Professional Documents
Culture Documents
Phần III- Tìm Hiểu Phụng Vụ
Phần III- Tìm Hiểu Phụng Vụ
“Mẹ Hội Thánh tha thiết ƣớc mong toàn thể tín hữu đƣợc hƣớng dẫn tham dự các việc cử
hành phụng vụ cách trọn vẹn, ý thức và linh động. Chính bản tính Phụng vụ đòi hỏi phải
tham dự nhƣ thế. Lại nữa, nhờ phép Thánh Tẩy, việc tham dự Phụng vụ trở thành quyền lợi
và bổn phận của dân Kitô giáo „là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là
dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa‟ (2Pr 2,9)” (PV 14).
“Mọi họat động của Hội Thánh đều hƣớng tới tột đỉnh là Phụng vụ; đồng thời, mọi năng
lực của Hội Thánh đều phát xuất từ Phụng vụ. Do đó, Phụng vụ là nguồn đặc biệt của Huấn
giáo. Huấn giáo phải liên kết chặt chẽ với mọi họat động Phụng vụ và Bí tích (GLCG
1074).
Phụng vụ là tột đỉnh qui hƣớng mọi hoạt động của Hội Thánh, đồng thời là nguồn
mạch tuôn trào mọi năng lực của Hội Thánh. (PV 10)
Phụng Vụ là công trình của Đức Ki-tô, nhƣng cũng là hành động của Hội Thánh
Ngài, thực hiện và biểu lộ Hội Thánh nhƣ dấu chỉ hữu hình về sự hiệp thông giữa Thiên
Chúa với con ngƣời nhờ Đức Ki-tô. Phụng Vụ dẫn đƣa các tín hữu vào sự sống mới trong
cộng đoàn. Phụng vụ đòi hỏi họ tham dự “một cách ý thức, linh động và hữu hiệu” tất cả
nghi lễ (PV 11). (GLCG 1071)
Ghi nhớ
1. Phụng vụ là việc cử hành mầu nhiệm Đức Ki-tô, đặc biệt là cử hành Mầu nhiệm
Vƣợt qua của Ngài. Trong Phụng vụ, qua trung gian việc thực thi chức năng tƣ tế
của Đức Giê-su Ki-tô, sự thánh hoá con ngƣời đƣợc biểu lộ và thực hiện qua các
dấu chỉ. Thân thể nhiệm mầu của Đức Ki-tô, nghĩa là Đầu và các chi thể, thực thi
việc thờ phƣợng công khai dành cho Thiên Chúa.
2. Phụng vụ gồm: Các Bí tích, các Á bí tích, Chầu Thánh Thể, Các Giờ kinh Phụng vụ
và nghi thức an táng.
3. Mục đích của Phụng vụ là để tôn vinh Thiên Chúa và thánh hoá con ngƣời.
4. Phụng vụ là công trình của Thiên Chúa Ba Ngôi:
- Trong Phụng vụ, Chúa Cha đổ tràn các phúc lành của Ngài trên chúng ta trong
Ngƣời Con nhập thể, đã chết và đã sống lại vì chúng ta, và Ngài tuôn đổ Chúa
Thánh Thần vào lòng chúng ta. Đồng thời Hội Thánh chúc tụng Chúa Cha qua
việc tôn thờ, ca tụng, tạ ơn, và cầu xin Ngài ban hồng ân là Chúa Con và Chúa
Thánh Thần.
- Trong Phụng vụ, Đức Ki-tô biểu lộ và hoàn thành mầu nhiệm Vƣợt qua của Ngài.
Ngài hiện diện nơi các thừa tác viên để tiếp tục hành động ban ơn cứu độ qua các
Bí tích Ngài đã thiết lập. Qua Phụng vụ dƣới đất, Đức Ki-tô cho chúng ta tham
dự và nếm trƣớc Phụng vụ trên trời.
- Trong Phụng vụ, Chúa Thánh Thần chuẩn bị cho cộng đoàn tín hữu gặp gỡ Đức
Ki-tô, gợi nhớ và biểu lộ Đức Ki-tô cho cộng đoàn, dùng quyền năng làm cho
công trình cứu độ của Đức Ki-tô hiện diện và tác động trong hiện tại, đồng thời
làm cho ơn hiệp thông trong Hội Thánh sinh hoa kết quả.
5. Phụng vụ là chóp đỉnh mà mọi hoạt động của Hội thánh đều hƣớng tới, đồng thời là
nguồn mạch phát sinh mọi năng lực của đời sống Hội Thánh. Qua Phụng vụ, Đức
Ki-tô tiếp tục công trình cứu chuộc chúng ta trong Hội Thánh, với Hội Thánh và
nhờ Hội Thánh của Ngài.
I. AI CỬ HÀNH?
1. Ai hoạt động trong Phụng vụ?
Chính “Đức Ki-tô toàn thể”, gồm Đầu và Thân Thể, hoạt động trong Phụng vụ. Với
tƣ cách là vị Thƣợng tế, Đức Ki-tô cử hành cùng với Thân Thể Ngài là Hội Thánh trên
trời và Hội Thánh trần gian. (TYGL 233)
Đức Ki-tô hiện diện trong Phụng vụ với tƣ cách là Đầu của Thân Thể Ngài, tức là
Hội Thánh. Toàn thể Phụng vụ Ki-tô giáo liên kết với Ngài, để nhờ Ngài, với Ngài và
trong Ngài, lời tạ ơn, chúc tụng và cầu xin của chúng ta đƣợc Thiên Chúa chấp nhận. (x.
GLCG 1083)
2. Ai cử hành Phụng vụ trên trời?
Phụng vụ trên trời đƣợc cử hành do các thiên thần, các thánh của Cựu Ƣớc và Tân
Ƣớc, đặc biệt là Mẹ Thiên Chúa, các thánh Tông Đồ, các thánh tử đạo và “một đoàn
ngƣời thật đông” không tài nào đếm nổi, “thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nƣớc và mọi
ngôn ngữ” (Kh 7,9). Khi cử hành mầu nhiệm cứu độ trong các Bí tích, chúng ta đƣợc dự
phần vào Phụng vụ vĩnh cửu này. (TYGL 234)
3. Hội Thánh ở trần gian cử hành Phụng vụ
Hội Thánh ở trần gian cử hành Phụng vụ với tƣ cách là dân tƣ tế, trong đó mỗi
ngƣời hoạt động tùy theo phận vụ riêng của mình, trong sự hợp nhất của Chúa Thánh
Thần. Các ngƣời đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội hiến dâng chính mình trong hy lễ thiêng
liêng, các thừa tác viên có chức thánh cử hành theo thánh chức mà họ đã lãnh nhận để
phục vụ tất cả các chi thể của Hội Thánh; các Giám mục và linh mục hoạt động trong
cƣơng vị Đức Ki-tô là Thủ lãnh. (TYGL 235)
Dƣới thế, Phụng vụ là hành động của toàn thể Nhiệm Thể Đức Ki-tô kết hợp với
Đầu là Đức Ki-tô. Các hoạt động Phụng vụ không phải là hoạt động riêng tƣ, nhƣng là
những cử hành của Hội Thánh, cho nên khi có thể đƣợc, phải cử hành cộng đồng với sự
tham gia đông đảo và linh hoạt của giáo dân.
Mọi chi thể đều đƣợc tham dự vào “chức tƣ tế cộng đồng” của Đức Ki-tô, vị Tƣ Tế
duy nhất, nhƣng mỗi phần tử có những phần vụ khác nhau trong Phụng vụ, nhƣ linh mục
chủ tế, và những tác vụ khác đƣợc các Giám mục xác định tùy theo truyền thống và nhu
cầu mục vụ. “Trong các cử hành phụng vụ, thừa tác viên hay tín hữu mỗi ngƣời chu toàn
phận vụ của mình, chỉ làm và làm trọn vẹn những gì bản chất sự việc và những qui tắc
phụng vụ qui định cho mình” (x. GLCG 1140-1144).
2. Thiên Chúa vẫn đến với ta qua những dấu chỉ. Hầu hết các gia đình công giáo
đều trƣng bày ảnh tƣợng Thánh trong nhà, để nhắc nhở mọi ngƣời về sự hiện diện
của Chúa. Hơn thế nữa, nếu chúng ta nhậy bén, có thể nhận ra Chúa đang hiện
diện qua nhiều dấu chỉ khác của đời thƣờng: từ phong cảnh thiên nhiên đến nụ
cƣời của trẻ thơ, nỗi đau của ngƣời nghèo... Tất cả đều có thể nhắc nhở ta về sự
hiện diện đầy yêu thƣơng của Chúa.
Bài 3:
Ý Nghĩa
Một Số Cử Chỉ, Màu Sắc
và Biểu Tƣợng Trong Phụng Vụ
“Con người, một thụ tạo vừa có thân xác vừa thiêng liêng, diễn tả và tiếp nhận các thực tại
thiêng liêng qua dấu chỉ và biểu tượng vật chất. Con người có tính xã hội, nên cần dấu chỉ
và biểu tượng để giao tiếp với tha nhân qua ngôn ngữ, cử chỉ, hành động.Trong tương
quan với Thiên Chúa cũng thế ”. (GLCG 1146)
Không thể có lễ hội nếu không có nghi thức kèm theo những dấu chỉ và biểu tƣợng. Bỏ hết
đi những dấu chỉ và biểu tƣợng, đời sống tôn giáo sẽ nghèo nàn và tẻ nhạt. Ngƣợc lại, quá
chú tâm đến nghi thức mà đánh mất nội tâm, tôn giáo có nguy cơ biến thành mê tín dị
đoan. Khi cử hành phụng vụ, tất cả con ngƣời chúng ta phải tham dự vào việc cử hành,
không những tâm tình, trí tuệ mà tất cả mọi cơ năng của thân xác.
Con cá sống nhờ nƣớc, con chim sống nhờ bầu trời, song con ngƣời không chỉ cần nƣớc để
sống, cần khí để thở mà còn nhờ đến văn hóa. Bất cứ nền văn hóa nào cũng cần đến dấu chỉ
và biểu tƣợng để nói lên những ý nghĩa và quan niệm về cuộc sống. Lễ hội và nghi thức tôn
giáo luôn phản ánh nền văn hóa dân tộc. Con Thiên Chúa làm ngƣời trên một mảnh đất,
cho nên Tin Mừng Ngài rao giảng cũng mang đậm nét văn hóa một dân tộc. Tin Mừng lại
đƣợc rao giảng khắp thế giới nên nó lại cần đƣợc bén rễ trong những nền văn hóa khác
nhau.
Đó là sứ mạng của Hội Thánh trong việc thích nghi và hội nhập văn hóa : “Bất cứ
những gì trong tập tục, không liên quan mật thiết với dị đoan và lầm lạc, đều đƣợc Hội
Thánh mến phục với thiện cảm, và nếu có thể, còn đƣợc bảo tồn trọn vẹn. Hơn nữa, đôi khi
những tập tục đó còn đƣợc Hội Thánh nhận vào trong Phụng vụ, miễn sao hòa hợp với
những nguyên tắc của tinh thần phụng vụ đích thực và chân chính” (PV 37)
“Phụng vụ phải đƣợc cử hành phù hợp với đặc tính và văn hóa của các dân tộc. Để
mầu nhiệm của Đức Kitô đƣợc thông báo cho muôn dân biết, để họ tin mà vâng phục
Thiên Chúa (x. Rm 16,26),Hội Thánh phải loan báo, cử hành và sống trong tất cả các nền
văn hóa. Mầu nhiệm Đức Kitô không xóa bỏ, nhƣng cứu chuộc và kiện toàn các nền văn
hóa. Chính nhờ nền văn hóa riêng đƣợc Đức Kitô tiếp nhận và thanh luyện, đông đảo con
cái Thiên Chúa đến đƣợc với Chúa Cha để tôn vinh Ngƣời trong cùng một Thánh Thần”
(GLHTCG 1204).
TÓM LƢỢC :
-T. Dấu chỉ và biểu tƣợng là những yếu tố vật chất hữu hình, song ngƣời ta lại
kiến tạo cho nó một ý nghĩa mới.
2* H. Tại sao cử chỉ và điệu bộ lại quan trọng trong các cử hành phụng vụ
của Hội Thánh ?
-T. Cử chỉ và điệu bộ quan trọng vì con ngƣời có thân xác và linh hồn nên cần
có các cách diễn tả của thân xác để biểu lộ chiều sâu nội tâm. Hơn nữa, các cử chỉ
và điệu bộ trong phụng vụ đều có ý nghĩa riêng biệt, và khi cùng nhau thể hiện lại
nói lên tính hiệp nhất của cộng đoàn.
-T. Tính không gian của phụng vụ bao gồm nhiều yếu tố nhƣ dấu chỉ và biểu
tƣợng, cử chỉ và điệu bộ, cùng các yếu tố vật chất sẽ tạo nên một bầu khí phụng vụ
nghiêm trang và linh thánh. Vì thế, các dấu chỉ phải có ý nghĩa, cử chỉ và điệu bộ
phải nghiêm túc, các vật dụng và nơi cử hành phải sạch sẽ gọn gàng thì tham dự
phụng vụ mới sốt sắng.
CẦU NGUYỆN :
“Lạy Chúa, con chỉ là một viên gạch tầm thƣờng nằm sát dƣới chân tƣờng.
Con không đƣợc nhƣ viên gạch xây cửa, ở ngay tầm mắt ngƣời ta. Con không đƣợc
nhƣ viên gạch mặt tiền, hãnh diện nhìn ngƣời qua kẻ lại và sung sƣớng đƣợc ngƣời
ta khen đẹp.
Con không đƣợc nhƣ viên gạch trong phòng khách, hàng ngày đƣợc ngƣời ta lau
chùi đánh bóng.
Con chỉ là một viên gạch tầm thƣờng nằm sát chân tƣờng.
Nhƣng lạy Chúa, con vui vì chỗ ở của con, con vui với nhiệm vụ của con.
Con mừng vì con cũng có góp phần trong ngôi nhà xinh đẹp này. Không có những
ngƣời góp phần nhỏ bé, âm thầm nhƣ con thì bức tƣờng sẽ đổ, ngôi nhà sẽ sập, và
những viên gạch xinh đẹp kia cũng chẳng còn”.
“Năm Phụng Vụ khai triển mầu nhiệm Vƣợt qua dƣới nhiều khía cạnh, đặc biệt là chu kỳ
các lễ xoay quanh mầu nhiệm Nhập thể (Truyền Tin, Giáng sinh, Hiển Linh) gợi lại những
biến cố khởi đầu ơn cứu độ và cho chúng ta hƣởng nhờ hoa trái đầu mùa của mầu nhiệm
Phục sinh”. (GLCG 1171)
Năm phụng vụ là chu kỳ thời gian trong một năm về sự can thiệp của Thiên Chúa trong
lịch sử nhân loại, trong quá khứ cũng nhƣ hiện tại. Theo cái nhìn của lịch sử cứu độ, phụng
vụ không chỉ tƣởng niệm các biến cố đã xảy ra, nhƣng còn hiện tại hóa, làm cho các biến
cố ấy đi vào đời sống hôm nay một cách mầu nhiệm.
Hội Thánh Công Giáo có lịch riêng là lịch Phụng vụ, bắt đầu từ Chúa Nhật I mùa Vọng
(khoảng cuối tháng 11 hoặc đầu tháng 12) cho tới tuần cuối cùng của mùa thƣờng niên.
Tuy nhiên trong các sinh hoạt, Hội Thánh vẫn theo lịch dân sự đang thịnh hành ngày nay,
và ghi thêm vào đó các ngày lễ Công Giáo.
I. NĂM PHỤNG VỤ LÀ GÌ?
Năm Phụng vụ là chu kỳ một năm Hội Thánh tƣởng niệm toàn thể mầu nhiệm Chúa
Ki-tô, từ Nhập thể đến Hiện xuống, cho tới việc trông đợi ngày Chúa Quang lâm. (Sách
lễ Rô-ma 200, “Những quy luật tổng quát về năm Phụng vụ và niên lịch” số 17).
Năm Phụng vụ không chỉ gợi lại những biến cố cuộc đời Đức Ki-tô, nhƣng nó còn
làm cho những biến cố ấy trở thành hiện tại để các tín hữu có thể sống lại trong sức mạnh
và vinh hiển nguyên thủy của những biến cố ấy.
Trong năm Phụng vụ, ngoài việc cử hành toàn thể Mầu nhiệm Đức Ki-tô, từ lúc
Ngài nhập thể cho đến ngày Ngài lại đến trong vinh quang, trong một số ngày, Hội Thánh
còn tôn kính Đức Trinh Nữ Ma-ri-a diễm phúc, Mẹ Thiên Chúa, với một lòng trìu mến
đặc biệt; Hội Thánh cũng kính nhớ các thánh là những ngƣời đã sống cho Đức Ki-tô, đã
chịu đau khổ với Ngài và hiện đang ở với Ngài trong vinh quang. (x. TYGL 242)
II. CHÚA NHẬT: NGÀY CỦA CHÚA
Trung tâm của thời gian Phụng vụ là ngày Chúa nhật, nền tảng và cốt lõi của cả
năm Phụng vụ. (TYGL 241)
Ngày Chúa nhật giữ vai trò quan trọng trong đời sống Ki-tô hữu. Đó là ngày nền
tảng trong sinh hoạt đức tin và Phụng vụ của dân Chúa. Công đồng Va-ti-ca-nô II khẳng
định: “Theo truyền thống Tông đồ bắt nguồn từ chính ngày Chúa Ki-tô sống lại, Hội
Thánh cử hành mầu nhiệm Phục sinh vào mỗi ngày thứ tám, ngày thật đáng gọi là Ngày
của Chúa hay ngày Chúa nhật. Thực vậy, trong ngày đó các Ki-tô hữu phải họp nhau lại
để nghe Lời Chúa và tham dự Lễ Tạ Ơn, để kính nhớ cuộc Thƣơng khó, sự Sống lại và
vinh quang của Chúa Giê-su, đồng thời cảm tạ Thiên Chúa, vì Ngài đã “dùng sự Phục
sinh của Chúa Giê-su Ki-tô từ trong kẻ chết sống lại mà tái sinh họ trong niềm hy vọng
sống động” (1 Pr 1,3). Vì vậy, ngày Chúa nhật là ngày lễ nguyên thủy phải đƣợc đề cao
và in sâu vào lòng đạo đức của các tín hữu, để ngày ấy trở thành ngày vui mừng và ngày
nghỉ việc. Các cuộc lễ khác, nếu không thật sự là lễ rất quan trọng thì không đƣợc lấn át
ngày Chúa nhật, bởi vì ngày Chúa nhật là nền tảng và trung tâm của cả năm Phụng vụ.”
(PV 106)
Chúa nhật là Ngày của Chúa, ngày các Ki-tô hữu họp nhau trong hân hoan để nghe
Lời Chúa và tham dự Lễ Tạ Ơn, nên việc tham dự và cử hành Thánh lễ là nét đặc trƣng
riêng của ngày Chúa nhật. Bổn phận tham dự Thánh lễ Chúa nhật đƣợc Hội Thánh quy
định nhƣ sau:
- Chúa nhật và các lễ buộc khác, tín hữu buộc phải tham dự Thánh lễ; lại nữa, phải
kiêng những việc làm và những hoạt động làm cản trở việc thờ phƣợng Thiên
Chúa, niềm vui riêng trong ngày của Chúa, hoặc việc nghỉ ngơi tinh thần và thể
xác cần phải có. (GL 1247)
- Ai đã tham dự Thánh lễ cử hành bất cứ ở đâu, theo lễ nghi Công giáo hoặc chính
ngày lễ hoặc chiều ngày áp lễ, thì đã giữ trọn luật buộc phải tham dự Thánh lễ.
(GL 1248 §1)
Thánh lễ Chúa nhật đặt nền tảng và xác định toàn bộ cuộc sống ngƣời tín hữu. Do
đó, mọi tín hữu phải tham dự Thánh lễ vào ngày lễ buộc, trừ khi có một lý do quan trọng
(nhƣ bệnh hoạn, chăm sóc trẻ sơ sinh) hay đƣợc cha sở miễn chuẩn (x. GL 1245 ). Ai cố
tình vi phạm sẽ mắc tội trọng. (GLHTCG 2181)
Khi cùng tham dự Thánh lễ Chúa nhật, ngƣời tín hữu minh chứng sự gắn bó và
trung thành với Đức Ki-tô và Hội Thánh, bày tỏ sự hiệp thông trong đức tin và đức mến.
Họ cùng nhau làm chứng cho sự thánh thiện của Thiên Chúa và cho niềm hy vọng của họ
vào ơn cứu chuộc. Họ nâng đỡ nhau dƣới sự hƣớng dẫn của Thánh Thần. (GLHTCG
2182)
Khi không thể tham dự Thánh lễ vì thiếu linh mục hay vì lý do quan trọng nào khác,
Hội Thánh khuyên các tín hữu nên hết sức có thể, tham dự cử hành Phụng vụ Lời Chúa
trong nhà thờ giáo xứ hay một nơi thánh theo chỉ thị của Giám mục Giáo phận hoặc dành
một thời giờ cần thiết để cầu nguyện cách riêng tƣ hoặc với gia đình hoặc nếu thuận tiện
với cả liên gia. (x. GL 1248 §2)
III. TAM NHẬT VƢỢT QUA: TÂM ĐIỂM CỦA NĂM PHỤNG VỤ
Toàn bộ chƣơng trình cứu độ của Thiên Chúa đƣợc quy tụ nơi con ngƣời Đức Giê-
su Ki-tô, Đấng là nguyên thuỷ và cứu cánh của vạn vật. Nhờ Ngài mọi vật đƣợc tạo thành
và cũng nhờ Ngài mà muôn vật đƣợc cứu chuộc.
Lịch sử cứu độ đạt đỉnh điểm nơi cuộc Vƣợt qua của Đức Ki-tô. Qua mầu nhiệm
này chúng ta khám phá ý định cứu độ của Thiên Chúa. Các Ki-tô hữu trong Hội Thánh sơ
khai đã cử hành mầu nhiệm Vƣợt qua, tƣởng niệm chết và sống lại của Đức Ki-tô, chỉ
trong một đêm duy nhất: đêm Phục sinh. Nhƣng sau đó rất sớm Hội Thánh nhận thấy
mầu nhiệm này cần phải đƣợc đào sâu hơn bằng cách kéo dài thời gian theo các trình
thuật Thƣơng khó và Phục sinh của Tân Ƣớc, và nhƣ thế hình thành Tam nhật Vƣợt qua.
Tam nhật Vƣợt qua bắt đầu từ chiều thứ năm Tuần Thánh đến chiều Chúa nhật Phục
sinh. Trong Tam nhật Vƣợt qua Hội Thánh tƣởng niệm cuộc Thƣơng khó và Phục sinh của
Đức Ki-tô: chiều thứ năm Tuần Thánh cử hành Thánh lễ Tiệc Ly; chiều thứ sáu cử hành
cuộc Thƣơng khó; thứ bảy dành để kính mầu nhiệm Đức Ki-tô trong mồ; đêm thứ bảy là
Đêm canh thức Vƣợt qua, trung tâm của Tam nhật Vƣợt qua; ngày Chúa nhật Phục sinh,
Hội Thánh tạ ơn Thiên Chúa vì việc kỳ diệu Ngài đã làm, khi cho Con của Ngài từ trong
kẻ chết sống lại, và từ đó, mở cửa đƣa loài ngƣời chúng ta tới sự sống.
IV. MÙA PHỤNG VỤ
Phụng vụ, bắt đầu từ Chúa nhật I Mùa Vọng (vào cuối tháng Năm 11 hoặc đầu
tháng 12, tùy theo năm) cho đến thứ bảy của tuần 34 Thƣờng Niên, nhằm kể lại toàn bộ
lịch sử ơn cứu độ và cuộc đời của Đức Ki-tô mà Tam nhật Vƣợt qua là đỉnh điểm.
Năm Phụng vụ đƣợc chia thành 5 mùa khác nhau nhƣ sau:
1. Mùa Vọng
Mùa Vọng là mùa hƣớng lòng về ngày Chúa Ki-tô lại đến trong vinh quang để xét
xử thế giới và con ngƣời, nhƣng gần hơn cả là chuẩn bị tâm hồn để mừng mầu nhiệm
Chúa Giáng sinh. Mùa Vọng nhắc nhở chúng ta nhìn lên Chúa, Đấng đang đến với chúng
ta mỗi giây phút và một cách đặc biệt khi „Ngài sẽ lại đến trong vinh quang‟.
Mùa Vọng kéo dài khoảng 4 tuần lễ, bắt đầu từ Chúa nhật I Mùa Vọng đến chiều
ngày 24/12. Từ đầu mùa Vọng đến hết ngày 16/12 nhằm hƣớng đến ngày cánh chung;
còn từ ngày 17/12 đến ngày 24/12 nhằm chuẩn bị mừng đại lễ Giáng sinh. Trong suốt
mùa Vọng, lễ phục mang màu tím nói lên sự hoán cải trông đợi ơn cứu độ của Thiên
Chúa, nhƣng vào Chúa nhật thứ ba, có thể sử dụng màu hồng và đƣợc gọi là “Chúa nhật
hồng” để nói lên niềm vui Chúa đã gần đến.
Vì mùa Vọng chia làm hai giai đoạn nên trong cử hành Phụng vụ, các bài đọc Kinh
Thánh và lời nguyện cũng xoay quanh chủ đề của hai giai đoạn này.
Niềm mong đợi, khao khát Đấng Cứu Thế của dân Chúa xƣa, niềm mong đợi này
đƣợc diễn tả qua các thánh thi cầu mƣa, cầu mong sƣơng đổ xuống thế giới khô
cằn, cầu cho cảnh thái bình thịnh trị ... Qua các bài đọc Cựu Ƣớc Hội Thánh khơi
lại tâm tình của lời hứa ban Đấng Cứu Thế và việc dân Chúa chuẩn bị đón nhận ơn
cứu độ.
Thái độ tỉnh thức chờ mong Chúa đến diễn tả niềm khao khát của dân Chúa xƣa.
Trong giai đoạn I của mùa Vọng, khi các bài Cựu Ƣớc nhắc đến lời hứa ban ơn
cứu độ và triều đại Đấng Mê-si-a sẽ trƣờng tồn, thì các bài thánh thƣ lại nhấn
mạnh chiều kích trông đợi cuộc đến lần thứ hai của Chúa. Khi sắp xếp nhƣ thế các
bài đọc bổ túc lẫn cho nhau, bởi vì nếu các bài Cựu Ƣớc nói lên tâm tình của kẻ
mong đợi Chúa đến thế nào, thì các Ki-tô hữu cũng chuẩn bị tâm hồn xứng đáng
để đón nhận cuộc Quang lâm của Đức Ki-tô vào ngày tận thế nhƣ vậy. Trong tâm
tình đó, tƣ thế của ngƣời tín hữu phải luôn tỉnh thức đón chờ Chúa đến trong đời
sống cá nhân và trong ngày chung cuộc của toàn thể nhân loại.
Nội dung thứ ba của mùa Vọng còn nói lên niềm vui hân hoan vì ơn cứu độ đã
đƣợc thực hiện nơi Chúa Giê-su Cứu Thế. Các bản văn Phụng vụ của giai đoạn II
nhắc đến vai trò của các nhân vật trung gian chuẩn bị cho Chúa Cứu Thế đến nhƣ
ông Gio-an Tẩy Giả, gia đình ông bà Da-ca-ri-a, thánh Giu-se... Trong số những
nhân vật đó, Mẹ Ma-ri-a giữ một vị trí nổi bật và quan trọng. Mẹ là hình ảnh Hội
Thánh cƣu mang Chúa Cứu Thế cho nhân loại, là ngƣời cộng tác tích cực trong
chƣơng trình cứu độ của Thiên Chúa. Qua Mẹ thế gian đón nhận hồng ân của
Thiên Chúa và cùng với Mẹ chúng ta chiêm ngƣỡng và tôn thờ Đấng Mẹ sinh ra.
2. Mùa Giáng sinh
Mùa Giáng sinh mừng kính mầu nhiệm Nhập thể, Con Thiên Chúa làm ngƣời.
Trong ba thế kỷ đầu Hội Thánh chỉ mừng kính một lễ duy nhất là lễ Phục sinh, hằng
tuần vào ngày Chúa nhật và hằng năm vào dịp lễ Vƣợt qua. Nhƣng đến thế kỷ IV xuất
hiện một lễ mới là lễ Giáng sinh, tức lễ mừng Con Thiên Chúa đến ở giữa trần gian. Khi
mừng lễ Giáng sinh, Hội Thánh vừa tƣởng niệm biến cố Giáng sinh của Ngôi Hai Thiên
Chúa làm ngƣời, vừa Ki-tô hoá các lễ ngoại giáo vào ngày đông chí, đƣợc cử hành tại
Rô-ma ngày 25 tháng 12 và tại Ai Cập ngày 6 tháng 1. Mặc dù hai nơi mừng hai ngày
khác nhau, nhƣng cũng chỉ một lễ duy nhất với hai tên gọi khác nhau: ngƣời Rô-ma gọi là
Lễ Sinh nhật của Chúa Ki-tô -Mặt trời, còn bên Đông phƣơng gọi là lễ Chúa tỏ mình ra
cho muôn dân.
Trong khi đó lễ Hiển linh mừng ngày 6 tháng 1 lại có nguồn gốc từ Đông phƣơng.
Thực ra anh em Đông phƣơng không nhấn mạnh vào biến cố Giáng sinh lịch sử cho bằng
mầu nhiệm “Thiên Chúa tỏ mình cho nhân loại qua Hài nhi Giê-su”. Đối với họ ý nghĩa
“tỏ mình” này cũng bao hàm trong mầu nhiệm Giáng sinh nhƣ anh em Tây phƣơng.
Giáng sinh theo cách hiểu của anh em Đông phƣơng chính là khám phá mầu nhiệm Con
Thiên Chúa đến trần gian và tỏ mình cho nhân loại biết về Thiên Chúa, vì thế sự kiện
Chúa Giê-su chịu phép rửa tại sông Gio-đan đƣợc coi là bằng chứng minh nhiên về việc
Chúa tỏ mình cho nhân loại tƣ cách Mê-si-a của Ngài. Vì nhấn mạnh vào ý nghĩa này,
dần dần Hội Thánh Đông phƣơng khai triển việc “tỏ mình” chung quanh ba mầu nhiệm
mặc khải thần tính của Chúa Giê-su: Các đạo sĩ đến thờ lạy Chúa, Chúa chịu phép rửa và
dấu lạ tiệc cưới Ca-na.
Theo cách nhìn này, cả bên Tây lẫn Đông Phƣơng khi mừng lễ Giáng sinh hay Hiển
linh đều nhấn mạnh Ngôi vị Thiên Chúa của Đức Giê-su. Ngài đến trần gian để tỏ cho
nhân loại biết về Thiên Chúa và để dẫn đƣa họ đến sự sống vĩnh cửu.
Lễ Giáng sinh là một đại lễ đƣợc mừng kính trong tƣơng quan với lễ Phục sinh.
Mầu nhiệm Giáng sinh giúp chúng ta hiểu rõ mầu nhiệm Vƣợt qua bằng cách chỉ cho
chúng ta thấy Đấng Cứu Độ chịu treo trên thập giá chính là Con Thiên Chúa làm ngƣời.
Ngài làm ngƣời để chia sẻ thân phận con ngƣời và để phục hồi phẩm giá của con ngƣời.
Khi mặc lấy bản tính nhân loại, Ngài cho chúng ta đƣợc tham dự vào sự sống thần linh
của Thiên Chúa và cho chúng ta đƣợc làm con Thiên Chúa. Hơn nữa, Con Thiên Chúa
đến làm ngƣời nhƣ ánh sáng đến xua tan bóng đêm tội lỗi và sự ác. Ánh sáng này sẽ
chiến thắng bóng tối của ma qủy và sự ác trong mầu nhiệm Vƣợt qua của Đức Ki-tô.
Chính vì thế mà các lời nguyện trong phụng vụ Giáng sinh đều ca ngợi Nguồn Ánh Sáng
thật đến chiếu soi trần gian và xin Nguồn Sáng ấy rực lên trong đời sống của con ngƣời.
3. Mùa Chay
Là thời kỳ chuẩn bị cho các tín hữu đón mừng lễ Vƣợt qua. Đối với các dự tòng,
đây là thời kỳ đƣợc chuẩn bị trực tiếp để có thể lãnh các Bí tích khai tâm vào Đêm Phục
sinh. Còn đối với những ngƣời đã chịu thánh tẩy, thì đó là thời gian hoán cải và sám hối,
là lúc họ thanh luyện đời sống và củng cố đức tin. Tất cả đều đƣợc chuẩn bị kỹ lƣỡng cho
một cử hành long trọng vào dịp lễ Vƣợt qua.
Cũng nhƣ mùa Phục sinh kéo dài 50 ngày thì mùa Chay kéo dài khoảng 40 ngày.
Con số này theo các giáo phụ mang ý nghĩa biểu tƣợng của nhiều sự kiện và biến cố
trong Kinh Thánh: 40 năm dân Do Thái đi trong hoang địa tiến về đất hứa, 40 ngày Mô-
sê ở núi Si-nai diện kiến Thiên Chúa, 40 ngày Ê-li-a đã trải qua để đến Khô-rép, 40 ngày
Đa-vít phải đối đầu với Gô-li-át, 40 ngày ngôn sứ Giô-na giảng sám hối tại Ni-ni-vê và
40 ngày chay tịnh của Chúa Giê-su trong hoang địa.
Ngƣời ta không biết một cách chắc chắn mùa Chay do ai thiết lập và đã xuất hiện ở
đâu trƣớc tiên, chỉ biết vào khoảng cuối thế kỷ III đầu thế kỷ IV tại Ai Cập mùa Chay đã
hình thành một cách rõ nét; còn tại Rô-ma vào cuối thế kỷ IV đã có các quy định chặt chẽ
về mùa Chay. Một trong những đặc tính nổi bật của mùa chay là việc giữ chay tịnh. Việc
giữ chay này vừa nhằm chuẩn bị xa cho Đại lễ Phục sinh, vừa theo gƣơng Đức Giê-su giữ
chay tịnh trong hoang địa 40 ngày trƣớc khi bƣớc vào cuộc đời công khai (Mt 4,1-11; Mc
1,12-13; Lc 4,l-13). Ngoài việc giữ chay tịnh thì cầu nguyện và thực hành bác ái cũng là
những đặc tính nổi bật của mùa Chay. Hội Thánh luôn liên kết ba hành động: chay tịnh,
cầu nguyện và thực hành bác ái trong đời sống của dân Chúa, bởi vì đây chính là giáo
huấn của Chúa Ki-tô (Mt 6,1-18).
Nhƣ vậy mùa Chay mang ý nghĩa cho cả dự tòng lẫn ngƣời tín hữu:
Đối với toàn thể các tín hữu đây là thời gian mọi ngƣời chuyên chăm cầu nguyện,
giữ chay, thi hành bác ái và luyện tập nhân đức.
Đối với các dự tòng đó là thời kỳ chuẩn bị trực tiếp để họ lãnh các Bí tích khai
tâm vào đêm vọng Phục sinh, bằng từ bỏ con ngƣời cũ và mặc lấy con ngƣời mới
trong Chúa Ki-tô.
Đối với các hối nhân đây là thời kỳ đền tội và sám hối để xứng đáng lãnh nhận ơn
tha thứ và hoà giải của Thiên Chúa qua Hội Thánh.
4. Mùa Phục sinh
Mùa Phục sinh kéo dài 50 ngày bắt đầu từ Chúa nhật Phục sinh đến hết lễ Chúa
Thánh Thần hiện xuống. Thời gian này đƣợc cử hành trong niền hân hoan phấn khởi, và
đƣợc coi nhƣ một ngày lễ duy nhất, hơn nữa nhƣ một Đại Chúa nhật. Những chỉ dẫn trên
của Hội Thánh cho thấy tầm quan trọng của mùa Phục sinh trong cử hành Phụng vụ Ki-tô
giáo. Thật vậy, ngay từ những thế kỷ đầu lễ Phục sinh không chỉ đƣợc mừng kính trong
một ngày nhƣng kéo dài nhiều ngày. Các chứng từ của Hội Thánh Giê-ru-sa-lem vào thế
kỷ IV cho thấy mùa Phục sinh kéo dài 50 ngày với các cử hành quan trọng sau đây:
Tám ngày sau lễ Phục sinh đƣợc gọi là Tuần Bát nhật Phục sinh. Ngƣời ta gọi thời
gian này là Lễ Phục sinh kéo dài và đƣợc cử hành nhƣ các ngày lễ trọng kính Chúa.
Trong suốt tám ngày các tân tòng tham dự những buổi cầu nguyện đặc biệt và đƣợc huấn
luyện thêm về giáo lý sau khi đã chịu thánh tẩy. Còn trong cử hành Phụng vụ, các trình
thuật về việc Chúa sống lại theo Tin Mừng thứ tƣ (thánh Gio-an) chiếm vị trí đặc biệt, và
vào ngày thứ tám ngƣời ta luôn luôn đọc trình thuật Ga 20,19-31 (tám ngày sau, Chúa hiện
đến với các môn đệ có Tô-ma ở với họ).
Phụng vụ Lời Chúa trong mùa Phục sinh đƣợc lấy từ hai sách Công vụ Tông Đồ và
Tin mừng theo thánh Gioan. Sách Công vụ Tông Đồ hầu nhƣ đƣợc đọc hằng ngày, ngày
thƣờng cũng nhƣ Chúa nhật. Bài đọc I của ngày Chúa nhật không phải là bài Cựu Ƣớc
nữa mà đƣợc thay thế bằng bài Công vụ Tông Đồ.
5. Mùa Thƣờng Niên
Ngoài các mùa đặc biệt (Chay, Phục sinh, Vọng, Giáng sinh) xoay quanh hai Đại lễ
Phục sinh và Giáng sinh, năm Phụng vụ còn có mùa Thƣờng niên, gồm hai phần:
- Phần I: là những tuần lễ nằm trong khoảng từ sau lễ Chúa Giê-su chịu phép Rửa
đến đầu mùa Chay;
- Phần II: gồm những tuần lễ nằm sau lễ Hiện xuống đến hết thứ bảy tuần 34
Thƣờng niên.
Trong mùa Thƣờng niên, Hội Thánh không cử hành một khía cạnh nào đặc biệt về
mầu nhiệm Đức Ki-tô, nhƣng tôn kính mầu nhiệm Ngài trong toàn thể. Điều này đƣợc
biểu lộ rõ nét nhất nơi các Chúa nhật Thƣờng niên. Trong các Chúa nhật này, Hội Thánh
khám phá các khía cạnh của mầu nhiệm Đức Ki-tô, chẳng hạn từ việc loan báo Đấng Cứu
Thế trong thời Cựu Ƣớc đến việc xuất hiện của Chúa Giê-su; hoặc từ lời rao giảng Tin
Mừng đến các việc Chúa làm trong cuộc đời công khai; hoặc các tƣơng quan của Đức Ki-
tô với Chúa Cha và con ngƣời; hoặc từ biến cố Nhập thể đến cuộc Vƣợt qua của Ngài ...
Nhƣ thế, Phụng vụ mùa Thƣờng niên là thời gian “khai triển, cảm nếm và thấm nhuần”
mầu nhiệm Đức Ki-tô toàn thể dƣới các khía cạnh khác nhau. Thời gian này cần thiết để
ngƣời tín hữu hiểu biết đầy đủ hơn về mầu nhiệm Đức Ki-tô và để các chân lý đức tin về
Đức Ki-tô đƣợc thấm nhuần hơn trong cuộc đời ngƣời tín hữu. Quả thật nếu mầu nhiệm
Phục sinh và Giáng sinh là các cao điểm trong năm Phụng vụ, thì các mầu nhiệm đó cần
đƣợc tái khám phá và đào sâu hơn nữa trong suốt mùa Thƣờng niên.
6. Các lễ kính các thánh
Ngoài các cử hành ngày Chúa nhật, Hội Thánh còn giúp ngƣời tín hữu khám phá
vinh quang và sự kỳ diệu của Thiên Chúa khi mừng kính Đức Ma-ri-a và các thánh.
“Trong khi cử hành các mầu nhiệm của Chúa Ki-tô theo chu kỳ hằng năm, với một tình
yêu mến đặc biệt, Hội Thánh tôn kính Đức Ma-ri-a vinh hiển, Mẹ Thiên Chúa, Đấng đã
liên kết với công trình cứu chuộc của Con Ngài bằng mối dây bất khả phân ly. Nơi Mẹ,
Hội Thánh ngƣỡng mộ và tán tụng thành quả tuyệt diệu của công trình cứu chuộc, và vui
mừng chiêm ngắm nơi Mẹ, nhƣ trong một hình ảnh tinh tuyền trọn hảo, điều mà toàn thể
Hội Thánh ƣớc mong và trông đợi (PV 103). (GLCG 1172)
Ngoài ra, Hội Thánh còn thêm vào năm Phụng vụ những lễ kính nhớ các thánh tử
đạo và các thánh khác. Hội Thánh công bố mầu nhiệm Phục sinh nơi các ngài, vì các ngài
đã cùng chịu thƣơng khó và cùng đƣợc vinh hiển với Đức Ki-tô. Hội Thánh trình bày cho
các tín hữu những gƣơng mẫu của các ngài để các gƣơng sáng này lôi kéo mọi ngƣời đến
với Chúa Cha qua Chúa Ki-tô; và nhờ công nghiệp các ngài, Hội Thánh lãnh nhận đƣợc
những hồng ân của Thiên Chúa (PV 104). (GLCG 1173)
Cũng trong mùa Thƣờng niên Hội Thánh giúp ngƣời tín hữu khám phá tác động của
Chúa Thánh Thần trong đời sống Hội Thánh. Nếu các mùa đặc biệt Hội Thánh đào sâu
trực tiếp về mầu nhiệm Chúa Giê-su, thì trong mùa Thƣờng niên mầu nhiệm này đƣợc tái
khám phá dƣới sự hƣớng dẫn và trợ giúp của Thánh Thần.
V. LỄ TRỌNG, LỄ KÍNH VÀ LỄ NHỚ
1. Lễ trọng
Lễ trọng là những ngày đặc biệt trong năm Phụng vụ mừng kính các mầu nhiệm cứu
độ của Thiên Chúa, các đặc ân của Đức Ma-ri-a hay những vị thánh quan trọng trong đời
sống Hội Thánh.
Có hai loại lễ trọng đƣợc mừng kính trong năm Phụng vụ:
1. Lễ trọng chung
Tức các lễ trọng mà toàn thể Hội Thánh hoàn vũ đều mừng. Những lễ trọng này
đƣợc xác định rõ ngày mừng trong các sách Phụng vụ. Trong một năm Phụng vụ, có 17 lễ
trọng chung, đƣợc phân chia nhƣ sau:
- 10 lễ về Chúa: Phục sinh, Giáng sinh, Hiển linh, Thăng thiên, Hiện xuống, Chúa
Ba Ngôi, Mình Máu Thánh Chúa, Thánh Tâm, Truyền tin (25/3), Chúa Ki-tô Vua.
- 3 lễ về Đức Mẹ: Mẹ Thiên Chúa (1/1), Hồn xác lên trời (15/8), Vô nhiễm nguyên
tội (8/12).
- 4 lễ về các thánh: thánh Giu-se (19/3), Sinh nhật Gio-an Tẩy Giả (24/6), Phê-rô và
Phao-lô (29/6), Các Thánh Nam Nữ (1/11).
2. Lễ trọng riêng
Là các lễ trọng dành riêng cho một địa phƣơng, cho một nhà thờ hay một hội dòng.
Nhƣ vậy lễ trọng riêng chỉ có giá trị trong một địa hạt nhất định và chỉ dành cho những
ngƣời thuộc địa hạt đó. Sách lễ Rô-ma nêu ra các lễ trọng riêng nhƣ sau: Lễ trọng thánh
bổn mạng chính của địa phương, thành phố hay quốc gia; Lễ trọng cung hiến thánh
đường, hay ngày kỷ niệm cung hiến thánh đường đó; Lễ trọng mừng tước hiệu của nhà
thờ; Lễ trọng của dòng tu hay tu hội mừng tước hiệu, hoặc Đấng sáng lập dòng, hay bổn
mạng chính của dòng.
Ngoài các lễ trọng, Phụng vụ còn đề cập đến “Thánh lễ được kính trọng thể”. “Kính
trọng thể” không có nghĩa là Thánh lễ đó luôn luôn phải là lễ trọng theo lịch chung của
Hội Thánh. Kính trọng thể chỉ mang nghĩa là mừng kính lại cách đặc biệt hơn một lần
nữa. Một Thánh lễ nào đó ở trong tuần được dời vào ngày Chúa nhật Thường niên vì lợi
ích mục vụ của ngƣời tín hữu. Do đó lễ đƣợc kính trọng thể có thể là một lễ trọng, cũng
có thể là lễ kính Chúa theo lịch chung của Hội Thánh hoàn vũ, và đƣợc mừng kính lại
vào Chúa nhật Thƣờng niên vì lợi ích mục vụ của các tín hữu.
2. Lễ kính
Lễ kính ở bậc thấp hơn lễ trọng và chỉ mừng trong giới hạn một ngày, vì thế không
có kinh chiều I, trừ khi lễ kính Chúa trùng ngày Chúa nhật Giáng sinh hay thƣờng niên.
Sự phân biệt giữa lễ trọng và lễ kính là do Truyền thống Tông Đồ và Thẩm quyền
trong Hội Thánh quyết định. Các lý do để mừng lễ trọng thƣờng gắn liền với các mầu
nhiệm cứu độ (vd: Chúa Ki-tô Phục sinh) hay chân lý đức tin (vd: Mẹ Thiên Chúa, Mẹ
Vô nhiễm), hay chỗ đứng rất quan trọng của vị thánh được mừng kính (vd: Phê-rô và
Phao-lô). Trong khi đó các lễ kính thƣờng gắn liền với các biến cố trong cuộc đời của
Chúa Giê-su (vd: Chúa chịu phép rửa) hay cuộc đời Đức Mẹ (vd: Thăm viếng) hay các vị
thánh Tông Đồ và các vị thánh có vị trí đặc biệt trong toàn thể đời sống Hội Thánh (vd:
Gio-an, Mát-thêu, Lu-ca, Stê-pha-nô ...)
3. Lễ nhớ
Trong lịch phụng vụ của Hội Thánh có hai loại lễ nhớ: buộc và tự do. Lễ nhớ buộc
đòi phải cử hành đúng ngày lễ theo lịch Phụng vụ đã ghi, trừ trƣờng hợp gặp các lễ khác
trùng vào lễ nhớ này có quyền ƣu tiên hơn. Còn lễ nhớ tự do thì đƣợc quyền chọn lựa có
thể cử hành hay không tuỳ nhu cầu mục vụ. Các lễ nhớ buộc hay tự do trong lịch Phụng
vụ hiện nay đều liên quan đến Đức Ma-ri-a và các thánh, và không có các lễ nhớ về
Chúa.
4. Lễ nhu cầu
Lễ nhu cầu là những lễ không đƣợc xác định rõ ràng theo ngày trong lịch chung của
Hội Thánh hoàn vũ, nhƣng là các lễ theo nhu cầu của mỗi cộng đoàn địa phƣơng và khi
nào nhu cầu cộng đoàn địa phƣơng đòi hỏi thì ngƣời ta sẽ cử hành các lễ nhu cầu này.
Các lễ theo nhu cầu đƣợc chia làm ba loại:
Lễ có nghi thức riêng, tức là những Thánh lễ đi đôi với việc cử hành một bí tích
hay á bí tích nào đó. Ví dụ khi nhu cầu cộng đoàn đòi hỏi, ngƣời ta sẽ cử hành
thánh lễ trong đó ban bí tích Thêm sức, Truyền chức, Hôn phối, Xức dầu bệnh
nhân, chúc phong viện phụ, khấn dòng, hay cung hiến nhà thờ ...
Lễ cho các nhu cầu khác nhau theo hoàn cảnh, hay vào từng thời kỳ nhất định của
dân Chúa. Ví dụ: lễ tạ ơn, lễ cầu mùa, cầu bình an, xin ơn hiệp nhất, xin ơn tha tội,
xin ơn thiên triệu ...
Lễ ngoại lịch là lễ do lòng đạo đức của giáo dân để kính nhớ những mầu nhiệm về
Chúa, hoặc để tôn kính Đức Trinh Nữ Ma-ri-a hay vị thánh nào đó hoặc tất cả các
thánh. Ví dụ: thứ năm đầu tháng kính Mình Máu Chúa Ki-tô, thứ sáu đầu tháng
kính Thánh Tâm Chúa Giê-su, thứ bảy đầu tháng kính Đức Mẹ.
Giúp ghi nhớ
1. Năm Phụng vụ là chu kỳ thời gian một năm Hội Thánh cử hành toàn thể mầu
nhiệm Đức Ki-tô, từ lúc Ngài nhập thể cho đến ngày Ngài lại đến trong vinh quang.
Trong một số ngày, Hội Thánh tôn kính Đức Trinh Nữ Maria diễm phúc, Mẹ Thiên
Chúa, với một lòng trìu mến đặc biệt; Hội Thánh cũng kính nhớ các thánh là những
ngƣời đã sống cho Đức Ki-tô, đã chịu đau khổ với Ngài và hiện đang ở với Ngài
trong vinh quang. (TYGL 242)
2.Trung tâm của thời gian Phụng vụ là ngày Chúa nhật, nền tảng và cốt lõi của cả
năm Phụng vụ. Năm Phụng vụ có chóp đỉnh là lễ Phục sinh, ngày “lễ của các ngày
lễ.” (TYGL 241)
3. Năm Phụng vụ đƣợc tổ chức thành 5 mùa khác nhau giúp ta sống mầu nhiệm Đức
Ki-tô, hầu chuẩn bị đón Ngài trở lại trong vinh quang. Năm mùa này gồm có: Mùa
Vọng, mùa Giáng sinh, mùa Chay, mùa Phục sinh và mùa Thƣờng niên.
Gợi ý suy nghĩ
1. Mỗi mùa trong năm Phụng vụ đã giúp bạn sống mầu nhiệm Đức Ki-tô nhƣ thế nào?
2. Khi tham dự Phụng vụ Tuần Thánh, nhất là Tam Nhật Vƣợt qua, bạn có những tâm
tình sâu đậm nào? Chúng có ảnh hƣởng gì trên cuộc sống đức tin của bạn?
3. Làm sao để giúp các học sinh giáo lý sống ý thức và tích cực hơn các mùa của năm
Phụng vụ?
4. Chúa nhật là “ngày của Chúa”, ngày đặc biệt trong tuần để thờ phƣợng Chúa (phục vụ
Chúa) và sống bác ái yêu thƣơng anh chị em (phục vụ mọi ngƣời). Bạn đã sống ý
nghĩa Ngày Chúa nhật nhƣ thế nào? Là Giáo lý viên, bạn đã giúp các học sinh giáo lý
của mình sống ý nghĩa Ngày Chúa nhật ra sao?
(Từ Giáo lý Giáo Phận Nha Trang)
PHỤ LỤC
Thứ tự ƣu tiên trong việc cử hành các ngày phụng vụ phải nhất thiết căn cứ
vào bảng quy định sau đây :
I
1* TAM NHẬT VƢỢT QUA tƣởng niệm cuộc Thƣơng khó và Phục sinh của
Chúa.
2* Lễ Giáng Sinh, Hiển Linh, Thăng Thiên và Hiện Xuống.
Các Chúa Nhật mùa Vọng, mùa Chay và mùa Phục sinh.
Thánh lễ an táng (QCTQ 380 : cấm cả sáng và chiều thứ Năm Tuần Thánh)
Thứ Tƣ Lễ Tro.
Các ngày trong Tuần Thánh từ thứ Hai đến hết thứ Năm.
Các ngày trong Tuần Bát Nhật Phục sinh.
3* Các lễ trọng kính Chúa, Đức Mẹ và các Thánh có ghi trong lịch chung.
Lễ cầu cho mọi tín hữu đã qua đời (2/11).
4* Các lễ trọng riêng, tức là :
a) Lễ trọng thánh bổn mạng chính của địa phƣơng, thành phố hay quốc gia;
b) Lễ trọng Cung hiến thánh đƣờng, hay ngày kỷ niệm cung hiến thánh đƣờng
đó.
c) Lễ trọng mừng tƣớc hiệu của nhà thờ.
d) Lễ trọng của dòng tu hay tu hội mừng tƣớc hiệu, hoặc thánh sáng lập dòng,
hay bổn mạng chính của dòng.
II
Thánh lễ có nghi thức riêng (QCTQ 372)
Thánh lễ tùy nhu cầu và ngọai lịch theo lệnh của đấng bản quyền địa phƣơng
(QCTQ 374)
5* Các lễ kính Chúa có ghi trong lịch chung.
6* Các Chúa Nhật mùa Giáng Sinh và Thƣờng niên.
7* Các lễ kính Đức Mẹ và các thánh có ghi trong lịch chung.
8* Các lễ kính riêng, tức là :
a) Lễ bổn mạng của chính địa phận.
b) Lễ kỷ niệm cung hiến nhà thờ Chánh Tòa.
c) Lễ kính bổn mạng chính của miền, tỉnh, nƣớc hay một vùng rộng lớn.
d) Lễ kính của dòng tu hay tu hội và tỉnh dòng mừng tƣớc hiệu, thánh sáng
lập, thánh bổn mạng, trừ những điểm đã nói trong số 4.
e) Các lễ kính khác có ghi trong lịch địa phận, dòng tu hay tu hội.
Thánh lễ cầu hồn khi vừa đƣợc tin một ngƣời qua đời hay trong ngày giỗ đầu
(QCTQ 381)
9* Các ngày trong tuần thuộc mùa Vọng từ 17/12 đến hết 24/12.
Các ngày trong tuần Bát Nhật Giáng Sinh.
Các ngày trong tuần mùa Chay.
III
Thánh lễ tùy theo nhu cầu và ngoại lịch theo sự xét đoán của vị phụ trách
thánh đƣờng hay của chính linh mục chủ tế (QCTQ 376)
10* Các lễ nhớ bắt buộc có ghi trong lịch chung.
11* Các lễ nhớ bắt buộc riêng, tức là :
a) Các lễ nhớ bổn mạng phụ của địa phƣơng, địa phận, miền hay tỉnh, quốc
gia, một vùng rộng lớn, của dòng tu hay tu hội và tỉnh dòng.
b) Ít nhiều lễ nhớ bắt buộc riêng của một vài nhà thờ.
c) Các lễ nhớ không bắt buộc đã nói tới một cách đặc biệt trong Quy chế tổng
quát về thánh lễ và thần vụ, thì có thể xảy ra vào cả ngày đã nói ở số 9. Cũng
vì lý do đó, khi những lễ nhớ bắt buộc trùng với những ngày trong tuần mùa
Chay, thì có thể cử hành nhƣ lễ nhớ không bắt buộc.
13* Các ngày trong tuần, từ đầu mùa Vọng đến hết 16/12.
Các ngày trong tuần mùa Giáng Sinh từ 2/1 đến thứ bảy sau lễ Hiển Linh.
Các ngày trong tuần thuộc mùa Phục sinh, từ thứ Hai sau tuần Bát Nhật Phục
sinh đế thứ Bảy trƣớc lễ Hiện Xuống.
Thánh lễ tùy nhu cầu và ngọai lịch theo lòng đạo đức của giáo dân (QCTQ
377).
Thánh lễ cầu hồn hằng ngày (QCTQ 381)
Các ngày trong tuần thuộc mùa thƣờng niên.
Phải cầu nguyện và cầu nguyện luôn, đó là điều Chúa Giê-su đã dạy các môn đệ
trong thời gian Ngài đi rao giảng (x. Lc 18,1)
Sách Công vụ cho thấy các tín hữu thuở ban đầu đã chuyên cần cầu nguyện vào
những thời khắc nhất định. Các môn đệ họp nhau cầu nguyện vào giờ thứ ba (Cv 2,15), vị
thủ lãnh các Tông Đồ “lên sân thƣợng cầu nguyện vào giờ thứ sáu” (10,9), ông Phê-rô và
ông Gio-an lên đền thờ vào buổi cầu nguyện giờ thứ chín (3,1), “vào quãng nửa đêm, ông
Phao-lô và ông Xi-la cầu nguyện ca tụng Chúa” (16,25). Dần dà với thời gian, “tại nhiều
nơi đã sớm có thói quen dành những khoảng thời gian rõ rệt để cầu nguyện chung với nhau
nhƣ vào giờ cuối ngày, khi trời tối và lúc lên đèn, hoặc giờ đầu ngày, lúc đêm tàn và ngày ló
rạng” (PV 1) để thánh hoá ngày sống của mình.
Những buổi cầu nguyện chung nhƣ thế dần dần tạo thành một chu kỳ giờ kinh nhất
định.
I. Ý NGHĨA
Giờ Kinh Phụng Vụ là lời cầu nguyện liên lỉ của toàn thể Hội Thánh để thánh hóa ngày giờ
và toàn bộ sinh hoạt của con ngƣời.
Cầu nguyện là nhiệm vụ chính yếu của các Kitô hữu vì Hội Thánh làm theo lời Chúa Kitô
dạy là “phải cầu nguyện luôn, không được nản chí” (Lc 18,1). Thật vậy, ngay từ thời các
tông đồ, các tín hữu đã chuyên cần cầu nguyện vào những thời khắc nhất định. Sách Công
Vụ kể các môn đệ họp nhau cầu nguyện vào giờ thứ ba (Cv 2,15), vị thủ lãnh các tông đồ
“lên sân thượng cầu nguyện vào giờ thứ sáu” (10,9), ông Phêrô và ông Gioan lên đền thờ
vào buổi cầu nguyện giờ thứ chín (3,1), “vào quãng nửa đêm, ông Phaolô và ông Xila cầu
nguyện ca tụng Chúa” (16,25). Dần dà với thời gian, “tại nhiều nơi đã sớm có thói quen
dành những khoảng thời gian rõ rệt để cầu nguyện chung với nhau như vào giờ cuối ngày,
khi trời tối và lúc lên đèn, hoặc giờ đầu ngày, lúc đêm tàn và ngày ló rạng” (KPV 1) để
thánh hóa ngày sống của mình.
Những buổi cầu nguyện chung nhƣ thế dần dần tạo thành một chu kỳ giờ kinh nhất định,
và đó là lời cầu nguyện của Hội Thánh cùng với Chúa Kitô và dâng lên Chúa Kitô.
“Nhƣ Chúa Ki-tô đƣợc Chúa Cha sai đi thế nào, thì chính Ngài cũng sai các Tông
Đồ đi nhƣ vậy... để các ngài thực thi công việc cứu chuộc mà các ngài loan báo, nhờ Hiến
tế Thánh Thể và các bí tích, trung tâm điểm của toàn thể đời sống Phụng vụ” (PV 6).
Các bí tích có mục đích thánh hoá con ngƣời, xây dựng thân thể Chúa Ki-tô, và sau
cùng là thờ phƣợng Thiên Chúa. Do đó, việc rất quan trọng là làm sao cho các tín hữu dễ
dàng hiểu đƣợc những dấu chỉ của các bí tích, và hết sức siêng năng lui tới đón nhận các
bí tích, là những bí tích đƣợc lập ra để nuôi dƣỡng đời sống Ki-tô hữu. (PV 59)
I. BÍ TÍCH LÀ GÌ?
Bí tích là ơn Chúa (hay gặp gỡ Chúa) đƣợc ban qua các dấu chỉ hữu hình
và hữu hiệu, do Chúa Kitô thiết lập và ủy thác cho Hội Thánh cử hành trong
phụng vụ.
Nhƣ vậy, một cử hành đƣợc xem là phụng vụ bí tích gồm các yếu tố sau đây :
- Phải là những dấu chỉ bề ngòai (khả giác) mà chúng ta có thể cảm nhận
đƣợc (nước, đặt tay, lời cầu ...).
- Phải là những dấu chỉ do Chúa Ki-tô thiết lập cách nào đó rồi ủy thác cho
Hội Thánh. Các dấu chỉ ban ơn do Hội Thánh trực tiếp thiết lập không đƣợc gọi là
bí tích mà chỉ là Phụ tích.
- Phải là những dấu chỉ hữu hiệu, nghĩa là thông chuyển ơn thánh qua cử
hành phụng vụ của Hội Thánh. Vì thế để cho dấu chỉ hữu hiệu hay sinh hiệu quả,
nhất thiết phải do thừa viên hợp pháp của Hội Thánh cử hành đúng nghi thức phụng
vụ.
Các bí tích là những dấu chỉ khả giác và hữu hiệu của ân sủng, do Đức Ki-tô thiết
lập và ủy thác cho Hội Thánh; qua các bí tích, sự sống thần linh đƣợc trao ban cho chúng
ta. Có bảy bí tích: Rửa tội, Thêm sức, Thánh Thể, Giao hòa, Xức dầu bệnh nhân, Truyền
chức thánh và Hôn phối. (TYGL 224) {TYGL: Bản Toát yếu Sách Giáo Lý của Hội
Thánh Công Giáo, Bản dịch của Uỷ Ban Giáo lý Đức Tin, Hội Đồng Giám Mục Việt
Nam, 2007}.
Bảy bí tích trải suốt cuộc sống con ngƣời, và thánh hoá những thời điểm quan trọng
nhất của đời ngƣời: sinh ra, lớn lên, trƣởng thành, lìa đời. Bởi vậy bảy bí tích đƣợc phân
loại nhƣ sau:
Các bí tích khai tâm Ki-tô giáo: Rửa tội, Thêm sức và Thánh Thể. Việc khai tâm
Ki-tô giáo đƣợc thực hiện qua ba bí tích đặt nền tảng cho đời sống Ki-tô hữu. Các
tín hữu đƣợc tái sinh nhờ bí tích Rửa tội, đƣợc củng cố nhờ bí tích Thêm sức, và
đƣợc nuôi dƣỡng nhờ bí tích Thánh Thể. (TYGL 251)
Các bí tích chữa lành: Giao hoà và Xức dầu bệnh nhân. Đức Ki-tô là thầy thuốc
chữa lành linh hồn và thể xác, Ngài đã lập các bí tích này vì đời sống mới do Ngài
ban cho chúng ta qua các bí tích khai tâm Ki-tô giáo, có thể bị suy yếu và thậm chí
bị mất đi do tội lỗi. Vì thế, Ngài muốn rằng Hội Thánh tiếp tục công trình chữa lành
và cứu độ của Ngài qua hai bí tích chữa lành. (TYGL 295)
Các bí tích phục vụ cho sự hiệp thông và sứ vụ: Truyền chức thánh và Hôn phối.
Các bí tích này đem lại một ân sủng riêng cho một sứ vụ đặc biệt trong Hội Thánh,
để phục vụ việc xây dựng dân Thiên Chúa. Cả hai đóng góp một cách đặc biệt cho
sự hiệp thông trong Hội Thánh và cho ơn cứu độ của những ngƣời khác. (TYGL
321)
Trong các bí tích, bí tích Thánh Thể chiếm một vị trí trung tâm vì bí tích Thánh Thể
là “nguồn mạch và tột đỉnh của đời sống Ki-tô hữu” (x. GH 11). “Những bí tích khác
cũng nhƣ các thừa tác vụ và các hoạt động tông đồ đều gắn liền với bí tích Thánh Thể và
qui hƣớng về đó. Thật vậy, phép Thánh Thể Chí Thánh chứa đựng tất cả của cải thiêng
liêng của Hội Thánh, đó là chính Chúa Ki-tô, Ngài là mầu nhiệm Phục Sinh của chúng
ta” (LM 5). (GLCG 1324)
Khi đƣợc cử hành đúng đắn trong đức tin, các bí tích trao ban ân sủng mà chúng
biểu hiện vì chính Chúa Kitô hoạt động trong quyền năng của Chúa Thánh Thần qua tác vụ
của Hội Thánh. Bí tích là việc Phụng Vụ nên đòi ngƣời ban bí tích (thừa tác viên cử hành)
phải có năng quyền, phải làm theo ý Hội Thánh và làm đúng nghi thức của Hội Thánh; còn
ngƣời nhận bí tích phải có đức tin và ý muốn ngay lành. Không những các bí tích giả thiết
phải có đức tin, mà còn dùng lời nói và sự vật để nuôi dƣỡng, củng cố và diễn tả đức tin đó,
nên đƣợc gọi là các bí tích đức tin.
“Đức tin của Hội Thánh có trƣớc đức tin của ngƣời tín hữu, ngƣời tín hữu đƣợc mời
gọi cùng tin với Hội Thánh. Khi cử hành các bí tích, Hội Thánh tuyên xƣng đức tin đã lãnh
nhận từ các tông đồ; do đó, có ngạn ngữ: „Cầu nguyện thế nào, tin thế ấy. Luật cầu nguyện
là luật đức tin, Hội Thánh tin nhƣ Hội Thánh cầu nguyện. Phụng Vụ là một yếu tố cấu
thành Truyền Thống thánh thiện và sống động của Hội Thánh (x. DV 8)”. (GLCG 1124)
III. MỐI LIÊN HỆ GIỮA CÁC BÍ TÍCH VỚI ĐỨC KI-TÔ VÀ HỘI THÁNH
1. Mối liên hệ giữa các bí tích với Đức Ki-tô
Các mầu nhiệm trong đời sống Đức Ki-tô là nền tảng cho những gì mà ngày hôm
nay, qua các thừa tác viên của Hội Thánh, Đức Ki-tô trao ban trong các bí tích. “Điều
hữu hình nơi Đấng cứu độ chúng ta được chuyển vào trong các Bí tích” (thánh Lêo Cả).
(TYGL 225)
“Tất cả các bí tích của luật mới đều do Đức Giê-su Ki-tô thiết lập” (DS 1600-1601).
Tất cả mọi lời nói và hành động của Đức Ki-tô trong cuộc sống trần thế đã mang giá trị
cứu độ. Những lời nói và hành động ấy thực hiện trƣớc năng lực của Mầu nhiệm Vƣợt
Qua. Và khi mọi sự đƣợc hoàn thành, Ngài trao ban năng lực ấy cho Hội Thánh, để rồi
qua các thừa tác viên trong Hội Thánh, Đức Ki-tô tiếp tục ban phát năng lực cứu độ cho
con ngƣời khi họ lãnh nhận bí tích.
2. Mối liên hệ giữa các bí tích với Hội Thánh
Đức Ki-tô đã ủy thác các bí tích cho Hội Thánh của Ngài. Các bí tích này là “của
Hội Thánh” theo hai nghĩa: các bí tích là “do Hội Thánh,” vì các bí tích là hoạt động của
Hội Thánh, (mà Hội Thánh là bí tích của hoạt động Đức Ki-tô); các bí tích là “cho Hội
Thánh,” theo nghĩa là các bí tích xây dựng Hội Thánh. (TYGL 226)
Chúa Ki-tô đã không ấn định cách minh nhiên con số 7 của Bí tích. Nhƣng theo
dòng thời gian, nhờ sự hƣớng dẫn của Chúa Thánh Thần và với tƣ cách là ngƣời quản lý
trung thành các Mầu nhiệm của Thiên Chúa (1Cr 4,1), Hội Thánh đã xác định 7 bí tích.
Hội Thánh cử hành bí tích qua các thừa tác viên của mình. Nhờ bí tích Rửa tội, mọi tín
hữu đƣợc tham dự vào chức năng tƣ tế của Chúa Ki-tô. Ngoài ra, nhờ bí tích Truyền chức
thánh, còn có một số tín hữu lãnh nhận chức tƣ tế thừa tác, bắt nguồn từ sứ mạng Chúa Ki-
tô trao phó cho các Tông Đồ, và các Tông Đồ trao lại cho các ngƣời kế vị. Vì thế, thừa tác
viên cử hành là sợi dây nối kết hành động bí tích với chính Chúa Ki-tô, suối nguồn và nền
tảng mọi bí tích.
3. Mối liên hệ giữa các bí tích với đức tin
Không những các bí tích giả thiết phải có đức tin, mà các bí tích còn nuôi dƣỡng,
củng cố và diễn tả đức tin, bằng lời đọc và những nghi thức. Qua việc cử hành các bí tích,
Hội Thánh tuyên xƣng đức tin tông truyền. Từ đó có câu thành ngữ cổ “lex orandi, lex
credendi”, điều này muốn nói: Hội Thánh tin nhƣ Hội Thánh cầu nguyện. (TYGL 228)
Bí tích còn đƣợc gọi là bí tích Đức Tin, vì lãnh nhận bí tích giả thiết phải có đức tin,
đồng thời cử hành bí tích là diễn tả và nuôi dƣỡng đức tin. Khi Đức Ki-tô trao phó sứ
mạng cho các Tông Đồ, Ngài nói: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn
đệ, làm phép Rửa cho họ, nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 18,
18-20). Nhƣ thế, để đƣợc thanh tẩy, nghĩa là cử hành bí tích, phải đƣợc nghe Lời Chúa và
qui thuận với Lời, tức là đức tin. Đồng thời, khi cử hành bí tích, Hội Thánh tuyên xƣng
đức tin đƣợc đón nhận từ các Tông Đồ, vì thế mới có câu “Lex orandi, lex credendi”
(Luật cầu nguyện là Luật tin). Hội Thánh tin khi Hội Thánh cầu nguyện và cử hành bí
tích. Và khi ngƣời tín hữu lãnh nhận bí tích Hội Thánh cử hành, đức tin của họ đƣợc nuôi
dƣỡng và phát triển.
4. Ấn tín bí tích
Là một dấu ấn thiêng liêng đƣợc thông ban trong các Bí tích Rửa tội, Thêm sức và
Truyền chức thánh. Ấn tín này là lời hứa và bảo đảm cho sự che chở của Thiên Chúa.
Nhờ ấn tín, ngƣời Ki-tô hữu trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô; họ đƣợc tham
dự vào chức tƣ tế của Ngài theo nhiều cách. Họ là thành phần trong Hội Thánh theo
những bậc sống và phận vụ khác nhau; nhƣ thế, ơn gọi của họ là phụng thờ Thiên Chúa
và phục vụ Hội Thánh. Vì ấn tín không thể xóa đi đƣợc, nên ba bí tích trao ban ấn tín, chỉ
đƣợc nhận một lần trong đời. (TYGL 227)
Ngoài ân sủng đƣợc trao ban, khi lãnh nhận bí tích Rửa tội, Thêm sức và Truyền
chức thánh, ngƣời tín hữu còn đƣợc ghi một dấu thiêng liêng đặc biệt, gọi là ấn tín. Nhờ
ấn tín này họ đƣợc tham dự vào chức tƣ tế của Đức Ki-tô và đời sống Hội Thánh, với
những nhiệm vụ khác nhau. Ấn tín là dấu không thể xóa nhòa, và vì thế, đối với ba bí tích
này, ngƣời tín hữu chỉ lãnh nhận một lần mà thôi.
Ghi nhớ
1. Bí tích là những dấu chỉ khả giác và hữu hiệu của ân sủng, do Chúa Giê-su thiết lập
và trao cho Hội Thánh để thông ban sự sống thần linh của Ngài cho ta.
2. Có bảy bí tích, đƣợc phân loại nhƣ sau:
- Các bí tích khai tâm Ki-tô giáo: Rửa tội, Thêm sức và Thánh Thể
- Các bí tích chữa lành: Giao hòa và Xức dầu bệnh nhân,
- Các bí tích phục vụ cho sự hiệp thông và sứ vụ: Truyền chức thánh và Hôn phối.
3. Ân sủng bí tích là ân sủng của Chúa Thánh Thần, đƣợc Đức Ki-tô trao ban, mỗi bí
tích theo một cách. Ân sủng này giúp ngƣời tín hữu trên bƣớc đƣờng nên thánh, và
cũng giúp Hội Thánh tăng trƣởng trong đức ái và trong chứng từ của mình.
4. Phụng vụ bí tích là việc thừa tác viên làm các dấu chỉ đúng nghi thức của Hội Thánh
để chuyển ơn Chúa xuống cho những ngƣời muốn lãnh nhận.Dấu chỉ hữu hiệu là khi
có thừa tác viên hợp pháp của Hội Thánh cử hành đúng nghi thức phụng vụ. Ngƣời
nhận bí tích phải có đức tin, ý muốn ngay lành và một chút hiểu biết nào đó thì việc
lãnh nhận bí tích mới có hiệu quả.
Câu truyện hai môn đệ trên đƣờng Em-mau (x. Lc 24, 30-31).
Sau khi Chúa Giêsu chịu chết, các tông đồ rất thất vọng, sợ hãi. Bởi vì Thầy của họ
không còn nữa. Ngƣời Thầy mà họ đã từ bỏ gia đình, quê quán… để đi theo. Ngƣời Thầy
đã từng yêu thƣơng, dạy dỗ, cùng ăn, cùng uống với họ. Ngƣời Thầy mà họ hy vọng sẽ có
ngày làm vua Israel! Ngài đã bị kết án tử hình và đã chết trên thập giá. Bây giờ họ không
biết đi theo ai.
Trong tâm trạng chán nản và thất vọng nhƣ thế, hai môn đệ quyết định trở về quê nhà. Họ
đang trên đƣờng về làng Em-mau, cách Giê-ru-sa-lem khoảng 11 cây số. Họ vừa đi vừa nói
chuyện về cái chết của Thầy. Lúc đó, Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra, đến bên họ và hỏi:
Các anh đang trao đổi với nhau chuyện gì vậy?
Họ dừng lại, vẻ mặt buồn rầu nhƣng không hề nhận ra đó là Thầy mình. Rồi họ kể cho
Chúa Giêsu nghe về biến cố mới xảy ra mấy ngày qua, mấy bà ra thăm mộ Chúa nhƣng
không thấy xác Ngài đâu, và còn thấy thiên thần hiện ra với các bà và nói rằng Chúa đã
sống lại!
Chúa Giêsu giải thích Kinh Thánh cho hai ông nghe, nhƣng họ vẫn chƣa nhận ra Ngài.
Khi đến gần làng Em-mau, Chúa Giêsu vờ nhƣ muốn đi xa hơn, nhƣng hai ông đã mời
Chúa Giêsu ở lại vì trời đã gần tối.
Chúa Giêsu đã ở lại với họ. Đến bữa ăn, Chúa cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra và trao cho
họ…Chính nhờ cử chỉ này mà hai môn đệ Em-mau đã nhận ra Chúa Giêsu Phục Sinh. Có
thể nói đây là thánh lễ đầu tiên sau khi Chúa Phục Sinh.
Theo các trình thuật Tân Ƣớc, Chúa Giê-su đã thiết lập bí tích Thánh Thể trong bữa
ăn Vƣợt Qua của ngƣời Do Thái (x. Mt 26,26-29; Mc 14,22-25; Lc 22,19-20; 1Cr 11,23-
25). Chính trong bữa ăn này, Ngài đã truyền cho các Tông Đồ làm lại cử chỉ Ngài vừa
làm “Các con hãy làm việc này để tưởng nhớ đến Thầy” (1Cr 11,25).
Các Ki-tô hữu đầu tiên đã thực hiện điều Chúa truyền dạy, mọi ngƣời đến và cùng
nhau chia sẻ bữa ăn huynh đệ. Bữa ăn này họ gọi là Bữa ăn của Chúa. (1 Cr 11, 23-25).
Dần dần việc cử hành Thánh Thể đƣợc tách rời khỏi bữa ăn thông thƣờng và mang những
nét đặc thù riêng của Ki-tô giáo.
Ngày nay khi cử hành Thánh lễ, Hội Thánh thi hành lệnh truyền mà Chúa Giê-su đã
truyền cho các Tông Đồ xƣa.
I. LỊCH SỬ THÁNH LỄ
1. Giai đoạn hình thành và phát triển
Từ thế kỷ II, chúng ta có chứng từ của thánh Giút-ti-nô tử đạo về những diễn tiến
chính của một Thánh lễ. Cho đến nay, diễn tiến này vẫn không thay đổi trong các Nghi
Lễ Phụng Vụ. Thánh Giút-ti-nô viết bản văn này vào năm 155, để giải thích cho hoàng đế
La mã An-to-ni-us Pi-us (138-161) về những gì ngƣời Ki-tô hữu cử hành:
Vào ngày Mặt Trời, nhƣ ngƣời ta thƣờng gọi, những ngƣời tín hữu trong thành phố
hay ở nông thôn đều họp lại một nơi.
Tùy thời gian cho phép, ngƣời ta đọc bút tích của các Tông Đồ và sách các ngôn sứ.
Sau khi đọc xong, vị chủ sự lên tiếng nhắn nhủ và khuyến khích mọi ngƣời sống
theo các giáo huấn và gƣơng lành tốt đẹp này.
Sau đó chúng tôi đứng dậy, dâng lời cầu nguyên lên Thiên Chúa cho chính chúng
tôi... và cho mọi ngƣời khác trên thế giới, để xứng đáng trở thành những ngƣời công
chính và trung thành tuân giữ lề luật ngay trong cuộc sống hầu đạt đƣợc ơn cứu độ
vĩnh cửu.
Sau lời nguyện, chúng tôi hôn và chúc bình an cho nhau.
Tiếp đến, một tín hữu mang bánh và một chén rƣợu có pha nƣớc đến cho ngƣời chủ
sự.
Vị chủ sự cầm lấy bánh rƣợu, nhân danh Chúa Con và Thánh Thần, dâng lời tán
tụng và tôn vinh Chúa Cha là Chúa tể càn khôn. Ông đọc một lời tạ ơn dài về việc
Thiên Chúa cho chúng ta xứng đáng lãnh nhận các hồng ân.
Khi vị chủ sự kết thúc các lời nguyện và kinh tạ ơn, mọi ngƣời hiện diện đều đồng
thanh đáp: A-men.
Sau khi vị chủ sự hoàn tất nghi thức tạ ơn và toàn dân thƣa A-men, các vị mà chúng
tôi gọi là phó tế, phân phát bánh và rƣợu có pha nƣớc đã “trở thành Thánh Thể” cho
mọi ngƣời hiện diện hƣởng dùng và đem về cho những ngƣời vắng mặt (x. Thánh
Giút-ti-nô, Hộ giáo 1,65). (GLCG 1345)
Thế rồi với thời gian, Thánh lễ đƣợc thích nghi nhiều phần. Thế nhƣng vào thời
trung cổ Phụng vụ trở thành công việc dành riêng cho hàng giáo sĩ là những ngƣời hiểu
biết tiếng La tinh; trong khi dân chúng càng ngày càng xa lạ với các cử hành Phụng vụ vì
không hiểu tiếng La tinh và những cử hành do hàng giáo sĩ thực hiện. Trong cử hành
Thánh lễ một mình linh mục làm mọi việc, còn giáo dân thụ động “xem lễ” và họ chỉ việc
đón nhận các ân huệ thánh đƣợc linh mục ban phát. Do đó dần dần ngƣời giáo dân mất ý
thức về giá trị của Thánh lễ và trở nên thờ ơ. Để lôi cuốn họ đến với Thánh lễ, các nhà
thần học kinh viện thời đó đã tìm cách cắt nghĩa giá trị của Thánh lễ theo kiểu lợi lộc vật
chất. Vì lý do này việc mua bán Thánh lễ trở nên thịnh hành, Thánh lễ đã bị lạm dụng và
trở nên nguồn thu nhập bất chính của nhiều ngƣời tham lam.
Trƣớc tình huống này nhiều phong trào canh tân Phụng vụ muốn khôi phục các giá
trị ban đầu của Thánh lễ, và công việc canh tân đạt đến đỉnh điểm nơi Công đồng Tren-tô
và Va-ti-ca-nô II.
2. Việc canh tân Phụng vụ của Công đồng Tren-tô và Va-ti-ca-nô II
Công đồng Tren-tô (thế kỷ XVI) thực chất là Công đồng canh tân và chấn chỉnh lại
các lạm dụng trong cử hành Thánh lễ trƣớc đó. Một mặt Công đồng phá tan những cách
cắt nghĩa sai lạc về Thánh lễ, mặt khác Công đồng cũng trình bày rõ ràng và chắc chắn
giáo lý về bí tích Thánh Thể, đồng thời đƣa ra các định hƣớng cho việc canh tân Phụng
vụ. Công việc canh tân này đặt nền tảng trên Truyền thống phụng vụ của những thế kỷ
đầu. Việc canh tân của Công đồng Tren-tô đã trả lại cho Thánh lễ sự trong sáng của các
cử hành thánh, đồng thời cũng khẳng định sự hiệp nhất trong toàn thể Hội Thánh khi mọi
nơi đều cử hành Thánh lễ theo một nghi lễ chung.
Đối với Công đồng Va-ti-ca-nô II (thế kỷ XX), thì việc canh tân Phụng vụ chính là
tiếp tục công việc của Công đồng Tren-tô trong thời đại mới. Không có sự mâu thuẫn
giữa nghi thức Thánh lễ của Công đồng Tren-tô (dâng lễ quay lên) với nghi thức Thánh
lễ của Công đồng Va-ti-ca-nô II (dâng lễ quay xuống). Giá trị Thánh lễ không thay đổi dù
cử hành theo nghi thức này hay nghi thức kia. Điểm nổi bật trong việc canh tân Phụng vụ
của Công đồng Va-ti-ca-nô II là việc tham dự tích cực của toàn thể dân Chúa. Từ định
hƣớng này mà Thánh lễ đƣợc cử hành bằng tiếng địa phƣơng, các nghi thức, câu đối đáp,
lời đọc và cử chỉ đều đƣợc thích nghi sao cho mọi ngƣời có thể tham dự cách dễ dàng và
tích cực.
Có thể nói hai Công đồng Tren-tô và Va-ti-ca-nô II đã đóng góp cách khác nhau
cho một cuộc canh tân Thánh lễ sâu rộng.
Công đồng Tren-tô đã điều chỉnh các lệch lạc và lạm dụng về giá trị của Thánh lễ.
Nhờ Công đồng mà toàn thể Hội Thánh đã cử hành Thánh lễ theo một nghi lễ chung.
Công đồng Va-ti-ca-nô II tái khám phá vai trò của ngƣời tín hữu, vì thế mọi cuộc
canh tân đều hƣớng đến việc tham dự của họ. Cả hai cuộc canh tân đều dựa trên Truyền
thống phụng vụ của những thế kỷ đầu và đã đem lại cho Hội Thánh luồng sinh khí mới.
5. Tóm kết:
Thánh Lễ Tạ ơn là sự tái diễn Bữa Tiệc Ly và Hy tế đền tội thay cho nhân loại của
Chúa Kitô xƣa trên thập giá đƣợc làm sống lại trên bàn thờ ngày nay qua nghi thức phụng
vụ thánh mà Giáo Hội cử hành. Vì thế, Thánh Lễ Tạ ơn là việc thờ phƣợng cao trọng
nhất, đẹp lòng Thiên Chúa nhất và có giá trị cứu rỗi nhất mà Giáo Hội dâng lên Chúa Cha
nhờ Chúa Kitô và hiệp với Chúa Kitô qua tác vụ của các thừa tác viên có chức thánh là
Giám mục hay Linh mục.
Chính vì ý nghĩa và giá trị thiêng liêng lớn lao này của Thánh Lễ Tạ ơn mà mọi
ngƣời tín hữu đƣợc mời gọi nên siêng năng tham dự Thánh Lễ để hiệp cùng với Chúa
Giêsu và nhờ Ngƣời, chúng ta dâng lên Chúa Cha lễ vật là chính hồn xác chúng ta cùng
với mọi vui buồn sƣớng khổ đang trải qua trong cuộc sống hiệp thông với hy sinh cực
trọng của Chúa Kitô để xin ơn tha thứ và phúc lành cho mình và cho ngƣời khác, còn
sống cũng nhƣ đã qua đời.
VI. ÂN XÁ
1. Tội và hình phạt
Tội nặng làm cho ta bị phạt đời đời. Còn các tội nhẹ đều cần đƣợc thanh tẩy hoặc ở
đời này hoặc trong luyện ngục. Sự thanh luyện đời này cũng nhƣ đời sau giải thoát ta
khỏi hình phạt tạm. Nếu tội nhân hoán cải do đức mến thiết tha, họ có thể đƣợc thanh
luyện hoàn toàn. Đƣợc tha thứ tội lỗi và tái hiệp thông với Thiên Chúa, hối nhân cũng
đƣợc tha các hình phạt đời đời do tội. Nhƣng những hình phạt tạm vẫn còn (x. GLCG
1472-1473).
2. Ân xá là gì?
Ân xá là việc tha thứ trƣớc mặt Thiên Chúa khỏi những hình phạt tạm đáng chịu vì
những tội lỗi đã phạm, dù đã đƣợc tha thứ. Với những điều kiện đƣợc Hội Thánh quy
định, ngƣời tín hữu có thể lãnh nhận ơn tha thứ này cho chính mình hay cho những ngƣời
đã qua đời, nhờ thừa tác vụ của Hội Thánh, nhƣ là ngƣời phân phát ơn cứu chuộc và chia
sẻ kho tàng công phúc của Đức Ki-tô và các thánh. (TYGL 312)
Tùy việc tha một phần hay toàn bộ hình phạt tạm, mà chúng ta gọi là tiểu xá hay
toàn xá. “Mọi tín hữu đều có thể hƣởng ân xá, hoặc nhƣờng cho ngƣời qua đời” (x.
GLCG 1471).
Để có thể hƣởng ân xá, phải là ngƣời đã đƣợc rửa tội, không bị vạ tuyệt thông và
sống trong tình trạng ân sủng; phải cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng và làm những
việc mà Hội Thánh dạy để đƣợc hƣởng ân xá (x. GL 996-997).
3. Mầu nhiệm các thánh thông công
Trong Mầu nhiệm các thánh thông công, các tín hữu, dù đã về quê trời, còn ở trong
luyện ngục, hay còn nơi dƣơng thế, đều liên kết và chia sẻ với nhau những điều thiện hảo.
Vì thế, sự hiệp thông của Dân Thánh giúp cho hối nhân đƣợc thanh luyện nhanh chóng và
hữu hiệu hơn. Chúng ta gọi sự chia sẻ này là kho tàng Hội Thánh. Kho tàng này là công
đức vô giá của Đức Ki-tô, cùng những lời cầu khẩn và việc lành của Đức Ma-ri-a và các
thánh (x. GLCG 1474-1477).
Tu sĩ là ngƣời truy tầm sự toàn thiện bằng các phƣơng thế hữu hiệu là các
lời khấn Phúc Âm : Khiết tịnh, Nghèo khó và Vâng phục trong một Tu Hội hay Hội
Dòng chính thức của Hội Thánh. Tu sĩ có thể là ngƣời đƣợc Truyền Chức thánh
(giáo sĩ). Dù Hội Thánh có đề cao bậc sống tu trì nhƣng Khấn Dòng không phải là
một bí tích, mà chỉ cốt phát triển tới mức tối đa ơn đã lãnh nhận trong bí tích
Thánh Tẩy. Cổ võ cho ơn gọi linh mục và tu sĩ là bổn phận của toàn thể cộng đồng
Kitô giáo. Gia đình là những vƣờn ƣơm đầu tiên các ơn gọi của Hội Thánh.
I. Á BÍ TÍCH LÀ GÌ?
Á bí tích là những dấu chỉ thánh thiêng do Hội Thánh lập ra để chuẩn bị ngƣời tín
hữu lãnh nhận hiệu quả chính yếu của các bí tích và để thánh hóa những hoàn cảnh khác
nhau của cuộc sống.
Gọi là á bí tích, vì đây cũng là những dấu chỉ biểu thị những hiệu quả, và thông ban
những hiệu quả đó nhờ lời cầu nguyện của Hội Thánh.
V. MỤC VỤ GIÁO LÝ
Cho tới nay, khi học giáo lý, đa số các em học sinh ít đƣợc hƣớng dẫn về ý nghĩa
các cử hành Phụng vụ. Bởi vậy, Giáo lý viên cần tìm hiểu tƣờng tận các lễ nghi cũng nhƣ
ý nghĩa các cử hành, kể cả những gì liên quan đến các á bí tích để có thể hƣớng dẫn các
học sinh giáo lý tốt hơn.
Nên tạo nhiều dịp cho các học sinh tham dự các á bí tích, chẳng hạn: Nghi lễ an
táng, các nghi thức chúc lành v.v... Trƣớc hoặc sau khi tham dự, nên cắt nghĩa cho các
em hiểu ý nghĩa của việc cử hành.
Ngoài Phụng vụ bí tích và á bí tích, trong Hội Thánh còn có những hình thức đạo
đức bình dân khác, chẳng hạn viếng nghĩa trang, tôn kính các thánh tích, viếng các đền
thánh, hành hƣơng, rƣớc kiệu, đi đàng thánh giá, các vũ điệu tôn giáo, lần chuỗi Mân Côi,
v.v ... Giáo lý viên nên hƣớng dẫn các em một cách thích đáng việc thực hành những hình
thức đạo đức này để các em có đƣợc một đời sống đạo trƣởng thành.
Lạy “Đức Bà an ủi kẻ âu lo”, xin cứu chữa chúng con, khi chúng con đau bịnh,
và cho chúng con, dù đang là bệnh nhân, vẫn biết “cúi xuống với sự chăm sóc đặc biệt”
trên những ngƣời đang đau đớn hơn mình, cúi xuống :
“Bên những người đã bất tỉnh vào lúc này và sẽ chết.
Bên những người đang bước vào cơn hấp hối.
Bên những người đã mất hết hy vọng được khỏi bệnh.
Bên những người đang rên xiết quằn quại trong đau đớn thể xác và tâm hồn.
Bên những người không có khả năng để chạy chữa, vì thiếu hụt tiền của.
Bên những người rất muốn bước đi mà phải nằm bất động.
Bên những người đáng phải nằm, mà phải chỗi dậy để làm việc, vì đói khát cơ cực và
túng bấn.
Bên những người lăn lộn trên giường không tìm được một thế nghỉ dễ chịu.
Bên Những người phải thao thức trắng đêm trường.
Bên Những người bị dằn vặt bởi bao âu lo của gia đình túng quẫn.
Bên Những người mà bệnh tật đã buộc phải từ biệt những ước vọng, những dự tính hằng
tha thiết…”. Amen. (Kinh cầu cho Bệnh Nhân)