You are on page 1of 7

ÔN TẬP MÔN LỊCH SỬ THẾ GIỚI CỔ -TRUNG ĐẠI.

1. Hội họa nguyên thủy


2. Kiến trúc điêu khắc Hy Lạp
3. Kiến trúc điêu khắc Ai Cập
4. Tranh kính Trung Cổ
5. Kiens trúc nhà thờ Trung Cổ

* Hội họa là loại hình nghệ thuật diễn tả không gian ba chiều lên mặt phẳng hai chiều bằng các ngôn
ngữ đặc trưng như hình khối, màu sắc, đường nét, bố cục. Nó có khả năng nhân bản bởi tính đặc
trưng dduocj cấu tạo bởi mảng, nét, chấm…

*Kiến trúc là loại hình nghệ thuật thẩm mĩ môi trường, cái đẹp của nghệ thuaatjkieens trúc thể hiện
ở sự tạo dáng kiến truc, bố cục, hình khối, đường nét, tỉ lệ kiến trúc.

1.Hội họa nguyên thủy

*Bối cảnh:

Xã hội loài người thời nguyên thủy là chế độ thị tộc, Công cụ sản xuất thô sơ, đời sống săn bắt hái
lượm.

Xã hội chưa phân chia giai cấp, cuộc sống bầy đàn chế độ mẫu hệ.

Các vết tích Mỹ thuật nguyên thủy tìm thấy ở Nam Âu, châu Á và châu Phi.

*Mỗi thời kỳ có những đặc điểm riêng :

1.Thời Đồ Đá : Gồm đồ Đá cũ ( palêôlít ), đồ Đá giữa (medôlít ), đồ Đá mới ( neôlít )

Nhìn chung ,việc miêu tả thời kỳ nầy không giống thật lắm song thật ra nó chỉ có ý nghĩa cố gắng diễn
đạt nhằm cái bên trong của sự kiện xảy ra.

Ở thời kỳ đồ đá cũ Trải qua một thời gian dài với người Crôma nhông, dấu hiệu về sự làm đẹp đã
xuất hiện. Họ chú ý tới cách ăn mặc, trang trí vách hang bằng các hình vẽ thú vật vàhọ còn làm
những bức tượng nhỏ bằng nhiều chất liệu như ngà, xương, …. Tộc người nàysống vào cuối thời kỳ
đồ đá cũ. Căn cứ trên các hình vẽ tìm thấy ở một số hang động nhưAntamira (Tây ban nha) Látxcô
(Pháp), một số bức tượng phụ nữ đã được xác định niênđại có thể cho ta hình dung về sự ra đời của
nghệ thuật tạo hình trong đời sống nguyênthuỷ

Từ rất sớm, loài người đã có nhu cầu tạo nên những hình ảnh. Hiện tạibức tranh sớm nhất được biết
đến có niên đại 40.000 năm TCN. Ở Pech de l'Aze,Pháp Người ta cũng tìm thấy thỏi đất sét nhỏ (cùng
niên đại) được sử dụng để vẽtrên da hay trên tường trong các hang động.

Đến những năm 10.000 TCN có một vài họa sĩ thực thụ đã làm việc chăm chỉ đểphát triển kĩ thuật
cũng như chất liệu thể hiện cảm nhận, cái nhìn của họ. Họ thường sửdụng 3 loại chất màu chính:
màu vàng và màu đỏ làm từ đất sét màu và màu đen làm từmăng-gan. Những sáng tạo trong hang
động của họ ngày càng hoàn thiện như ở Lascaux(Pháp) hay Altamira (Tây Ban Nha). Đó là những
sáng tạo nghệ thuật tiền đề của Ai Cập,Hy Lạp, La Mã và nghệ thuật bích họa của kỷ nguyên mới

Thời đồ đá mới, xuất hiện kỹ thuật chế tạo công cụ, sản xuất đồ gốm, xây dựng nhà ở, phát triển
công xã thị tộc. nghệ thuật thời Đồ đá mới (40.000-10.000 TCN) thường lấy động vật là chủ đề.Dù ý
nghĩa của những bức tranh này là gì: sự hài lòng về công việc săn bắn, sinh sản; sựphát minh ra các
cách để bẫy thú hay là việc thờ cúng đơn giản. Thì chủ đề của những bứctranh đó là về bò rừng, ma
mút, tuần lộc, hươu, dê rừng... và từ đó họ phát triển các khảnăng để thể hiện họ qua những bức
họa, mô tả các ý niệm về sự chuyển động, không gian,nhịp điệu...

Mặc dù rất khó giải thích nhưng vẫn có thể phân biệt các thể loại nghệ thuật trongthời kỳ này. Rất
nhiều hang động tại Pháp và Tây Ban Nha gần dãy Pyrenee (nơi nhữngcon người sống vào khoảng
30.000 và 17.000 năm trước) có hình vẽ động vật sử dụng kỹthuật chấm (một dải nhiều các chấm
màu tạo đường nét), chấm mờ (khi màu chạy từ mộtđiểm tới một điểm khác, tạo nên một đường
các sắc độ khác nhau) và đường đơn giản(những đường liên tục tạo nên hình bóng của một chân
dung đơn giản thường là nhữngđường ngắn). Thể loại này được gọi là nghệ thuật Perigordian vì
những ví dụ tiêu biểunhất của nó đều tìm thấy tại các hang động vùng Perigord (Pháp). Những tác
phẩm này làmột bước chuyển quan trọng trong việc chuyển đổi từ ngữ hình ảnh.

2.Thời Đồ Đồng : Xuất hiện chế độ chiếm hữu nô lệ, hình thành nhà nước có giai cấp như Ai Cập,
Trung Hoa, Lưỡng Hà. Một thứ chất liệu mới thâm nhập nhanh chóng là đồng và đồng thau, đồng
thời với phát triển nghệ thuật, có liên quan tới những nghi thức tín ngưỡng và ma thuật.

3.Thời Đồ Sắt : Sự xuất hiện của sắt, nói lên sự phát triển kỹ thuật và ngành luyện kim. Xã hội có sự
phân hóa, sinh ra những cuộc chiến tranh . Tiêu biểu cho thời kỳ nầy là nền văn hóa Hansơtasơ (Áo),
phát triển rộng đến vùng Trung và Nam Âu (thế kỷ 10 đến thế kỷ 5 TCN ) là kho tàng nghệ thuật ứng
dụng, một nhóm di tích độc đáo là những thùng bằng bạc chạm dùng trong các nghi lễ.

*Đặc điểm mỹ thuật;

Tính tả thực Phong cách bao trùm mỹ thuật nguyên thuỷ là phong cách tả thực. Người thời nguyên
thuỷ chú ý nhất đến đường sống lưng của con vật. Có thể nói đóchính là trục tạo dáng cho hình
tượng nghệ thuật. Sau này, khi tư duy đã phát triển, conngười biết tìm ra các màu vẽ, rồi tìm cách
diễn tả chỗ đậm, chỗ sáng. Từ nét đậm nhạt,màu sắc, từ những hình đơn lẻ đến các bức tranh có ý
thức bố cục, đề tài, đó chính là sự phát triển của mỹ thuật thời nguyên thuỷ thông qua loại hình
nghệ thuật vẽ hình, chạmkhắc hình lên vách, trần hang động.

Các nghệ sĩ nguyên thuỷ còn biết cách điệu, ước lệhoá, sơ đồ hoá. Lấy bức chạm “Một đàn hươu
qua sông” trên một mảnh xương tìm thấy ởhang Mê - ri làm ví dụ. Tác giả đã rất giỏi khi chạm hình 3
con hươu đầu đàn và một concuối đà, ở giữa tác giả chỉ diễn tả các cặp sừng cao dần, phía dưới
dùng các gạch chéo vớicách làm như vậy tác giả đã cho chúng ta thấy một đàn hươu rất đông đang
di chuyển.Các hoa văn gạch chéo, hay những cặp sừng như một rừng cây đã thay thế cho những
conhươu giữa đàn. Như vậy trong bức chạm này, tác giả của nó đã dùng bút pháp tượngtrưng, ước
lệ xen với lối tả thực đạt tới

Màu vẽ được gọi là mầu thổ hoàng. Đó là một loại màu được chế tạo bằng cách mài các khoángchất
thành bột rồi pha với nước. Màu đỏ lấy từ đá hematite (ôxit sắt hay đất son) màutrắng từ đá Kalin
hoặc phấn, màu đen từ dioxýt mangan hay than đá. Một số cộngđồng người còn biết đun nóng các
khoáng chất để tạo ra màu mới. Đôi khi để có chất kếtdính màu thổ hoàng người nguyên thuỷ đã
biết dùng mỡ, hoặc tuỷ sống động vật và nhựacây. Kỹ thuật vẽ thì đơn giản, có thể dùng que, tay để
vẽ. Chất liệu của điêu khắc phongphú hơn, họ khắc chạm lên xương, sừng, ngà voi hay đá mềm, …

DI TÍCH Phần lớn đềunằm ở miền Bắc Tây Ban Nha và miền Nam nước Pháp. Tuy vậy có hai hang còn
lưu giữnhiều hình vẽ đẹp. Đó là hang Anta - mi - ra (Tây Ban Nha) và hang Látxcô (Pháp). Đâyđược
coi là hai bảo tàng lớn của nguyên thuỷ. Hang Anta - mi - ra được phát hiện năm1863 do một sự tình
cờ. Sau 16 năm tìm hiểu, nghiên cứu về các hình vẽ bò rừng ở tronghang con người thế kỷ XIX mới
tin rằng hang Anta - mi - ra chính là một trong những địađiểm nổi tiếng của mỹ thuật thời nguyên
thuỷ. Trong hang có nhiều hình vẽ con bò rừng(Bi đông) trong các dáng khác nhau và rất sống động.
Tp nổi tiếng Bích họa bò rừng bison, hang Altamira, chứng tỏ óc thẩm mỹ và kỹ năng vẽcực kỳ điêu
luyện của những “người tiền sử”. Màu vẽ gồm 4 loại, làm từ khoángchất, không bị phai, khiến bức
tranh vẫn tươi sáng dù đã trải qua 16.000 năm. Màuvẽ chứa sắt dùng làm màu đỏ, vàng và nâu, còn
màu đen là MgO. Nhiều nhà nghiêncứu cho rằng để vẽ nên các tác phẩm ấy, người họa sỹ thượng cổ
phải có dụng cụ vẽđặc thù và tiên tiến

2.Kiến trúc điêu khắc Ai Cập.

*Bối Cảnh: Khoảng năm 3100 trước công nguyên, Ai Cập cổ đại đã ra đời ở vùng Đông bắc Châu Phi.
Đây là quốc gia gần như sớm nhất được hình thành, nó nằm dọc theo hai bên bờ con sông Nil, dòng
sông mang nước cho ruộng đồng, bùn đất của sông Nil có thể thai thác làm gạch, làm đồ gốm, dòng
sông còn là nguồn giao thông quan trong của đất nước.

Người Ai Cập có nhiều thành tựu về khoa học: Toán học, Thiên văn học, y học…. sớm phát triển. Về
toán học đã sớm nghiên cứu về phương trình bậc nhất trong tri thức đại số, hình học đã biết các
hình tam giác vuông, chữ nhật và số Pi (ð = 3,1416), … dùng thước đo bằng gang tay, … Làm ra lịch, …

Về tôn giáo, tín ngưỡng của người Ai Cập cổ đại: Họ thờ rất nhiều vị thần, tôn giáo đa thần giáo phát
triển. Các vị thần hầu hết là đại diện cho lực lượng siêu nhiên chi phối đời sống nông nghiệp như
Thần mặt trời, Thần sông Nil, … và các thần động vật: Thần bò đực, Thần diều hâu, Thần cá sấu, …

* Nghệ thuật Điêu khắc Ai Cập Cổ đại:

- Điêu khắc và tranh vẽ làm đẹp, làm tăng ý nghĩa cho các công trình kiến trúc. Vì vậy, cùng với hai
loại kiến trúc lăng mộ và đền miếu thờ. Bên cạnh các kim tự tháp có rất nhiều tượng nhân sư đầu
người mình sư tử. Thần thoại có bao nhiêu thần thì người Ai Cập cũng nghĩ ra bấy nhiêu hình thức
thể hiện các vị thần ấy. Thường thì họ ghép hai yếu tố người và thú với nhau để tạo ra một hình
tượng linh thiêng như tượng nhân sư, …đầu chó mình người, chim ưng, ….

Trong các ngôi mộ đều có đặt tượng chân dung của chủ nhân các ngôi mộ. Tượng này có thể thay
thế cho xác chết, làm cho linh hồn tồn tại, vì vậy tượng được làm giống thực tối đa.

-Phong cách tả thực nổi rõ trong điêu khắc thời cổ vương quốc. Kiểu người nông nghiệp thô đậm.
Sang thời kỳ trung và nhất là thời kỳ tân vương quốc tính chất trọng thực trong điêu khắc Ai Cập đã
giảm bớt. Tỷ lệ các pho tượng được kéo dài, tạo dáng thanh mảnh hơn cho tượng. Cái đẹp, mềm
mại, duyên dáng được đưa vào điêu khắc. Tượng đặt ở lăng mộ hay đền thờ đều có kích thước
tương ứng với kích thước ở đền hay kim tự tháp.

Một thể loại khác của điêu khắc là phù điêu. Trong nghệ thuật Ai Cập phù điêu rất phát triển. Hình
tượng người, thần, … trong phù điêu được thể hiện theo những ước lệ tạo hình. Hình tượng nhân
vật được diễn tả ở nhiều điểm nhìn khác nhau biểu hiện ở một hình nhưng đầu mặt nhìn nghiêng,
mắt và vai luôn hướng ở chính diện, bàn chân nhìn nghiêng, ….

Sự kết hợp đó đã tạo nên những hình tượng rất đặc biệt, mang đặc điểm của nghệ thuật Ai Cập. Nó
đã khiến cho nghệ thuật Ai Cập mang tính dân tộc và không giống cách tạo hình của dân tộc nào trên
thế giới.

=>> Như vậy, nghệ thuật điêu khắc Ai Cập vừa mang tính hiện thực, vừa mang tính ước lệ và chịu
ảnh hưởng của tư tưởng thần bí, tôn giáo.

*Nghệ thuật kiến trúc Ai Cập Cổ đại

Kiến trúc là loại hình nghệ thuật thẩm mĩ môi trường, cái đẹp của nghệ thuaatjkieens trúc thể hiện ở
sự tạo dáng kiến truc, bố cục, hình khối, đường nét, tỉ lệ kiến trúc.
Thời kỳ đầu tiên, các kim tự tháp xây bằng gạch có bậc thang. Trải qua thời gian phát triển, dần xuất
hiện đá thay thế. Kim tự tháp đá được gọi là cổ nhất là của vua Giôxê (Djoser), do “Kiến trúc sư”
Imhôtép, quan đại thần của vua thiết kế và xây dựng. Tháp được xây bằng đá, cao 60m, làm thành 6
bậc thang, những bậc này tượng trưng như những tầng bậc đưa linh hồn vua lên tới trời cao. Cạnh
đáy khoảng 71m.

Từ nguyên mẫu kim tự tháp Giôxê, các lăng mộ sau này đều được xây dựng thành hình khối chóp,
đáy là hình vuông, 4 mặt đều trơn nhẵn, không có bậc thang. Từ thời Tân quốc người Ai Cập không
xây dựng các kim tự tháp ở giữa sa mạc, mà xây chúng trong thung lũng các vua và hoàng hậu.

Ví dụ: . Kim tự tháp Kê ốp (Chéops)

Nằm ở phía Tây sông Nil, bên sa mạc Ghida (Ghiga) ngày nay, còn sừng sững ba kim tự tháp: Kim tự
tháp Kê ốp, Kêphren và Mykênrinốt. Trong số đó kim tự tháp Kê ốp lớn nhất. Nó được xếp vào một
trong 7 kỳ quan của thế giới cổ đại. Đây là lăng mộ xây cho vua Kê ốp, ông vua thứ hai của vương
triều IV khoảng giữa năm 2650 TCN. Kim tự tháp Kê ốp cao 137m, do 225 vạn tảng đá vôi xây nên,
Mỗi tảng đá nặng từ 2 - 2,5 tấn, tảng lớn nhất nặng 15,25 tấn. Đỉnh kim tự tháp là một hình vuông
bằng phẳng không có dấu hiệu của sự dở dang hay sói mòn. Hình vuông ấy có kích thước mỗi cạnh
10m, được lát bằng 9 phiến đá vuông.

Theo các nhà khoa học trong kim tự tháp Kê ốp có 1/5 thể tích là những khoang trống có chứa cát.
Bốn mặt của kim tự tháp theo bốn hướng Bắc, Nam, Đông, Tây. Người Ai Cập vẫn coi kim tự tháp là
cái la bàn khổng lồ. Cho đến ngày nay, với khoa học kỹ thuật phát triển người ta vẫn còn ngạc nhiên
về tài xây dựng kim tự tháp của người Ai Cập cổ. Theo cách hiểu thông thường thì kim tự tháp là
lăng mộ của các Pharaông Ai Cập.. Bằng cách nào có thể đưa những phiến đá nặng lên cao 140m
như vậy? Việc khai thác đá, vận chuyển đá đến nơi làm kim tự tháp đã có thể coi là một kỳ công. Họ
còn phải đẽo các phiến đá, mài nhẵn để có thể xếp lên nhau cho thật khít, các tảng đá được xếp lên
nhau, hầu như không có kẽ hở, không có vật liệu kết dính, ấy vậy mà các lăng mộ vĩ đại ấy vẫn sừng
sững tồn tại đến ngày nay.

Bên cạnh kim tự tháp Kê ốp còn có kim tự tháp Kêphren và kim tự tháp Mykêrinốt có hình dáng
tương tự, nhưng nhỏ hơn. Kêphren có cạnh đáy khoảng 215m, cao 134m. Mykêrinốt là nhỏ nhất,
cạnh đáy khoảng 105m, cao khoảng 60m.

=>Kim tự tháp là công trình kiến trúc tiêu biểu thể hiện tài năng của người Ai Cập. Đồng thời nó cũng
thể hiện quyền lực rất lớn của Pharaông Ai Cập. Tuy vậy để có được công trình đó phải có sự hy sinh
của bao nhiêu nô lệ. Đứng về mặt lịch sử nó là lăng của các Pharaông Ai Cập. Nhưng đồng thời về
mặt nào đó, nó như một đài kỷ niệm một lời nhắc nhủ đến mai sau về sức lao động sáng tạo, bền bỉ
của người Ai Cập thời cổ đại.

Những ngôi đền thờ của Ai Cập được xây dựng với đồ án kiến trúc đơn giản gồm: cổng đền là một
khối kiến trúc lớn được phủ đầy các hoa văn trang trí; Từ cổng vào đền chính điện ta phải đi trên con
đường thần (thần đạo). Chính điện là một căn phòng lớn với những hàng cột bao quanh còn được
gọi là phòng cột. Trên các di tích còn lại, cho thấy người Ai Cập thời cổ đại đã tạo ra nhiều kiểu dáng
cột: cột hình bó sậy, hình hoa súng, hình cây Thốt Nốt, … Các đền thờ này được xây dựng ở hai bên
bờ sông Nil, chủ yếu ở phía Nam như đền: Kác nác, Luxo, Abuximben… Kim tự tháp và đền thờ Ai
Cập đều mang vẻ đẹp của sự đồ sộ, vững chắc và vĩnh hằng. Điều này bộc lộ một phần ở hình thức vĩ
đại của các thể loại kiến trúc Ai Cập cổ đại.

Ví dụ: Đền Kác nác (Karnak) thờ thần Mặt trời A.Mon
Là một trong những ngôi đền đẹp nhất của Ai Cập cổ đại, được xây dựng trong thời kỳ Tân vương
quốc. Theo cấu trúc chung của các đền miếu thờ ở Ai Cập.

Phía bên ngoài là cổng đền: thường là cột tháp với những bức tường hai bên. Đi qua sân rộng hình
chữ nhật là phòng cột đỡ trần nhà, có mái che. Sau cùng là hậu cung. Phòng chính trong đến Kác nác
có diện tích khoảng 5000m2 với 16 hàng cột đỡ trần nhà, gồm 134 cột đá lớn, … Qua một vài kích
thước cụ thể như vậy ta thấy vẻ đẹp hùng vĩ của kiến trúc đền thờ Ai Cập.

Trên các cây cột có khắc đầy các hình vẽ, trên cổng đền, ở mọi chỗ trên kiến trúc là những phù điêu
chạm nổi kẻ vẽ các cuộc chinh chiến của nhà vua. Nói liền đền Kác nác với đền Lu xô là hai dãy tượng
Xphanh đấu cừu kéo dài trên 2000m.

3.Kiến trúc điêu khắc Hy Lạp.

*Bối cảnh: Sau Ai Cập cổ đại, vào khoảng thế kỷ XVIII TCN, ở phía bên kia Địa Trung Hải, Hy Lạp ra
đời, lãnh thổ của nó bao gồm Hy Lạp ngày nay và các đảo thuộc biển Ê Giê và vùng Tây Tiểu á. Hy Lạp
không thuận lợi về nông nghiệp song lại tốt trong việc giao thông trên biển. Với tài nguyên dồi dào
đã tạo điều kiện cho Hy Lạp phát triển thủ công nghiệp và ngoại thương.

Nhà nước Hy Lạp cổ đại là xã hội chiếm hữu nô lệ chứa đựng những tư tưởng dân chủ tiến bộ, là Nhà
nước thông bang, ở đó có hai vua với quyền lực như nhau, vừa là thủ lĩnh quân sự, vừa là tăng lữ và
người xử án. Chế độ xã hội ở đây là chế độ dân chủ chủ nô, chế độ đó, mở đường cho các nhà khoa
học, những nghệ sĩ, những công dân tự do này được phát triển tài năng, trí sáng tạo. Điều này giúp
nghệ thuật cũng như khoa học Hy Lạp cổ đại phát triển mạnh.

*Nghệ thuật kiến trúc Hy Lạp cổ đại

Trong đời sống của người Hy Lạp thời cổ đại, tôn giáo đóng vai trò quan trọng. Họ thờ rất nhiều vị
thần. Thể loại kiến trúc phát triển là kiến trúc đền thờ gần như toàn thể các công trình xây dựng có
giá trị nghệ thuật, to đẹp nhất thuộc về tôn giáo. Kích thước đền thờ vừa phải, không quá lớn đồ sộ.
Kiến trúc chính là kiến trúc cột. Kiến trúc Hy Lạp có 3 thức cột chính:

Thức Đôríc, thức Iônic, và thức Corinthian. Sự khác nhau giữa các thức cột này được phân biệt bởi
phần đầu cột và các khía rãnh.

Cột Đôríc có 20 khía rãnh khá rộng.Có 24 hoặc là 48 khái của cột Ioníc sâu hơn, chặt hơn. Cột Đôríc ra
đời sớm nhất và phát triển ở Pðloponnêse và các khu dân cư ở miền Nam ý và đảo Sixin (Sicile).

Phong cách Iôníc thanh mảnh và duyên dáng hơn.. Phần đầu cột được trang trí bằng những hoạ tiết
và cách điệu mềm mại và trang nhã.

Đền thờ Pác-tê- non (Partenon) được khởi công trên đồi Acrôpôn (Acropolis) thờ nữ thần Atêna
(Athena): là đền thờ kết hợp hài hoà giữa sự khoẻ khoắn của thức Đô níc và sự duyên dáng nhẹ
nhàng của thức Iônic.

Vd:Đền Pác- tê- nông (Partenon)

Vẻ đẹp của Pác tê non thể hiện trong sự cân đối, hài hoà về tỷ lệ giữa các bộ phận kiến trúc. Nó còn
bộc lộ trong sự đơn giản, trang nhã của khối kiến trúc chủ yếu dựa trên những đường thẳng với
trang trí bằng các tác phẩm điêu khắc và phù điêu dạng trụ ngang. Kiến trúc cân đối hài hoà của Pác
tê non được trang điểm thêm đẹp đẽ, lộng lẫy bằng các tác phẩm điêu khắc của Phi đi át và các học
trò của ông. Tác giả của Pác tê non là Ichtinốt và Can Li Crát.
Ngoài Pác tê non, Hy Lạp còn rất nhiều đền thờ nổi tiếng: Đền thờ thần Dớt ở Péc Gam Ô Lym Pia và
đền thờ thần biển cả Pô Dây Đon (Poseidon) ở phía Nam Aten, …

Cho tới thế kỷ VI TCN, các đền thờ của Hy Lạp đều được làm bằng gỗ hoặc gạch. Đến thế kỷ V, người
Hy Lạp chuyển sang các kiến trúc đá cẩm thạch lộng lẫy và sang trọng, với bốn mặt đền là các hàng
cột đá. Kiến trúc tôn giáo là thể loại biểu hiện tài năng của người Hy Lạp. Bên cạnh đó họ còn quy
hoạch đô thị, xây dựng các nhà hát, thành luỹ, … vào thời kỳ các thế kỷ IV - II TCN. Từ thế kỷ IV trong
kiến trúc Hy Lạp còn phát triển loại kiến trúc lăng mộ, có những lăng lớn, đẹp đẽ được xếp vào một
trong 7 kỳ quan của thế giới cổ đại như lăng vua Mô xô lơ (Mausole) ở Halicácnat (Halicrnasse).

Kiến trúc Hy Lạp nói chung là vẻ đẹp trang nhã, mực thước, trong sáng với kết cấu kiến trúc chính là
phong cột trên mặt bằng hình chữ nhật.

* Nghệ thuật Điêu khắc Hy Lạp cổ đại

3.1 . Thời cổ sơ (Thế kỷ VII - VI trước công nguyên)

Điêu khắc Hy Lạp được phát triển qua 3 thời kỳ. ở thời kỳ cổ sơ hình tượng điêu khắc rất đơn giản,
trước đó nghệ thuật điêu khắc Hy Lạp đã bắt đầu những bước đi dò dẫm từ thế kỷ X - VIII. Phần lớn
là các tượng nhỏ bằng đồng thanh, đồng nung, hoặc ngà voi thể hiện một cách sơ lược hình tượng
các con vật, con người hay các quái vật trong sự kết hợp giữa người và vật. Đôi khi còn có những
tượng bằng gỗ, diễn tả các vị thần. Điêu khắc thời kỳ này gắn liền với tôn giáo.

Trong nghệ thuật điêu khắc Hy Lạp xuất hiện 2 loại tượng: Tượng nam khoả thân và nữ mặc áo dài.
Những tượng này được thể hiện trong dáng đứng thẳng, hai tay buông theo thân. Tượng trong dáng
tĩnh, nghiêm trang cân đối. Tỷ lệ cơ thể cũng như hình khối chưa chuẩn mực, chất liệu sử dụng là đá.

Thời gian này, trong điêu khắc Hy Lạp vẫn thấy những ảnh hưởng của ước lệ tạo hình phương Đông.
Tượng “nhìn ngay ngó thẳng” và gắn liền với tôn giáo tín ngưỡng. Sang thế kỷ VI trong phong cách
làm tượng đã có sự chuyển biến. Các tượng thẳng đứng như cây cột dần được thay thế bằng những
pho tượng dáng động từ đơn giản đến phức tạp dần. Nửa đầu thế kỷ V, điêu khắc Hy Lạp được đánh
dấu bằng các tác phẩm chạm nổi ở đền thờ thần diễn tả 12 chiến công người anh hùng Hecquyn
(Hercules). Con người được diễn tả ở nhiều tư thế vận động khác nhau, sinh động. Hình tượng điêu
khắc đã thoát khỏi sự chi phối của ước lệ tạo hình cơ sở. Nghệ thuật điêu khắc Hy Lạp bước vào thời
kỳ mới.

3.2 . Thời cổ điển (Thế Kỷ V - IV trước công nguyên)

Từ giữa thế kỷ V thành bang A ten đã phát triển trở thành trung tâm lớn của Hy Lạp cả về chế độ xã
hội cũng như văn hoá nghệ thuật. Người đứng đầu về điêu khắc thời này là Phi đi át (Phiđias), Pô ly
clét (Polycléte) và Mirông.

Pôlyclét dành nhiều thời gian cho nghiên cứu và sáng tạo của mình cho việc tìm ra tỷ lệ chuẩn cân
đối, hài hoà của cơ thể nam giới. Tiêu biểu là tượng Đôripho (Doryphore) người lực sỹ vác giáo: có tỷ
lệ 7 đầu, cân đối, hài hoà của các tỷ lệ giữa đầu, thân, tay, chân, sự mềm mại, sống động của hệ
thống cơ, chất đá đã biến thành da thịt, có cảm nhận được sự vững chắc của cơ thể, sự chuẩn xác về
giải phẫu tạo hình kết hợp với cái đẹp của đường nét, hình khối.

Mirông lại nghiên cứu dáng động của hình tượng con người. Tiêu biểu là tượng “người ném đĩa” cho
ta hình ảnh của một lực sĩ cường tráng đang vận động hết sức của cơ thể để vung tay ném đĩa, ở đó
có sự phối hợp cái đẹp về dáng, về hình, về tỷ lệ. Trong sự phối hợp phần chân nghiêng và thân nhìn
chính diện. Sự kết hợp đã tạo ra sự chuyển động và vẻ đẹp hoàn mỹ cho tác phẩm.
Vd: Người ném đĩa - Mi ron

Sang thế kỷ IV, điêu khắc Hy Lạp lại tiến thêm một bước, nếu ở thời kỳ trước các tác giả muốn đạt
đến độ mẫu mực về tỷ lệ, hình khối, tạo dáng động thì thế kỷ này họ lại muốn tăng thêm chất liệu
thực cho tượng, bớt chất lý tưởng hoá với đại biểu là: Xcopa (Scopas), Pra Xi Ten (Praxitéle), Li Xíp
(Lisippe), Mô Xô Lơ, … tác phẩm của ông như (Hernes), Héc Mét, tượng nữ thần săn bắn ác Tê Mít và
đặc biệt là các tượng vệ nữ như vệ nữ của cơ thể nữ. Đến đây các nghệ sĩ Hy Lạp đã phô diễn vẻ đẹp
tuyệt mỹ mà tạo hoá đã ban tặng cho “phái yếu” qua những pho tượng khoả thân. Có lẽ cũng vì lẽ đó
mà khi tìm thấy hai pho tượng vô danh: Vệ nữ Mi lô và tượng nữ thần chiến thắng ở Xa Mô Crát: Hai
phong cách và hai vẻ đẹp khác nhau: Một lý tưởng hoà và một tràn đầy, hiện thực.

Thời kỳ Hy Lạp hoá (thế kỷ III - II trước công nguyên)

Ở thời kỳ này, Aten không còn là trung tâm cường thịnh duy nhất như thời trước, trên những miền
đất mới ở Tiểu á và Bắc phi mọc lên những trung tâm mới. Điêu khắc cũng như điêu khắc đều muốn
tìm đến một phong cách mới. Hoặc tiếp tục phong cách của giai đoạn trước nhưng đẩy cao hơn về
mặt biểu hiện những tình cảm đau thương, bi thảm như những tác phẩm “người lính Gô loa bị trọng
thương” hay người chiến binh gô loa giết vợ và tự sát”, … Trong pho tượng này gây ấn tượng mạnh
cho thị giác và cảm xúc. Hoặc phức tạp hơn trong phong cách diễn tả, hoặc cường điệu hoá. Thể loại
thường gặp trong điêu khắc thời Hy Lạp hoá là nhóm tượng và phù điêu lớn

Phù điêu trên riềm mũ cột đền thờ Pðcgam dài khoảng 120m, bao quanh đền thờ, diễn tả cuộc giao
chiến giữa các thần linh và những người khổng lồ. Mọi hình tượng đều được diễn tả bằng kỹ thuật
điêu luyện, hình khối mạnh mẽ, cường độ dữ dội trong động tác.

Ví dụ: Nhóm tượng Lao Cun: Mang đầy chất bi tráng, diễn tả một cảnh tượng khủng khiếp về số
phận con người. Nhóm tượng diễn tả 3 nhân vật, mỗi người mang một nét đẹp riêng. Ngoài cái đẹp
lý tưởng về hình thể, tác giả còn muốn nhấn mạnh vẻ đẹp về tính cách, về sự bộc lộ nội tâm. Qua
hình dáng, thái độ khác nhau của 3 nhân vật đã bộc lộ nỗi khiếp sợ, đau đớn, kiệt sức của 3 cha con.
Sức căng vặn của 3 cơ thể, kết hợp với đường cong ngoằn ngoèo của hai con rắn đã tạo nên nhóm
tượng có bố cục chặt chẽ, gắn bó thể hiện nội dung sâu sắc

4:Tranh kính Trung Cổ

You might also like