,
nhiệm vụ quốc phòng. Nhấn mạnh mục tiêu “trọng yếu” của quốc phòng, an ninh
mà Đại hội XII xác định là nhằm đáp ứng mục tiêu rộng lớn, toàn diện của nhiệm
vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
b) Nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu

- Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân vững mạnh.
“Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh
chủng lực lượng; vững mạnh về chính trị, nâng cao chất lượng tổng hợp sức
mạnh chiến đấu, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân
dân”. Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân vững mạnh trong tình
hình mới cần đặc biệt quan tâm xây dựng về chính trị, bảo đảm quân đội và công
an nhân dân tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Tiếp tục giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của
Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân,
Công an nhân dân và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Quan tâm phát triển công nghiệp
quốc phòng, an ninh theo hướng lưỡng dụng; tăng cường nguồn lực, tạo cơ sở vật
chất – kỹ thuật hiện đại cho Quân đội nhân dân và Công an nhân dân đáp ứng yêu
cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Tích cực, chủ động chuẩn bị lực lượng
đủ mạnh và các kế hoạch, phương án tác chiến cụ thể, khoa học, sẵn sàng bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh của Tổ
quốc trong mọi tình huống. cả hệ thống chính trị, toàn dân và toàn quân ta phải
quyết tâm bảo vệ trong
Câu 7: Trình bày phương hướng, giải pháp đẩy mạnh hội nhập quốc
tế của Đảng?.

Câu 8: Đồng chí hãy nêu những nội dung chính của các nguyên tắc tổ
chức và hoạt động của Đảng? Đồng chí làm gì để thực hiện tốt nguyên tắc
trên ở chi bộ mình sinh hoạt?

Câu 9: Trình bày những nhiệm vụ chủ yếu xây dựng Đảng về đạo đức
trong giai đoạn hiện nay?

Câu 10: Anh chị hãy trình bày nội dung phấn đấu, rèn luyện của đảng
viên trong giai đoạn hiện nay? Liên hệ thực tế bản thân?

You might also like