You are on page 1of 20

Địa lý

Bán đảo Ý dài và hẹp vươn ra Địa Trung Hải, với dãy Alpes về phía Bắc ngăn cách với châu
Âu. Bán đảo Ý trong trên bản đồ như một chiếc ủng, bao bọc ba mặt là biển, phía Nam bán đảo
là đảo Sicilia, phía Tây là đảo Corse và Sardegna.
Bán đảo Ý có những điều kiện thuận lợi để hình thành và phát triển một nền văn minh: những
đồng bằng phì nhiêu bên sông Po, Trung Ý và đảo Sicilia cùng với khí hậu ấm áp mưa nhiều;
bán đảo Ý cũng là nơi có lượng khoáng sản phong phú như đồng, chì, sắt, v.v.; giao thông biển
rất thuận lợi cho việc buôn bán, giao lưu với các nền văn minh khác trong vùng.
Nền văn minh La Mã là nơi khá sớm có con người cư trú, có thể khẳng định vào loại sớm nhất
với lục địa châu Âu. Bán đảo Ý là nơi hội tụ của các nền văn minh Đông và Tây Địa Trung Hải,
Bắc Phi. Mặc dù sự cực thịnh của nền văn minh La Mã không được các nhà nghiên cứu đánh
giá sớm hơn các nền văn minh lân cận, như nền văn minh Ai Cập cổ đại hay nền văn minh Tây
Á nhưng lại phát triển rực rỡ và cực thịnh.
Từ thời đồ đá cũ đã xuất hiện những cư dân sống ở bán đảo. Thời kỳ này, sự di cư của các cư
dân từ các lục địa vào bán đảo Ý và bị cách biệt với phần còn lại của châu Âu bởi dãy núi Alpes
nên việc giao lưu gần như bắt buộc với các nền văn minh khác quanh biển Địa Trung Hải. Cư
dân của La Mã tương đối thuần nhất do phạm vi hẹp và tương tự một ốc đảo ở Nam châu Âu,
được gọi chung là người Ý.

Tôn giáo
Thần thoại cổ xưa của La Mã có đặc điểm rằng các thần không ngự trị ở đỉnh cao mà có yếu tố
kết hợp giữa thần thánh và con người. Không giống như thần thoại Hy Lạp, người La Mã không
vị cách hóa các thần, mà có thể hình dung như những siêu tục. Người La Mã luôn tin tưởng
trong mỗi con người, địa thế, đồ vật đều có một thần bản mệnh của chính nó, kiểu như là linh
hồn. Đến thời Cộng hòa La Mã, tôn giáo là sự tuân phục của hệ thống các thầy tu, thầy tế bề
trên, mà họ là những người nắm giữ các vị trí ở Nghị viện La Mã. Các trường dòng ở Roma có
một vị trí quan trọng, ở đó các Đại Giáo chủ nắm giữ quyền lực lớn nhất. Các giáo chủ nắm giữ
việc thờ cúng các vị thần khác nhau, nhằm tạo niềm tin được che chở. Dưới thời Đế quốc La
Mã, hoàng đế là người nắm giữ mệnh lệnh của các thần, và có quyền thờ cúng để tăng thêm
sức mạnh, quyền uy.

Kết hợp với tín ngưỡng của Hy Lạp cổ đại, các thần La Mã cũ được tăng thêm sức mạnh từ
các thần Hy Lạp. Theo cách này, thần Jupiter là cách hiểu của sự chuyển tải từ vị thần Zeus,
thần Mars (vị thần của chiến tranh) là thần Ares và Neptune (thần của biển) là thần Poseidon.
Dưới sự cai trị của La Mã, rất nhiều dân tộc khác nhau cũng hình thành các tín ngưỡng và tôn
giáo khác, như tín ngưỡng Ai Cập, tín ngưỡng Tây Á đa dạng. Đến thế kỷ thứ 2, đạo Cơ
Đốc bắt đầu lan tỏa vào Đễ quốc La Mã, có sự hiềm khích và xung đột. Đạo Cơ Đốc bắt đầu
được công nhận chính thức dưới triều vua Constantinus I, và tất cả các đạo khác chống đối
đạo Cơ Đốc bị cấm ở Đế chế vào năm 391 bằng sắc lệnh của Hoàng đế Theodosius I.
Nói đến tôn giáo ở đế quốc La Mã cổ đại phải nói đến đạo Kitô, mặc dù đạo Kitô không phải ra
đời tại Roma. Du nhập từ đầu Công nguyên nhưng đến năm 337 đạo Kitô mới được phát triển
mạnh mẽ.
Theo truyền thống, người sáng lập ra Kitô giáo là Jesus Christus, Con Thiên Chúa, nhập thể
trong lòng nữ đồng trinh Maria. Jesus ra đời vào đêm 24 rạng 25 tháng 12 năm 1 (Công
nguyên) tại Bethlehem (thuộc Palestine ngày nay). Đến năm 30 tuổi, Jesus bắt đầu đi rao giảng
Phúc Âm.
Thánh Kinh của Kitô giáo có Cựu ước (tiếp nhận từ Do Thái giáo) và Tân ước. Giáo lý của đạo
tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi (tam vị nhất thể). Đạo Kitô có quan niệm về cứu rỗi, thiên
đường, địa ngục, thiên thần,... Về tổ chức, lúc đầu các tín đồ đạo Kitô tổ chức thành những
cộng đoàn vừa mang tính chất tôn giáo, vừa giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống. Đến thế kỉ II,
các cộng đoàn Kitô dần phát triển thành Giáo hội.
Khi mới ra đời, đạo Kitô bị các hoàng đế La Mã và tầng lớp quan lại địa phương trấn áp rất tàn
bạo. Vụ đàn áp đẫm máu nhất là vụ bách hại vào năm 64, dưới thời hoàng đế Nero, cướp đi
sinh mạng của rất nhiều Ki-tô hữu. Nhưng số người theo đạo Kitô không những không giảm mà
ngày càng tăng lên. Về sau, Giáo hội đề ra nguyên tắc "vương quốc thì trả cho vua, thiên quốc
thì trả cho Chúa trời" tức là tôn giáo không dính dáng đến chính trị. Thấy đàn áp mãi không có
tác dụng, các hoàng đế La Mã nghĩ tới biện pháp chung sống. Năm 311, một hoàng đế La Mã
đã ra lệnh ngưng đàn áp các tín đồ Kitô. Năm 313, đạo Kitô được hoàng đế La Mã công nhận
là hợp pháp. Năm 337, một hoàng đế La Mã lúc đó là Constantinus Đại đế đã gia nhập đạo
Kitô.
Việc Hoàng đế theo đạo Kitô dẫn tới sự truyền giáo được mở rộng. Ngân quỹ quốc gia cũng
được chi ra để đóng góp cho Nhà thờ. Đạo Kitô được truyền bá rộng khắp trong vùng đất
quanh Địa Trung Hải. Sau này, khi đế quốc La Mã tan vỡ thì đạo Kitô đã hầu như ăn sâu và lan
rộng khắp châu Âu.

Khái quát về nghệ thuật La Mã


 
Nghệ thuật La Mã sớm nhất thường gắn liền với sự lật đổ của các vị vua Etruscan và
việc thành lập nước Cộng hòa trong 509 TCN. Nghệ thuật La Mã truyền thống được chia
thành hai giai đoạn chính, nghệ thuật của nước Cộng hoà và nghệ thuật của Đế chế La Mã (từ
năm 27 TCN), với các phân khu tương ứng với các hoàng đế lớn hoặc triều đại vua chúa.
 
Nghệ thuật La Mã bao gồm kiến trúc, hội họa, điêu khắc và khảm. Quan điểm truyền thống
của các nghệ sĩ La Mã là họ thường vay mượn và sao chép các tiền lệ Hy Lạp (phần lớn các
tác phẩm điêu khắc Hy Lạp được biết đến hiện nay là ở dưới dạng bản in bằng đá cẩm thạch
Roman), phân tích gần đây đã chỉ ra rằng nghệ thuật La Mã là một tác phẩm mô phỏng rất sáng
tạo dựa nhiều vào mô hình của Hy Lạp mà còn bao gồm Etruscan, có nguồn gốc Italy, và thậm
chí cả văn hóa thị giác của Ai Cập.
 
 
Hội họa
 
Những kiến thức về hội họa La Mã cổ đại phần lớn dựa vào việc bảo quản các hiện vật
từ Pompeii và Herculaneum, và đặc biệt là các bức tranh tường Pompeian, được bảo
quản sau vụ phun trào của Vesuvius năm 79 SCN. Không có gì còn lại của bức tranh Hy Lạp
nhập khẩu đến Rome trong suốt thế kỷ thứ 4 và thứ 5, hoặc các bức tranh trên gỗ thực hiện tại
Ý trong thời gian đó.
 
 
Họa sĩ Pompeian với bức tượng sơn và sơn khung Pompeii
 
Hàng loạt các mẫu được giới hạn trong khoảng 200 năm đến khoảng 900 năm lịch sử của La
Mã. Hầu hết các bức tranh tường này đã được thực hiện bằng cách sử dụng phương pháp
Secco (khô), nhưng một số bức tranh vẽ trên trần nhà cũng tồn tại trong thời La Mã. Có một số
tài liệu đã chứng mình rằng những bức tranh La Mã đã kế thừa hoặc sao chép lại các tác phẩm
Hy Lạp trước đó. Tuy nhiên, trên thực tế, chữ viết có thể được ghi tên các nghệ sĩ Hy Lạp nhập
cư từ thời La Mã, không phải từ bản gốc tiếng Hy Lạp cổ đại đã được sao chép.
 
Các bức tranh Roman cung cấp một loạt các chủ đề: động vật, vẫn còn sống, những cảnh từ
cuộc sống hàng ngày, chân dung, và một số môn thần thoại. Trong thời kỳ Hy Lạp cổ đại, nó
gợi lên những niềm vui của vùng nông thôn và đại diện cảnh của người chăn chiên, bò, đền
mộc mạc, cảnh quan nông thôn miền núi và nhà nước.
 
Tranh phong cảnh
 
Việc đổi mới chính của tranh La Mã so với nghệ thuật Hy Lạp là sự phát triển của tranh phong
cảnh, kỹ thuật tích hợp đặc biệt của các quan điểm, mặc dù quan điểm toán học mới thực sự
phát triên 1.515 năm sau đó.
 
Cấu tạo bề mặt bóng, và màu sắc được áp dụng tốt nhưng quy mô và không gian sâu vẫn chưa
diễn tả lại một cách chính xác. Một số danh lam thắng cảnh là những cảnh thuần khiết của thiên
nhiên, đặc biệt là những khu vườn với hoa và cây.
 
 
 
Những bức phong cảnh khác cho thấy nhiều giai đoạn từ thần thoại, những cảnh thể hiện nổi
tiếng nhất từ Odyssey.
 
Tranh chân dung 
 
Vẽ chân dung là loại hình nghệ thuật rất phát triển trong kỷ nguyên La Mã. Người ta tin
rằng kỹ thuật vẽ chân dung thịnh hành ở khắp mọi nơi trong đế chế La Mã suốt 2 thế kỷ SCN
cho dù chỉ còn khoảng 200 bức chân dung còn tồn tại cho đến ngày nay. Và các tác phẩm này
đều được sáng tác trên gỗ nên chúng rất dễ hỏng. Hầu hết các tác phẩm còn tồn tại đều nằm
trong hầm mộ khô ráo ở phía dưới các lớp cát nóng trong sa mạc khô cằn.
 
 
Paquio Procolo và vợ - thế kỷ 1 SCN
 
Có người nghĩ rằng các tác phẩm chân dung chỉ có chủ đề về cái chết và người đã chết.
Nhưng thường thường các tác phẩm này mang chủ đề của của sự sống kể về các hoạt động
sinh hoạt hàng ngày: đồ vật, cuộc sống... sau đó mới là những chân dung để lưu lại hình ảnh
của người đã khuất.
 
 
Sappho - thế kỷ 1 SCN
 
 
 
Người phụ nữ vẽ bằng Mosaic
 
Tranh trong lăng mộ
 
 
 
Các bức chân dung đã được gắn trên mặt xác ướp được chôn, nhưng hầu như tất cả bây giờ
đã được tách ra. Họ thường miêu tả một người duy nhất, diễn tả đầu hoặc phần đầu và ngực
trên, nhìn chính diện. Nền luôn là đơn sắc, đôi khi thêm các yếu tố trang trí.
 
Tranh sơn bảng
 
 
Tại Hy Lạp và Rome, vẽ tranh tường đã không được coi là nghệ thuật đỉnh cao. Các hình thức
có uy tín nhất của nghệ thuật bên cạnh điêu khắc chính là sơn bảng, tức là keo sơn bằng sơn
dầu hoặc sơn trên tấm gỗ. Thật không may, vì gỗ là loại vật liệu dễ hư hỏng, chỉ có một số rất ít
ví dụ về các bức tranh như vậy còn tồn tại.
 
 
Điêu khắc
 
Điêu khắc La Mã truyền thống được chia thành năm loại: chân dung, lịch sử, phù điêu
mộ, quách, và bản sao tác phẩm Hy Lạp cổ đại.
 
 
Điêu khắc La Mã đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi Hy Lạp. Đó là một số bản sao của La Mã là
những tri thức gốc của Hy Lạp được bảo tồn. Một ví dụ của việc này là tại Bảo tàng Anh, bản
sao La Mã của một bức tượng của Venus được trưng bày, trong khi đó bản gốc tương tự nó là
từ 500 TCN. Còn bức tượng Hy Lạp tại Louvre là thiếu cánh tay của thần Vệ nữ.
 
Chân dung tác phẩm điêu khắc từ thời Cộng hòa có khuynh hướng hơi khiêm nhường hơn,
thực tế, và tự nhiên so với các công trình Đế quốc sớm. Một tác phẩm tiêu biểu có thể là một
người giống như các con số đứng "Một quý tộc La Mã với những bức tượng bán thân của tổ
tiên của ông".
 

 
Ở thời kì đế quốc, mặc dù họ thường miêu tả thực tế của cơ thể con người, chân dung tác
phẩm điêu khắc của các hoàng đế La Mã được thường được sử dụng cho mục đích tuyên
truyền và đưa các thông điệp về ý thức hệ trong tư thế hay trang phục của các nhân vật.  Vì hầu
hết các vị hoàng đế Augustus từ trên đã được phong thần, một số hình ảnh được phần nào lí
tưởng. Người La Mã cũng mô tả các chiến binh và những cuộc phiêu lưu anh hùng, trong tinh
thần của người Hy Lạp đã đến trước họ. Tác phẩm điêu khắc chân dung đã được sử dụng phổ
biến.
 
 
Kiến trúc
 
Công trình kiến trúc La Mã nổi tiếng hay được nhắc đến là đền Parthenon, đấu trường
Côlidê, Cột Trajan, các cầu vòm bằng đá và Khải Hoàn Môn. Kiến trúc sư La Mã nổi tiếng
thời đó là Vistruvius.
 
 
Cột Trajan
 
Trajan là một vị hoàng đế của La Mã vào năm 98 TCN; ông có vai trò to lớn trong lĩnh vực
chính trị cũng như quân sự- mở rộng lãnh thổ của đế chế và chống lại các thế lực bên ngoài.
Thời kỳ đầu cầm quyền, Trajan gây chiến với người Dacia, một tộc người ở Trung Âu thường
xuyên xâm chiếm La Mã. Chiến thắng của vị vua này được đánh dấu bằng việc xây dựng một
cây cột chiến thắng ở thành phố Rome – cột Trajan.
 

 
Cột Trajan cao 115 feet (khoảng 35m) kể cả bệ, và vào thời gian đó, cây cột còn hơn là một
biểu tượng chiến thắng của vị hoàng đế. Cây cột khổng lồ được phủ bằng dải phù điêu đá hoa
cương chạy hình xoắn ốc xung quanh cây cột, kể lại câu chuyện về chiến thắng chống lại
người Dacia. Dải phù điêu nổi này cao 50 inches (khoảng 1,1m). Giả sử, nếu tháo dời dải băng
này ra thì độ dài của nó bằng chiều dài của 2 sân bóng, 656 feet (khoảng 200 m).
 
Một trong những giá trị kiến trúc của người La Mã cổ đại thể hiện qua các cầu vòm bằng
đá. Nhờ những chiếc cầu này mà hệ thống giao thông nối liền các vùng của đế chế La
Mã trở nên thuận lợi.
 
 
 
Hệ thống dẫn nước (cầu vòm)
 
 

 
Đấu trường La Mã
 
Colosseum - Đấu trường La Mã là một trong những công trình kiến trúc tráng lệ nhất thế
giới. Đấu trường La Mã được xây dựng giữa những năm 70 và 80 sau công nguyên, dưới ba
hoàng đế Flavian: Vespasian, Titus, và Dominton. The Flavian Ampitheater được đặt tên là
"Colosseum" bắt nguồn từ từ "khổng lồ" -  bức tượng của Nero thấy gần giống với cấu trúc.
Khoảng 50.000 khán giả có thể trải nghiệm những trận chiến tàn bạo của các đấu sĩ đã diễn ra
tại đây.
 

 
Đền Pathenon
 
Pantheon - The Pantheon là một nơi thờ phượng cho người La Mã, người thờ nhiều vị
thần và nữ thần. Có một mái vòm hoàn hảo trên đỉnh của Pantheon và mái vòm là một lỗ hổng
lớn. Điều này là rất thú vị và quan trọng vì nó cho phép trong ánh sáng tự nhiên từ bên ngoài và
nó cho phép mưa để đi vào, trong đó sẽ rửa sạch máu từ động vật hy sinh.  Có một hệ thống
thiết lập trong cách sàn cong để khi trời mưa, nó sẽ rửa sàn nhà và sau đó chảy về phía bức
tường của Pantheon và sau đó thoát ra ngoài thông qua một cống đặc biệt. 
 
La Mã có niềm tự hào về các công trình kiến trúc của họ, khi mà có sự kết hợp các kiến
thức truyền thống của nền văn minh Hy Lạp kinh điển. Tuy nhiên, do sự bành trướng của
cộng hòa La Mã, mà các công trình xây dựng của Roma gần như cùng kiểu của Hy Lạp đương
thời. Mặc dù vậy, vẫn có sự khác nhau giữa hai trường phái La Mã và Hy Lạp về kiểu cách
trong xây dựng, La Mã vay mượn cứng nhắc sự chính xác, đề án phác thảo, tính cân xứng từ
Hy Lạp. Ngoài ra từ hai kiểu cột mới là kiến trúc hỗn hợp và kiểu Toscana, một nửa là kiểu mái
vòm với phong cách từ Etruscan, Roma đã có khá nhiều cách tân vào cuối thời Cộng hòa La
Mã.
 
Điểm đặc biệt ở thời gian thế kỷ 1 TCN, La Mã đã bắt đầu biết dùng bê tông, thay thế cho
đá cẩm thạch như nguồn vật liệu xây dựng chính và cho phép xây dựng nhiều công trình
kiến trúc phức tạp hơn. Đồng thời ở thế kỷ 1 TCN, Vitruvius lần đầu tiên cho ghi chép các
kiến thức kiến trúc xây dựng vào sử học. Về sau thế kỷ thứ 1 CN, La Mã cũng bắt đầu cho sản
xuất thủy tinh ngay sau khi Syria phát hiện ra chúng. Đồ chạm khảm cũng theo đoàn quân viễn
chinh ở Hy Lạp quay về La Mã. Rất nhiều vật dụng của La Mã được sản xuất từ bê tông.
 

 
Khải Hoàn Môn
 
Điêu khắc La Mã có cùng phong cách với điêu khắc Hy Lạp. Những bức tượng còn lại ở thành
Roma và những phù điêu trên Khải Hoàn Môn là hiện vật tiêu biểu cho điêu khắc La Mã.

You might also like