Professional Documents
Culture Documents
Tìm Hiểu Về Tộc Người Ê Đê
Tìm Hiểu Về Tộc Người Ê Đê
II. Kinh Tế
• Về nông nghiệp:
Đặc điểm làm nông nghiệp của người Ê đê là chế độ luân canh, tức là bên cạnh
những khu đất đang canh tác còn có những khu đất để hoang để đất có thời gian
nghỉ ngơi phục hồi. Ngày nay người Ê đê không chỉ làm nương rẫy, mà còn gắn với
chế biến nông sản, trồng cây công nghiệp như: cà phê, cao su, hồ tiêu, ca cao...
• Về thủ công nghiệp:
Người dân ở các buôn làng Ê đê còn làm các đồ đan lát, bát đồng, đồ gỗ, đồ trang
sức, đồ gốm…để phục vụ các nghi lễ tâm linh và sinh hoạt đời sống hàng ngày.
Đan lát cũng là một trong những nghề thể hiện sự khéo léo của đồng bào Ê Đê. Gùi,
mẹt, giỏ... với kỹ thuật đan nan dọc, ngang... kết hợp tre nứa với mây rừng nhuộm
màu tạo nên các sản phẩm độc đáo, có giá trị thẩm mỹ cao.
Nghề thủ công truyền thống của người Ê Đê chủ yếu là trồng bông dệt vải. Nghề rèn
không phát triển lắm. Tuy nhiên, một số công cụ lao động và vũ khí của người Ê Đê
vẫn được tìm thấy, chứng tỏ người Ê Đê rất khéo léo khi chế tạo các sản phẩm phục
vụ đời sống, sinh hoạt.
• Về chăn nuôi:
Ngoài trồng trọt, người Ê đê còn chăn nuôi trâu, bò, voi.
Gia súc được nuôi nhiều hơn cả là lợn và trâu, gia cầm được nuôi nhiều là gà,
nhưng chăn nuôi chủ yếu chỉ để phục vụ cho tín ngưỡng.
• Về săn bắn và hái lượm:
Xưa kia săn bắn, hái lượm chiếm vị trí quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội của
người Ê đê. Đồng bào thường đi lấy rau rừng, mật ong, hoa quả, tre gỗ để làm nhà
và dụng cụ sinh hoạt trong gia đình. Săn bắn chim, thú cũng đem lại một số lượng
thực phẩm đáng kể.
Sau những trận mưa đầu mùa, chim, thú thường ra kiếm mồi, lúc này con người
thường đi săn để cải thiện bữa ăn. Mùa săn kéo dài gần hết mùa khô, chủ yếu từ
tháng 2 đến tháng 4 hàng năm. Vũ khí được sử dụng khi đi săn đó là nỏ (tên tẩm
thuốc độc) và lao; săn bằng nỏ thường có hiệu quả hơn phóng lao.
Với mong muốn khi đi săn sẽ thu được kết quả, người Êđê tiến hành Lễ cúng nỏ
trước lúc ra đi. Nỏ và tên đặt trên mâm, hướng về phía đông, bên cạnh là 1 ché
rượu và 1 con gà luộc. Thầy cúng ngồi gần nỏ, bên bức vách phía đông, cầm chén
đồng đựng máu gà pha rượu, cầu thần núi, sông, tiếp đến là nhỏ 1 giọt rượu thiêng
vào đầu nỏ.
Người Ê đê thường có nhiều cách săn bắn. Săn tập thể do người đứng đầu nhóm
chỉ huy. Người ta chỉ săn đêm khi có đèn săn, thường tổ chức vây khu vực chắc
chắn có thú, bố trí người lùa 3 phía để 1 phía chặn đầu, đón lỏng, bắn nỏ - đây là lối
săn vây. Còn cách săn đuổi thì có 1 tốp người đuổi thú, gõ mõ, đập dao, kêu la ầm ĩ,
làm cho thú hoảng hốt chạy theo lối đã định và cũng có tốp đón, bắn nỏ. Thời xưa
còn có cách săn nữa là đốt lửa 1 khu rừng nhỏ, lùa thú ra khu vực bìa rừng có người
săn phục sẵn, nhưng lối này ít dùng vì hiệu quả không lớn và dễ gây cháy rừng.
Đi săn hồi hộp nhất là lúc dồn con mồi, nhưng thú vị nhất là lúc bắt được mồi vì chỉ
lúc ấy cuộc săn mới kết thúc.
Phân chia thú rừng: người bắn trúng con mồi được phần lớn nhất: đầu, thân, bộ lòng
(tim, gan, phổi...), những người khác được chia phần bằng nhau. Riêng người bắn
trúng cũng được một xuất chung này và khi đem phần về phải làm lễ tạ thần
Krainam ở nhà.
Ngoài săn, người ta còn đánh bẫy, vừa được thịt ăn, vừa là một cách bảo vệ hoa
màu trên nương rẫy. Ngày nay người dân đã trồng trọt, chăn nuôi tại nhà và do diện
tích rừng ngày càng bị thu hẹp, số lượng động thực vật cũng giảm dần nên việc săn
bắt, hái lượm hầu như không còn nữa.
III. Văn Hoá Vật Thể
• Nhà ở:
Tộc người Ê Đê vốn thuộc nhóm cư dân ngôn ngữ Malay-Polynesia, có nguồn gốc
lâu đời từ vùng biển. Mặc dù đã chuyển cư vào miền trung Việt Nam hàng ngàn năm
trước, và di cư lên Tây Nguyên khoảng sớm nhất vào cuối thế kỷ VIII đến thế kỷ XV
nhưng trong sâu thẳm văn hóa của người Ê Đê, bến nước và con thuyền là những
hình ảnh chưa hề phai nhạt. Nhà sàn Ê Đê có hình con thuyền dài, cửa chính mở
phía trái nhà, cửa sổ mở ra phía hông. Bên trong nhà có trần gỗ hình vòm giống hệt
mui thuyền. Có nhiều buôn Ê Đê trù phú với hàng trăm ngôi nhà dài trông như một
hạm đội thuyền Nam Đảo đang rẽ sóng giữa thế giới biển đảo, đây là nét đặc trưng
có hầu hết ở các tộc người nói tiếng Mã Lai. Nhà người Ê Đê thuộc loại hình nhà dài
sàn thấp, thường dài từ 15 đến hơn 100 m tùy theo gia đình nhiều người hay ít
người. Nhà Ê Đê có những đặc trưng riêng không giống nhà của các cư dân khác ở
Tây Nguyên. Là nhà của gia đình lớn theo chế độ mẫu hệ. Bộ khung kết cấu đơn
giản. Cái được coi là đặc trưng của nhà Ê Đê là: hình thức của cầu thang, cột sàn và
cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt. Đặc biệt là ở hai phần. Nửa đằng cửa chính gọi
là Gah là nơi tiếp khách, sinh hoạt chung của cả nhà dài, bếp chủ, ghế khách, ghế
chủ, ghế dài (Kpan) (tới 20 m), chiêng ché,... nửa còn lại gọi là Ôk là bếp đặt chỗ nấu
ăn chung và là chỗ ở của các đôi vợ chồng, chia đôi theo chiều dọc, phần về bên trái
được coi là "trên" chia thành nhiều gian nhỏ. Phần về bên phải là hàng lang để đi lại,
về phía cuối là nơi đặt bếp. Mỗi đầu nhà có một sân sàn. Sân sàn ở phía cửa chính
được gọi là sân khách. Muốn vào nhà phải qua sân sàn. Nhà càng khá giả thì sân
khách càng rộng, khang trang.
• Trang phục:
Có đầy đủ các thành phần, chủng loại trang phục và phong cách thẩm mỹ khá tiêu
biểu cho các dân tộc khu vực Tây Nguyên. Y phục cổ truyền của người Ê-đê là màu
chàm, có điểm những hoa văn sặc sỡ. Đàn bà mặc áo, quấn váy. Đàn ông đóng khố,
mặc áo. Đồng bào ưa dùng các đồ trang sức bằng bạc, đồng, hạt cườm. Trước kia,
tục cà răng qui định mọi người đều cắt cụt 6 chiếc răng cửa hàm trên, nhưng lớp trẻ
ngày nay không cà răng nữa.
+ Trang phục nam: Nam để tóc ngắn quấn khăn màu chàm nhiều vòng trên đầu. Y
phục gồm áo và khố. Áo có hai loại cơ bản:
- Loại áo dài tay, khoát cổ chui đầu, thân dài trùm mông, xẻ tà. Đây là loại áo
khá tiêu biểu cho người Ê Đê qua trang phục nam. Trên nền chàm của thân và
ống tay áo ở ngực, hai bên bả vai, cửa tay, các đường viền cổ, nơi xẻ tà gấu
áo được trang trí và viền vải đỏ, trắng. Đặc biệt là khu giữa ngực áo có mảng
sọc ngang trong bố cục hình chữ nhật tạo vẻ đẹp, khỏe.
- Loại áo dài (quá ngối), khoét cổ, ống tay bình thường không trang trí như loại
áo ngắn trên,… Khố có nhiều loại và được phân biệt ở sự ngắn dài có trang trí
hoa văn như thế nào. Đẹp nhất là các loại ktêh, drai, đrêch, piêk, còn các loại
bong và băl là loại khố thường. Áo thường ngày ít có hoa văn, bên cạnh các
loại áo trên còn có loại áo cộc tay đến khủy, hoặc không tay. Áo có giá trị nhất
là loại áo Ktêh của những người quyền quý có dải hoa văn "đại bàng dang
cánh", ở dọc hai bên nách, gấu áo phía sau lưng có đính hạt cườm. Nam giới
cũng mang hoa tai và vòng cổ.
+ Hội:
Không khí lễ hội khắp các buôn làng càng lúc càng rộn ràng, náo nhiệt,
tiếng chiêng, tiếng trống, vang khắp núi rừng. Người Êđê còn tổ chức các
sinh hoạt văn hóa như kể khan (sử thi), thổi kèn đing năm, đing Ktút, múa
chim grứ, hát dân ca…
Có các lễ phụ trong hội:
- Lễ đón bạn
- Lễ cúng hồn lúa
- Lễ khóc trâu
- Lễ đâm trâu
- Lễ tiễn bạn…
Tiếp đó, đại diện nhà gái (Pô êmuh) dẫn cháu gái đến thỏa thuận về thủ tục “gửi
dâu” ở nhà trai theo thỏa thuận giữa hai bên. Đây là thời gian nhà trai thử thách lòng
chung thủy nết na, chịu thương của người con gái xem có đạt yêu cầu hay không,
thời gian 1 tháng, 2 tháng hay lâu hơn tùy thuộc vào nhà trai. Để làm thủ tục gửi dâu,
lễ vật mà nhà gái đưa sang nhà trai gồm có 1 con gà, 1 nắm xôi gói trong lá chuối và
1 ché rượu để làm lễ gửi dâu (K’năm).
Cô dâu và ông mai cùng đại diện nhà gái sang nhà trai làm lễ hỏi chồng.
Cùng với đó, nhà trai sẽ thách cưới. Theo truyền thống của đồng bào Ê Đê, nếu gia
đình nhà gái giàu có, nhà trai sẽ thách cưới rất cao. Có khi nhà gái phải lễ cho cha
chàng trai một con trâu, cho mẹ tám bát đồng, tám vòng đồng, một chăn đắp, một cái
địu con. Các thành viên trong gia đình cũng phải được lễ vật như bát đồng, còng
đồng... và ông đăm đai của nhà trai phải được một ché quý với trị giá bằng khoảng
giá trị của 25-30 con trâu. Sau khi thỏa thuận xong thủ tục này, chàng trai, cô gái mới
trao vòng đồng, coi như lời cam kết thủy chung và lời chúc tụng hạnh phúc.
Sau thời gian gửi dâu, nếu người con trai không đồng ý thì nhà trai làm một lễ nhỏ
mời nhà gái đến dự để từ chối và tỏ lòng tôn trọng nhưng vẫn duy trì sự hòa thuận
với nhau. Nếu nhà trai chấp thuận cô gái, thì sẽ đồng ý cho nhà gái được làm lễ
rước rể (Tuhan). Lúc này, ở bên nhà trai sẽ làm lễ tiễn con bằng một ché rượu và
một con heo. Nhà gái tổ chức rước chàng rể về nhà mình. Lễ vật mang sang nhà trai
để làm lễ rước rể về bắt buộc phải có vòng đồng, ché rượu cần, gói xôi, con gà
trống. Đoàn rước rể trên đường đi về nhà gái, vừa đi vừa múa hát, các thanh niên
trai gái sẽ té nước vào người chú rể với quan niệm rằng, chú rể nào được té nước
càng nhiều, càng ướt thì hạnh phúc càng lớn, làm ăn càng giàu sang và đẻ được
nhiều con gái.
Khi nhà gái lo đủ lễ vật thách cưới của nhà trai thì được tổ chức hôn lễ. Sau khi thỏa
thuận xong thì nhà gái sẽ thông báo cho buôn làng việc tổ chức lễ cưới tại nhà gái.
Lúc này, người trưởng họ sẽ đại diện hai gia đình tuyên bố cuộc hôn nhân của
chàng trai, cô gái Ê Đê được chấp nhận theo luật tục, rồi ông đưa chiếc vòng đồng
cho đôi vợ chồng trẻ chạm tay vào để chúc phúc vợ chồng sống hạnh phúc trọn đời
bên nhau.
Trong lễ hỏi chồng của đồng bào Ê Đê, lễ thỏa thuận gửi dâu là quan trọng nhất.
Nếu không thỏa thuận được thì không thể có lễ rước rể, trao vòng, cùng với đó, vai
trò của ông mai (đại diện nhà gái) và đăm đai (đại diện nhà trai) là vô cùng quan
trọng. Trong quá trình thỏa thuận, nếu nhà gái “lấy lòng” được đăm đai của nhà trai
thì ăn chắc là cô gái hỏi được chồng. Bên cạnh đó, nhà gái, với vai trò chủ động
“cưới chồng” cho cô gái, song, cô gái phải chấp nhận “gửi dâu” - về ở nhà chồng đến
khi nào lo đủ vật thách cưới và được nhà chồng chấp thuận về tư cách, phẩm giá thì
mới được nhà chồng trao còng, gả con cho. Còn nếu không, sẽ không cưới được
chồng, kể cả là đã có con...
Cô dâu và chú rể chạm tay vào vòng đồng lần cuối để nhận lời chúc phúc vợ chồng
hạnh phúc trọn đời.
Lễ hỏi chồng của đồng bào Ê Đê vẫn còn duy trì phổ biến hầu khắp các buôn làng Ê
Đê ở Đác Lắc hiện nay, minh chứng cho nét đẹp trong văn hóa truyền thống mẫu hệ
của đồng bào nơi đây, một nét sinh hoạt văn hóa hôn nhân vô cùng độc đáo của
đồng bào Ê Đê ở Tây Nguyên nói chung, Đác Lắc nói riêng.
• Tang ma:
Dân tộc thiểu số Ê đê là một trong 54 nhóm dân tộc ở Việt Nam, có đời sống văn
hóa, lễ hội rất phong phú và đa dạng, trong đó lễ bỏ mả của họ là một trong những lễ
hội rất đặc sắc. Nó được đánh giá là một lễ hội mang tính tổng hợp văn hóa nghệ
thuật nhuần nhuyễn và sinh động bậc nhất Tây Nguyên.
Lễ bỏ mả (Pthi atau, brư, muk atau…) của các dân tộc Tây Nguyên (Ê đê, Giarai,
Bana…) là một lễ hội lớn mang tính tang lễ mà người sống tổ chức để từ biệt người
chết, “tiễn” người chết về nơi cư trú vĩnh viễn (làng ma). Đây là dịp sinh hoạt văn hóa
cổ truyền với nhiều hoạt động như: hiến tế bằng súc vật, lễ cúng và chia của cải cho
người đã khuất, trình diễn âm nhạc, múa hát…
Theo phong tục của người Ê đê, từ một năm trở lên (có khi ba đến năm năm, hoặc
lâu hơn nữa), người chết (hồn chính) được tiễn đi một chuyến vĩnh viễn về buôn của
người chết để có khả năng phục sinh, nhập vào cơ thể sống khác. Có điều đặc biệt
là những người khi chết đều phải còn thân xác nguyên vẹn thì mới được làm lễ bỏ
mả.
Mả chưa đầy một năm, gia đình vẫn dùng mùng.
Do đó, lễ bỏ mả thường được tổ chức đúng một năm của người đã chết, gia đình có
thể sửa chữa mả theo ý muốn của gia đình và dòng tộc sao cho đẹp và chắc chắn
tùy theo khả năng của mỗi gia đình. Mái bằng ngói hay lá, cột bằng gỗ hay bê tông.
Nhưng kích thước thì giống nhau, có phần đất để chôn, có mái trước, mái sau, giống
như một căn nhà của người đang sống. Trong một năm đó, họ cũng giăng mùng,
treo võng và đem tấc cả những gì thân thuộc đối với họ để đặt cạnh mộ, mục đích để
họ tiêu dùng.
Chỉ sau khi làm lễ bỏ mả, người sống mới yên tâm rằng mình đã làm tròn bổn phận
với người đã khuất và người chết (tức linh hồn hay ma) mới có thể tái sinh vào kiếp
khác, tiếp tục một cuộc đời mới. Chính do ý nghĩa nhân sinh này mà lễ bỏ mả (hay lễ
bỏ ma) mặc dù mang hình thức tang lễ những lại là hội lễ lớn nhất, vui nhất. Nhưng
sau lễ đó, gia đình không làm bất cứ cái gì đến mả cả, không có đám giỗ hàng năm
cho người chết giống như người Kinh.
Để tổ chức được lễ bỏ mả, thì các nhà phải chuẩn bị đủ gạo, thịt, rượu, đồ dùng
cúng lễ nói chung rồi báo tin cho họ hàng, buôn làng tới dự. Phải có hàng chục
người chặt gỗ, đẽo tượng, làm nhà mả hàng tháng trời trước lễ bỏ mả và có khi lên
tới cả trăm người đến dự và ăn uống trong những ngày chính lễ. Tùy theo khả năng
gia đình mà sẽ tổ chức khác nhau cho các mả, có gia đình làm 3 – 4 con trâu bò
nhưng cũng có gia đình làm đến cả 10 con bò.
Trước khi bắt tay làm nhà mả, già làng phải làm lễ cúng gà, khấn ở nhà Rông và ở
mả. Người ta còn trồng cây chuối đầu và cuối mộ, thả gà nhỏ vào rừng, tượng trưng
cho linh hồn người chết tự do bay đi. Mọi thứ chuẩn bị xong xuôi thì lễ hội bắt đầu.
Ngày đầu tiên là ngày bỏ nhà mả cũ, dựng nhà mả mới. Gia chủ thịt lợn (trâu, bò),
cúng rượu. Cả buôn làng tới làm giúp, ăn uống, vui chơi như là làm việc nhà mình.
Nhà ai có rượu ché (rượu cần) thì mang theo cùng tham gia cùng gia đình. Tiệc
được tổ chức từ khoảng trưa cho đến xế chiều sau khi thức ăn được chuẩn bị sẵn từ
lúc sáng. Khi dựng xong nhà mả, cả nhà và họ hàng đến đó cúng. Thầy cúng ăn vận
nghiêm chỉnh, ngồi bên chén rượu cúng, ngoảnh mặt về phương Đông, đọc lời khấn
cầu hồn người chết rất lâm li, thống thiết.
Ngày hôm sau, mọi người tập họp tại nhà Rông rồi mới ra nhà mả. Gia chủ sẵn sàng
rượu, thịt để làm lễ to hơn. Đây là lễ cúng chính vĩnh biệt hồn người chết (từ nay hồn
đã về buôn của người chết để chờ dịp tái sinh): “Xin ma đừng gọi, đừng lại gần,
đừng thương yêu con cháu của ma nữa. Chúng tôi đã làm nhà mồ rồi, ché rượu
cúng đã đặt xuống mả rồi, con gà con đã được thả rồi… Chúng tôi đã bỏ ma rồi…”.
Rồi mọi người vào nhà mả đưa những người góa ra sông tắm, chải đầu, mặc áo
váy, khố mới cho họ rồi đưa họ về khu nhà mồ đang rộn ràng tiếng cồng chiêng và
nhịp chân múa nhảy. Từ nay, họ đã được giải phóng, đã không còn phải ràng buộc
gì với người đã chết nữa. Ai nấy đều vui vẻ, hồ hởi, mời, kéo những người góa vào
vòng múa vui của dân làng.
Lễ bỏ mả là một lễ hội gắn với việc tang nhưng lại vui vẻ, hào sảng như một ngày
hội. Bởi, theo quan niệm của đồng bào Tây Nguyên, càng sớm làm lễ bỏ mả thì linh
hồn người chết càng sớm được nhập vào trẻ sơ sinh mà quy về dương thế, sống với
đồng tộc. Hơn nữa, đây là dịp thể hiện trách nhiệm cộng đồng, gia đình, người thân
với người đã khuất. Và, một lý do nữa, chỉ sau khi đã làm lễ bỏ mả, thì vợ hoặc
chồng của người chết mới được tái giá. Rõ ràng, việc làm lễ ở đây không chỉ vì
người chết, mà còn vì người sống nữa. Đó là chưa kể những nhà mồ với tượng,
kiến trúc, điêu khắc, hội họa, trang trí, … là những tác phẩm nghệ thuật độc đáo và
quý giá, đang ngày càng được chú ý giữ gìn và bảo vệ.
-Trước kia:
Trước năm 1975, tại miền nam Việt Nam, trong văn bản hành chính của Việt Nam
Cộng hoà, người Ê Đê được gọi là người Raday (Rhade).
Truyền thuyết của người Êđê kể lại rằng: Một người thủ lĩnh (Krung) từ Ấn Độ tên là
Radaya (Y-Đê) đến xứ sở của công chúa mẹ Xứ Sở tên là Nagar (H-Gar). Radaya
đã chinh phuc được xứ sở của Nagar sau đó kết hôn với công Chúa mẹ Xứ sở
Nagar được phong làm Krung. Con cháu hâu duệ của họ được gọi là Anak Kudaya
Nagar sau này rút gọn âm lại thành Anak Đê Gar có nghĩa là con cháu của thủ lĩnh
Ấn Độ Kudaya( Y-Đê) với Công Chúa xứ sở Nagar (H-Gar). Đây là truyền thuyết khá
phổ biến ở cư dân bản địa Đông Nam Á để giải thích nguồn gốc cội nguồn.
Miền trung cao nguyên của Việt Nam là quê hương bản địa lâu đời của người Ê Đê.
Đây là nhóm dân tộc có nguồn gốc từ nhóm tộc người nói tiếng Mã Lai từ các hải
đảo Thái Bình Dương đã có mặt lâu đời ở Đông Dương.
-Hiện nay:
Một cộng đồng có xu hướng tương đối thống nhất ý thức dân tộc, cũng là một cộng
đồng dân tộc-tôn giáo khá rõ nét với hơn 70% dân số ảnh hưởng của đạo Tin Lành.
Các nhóm cư dân Ê đê nhận tự thân là Anak Aê Diê.
Người Êđê ở Việt Nam có dân số 331.194 người, cư trú tại 59 trên tổng số 63 tỉnh,
thành phố.
Người Ê Đê làm rẫy là chính, riêng nhóm Bíh làm ruộng nước theo lối cổ sơ, dùng
trâu dẫm đất thay việc cày, cuốc đất. Ngoài trồng trọt còn chăn nuôi, săn bắn, hái
lượm, đánh cá, đan lát, dệt vải.
Trong gia đình người Ê Đê, chủ nhà là phụ nữ theo đó của cải và đất đai sẽ được
truyền từ mẹ sang con gái, theo chế độ mẫu hệ.
Phần lớn người Ê Đê theo đạo Tin Lành.