You are on page 1of 4

1.

Khái niệm nghệ thuật:

Nghệ thuật là một lĩnh vực rộng lớn và đa dạng, bao gồm mọi thứ từ hội họa, điêu khắc, âm
nhạc, văn học, diễn xuất, và nhiều hơn nữa. Nghệ thuật thường được xem như một cách để
thể hiện cảm xúc, ý tưởng, và trải nghiệm con người thông qua các phương tiện khác nhau.

2.Nghệ thuật nguyên thuỷ:

Nghệ thuật nguyên thuỷ là một phần của nghệ thuật thời tiền sử, được tạo ra bởi các cộng
đồng người nguyên thủy. Đặc điểm chung của nghệ thuật nguyên thuỷ bao gồm:

a. Đối tượng nghệ thuật:

Trong các hình vẽ còn lại trên vách, hang, động nơi con người thời nguyên thủy sinh sống
chủ yếu là các hình thú hoặc đơn lẻ hoặc bầy đàn, ở một số tác phẩm đã có ý thức bố cục các
hình tượng theo một chủ đề nhất định. Đối tượng chủ yếu trong nghệ thuật giai đoạn này là
các con thú như ngựa, bò, hươu, tuần lộc…. Với cuộc sống nguyên thủy, các con vật đó đã
góp phần nuôi dưỡng con người, chúng là nguồn thức ăn chính của họ, là đối tượng gần gũi
nhất đối với con người.

b.Kỹ thuật và chất liệu:

Màu vẽ được gọi là mầu thổ hoàng, được chế tạo bằng cách mài các khoáng chất thành bột
rồi pha với nước

. Màu đỏ lấy từ đá hematite (ô xit sắt hay đất son) màu trắng từ đá Kalin hoặc phấn, màu đen
từ dioxit mangan hay than đá. Một số cộng đồng người còn biết đun nóng các khoáng chất để
tạo ra màu mới. Đôi khi để có chất kết dính màu thổ hoàng người nguyên thủy đã biết dùng
mỡ, hoặc tuỷ sống động vật và nhựa cây. Kỹ thuật vẽ thì đơn giản, có thể dùng que, tay để vẽ.
Chất liệu của điêu khắc phong phú lơn. Có thể họ khắc, chạm lên xương, sừng, ngà voi hay
đá mềm…

3. Thành tựu nghệ thuật:

Ngày nay chúng ta đã tìm được trên một trăm hang động có hình vẽ. Phần lớn đều nằm ở
miền Bắc Tây Ban Nha và miền Nam nước Pháp. Tuy vậy có hai hang còn lưu giữ nhiều hình
vẽ đẹp. Đó là hang Anta – mi – ra (Tây Ban Nha) và hang Látxcô (Pháp). Đây được coi là hai
bảo tàng lớn của nguyên thủy. Hang Anta – mi – ra được phát hiện năm 1863 do một sự tình
cờ. Sau 16 năm tìm hiểu, nghiên cứu về các hình vẽ bò rừng ở trong hang con người thế kỷ
XIX mới tin rằng hang Anta – mi – ra chính là một trong những địa điểm nổi tiếng của mỹ
thuật thời nguyên thủy. Trong hang có nhiều hình vẽ con bò rừng (Bi đông) trong các dáng
khác nhau và rất sống động.

Ngoài những đặc điểm được miêu tả chính xác các hình vẽ này còn được thể hiện với những
đường nét mềm mại, đậm nhạt sinh động. Nhiều nhà nghiên cứu nghệ thuật còn gọi hang
Anta – mi – ra là “Tòa tiểu giáo đường Xicxtin của thời nguyên thủy”.

Hang Latxcô (Pháp) lại do một nhóm trẻ em đi chơi trong khu rừng Latxcô, do một sự bất
ngờ chúng tìm thấy một chiếc hang lớn. Trên vách và trần hang chúng thấy có nhiều hình vẽ
thú vật. Trong đó rõ và đẹp nhất là hình ngựa, bò…

Ngựa ở hang Latxcô được thể hiện có màu sắc và đậm nhạt gợi khối. Những hình vẽ này
thành công đến mức người ta có thể ví nó với hình vẽ ngựa của các hoạ sĩ Trung Quốc,
những bậc thầy về diễn tả con vật. Theo một số nhà nghiên cứu cho rằng lối vẽ màu ở đây
khá độc đáo. Màu được thổi lên hình vẽ qua một ống sậy hoặc ống xương. Các hình vẽ được
tô màu đỏ là chủ yếu. Trên hình vẽ có một số mảng màu được cạo bớt đi để diễn tả khối, tạo
sự sinh động cho hình tượng. Các tranh vẽ còn lại đến ngày nay được định tuổi từ khoảng
15.000 đến 10.000 năm trước công nguyên.

Một số tác phẩm trong hang động:


Hang động Magura(Bulgaria):

Niên đại: 6.300 - 3.000 năm trước Công nguyên

Chủ đề: bóng của phụ nữ, nam giới săn bắn và nhảy múa, động vật, người đeo mặt nạ, thực
vật, công cụ và các ngôi sao.

Serra da Capivara (Brazil)

Niên đại: 23.000 năm trước Công nguyên

Chủ đề: cảnh săn bắn và nghi lễ, động vật và cây cối

4. Tính tượng trưng, ước lệ trong nghệ thuật nguyên thuỷ:

Trong nghệ thuật nguyên thuỷ, tính ước lệ và tượng trưng thường được thể hiện qua các hình
vẽ và điêu khắc. Các nghệ sĩ nguyên thuỷ đã sử dụng các sơ đồ hoá, hoặc phong cách hoá
đơn giản và ước lệ khi vẽ con người. Trong điêu khắc, hầu hết là tượng người, mà chủ yếu là
phụ nữ, được phát hiện nhiều nơi trên thế giới. Tượng có thể có kích thước to nhỏ khác
nhau.Các bức tượng này được làm bằng nhiều chất liệu như ngà, sừng, xương, đá hoặc đất
nung chúng có chung đặc điểm là: Tỉ lệ chung chưa được chú ý, chưa cân đối. Phần đầu và
tay chân không được diễn tả kỹ. Phần được chú trọng nhất là phần thân cùng với sự cường
điệu phóng đại các chi tiết: Ngực, mông, bụng. Phần chân dung hầu như không được diễn tả.
Có lẽ các nghệ sĩ khi làm những pho tượng này đã bị chi phối bởi những suy nghĩ đặc biệt,
mang theo tinh thần tư duy nguyên thủy. Phong cách bao trùm mỹ thuật nguyên thuỷ là
phong cách tả thực. Nghệ sĩ nguyên thuỷ đã đi từ đơn giản đến phức tạp dần. Nhưng dù đơn
giản hay phức tạp họ đều đi đến một cái đích: Đó là cố gắng diễn tả đối tượng một cách đúng
nhất và sống động nhất. Điều này chứng tỏ sự quan sát kiên trì và chính xác những đặc điểm
của đối tượng. Sở dĩ người nguyên thủy thích tả thực vì những bức vẽ đó chưa đơn thuần là
nghệ thuật mà nó còn gắn liền với nhiều chức năng khác. Những chức năng đó đòi hỏi hình
vẽ phải chính xác, phải giống thực một cách tối đa. Lúc ban đầu, hình vẽ được diễn tả bằng
nét là chính. Người thời nguyên thủy chú ý nhất đến đường sống lưng của con vật. Có thể nói
đó chính là trục tạo dáng cho hình tượng nghệ thuật. Sau này, khi tư duy đã phát triển, con
người biết tìm ra các màu vẽ, rồi tìm cách diễn tả chỗ đậm, chỗ sáng. Từ nét đậm nhạt, màu
sắc, từ những hình đơn lẻ đến các bức tranh có ý thức bố cục, đề tài, đó chính là sự phát triển
của mỹ thuật thời nguyên thủy thông qua loại hình nghệ thuật vẽ hình, chạm khắc hình lên
vách, trần hang động. Cùng với phong cách tả thực, các nghệ sĩ nguyên thuỷ còn biết cách
điệu, ước lệ hoá, sơ đồ hoá. Lấy bức chạm “Một đàn hươu qua sông” trên một mảnh xương
tìm thấy ở hang Mê – ri làm ví dụ. Tác giả đã rất giỏi khi chạm hình 3 con hươu đầu đàn và
một con cuối đà, ở giữa tác giả chỉ diễn tả các cặp sừng cao dần, phía dưới dùng các gạch
chéo với cách làm như vậy tác giả đã cho chúng ta thấy một đàn hươu rất đông đang di
chuyển. Các hoa văn gạch chéo, hay những cặp sừng tượng trưng.

You might also like