You are on page 1of 11

CHUYÊN ĐỀ 13: “Chiếc lược ngà” – Nguyễn Quang Sáng.

Theo admin Học văn lớp 9 – CH - https://www.facebook.com/hocvanlop9

* Khái quát về tác giả, tác phẩm:


- Nguyễn Quang Sáng là một trong những nhà văn chuyên viết về cuộc sống và con
người Nam Bộ trong hai cuộc kháng chiến cũng như trong hòa bình.
- Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” được viết năm 1966 ( khi tác giả hoạt động ở chiến
trường Nam Bộ ) và được đưa vào tập truyện ngắn cùng tên.
- Truyện thể hiện thật cảm động tình cha con sâu nặng và cao đẹp trong cảnh ngộ éo le
của chiến tranh.

Đề bài: Tình cảm gia đình trong những năm tháng chiến tranh qua đoạn trích
“Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng.

I. Mở bài:
Trong đời sống tinh thần của con người, gia đình và tình cảm gia đình là những điều
thiêng liêng nhất. Trong những tháng năm chiến tranh khốc liệt, trong những cuộc chia li
đầy nước mắt, thì tình cảm thiêng liêng ấy lại như được nhân lên gấp bội. Chiến tranh đã
làm cho bao gia đình Việt Nam phải lí tán khiến mẹ mất con, vợ mất chồng, con sinh ra
không được biết mặt cha. Những tình cảm đó và đặc biệt là tình phụ tử thiêng liêng sâu
nặng đã được thể hiện một cách cảm động trong truyện “Chiếc lược ngà” của nhà văn
Nguyễn Quang Sáng
II. Thân bài:
1. Khái quát:
- Câu chuyện kể về cha con ông Sáu và bé Thu sau hơn tám năm xa cách mới có dịp gặp
lại nhau, nhưng Thu đã không nhận ra cha mình chỉ vì một vết thẹo dài trên má, thay vào
đó là sự vô cảm, thờ ơ như căm ghét ông. Đến lúc em nhận ra và biểu lộ tình cảm thắm
thiết thì ông Sáu phải lên đường trở về khu căn cứ. Ở khu căn cứ, ông Sáu dồn tất cả tình
yêu thương và mong nhớ đứa con vào việc làm cây lược ngà để tặng con.Nhưng ông đã
hi sinh khi chưa kịp trao món quà ấy cho con.
- Đọc qua truyện ngắn này, ta mới thấy được tình cảm gia đình, cụ thể là tình cảm cha
con thiêng liêng và cao đẹp biết nhường nào. Trong hoàn cảnh khó khăn nhất đó là chiến
tranh, tình cảm ấy vẫn không biến mất mà vẫn còn ẩn chứa trong mỗi con người. Ta cũng
thấy được vẻ đẹp của các thế hệ con người Việt Nam trong thử thách, thương đau.
2. Tình cảm ông Sáu dành cho con:
- Ông Sáu cũng như bao người nông dân Việt Nam khác, nghe theo tiếng gọi thiêng liêng
của Tổ quốc, ông đành bỏ lại sau lưng những gì thân thương nhất: ruộng nương, nhà cửa,
vợ con. Xa nhà suốt tám năm, từng nỗi nhớ lại càng lớn thêm và ngày càng chồng chất:
Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ anh rau muống nhớ cà dầm tương.
Nhớ quê, nhớ nhà, nhớ tình làng nghĩa xóm, và ông nhớ da diết đứa con gái của mình.
Được về thăm nhà sau bao năm ở chiến khu, khao khát đốt lòng ông Sáu là được gặp con,
được nghe con gọi tiếng ba, được sống trong tình cha con mà bấy lâu nay ông chưa được
sống. Vì thế, về gần tới nhà, thoáng thấy bóng con,không chờ xuồng cập bến, ông nhón
chân nhảy thót lên xô chiếc xuồng tạt ra.Ông bước vội vàng những bước dài. Cái tiếng
gọi ông phải kìm nén bao lâu nay bỗng bật ra thật cảm động, làm người đọc thấy nghẹn
ngào:
- Thu!Con.
Ngược lại với điều ông mong muốn, đứa con gái ngơ ngác, hốt hoảng rồi vụt chạy và kêu
thét lên khiến người cha đau khổ, hai tay buông thõng như bị gãy. Rồi suốt ba ngày nghỉ
phép , ông không dám đi đâu xa, chỉ quanh quẩn gần con. Song, ông càng xích lại gần nó
càng lùi xa; ông càng khao khát được nghe tiếng “ba” từ lòng con, nó càng không gọi...
Bị con cự tuyệt, ông Sáu đau khổ không khóc được phải cười.
- Trước giờ phút lên đường chia tay con, ông muốn ôm con, nhưng lại sợ con không nhận
đành chỉ nhìn. Song chính trong lúc này, tình cảm dành cho người cha ở bé Thu òa ra
mãnh liệt. Nó cất tiếng gọi “ba”, ông xúc động đến phát khóc và “không muốn cho con
thấy mình khóc, anh Sáu một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt, rồi hôn lên mái
tóc của con”. Người chiến sĩ ấy nước mắt đã khô cạn nơi chiến trường,giờ đây là những
giọt nước mắt hiếm hoi – nước mắt của niềm hạnh phúc và tình cha con. Thương con,
chia tay con, ông Sáu hứa sẽ mua cho con cây lược.
- Tình cảm của ông Sáu đối với con còn được nhà văn thể hiện rất cảm động khi ông ở
khu căn cứ. Nỗi day dứt, ân hận ám ảnh ông suốt nhiều ngày là việc ông đã đánh con khi
nóng giận. Rồi lời dặn của con: “Ba về ba mua cho con một cây lược nghe ba”đã thôi
thúc ông nghĩ đến việc làm cho con một cây lược bằng ngà. Làm cây lược trở thành bổn
phận của người cha, thành tiếng gọi cầu khẩn của tình yêu thương con. Kiếm được khúc
ngà voi, ông Sáu hớn hở như một đứa trẻ được quà và ông dành hết tâm trí, công sức vào
việc làm ra cây lược. Hãy nghe đồng đội của ông kể lại: “Những lúc rỗi, anh cưa từng
chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc”. Phải chăng, bao nhiêu
tình yêu thương con ông dồn vào việc làm cây lược ấy? Rồi ông gò lưng tỉ mẩn, khắc
từng nét chữ lên sống lưng lược: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”.Cây lược ấy, dòng chữ
ấy là tình yêu, là nỗi nhớ thương, sự ân hận của ông đối với đứa con gái. Những lúc rỗi
cũng như đêm đêm nhớ con ông thường lấy cây lược ra ngắm ngía, rồi mài lên tóc cho
cây lược thêm bóng, thêm mượt. Làm như vậy, có lẽ ông không muốn con ông bị đau khi
chải lược lên tóc. Yêu con, ông Sáu yêu từng sợi tóc của con. Người đọc cảm động trước
tấm lòng của người cha ấy. Lòng yêu con đã biến người chiến sĩ thành một nghệ nhân –
nghệ nhân chỉ sáng tạo ra một tác phẩm duy nhất trên đời – chiếc lược ngà. Cho nên,cây
lược ngà đã kết tinh trong nó tình phụ tử mộc mạc, sâu xa mà đơn sơ, giản dị.
- Làm được lược cho con, ông Sáu mong được gặp con, được tận tay chải mái tóc con.
Nhưng rồi, một tình cảnh đau thương lại đến với cha con ông Sáu: trong một trận càn lớn
của quân Mỹ ngụy, ông Sáu bị một viên đạn bắn vào ngực. “Trong giờ phút cuối cùng,
không còn đủ sức trăng trối lại điều gì, hình như chỉ có tình cha con là không thể chết
được”, tất cả tàn lực cuối cùng chỉ còn cho ông làm một việc “đưa tay vào túi, móc cây
lược” đưa cho người bạn chiến đấu. Đó là điều trăng trối không lời nhưng nó thiêng liêng
hơn cả những lời di chức. Nó là sự ủy thác, là ước nguyện cuối cùng, ước nguyện của
tình phụ tử. Và bắt đầu từ giây phút ấy, cây lược của tình phụ tử đã biến người đồng đội
của ông Sáu thành một người cha thứ hai của bé Thu.
3. Tình cảm bé Thu dành cho cha:
- Tình yêu của bé Thu đối với cha được thể hiện thật đặc biệt. Gặp lại con sau nhiều năm
xa cách với bao nỗi nhớ thương nên ông Sáu không kìm được nỗi vui mừng trong phút
đầu nhìn thấy con. Nhưng thật trớ trêu, đáp lại sự vồ vập của người cha, bé Thu lại tỏ ra
ngờ vực, lảng tránh và ông Sáu càng muốn gần con thì đứa con lại càng tỏ ra lạnh nhạt,
xa cách. Tâm lí và thái độ ấy của Thu đã được biểu hiện qua hàng loạt các chi tiết mà
người kể chuyện quan sát và thuật lại rất sinh động.
+ Thoạt đầu, khi thấy ông Sáu vui mừng vồ vập nhận bé Thu là con, Thu tỏ ra lảng tránh
và lạnh nhạt, xa cách. Người đọc tự đặt ra cho mình câu hỏi: Tại sao bé Thu không nhận
ra ông Sáu, không nhận ra cha mình?Suốt mấy ngày ông Sáu ở nhà, bé Thu hoàn toà n
lạnh lùng trước tình cảm vồ vập của người cha. Ông Sáu càng xích lại gần, bé Thu càng
lùi xa. Ông Sáu càng yêu thương, bé Thu càng lảng tránh. Bé Thu nhìn cha với cặp mắt
xa lạ và cảnh giác, dứt khoát không chịu kêu tiếng “ba” mà chỉ nói trổng. Đó phải c hăng
là sự ngây thơ của một đứa bé đầy cá tính?
+ Ở bé Thu còn là tính gan lì khi mà mọi người thân đã hết lòng khuyên nhủ, tạo tình thế
để bé nhận cha, nhưng đều thất bại. Khi mẹ vắng nhà mà nồi cơm trên bếp đang sôi, bé
Thu không thể nhấc nổi nồi cơm to như thế mà chắt nước được. Cái tình thế ấy làm người
đọc tưởng chừng bé Thu phải chịu thua, không thể chiến tranh lạnh được nữa. Vậy mà
thật ngoài sức tưởng tượng, Thu vẫn không cất lên cái tiếng mà ba nó mong “Nó loay
hoay rồi nhón gót lấy cái vá múc ra từng vá nước,miệng lẩm bẩm điều gì không rõ”. Bé
Thu làm tác giả phải thốt lên: “Con bé đáo để thật”. Sự bướng bỉnh, ngang ngạnh ấy còn
được thể hiện khi Thu hất cái trứng cá mà ba nó gắp cho ra khỏi chén cơm. Đây là một
tình huống mang tính kịch tính cao. Ông Sáu không thể chịu đựng nổi nữa trước thái độ
lạnh lùng của đứa con gái mà ông hết mực yêu thương, ông đã nổi giận và chẳng kịp suy
nghĩ , ông vung tay đánh vào mông nó. Bị ông Sáu đánh, Thu không khóc, gắp lại trứng
cá rồi bỏ sang nhà ngoại, lúc đi còn cố ý khua dây lòi tói kêu rổn rảng.
+ Những thái độ ấy làm người cha, người bạn của cha và cả người đọc đau lòng. Còn gì
đau lòng hơn bằng người cha giàu lòng yêu thương con lại bị chính đứa con ấy kiên quyết
chối bỏ. Nhưng sự ương ngạnh của Thu không hoàn toàn đáng trách. Trong hoàn cảnh xa
cách và trắc trở của chiến tranh, nó còn quá nhỏ để có thể hiểu được những tình thế éo le,
khắc nghiệt của đời sống và người lớn cũng không ai kịp chuẩn bị cho nó đón nhận
những khả năng bất thường.Chính thái độ ngang ngạnh , quyết liệt của bé Thu lại thể hiện
sâu sắc tình cảm yêu thương dành cho ba. Đơn giản Thu không nhận ra cha là vì người tự
nhận là ba kia không hề giống người cha mà em đã thấy trong bức ảnh. Ba em trong ảnh
không có vết sẹo dài trên mặt như thế. Cô bé không tin, thậm chí là ngờ vực.Không ai
tháo gỡ được thắc mắc thầm kín trong lòng của Thu, nghĩa là bé Thu chỉ dành tình cảm
cho người cha duy nhất trong bức ảnh. Sự bướng bỉnh của Thu phải chăng còn là mầm
sâu kín, sau này làm nên tính cách cứng cỏi ngoan cường của cô giao liên kiến định có
lập trường.
- Sự nghi ngờ của Thu được giải tỏa khi nghe bà ngoại giải thích vì sao ba lại có vết thẹo
dài trên má. Nghe những điều ấy, “nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như
người lớn”. Bởi thế, tình yêu ba trong Thu đã trỗi dậy mạnh liệt vào cái giây phút bất ngờ
nhất, giây phút ông Sáu lên đường. Cái tiếng “ba” mà ông Sáu đã chờ đợi từ lâu bất ngờ
vang lên “Nhưng thật lạ lùng, đến lúc ấy, tình cha con như bỗng nổi dậy trong người nó,
đến lúc không ai ngờ đến thì nó bỗng kêu thét lên: - Ba...a...a...ba! Tiếng kêu của nó như
tiếng xe, xé sự im lặng, xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng ba nó cố
đè nén trong bao nhiêu năm nay như vỡ tung từ đáy lòng nó, nó vừa kêu, vừa chạy xô tới,
nhanh như một con sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó… Nó vừa
ôm chặt lấy cổ ba nó vừa nói trong tiếng khóc:- Ba!Không cho ba đi nữa!Ba ở nhà với
con!” Tình cảm của đứa con với ba được thể hiện một cách mãnh liệt, mạnh mẽ, cuống
quýt, hối hả và có xen lẫn phần hối hận. Đó là những cảm xúc đã dồn nén từ lâu bỗng vỡi
òa ra: “Ba bế nó lên. Nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc,hôn cổ, hôn vai, và hôn cả vết
thẹo dài bên má của ba nó nữa”. Bà con và người kể chuyện cũng như người đọc không
thể kìm được nỗi xúc động như có ai đang nắm chặt tim mình bởi vì cái éo le của tình cha
con ở đây. Lúc cha con nhận nhau lại cũng chính là lúc người cha phải ra đi. Sự níu kéo
của đứa con càng khắc nhấn sự éo le của chiến tranh: “Con bé hét lên, hai tay nó siết chặt
lấy cổ, chắc nó nghĩ hai tay không thể giữ được ba nó, nó dang cả hai chân rồi câu chặt
lấy ba nó và đôi vai nhỏ bé của nó run run”. Những nỗ lực của Thu không giữ được ba
nó. Ông Sáu vẫn phải ra đi dù giây phút cha con nhận nhau thật ngắn ngủi! Đó là kết thúc
cho một cuộc gặp gỡ cảm động và thật thiêng liêng.
- Qua cuộc gặp gỡ ấy, ta thấy Nguyễn Quang Sáng tuy không đề cập đến chiến tranh
nhưng chiến tranh vẫn luôn hiện lên qua vết thẹo của ông Sáu. Kết quả của tám năm đi
lính xa nhà của ông Sáu cũng là nguyên nhân khiến bé Thu không nhận ra cha mình. Giá
như không có vết thẹo ấy thì bé Thu đã được hưởng ba ngày tuyệt vời trong tình yêu
thương của cha mình. Nhưng nếu không có vết thẹo ấy, tình cảm gia đình cũng không
được thử thách và bộc lộ lên được, tình cảm cha con vì thế đã trở nên thiêng liêng cao
đẹp hơn trong tình cảnh chiến tranh.
4. Đánh giá về nghệ thuật:
Nguyễn Quang Sáng đã thực sự thành công trong việc xây dựng cốt truyện chặt chẽ, lựa
chọn tình huống bất ngờ mà tự nhiên, hợp lí,miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật tinh tế và
sâu sắc, nhất là đối với nhân vật bé Thu. Có thể nói rằng, với một tâm hồn nhạy cảm, một
trái tim nhân hậu, một tấm lòng chan chứa yêu thương, nhất là đối với trẻ em, Nguyễn
Quang Sáng dường như đã cảm nhận đến tận cù ng những biểu hiện tình cảm của nhân vật
để miêu tả một cách sinh động và tinh tế. Ngoài ra, tác giả cũng rất thành công trong việc
lựa chọn ngôi kể và ngôn ngữ lời thoại mang đậm chất địa phương Nam Bộ,... đem đến
cho người đọc nhiều xúc động. Tất cả đã góp phần tạo nên sức thuyết phục,hấp dẫn cho
chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
III. Kết bài:
“Chiếc lược ngà” là một câu chuyện cảm động và rất chân thực của Nguyễn Quang Sáng.
Câu chuyện về nhân dân yêu nước và anh dũng. Câu chuyện về tình cha con bất tử. Bằng
một sự cảm nhận chân thực về tình cảm gia đình, tình yêu quê hương đất nước trong
chiến tranh, ông đã gợi lên niềm tự hào về phẩm giá con người, nét đẹp về tình cảm, về
tâm hồn của con người Việt Nam trong thương đau. Thật vậy, trên mảnh đất này, ở mỗi
gia đình, mỗi thế hệ, mỗi con người những năm tháng đã qua cũng có rất nhiều tình cảm
cao đẹp thiết tha khác mà ta cần phải trân trọng, giữ gìn và vun đắp.

Đề bài: Cảm nhận về nhân vật bé Thu trong truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của
Nguyễn Quang Sáng
Có một nhà văn đã nói rằng : "Không có câu chuyện cổ tích nào đẹp bằng chính cuộc
sống viết ra". Cuộc chiến tranh chống Mĩ của dân tộc ta với biết bao câu chuyện đã trở
thành huyền thoại được các nhà văn ghi lại như những câu chuyện cổ tích hiện đại. Trong
số ấy phải kể đến "Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng. Nhân vật bé Thu trong
truyện đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc về tình thương cha mãnh
liệt và có cá tính mạnh mẽ.

Ra đời năm 1966, những năm tháng gian khổ, đau thương nhất của đồng bào Nam bộ
trong 30 năm chiến tranh, “Chiếc lược ngà” được kể lại qua sự chứng kiến của bác Ba,
người đồng đội của anh Sáu. Người đã lặng lẽ dõi theo từ đầu đến cuối câu chuyện cảm
động của cha con anh Sáu- bé Thu. Qua sự quan sát tinh tế, sâu sắc của bác Ba, chúng ta
mới thấm thía hết nỗi đau của người dân Nam bộ trong chiến tranh và sức mạnh của tình
cha con thiêng liêng, bất tử.

Bé Thu trong câu chuyện, cũng như bao cô bé miền Nam khác đều thiếu thốn tình cha từ
nhỏ do cuộc chiến tranh. Khi anh Sáu ra đi, em chưa đầy một tuổi, tám năm trời, cha con
em chỉ biết nhau qua hai tấm ảnh. Lần về phép ba ngày của anh Sáu là cơ hội hiếm hoi để
ba con Thu gặp gỡ nhau, bày tỏ tình phụ tử. Nhưng nhà văn lại đặt bé Thu vào một tình
huống đầy éo le: vì một sự hiểu lầm trẻ con, Thu không chịu nhận anh Sáu là ba, đến lúc
nhận ra thì cũng là giây phút ba em lên đường tập kết. Và lần gặp mặt ấy, là lần gặp mặt
đầu tiên, duy nhất, cuối cùng của cha con em.

Tuy nhiên, từ tình huống truyện éo le ấy, người đọc vẫn nhận ra đ ặc điểm riêng, cá tính
riêng của nhân vật bé Thu: một cô bé tám tuổi bướng bỉnh nhưng dễ thương và đặc biệt
có tình yêu ba sâu sắc, mãnh liệt. Tình yêu ấy được thể hiện trong hai hoàn cảnh trái
ngược nhau, trước và sau khi nhận ra ba.

Lúc chưa chịu nhận anh Sáu là ba, Thu là một cô bé trẻ con, bướng bỉnh và đáo để đến
nỗi làm anh Sáu đau lòng vì thái độ khước từ tình thương ba dành cho em. Phút đầu tiên
hai ba con gặp mặt, trái ngược với nỗi mong nhớ, sự sốt ruột và suy nghĩ của anh Sáu, bé
Thu vụt chạy đi, nét mặt đầy sợ hãi kêu “má, má” để lại anh Sáu đứng một mình “nhìn
theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai cánh tay
buông xuống như bị gãy”. Trong ba ngày anh Sáu ở nhà, anh không dám đi đâu vì muốn
ở bên con, vỗ về, chăm sóc và bù đắp sự thiêu thốn trong 8 năm qua cho nó nhưng bé
Thu lại tỏ ra cứng đầu, không chịu nhận anh, cũng không chịu gọi anh một tiếng “ba” dù
chỉ một lần. Nhà văn đã xây dựng một loạt các chi tiết để miêu tả tâm lí, thái độ rất trẻ
con, cố chấp của bé Thu. Khi má bắt kêu ba vô ăn cơm, doạ đánh để cô bé gọi ba một
tiếng, Thu vẫn chỉ nói trống không “vô ăn cơm! cơm chín rồi”, “con kêu rồi mà người ta
không nghe”. Hai tiếng “người ta” mà Thu thốt lên làm anh Sáu đau lòng đến mức
“không khóc được, chỉ khe khẽ lắc đầu cười”. Thậm chí, ngay cả khi bị má đặt vào một
hoàn cảnh khó khăn để buộc Thu gọi anh Sáu một tiếng ba là chắt nước nồi cơm to đang
sôi, Thu cũng lại nói trống không “cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái”. Sự im lặng của anh
Sáu và cả sự gợi ý của bác Ba đều không thể làm cô bé gọi tiếng “ba” đơn sơ, giản dị.
Tiếng gọi mà mỗi đứa trẻ đều ghi nhớ và bập bẹ lần đầu tiên trong cuộc đời mình. Đỉnh
điểm của sự kiên quyết chối từ tình yêu thương của anh Sáu trong bé Thu là chi tiết cái
trứng cá trong bữa cơm gia đình. Bằng lòng thương con của người cha, anh Sáu gắp cái
trứng cá ngon nhất vào chén cơm của Thu nhưng con bé bất thần hất nó ta khỏi chén
cơm. Nỗi đau khổ trong ba ngày nén chịu trào lên, anh Sáu đánh con, Thu không khóc,
lầm lì bỏ trứng cá lại vào chén cơm và bỏ sang nhà bà ngoại, lúc đi còn cố ý khua dây
xuòng cho thật to. Những chi tiết bình thường mà tinh tế này chứng tỏ nhà văn rất thấu
hiểu tâm lí trẻ em. Trẻ con vốn rất thơ ngây nhưng cũng đầy cố chấp, nhất là khi chúng
có sự hiểu lầm, chúng kiên quyết chối từ tình cảm của người khác mà không cần cân
nhắc, nhất là với một cô bé cá tính, bướng bỉnh như Thu. Người đọc nhiều khi thấy giận
em, thương cho anh Sáu. Nhưng thật ra em vẫn là cô bé dễ thương. Sự ương ngạnh của
Thu không hoàn toàn đáng trách. Trong hoàn cảnh xa cách và trắc trở của chiến tranh, nó
còn quá nhỏ để có thể hiểu được những tình thế éo le, khắc nghiệt của đời sống và người
lớn cũng không ai kịp chuẩn bị cho nó đón nhận những khả năng bất thường. Chính thái
độ ngang ngạnh , quyết liệt của bé Thu lại thể hiện sâu sắc tình cảm yêu thương dành cho
ba. Đơn giản Thu không nhận ra cha là vì người tự nhận là ba kia không hề giống người
cha mà em đã thấy trong bức ảnh. Ba em trong ảnh không có vết sẹo dài trên mặt như thế.
Cô bé không tin, thậm chí là ngờ vực. Không ai tháo gỡ được thắc mắc thầm kín trong
lòng của Thu, nghĩa là bé Thu chỉ dành tình cảm cho người cha duy nhất trong bức ảnh.
Sự bướng bỉnh của Thu phải chăng còn là mầm sâu kín, sau này làm nên tính cách cứng
cỏi ngoan cường của cô giao liên kiến định có lập trường.

Sự nghi ngờ của Thu được giải tỏa khi nghe bà ngoại giải thích vì sao ba lại có vết thẹo
dài trên má. Nghe những điều ấy, “nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như
người lớn”. Bởi thế, tình yêu ba trong Thu đã trỗi dậy mạnh liệt vào cái giây phút bất ngờ
nhất, giây phút ông Sáu lên đường. Cái tiếng “ba” mà ông Sáu đã chờ đợi từ lâu bất ngờ
vang lên “Nhưng thật lạ lùng, đến lúc ấy, tình cha con như bỗng nổi dậy trong người nó,
đến lúc không ai ngờ đến thì nó bỗng kêu thét lên: - Ba...a...a...ba! Tiếng kêu của nó như
tiếng xe, xé sự im lặng, xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng “ba” nó
cố đè nén trong bao nhiêu năm nay như vỡ tung từ đáy lòng nó”. Tiếng gọi thân thương
ấy đứa trẻ nào cũng gọi đến thành quen nhưng với cha con Thu là nỗi khát khao của 8
năm trời xa cách thương nhớ. Đó là tiếng gọi của trái tim, của tình yêu trong lòng đứa bé
8 tuổi mong chờ giây phút gặp ba. Nó vừa kêu, vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc,
nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó. Nó vừa ôm chặt lấy cổ ba nó vừa
nói trong tiếng khóc:- Ba!Không cho ba đi nữa!Ba ở nhà với con!”.Tình cảm con với ba
được thể hiện một cách mãnh liệt, mạnh mẽ, cuống quýt, hối hả và có xen lẫn phần hối
hận. Đó là những cảm xúc đã dồn nén từ lâu bỗng vỡ òa ra: “Ba bế nó lên. Nó hôn ba nó
cùng khắp. Nó hôn tóc,hôn cổ, hôn vai, và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa”. Bà
con và người kể chuyện cũng như người đọc không thể kìm được nỗi xúc động như có ai
đang nắm chặt tim mình bởi vì cái éo le của tình cha con ở đây. Lúc cha con nhận nhau
lại cũng chính là lúc người cha phải ra đi. Sự níu kéo của đứa con càng khắc nhấn sự éo
le của chiến tranh: “Con bé hét lên, hai tay nó siết chặt lấy cổ, chắc nó nghĩ hai tay không
thể giữ được ba nó, nó dang cả hai chân rồi câu chặt lấy ba nó và đôi vai nhỏ bé của nó
run run”. Những nỗ lực của Thu không giữ được ba nó. Ông Sáu vẫn phải ra đi dù giây
phút cha con nhận nhau thật ngắn ngủi! Xót thương thay cho Thu bởi em đâu hiểu rằng
cuộc gặp gỡ đầu tiên này cũng là lần cuối cùng. Ba em đã hi sinh trong một trận càn.
Chứng kiến những biểu hiện tình cảm ấy trong cảnh ngộ cha con ông Sáu phải chia tay,
có người không cầm được nước mắt và người kể chuyện thì cảm thấy như có bàn tay ai
nắm lấy trái tim mình.
Xuyên suốt đoạn trích, trong hai hoàn cảnh và hai cách ứng xử hoàn toàn khác nhau,
nhưng thực chất chỉ là một tấm lòng yêu cha sắt son của bé Thu – một em bé mới chỉ tám
tuổi. Tuy nhiên, Thu trước sau vẫn chỉ là một cô bé ngây thơ, em đồng ý cho ba đi để ba
mua một chiếc lược, món quà nhỏ mà bất cứ em bé gái nào cũng ao ước. Bắt đầu từ chi
tiết này, chiếc lược ngà bước vào câu chuyện, trở thành một chứng nhân âm thầm cho
tình cha con thiêng liêng, bất tử.

Đoạn trích kết thúc trong ánh mắt thiết tha của anh Sáu trước lúc hy sinh nhờ bác Ba trao
cây lược ngà cho Thu. Với bé Thu, cây lược nhỏ mang dòng chữ đầy yêu thương “yêu
nhớ tặng Thu con của ba” là kỉ vật chứa đựng tình thương, nỗi nhớ, hình bóng, tấm lòng
người cha. Chiếc lược ngà đã động viên em vững vàng trong cuộc chiến đấu. Khi bác Ba
tình cờ gặp lại Thu và trao cây lược, thì cô bé bướng bỉnh cá tính ngày nào đã trở thành
cô giao liên dũng cảm. Và nguồn sức mạnh tiếp thêm cho Thu là tình yêu ba, tình yêu đất
nước.

Nguyễn Quang Sáng đã rất thành công trong việc xây dựng nhân vật bé Thu - một nhân
vật trẻ em có tính cách cứng cỏi , mạnh mẽ , dứt khoát (đến nỗi, nhìn thoáng qua, người
ta có thể cho là ương ngạnh, bướng bỉnh, khó bảo…) nhưng cũng hết sức hồn nhiên, đáng
yêu, ngoan ngoãn và có tình yêu cha sâu sắc. Có thể kể đến các h tạo tình huống bất ngờ,
sự am hiểu tâm lí và tính cách trẻ em, cách chọn chi tiết nghệ thuật “đắt” ( như chi tiết bé
Thu không gọi ba, chi tiết bé Thu loay hoay chắt nước cơm, hất cái trứng cá ba gắp
cho,chi tiết cây lược mà Thu xin ba trước lúc ba đi…) Nhờ những thành công nghệ thuật
này mà nhân vật bé Thu để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc về tình người – tình
cha con trong những năm tháng chiến tranh xa cách, thương đau;để lại ấn tượng về một
em bé Nam bộ thời chiến với tính cách đáng yêu, đáng mến.

Đề bài: Cảm nhận về nhân vật ông Sáu trong đoạn trích “Chiếc lược ngà” của
Nguyễn Quang Sáng.

I.Mở bài:
- Là nhà văn Nam Bộ, Nguyễn Quang Sáng am hiểu và gắn bó với mảnh đất Thành đồng
cùng những người con gái trung kiên trên mảnh đất ấy. Truyệ n của ông hầu như chỉ viết
về cuộc sống con người Nam Bộ trong chiến tranh và sau hòa bình. Sáng tác năm 1966,
trong thời kì cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra quyết liệt, “Chiếc lược ngà” ngợi
ca tình cha con, tình đồng chí của những người cán bộ Cách mạng – cũng là tình người
trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh. Cũng như bé Thu, nhân vật ông Sáu trong truyện đã
để lại cho người đọc rất nhiều ấn tượng.
II.Thân bài:
1.Khái quát(Dẫn dắt vào bài):
- Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến, mãi đến khi con gái ông lên 8 tuổi, ông mới có dịp về
thăm nhà, thăm con. Bé Thu không chịu nhận cha vì vết thẹo trên mặt làm ba em không
giống với người chụp chung với má trong bức ảnh mà em đã biết.Thu đối xử với ba như
người xa lạ, đến lúc hiểu ra, tình cha con thức dậy mãnh liệt trong em thì cũng là lúc ông
Sáu phải lên đường. Ở khu căn cứ, bao nỗi thương nhớ con, ông dồn vào việc làm cho
con cây lược. Ông hi sinh trong một trận càn của Mỹ ngụy. Trước lúc nhắm mắt, ông còn
kịp trao cây lược cho một người bạn. Tình đồng đội, tình cha con của ông Sáu được miêu
tả thật cảm động,làm sáng ngời vẻ đẹp của người lính Cách mạng, của người cha yêu con.
2. Vẻ đẹp người lính Cách mạng:
- Vẻ đẹp của nhân vật ông Sáu mà người đọc cảm nhận trước hết là vẻ đẹp của người lính
Cách mạng. Kháng chiến bùng nổ, ông Sáu từ giã những gì thân thương nhất: con thơ, vợ
trẻ lên đường làm Cách mạng. Khi ông ra đi, bé Thu, con gái đầu lòng, cũng là đứa con
gái duy nhất của ông chưa đầy một tuổi.Vậy mà, đằng đẵng suốt những năm kháng chiến,
ông không một lần về thăm con,bởi với những người lính “đâu có giặc là ta phải đi”. Họ
đã gác tình riêng, vì nghĩa lớn để rồi ngày kháng chiến thắng lợi, ông được nghỉ phép về
thăm nhà, thăm con. Trong thắng lợi to lớn của dân tộc, có phần xương máu mà ông Sáu
đóng góp.
3. Tình yêu thương con:
Cảm động nhất, để lại ấn tượng nhiều nhất cho người đọc trong hình ảnh người cha chiến
sĩ ấy chính là tình phụ tử thiêng liêng, sâu đậm –tình yêu thương mà ông Sáu dành cho
đứa con gái:
- Được về thăm nhà sau bao năm ở chiến khu, khao khát đốt lòng ông Sáu là được gặp
con, được nghe con gọi tiếng ba, được sống trong tình cha con mà bấy lâu nay ông chưa
được sống. Vì thế, về gần tới nhà, thoáng thấy bóng con,không chờ xuồng cập bến, ông
nhón chân nhảy thót lên xô chiếc xuồng tạt ra.Ông bước vội vàng những bước dài. Cái
tiếng gọi ông phải kìm nén bao lâu nay bỗng bật ra thật cảm động, làm người đọc thấy
nghẹn ngào: - "Thu!Con".Ngược lại với điều ông mong muốn, đứa con gái ngơ ngác,hốt
hoảng rồi vụt chạy và kêu thét lên khiến người cha đau khổ, hai tay buông thõng như bị
gãy. Rồi suốt ba ngày nghỉ phép , ông không dám đi đâu xa, chỉ quanh quẩn gần con.
Song, ông càng xích lại gần nó càng lùi xa; ông càng khao khát được nghe tiếng “ba” từ
lòng con, nó càng không gọi... Bị con cự tuyệt,ông Sáu đau khổ không khóc được phải
cười.
- Trước giờ phút lên đường chia tay con, ông muốn ôm con,nhưng lại sợ con không nhận
đành chỉ nhìn. Song chính trong lúc này, tình cảm dành cho người cha ở bé Thu òa ra
mãnh liệt. Nó cất tiếng gọi “ba”, ông xúc động đến phát khóc và “không muốn cho con
thấy mình khóc, anh Sáu một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt, rồi hôn lên mái
tóc của con”.Người chiến sĩ ấy nước mắt đã khô cạn nơi chiến trường, giờ đây là những
giọt nước mắt hiếm hoi – nước mắt của niềm hạnh phúc và tình cha con. Thương
con,chia tay con, ông Sáu hứa sẽ mua cho con cây lược.
- Tình cảm của ông Sáu đối với con còn được nhà văn thể hiện rất cảm động khi ông ở
khu căn cứ. Nỗi day dứt, ân hận ám ảnh ông suốt nhiều ngày là việc ông đã đánh con khi
nóng giận. Rồi lời dặn của con: “Ba về ba mua cho con một cây lược nghe ba”đã thôi
thúc ông nghĩ đến việc làm cho con một cây lược bằng ngà. Làm cây lược trở thành bổn
phận của người cha, thành tiếng gọi cầu khẩn của tình yêu thương con. Kiếm được khúc
ngà voi, ông Sáu hớn hở như một đứa trẻ được quà và ông dành hết tâm trí, công sức vào
việc làm ra cây lược. Hãy nghe đồng đội của ông kể lại: “Những lúc rỗi, anh cưa từng
chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc”. Phải chăng, bao nhiêu
tình yêu thương con ông dồn vào việc làm cây lược ấy? Rồi ông gò lưng tỉ mẩn, khắc
từng nét chữ lên sống lưng lược: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”.Cây lược ấy, dòng chữ
ấy là tình yêu, là nỗi nhớ thương, sự ân hận của ông đối với đứa con gái. Những lúc rỗi
cũng như đêm đêm nhớ con ông thường lấy cây lược ra ngắm ngía, rồi mài lên tóc cho
cây lược thêm bóng, thêm mượt. Làm như vậy, có lẽ ông không muốn con ông bị đau khi
chải lược lên tóc. Yêu con, ông Sáu yêu từng sợi tóc của con. Người đọc cảm động trước
tấm lòng của người cha ấy. Lòng yêu con đã biến người chiến sĩ thành một nghệ nhân –
nghệ nhân chỉ sáng tạo ra một tác phẩm duy nhất trên đời– chiếc lược ngà. Cho nên,cây
lược ngà đã kết tinh trong nó tình phụ tử mộc mạc, sâu xa mà đơn sơ, giản dị.
- Làm được lược cho con, ông Sáu mong được gặp con, được tận tay chải mái tóc con.
Nhưng rồi, một tình cảnh đau thương lại đến với cha con ông Sáu: trong một trận càn lớn
của quân Mỹ ngụy, ông Sáu bị một viên đạn bắn vào ngực. “Trong giờ phút cuối
cùng,không còn đủ sức trăng trối lại điều gì, hình như chỉ có tình cha con là không thể
chết được”, tất cả tàn lực cuối cùng chỉ còn cho ông làm một việc “đưa tay vào túi, móc
cây lược” đưa cho người bạn chiến đấu. Đó là điều trăng trối không lời nhưng nó thiêng
liêng hơn cả những lời di chức. Nó là sự ủy thác, là ước nguyện cuối cùng, ước nguyện
của tình phụ tử. Và bắt đầu từ giây phút ấy, cây lược của tình phụ tử đã biến người đồng
đội của ông Sáu thành một người cha thứ hai của bé Thu.
- Người đọc đã không thể cầm được nước mắt khi nghe tiếng khóc thét của đứa con gọi
cha buổi chia tay hồi nào, giờ bỗng không thể cầm lòng khi chứng kiến cái cử chỉ cầm
cây lược và ánh mắt nhìn của người cha vào giây phút lâm trung. Từng có bao nhiêu áng
văn nói về tình mẹ cực kì xúc động nhưng có lẽ đây là một trang văn rất hiếm hoi mô tả
đến tận cùng sâu thẳm trái tim yêu thương của người cha dành cho con. Cũng từ hình ảnh
này, nhà văn đã khẳng định: Bom đạn và chiến tranh có thể hủy diệt được sự sống, nhưng
tình cha con – tình phụ tử thiêng liêng không gì có thể giết chết được.
4. Nghệ thuật:
- Có thể nói nhân vật ông Sáu được nhà văn xây dựng bằng những nét nghệ thuật đặc sắc.
Nguyễn Quang Sáng đã đặt nhân vật vào cảnh ngộ éo le của đời sống để từ đó ngòi bút
miêu tả tâm lí tinh tế đã phát hiện bao cung bậc cảm xúc của tình phụ tử. Ngoài ra, ngôn
ngữ kể chuyện vừa truyền cảm, vừa mang đậm chất địa phương Nam Bộ đem đến cho
người đọc nhiều xúc động. Đặc biệt,nhà văn đã lựa chọn được một số chi tiết nghệ thuật
rất đắt giá như lời dặn mua cho con cây lược của bé Thu,ông Sáu hớn hở khi kiếm được
chiếc ngà voi… Tất cả đã góp phần tô đậm vẻ đẹp của người chiến sĩ Cách mạng, của
người cha yêu con nồng thắm.
III. Kết bài:
- Hình ảnh ông Sáu – người chiến sĩ Cách mạng, người cha trong truyện “Chiếc lược
ngà” đã để lại bao thổn thức trong lòng người đọc về tình phụ tử sâu sắc. Chiếc lược ngà
và những dòng chữ trên sống lưng lược mãi mãi là kỉ vật, là nhân chứng về nỗi đau, về bi
kịch đầy máu và nước mắt của những năm chiến tranh. Ông Sáu là người lính của một thế
hệ anh hùng mở đường đi trước đã nếm trải nhiều gian khổ và hi sinh. Ông là hình ảnh
tiêu biểu của con người Việt Nam sẵn sàng hi sinh tất cả vì độc lập dân tộc, thống nhất
đất nước.

* Bài tập vận dụng:


Bài tập 1:
Nghe mẹ nó bảo gọi ba vào ăn cơm thì nó bảo lại:
- Thì má cứ kêu đi
Mẹ nó đâm nổi giận quơ đũa bếp dọa đánh, nó phải gọi nhưng lại nói trổng:
- Vô ăn cơm!
Anh Sáu vẫn ngồi im,giả vờ không nghe, chờ nó gọi “Ba vô ăn cơm”. Con bé cứ đứng
trong bếp nói vọng ra:
- Cơm chín rồi!
Anh cũng không quay lại. Con bé bực quá, quay lại mẹ và bảo:
- Con kêu rồi mà người ta không nghe.”
(Chiếc lược ngà - Nguyễn Quang Sáng)
a. Đoạn truyện được kể theo ngôi thứ mấy? Ai là người kể? Chọn ngôi kể trên có tác
dụng như thế nào?
b. Vì sao “Anh Sáu vẫn ngồi im giả vờ không nghe, chờ nó gọi “Ba vô ăn cơm”?
c. Con bé trong đoạn truyện đã vi phạm phương châm hội thoại nào? Vì sao có sự vi
phạm đó?
=> Gợi ý:
a. Đoạn truyện kể theo ngôi thứ nhất. Người kể là bác Ba, một nhân vật trong tác phẩm,
là bạn của ông Sáu. Chọn vai kể trên vừa miêu tả sâu sắc tâm lý nhân vật, vừa đảm bảo
sự khách quan trong việc nhận xét, đánh giá tình cảm nhân vật và có tầm bao quát rộng.
b. Ông Sáu ngồi im, giả vờ không nghe thấy con bé gọi vì ông muốn con bé sẽ dùng tiếng
“ba” để gọi ông.
c. Con bé nói trổng như vậy là đã vi phạm phương châm lịch sự. Nó cố tình vi phạm như
vậy vì không muốn dùng từ “ba” để gọi ông Sáu.
Bài tập 2
Trong bữa cơm đó , anh Sáu gắp một cái trứng cá to vàng để vào chén nó . Nó liền lấy
đũa xoi vào chén, để đó rồi bất thần hất cái trứng ra ,cơm văng tung toé cả mâm . Giận
quá và không kịp suy nghĩ , anh vung tay đánh vào mông nó và hét lên :
- Sao mày cứng đầu quá vậy ,hả ?
Tôi tưởng con bé sẽ lăn ra khóc , sẽ giẫy ,sẽ đạp đổ cả mâm cơm , hoặc sẽ chạy vụt đi .
Nhưng không , nó ngồi im , đầu cúi gầm xuống .Nghĩ thế nào ,nó cầm đũa gắp lại cái
trứng cá để vào chén ,rồi lặng lẽ đứng dậy, bước ra khỏi mâm .Xuống bến , nó nhảy
xuống xuồng , mở lòi tói cố làm cho dây lòi tói khua rổn rảng ,khua thật to , rồi lấy dầm
bơi qua sông .Nó sang qua nhà ngoại , mét với ngoại và khóc ở bên ấy .
( Chiếc lược ngà,Nguyễn Quang Sáng)
a. Đoạn truyện được kể theo ngôi thứ mấy ? Ai là người kể truỵện ? Kể về ai ?
b. Nêu tóm tắt mối quan hệ tình cảm giữa hai nhân vật được kể trước khi sự việc này xảy
ra ?
c. Sự việc kể trên giữ vai trò như thế nào trong câu chuyện .
d. Hãy viết một đoạn văn khoảng 10 câu phân tích thái độ của bé Thu đối với ba từ khi
gặp mặt đến khi nó bỏ sang bà ngoại . Trong đoạn có sử dụng câu ghép dùng khởi ngữ và
phần phụ chú.
=> Gợi ý:
a.
- Đoạn truyện kể theo ngôi thứ nhất. Người kể là bác Ba, một nhân vật trong tác phẩm, là
bạn của ông Sáu.
- Đoạn truyện kể về cha con ông Sáu: ông Sáu gắp cho bé Thu cái trứng cá vào bát cơm
nhưng con bé hất ra mâm. Rồi nó gắp lại vào bát. Sau đó, nó bỏ sang nhà ngoại.
b. Quan hệ giữa hai cha con ông Sáu trước đó đã không êm ả:Hai cha con gặp nhau sau
tám năm xa cách, bé Thu không nhận ra ông Sáu là cha nên nó đối xử với ông như với
người xa lạ. Còn ông Sáu dù đã cố gắng vỗ về nó để mong được gọi là “ba” nhưng không
thành.
c. Sự việc trên giữ vai trò thắt nút câu chuyện.
d.
*Về hình thức: không giới hạn viết theo cách lập luận cụ thể nào, nên các em có thể tùy
chọn đoạn diễn dịch, quy nạp hay tổng – phân – hợp. Tuy nhiên, phải chú ý có câu ghép
dùng khởi ngữ và thành phần phụ chú.
*Về nội dung: phân tích sự phát triển thái độ của bé Thu từ khi gặp cha đến khi bỏ sang
bà ngoại. Vì không nhận ra ông Sáu là cha nên bé Thu đã đối xử với ông như với người
xa lạ:
- Khi gặp: nó sợ hãi bỏ chạy.
- Những ngày ông Sáu ở nhà: nó tìm mọi cách để không phải gọi ông Sáu là cha.
- Đặc biệt, trong bữa ăn, nó khước từ sự chăm sóc của ông và bỏ sang nhà ngoại.
Bài tập 3: Trong tác phẩm “Chiếc lược ngà”, ghi lại cảnh chia tay của cha con ông Sáu,
nhà văn Nguyễn Quang Sáng viết:
“Nhìn cảnh ấy, bà con xung quanh có người không cầm được nước mắt, còn tôi bỗng
thấy khó thở như có bàn tay ai nắm lấy trái tim tôi”.
a. Vì sao khi chứng kiến giây phút này, bà con xung quanh và nhân vật tôi lại xúc động
đến vậy?
b. Người kể chuyện ở đây là ai? Cách chọn vai kể ấy góp phần như thế nào để tạo nên sự
thành công của“Chiếc lược ngà”?
=> Gợi ý:
a. Khi chứng kiến giây phút này, bà con xung quanh và nhân vật tôi xúc động đến vậy,
bởi vì:
- Sự thể hiện của tình cảm cha con ở đây rất tha thiết, mãnh liệt.
- Giây phút hạnh phúc nhất của hai cha con ngắn ngủi xiết bao. Con nhận ba và gọi
tiếng ba cũng chính là lúc ba phải ra đi. Những cố gắng níu kéo ba ở lại của con thật vô
vọng và sẽ không thực hiện được.
b.
- Người kể chuyện ở đây là bác Ba. Bác vừa là một người đồng đội, một người bạn thân
thiết của ông Sáu vừa là người chứng kiến câu chuyện từ đầu đến cuối.
- Cách chọn vai kể ấy góp phần tạo nên sự thành công của “Chiếc lược ngà” ở những
điểm sau:
+ Làm tăng tính khách quan, chân thực cho câu chuyện bởi người kể chuyện đồng thời
cũng là một người trong cuộc chứng kiến những sự việc xảy ra.
+ Người kể chuyện dễ dàng đan xen vào những bình luận, những cảm xúc, suy nghĩ hết
sức thấu đáo để người đọc có thể hiểu và đồng cảm với câu chuyện.
+ Người kể chuyện có nhiều cơ hội tìm hiểu đi vào thế giới nội tâm nhân vật một các h
sâu sắc.

CHÚC CÁC EM ÔN TẬP TỐT!

You might also like