You are on page 1of 11

ĐLCM VIỆT NAM

1.Làm rõ sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là một tất yếu lịch sử.
2.Phân tích sự sáng tạo về chủ trương tập hợp lực lượng trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.

3.So sánh nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên và Luận Cương chính trị tháng 10 - 1930 của Đảng và
rút ra nhận xét.

4.Phân tích quan điểm của Đảng về việc lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù giai đoạn 1939 – 1945.

Lợi dụng mâu thuẫn hàng ngũ kẻ thù là một thành công của Đảng ta về lãnh đạo Tổng khởi nghĩa
giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Thành công đó, đã để lại bài học kinh
nghiệm quý, cần được tiếp tục phát huy trong điều kiện mới.

Lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù vừa là yêu cầu khách quan, vừa là một nghệ thuật chỉ đạo cách
mạng. Vì rằng: Thứ nhất, sự tồn tại, phát triển mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù là tất yếu, do chúng luôn
như những “con thú" tranh nhau một miếng mồi. Thứ hai, cách mạng vô sản, nhất là ở nước thuộc địa
thường phải chống lại những kẻ thù lớn mạnh và có khi phải chống lại nhiều kẻ thù cùng một lúc, trong
khi lực lượng cách mạng ban đầu thường chưa mạnh hơn kẻ thù.

Ở Việt Nam, suốt thời kỳ đấu tranh giành chính quyền, những năm 1930-1945, Đảng Cộng sản Việt Nam
luôn phân tích đúng các kẻ thù, trong từng giai đoạn, thời điểm; phát hiện và kịp thời lợi dụng, khoét sâu
mâu thuẫn giữa chúng và trong nội bộ chúng; do đó, làm phân hoá, giảm sức mạnh, tiến tới làm suy yếu
kẻ thù; tạo điều kiện thay đổi so sánh lực lượng có lợi cho sự phát triển của cách mạng.

Trong cả thời kỳ đó, nhân dân ta đã phải đồng thời chống cả thực dân Pháp và giai cấp phong kiến. Những
năm 1940-1945, ta phải chống thêm kẻ thù nguy hiểm và tàn bạo hơn, là phát-xít Nhật. Ngay từ khi ra
đời, trong Cương lĩnh đầu tiên, Đảng ta xác định kẻ thù cơ bản của cách mạng là đế quốc và phong kiến.
Đồng thời, chia giai cấp địa chủ phong kiến ra thành nhiều hạng: địa chủ lớn, địa chủ vừa, địa chủ nhỏ và
đánh giá: giữa chúng có mâu thuẫn. Từ đó, Đảng chủ trương, trước mắt tập trung lực lượng toàn thể dân
tộc đánh vào thực dân Pháp và bọn địa chủ lớn, bọn Việt gian tay sai phản động, một mặt để cô lập kẻ thù,
mặt khác thúc đẩy và khoét sâu mâu thuẫn trong hàng ngũ địch.

Tuy nhiên, trên thực tế việc triển khai thực hiện chủ trương này còn một số bất cập, hạn chế vì nhiều
nguyên, nhất là về nhận thức, tư tưởng; chỉ dừng ở xác định kẻ thù cơ bản của cách mạng Việt Nam là đế
quốc và phong kiến. Trong Đảng và quần chúng tích cực còn tồn tại nhận thức rằng: đã là địa chủ đều là
“cừu địch” của giai cấp nông dân, của cách mạng, cần phải kiên quyết đánh đổ toàn bộ. Thậm chí ở một
số địa phương bộc lộ tư tưởng “tả” khuynh, phiến diện. Vì thế, thời gian này, ta chưa tập hợp được lực
lượng rộng rãi, chưa phân hoá được kẻ thù để tập trung chống kẻ thù chủ yếu trước mắt là bọn đế quốc
xâm lược và bọn tay sai phản động trong giai cấp địa chủ phong kiến.

Những năm 1936-1939, trước sự biến đổi sâu sắc của tình hình thế giới, tình hình Đông Dương và trong
nước, nhất là sự xuất hiện của chủ nghĩa phát-xít và nguy cơ Chiến tranh thế giới lần thứ hai, Đảng ta đã
phân tích, chỉ rõ mâu thuẫn trong hàng ngũ bọn thống trị Pháp ở Đông Dương là giữa phái Cộng hòa dân
chủ với phái phát-xít. Trong hàng ngũ tay sai, quan lại Nam triều là mâu thuẫn giữa phái chủ trương theo
chế độ trực trị được thực dân Pháp tin dùng với phái đòi trở lại chế độ bảo hộ. Từ đó, Đảng chủ trương
hướng vào thực hiện mục tiêu trực tiếp, trước mắt là chống chế độ phản động thuộc địa, đồng thời đẩy
mạnh đấu tranh đòi tự do, dân sinh, dân chủ, hòa bình; tập trung mũi vào kẻ thù chủ yếu là bọn phản động
thuộc địa và bọn tay sai bán nước. Chủ trương này đã tạo được sự hưởng ứng tích cực của đông đảo các
thành phần, thu hút cả những người thuộc tầng lớp trên, như: người Pháp dân chủ, địa chủ vừa và nhỏ,…
tạo sức mạnh to lớn, thúc đẩy phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ, rộng khắp.
Trong cao trào giải phóng dân tộc (1939-1945), Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lợi dụng triệt để
những mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc, đại diện là Anh, Mỹ, Pháp với chủ nghĩa phát-xít: Đức, Ý,
Nhật; giữa bọn tay sai của Pháp với bọn tay sai của Nhật và giữa các phe phái trong chính phủ Pháp. Đặc
biệt, ta đã phân tích mâu thuẫn giữa phát-xít Nhật với thực dân Pháp ở Đông Dương và đi đến nhận định:
mâu thuẫn giữa chúng lúc này cũng giống như hai con thú đang tranh nhau một miếng mồi, cùng giành
giật, cắn xé lẫn nhau và kết cục sẽ tự suy yếu. Từ nhận định đó, trong Chỉ thị Nhật, Pháp bắn nhau và
hành động của chúng ta, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương khẳng định: “Hai con
chó đế quốc không thể ăn chung một miếng mồi béo bở như Đông Dương… Nhật phải hạ Pháp để trừ cái
họa bị Pháp đánh sau lưng khi quân Đồng minh đổ bộ”[1]. Như vậy, trên cơ sở đánh giá kẻ thù, Đảng ta
đã xác định đúng kẻ thù chủ yếu của cách mạng Việt Nam trong từng giai đoạn cụ thể: từ năm 1939 đến
tháng 8-1940, tập trung chống bọn thực dân Pháp và bọn tay sai; từ tháng 9-1940 đến năm 1943 là cả thực
dân Pháp, phát-xít Nhật và bọn tay sai phản động. Từ năm 1943 đến tháng 3-1945, mục tiêu của cách
mạng là tập trung chống phát-xít Nhật - Pháp và tay sai, bằng chủ trương liên minh có điều kiện với tất cả
các lực lượng, bao gồm: Mỹ, Anh và phái Pháp Đờ-gôn để lập mặt trận rộng rãi chống phát-xít. Sau khi
Nhật tiến hành đảo chính, lật đổ chính quyền cai trị của Pháp ở Đông Dương (9-3-1945), Đảng ta xác định
kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương là phát-xít Nhật và tay sai. Vì vậy, Đảng đã quyết định thay đổi
khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật - Pháp” bằng khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật”, tạm gác khẩu
hiệu “tịch thu toàn bộ ruộng đất của địa chủ phong kiến”, chỉ tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và bọn
địa chủ làm tay sai cho đế quốc, phát-xít. Chủ trương này nhằm triệt để lợi dụng mâu thuẫn giữa đế quốc,
phát xít với giai cấp địa chủ phong kiến, phân hóa nội bộ giai cấp địa chủ có lợi cho việc mở rộng Mặt
trận đoàn kết dân tộc, tập trung chống kẻ thù chủ yếu (phát-xít Nhật), giành chính quyền về tay nhân dân.

Tiếp tục chủ trương kết hợp nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến, thời gian này, Đảng ta hướng
vào nhiệm vụ chủ yếu, hàng đầu là chống phát xít Nhật và tay sai. Thông qua các tổ chức, như: Công hội
Cứu quốc, Nông hội Cứu quốc, Phụ nữ Cứu quốc,… ta đã tập hợp được đông đảo lực lượng yêu nước, lôi
cuốn được mọi lực lượng của toàn dân tộc (cả những người có tinh thần chống phát xít trong giai cấp tư
sản, địa chủ), củng cố lòng tin của giai cấp nông dân, công nhân. Trên cơ sở động viên, tập hợp được sức
mạnh của toàn dân, Đảng chủ trương lấy liên minh giai cấp công nhân và giai cấp nông dân làm nòng cốt,
tiến hành khởi nghĩa từng phần, tiến lên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền khi xuất hiện thời cơ chín
muồi, đó là: quân Nhật ở Đông Dương đang hoang mang cực độ, các đế quốc Anh, Tưởng chưa kịp vào
giải giáp quân Nhật. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ kính yêu, nhân dân trên khắp mọi miền đất
nước đã đồng loạt đứng lên khởi nghĩa thắng lợi giành chính quyền về tay mình.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là thắng lợi của đường lối, chủ trương và sách lược đúng
đắn, khôn khéo dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong đó, lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù là một
nghệ thuật chỉ đạo cách mạng điển hình, đặc sắc. Đây là bài học kinh nghiệm có giá trị to lớn cả hôm nay
và mai sau, cần được tiếp tục nghiên cứu và vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc trong tình hình mới./.

5.Phân tích nghệ thuật tạo thời cơ và chớp thời cơ trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Nghệ thuật chớp thời cơ của Đảng ta trong Cách mạng tháng tám 1945
Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam (khi đó là Đảng Cộng sản Đông Dương), nhân dân ta đã đứng lên đấu
tranh lật đổ ách thống trị hơn 80 năm của chế độ thực dân Pháp và chế độ phong kiến đã tồn tại hàng nghìn năm, mở ra một
thời kỳ mới cho dân tộc ta - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là
một nghệ thuật chớp thời cơ, sự khéo léo, linh hoạt của Đảng ta để cuộc cách mạng giành được thắng lợi ít đổ máu nhất. Vậy
thời cơ cách mạng là gì và Đảng ta đã chớp thời cơ để giành thắng lợi ra sao?
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin thì thời cơ trong cách mạng hay tình thế cách mạng có ba nhân tố chủ yếu
sau:
Thứ nhất: Giai cấp thống trị đã suy yếu, khủng hoảng đến mức không thể tiếp tục thống trị bằng những phương thức
cũ được nữa.
Thứ hai: Các giai cấp và tầng lớp bị trị bên dưới cũng rơi vào tìn h trạng cơ cực, bị bần cùng không thể chịu đựng
được nữa, không thể sống nổi nữa. Mâu thuẫn đã gay gắt đến cực độ và quần chúng đã sẵn sàng đi tới hành động giải phóng.
Thứ ba: Tầng lớp, bộ phận trung gian, những người tri thức yêu nước có tư tưởng dân chủ tiến bộ, những người có
tinh thần dân tộc, kể cả một bộ phận trong giai cấp hữu sản nhưng gần với quần chúng, nhận thức được xu thế lịch sử, ngã về
phía cách mạng, tương quan lực lượng có lợi cho phía cách mạng. Đội tiên phong của cách mạng.
Để chớp được thời cơ trong cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng ta đã có một quá trình chuẩn bị về mọi mặt
và dự đoán thời cơ rất khoa học. Ngay trong hội nghị Trung ương lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương, dưới sự chủ trì của
đồng chí Nguyễn Ái Quốc, tại Pắc Pó, Cao Bằng, nghị quyết đã dự báo một cách chính xác cuộc chiến tranh thế giới thứ hai và
hệ lụy của nó: “Nếu cuộc đế quốc chiến tranh lần trước đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa, thì cuộc đế quốc chiến tranh
lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, sẽ do đó cách mạng nhiều nước thành công…” 1. Đó là một khả năng xuất hiện
thời cơ đến với nhiều nước, trong đó có nước ta. Sự phân tích chính xác, khoa học mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù đã tạo thế
chủ động cho ta khi xuất hiện tình thế. Ngày 9-3-1945, nổ ra cuộc đảo chính Nhật - Pháp, Đảng ta không bất ngờ mà ngược lại
đã chủ động vạch ra những nhiệm vụ chiến lược, sách lược sát đúng với tình hình. Ngay trong đêm Nhật - Pháp bắn nhau, ngày
12-3-1945, Hội nghị Thường vụ mở rộng đã họp và đề ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” . Trong
bản Chỉ thị đó đã dự báo thời cơ của nhân dân ta vùng dậy đấu tranh, đó là: “Quân Đồng minh vào Đông Dương đánh Nhật và
Nhật đầu hàng quân đồng minh”. Đúng như dự báo của bản chỉ thị, sau khi Hồng qu ân Liên Xô tiêu diệt một triệu quân Quan
đông của Nhật ở Đông Bắc Trung Quốc và Mỹ ném 2 quả bom nguyên tử xuống hai thành phố lớn nhất của Nhật. Hội đồng tối
cao chiến tranh của Nhật đã họp bàn về các điều kiện chiến tranh theo tuyên bố Pôtxđam. Đúng giữa trưa ngày 15-8-1945, Nhật
hoàng tuyên bố đầu hàng các lực lượng Đồng minh trên sóng phát thanh của Nhật. Như vậy, thời cơ xuất hiện như khả năng mà
Đảng ta đã dự báo. Thời cơ có một không hai của dân tộc ta đã đến, bởi vậy: “dù phải đốt cháy cả dãy “Trườn g Sơn cũng phải
giành cho được độc lập!” (Lời của lãnh tụ Hồ Chí Minh nói với Võ Nguyên Giáp ở nán Nà Lừa). Lập tức Trung ương Đảng và
Tổng bộ Việt Minh thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc. Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc ra quân lệnh số 1, trong đó có đoạn
viết: “Giờ tổng khởi nghĩa đã đánh! Cơ hội có một cho quân, dân Việt Nam cùng giành lấy quyền độc lập của nước
nhà…Chúng ta phải hành động cho nhanh với một tinh thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng!.. Cuộc thắng lợi hoàn toàn
nhất định sẽ về ta” 2 .
Như trên đã nói về thời cơ cách mạng, thời cơ chỉ xuất hiện và tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định. Trong
cuộc cách mạng tháng Mười Nga, thời cơ chỉ xuất hiện trong vòng 24 giờ. Còn trong cuộc cách mạng Tháng Tám, thời cơ chỉ
tồn tại một cách khách quan trong vòng 20 ngày, từ khi Nhật đầu hàng quân Đồng minh (15-8-1945), đến khi quân Đồng minh
vào giải giáp quân đội Nhật (15-8-1945). Nếu đứng lên giành chính quyền trước ngày 15-8-1945 hay sau ngày 9-5-1945 thì khả
năng giành thắng lợi rất ít. Vì, trước ngày 15-8, Nhật hoàng còn rất mạnh, còn sau ngày 9-5, khi đó trên đất nước ta sẽ xuất
hiện rất nhiều lực lượng bất lợi cho cách mạng như: Quân Tưởng ở miền Bắc, quân Anh ở miền Nam và nhiều lực lượng phản
động khác. Chỉ có thể giành thắng lợi trong khoảng thời gian khắc nghiệt này. Vì thế, Hội nghị đại biểu toàn quốc họp tại Tân
Trào từ ngày 14 đến ngày 15-8-1945, đã đi đến kết luận: “Những điều kiện khởi nghĩa ở Đông Dương đã chín muồi”, phải “kịp
thời hành động không được bỏ lỡ”. Ngay đêm ngày 13-8-1945, Ủy ban khởi nghĩa ra quân lệnh số 1, hạ lệnh khởi nghĩa: Hiệu
triệu toàn dân đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền. Tiếp theo đó, ngày 16-8-1945, tại Tân trào Đại hội quốc dân họp nhiệt
liệt tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng và ra 10 chính s ách của Việt Minh, thông qua lệnh Tổng khởi nghĩa, quyết
định Quốc kỳ nền đỏ sao vàng, quốc ca và bầu Chính phủ lâm thời. Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi đồng bào: “Giờ quyết định
cho vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự g iải phóng cho ta” 3 . Dưới sự lãnh đạo của
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đã đồng loạt đứng dậy, tiến hành cuộc khởi nghĩa giành chính quyền trong
cả nước. Ngày 19-8-1945, khởi nghĩa thắng lợi ở thủ đô Hà Nội. Ngày 23-8, khởi nghĩa thắng lợi ở Huế và các thị xã… Ngày
25-8-1945, khởi nghĩa giành thắng lợi ở Sài Gòn - Chợ Lớn… chỉ trong vòng 15 ngày cuối Tháng Tám cuộc khởi nghĩa đã
giành thắng lợi hoàn toàn. Lần đầu tiên trong lịch sử, chính quyền cả nước thuộc về nhân dân. Cuộc cách mạng Tháng Tám mà
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động, như cơn sóng thần, đã cuốn phăng đi chính quyền phát xít Nhật và tay sai. Ngày 30 -
8-1945, vua Bảo Đại đọc chiếu thoái vị và tuyên bố: “thà làm dân một nước tự do, còn hơn làm vua một nước nô lệ”.
Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên
ngôn Độc lập, tuyên bố nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời.
Tóm lại, thành công của Cuộc cách mạng Tháng Tám 1945, chúng tỏ Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh có
tầm nhìn vượt trước thời gian, xác định đúng thời cơ, chuẩn bị tốt mọi mặt để lãnh đạo cuộc tổng khởi nghĩa thành công. Đó là
một nghệ thuật chớp thời cơ của Đảng ta. Vì vậy, cuộc cách mạng tháng Tám 1945 đã diễn ra cách đây hơn 60 năm nhưn g tinh
thần cuộc cách mạng vẫn như một động lực thôi thúc mỗi người dân Việt Nam hãy vượt qua những khó khăn của hiện tại,
hướng tới tương lai, thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
6.Phân tích chủ trương của Đảng về bảo vệ chính quyền cách mạng trong những năm 1945 – 1946.
Liên hệ với việc bảo vệ chính quyền hiện nay trước sự chống phá của các thế lực thù địch.

Sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, công
cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước của nhân dân ta đứng trước bối cảnh vừa có những thuận lợi cơ
bản, vừa gặp phải nhiều khó khăn to lớn, hiểm nghèo.

1. Chủ trương xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng (1945-1946)

a) Hoàn cảnh nước ta sau Cách mạng Tháng Tám


Sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, công cuộc xây
dựng và bảo vệ đất nước của nhân dân ta đứng trước bối cảnh vừa có những thuận lợi cơ bản, vừa gặp
phải nhiều khó khăn to lớn, hiểm nghèo.

Thuận lợi cơ bản là trên thế giới, hệ thống xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu được hình thành. Phong
trào cách mạng giải phóng dân tộc điều kiện phát triển, trở thành một dòng thác cách mạng. Phong trào
dân chủ và hòa bình cũng đang vươn lên mạnh mẽ. Ở trong nước, chính quyền dân chủ nhân dân được
thành lập, có hệ thổng từ Trung ươnga đến cơ sở. Nhân dân lao động đã làm chủ vận mệnh của đất nước.
Lực lượng vũ trang nhân dân được tăng cường. Toàn dân tin tưởng và ủng hộ Việt Minh, ủng hộ Chính
phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.

Khó khăn nghiêm trọng là hậu quả do chế độ cũ để lại như nạn đói, nạn dốt rất nặng nề, ngân quỹ quốc
gia trống rỗng. Kinh nghiệm quản lý đất nước của cán bộ các cấp non yếu. Nền độc lập của nước ta chưa
được quốc gia nào trên thế giới công nhận, và đặt quan hệ ngoại giao. Với danh nghĩa Đồng minh đến
tước khí giới của phátxít Nhật, quân đội các nước đế quốc ồ ạt kéo vào chiếm đóng Việt Nam và khuyến
khích bọn Việt gian chống phá chính quyền cách mạng nhằm xóa bỏ nền độc lập và chia cắt nước ta.
Nghiêm trọng nhất là quân Anh, Pháp đã đồng lõa với nhau nổ súng đánh chiếm Sài Gòn, hòng tách Nam
Bộ ra khỏi Việt Nam. "Giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm” là những hiểm họa đối với chế độ mới, vận
mệnh dân tộc như "ngàn cần treo sợi tóc", Tổ quốc lâm nguy.

b) Chủ trương kháng chiến kiến quốc của Đảng

Trước tình hình mới, Trung uơng Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng suốt phân tích tình thế, dự đoán
chiều hướng phát triển của các trào lưu cách mạng trên thế giới và sức? mạnh mới của dân tộc để vạch ra
chủ trương, giải pháp đấu tranh nhằm giữ vững chính quyền, bảo vệ nền độc lập, tự do vừa giành được.
Ngày 25-11-1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị về kháng chiến kiến quốc, vạch con đường
đi lên cho cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới. Chủ trương kháng chiến kiến quốc của Đảng là:

Về chỉ đạo chiến lược, Đảng xác định mục tiêu phải nêu cao của cách mạng Việt Nam lúc này vẫn là dân
tộc giải phóng, khẩu hiệu lúc này là "Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết", nhưng không phải là giành độc
lập mà là giữ vững độc lập.

Về xác định kẻ thù, Đảng phân tích âm mưu của các nước đế quốc đối với Đông Dương và chỉ rõ "Kẻ thù
chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng". Vì vậy,
phải "lập Mặt trận dân tộc thống nhất chống thực dân Pháp xâm lược"; mở rộng Mặt trận Việt Minh nhằm
thu hút mọi tầng lớp nhân dân; thống nhất Mặt trận Việt - Miên - Lào, V. V...

Về phương hướng, nhiệm vụ, Đảng nêu lên bốn nhiệm vụ chủ yếu và cấp bách cần khẩn trương thực hiện
là: "củng cố chính quyền chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho nhân
dân". Đảng chủ trương kiên trì nguyên tắc thêm bạn bớt thù, thực hiện khẩu hiệu "Hoa - Việt thân thiện"
đối với quân đội Tưởng Giới Thạch và "Độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế" đối với Pháp.

Chỉ thị về kháng chiến kiến quốc có ý nghĩa hết sức quan trọng. Chỉ thị đã xác định đúng kẻ thù chính của
dân tộc Việt Nam là thực dân Pháp xâm luợc . Đã chỉ ra kịp thời những vấn đề cơ bản về chiến lược và
sách lược cách mạng, nhất là nêu rõ hai nhiệm vụ chiến lược mới của cách mạng Việt Nam sau Cách
mạng Tháng Tám là xây đựng đất nước đi đôi với bảo vệ đất nước. Đề ra những nhiệm vụ, biện pháp cụ
thể về đối nội, đối ngoại để khắc phục nạn đói, nạn dốt, chống giặc ngoài, bảo vệ chính quyền cách mạng.

Những nội dung của chủ trương kháng chiến kiến quốc được Đảng tập trung chỉ đạo thực hiện trên thực tế
với tinh thần kiên quyết, khẩn trương, linh hoạt, sáng tạo, trước hết là trong giai đoạn từ tháng 9-1945 đến
cuối năm 1946. Như việc bầu cử Quốc hội, lập Chính phủ chính thức, ban hành Hiến pháp, xây dựng các
đoàn thể nhân dân, khôi phục sản xuất, ổn định đời sống nhân dân, xóa nạn mù chữ, khai giảng năm học
mới, tập luyện quân sự, thực hiện hòa với quân Tưởng ở miền Bắc để chống thực dân Pháp ở miền Nam
và hòa với Pháp để đuổi Tưởng về nước...

c)Kết quả, ý nghĩa và bài học kinh nghiệm

Cuộc đấu tranh thực hiện chủ trương kháng chiến kiến quốc của Đảng giai đoạn 1945-1946 đã diễn ra rất
gay go, quyết liệt trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, quân sự, ngoại giao và đã giành được
những kết quả hết sức to lớn.

Về chính trị - xã hội: Đã xây dựng được nền móng cho một chế độ xã hội mới - chế độ dân chủ nhân dân
với đầy đủ các yếu tố cấu thành cần thiết. Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp được thành lập thông qua
phổ thông bầu cử. Hiến pháp dân chủ nhân dân được Quốc hội thông qua và ban hành. Bộ máy chính
quyền từ Trung ương đến làng, xã và các cơ quan tư pháp, tòa án, các công cụ chuyên chính như Vệ quốc
toàn, Công an nhân dân được thiết lập và tăng cường. Các đoàn thể nhân dân như Mặt trận Việt Minh, Hội
Liên hiệp quốc dân Việt Nam, Tổng Công đoàn Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam được xây
dựng và mở rộng. Đảng Dân chủ Việt Nam, Đảng Xã hội Việt Nam được thành lập.

Về kinh tế, văn hóa: Đã phát động phong trào tăng gia sản xuất, cứu đói, xóa bỏ các thứ thuế vô lý của
chế độ cũ, ra sắc lệnh giảm tô 25%, xây dựng ngân quỹ quốc gia. Các lĩnh vực sản xuất được hồi phục.
Cuối năm 1945, nạn đói cơ bản được đẩy lùi, năm 1946 đời sống nhân dân được ổn định và có cải thiện.
Tháng 11-1946, giấy bạc "Cụ Hồ" được phát hành. Đã mở lại các trường lớp và tổ chức khai giảng năm
học mới. Cuộc vận động toàn dân xây dựng nền văn hóa mới đã bước đầu xóa bỏ được nhiều tệ nạn xã hội
và tập tục lạc hậu. Phong trào diệt dốt, bình dân học vụ được thực hiện sôi nổi. Cuối năm 1946, cả nước
đã có thêm 2.5 triệu người biết đọc, biết viết.

Về bảo vệ chính quyền cách mạng: Ngay từ khi thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn và mở rộng
phạm vi chiếm đóng ra các tỉnh Nam Bộ, Đảng đã kịp thời lãnh đạo nhân dân Nam Bộ đứng lên kháng
chiến và phát động phong trào Nam tiến chi viện Nam Bộ, ngăn không cho quân Pháp đánh ra Trung Bộ.
Ở miền Bắc, bằng chủ trương lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù, Đảng và Chính phủ ta đã thực hiện
sách lược nhân nhượng với quân đội. Tưởng tay sai của chúng để giữ vững chính quyền, tập trung lực
lượng chổng Pháp ở miền Nam. Khi Pháp - Tường ký Hiệp ước Trùng Khánh (28-2-1946), thỏa thuận
mua bán quyền lợi với nhau, cho Pháp kéo quân ra miền Bắc, Đảng lại mau lẹ chỉ đạo chọn giải pháp hào
hoãn, dàn xếp với Pháp để buộc quân Tưởng phải rút về nước. Hiệp định sơ bộ 6-3-1946, cuộc đàm phán
ở Đà Lạt, ở Phôngtennơbờlô (Phongtennebleau, Pháp), Tạm ước 14-9-1946 đã tạo điều kiện cho quân dân
ta có thêm thời gian để chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới.

Ý nghĩa của những thành quả đấu tranh nói trên là đã bảo vệ được nền độc lập của đất nước, giữ vững
chính quyền cách mạng; xây dựng được những nền móng đầu tiên và cơ bản cho một chế độ mới, chế độ
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; chuẩn bị được những điều kiện cần thiết, trực tiếp cho cuộc kháng chiến
toàn quốc sau đó.

Nguyên nhân thắng lợi: Có được những thắng lợi quan trọng đó là do Đảng đã đánh giá đúng tình hình
nước ta sau Cách mạng Tháng Tám, kịp thời đề ra chủ trương kháng chiến, kiến quốc đứng đắng; xây
đựng và phát huy được sức manh của khối đại đoàn kết dân tộc; lợi dụng được mâu thuẫn trong hàng ngũ
kẻ địch, V.V..

Bài học kinh nghiệm trong hoạch định và chỉ đạo thực hiện chủ trương kháng chiến kiến quốc giai đoạn
1945-1946 là: Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, dựa vào dân để xây dựng và bảo vệ chính quyền
cách mạng. Triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù, chĩa mũi nhọn vào kẻ thù chính, coi sự nhân
nhượng có nguyên tắc với kẻ địch cũng là một biện pháp đấu tranh cách mạng cần thiết trong hoàn cành,
cụ thể. Tận đụng khả năng hòa hoãn để xây dựng lực lượng, củng cố chính quyền nhân dân, đồng thời đề
cao cảnh giác, sẵn sàng ứng phó với khả năng chiến tranh lan ra cả nước khi kẻ địch bội ước.
bảo vệ chính quyền hiện nay trước sự chống phá của các thế lực thù địch

Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch của chủ nghĩa xã hội đã và đang thực hiện âm mưu, thủ đoạn
diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đỗ để chống phá các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, chúng luôn coi Việt
Nam là một trọng điểm.

Toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta luôn nâng cao cảnh giác, nhận thức rõ tính chất nguy hiểm của âm
mưu, thủ đoạn của kẻ thù thấy được tính chất phức tạp, quyết liệt trong cuộc đấu tranh này, đoàn kết, kiên
quyết đánh bại chúng, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Chúng ta xác định, chống chiến lược diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đỗ của chủ nghĩa đế quốc và các
thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta là nhiệm vụ cấp bách và lâu dài của toàn Đảng, toàn quân,
toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa giai đoạn mới.

7.So sánh phương châm kháng chiến lâu dài trong chống thực dân Pháp (1946 – 1954) với phương châm
kháng chiến lâu dài trong kháng chiến chống Mỹ (1965 – 1975).

8.Phân tích vai trò của hậu phương miền Bắc trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954 –
1975.

9.So sánh nội dung công nghiệp hóa trước đổi mới (1975 – 1985) với nội dung công nghiệp hóa trong thời
kỳ đổi mới (1986 – 1996).

10.Phân tích nội dung công nghiệp hóa của chặng đường đầu tiên trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam.

Những nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Thực hiện cuộc cách mạng khoa học - công nghệ để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật
cho chủ nghĩa xã hội, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất

Nước ta đang định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa tất yếu phải được tiến hành bằng cách mạng khoa học và công nghệ. Cố nhiên, trong
điều kiện thế giới đã trải qua hai cuộc cách mạng khoa học và công nghệ và điều kiện cơ cấu kinh tế mở,
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ ở nước ta có thể và cần phải bao hàm các cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ mà thế giới đã, đang trải qua.

Từ bối cảnh đó, vị trí của cuộc cách mạng này phải được xác định là "then chốt" và khoa học và công
nghệ phải được xác định là một "quốc sách", một "động lực" cần đem toàn lực lượng để nắm lấy và phát
triển nó.

Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ ở nước ta hiện nay có thể khái quát gồm hai nội dung chủ yếu
sau:

- Một là, xây dựng thành công cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội để dựa vào đó mà trang bị
công nghệ hiện đại cho các ngành kinh tế quốc dân.

- Hai là, tổ chức nghiên cứu, thu thập thông tin, phổ biến ứng dụng những thành tựu mới của khoa học và
công nghệ hiện đại vào sản xuất, đời sống với những hình thức, bước đi, quy mô thích hợp.

Trong quá trình thực hiện cách mạng khoa học và công nghệ, chúng ta cần chú ý:
- Ứng dụng những thành tựu mới, tiên tiến về khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin,
công nghệ sinh học, phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và từng bước phát triển nền kinh tế tri thức.

- Sử dụng công nghệ mới gắn với yêu cầu tạo nhiều việc làm, tốn ít vốn, quay vòng nhanh, giữ được nghề
truyền thống; kết hợp công nghệ cũ, công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại.

- Tăng đầu tư ngân sách và huy động các nguồn lực khác cho khoa học và công nghệ; kết hợp phát triển
cả bề rộng lẫn chiều sâu, xây dựng mới, cải tạo cũ, thực hiện tiết kiệm, hiệu quả.

- Kết hợp các loại quy mô lớn, vừa và nhỏ cho thích hợp; ưu tiên quy mô vừa và nhỏ, coi trọng hiệu quả
sản xuất kinh doanh và hiệu quả kinh tế - xã hội.

Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý và phân công lại lao động xã hội

* Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý

Cơ cấu kinh tế là tổng thể các bộ phận hợp thành, cùng với vị trí, tỷ trọng và quan hệ tương tác phù hợp
giữa các bộ phận trong hệ thống kinh tế quốc dân. Cơ cấu kinh tế được xem xét dưới góc độ: cơ cấu
ngành (như công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ...); cơ cấu vùng (các vùng kinh tế theo lãnh thổ) và cơ cấu
thành phần kinh tế (vấn đề này đã được nghiên cứu ở Chương 8).

Trong cơ cấu kinh tế thì cơ cấu ngành là bộ phận có tầm quan trọng đặc biệt, là bộ xương của cơ cấu kinh
tế.

Xây dựng cơ cấu kinh tế là yêu cầu cần thiết khách quan của mỗi nước trong thời kỳ công nghiệp hoá,
hiện đại hoá. Vấn đề quan trọng là tạo ra một cơ cấu kinh tế tối ưu (hợp lý). Xây dựng một cơ cấu kinh tế
được gọi là tối ưu khi nó đáp ứng được các yêu cầu sau:

- Phản ánh được và đúng các quy luật khách quan, nhất là các quy luật kinh tế và xu hướng vận động phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước.

- Nông nghiệp phải giảm dần về tỷ trọng, công nghiệp và dịch vụ phải tăng dần về tỷ trọng.

- Phù hợp với xu hướng tiến bộ của khoa học và công nghệ đã và đang diễn ra như vũ bão trên thế giới.

- Cho phép khai thác tối đa mọi tiềm năng của đất nước, của các ngành, các địa phương, các thành phần
kinh tế.

- Thực hiện tốt sự phân công và hợp tác quốc tế theo xu hướng toàn cầu hoá kinh tế, do vậy, cơ cấu kinh
tế được tạo dựng phải là "cơ cấu mở".

Xây dựng cơ cấu kinh tế là một quá trình, trải qua những chặng đường nhất định, do vậy xây dựng cơ cấu
kinh tế của chặng đường trước phải sao cho tạo được "đà" cho chặng đường sau và phải được bổ sung và
hoàn thiện dần trong quá trình phát triển.

Ở nước ta hiện nay, Đảng ta đã xác định cần tập trung xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý, mà "bộ
xương" của nó là "cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp - dịch vụ gắn với phân công và hợp tác quốc tế sâu
rộng"

. Sđd, tr. 12.


, và khi hình thành cơ cấu kinh tế đó, sẽ cho phép nước ta kết thúc thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Cơ cấu nói trên ở nước ta trong thời kỳ quá độ được thực hiện theo phương châm là: Kết hợp công nghệ
với nhiều trình độ, tranh thủ công nghệ mũi nhọn, tiên tiến vừa tận dụng được nguồn lao động dồi dào,
vừa cho phép rút ngắn khoảng cách lạc hậu, vừa phù hợp với nguồn vốn có hạn ở nước ta; lấy quy mô vừa
và nhỏ là chủ yếu, có tính đến quy mô lớn nhưng phải là quy mô hợp lý và có điều kiện; giữ được nhịp độ
(tốc độ) phát triển hợp lý, tạo ra sự cân đối giữa các ngành, các lĩnh vực kinh tế và các vùng trong nền
kinh tế...

* Tiến hành phân công lại lao động xã hội

Từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa trong quá
trình công nghiệp hoá tất yếu phải phân công lại lao động xã hội. Phân công lao động xã hội là sự chuyên
môn hóa lao động, tức là chuyên môn hóa sản xuất giữa các ngành, trong nội bộ từng ngành và giữa các
vùng trong nền kinh tế quốc dân. Phân công lao động xã hội có tác dụng rất to lớn. Nó là đòn bẩy của sự
phát triển công nghệ và năng suất lao động; cùng với cách mạng khoa học và công nghệ, nó góp phần
hình thành và phát triển cơ cấu kinh tế hợp lý.

Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sự phân công lại lao động xã hội phải tuân thủ các quá
trình có tính quy luật sau:

- Tỷ trọng và số tuyệt đối lao động nông nghiệp giảm dần, tỷ trọng và số tuyệt đối lao động công nghiệp
ngày một tăng lên.

- Tỷ trọng lao động trí tuệ ngày một tăng và chiếm ưu thế so với lao động giản đơn trong tổng lao động xã
hội.

- Tốc độ tăng lao động trong các ngành sản xuất phi vật chất (dịch vụ) tăng nhanh hơn tốc độ tăng lao
động trong các ngành sản xuất vật chất.

Ở nước ta, phương hướng phân công lại lao động xã hội hiện nay cần triển khai trên cả hai địa bàn: tại chỗ
và nơi khác để phát triển về chiều rộng kết hợp phát triển theo chiều sâu.

11.So sánh cơ chế quản lý kinh tế trước thời kỳ đổi mới với thời kỳ đổi mới.

12.Làm rõ điểm khác biệt giữa kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa.

13. Theo anh (chị) phải làm gì để quyền lực thuộc về nhân dân?

14. So sánh nội dung đấu tranh giai cấp trước thời kỳ đổi mới với nội dung đấu tranh giai cấp trong thời
kỳ đổi mới.

15. Làm rõ nhận thức mới của Đảng về văn hóa trong Cương lĩnh năm 1991.

16. Anh ( chị) làm gì để góp phần xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc?
17. Phân tích quan điểm của Đảng: giữ vững độc lập tự chủ, tự cường đi đôi với đẩy mạnh đa phương hóa,
đa dạng hóa trong quan hệ đối ngoại.

18.Quan điểm của Đảng về công tác đối ngoại ?. Quan điểm trên được thể hiện trong việc giải quyết vấn
đề Biển Đông thời gian qua như thế nào ?
Những nội dung cụ thể của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta trong những năm trước mắt

Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề
nông nghiệp, nông thôn và nông dân

Chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng tạo ra giá trị gia tăng ngày càng
cao, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường; thực hiện cơ khí hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, đưa
nhanh tiến bộ khoa học - kỹ thuật và công nghệ sinh học vào sản xuất; nâng cao năng suất, chất lượng và
sức cạnh tranh phù hợp với từng vùng, từng địa phương; phát triển các khu nông nghiệp công nghệ cao,
vùng trồng trọt và chăn nuôi tập trung, doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ gắn với hình thành các
ngành nghề, làng nghề, hợp tác xã, trang trại, tạo ra những sản phẩm có thị trường và hiệu quả kinh tế cao.
Thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới.

Phát triển nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ

Khuyến khích phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chế tác, công nghiệp phần mềm và công
nghiệp hỗ trợ có lợi thế cạnh tranh, tạo nhiều sản phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều lao động; phát triển
một số khu kinh tế mở và đặc khu kinh tế. Phát triển mạnh mẽ các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu
dùng và hàng xuất khẩu, sản xuất tư liệu sản xuất quan trọng theo hướng hiện đại.

Xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội.

Tạo bước phát triển vượt bậc của các ngành dịch vụ, nhất là những ngành có chất lượng cao, tiềm năng
lớn và có sức cạnh tranh, đưa tốc độ tăng trưởng của ngành dịch vụ cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP.

Phát triển kinh tế vùng

Phát triển các vùng trong cả nước và tạo sự liên kết giữa các vùng và nội vùng; thúc đẩy phát triển các
vùng kinh tế trọng điểm, tạo động lực, tác động lan toả đến các vùng khác; đồng thời tạo điều kiện phát
triển nhanh hơn cho các vùng kinh tế đang còn nhiều khó khăn.

Phát triển kinh tế biển

Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm; sớm đưa
nước ta trở thành quốc gia mạnh về kinh tế biển trong khu vực, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và
hợp tác quốc tế.

NHỮNG TIỀN ĐỀ ĐỂ ĐẨY MẠNH SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI
HÓA Ở NƯỚC TA

Tạo vốn cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa


Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật
ngày một hiện đại, đòi hỏi phải có nhiều vốn trong và ngoài nước, trong đó nguồn vốn trong nước là quyết
định, nguồn vốn bên ngoài là quan trọng.

Tích luỹ vốn từ nội bộ nền kinh tế được thực hiện trên cơ sở hiệu quả sản xuất, nguồn của nó là lao động
thặng dư của người lao động thuộc tất cả các thành phần kinh tế. Con đường cơ bản để giải quyết vấn đề
tích luỹ vốn trong nước là tăng năng suất lao động xã hội trên cơ sở ứng dụng tiến bộ khoa học và công
nghệ, hợp lý hoá sản xuất, khai thác và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực của đất nước, thực hiện tiết
kiệm...

Nguồn vốn bên ngoài được huy động từ các nước trên thế giới dưới nhiều hình thức khác nhau: vốn viện
trợ của các nước, các tổ chức kinh tế - xã hội; vốn vay ngắn hạn, dài hạn với các mức lãi suất khác nhau
của các nước và các tổ chức kinh tế; vốn đầu tư của nước ngoài vào hoạt động sản xuất kinh doanh, liên
doanh liên kết... Biện pháp cơ bản để tận dụng, thu hút vốn bên ngoài là: đẩy mạnh mở rộng các hình thức
hợp tác quốc tế; tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho các nhà sản xuất kinh doanh nước ngoài, tranh thủ
mọi sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế, vay vốn ở các nước...

Ở nước ta hiện nay, nguồn vốn trong nước còn hạn hẹp, nên phải tận dụng, khai thác nguồn vốn từ bên
ngoài. Tuy nhiên, tạo nguồn vốn phải gắn chặt với quản lý sử dụng tốt, có hiệu quả cao, khai thác tối đa
khả năng vốn đã có.

Đào tạo nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp cách mạng của quần chúng, trong đó lực lượng cán
bộ khoa học và công nghệ, khoa học quản lý và công nhân lành nghề đóng vai trò đặc biệt quan trọng.
Trong quá trình phát triển, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi phải có đầy đủ nguồn nhân lực về số
lượng, đảm bảo về chất lượng và có trình độ cao. Để đáp ứng đòi hỏi đó phải coi trọng con người và đặt
con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển kinh tế. Phải coi việc đầu tư cho giáo dục, đào tạo là một
trong những hướng chính của đầu tư phát triển; giáo dục và đào tạo phải thật sự trở thành quốc sách hàng
đầu. Phải có quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên nguồn nhân lực, đảm bảo cơ cấu, tốc
độ và quy mô phát triển hợp lý, đáp ứng yêu cầu của mỗi thời kỳ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Đồng thời, phải bố trí, sử dụng tốt nguồn nhân lực đã được đào tạo; phải phát huy đầy đủ khả
năng, sở trường và nhiệt tình lao động sáng tạo của mỗi người để họ tạo ra năng suất, chất lượng và hiệu
quả kinh tế cao, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Xây dựng tiềm lực khoa học, công nghệ theo yêu cầu của công
nghiệp hóa, hiện đại hóa
Khoa học và công nghệ được xác định là động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Khoa học và công
nghệ có vai trò quyết định lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển kinh tế nói chung, công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nói riêng. Tiềm lực khoa học và công nghệ suy cho cùng là tiềm lực trí tuệ và sáng tạo của cả dân
tộc.

Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế kém phát triển nên tiềm lực về khoa học và công
nghệ còn yếu kém. Muốn tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa thành công với tốc độ nhanh thì phải
xây dựng một tiềm lực khoa học và công nghệ thích ứng với đòi hỏi của nhiệm vụ. Đây là một công việc
rất khó khăn và lâu dài, nhưng trước mắt chúng ta cần tập trung giải quyết các vấn đề sau:

- Vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để xây dựng cơ sở khoa
học cho việc hoạch định và triển khai đường lối, chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa đạt hiệu quả
cao với tốc độ nhanh.
- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học để đánh giá chính xác tài nguyên quốc gia, nắm bắt các công
nghệ cao cùng những thành tựu mới về khoa học của thế giới; hướng mạnh vào việc nâng cao năng suất
lao động, đổi mới sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường.

- Xây dựng tiềm lực nhằm phát triển một nền khoa học tiên tiến, bao gồm: đẩy mạnh các hình thức đào
tạo và sử dụng cán bộ khoa học, chuyên gia; tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho các ngành khoa học
và công nghệ; xây dựng và thực hiện tốt cơ chế, chính sách tạo động lực cho sự phát triển khoa học và
công nghệ; đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học và công nghệ.

Nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động khoa học công nghệ bao gồm phát triển khoa học xã hội; phát
triển khoa học tự nhiên và khoa học công nghệ; đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ; phấn đấu
đến năm 2010, năng lực khoa học và công nghệ nước ta đạt trình độ của các nước tiên tiến trong khu vực
ở một số lĩnh vực quan trọng.

Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại


Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ cùng với xu hướng toàn cầu hoá kinh tế đang tạo ra
mối liên hệ và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế của các nước. Do đó việc mở rộng quan hệ kinh
tế giữa nước ta với các nước khác trở thành một tất yếu kinh tế, tạo ra khả năng và điều kiện để các nước
chậm phát triển tranh thủ vốn, kỹ thuật, công nghệ, kinh nghiệm tổ chức quản lý... để đẩy nhanh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Quan hệ kinh tế đối ngoại càng mở rộng và có hiệu quả bao nhiêu, thì
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa càng thuận lợi và nhanh chóng bấy nhiêu.

Tuy nhiên, đó mới chỉ là khả năng. Để khả năng trở thành hiện thực, chúng ta phải có một đường lối kinh
tế đối ngoại đúng đắn vừa đạt hiệu quả kinh tế cao, kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại;
vừa giữ vững được độc lập, chủ quyền dân tộc, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước
Đây là tiền đề quyết định thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Công cuộc
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta nên nó là một cuộc đấu tranh gian khổ, phức tạp. Dĩ nhiên, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là
sự nghiệp của toàn dân. Thế nhưng sự nghiệp đó phải do một Đảng Cộng sản tiên phong, dày dạn kinh
nghiệm, tự đổi mới không ngừng lãnh đạo và một Nhà nước của dân, do dân và vì dân, trong sạch, vững
mạnh và có hiệu lực quản lý, thì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước mới có thể hoàn thành tốt đẹp.

Lợi dụng mâu thuẫn hàng ngũ kẻ thù để khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám

You might also like