Professional Documents
Culture Documents
Nguyễn Du là một thiên tài văn học. Ông có nhiều đóng góp to lớn và xuất sắc cho văn học nước nhà trên
nhiều phương diện về nội dung và nghệ thuật. Trong đó có thể kể đến “Truyện Kiều” – một trong những
kiệt tác hàng đầu của văn học dân tộc ở mọi thời đại. Viết “Truyện Kiều”, Nguyễn Du đã phơi bày hiện
thực xã hội phong kiến bất công, tàn bạo; đồng thời phản ánh những bi kich, nỗi khổ đau, bất hạnh của
con người, đặc biệt là người phụ nữ. Và một trong những bi kịch ấy là bi kịch tình yêu tan vỡ - thể hiện rõ
nét nhất, nổi bật nhất trong đoạn trích “Trao duyên” của “Truyện Kiều”. “Trao duyên” chính là bi kịch
mở màn cho cuộc đời truân chuyên của Thúy Kiều.
Cậy em em có chịu lời,
…
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
Mười hai câu đầu của đoạn trích nằm từ câu 723 đến câu 736 trong phần Gia biến và lưu lạc đã tái hiện
việc trao duyên giữa Thúy Kiều và Thúy Vân. Lúc này, tình yêu giữa Thúy Kiều và Kim Trọng đang tươi
đẹp thì Kim Trọng phải về Liêu Dương hộ tang chú. Trong khi đó tai họa đổ ập xuống gia đình Thúy
Kiều: nàng phải bán mình cho Mã Giám Sinh để lấy tiền cứu cha và em. Đêm cuối cùng trước ngày ra đi
theo Mã Giám Sinh, Thuý Kiều đã nhờ cậy Thuý Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng.
Nguyễn Du đã dựng lại chi tiết trao duyên thật sống động. Mở đầu đoạn trích là hai câu thơ nàng cậy nhờ
em mình. Trong lời nhờ cậy ấy, Kiều không nói ngay vào lí do, điều sẽ khiến em phật lòng, mà nàng lại
tạo không khí thân mật và thiêng liêng:
Cậy em em có chịu lời,
ĐỀ CƯƠNG NGỮ VĂN 10 HỌC KÌ II Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa. 1
Từ “cậy” được đặt lên đầu câu diễn tả hoàn cảnh khó thưa khó gửi của Thúy Kiều. Nàng dùng từ “cậy”
như một sự tin tưởng tuyệt đối, là sự trông mong tha thiết của Kiều đối với em. Từ “chịu” cho thấy sự nài
ép, bắt buộc trong lời nói của Kiều, buộc Vân phải miễn cưỡng chấp nhận mối duyên này. Vốn dĩ theo lễ
giáo phong kiến, Kiều là chị, Vân là phận em – làm gì có chuyện “lạy” chuyện “thưa” em như vậy?
Nhưng điều tưởng chừng như vô lí ấy lại thật hợp lí – Kiều đã đặt mình vào vai vế của kẻ chịu ơn. Cái
“lạy” ở đây là cái lạy hàm ơn: cảm ơn vì em đã thay chị trả tình trả nghĩa cho Kim Trọng. Mặt khác, Kiều
hiểu việc trao duyên, vốn thật éo le và ngang trái, chính là đã cướp đi quyền lựa chọn của Vân, cho nên
nàng mới lạy em – thay cho lời xin lỗi. Thông qua lời trao duyên ấy, Nguyễn Du đã bộc lộ hết cái sắc sảo,
thông minh và khéo léo trong lời ăn tiếng nói của nàng Kiều, đồng thời cho thấy sự thành công của ông
trên phương diện sử dụng từ ngữ một cách tinh vi và nhuần nhuyễn.
Kiều sau đó, đối với Vân như đang giãi bày về hoàn cảnh éo le của mình:
Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.
“Đứt gánh tương tư” – một thành ngữ đã mô tả đắc địa việc tình duyên dở dang, không trọn vẹn của Thúy
Kiều. “Đứt gánh” như bật lên cái bẽ bàng, đột ngột mà bất lực. “Keo loan” ở đây vốn là thứ keo được pha
từ máu chim loan dùng để nối dây cung, dây đàn. Đến với tác phẩm của Nguyễn Du, bằng sự sáng tạo của
một đại thi hào, hình ảnh “keo loan” đã ẩn dụ cho sự gắn kết diệu kì của một mối tơ duyên đứt gãy.
Nguyễn Du đã trân trọng ví Thúy Vân như chiếc keo loan – sẽ chắp nối lại mối tình Kim – Kiều đang
dang dở. Hai chữ “tơ thừa” như nhấn mạnh vào sự tội nghiệp của nàng Vân: nàng đang chắp vá cho mối
tình của chị, là “tơ thừa” trong mối tình của Kim – Kiều. Nếu Kiều mở đầu với Vân “… em có chịu lời”
một cách thiết tha thì đến đây nàng đã buông lời “mặc em” – trao gửi hoàn toàn, phó thác chuyện duyên
tình của mình cho Vân quyết định. Chỉ với chữ “mặc”, Thúy Kiều như buộc chặt Vân vào mối tình của
mình – làm sao Vân có thể chối từ?
Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kì,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.
Với người xưa, một mối tình thiêng liêng như Thúy Kiều – Kim Trọng thường được giấu kín trong lòng,
ít khi nào thổ lộ với người thứ ba. Vậy mà ở đây Kiều phải bộc lộ tất cả với Thúy Vân. Thúy Kiều trao
duyên khi còn yêu, mà lại là yêu say đắm. Tình duyên ấy không chỉ nhớ nhung tương tư mà đã ở mức độ
cao hơn: thề nguyền. Những kỉ niệm vui vẻ bên tình quân được thuật lại trong lời kể ngắn gọn mà chất
chứa đầy cảm xúc của Thúy Kiều. Điệp từ “khi” được lặp lại ba lần nhấn mạnh vào một mối tình đắm
say, mặn nồng, có thời gian dài lâu của nhân vật trữ tình. Thế nhưng đoạn tình cảm đầy hứa hẹn ấy đành
kết thúc vì một lí do mạnh hơn, sâu nặng hơn cả chữ “tình”: đó là chữ “hiếu”. Sóng gió của cơn gia biến
đã đẩy Kiều vào bước đường cùng, để đau lòng mà đặt tình với hiếu lên bàn cân, là cuộc đấu tranh không
khoan nhượng giữa con tim và lí trí. Bi kịch lắm, con người mới phải lựa chọn giữa hiếu và tình, phải hi
sinh một điều để giữ trọn vẹn điều còn lại. Dù có đau đớn, nàng vẫn chọn hi sinh tình cảm riêng tư vì
nghĩa sinh thành. Điều đó dẫn đến cùng là một sự lựa chọn hợp lí, bởi truyền thống đạo đức phương Đông
vốn xem trọng chữ hiếu. Nguyễn Du đặt nàng vào tình thế bất đắc dĩ ấy âu cũng vì mục đích nâng cao giá
trị con người và vẻ đẹp nhân cách của Kiều: biết đặt tình cảm chung lên trên tình cảm riêng.
Nếu sáu câu thơ trên là những lời “rào trước đón sau” của Kiều đối với Vân thì ở bốn câu tiếp theo, nàng
đã trực tiếp đưa ra lí do để thuyết phục em nhận lời:
ĐỀ CƯƠNG NGỮ VĂN 10 HỌC KÌ II Ngày xuân em hãy còn dài, 2
Xót tình máu mủ thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
Lí lẽ đầu tiên: Kiều đã viện đến tuổi trẻ của Vân. “Ngày xuân” ở đây ẩn dụ cho độ tuổi tác. Nhưng Kiều
cũng chỉ hơn Vân có vài tuổi, cũng đang độ như hoa mới nở, như trăng non mới mọc, vậy mà nàng lại nói
với em “Ngày xuân em hãy còn dài” – như thể nàng lớn tuổi hơn em rất nhiều. Có lẽ Kiều đang muốn
nhấn mạnh vào hai chữ “ngày xuân” theo một nghĩa khác: đó là tương lai rộng mở, là tương lai tốt đẹp.
Vậy là việc bán mình đã khiến tuổi xuân của Kiều chấm dứt – khiến nàng nghĩ rằng giờ đây chỉ còn Thúy
Vân mới xứng đáng với Kim Trọng. Lí lẽ thứ hai được cất lên đầy đau đớn và rưng rưng: tình chị em máu
mủ ruột thịt. Đây là lí lẽ quan trọng nhất, khôn ngoan nhất mà Kiều dùng để thuyết phục em nhận lời.
Trên hết giữa chị và em là tình máu mủ, vì tình máu mủ ai nỡ chối nhau? Và lí lẽ cuối cùng, Kiều đã nhắc
đến cái chết như một sự liệu chẳng lành. Vân hãy thay chị trả tình cho chàng Kim. Nghĩa của Vân chị
khắc sâu vào tâm cốt, tình của Vân làm chị ấm lòng nơi chín suối. Lời nhờ vả của Kiều vừa gợi lên sự bạc
mệnh của bản thân vừa khéo đề cao nghĩa cử của Thúy Vân.Việc sử dụng các thành ngữ “tình máu mủ”,
“lời nước non”, “thịt nát xương mòn”, “ngậm cười chín suối” kết hợp với cách nói trang trọng, văn hoa đã
khiến cho lời giãi bày của Thúy Kiều chạm đúng vào niềm thương cảm và lòng trắc ẩn của Thúy Vân.
Qua đó ta càng cảm phục sự tinh tế trong cách sử dụng ngôn từ và xây dựng hình tượng nhân vật của tác
giả Nguyễn Du.
Đoạn trích “Trao duyên” trước hết là tiếng nói cảm thông của tác giả đối với nỗi đau về tình yêu tan vỡ
của Thúy Kiều, sau đó là tiếng nói tố cáo xã hội kim tiền đã đẩy người con gái tài sắc vào kiếp bạc mệnh.
Nhưng “Trao duyên” cũng là khúc ca ca ngợi sự ứng xử văn minh và vẻ đẹp nhân cách của nàng Kiều.
Cái cách nàng trao duyên cho em, sự nhún mình của nàng trước em: “Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”,
cho ta thấy một tầm văn hóa cao trong ứng xử. Rằng nàng đã tôn trọng em biết bao, nàng hiểu sự khó xử
của em trước tình cảnh chị biết nhường nào.
Với thể thơ lục bát của dân tộc, Nguyễn Du đã tạo nên nhịp điệu của tâm trạng, của những nỗi đau đớn
trong suy nghĩ của Kiều khi trao duyên. Bên cạnh đó, các biện pháp ẩn dụ, điệp từ, vận dụng nhuần
nhuyễn các thành ngữ đã xây dựng thành công diễn biến tâm lí phức tạp, giằng xé, đau khổ của Kiều qua
những lời độc thoại nội tâm khéo léo.
Mỗi lần đọc đoạn trích này cũng như mỗi lần đọc các thi phẩm của Nguyễn Du, tôi đều bắt gặp cái tài, cái
tâm của một nghệ sĩ – một nhân cách lớn. Mỗi lời thơ đều gieo vào lòng tôi những cảm xúc không thể nào
quên về cái hay, cái đẹp cũng như cái tình của ông. Gặp lại “Truyện Kiều” tôi thấy cái thổn thức của
Nguyễn Du, gặp lại “Trao duyên” tôi thấy một tâm trạng khổ đau của nàng Kiều trong tiếng kêu ai oán
động cả đất trời!
ĐỀ 2: PHÂN TÍCH ĐOẠN TRÍCH “CHÍ KHÍ ANH HÙNG” – NGUYỄN DU.
Nguyễn Du là một thiên tài văn học. Ông có nhiều đóng góp to lớn và xuất sắc cho văn học nước nhà trên
nhiều phương diện về nội dung và nghệ thuật. Trong đó có thể kể đến “Truyện Kiều” – một trong những
kiệt tác hàng đầu của văn học dân tộc ở mọi thời đại. Viết “Truyện Kiều”, Nguyễn Du đã tố cáo hiện thực
xã hội phong kiến bất công, tàn bạo; đồng thời đề cao tình yêu tự do, khát vọng công lý và vẻ đẹp phẩm
chất con người. Nếu khát vọng tình yêu tự do được Nguyễn Du gửi gắm vào nhân vật Thúy Kiều thì khát
vọng về công lý ông lại gửi gắm vào nhân vật Từ Hải – một con người chí khí, một con người siêu phàm.
Đoạn trích “Chí khí anh hùng” là một đoạn trích tiêu biểu về chí khí của người anh hùng Từ Hải.
Nửa năm hương lửa đương nồng,
ĐỀ CƯƠNG NGỮ VĂN 10 HỌC KÌ II … 3
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.
Đoạn trích (nằm từ câu 2213 đến câu 2230 trong phần Gia biến và lưu lạc) là sáng tạo riêng của Nguyễn
Du so với cốt truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Khi đưa Từ Hải vào như một nét sáng tạo, tác giả đã làm
sáng cái ý chí và hoài bão lớn lao của các bậc anh hùng thời bấy giờ. Từ Hải là nhân vật của chính nghĩa
đã đưa đến với cuộc đời Kiều, thắp sáng cuộc đời Kiều sau khi nàng trở lại lầu xanh lần thứ hai. Cả hai đã
đến với nhau trong một tình cảm gắn bó của đôi tri kỉ. Thế nhưng, đương lúc tình cảm giữa hai người
nồng đượm nhất, Từ Hải lại ‘thoắt đã động lòng bốn phương’, quyết tâm mưu đồ việc lớn.
Bốn câu thơ mở đầu đã vẽ nên khung cảnh Từ Hải chia tay Thúy Kiều, qua đó ta thấy rõ khát vọng lên
đường của người anh hùng có chí lớn:
Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong.
“Nửa năm” là khoảng thời gian chung sống của Từ Hải và Thúy Kiều. Thời gian ấy chưa đủ để dập tắt
“hương lửa” nồng nàn của “Trai anh hùng gái thuyền quyên”. Vậy nhưng đứng trước tình cảm lứa đôi đầy
những cám dỗ ấy, Từ vẫn chọn vẫy vùng giữa trời đất cao rộng. Ở Từ toát lên một khí lực mạnh mẽ, từ
dáng điệu cho đến hành động, đó là cái “mộng lớn”, là cái “phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể”. Hiểu thấu
được khát khao ấy, Nguyễn Du đã trân trọng gọi nhân vật của mình bằng hai tiếng “trượng phu”. Chữ
“thoắt” thể hiện sự thay đổi mau chóng trong suy nghĩ và quyết định của chàng. Từ có thể làm những việc
kinh thiên động địa mà không ai dám làm và cũng có thể rũ bỏ những điều tốt đẹp mà không ai dám bỏ.
Vì thế đang khi “hương lửa đương nồng” mà “thoắt đã động lòng bốn phương” là hợp lí. Cụm từ ước lệ
“động lòng bốn phương” có nghĩa là thấy trong lòng náo nức cái chí tung hoành khắp bốn bể. Đối với con
người ấy, mái ấm gia đình dường như bé hẹp sao nhốt được hoài bão? Câu thơ thứ ba miêu tả hành động
nhìn ra xa, đó không phải là cái nhìn bình thường mà là “trông vời” – cái nhìn ẩn chứa sự sáng suốt và
suy nghĩ phi thường. Bằng những từ láy, từ biểu cảm chỉ độ rộng độ cao, Nguyễn Du đã xây dựng một Từ
Hải độc lập, song song và sánh ngang với hình ảnh của đất trời, vũ trụ. Với chí hướng “động lòng bốn
phương”, Từ quyết một mình một ngựa một thanh gươm lên đường. Đó là một cuộc chia tay không rượu
tiễn biệt, không thơ biệt li, không cả những lời rào trước đón sau, không băn khoăn lo lắng, hay bịn rịn
luyến lưu.
Trong cảnh tiễn biệt ngày hôm ấy, Thúy Kiều khẩn thiết xin được cùng đi nhưng bên ngoài nàng vẫn hiện
lên là một người phụ nữ điềm đạm, hiểu biết:
Nàng rằng: “Phận gái chữ tòng,
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”.
Cái hiểu của Kiều ở đây chính là nàng không cản Từ Hải. Nàng chỉ xin đi theo, phần vì không muốn
giường đơn gối chiếc trong căn nhà lạnh lẽo, phần vì muốn sẻ chia, gánh vác cùng chàng. Trong lời nói
của Kiều ta thấy rõ sự thông minh, khéo léo của nàng khi viện đến chữ “tòng”, viện đến đạo Nho truyền
thống: “Xuất giá tòng phu”. Vốn dĩ chữ “tòng” không thích hợp để nhắc đến ở đây bởi Thúy Kiều và Từ
Hải đâu đã là vợ chồng? Nàng viện đến chữ “tòng” như một cái cớ để trói buộc Từ Hải cũng như khẳng
định tình cảm sâu nặng của mình đối với chàng. Nay Từ ra đi thì phải mang theo nàng trên cương vị là
một người vợ: đi theo để chăm sóc, để sẻ chia những khó khăn cùng chồng. Đó là nghĩa vụ, là trách
nhiệm của một người vợ.
Thế nhưng trái với mong mỏi của nàng, Từ ngay lập tức đáp lại. Trong lời đáp đó, ta thấy có lời trách, lời
hứa
ĐỀcũng là lời
CƯƠNG từ chối
NGỮ VĂNrất
10khéo
HỌC léo:
KÌ II 4