You are on page 1of 65

Chương 4

KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG VĂN HỌC THIẾU NHI

4.1. GIỚI THUYẾT VỀ KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT


4.1.1 Khái niệm không gian nghệ thuật
Khác với không gian, không gian nghệ thuật là một bình diện của thi pháp. Giữa không gian
nghệ thuật với không gian vật chất bên ngoài sẽ có những đường biên ranh giới nhất định. Và khái
niệm không gian nghệ thuật được các nhà lí luận phát biểu như sau:
"Không gian nghệ thuật là hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh
thể của nó" (Lê Bá Hán chủ biên, Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2000).
"Không gian nghệ thuật là môi trường hoạt động của nhân vật" (Nguyễn Xuân Kính, Thi
pháp Ca dao, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1992).
"Không gian nghệ thuật là mô hình thế giới độc lập có tính chủ quan và mang ý nghĩa tượng
trưng của tác giả" (Trần Đình Sử, Tuyển tập - tập 2, Nxb Giáo dục, 2005).
Mỗi ý kiến tuy không thật giống nhau về cách diễn đạt nhưng đều gặp nhau ở những luận
điểm sau:
- Không gian nghệ thuật thuộc về phương diện hình thức bên trong của tác phẩm.
- Không gian nghệ thuật là phương thức tồn tại của thế giới hình tượng.
- Không gian nghệ thuật có tính độc lập tương đối và mang tính quan niệm.
Như vậy, có thể hiểu không gian nghệ thuật là một bình diện quan trọng của thi pháp, chỉ hình
thức tồn tại chủ quan của thế giới nghệ thuật.
4.1.2. Vai trò, ý nghĩa của không gian nghệ thuật trong kết cấu nghệ thuật của tác phẩm
Với tư cách là một phương diện thi pháp trong kết cấu nghệ thuật của một tác phẩm, không
gian nghệ thuật là hình thức tồn tại chủ quan của hình tượng nghệ thuật. Tính chủ quan của không
gian thể hiện ở chỗ nó là sản phẩm sáng tạo của nghệ sĩ, được biểu hiện dưới hệ quy chiếu của điểm
nhìn chủ thể. Và đến lượt mình, không gian cũng mở ra một trường nhìn khác về thế giới. Tùy theo
cá tính sáng tạo, mỗi nghệ sĩ sẽ cho ra đời những mô hình thế giới riêng để chuyển tải những quan
niệm riêng của chủ thể về cuộc đời.
Không gian nghệ thuật trong tác phẩm là sự mô hình hóa các mối liên hệ về thời gian, đạo
đức, xã hội của bức tranh thế giới. Với vai trò này, không gian thể hiện rõ mối quan hệ chặt chẽ với
thời gian nghệ thuật. Có nhiều khi, thời gian được không gian hóa, trở thành một chiều của không
gian. Trong không - thời gian ấy, hình tượng nhân vật đã vận động qua nhiều mối quan hệ với chính
cái tôi nội cảm dưới những quan điểm đạo đức nhất định của xã hội. Bên cạnh đó, không gian nghệ
thuật còn tạo thành các ngôn ngữ, biểu tượng nghệ thuật để biểu hiện thế giới quan niệm của tác
phẩm. Vai trò ấy đã khẳng định tính biểu trưng của không gian trong văn học. Người nghệ sĩ khi
sáng tác không đơn thuần là việc vẽ lại những không gian vật lí mang tính vật chất đơn thuần mà
cái chính là muốn gửi gắm một góc nhìn về con người và cuộc đời. Chính vì vậy, trong quá trình
khám phá tác phẩm cần phải xem xét không gian nghệ thuật như một quan niệm về thế giới, một
phương diện thể hiện cảm xúc và tư tưởng thẩm mĩ của tác giả. Bởi lẽ, cũng như thời gian thì không

57
gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ nhằm thể hiện một quan niệm nhất định về
cuộc sống.
Lưu ý rằng, mô hình không gian nghệ thuật trong văn học rất đa dạng. Iu. Lốtman đã đưa ra
ba mô hình không gian: Không gian điểm, không gian tuyến, không gian mặt phẳng. Nếu như
không gian tuyến có hướng vươn đến chiều dài, không gian mặt phẳng có hướng vươn ra chiều rộng
thì không gian điểm lại được xác định bằng các giới hạn và tính chất chức năng của nó, tính đối lập
của nó. Giáo sư Trần Đình Sử thì chia không gian nghệ thuật theo những ranh giới giá trị để có
không gian bên trong và không gian bên ngoài, không gian bất biến và không gian khả biến, không
gian trên cao và không gian dưới thấp...
4.2. NHỮNG HÌNH THỨC KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TIÊU BIỂU TRONG VĂN HỌC
THIẾU NHI
4.2.1. Không gian nghệ thuật trong văn học dân gian dành cho thiếu nhi
Văn học dân gian dành cho thiếu nhi (Folkore thiếu nhi) bao gồm những sáng tác truyền
miệng của trẻ em, những sáng tác thơ ca dân gian do người lớn làm ra cho trẻ em và một số tác
phẩm văn học dân gian dùng chung, tức là những tác phẩm trẻ em hấp thu từ bộ phận văn học dân
gian người lớn (Trần Đình Sử, Đỗ Bình Trị, Văn học 1. Hà Nội, 1993). Folkore thiếu nhi khá đa
dạng về thể loại. Tuy nhiên những thể loại có sức sống lâu bền đối với tâm lí và đời sống tâm hồn
trẻ vẫn là hát ru, đồng dao và truyện cổ tích, truyền thuyết.
Truyện Tấm Cám thể hiện rõ đặc trưng thi pháp của truyện cổ tích thần kì. Yếu tố thần kì đã
để lại dấu ấn trong bình diện không gian nghệ thuật. Trong truyện, không gian cực kì rộng lớn
nhưng chỉ mang tính phiếm chỉ. Tuy không xác định cụ thể nhưng không gian ấy vẫn gợi cho người
đọc những cảm giác thân thuộc, gần gũi. Nhân vật Tấm đã đi từ cánh đồng quê đến cung vua, đi từ
không gian làng quê rất đời thường với đồng, ao, giếng nước, vườn, cây cau, cây xoan đào, cây thị,
quán nước... đến không gian cung đình. Tấm cũng đã trải qua bao nhiêu lần hóa kiếp. Chim vàng
anh, khung cửi, quả thị... đã làm nên một không gian thần kì, lung linh, huyền ảo cho tác phẩm.
Nhờ tính chất thần kì đó mà giữa không gian loài vật với con người đã có sự thông hiểu nhau rất dễ
dàng. Giữa các lớp không gian có mối liên thông tuyệt đối. Chỉ cần Tấm khóc là Bụt đã ngay lập
tức có mặt để giải quyết khó khăn cho nhân vật. Mối quan hệ giữa con người với hoàn cảnh cũng
rất lỏng lẻo. Không gian không hề gây trở ngại, không trở thành lực cản đối với hành động con
người. Vì thế qua bao nhiêu kiếp nạn, Tấm vẫn sống, đặc biệt là lại càng xinh đẹp hơn xưa. Xây
dựng không gian nghệ thuật mang tính phiếm chỉ, không có lực cản như vậy là một đặc điểm thi
pháp của truyện cổ tích. Không gian phiếm chỉ sẽ cổ tích hóa, ảo hóa không gian hiện thực, từ đó
làm tăng tính chất thần bí cho truyện cổ tích. Việc để cho không gian ấy không có mối quan hệ phụ
thuộc với hình tượng hoàn toàn phù hợp với ý đồ xây dựng kiểu nhân vật hành động hay còn gọi là
kiểu nhân vật chức năng. Chính đặc điểm không gian này mà nhân vật đã dễ dàng thực hiện ước mơ
của mình. Giáo sư Trần Đình Sử viết: "Trong Tấm Cám, người, bụt, cá, chim, gà, quả thị, cây,
khung cửi đều biết nói và đều hiểu nhau dễ dàng. Việc nhặt thóc, tìm xương, làm ra áo quần, ngựa,
giày... đều rất dễ vì có phép màu..." cũng chính là do đặc điểm riêng của truyện cổ tích.
Với thể loại truyền thuyết, sự kiện lịch sử có ảnh hưởng lớn đến việc xây dựng không gian
nghệ thuật trong các tác phẩm. Ở truyền thuyết Thánh Gióng, không gian nghệ thuật đã có những
đặc điểm riêng. Cái lõi của sự kiện và nhân vật lịch sử có thật đã chi phối đến bình diện không gian.
Ta bắt gặp trong truyện những tên đất, tên làng quen thuộc và có thật trong cuộc sống. Theo giáo sư

58
Đỗ Bình Trị thì cả đất nước vùng trung châu hiện nay vẫn còn những dấu vết của Thánh Gióng đuổi
giặc Ân, từ dấu chân ngựa sắt tạo thành dải ao chuôm ở Thuận Thành đến Quế Võ, từ những lũy tre
ngà mọc suốt từ Quế Võ đến Gia Lương sang Thuận Thành cho đến cọc đá buộc ngựa ở làng Cựu
Tự, cây cởi áo trên đỉnh Phù Mã... Đó là những bằng chứng xác thực cho cái lõi lịch sử trong truyền
thuyết này. Tuy nhiên "sự kiện lịch sử đi vào truyền thuyết theo con đường của phương pháp sáng
tác dân gian" nên màu sắc của huyền thoại vẫn còn chi phối rất nhiều đến không gian nghệ thuật.
Chính vì vậy mà không gian ở đây vẫn là không gian không có sức cản đối với con người. Thánh
Gióng thực hiện hành trình về trời để được bất tử một cách rất dễ dàng. Khoảng cách giữa mặt đất
và bầu trời, giữa cái đời thường và cõi bất tử được thu hẹp lại. Với dung lượng của một truyền
thuyết nhưng Thánh Gióng đã xây dựng được nhiều lớp không gian. Bên cạnh không gian đời
thường của làng quê lại xuất hiện không gian chiến trận. Không gian bầu trời - biểu trưng cho cõi
bất tử lại được đặt trong mối quan hệ với không gian đời thường của mặt đất. Tuy nhiên, ranh giới
giữa các không gian này chỉ là gang tấc. Nhân vật thực hiện sự di chuyển giữa các không gian rất
nhanh mà không vấp phải trở ngại nào. Thêm nữa, trong truyền thuyết này, nhân vật đa phần là vận
động ở không gian trần thế, trong cuộc sống sinh hoạt và chiến đấu của con người. Kết thúc truyện,
dẫu Thánh Gióng về trời nhưng dấu ấn của nhân vật vẫn lưu lại trần thế, lại nhập vào hồn thiêng
sông núi.
Nhìn một cách tổng quát thì không gian trong truyện cổ dân gian là không gian đời thường
mang tính chất không cản trở. Tính chất ấy là hệ quả tất yếu của tư duy tưởng tượng, hư cấu, huyền
thoại. Không gian này thường sóng đôi với tính chất bất biến, ngưng đọng của thời gian. Nhờ đó mà
nhân vật không bị già đi theo biến động của cuộc đời. Hư cấu - chất phụ gia đặc biệt của truyện kể
dân gian - đã tham gia vào việc xây dựng một thế giới vừa hư vừa thực. Đó là môi trường thuận lợi
để nhân vật chính thực hiện được thiên chức cũng như ước mơ, lí tưởng của mình. Vì thế, nhân vật
chức năng là mô hình chung cho các truyện kể dân gian.
Không gian nghệ thuật trong những thể loại trữ tình dân gian cũng có những đặc điểm tương
tự. Hát ru với chức năng sinh hoạt là ru trẻ ngủ cho nên bên cạnh những thế giới nghệ thuật quen
thuộc còn đưa ra thế giới diệu kì, thần tiên bên kia bến bờ, xứ sở của ước mơ. Không gian nghệ
thuật vì thế mà vừa thực vừa ảo. Trần Đình Sử cho rằng: Hát ru là những sáng tác nghệ thuật truyền
miệng thuộc loại xưa nhất của loài người, chứa đựng những dấu vết rõ ràng của ma thuật. Và không
gian nghệ thuật ảo cũng chính là một biểu hiện của dấu vết ma thuật ấy. Tính chất ảo đó cũng xuất
phát từ đặc điểm: Hát ru là âm vang của tình mẹ, là tiếng vọng thơ ca của ước mơ giản dị của người
mẹ. Với không gian đời thường ấm áp tình yêu ấy, hát ru "đã thấm vào giấc ngủ con trẻ Việt như
mưa xuân tưới thấm đất màu" (Doãn Quốc Sĩ).
Với đồng dao, thể loại này có một đặc điểm quan trọng là luôn lấy vần nhịp làm cơ sở tồn tại.
Chính nhờ yếu tố vần nhịp đó nên không gian nghệ thuật trong đồng dao không cố định mà liên tục
chuyển đổi:
... Đầu quạ quá giang
Sang sông về đò
Cò nhảy gãy cây
Mây leo bèo nổi
Ổi xanh hành bóc
Róc vỏ đỏ lòng

59
Tôm cong đít vịt...
(Bài ca trò chơi chuyền thẻ)
Như vậy là giữa các không gian không có gì cản trở cả. Chính điều này đã làm cho đồng dao
nhiều lúc trở nên mơ hồ về nghĩa và "phi lôgic". Theo Vũ Ngọc Khánh thì đó là sự vô nghĩa có
duyên. Những "bài ca trò chơi này" vì thế mà không rõ ràng về tư duy lí luận, chỉ là thứ tư duy
bằng ấn tượng mà thôi. Không gian cũng vì thế mang tính tả thực về những hiện thực chắp vá, ghép
mảnh, không bị gò bó.
Với tính chất tả thực đó nên cũng như hát ru, không gian trong đồng dao luôn là không gian
gần gũi, quen thuộc với trẻ. Đồng dao có đời sống diễn xướng gắn bó với hoạt động vui chơi của trẻ
thơ. Để đáp ứng tâm lí các em, đồng dao đã tạo ra một thế giới đầy màu sắc, ngập tràn những hình
ảnh vui tươi, ngộ nghĩnh về những con vật, đồ vật và cây cỏ thân thương. Một thiên nhiên và cuộc
sống xã hội đã mở ra mênh mông trước mắt trẻ từ chính thể loại dân gian còn được gọi là "ca dao
thiếu nhi" này. Vì vậy, khi đến với đồng dao, "ta không còn là ta nữa mà là một đứa bé như muôn
ngàn đứa bé khác cười rỡn trên khắp vùng quê..." (Doãn Quốc Sĩ).
4.2.2. Không gian nghệ thuật trong VHTN hiện đại
Với tâm lí lứa tuổi và sự hạn chế nhất định về nhận thức, trẻ thơ khó thoát ra khỏi những
không gian đời thường quen thuộc hàng ngày. Cái mà các em hướng đến khám phá trước hết là
cuộc sống và thiên nhiên gần gũi xung quanh mình. Vân Thanh đã nhận định rằng, bài học mở đầu
và niềm khao khát hiểu biết của con người ở lứa tuổi bé nhất là bài học về tự nhiên bao la. Chính vì
lẽ đó mà các nhà văn hiện đại đã dẫn dắt tuổi thơ vào thế giới tự nhiên diệu kì. Võ Quảng đã tạc nên
trong thơ mình một mảng vườn bách thú, bách thảo giàu có về các loài chim, thú. Cái xã hội loài vật
ấy với bồ chao, bách thanh, cò, vạc, chẫu chàng, nai, thỏ... đã nhất loạt vỗ cánh, cất lên những tiếng
kêu ríu rít làm nên một không gian rộn ràng âm sắc trong thơ ông. Đất rừng phương Nam của Đoàn
Giỏi đi vào trí nhớ tuổi thơ với những trang văn miêu tả rừng đước Cà Mau trong một sắc xanh bất
tận: "Trên thì trời xanh, dưới thì nước xanh, chung quanh mình cũng toàn một sắc xanh cây lá".
Ngôi nhà, mái trường, sân chơi... là những không gian điểm gắn bó với trẻ thơ. Võ Hồng đã
có những trang viết xúc động về không gian gia đình với tác phẩm Áo em cài hoa trắng. Cả không
gian gia đình giờ chỉ tập trung lại ở giường của má. Ở đó, người mẹ bị bệnh nặng và sớm biết
đường đời của mình không còn dài đã níu kéo đứa con sáu tuổi lại với mình chứ không muốn xa
cách con. Ở đó, người mẹ đã dạy cho con những chữ cái đầu tiên, bằng lối học "nằm ngửa" lạ lùng
dễ làm cho mọi chữ nghĩa đều trôi tuột. Ở đó, má đã luôn vuốt ve "tôi" như để xác nhận sự hiện
diện của một vật báu mà má sắp bỏ lại trên cõi trần này. Những giọt nước mắt của người mẹ đã
thấm ướt không gian ấy. Cuốn tập xuất hiện đưa lại một không gian mới lạ cho nhân vật Tôi với
những hình ảnh minh họa sinh động. Cuốn vần quốc ngữ ấy cũng đồng thời chứng kiến sự ra đi
đành đoạn của người mẹ. Sự mất mát khiến nhân vật Tôi nhìn mọi sự vật với cái nhìn tâm trạng.
Cuốn tập quen thuộc lập tức hình thành những ranh giới. "Nhìn trang bên này thì má tôi còn, nhìn
trang bên kia thì má tôi mất". Con đường đóng ngăn hai trang sách trở thành đường biên ranh giới
giữa sự sống và cái chết. Với tình yêu người mẹ, nhân vật Tôi đã luôn gìn giữ cuốn vần quốc ngữ
như những lưu ảnh đẹp của tình mẫu tử. Nước mắt nhân vật đã lặng lẽ trào khi lật lại những trang
sách. Những cuộc hành hương lặng lẽ về quá khứ để tìm lại bóng hình mẹ đã xuất hiện thông qua
việc tìm về không gian nhỏ của trang sách. Đó chính là hành trình về Đất Thánh của tâm hồn tôi.

60
Đại diện cho không gian tuyến luôn trở đi trở lại trong văn học thiếu nhi hiện đại chính là
hình ảnh con đường. Trần Hoài Dương đã mở đầu truyện ngắn Con đường nhỏ bằng những câu thơ
dễ thương:
Yêu sao con đường nhỏ
Nguồn của mọi con đường
Hãy giữ cho đường đó
Không bao giờ rác vương
Không gian nhỏ hẹp và bình dị ngay trước ngõ nhà ấy là cầu nối dẫn đến đồng cỏ hoa vàng với cỏ
mật ngọt lịm, ngan ngát mùi thơm. Như lời Ông thì: "Dù có đi Đông đi Tây, đi đến tận cùng trời cuối
đất đi chăng nữa, bao giờ cũng phải bắt đầu từ con đường nhỏ trước ngõ nhà mình". Vì thế nên sau khi
cùng Ông dọn con đường, Bê khoang đã bước những bước thật khoan thai, thận trọng trên con đường
rải sỏi sạch bong, đậm nhạt những bông cau. Những cây đu đủ, cây tre lá non đong đưa như muốn gửi
bóng mình đi xa cùng nhân vật. Không gian đời thường này vì thế mà có ý nghĩa biểu trưng sâu sắc. Tôi
đi học của Thanh Tịnh, Ngày em đến trường của Lê Phương Liên cũng lấy không gian con đường để
gợi mở những cảm xúc vui tươi trong ngày đầu đi học.
Khác với văn học dân gian, không gian đời thường trong văn học thiếu nhi hiện đại thường là
những không gian sống động, cụ thể chứ không mơ hồ, phiếm chỉ. Hình tượng nhân vật đi về trong
những vùng không gian ấy với những diện mạo, hành tung rõ ràng. Duy Khán đã viết về một không
gian làng quê "Lao xao" thật tinh tế: "Gió chớm hè. Cây cối um tùm. Cả làng thơm. Cây hoa lan nở
hoa trắng xóa. Hoa dẻ từng chùm mảnh dẻ. Hoa móng rồng bụ bẫm thơm như mùi mít chín ở góc
vườn ông Tuyên. Ong vàng, ong vò vẽ, ong mật đánh lộn nhau để hút mật ở hoa...". Nguyễn Thị
Châu Giang cũng góp cho "Hội mùa thu" một không gian đặc trưng của mùa thu và của ngày hội.
Trên con sông nhỏ như một đầm lầy, bao nhiêu sinh vật đã quy tụ. Rừng cỏ may vang động tiếng
nói, tiếng cười. Mùa thu đến dịu dàng cùng làn hương dìu dịu của nến, của lồng đèn, bánh nướng và
cốm xanh. "Màn đêm buông xuống. Da trời mịn và êm như nhung. Giữa đĩa trời mênh mông, ông
Trăng hiện ra vành vạnh, tròn như một mâm cỗ chan chứa ánh vàng. Cả dòng sông, cả cánh rừng,
cả những tàu dừa ngả xuống nước, cả những bông sen đang e ấp cũng nhuốm bạc, cũng vẫy vùng
trong suối vàng vô tận lấp lánh, lấp lánh. Đêm hội bắt đầu trong tiếng vỗ tay rì rào của rừng cỏ,
trong muôn vàn âm thanh khác lạ của đất trời và nước". Đó thực sự là những dòng văn đẹp về một
không gian khoáng đạt và nên thơ.
Bên cạnh không gian đời thường thân thuộc, văn học thiếu nhi hiện đại còn xuất hiện kiểu
không gian phiêu lưu. Không gian phiêu lưu là không gian xa lạ, chứa đựng nhiều hiểm họa đối với
nhân vật. Trong không gian này, con người bị cắt đứt những mối liên hệ thân thuộc, lênh đênh, trôi
dạt giữa dòng đời. Chính vì thế, con người phải sống bên ngoài các giới hạn, ngoài khuôn khổ vốn
có và phải đương đầu với thế giới. Nói như Bakhtin thì đây là không gian bộc lộ con người trong
con người. Trong không gian phiêu lưu ấy, nhân vật bị ném vào những thế giới xa lạ, bước chân vào
kiếp sống tha hương. Không gian quê nhà giờ chỉ nằm trong kí ức, trong nỗi nhớ và trong ước vọng
tìm về. Truyện Chú đất nung (Nguyễn Kiên) đã xây dựng nhiều không gian. Sự thay đổi, dịch
chuyển ngoài ý muốn của nhân vật đã tô đậm tính chất phiêu lưu của chú bé Đất. Nhân vật bị ném
vào những thế giới xa lạ của kiếp tha hương. Trên bước đường phiêu lưu ấy, không gian quê nhà chỉ
xuất hiện trong kí ức, trong nỗi nhớ và trong ước vọng tìm về của nhân vật. Sống trong một cái nắp
tráp hỏng với thân phận của một thứ đồ chơi, chú bé Đất luôn nhớ về quê nhà, nhớ về cái gò cao

61
ngoài cánh đồng. "Ở đấy, có trời xanh mây trắng, có những dòng nước chảy dào dạt, có đàn trâu
chăm chỉ và những chú sáo sậu vui tính". Chính vì thế, chú đã tìm đường ra cánh đồng. Cuộc phiêu
lưu này không nhằm để khám phá những không gian mới mà để tìm về với không gian thân thuộc
bấy lâu bị chia cắt. Con đường tìm về cánh đồng rất xa xôi. Không gian nghệ thuật trở thành môi
trường thử thách nhân vật. Cùng với bước chân phiêu lưu, chú bé Đất đã trưởng thành rất nhiều về
nhận thức và tâm hồn. Có thể xem tác phẩm là hành trình nghệ thuật đưa chú bé Đất trở thành chú
Đất Nung, để chú quay trở về nguồn cội yêu thương của cuộc đời.
Trong câu chuyện này còn đồng thời diễn ra cuộc phiêu lưu khác của chàng kị sĩ bảnh trai và
nàng công chúa mặt trắng. Trước thời gian phiêu lưu, không gian sinh tồn của họ đóng khung lại
trong chiếc lọ thủy tinh êm đềm, không biết đến mưa nắng, nóng lạnh của cuộc đời. Không gian đó
đã cấm cung, giam hãm nhân vật, chỉ cho phép chàng kị sĩ chạy quanh lầu của công chúa, còn công
chúa thì đứng tựa cửa lầu nhìn kị sĩ. Hành động đó cứ diễn ra, lặp đi lặp lại từ ngày này sang ngày
khác. Nhưng rồi không gian bình ổn nhưng đơn điệu ấy đã bị con chuột già phá tan và họ đã gặp vô
số rắc rối. Họ phải đối mặt với đêm tối mênh mông chỉ có tiếng muỗi bay vo vo, phải chìm ngập
trong dòng nước đen của cống. Tiếp đó là hàng loạt không gian xa lạ và ngày càng nới rộng về biên
độ: Con ngòi, cánh đồng xa... Nhân vật đã trải qua những nỗi sợ hãi kinh người, bị nhũn hết chân
tay. Nhưng điều quan trọng là cuối cuộc hành trình ngoài ý muốn này họ đã tìm được cho mình một
bài học để đời: Nếu chỉ tìm chốn nương nhờ trong thế giới của lọ thủy tinh kia để an phận làm kiếp
đồ chơi thì họ sẽ không có đủ bản lĩnh để đương đầu với cuộc sống được.
Nguyễn Huy Thiệp trong một truyện ngắn của mình đã khẳng định: "Chuyện của trẻ con thì
người lớn không nên cắt nghĩa vì lôgic của trẻ con là thứ lôgic huyền thoại không tiền khoáng hậu.
Người lớn bị thực tế khắc nghiệt làm mất đi sự mong manh của lôgic huyền thoại, thay vào đó là
thứ lôgic xám xịt, rạch ròi" (Tâm hồn mẹ). Ý kiến này đã đụng chạm tới mạch ngầm của thiên tính
trẻ, tới lôgic huyền thoại của trẻ thơ. Niềm vui của trẻ là được thực hiện những cuộc phiêu lưu đầy
sáng tạo và tưởng tượng tới những thế giới diệu kì, những không gian thần kì. Ở đó cái đời thường
bị đảo lộn, thay vào đó là những nghịch lí thú vị. Có thể xem truyện cổ tích chính là nơi sản sinh và
nuôi dưỡng rất tốt tư duy huyền thoại này của trẻ. Mỗi câu chuyện cổ là những ô cửa mầu nhiệm
mở ra những không gian bí ẩn, diệu kì. Đến văn học thiếu nhi hiện đại, không gian đó vẫn tồn tại
như một thủ pháp nghệ thuật. Ở một số tác giả, không gian này giữ vị trí thống trị trong thế giới
nghệ thuật tạo nên những câu chuyện cổ tích hiện đại. Chuyện hoa chuyện quả của Phạm Hổ là
trường hợp như thế. Thế giới tự nhiên qua lăng kính của nhà văn bỗng bừng sáng những gam màu
thần thoại. Trong thế giới cổ tích thần kì ấy, nguồn gốc của muôn loài được nhìn nhận thật thú vị.
Ngón tay út của người thầy biến thành cây nhân sâm, những con tép trở thành tép bưởi, khóm dứa
cất dấu ba viên ngọc đổi màu biến thành hoa ngọc trai... Hoa quả bốn miền đã tụ họp về ngôi nhà
lớn "Chuyện hoa chuyện quả" và lung linh trong những sắc màu huyền diệu. Mỗi không gian loài
vật là một biểu tượng về con người. Tác giả mượn không gian mầu nhiệm đó để khẳng định một
điều rất hiện thực: Tất cả hoa đẹp, quả lạ trên đời đều do tình yêu thương và lòng tốt của con người
kiến tạo thành. Nhờ vậy, tác phẩm thực sự là một thế giới đầy hương thơm, sắc màu và lắng đọng
vẻ đẹp tâm linh.
Bài thơ Mây và sóng của đại thi hào ấn Độ - Tagor - cũng đã dựng lên một không gian nghệ
thuật huyền ảo như cổ tích. Qua điểm nhìn hồn nhiên của trẻ thơ, không gian được nhào nặn lại và
mở ra khoảng vô tận của một bức tranh tuyệt diệu. Giữa bầu trời và mặt đất tuyệt nhiên không có sự
cản trở và trẻ đã mặc sức lên cao để bay bổng với thiên đường lãng mạn của mây và sóng. Đây cũng

62
chính là hai không gian tiềm ẩn sắc màu thần tiên biểu trưng cho những nơi xa rộng đầy hấp dẫn
của cuộc đời đang mời gọi con người. Ở đó:
"... Chúng ta vui chơi từ tinh mơ đến hết ngày
Chúng ta giỡn với sớm vàng rồi lại đùa cùng trăng bạc..."
Tuy nhiên trong kết cấu bài thơ thì không gian vô biên của mây và sóng được đặt trong tương
quan với không gian hữu hạn của con người. Tương quan ấy xác lập vị thế của không gian đời tư,
một không gian ấm áp, rộng rinh của tình mẫu tử. Lúc này, không gian vũ trụ với mây, trăng, bầu
trời, sóng biển... đã được xã hội hóa, tham gia vào trò chơi tình yêu mà tuổi thơ đã sáng tạo ra. Nhờ
đó mà tấm lòng nhân vật được mở ra đến không cùng, trở thành không gian nội cảm riêng tư và bí
mật: "Không một ai trên cõi đời này biết mẹ con ta đang ở đâu". Mái nhà là không gian tổ ấm đầu
đời chứa đựng nhiều yêu thương. Trời xanh trở thành biểu tượng cho hạnh phúc trong lành và vầng
trăng là sự hóa thân của tấm lòng dịu hiền người mẹ. Như vậy ở tác phẩm này không gian thần kì
chỉ là điểm tựa để phát lộ thông điệp: hạnh phúc không ở đâu xa mà ở ngay trong không gian dịu
dàng của lòng mẹ. Đó cũng là một trong rất nhiều bản thánh ca thơ ngọt ngào về sự sống vang lên
từ đất nước của những tôn giáo thâm nghiêm để đồng vọng với nhân loại.
Tuổi thơ là nơi lưu giữ rất nhiều ước mơ đẹp về cuộc đời. Trong phong phú và bộn bề mơ
ước, chúng ta bắt gặp khát vọng được vượt lên những không gian quen thuộc thường nhật để khám
phá những vùng đất mới. Không gian mơ ước xuất hiện trong một số truyện thiếu nhi hiện đại là kết
quả tất yếu của nét tâm lí phổ biến ấy.
Chú bồ nông ở Samaccan của Tô Hoài thể hiện ước mơ kết nối không gian. Nhà văn đã chọn
con chim bồ nông làm sứ giả, làm cầu nối vô hình đưa mùa đông Samaccan đến những cánh đồng,
triền núi, thành phố Việt Nam. Cuộc đời giang hồ của chim bồ nông, "trời lạnh thì xuống phương
nam, khi nắng ấm lại trở về miền bắc trái đất" chính là hình ảnh biểu tượng về nhịp cầu nối tình
thân giữa các vùng đất, các dân tộc.
Tác giả Lí Biên Cương khi viết Nguyên và Thùy đã bày tỏ khát vọng khám phá những không
gian mới. Bé Thùy với tình yêu đất mỏ đã tự hào giới thiệu với Nguyên về khu nhà ở của mình với
các loại cây leo kín sườn đồi: Hoa tigôn đỏ tươi, hoa phượng rụng đỏ mặt nước xanh ngắt, rồi còn
có cả một loài cây không rõ tên nhưng nó nở không biết cơ man nào hoa trắng... Những ngôi nhà
san sát, một không gian lấm đầy bụi than nhưng ban đêm lại lấp lóa ánh điện như lạc vào một vùng
ánh sáng... Tất cả những điều ấy quả là lạ lẫm với Nguyên - cậu bé vốn đã gắn bó với vùng quê, với
dòng sông nước ngọt mát như đường có ba nhánh chảy về ba ngã cùng những con cá mắt đỏ như ớt
chín, với những cánh đồng lúa thẳng tắp có những cánh cò tốp đỏ như lửa, những gò đống toàn cỏ
mật, cỏ gà, cỏ ngấp ngo... Rồi những mùa bèo tây, những mùa hoa súng cánh trắng nhị vàng nằm hờ
trên mặt nước, những vườn nhà có rất nhiều cánh cam có bộ quần áo xanh biếc... Không khí dịu
dàng, thân thương và thi vị ấy đã làm nên một không gian mơ ước trong cô bé Thùy. Ước muốn về
quê nảy nở trong lòng Thùy. "Trong óc Thùy đã hiện lên con đường về quê. Con đường đất núi đỏ
như son, lượn vắt ngang từng eo đồi...". Giấc mơ xuất hiện như là những nét phác họa cho không
gian mơ ước ấy. Trong giấc mơ, Thùy đã cùng cô ong chúa về quê. Hành trình ảo ấy đã đưa em hội
ngộ với thế giới thần tiên. "Quê hương Thùy kia rồi. Ở đấy có con sông nước ngọt như đường, có
những chiều cong veo gọng vó cất cá, có những trưa mò ra đầm ngắt hoa súng, con thuyền thúng
tròn như cái nong xoay xoay mãi trên những gợn sóng lăn tăn...". Không gian ấy là tiếng vọng của
tấm lòng trẻ thơ gắn bó với quê hương và thích khám phá cuộc sống.

63
Ngoài những không gian trên thì không gian tâm lí là một nét mới của văn học thiếu nhi hiện
đại. Đây là không gian làm nên đặc trưng của văn học thiếu nhi giai đoạn này. Với nhiệm vụ xây
dựng con người chức năng, truyện kể dân gian không xây dựng không gian này. Chúng ta chỉ có thể
tìm thấy không gian tâm lí trong mảng tác phẩm trữ tình của văn học dân gian như ca dao, hát ru mà
thôi. Đến văn học hiện đại, cùng với việc nhìn nhận con người trong mối quan hệ đa chiều của cuộc
sống và trong sự phong phú của diện mạo tâm hồn, không gian tâm trạng hình thành. Không gian nội
cảm ấy sẽ bị chi phối bởi tâm lí của nhân vật và cũng sẽ chuyên chở xúc cảm của nhân vật.
Xuân Quỳnh khi viết Trời xanh của mỗi người cũng đã xây dựng thành công không gian ấy.
Cũng là bầu trời nhưng với những điểm nhìn khác nhau lại hình thành những không gian thẩm mĩ
khác nhau. Bầu trời xanh của bà chỉ giới hạn trong ô vuông cửa sổ, trở thành không gian hoài niệm
về chuyện cũ ngày xưa. Trời xanh của mẹ là không gian tuyến với một vệt dài tít tắp như ánh mắt
người mẹ trong những năm tháng đợi chờ chồng. Bố đang ở chiến trường, vì thế bầu trời xanh ấy bị
biến hình, trở thành hình răng cưa nhọn hoắt. Tính chất khốc liệt của cuộc chiến đã làm cho không
gian ấy bị phân mảnh, bị rách toang mà bố thì chưa kịp vá lại. Với trẻ thơ, ý niệm về không gian
bầu trời còn mông lung lắm:
Trời xanh của riêng em
Em chưa nhìn thấy hết
Dài và rộng đến đâu
Ai bảo giùm em biết?
Cùng một không gian thôi nhưng nó lại có nhiều không gian phái sinh. Nhưng tất cả các
không gian ấy đều gặp nhau trong sắc xanh tâm lí, tạo nên không gian bao la của niềm tin, của tình
yêu và khát vọng.
Trong những tác phẩm văn xuôi, khi nhà văn chú tâm đến nội tâm nhân vật thì không gian
tâm lí có tần số xuất hiện thường xuyên hơn. Con người tự nó cũng là một không gian. Người bà
trong truyện ngắn Bà nội của Duy Khán cũng là một không gian nhân vật làm người đọc rưng rưng
xúc cảm. Bờ vai mỏng tanh của bà là dấu ấn của cái nghèo đói, cái vất vả của kiếp người. Bà tồn tại
trong không gian lớn của làng quê như một cái bóng, lặng lẽ, không ai biết đến sự hiện diện của
không gian này. Những câu ca xưa vọng lại trong lời hát ru của bà là tiếng vọng của một không gian
tâm tư trĩu nặng:
"Trèo lên cây khế nửa ngày
Ai làm chua xót (a...) lòng mày khế (à...) ơi....
Cái bống là cái bống bình
Thổi cơm gánh nước (a...) một mình bống (à...) ơi"
Những câu hát ru buồn vợi ấy chính là những khoảnh khắc bà hóa thân vào không gian của
cây khế, cái bống bình... để thấm trải sâu hơn nỗi cô đơn, vị chát chua của cuộc đời. Chính vì thế
mà khi bà mất, không gian tự nhiên đã được tâm trạng hóa để phụ họa với nỗi đau của lòng người.
Giời mưa phùn gió bấc, đường qua đồng trắng toát khăn tang, trắng một màu buồn rợn. Ba gian nhà
gianh gió lùa. Mấy cái ống tre ngoài hiên khóc vu vu cả ngày lẫn đêm tưởng như lời ru của bà còn
vọng lại. "Trèo lên cây khế nửa ngày...".
4.3. KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN HỌC THIẾU NHI
TIÊU BIỂU

64
4.3.1. Không gian nghệ thuật trong Dế Mèn phiêu lưu kí
Dế Mèn phiêu lưu kí là một thiên đồng thoại thi vị dành cho thiếu nhi mà nhà văn Tô Hoài
sáng tác khi vừa mới bước khỏi tuổi thiếu niên. Trong hình hài của một truyện dài, Dế Mèn phiêu
lưu kí thực sự giàu có về không gian. Câu chuyện không cố định lại trong một khung thẩm mĩ mà
đã mở ra nhiều khoảng trời mới. Nhìn tổng quát thì câu chuyện đã phát triển cùng với việc chuyển
đổi không gian nghệ thuật. Ở đây, không gian đời thường được đặt trong mối quan hệ đối lập với
không gian phiêu lưu. Chú Dế Mèn đã thực hiện hành trình phá bỏ không gian quen thuộc, thanh
bình nhưng tù túng, nhàm chán hằng ngày để dấn thân vào con đường mới với nhiều thử thách và
hiểm nguy.
Mới đầu, không gian truyện bị thu hẹp trong một cái hang của Dế Mèn ở bờ ruộng. Dế Mèn
cũng đã có những giây phút khoan khoái, tự hào vì được sống một mình ở một nơi mát mẻ, thoáng
đãng, nên thơ với "cỏ non xanh rờn, nước bạc mênh mang, nắng vàng rải lên cây, vàng một màu
tươi lạ lùng" ấy. Nhưng cũng trong chính không gian này, Dế Mèn đã trở nên hống hách, hung
hăng, ngông cuồng dẫn đến cái chết thương tâm của Dế Choắt. Khi đứng trước nấm mộ của người
hàng xóm tội nghiệp, Dế Mèn đã lặng đi trong bài học đường đời đầu tiên. Phút ân hận ấy hứa hẹn
sự đổi thay trong tính cách nhân vật.
Sau một sự cố bất ngờ, bị trở thành trò chơi cho trẻ con, Dế Mèn buộc lòng phải rời xa nơi ăn
chốn ở thân thuộc, bị giam vào cái lồng tre vốn để đựng châu chấu, có cửa với then gài chắc chắn.
Không gian vốn nhỏ hẹp ngày càng thu hẹp hơn đã nói lên cuộc sống mòn mỏi, tù túng của nhân
vật. Trong cái "lồng tù" ấy, nhân vật chính của truyện đã quay trở lại tâm tính ngông nghênh dạo
trước. Chỉ đến khi bị bác Xiến Tóc trừng phạt, Dế Mèn mới thực sự tỉnh ngộ. Phút thức tỉnh ấy đã
mở ra một không gian khác: Con đường trở về nhà. Trở về nhà giờ đây không phải là trở về với
không gian tầm thường, tù túng ngày trước mà cốt là để thăm lại những người thân, để chuẩn bị cho
việc phá vỡ không gian đời thường và bước chân vào con đường phiêu lưu. Đi bởi mặt đất này bao
la lắm, không chỉ là cái bờ ruộng, đầm nước quê mình. Mèn không thể cứ nhìn trời, nhìn đời qua
khe cỏ ấu như trước được. Mèn không muốn cho đến lúc nhắm mắt vẫn phải ân hận vì chẳng biết
cuối cánh đồng mênh mông kia còn những gì lạ và cuộc đời ở đấy ra sao. Hơn nữa, "đời trai mà
không biết bay nhảy, không biết đó đây thì cuộc sống sẽ nhạt nhẽo lắm". Và ngay lập tức không
gian truyện đã có sự dịch chuyển. Không gian phiêu lưu đã mở ra và đó là cuộc phiêu trong ước
muốn chứ không phải là cuộc phiêu lưu bất đắc dĩ như lần trước.
Giã từ không gian quê nhà bình yên nhưng tù túng, Dế Mèn bước chân vào không gian tha
hương. Mỗi bước chân là mỗi đổi thay. Mỗi thời khắc lại gặp một cảnh mới. Bao vùng quê mới lạ
với bao phong tục tốt đẹp, bao con đường đầy thử thách và hiểm họa đã xuất hiện. Những cánh
đồng lớn, những bãi hoang, những dòng sông xinh đẹp với hai bờ cỏ xanh non tươi, những quãng
nước mênh mông hun hút chẳng thấy bờ chỉ thấy sóng nối nhau nổi lên như trái núi trước mặt, xóm
bùn lầy nước đọng ở trong cù lao, những cánh rừng cỏ may... Đôi bạn ấy đã trải qua những đêm trời
trở gió, chơ vơ giữa trời nước, đã từng đi mịt mờ dưới bóng hoa may với một màu trắng bàng bạc,
xam xám... Không gian liên tục thay đổi, càng lúc càng mở rộng tạo nên bức tranh liên hoàn của
hành trình phiêu lưu. Tô Hoài đã xây dựng không gian cản trở, rất đúng với tính chất của truyện
phiêu lưu. Không gian ấy đã tạo điều kiện cho Dế Mèn nảy nở và phát triển những tố chất mới. Trên
mỗi chặng đường đời, Dế Mèn đã phải thay đổi cách nghĩ, thay đổi tính cách để phù hợp với hoàn
cảnh sống.

65
Tuy nhiên, đã có lúc trên hành trình phiêu lưu ấy, Dế Mèn buộc phải quay trở lại với không gian
ngày xưa. Cái khoảng không chật hẹp, tù đọng ấy đi từ bờ ruộng quê hương, vào lều cỏ của ẩn sĩ Xiến
Tóc, vào hang chim Trả. Đó đều là những không gian bé tí, đối lập hoàn toàn với cái rộng lớn của đất
trời. Để nhân vật gặp lại không gian này chính là ý đồ của nhà văn. Ngôi chùa tại gia của ẩn sĩ hay cái
hang âm thầm bóng tối của chim Trả là những điểm xoáy trong tâm thức của Dế Mèn, buộc nhân vật
đẩy cao hơn khát vọng giải thoát, cởi trói mình khỏi sự bó buộc của hoàn cảnh để đến với chân trời tự
do. Chính vì thế mà Dế Mèn đã không che giấu được niềm vui của mình khi sắp thoát khỏi hang chim
Trả: "Ngày mai mình thoát chốn này ư? Ôi chao, lại sắp thấy trời xanh, lại thấy ánh sáng, ánh sáng
vàng những tia nắng. Anh em lại gặp nhau. Sao cái đêm chờ đợi lê thê, dài đến là dài".
Sau hành trình phiêu bạt, đã từng lạc vào xứ sở của Đại vương ếch Cốm, vào thành lũy hiểm
hóc của họ nhà Kiến, Dế Mèn đã thực hiện được lí tưởng của mình. Một thế giới hòa bình, đại đồng
đã được thiết lập. Không gian đã được gắn kết bởi những người bạn đồng tâm. Không còn ai thấy lẻ
loi và cô đơn cả. Chỉ còn là niềm vui, là sự đầm ấm. Như vậy là sự thay đổi không gian trong thiên
truyện này đã góp phần rất lớn thực hiện thông điệp thay đổi cuộc sống nhàm chán, quẩn quanh để
vươn đến một thế giới đại đồng, lấp lánh những lí tưởng sống cao đẹp.
Truyện khép lại với hành trình trở lại quê nhà của Dế Mèn. Tưởng như không gian truyện sẽ
quay trở lại điểm xuất phát. Nhưng không gian cũ mà con người thì đã lột xác. Bây giờ chú đã có
thể thư thái lòng, "nằm duỗi chân nhìn lên qua khe cỏ ấu, thấy mảnh trời biếc như ước vọng đời
mình đương bay xa".
Mô tả hành trình phiêu lưu của Dế Mèn qua nhiều không gian như vậy, nhà văn Tô Hoài
muốn gửi đến thông điệp: Tuổi trẻ phải có những lí tưởng đẹp, không được bằng lòng với cuộc sống
tầm thường, chật hẹp mà phải biết khám phá cuộc sống rộng lớn và phải hướng đến xây dựng một
thế giới đại đồng.
4.3.2. Không gian nghệ thuật trong Những tấm lòng cao cả
Tác phẩm Những tấm lòng cao cả - "thiên trường ca cảm động về nghề dạy học" của
Edmondo de Amicis đã có lúc không được đánh giá cao về mặt nghệ thuật. Tuy nhiên, cuối cùng thì
bạn đọc cũng công nhận rằng đây là một tác phẩm đã đạt đến chiều sâu của tư tưởng nhân văn với
sự nâng cánh của nghệ thuật. Với mục đích khẳng định thật chính xác chất vàng ròng của tâm hồn
con người, nhà văn đã đặt họ vào trong nhiều hoàn cảnh khác nhau. Mỗi hoàn cảnh là một thử
thách, là một gương soi để nhân vật đối diện với chân ảnh tâm hồn. Có thể chia kết cấu của truyện
theo ba tuyến truyện kể: Tuyến truyện kể về những sự việc hằng ngày, tuyến truyện đọc hằng tháng,
tuyến truyện của những bức thư. Cùng với ba tuyến truyện này, không gian truyện đã được mở ra
ngày càng rộng lớn về biên độ, càng phong phú về các vùng thẩm mĩ.
Trong mảng truyện kể về những sự việc hằng ngày, không gian sinh hoạt đời thường chiếm vị
trí trung tâm. Mảng truyện này đã khắc họa rất thành công chân dung của nhân vật trong quan hệ
với không gian gia đình, trường học, đường phố, làng quê, nhà hát, quảng trường... Đây là những
không gian thân thuộc, là nơi mà các nhân vật gắn bó máu thịt. Gia đình là bờ bến bình yên, là điểm
dừng chân ấm áp và đầy tin yêu của trẻ. Nhà hát, sân khấu là nơi ngập tràn tiếng hát, tiếng vỗ tay, là
không gian của ngày hội, là nơi tôn vinh những tấm lòng vàng... Thế giới đồng quê là một món quà
thi vị dành cho các bạn nhỏ. Ngày đầu tiên đến trường, cậu bé Enricô đã không dứt ra khỏi nỗi nhớ
thôn quê. Và những ngày được đến với không gian thanh bình này với đồng bằng mênh mông, với
mạch núi Anpi xanh biếc và đỉnh phủ tuyết lập tức đã trở thành ngày hội đối với các cậu học sinh bé

66
bỏng. "Chúng tôi chạy qua các bãi cỏ lên các ngọn đồi. Mát quá, bóng rợp, xanh um! Chúng tôi
lăn trên cỏ, nhúng mặt xuống các dòng suối cho mát, nhảy qua các hàng rào".
Tiêu điểm của không gian nghệ thuật đời thường, nơi quy tụ rất nhiều mối quan hệ của nhân
vật chính là trường học. Đây là không gian đầy chất thơ, thứ chất thơ dịu ngọt kết tinh từ bao thanh
âm diệu kì. Là tiếng giảng bài của thầy cô, là tiếng khóc của trẻ, tiếng dỗ dành của cô giáo, là
khoảng im lặng tưởng như ngôi trường đang bị bỏ không, là niềm vui như ong vỡ tổ cuối giờ tan
học, là những băn khoăn, lo ngại và những nụ cười của các bậc cha mẹ khi đứng đợi con ở cổng
trường. Ở đó còn có phòng chờ là nơi gắn kết các bậc phụ huynh.... "Trường học đã họp những
người có chút ít với những người không có chút ít, làm thành một gia đình với nhau". "Ngôi nhà
quét vôi trắng tầm thường ấy với những cửa chớp đóng kín, khu vườn rợp bóng cây" đang ươm
chứa biết bao tuổi thanh xuân và biết bao niềm hi vọng. Đây là chiếc nôi của tình yêu thương thầy
trò, bè bạn, là điểm hẹn của bao ước mơ, là nơi được mọi người hướng đến với bao thiện cảm. Bà
mẹ của Enricô đã không ngần ngại so sánh rằng: "Trường học là một bà mẹ hiền...". Ngày từ biệt,
bố của Enricô đã run run nhìn ngôi trường để nói lời từ biệt. Còn Enricô đã xúc động đến không thể
nói lên được một lời.
Truyện đọc hàng tháng trước hết là sự làm mới lại không gian đời thường. Làm mới bằng
cách kiến tạo những nhân vật mới, những số phận mới đi kèm với những nét tính cách mới trong
một không gian vốn đã gần gũi đến thân thuộc. Đó là căn phòng nhỏ, nơi "Cậu bé viết thuê người
Phirenzê" đã âm thầm làm việc bao đêm với lòng chứa chan tình yêu và hạnh phúc để kiếm những
liza cho bố và gia đình. Đó là bệnh viện Napôli - chứng nhân cho lòng nhân từ của cậu bé có gương
mặt trái xoan đẹp, nước da nâu nhạt, đôi mắt trầm tư. Những người bệnh đang hấp hối, tiếng khóc
vô vọng của những người thân, những cảnh sầu thảm và đau thương của cuộc đời bệnh viện không
làm cho cậu bé sợ hãi. Khung cảnh ấy đã trở thành thứ thuốc rửa mầu nhiệm làm hiện lên chân ảnh
của một trái tim đầy tình yêu. Cậu đã luôn luôn ở đấy, lo ngại và hồi hộp dõi theo từng hơi thở và
từng cái nhìn của người ốm.
Bên cạnh đó, những truyện đọc hàng tháng cũng đã mở ra những không gian mới lạ. Không
gian chiến trận được tạo dựng trong truyện đọc "Cậu bé đánh trống người Xácđênha". Là những
bức tường lỗ chỗ vết đạn. Là những mái ngói nát vụn, những mảnh gỗ và bụi thạch cao tung tóe. Là
những người lính quằn quại trong đau đớn và tuyệt vọng. Màn thảm, sàn nhà đẫm những máu.
Những xác chết nằm sóng sượt giữa các ngưỡng cửa. Những bộ mặt biến dạng, những tiếng thét man
rợ của quân Áo... Màu sắc dữ dội và đau thương của cuộc chiến đã rượt đuổi con người từ không gian
nhỏ là ngôi nhà cho đến không gian rộng lớn hơn là cánh đồng. Sự chuyển đổi hai lớp không gian ấy
đã hiện thực hóa hành trình chuyển đổi về tâm hồn và thân phận của một con người. Chú bé đánh
trống ấy đã vượt qua cánh đồng hương mạch với sự "vuốt ve" của quân Áo với những làn đạn mù trời.
Cổ họng khát nước tưởng như chết đi được. Máu đã đỏ tươi hình hài bé nhỏ. Nước mắt đã nhỏ ra, cậu
đã "khóc như điên". Nhưng đó là nước mắt của nỗi lo lắng không đưa kịp mảnh giấy xin viện binh, lo
cho sự ra đi của một người lính nào đấy. Không gian chiến trận là thử thách lớn cho niềm kiêu hãnh
về dòng giống anh hùng của đứa con nhỏ bé của đất Ý.
Những câu chuyện kể hàng tháng cũng đã mở ra những không gian biểu trưng và không gian
tâm trạng. "Người y tá của Tata" khép lại với hình ảnh "Rạng đông của hửng sáng". Hình tượng
không gian ấy biểu trưng cho sự phát sáng của không gian tâm linh, của một trái tim nhân hậu vừa
hoàn thành xong "sự nghiệp nhân từ, cao thượng" của mình. Và khi "Máu nóng người Rômanha"
mở ra, chúng ta lại được đối diện với một không gian đầy tâm cảm. Ngôi nhà của Pherucsiô im lặng

67
hơn thường lệ, nằm bơ vơ giữa đồng không mông quạnh, giữa những đám ruộng dâu bát ngát. Mưa
rơi, gió rét. Mưa và gió thổi hắt vào các cửa kính, còn màn đêm thì tối như mực. Có ánh sáng đấy
nhưng chỉ là thứ ánh sáng hắt hiu từ ngọn đèn dầu nhỏ. Không gian bóng tối ấy đã bao phủ lên vạn
vật che giấu hành vi của những kẻ giết người. Màu đen ấy cùng với màn mưa nặng hạt cũng đã tạo
khung cảnh buồn thương, ảm đạm cho một bi kịch. Lúc Pherucsiô lấy thân mình che chở cho bà
khỏi nhát dao của tên giết người thì "gian phòng tối như mực". Đó là không gian tang tóc, không
gian của những bất hạnh. Để cho bóng tối bao trùm lên câu chuyện là dụng ý nghệ thuật của người
kể. Bởi không gian ấy sẽ làm nền cho sự phát sáng của một nhân cách, một tâm hồn cao cả.
Mỗi một bức thư là một dòng chảy của tâm trạng. Chính vì thế, lôgic của hiện thực khách
quan đã bị lôgic của tâm lí, tình cảm phá vỡ. Đây là điều kiện để kĩ thuật đồng hiện không gian phô
diễn. Sự dán ghép các mảnh không gian đã tạo nên thế giới đa chiều, có khả năng soi rọi chân dung
tâm hồn nhân vật ở nhiều góc độ. Người bố, người mẹ của Enricô - chủ nhân của những bức thư đã
đứng ở hiện tại để thực hiện những hành trình ngược về không gian trong quá khứ và hướng đến
tương lai. Họ đã dẫn dắt Enricô vận động qua nhiều không gian để có được thức nhận sâu sắc về
con người, thế giới. Bức thư có tựa đề "Ngoài đường phố" của bố xuất phát từ sự kiện Enricô va
phải một bà đi đường. Người bố đã tái hiện lại hình ảnh con mình những lúc ở nhà, lúc con rất cân
nhắc mọi cử chỉ, việc làm... để khiển trách sự bất cẩn của Enricô khi đi lại trên đường. Bên cạnh đó,
người bố còn phác họa những không gian mới đi kèm với tình huống mới để hướng Enricô đến cách
xử sự nhân văn. Bức thư khép lại với những lời khuyên Enricô hãy giữ lấy tình yêu, sự gắn bó với
không gian con đường thành phố - nơi gặp gỡ những bàn chân và cả những tấm lòng. Bởi lẽ, "trong
thành phố ấy, con đã đi những bước đầu tiên do bàn tay thận trọng của mẹ con dìu dắt; con đã học
ở đấy những năm tháng đầu tiên, ở đấy con có được những người bạn đầu tiên của con. Hãy yêu
thành phố của con, yêu các phố phường và nhân dân trong thành phố...". Khi buồn lòng về cách trả
lời với bố của Enricô, người mẹ cũng đã viết thư, đã đưa em đến với một không gian tưởng tượng.
"Con hãy nghĩ đến cái ngày... cái ngày mà nằm trên giường bệnh sắp chết, bố cho gọi con lại mà
nói: Enricô, bố vĩnh biệt con... Bấy giờ con sẽ thấy bao nhiêu biến đổi xảy ra chung quanh con. Cái
nhà này sẽ trống trải như thế nào với mẹ tội nghiệp của con mặc toàn màu đen...". Trong không
gian tưởng tượng ấy, Enricô có cơ hội thấy rõ hơn tấm lòng của người bố, người đã giấu em tất cả,
trừ lòng nhân hậu và tình yêu thương. Con đường về không gian quá khứ cũng đã được thông lối
như là minh chứng bền vững cho tấm lòng người bố. Đã bao lần bố vào buồng con khi con đang
ngủ. Căn buồng ấy đã bao lần chứng kiến hình ảnh bố tay cầm ngọn đèn cứ đứng nhìn ngắm con để
tìm lại niềm tin, niềm vui giữa cuộc sống mệt nhọc.
4.3.3. Không gian nghệ thuật trong tập thơ Góc sân và khoảng trời của Trần Đăng Khoa
Góc sân và khoảng trời đã tạo nên những lớp không gian đa dạng, phong phú. Trong tập thơ
tồn tại cả không gian bầu trời lẫn không gian mặt đất, không gian vũ trụ lẫn không gian xã hội... Tất
cả đã làm nên một thế giới nghệ thuật muôn màu, muôn sắc. Trong đó, không gian nghệ thuật trung
tâm của tập thơ Góc sân và khoảng trời chính là không gian làng quê. Rất hiếm khi Trần Đăng
Khoa để cho thơ mình chạy ra khỏi môi trường này. Làng quê đã trở thành nơi ẩn náu bình yên
nhưng cũng rất quyến rũ của một hồn thơ bé nhỏ. Trong mênh mang cảnh sắc nông thôn mộc mạc
ấy, Khoa dành nhiều tâm tư cho không gian nghệ thuật "góc sân", một không gian đặc trưng cho
nền "văn minh thôn dã", không gian có vị trí đặc biệt đối với đời sống tâm linh người dân quê. Nhà
thơ Xuân Diệu đã phát hiện ra ý nghĩa đặc biệt của không gian này khi nhận định rằng: "Cái vũ trụ

68
tí hon ấy như lòng đỏ trứng gà". Với Khoa, không gian nhỏ bé, đơn sơ, thân thuộc này là một thế
giới diệu kì của tuổi thơ. Góc sân ấy là điểm tựa để em nhìn ra thế giới:
Góc sân nho nhỏ mới xây
Chiều chiều em đứng nơi này em trông
Thấy trời xanh biếc mênh mông
Cánh cò chớp trắng trên sông Kinh Thầy
Từ khoảng không gian này, Khoa đã thả tuổi thơ bay lên cùng với ánh trăng đêm rằm, bay lên
cùng với cái diệu kì của đất trời... Và cũng tại nơi đây đã chứng kiến bao sinh hoạt của con người và
loài vật. Đó là cảnh những chú gà con liếp nhiếp đi tìm mồi cùng mẹ (Gà con liếp nhiếp), cảnh thôn
xóm vào mùa với chiếc máy tuốt lúa mở miệng cười ầm ầm, với thóc vàng óng một màu no đủ, với
ấm chè nóng thơm hương lúa đồng đang cùng ông trăng và các đội bình công mừng một mùa bội
thu (Thôn xóm vào mùa). Góc sân ấy cũng trở thành sân khấu để tiếng trống chèo sâu vợi, tiếng mõ
đưa hương hoa đại len vào tâm tư con người (Cô Thị Mầu).
Tuổi thơ luôn bị mê hoặc bởi những trò vui. Niềm hân hoan của chú bé Khoa nhỏ tuổi cũng
vút lên từ góc sân nhỏ với bao sinh hoạt hấp dẫn:
Em thường rải cái nong
Ra góc sân ngồi học
Những đêm có trăng mọc
Em chơi cho đến khuya
(Cái sân)
Trong hồn nhiên của thế giới trẻ thơ, Trần Đăng Khoa luôn lấy cái sân làm địa điểm diễn ra
mọi trò chơi. Nào là trò xỉa cá mè, trò mèo đuổi chuột, trò hứng nước mưa... Ở đấy, em đã chạy
nhảy tung tăng, đã múa hát say mê quanh ông trăng đêm rằm. Lắm lúc sân cũng trở thành nền bản
vẽ để trẻ phác họa lên những bức tranh về cô tiên, về đồng lúa chín...
Không phải ngẫu nhiên mà Khoa viết nhiều về góc sân. Đối với người dân quê Việt Nam nói
chung, đối với những trẻ thơ chưa bao giờ vượt khỏi lũy tre xanh như Khoa thì đây là không gian
thân thuộc, gắn bó như là máu thịt. Bao nhiêu sinh hoạt của người dân quê, bao nhiêu trò chơi của
trẻ nhỏ đều gắn với địa điểm này. Chính không gian này cũng là nhịp cầu đưa trẻ đến với những
không gian rộng lớn hơn.
Càng ngày thơ Trần Đăng Khoa càng mở rộng không gian nghệ thuật và đó đều là những
khoảng không gian thấm đượm hồn quê Việt Nam. Đến với thơ Khoa, ta được ngắm nhìn những
mảnh vườn quê hương ở nhiều giác độ khác nhau. Là vườn cải tốt tươi, "lá xanh như mảnh mây trời
lao xao" khi gió đến (Vườn cải). Là khu vườn "dậy tiếng dịu hiền" từ vị ngọt của luống cà, rãnh
khoai, từ âm thanh của tiếng lá vẫy gió trong những đêm "lấp ló trăng lên" (Vườn em). Là mảnh
vườn xanh biếc tiếng chim, rộn rã trong tiếng dơi khua lúc chạng vạng, nên thơ trong hình ảnh ông
trăng vàng dạo chơi dưới lùm nhãn (Hương nhãn). Rồi khi thu về lành lạnh ta lại được nghe "Vườn
sau nổi gió nghe như mưa rào" (Đêm thu) v.v...
Với hình ảnh con đường - nơi giữ sự liên thông giữa những không gian của mặt đất, Khoa
cũng dành cho nhiều quyến luyến. Đã có lần cậu bé này "hỏi đường" rằng:
Đường ơi, có nhớ chăng là
Ngày nào dạy học, thầy qua đường này?

69
Con đường ấy đã một thời in bàn chân thầy giáo. Vậy mà giờ đây thầy đã đi xa rồi. Bóng cây
vẫn rợp con đường mà người xưa đã vắng. Không gian con đường vì thế mà trở thành điểm nhấn
của tâm tư và hoài niệm.
Với người nông dân, cánh đồng là ngôi nhà thứ hai. Người thơ rất trẻ của chúng ta đã chín
sớm trong suy tư và cảm xúc nên đã viết về không gian này thật tinh tế. Cánh đồng Điền Trì thân
thuộc đi vào thơ mang theo tâm tình của người con quê hương:
Cánh đồng làng Điền Trì
Sớm nay sao mà rộng
Sương tan trên mũi súng
Trên sừng trâu cong veo
Cánh đồng này có in bóng hình những bác nông dân đang cày ruộng, những chị thôn nữ tát
gầu giai và cấy mạ, in bóng em chở phân ra lót ruộng... Nơi ấy có hồn nhiên tiếng cười, có bọt tung
trắng hoa nhài khi nước reo trong lòng máng, có lúa vàng trong đáy mắt, có luống cày tỏa hương, có
mây hong trên gốc rạ... Không gian này đã tạo nên một âm sắc rất riêng cho thơ Khoa bởi nó đã
chiết được mùi hương riêng cho mình. Nhớ lắm những cánh đồng nồng mùi bùn ngấu, mùi phân
đang hoai và còn hăng mùi vôi chưa tan hẳn dưới những rãnh cày. Nhớ lắm những giọt mồ hôi đang
ủ mật cho đồng lên hương, cho hạt giống bốc men trong đất. Nhớ lắm khung cảnh yên bình, đẹp tựa
bài thơ:
Đồng ẩm trăng non
Luống cày sực nức
Mưa rào bữa trước
Nắng nồng chiều nay
(Hương đồng)
Có thể nói, viết về cánh đồng quê là cuộc dạo chơi ân tình không ngừng nghỉ trong đời thơ
Trần Đăng Khoa. Trong cuộc dạo chơi này anh không phải là khách qua đường. Vị khách thơ trẻ
tuổi này dẫu bước chân có đi lạc không gian ấy thì trái tim vẫn "neo đậu bến quê":
Sáng đứng đỉnh Côn Sơn
Hương đồng thơm trong túi
(Côn Sơn)
Tình lưu luyến ấy không có gì đáng ngạc nhiên cả. Bởi lẽ, Khoa đã thú nhận với chúng ta
rằng:
Thịt da ta cũng
Tỏa hơi ruộng đồng
(Hương đồng)
Nhắc đến không gian nông thôn trong thơ Khoa chúng ta không thể bỏ qua dòng sông Kinh
Thầy. Dòng sông này đã từ đồng bằng Bắc Bộ chảy tràn vào thơ Trần Đăng Khoa, trở thành một
vùng thẩm mĩ thi vị. Dòng "sông Kinh bên lở bên bồi" đã thực sự thăng hoa trong trang thơ Khoa.
Phù sa của dòng sông đã ngấm sâu vào thiên nhiên, để rồi cảnh vật đã trỗi dậy trong một sức sống
mãnh liệt:
Hàng chuối lên xanh mướt
70
Phi lao reo chập chùng
Vài ngôi nhà đỏ ngói
In bóng xuống dòng sông
(Bên sông Kinh Thầy)
Không gian này đã cùng với hương sen thơm, với lời mẹ hát, với bão tháng bảy, mưa tháng
ba, với giọt mồ hôi... để làm nên "hạt gạo làng ta". Khoa không quên điều đó khi anh viết:
Hạt gạo làng ta
Có vị phù sa
Của sông Kinh Thầy
(Hạt gạo làng ta)
Chính vì thế mà lòng biết ơn với dòng sông đã trở thành tình cảm thường trực trong Khoa. Và
cũng bởi cái ơn sâu nặng đó nên thi sĩ đã một đời không thôi tìm kiếm bí mật về không gian này:
Sông ơi nhớ thương ai
Mà bốn mùa nước đỏ
Con chim nghiêng mắt ngó
Phù sa hồng đôi chân
(Cầu Cầm)
Những không gian trên đã tập hợp lại làm nên không khí thanh bình, yên ả ngàn đời của thôn
quê Việt Nam. Nhưng bên bến bờ bình yên ấy, gương mặt chiến tranh lại hiện về. Là tiếng bom
rùng rùng nổ trong đêm trăng tràn đầy tiếng đàn bầu, một không gian căng tràn đã "tự rung lên sức
mạnh Việt Nam". Là hình ảnh những hố bom, những ngôi trường tốc mái... Chiến tranh còn hiện
hình trong đôi nạng gỗ bên bàn thầy giáo, bên mặt bảng đen lỗ chỗ vết bom bi, bên cả những bài
học dang dở... Nhưng đó chỉ là phông nền làm hiển hiện và thăng hoa một không gian khác - không
gian của sự sống và niềm tin. Hàng cau đã ngã xuống nhưng tiếng đàn bầu vẫn tuôn trào vô tận như
những suối nguồn mát trong để xóa đi những âm thanh dơ bẩn của cuộc chiến. Hình ảnh cánh diều
vươn cao ngạo nghễ bên bờ hố bom là một sự tương phản rất đẹp của không gian nghệ thuật, thể
hiện được sức sống vĩnh hằng của con người:
Tiếng diều vàng nắng
Trời xanh cao hơn
Dây diều em cắm
Bên bờ hố bom
(Thả diều)
Ngoài ra, Góc sân và khoảng trời cũng đã đưa đến cho người đọc những khoảng không gian
tâm lí giàu sức biểu cảm. Con người là một thực thể tồn tại trong không gian. Nhưng tự bản thân
con người cũng là một thế giới, một không gian với những chiều kích và tính chất riêng. Ý thức
được điều ấy nên Trần Đăng Khoa luôn có thiên hướng khai thác không gian con người với bề sâu
tâm hồn. Câu thơ:
"Nắng mưa từ những ngày xưa
Lặn trong đời mẹ đến giờ chưa tan"

71
đã làm chúng ta xúc động. "Nắng mưa" vốn là không gian của vũ trụ đã được xã hội hóa
thành một không gian gợi nhớ những vất vả, khó nhọc. Không dừng lại ở đó, "nắng mưa" còn thâm
nhập vào không gian con người, tạc nên vóc dáng, hình hài chứa đầy nhọc nhằn của người mẹ. Từ
"lặn" đã cụ thể hóa sự di chuyển của không gian biểu trưng vốn rất trừu tượng ấy.
Bàn chân của thầy giáo trong bài thơ cùng tên cũng là một không gian như thế. Ẩn sau một
bàn chân đã mất ấy là âm vang của chiến trường, của sự hi sinh lặng lẽ. Đằng sau hình hài không
hoàn hảo ấy là cả một tấm lòng rạch ròi những yêu thương, hờn ghét, là cả một lẽ sống cao đẹp.
Chính vì thế mà "bàn chân thầy, bàn chân đã mất, vẫn dẫn chúng em đi trọn cuộc đời". Đứng trước
bàn chân ấy, những thế hệ học trò đã ngỡ ngàng nhận ra được cái chưa hoàn hảo của chính cuộc đời
mình.
Góc sân và khoảng trời, tựa đề của tập thơ đồng thời cũng đã mở ra hai thế giới đối lập. Đối
lập giữa không gian mặt đất nhỏ bé với không gian bầu trời rộng lớn. Đối lập giữa không gian thân
thuộc với khoảng xa vời, vô tận. Nhưng đó chỉ là sự đối lập bề ngoài của không gian thực. Còn
trong ý nghĩa biểu trưng thì hai miền thẩm mĩ này lại tìm được mối liên thông chặt chẽ. Góc sân đại
diện cho khoảng không gian gần gũi, quen thuộc đối với trẻ thơ. Còn khoảng trời mang ý nghĩa biểu
trưng cho một chân trời trong mơ ước, cho những nơi xa rộng bao la của cuộc đời đầy hấp dẫn đang
mời gọi tuổi thơ. Chân trời ấy được kiến tạo bởi những con người có tình yêu đằm sâu với không
gian đời thường.

HƯỚNG DẪN HỌC TẬP CHƯƠNG 4

I. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG


Xác định được khái niệm không gian nghệ thuật, các hình thức không gian nghệ thuật tiêu
biểu trong văn học thiếu nhi. Vận dụng lí thuyết để xác định, phân tích không gian nghệ thuật trong
cấu trúc văn bản nghệ thuật.
II. CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP THỰC HÀNH
1. Sự khác biệt giữa không gian thần kì trong văn học dân gian với không gian thần kì trong
văn học thiếu nhi hiện đại?
2. Phân tích không gian nghệ thuật của bài thơ sau:
TRÊN HỒ BA BỂ
Thuyền ta chầm chậm vào Ba Bể
Núi dựng cheo leo hồ lặng im
Lá rừng với gió ngân se sẽ
Họa tiếng lòng ta với tiếng chim.
Thuyền ta lướt nhẹ trên Ba Bể
Trên cả mây trời trên núi xanh
Mây trắng bồng bềnh trôi lặng lẽ
Mái chèo khua bóng núi rung rinh.

Thuyền ta quanh quất trên Ba Bể

72
Đỏ ối vườn cam biếc bãi ngô
... Thuyền ơi, chầm chậm chờ ta nhé
Muốn ở đây thôi chẳng muốn về!
Hoàng Trung Thông
3. Đặc trưng thi pháp đồng thoại thể hiện như thế nào ở không gian nghệ thuật của tác phẩm
Dế Mèn phiêu lưu kí?
4. Xác định không gian nghệ thuật trung tâm của tác phẩm Những tấm lòng cao cả. Không
gian ấy đã ảnh hưởng gì đến quá trình phát triển tính cách của nhân vật Enricô?
III. GỢI Ý GIẢI BÀI TẬP
1. Trong văn học dân gian, không gian thần kì là sản phẩm của tư duy, thế giới quan huyền
thoại. Còn trong văn học hiện đại, không gian ấy chỉ là một thủ pháp nghệ thuật. Do đó, mật độ xuất
hiện của không gian thần kì trong văn học thiếu nhi hiện đại không thường xuyên và dày đặc như
trong văn học dân gian. Các nhà văn hiện đại dùng không gian thần kì với tư cách là một hình thức
đặc trưng của truyện kể dân gian để chuyển tải một nội dung mới, một thông điệp mới. Mặt khác,
trong không gian thần kì của văn học thiếu nhi hiện đại, nhân vật đã tạo dựng được diện mạo riêng
cho mình, với những tâm trạng, tính cách, hành động rõ ràng.
2. Không gian nghệ thuật trong bài thơ Trên hồ Ba Bể của Hoàng Trung Thông
- Ở khổ 1: Không gian êm đềm, tĩnh lặng. Thuyền thì "chầm chậm" vào Ba Bể, hồ thì "lặng
im" và núi thì "cheo leo" như muôn đời nay vẫn thế. Có gió, nhưng gió cũng chỉ ngân "se sẽ", tuy là
động đấy nhưng cũng chỉ để khắc sâu hơn ấn tượng về cái tĩnh mà thôi. Trong không gian tĩnh lặng,
mênh mông ngàn đời ấy, con người đã hòa mình được vào nhịp sống của thiên nhiên.
- Khổ 2: Không gian tĩnh lặng ở khổ 1 được đẩy lên một trạng thái mới, gợi cảm giác tĩnh gần
như tuyệt đối. Con thuyền như rời khỏi không gian mặt nước, lướt nhẹ như bay trong bồng bềnh cõi
thần tiên của mây trời và núi xanh. Trong không gian siêu thoát ấy, khung cảnh thiên nhiên thật kì
diệu. Ba từ láy tượng hình: Bồng bềnh, lặng lẽ, rung rinh chỉ gợi những cử động rất khẽ, rất nhẹ.
Như vậy là ở khổ thơ này, không gian thực đã được thay thế bằng không gian ảo, cõi trần đã chuyển
sang cõi tiên. Sự chuyển đổi ấy đã nói lên được vẻ đẹp diệu kì của hồ Ba Bể, nơi gặp gỡ của cõi hư
và cõi thực.
- Khổ 3: Đến khổ thơ này, không gian lại quay về với cuộc sống đời thường. Vườn cam đỏ ối,
bãi ngô xanh biếc - những cảnh tượng thân thuộc và bình dị ấy đã nhắn nhủ mọi người rằng, Ba Bể
dẫu có vẻ đẹp của cõi tiên nhưng đó vẫn là cảnh thực, là món quà mà tạo hóa đã ban tặng cho trần
gian.
3. Dế Mèn phiêu lưu kí là một thiên đồng thoại thi vị. Dấu ấn đồng thoại đã thâm nhập vào cả
bình diện không gian nghệ thuật của tác phẩm. Dẫu nhà văn đã thực hiện thao tác nhân cách hóa
nhân vật để rút ngắn cự li giữa nhân vật đồng thoại với cuộc sống nhưng không gian nghệ thuật vẫn
giữ nguyên đặc trưng của thể loại. Thống trị tác phẩm vẫn là một thế giới tự nhiên sinh động, thế
giới của cỏ cây, loài vật... Đó chính là môi trường sống của con vật, cây cỏ, của những vật vô tri.
Thế giới ấy rất gần gũi, thân thuộc với trẻ thơ. Tất nhiên, thế giới ấy thực chất là việc mô hình hóa
xã hội loài người mà thôi. Sự kết hợp tư duy huyền thoại và tư duy hiện thực cũng đã cho ra đời hai
tính chất không gian tương ứng. Đã rất nhiều lần Tô Hoài xây dựng không gian bao la, không cản
trở để phục vụ cho hành trình phiêu lưu, thực hiện lí tưởng của Dế Mèn.

73
4. Những tấm lòng cao cả kết cấu theo ba tuyến rất rõ ràng và đã có sự xê dịch của không
gian nghệ thuật trong các tuyến truyện. Tuy nhiên, không gian trung tâm vẫn là trường học. Học
viên chú ý đến vai trò của không gian trường học và ảnh hưởng của không gian này đến nhân vật
chính của tác phẩm.
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Edmondo de Amicis, Những tấm lòng cao cả, Nxb Văn học, Hà Nội, 2004.
2. Tô Hoài, Dế Mèn phiêu lưu kí, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1999.
3. Nguyễn Thúy Loan, Đặng Diệu Trang, Trần Hoàng..., Đồng dao và trò chơi Việt, Nxb Văn
hóa thông tin, Hà Nội, 1997.
4. Trần Đình Sử, Tuyển tập, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2004.
5. Nguyễn Ngọc Thuần, Cha và con và... tàu bay, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2005.
6. Tuyển tập thơ Trần Đăng Khoa, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2005.
Học viên có thể tham khảo thêm các bài: Đề tài nông thôn rộng lớn và phong phú (Văn
Trọng); Thiên nhiên, một kho tàng vô tận (Vũ Tú Nam); Thiên nhiên trong thơ viết cho các em (Vũ
Đình Minh) (Tập 1); Tài năng miêu tả của Võ Quảng (Vũ Tú Nam); Những trang sách bình dị về
thiên nhiên tươi đẹp (Vương Trí Nhàn); "Tuổi thơ im lặng" - Kỉ niệm về một tầng văn hoá làng quê
lâu đời (Trần Đình Sử),... (Trong Văn học thiếu nhi Việt Nam (Nghiên cứu, lí luận, phê bình, tiểu
luận - tư liệu) (Vân Thanh biên soạn); tập 2, Nxb.Kim Đồng, Hà Nội, 2003).

74
Chương 5
CỐT TRUYỆN TRONG VĂN HỌC THIẾU NHI

5.1. KHÁI NIỆM CỐT TRUYỆN, CỐT TRUYỆN TỰ NHIÊN, CỐT TRUYỆN NGHỆ
THUẬT
5.1.1. Khái niệm cốt truyện
Cốt truyện là hình thức tổ chức cơ bản nhất của truyện; nó bao gồm các giai đoạn phát triển
chính, một hệ thống sự kiện cụ thể được tổ chức theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo
thành một bộ phận cơ bản, quan trọng nhất trong hình thức động của các tác phẩm văn học, nhất là
đối với các sáng tác thuộc các loại tự sự và kịch.
5.1.2. Đặc điểm của cốt truyện
- Cốt truyện không phải là yếu tố tất yếu của mọi loại tác phẩm văn học. Với tác phẩm trữ tình
thì thường không tồn tại cốt truyện.
- Cốt truyện thường gồm hai phương diện gắn bó hữu cơ : Vừa là phương tiện bộc lộ tính
cách, vừa là phương tiện để nhà văn bộc lộ các xung đột xã hội.
- Nhìn chung cốt truyện có thể chia làm hai loại: Đơn tuyến (như trong truyện cổ dân gian hay
một số truyện ngắn) và đa tuyến. Trong Dế Mèn phiêu lưu kí, bên cạnh tuyến cốt truyện chính về
Dế Mèn, còn có các tuyến cốt truyện khác về Dế Trũi, Xiến Tóc, chim Trả, quần thể nhà Mối, Châu
Chấu,...
- Cơ sở chung của mọi cốt truyện xét đến cùng là những xung xã hội được khúc xạ qua các
xung đột nhân cách. Nhưng xung đột xã hội không phái là cốt truyện. Xung đột xã hội là cơ sở
khách quan, là đối tượng nhận thức, phản ánh; còn cốt truyện là sản phẩm sáng tạo độc đáo của cá
nhân nhà văn.
5.1.3. Các thành phần chính của cốt truyện
Cốt truyện đầy đủ thường có 5 thành phần chính sau đây:
- Trình bày: Còn gọi là mở đầu hay khai đoạn, có nhiệm vụ giới thiệu bối cảnh câu chuyện diễn ra
(hoàn cảnh xã hội, thời gian, địa điểm, nhân vật,...). Trong truyện Người đi săn và con vượn (Lép Tôn -
Xtôi), đó là đoạn giới thiệu về bác thợ săn thiện xạ, “nếu con thú rừng không may gặp bác thì hôm
ấy coi như ngày tận số”. Với truyện ngắn Bên Hồ Hàm Nguyệt (Phạm Thị Kim Nhường), mở đầu
chính là phần giới thiệu về một tục lệ có từ thuở xa xưa của làng “Tôi” : Khi tròn mười lăm tuổi,
những cô gái trong làng đều được đi rửa mặt bằng nước hồ Hàm Nguyệt của chùa Huyền Không khi
hồ tràn ngập ánh trăng rằm tháng giêng và nói lên điều nguyện ước của mình. Tin vào tục lệ đó, hai
chị em “tôi”, sau gần bốn năm xa quê, giờ trở về làng để chuẩn bị thực hiện nghi lễ thiêng liêng
này.
- Thắt nút: Là sự xuất hiện các sự kiện đánh dấu điểm khởi đầu của một quan hệ, một xung
đột tất yếu sẽ tiếp tục xảy ra, phát triển. Ở Người đi săn và con vượn, thắt nút chính là sự kiện người
đi săn xách nỏ vào rừng, phát hiện một con vượn mẹ lông xám đang ngồi ôm con trên tảng đá và
ông đã nhẹ nhàng rút mũi tên bắn trúng vượn mẹ. Thắt nút của truyện Bên Hồ Hàm Nguyệt chính là

75
sự kiện cô bé tên Tâm sang chơi với chị Ngàn và phần giới thiệu về cuộc đời cô gái đẹp nết đẹp
người nhưng “đôi mắt không thấy gì ngoài bóng tối”.
- Phát triển: Là toàn bộ các sự kiện thể hiện sự triển khai, vận động của các quan hệ và mâu
thuẫn đã xảy ra. Đây là phần dài nhất của cốt truyện, thường bao gồm toàn bộ các sự kiện từ sau
thắt nút đến sự kiện trước đỉnh điểm. Tính cách của nhân vật chủ yếu được xác định trong phần này.
Nhân vật được đặt trong nhiều cảnh ngộ khác nhau, xung đột được triển khai trên nhiều bình diện.
Trong truyện Người đi săn và con vượn, đó là các sự kiện vượn mẹ trúng tên, hướng ánh nhìn
căm giận về phía người đi săn, tay vẫn không rời con. Trong khi đó, người thợ săn vẫn đứng im chờ
thu nhận kết quả. Còn trong truyện Bên Hồ Hàm Nguyệt, phần phát triển chính là đoạn đối thoại
giữa “tôi” với chị Ngàn, khung cảnh làng quê yên bình, nên thơ trong đêm Nguyên tiêu, cảnh đoàn
người tấp nập lên chùa Huyền không làm lễ,…
Ở phần phát triển, tác giả trình bày hàng loạt sự kiện, mâu thuẫn được khai thác tận mọi khía
cạnh của nó, xung đột của cốt truyện được triển khai trên nhiều bình diện, các nhân vật được đặt
vào những cảnh ngộ khác nhau nhất với những thử thách căng thẳng qua không gian, thời gian. Từ
đó cốt truyện bước vào đỉnh điểm.
- Cao trào (còn gọi là đỉnh điểm): Là sự kiện thử thách cao nhất, tột cùng đối với nhân vật dẫn
đến bước ngoặt lớn trong sự phát triển của cốt truyện và đưa đến chấm dứt sự phát triển. Đỉnh điểm
thường là một khoảnh khắc, một thời điểm ngắn, nhưng từ đây câu chuyện đi theo hướng được giải
quyết.
Cao trào của truyện Người đi săn và con vượn là sự kiện đầy cảm động: Vượn mẹ, trước khi
chết, đã nhẹ nhàng đặt con xuống, vơ vội nắm bùi nhùi gối lên đầu con, rồi nó hái cái lá to, vắt sữa
vào và đặt lên miệng con. Với Bên hồ Hàm Nguyệt, đó là điều ước lạ lùng của chị Ngàn về một may
mắn, một phép màu sẽ đến với mẹ của… một chị gái cùng làng! Điều này khiến cho Tâm phải “giật
mình” và vô cùng “ngạc nhiên”.
Cả hai sự kiện đỉnh điểm trên đây đã gây nên những chấn động rất lớn cho tâm hồn nhân vật trong
truyện cũng như người đọc. Từ đó, nó chuẩn bị cho những thay đổi phù hợp cả về lô gic vận động, phát
triển của hiện thực khách quan lẫn lô gic tâm lí, hành động của con người.
Nếu cốt truyện của tác phẩm nhằm tái hiện trực tiếp cuộc đấu tranh giữa các lực lượng xã hội
đối lập thì đỉnh điểm chính là sự kiện đánh dấu sự phát triển của mâu thuẫn đạt đến độ căng thẳng
nhất, đòi hỏi giải quyết tức khắc theo một chiều hướng nhất định.
- Mở nút (còn gọi là kết thúc): Là sự kiện quyết định kề ngay sau cao trào. Nó là sự xóa bỏ
xung đột, nhưng không phải bao giờ cũng xóa bỏ mâu thuẫn. Tất cả các quá trình từ nỗi xúc động,
ăn năn chân thành của người thợ săn, đến việc ông bẻ gãy nỏ, lẳng lặng quay về và từ đó không bao
giờ đi săn nữa; việc để chị Ngàn thổ lộ lí do khiến mình thực hiện một điều ước không giống ai, đến
sự cảm phục của “tôi” trước tấm lòng của chị để rồi thích thú nghĩ về điều ước mình sẽ thực hiện
trong đêm rằm tháng giêng năm sau được xem là phần mở nút. Sau những sự kiện của hai phần này,
xung đột, mâu thuẫn của hai truyện không còn nữa.
Những phần kết thúc của các tác phẩm cụ thể cũng hết sức đa dạng. Có kết thúc đánh dấu sự
giải quyết trọn vẹn xung đột được miêu tả trong tác phẩm (thường gặp nhất trong các truyện cổ dân
gian, truyện Nôm,...) Lại có kết thúc tuy đánh dấu sự xoá bỏ xung đột, xác định tính cách và số
phận của nhân vật, nhưng mâu thuẫn vẫn có thể tiếp tục căng thẳng hoặc chưa bị xoá bỏ hoàn toàn
(chẳng hạn, kết thúc của hai truyện ngắn Tí bụi và Ả ìa âu? của Quế Hương).

76
Ngoài các thành phần trên, cốt truyện có thêm phần "vĩ thanh" hay "đoạn kết", "hậu sử" bổ
sung cho phần mở nút kể về những việc xảy ra trong tương lai hay bình luận về sự kiện đã xảy ra
như trường hợp hai truyện dài Một thiên nằm mộng và Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ của Nguyễn
Ngọc Thuần. Trong Một thiên nằm mộng, đoạn kết chính là câu thần chú về những giọt sương –
những điều ước mang hình trái tim bé thơ, tinh khiết gợi liên tưởng về một thế giới trẻ em hồn
nhiên, quen thuộc nhưng cũng rất cổ tích, diệu kì. Ở Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ, đó là những liên
tưởng thơ ngây nhưng đầy thú vị của nhân vật – người kể chuyện xưng “Tôi” về trẻ em – những vì
sao không ngừng lấp lánh trên tấm thảm bầu trời khi hằng đêm cậu bé “vừa nhắm mắt vừa mở cửa
sổ vừa “nhìn” ra khu vườn tưởng tượng”. Trong các truyện ngắn đương đại, thậm chí người viết còn
"lắp ghép" vào tác phẩm cả phần "lời rao" và "lời bạt" như Sự tích những ngày đẹp trời, Nhân Sứ
(Hoà Vang), Trương Chi của tôi (Bão Vũ)...
Cốt truyện không nhất thiết bao giờ cũng đầy đủ các thành phần như trên và cũng không nhất
thiết phải trình bày theo một thứ tự sau trước như vậy. Có truyện không có mở đầu. Có truyện
dường như không có đỉnh điểm và mở nút như Miệt vườn xa lắm của Dạ Ngân, Bí mật giữa tôi và
thằn lằn đen của Lý Lan. Lại có truyện mở đầu bằng cách đặt người đọc vào chính giữa dòng chảy
của quá trình phát triển của truyện như Lá cờ thêu sáu chữ vàng, Huyền thoại biển, Cho tôi xin một
vé đi tuổi thơ,… chẳng hạn. Có truyện lại có hình thức lồng ghép “truyện trong truyện” như trong
Những tấm lòng cao cả, Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ,… Sự trình bày như thế nào còn tuỳ thuộc
vào ý đồ nghệ thuật của tác giả thông qua kết cấu cốt truyện và kết cấu tác phẩm.
5.2. BIỂU HIỆN CỦA CỐT TRUYỆN NGHỆ THUẬT TRONG VĂN HỌC THIẾU NHI
5.2.1. Cốt truyện nghệ thuật
Cốt truyện nghệ thuật là hệ thống các biến cố trong trật tự nghệ thuật đã được lựa chọn, sắp
xếp. Điểm mở đầu và kết thúc của cốt truyện nghệ thuật rõ ràng là không phải lúc nào cũng trùng
khít với điểm mở đầu và kết thúc của cốt truyện tự nhiên. Chẳng hạn truyện ngắn Điều không tính
trước (Nguyễn Nhật Ánh):
- Cốt truyện nghệ thuật: “Tôi” chuẩn bị vũ khí để đánh nhau với thằng Nghi – Trận bóng giao
hữu khiến tôi “hậm hực”, “giận tím mặt” (mà thằng Nghi là kẻ đầu) – Quyết định chọn “vũ khí hóa
học” là… cái kềm – Trò chuyện với đứa cháu năm tuổi – Rủ thằng Phước chiều nay cùng đi đánh
thằng Nghi và lên kế hoạch “tác chiến” – Phục kích, chặn đường “địch thủ” – Tôi và Phước bị thằng
Nghi “đánh” trước với “vũ khí” là cuốn Luật bóng đá và ba vé xem phim – Cả ba nhỏ cùng đi xem
phim “Trộm mắt Phật”.
- Cốt truyện tự nhiên: Trận bóng đá bất hòa cách đây 5 hôm – “Tôi” chuẩn bị vũ khí để cho
thằng Nghi một trận nhớ đời - Cuộc trò chuyện với đứa cháu năm tuổi - Rủ thêm “đồng minh” là
thằng Phước và cùng lên kế hoạch “tác chiến” - Phục kích, chặn đường “địch thủ” – Bị đối phương
tấn công trước với hai loại “vũ khí” khá bất ngờ - Tôi, Nghi và Phước cùng đi xem phim “Trộm mắt
Phật”.
Bên cạnh sự đảo tuyến thời gian trên đây, sức hấp dẫn của cốt truyện này còn do việc xuất
hiện và chi phối của những sự kiện bất ngờ, chúng như những “điều không tính trước” đẩy mạch
truyện phát triển theo hướng khác, lệch với kế hoạch, dự tính ban đầu của nhân vật, nhưng rất phù
hợp với logic tâm lí trẻ em. Người đọc nhỏ tuổi sẽ hồi hộp, căng thẳng và thú vị dõi theo từng sự
kiện để cuối cùng nhận được một bài học quý về sức mạnh của tình bạn. Điều này được Nguyễn
Nhật Ánh gửi gắm qua hình ảnh tượng trưng đầy chất thơ ở cuối truyện: “Nắng chiều hắt bóng ba
77
đứa xuống mặt đường thành một khối, giống như người khổng lồ trong truyện cổ, người khổng lồ
mà cháu tôi đã nói : “ Cậu không thắng nổi đâu !”.
Sự phân biệt này đã phơi bày cấu trúc nội tại của truyện kể và cho thấy có sự khác nhau giữa
hai dòng thời gian: Thời gian trần thuật và thời gian được trần thuật trong bản thân nó. Cốt truyện
nghệ thuật là thực tại nghệ thuật của nhà văn tạo ra; đó là các biến cố trong sự miêu tả. Tuy nhiên
hai mặt cốt truyện tự nhiên và cốt truyện nghệ thuật vẫn không tách rời nhau. Do đó, cốt truyện chỉ
có ý nghĩa trong kết cấu nghệ thuật của nó mà thôi.
5.2.2. Tính quan niệm của cốt truyện văn học
Cốt truyện là một quan niệm về hiện thực. Cốt truyện không phải là yếu tố duy nhất mang
quan niệm, nhưng rõ ràng nó có nội dung quan niệm của nó. Cốt truyện hàm chứa một hệ thống thế
giới quan, một quan niệm về cuộc đời, tức thể hiện một tính quan niệm nhất định. Vì vậy, thi pháp
học không những chỉ xác lập cấu trúc cốt truyện mà còn phải nghiên cứu quan niệm cốt truyện của
tác giả, tác phẩm, thể loại.
5.2.3. Sự kiện và quan niệm nghệ thuật
Sự kiện là cơ sở của mọi cốt truyện nghệ thuật. Cốt truyện (tự nhiên) là tên gọi chỉ tổng thể
các sự kiện liên quan nhau được thông báo trong tác phẩm. Đối lập với cốt truyện là cốt truyện nghệ
thuật (siuzhet), vẫn là các sự kiện ấy, nhưng ở trong sự trình bày, trong trật tự mà chúng được thông
báo trong tác phẩm, trong mối liên hệ mà chúng được cung cấp trong thông báo về chúng trong tác
phẩm.
Sự kiện trong tác phẩm là những thay đổi, hành động, việc làm của nhân vật. Sự kiện với tư
cách là đơn vị của cốt truyện nghệ thuật là sự thực đánh dấu việc nhân vật vượt qua giới hạn ý
nghĩa. Không phải mọi sự thực đều là sự kiện. Nó chỉ là sự kiện đối với một trường nghĩa nào đó.
Như vậy, sự kiện là sự việc xảy ra có giá trị thông tin trong một phạm vi quan niệm nhất định.
Thử đơn cử một ví dụ. Trong truyện Điều không tính trước, việc chuẩn bị vũ khí để đánh
nhau với thằng Nghi của nhân vật “Tôi” và thằng Phước là sự kiện quan trọng. Sự kiện này được
Nguyễn Nhật Ánh dàn dựng công phu, tỉ mỉ bằng nhiều chi tiết độc đáo, hợp logic, thể hiện được
cái tài và cái tâm của một ngòi bút hết lòng vì trẻ thơ:
- “Tôi” định lấy con dao của mẹ (nhưng lại sợ chặt đứt tay, đứt cổ bạn mình).
- Tìm thấy cái kéo (lại bỏ xuống, vì không dám “đâm thủng bụng” thằng Nghi).
- Thấy bánh kẹo và trái cây của chị Hiền (gạt phắt ý định này: “Chẳng lẽ lại dùng trái cây chọi
địch thủ !”).
- Chọn được “vũ khí… lí tưởng” là … cái kềm. (Thoạt đầu, “tôi” dự định dùng kềm “kẹp vào
bắp vế” kẻ gây hấn; sau vì bị thằng Phước chế giễu, tôi đành phải “ngoa ngôn” là có … “vũ khí hóa
học”. Nhưng thấy cậu bạn tưởng thật nên “tái mặt” vì sợ “đánh nhau… làm chết người”, tôi bèn
giảm dần từ chỗ xịt vũ khí (tưởng tượng) vào người thằng Nghi xuống mức “chỉ xịt què chân nó
thôi, cho nó khỏi đá bóng luôn !”).
Rõ ràng, “tôi” chỉ định đánh chứ không muốn hại thằng Nghi, chỉ muốn “… giã cho nó một trận
thật đau … để nó chừa cái tật ăn gian” thôi. Chính sự kiện này đã làm toát lên sự hồn nhiên, ngây thơ
nhưng cũng rất chín chắn, biết sống vì bạn bè của nhân vật. Hình ảnh “người khổng lồ” - biểu tượng
của TÌNH BẠN - ở cuối tác phẩm cũng là kết quả tự nhiên, tất yếu của sự kiện cơ bản ấy. Điều đó

78
cũng cho thấy phần nào cái duyên trong nghệ thuật dẫn truyện của Nguyễn Nhật Ánh - nhà văn thân
quý của trẻ thơ, người hiểu và yêu các em rất đỗi chân thành.
Sự kiện văn học là sự kiện biểu hiện giá trị tinh thần. Nó phá vỡ thông lệ để đưa nhận thức
đến giới hạn mới. Tuỳ theo ngữ cảnh văn hoá và cá tính sáng tạo mà sự kiện văn học khác nhau về
tính chất và loại hình. Nguyễn Công Hoan có quan niệm rõ về biến cố trong truyện. Ông nêu một
câu hỏi: "Một việc xảy ra ở trên đời, khi nào thì nó thành truyện? Có hai trường hợp, đó là khi sự
việc bình thường sinh ra hậu quả bất thường, hai là khi sự việc bất thường sinh ra hậu quả bất
thường". Dựa trên quan niệm của Nguyễn Công Hoan, có thể thấy việc nhắn tin của thằng cu Mùi
trong Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ (Nguyễn Nhật Ánh) là bình thường (trong suy nghĩ của trẻ con)
nhưng lại dẫn đến hậu quả bất thường, một chuyện… động trời (trong suy nghĩ, nhận định cực
đoan, áp đặt, cứng nhắc và có phần nào “lệch pha” với đời sống tâm lí trẻ em hôm nay của các bậc
làm cha, làm mẹ). Trong truyện ngắn Bên hồ Hàm Nguyệt (Phạm Thị Kim Nhường), điều ước
thiêng liêng dưới đêm trăng Nguyên tiêu của chị Ngàn – một cô gái “đẹp, hiền và khéo léo nhất
làng” nhưng lại sớm mồ côi mẹ và mù loà từ nhỏ - cho mẹ chị Yên “chóng khỏi bệnh, được bình an,
khỏe mạnh” cũng là một sự kiện không bình thường. Và một kết quả không bình thường, nhưng
mang tính tất yếu, khách quan (theo quy luật tình cảm, tâm lí) đã diễn ra: Nghe lời ước, biết được
tấm lòng “đẹp hơn cả trăng rằm tháng giêng”của chị, cô gái tên Tâm không thôi cháy lên một mong
muốn, đợi chờ: Đêm Nguyên tiêu sang năm, khi tròn mười lăm tuổi, cô sẽ đến bên hồ Hàm Nguyệt
chùa Huyền Không để gửi vào cao xanh một nguyện cầu… Sức hấp dẫn, ám ảnh của không ít tác
phẩm văn xuôi viết cho trẻ em hôm nay một phần nằm ở sự đan cài của nhiều sự kiện bình thường –
bất thường mang đầy tính truyện như thế.
5.2.4. Tương quan giữa cốt truyện tự nhiên và cốt truyện nghệ thuật
Đây là tương quan giữa hai trật tự của sự kiện trong tự nhiên (xét theo luật nhân quả) và trong
trần thuật nghệ thuật. Tương quan này thường được hiểu như là tương quan giữa "chất liệu" và
"hình thức". Cốt truyện nghệ thuật là hệ thống sự kiện đã mang hình thức nghệ thuật. Cách kể, cách
sử dụng các chi tiết... tạo thành cốt truyện nghệ thuật cũng góp phần đáng kể mang lại ý nghĩa, giá
trị nghệ thuật của tác phẩm.
Nghệ thuật kể chuyện là một nghệ thuật đặc biệt, nó đòi hỏi kể sao cho mỗi lúc hứng thú của
người đọc được gia tăng. Một cốt truyện giản đơn nhất cũng có thể cấu tạo thành các sự kiện nghệ
thuật hấp dẫn. Nhà văn không thể kể ngay một lúc tất cả truyện, mà buộc phải có thứ tự lần lượt
trước sau, và điều đó cho phép nhà văn cấu tạo lại trật tự câu chuyện theo ý nghĩa nào đó. Nhà văn
đồng thời với việc tạo lại trật tự hình thức là việc tạo ra nội dung mới, nói đúng hơn là việc khám
phá ra nội dung mới quyết định việc tạo lại hình thức - hình thức mang quan niệm. Điều này có thể
thấy qua các truyện ngắn Tiếng rao (Nguyễn Quang Thân), Điểm tám (Nguyên Hương), Huyền
thoại biển (Nguyễn Trí Thông), Áo em cài hoa trắng (Võ Hồng), Điều không thể nói (Trần Thiên
Hương), các truyện dài Những tấm lòng cao cả (E.Amixix), Miệt vườn xa lắm (Dạ Ngân), Vừa
nhắm mắt vừa mở cửa sổ (Nguyễn Ngọc Thuần), Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ (Nguyễn Nhật Ánh)
và các tiểu thuyết Tuổi thơ dữ dội (Phùng Quán), Búp sen xanh, Bông sen vàng (Sơn Tùng),…
Cốt truyện nghệ thuật có thể cho phép nhà văn xáo trộn và sắp xếp lại cốt truyện tự nhiên; tạo
điều kiện để người viết có nhiều hình thức trần thuật khác nhau: Bắt đầu từ giữa hoặc cuối tiến trình
sự kiện và kết thúc ở một điểm nửa chừng (kết thúc mở)... Ở truyện Bên hồ Hàm Nguyệt, sự để ngỏ
kết thúc đã mang lại hiệu ứng thẩm mĩ rất lớn, làm tăng thêm sức mạnh thanh lọc của tác phẩm. Lời

79
nguyện cầu chưa nói ấy của Tâm, độc giả có thể biết trước qua tiếng reo thầm: “A ! Phải rồi…” của
em. Với bạn đọc nhỏ tuổi, họ sẽ thấy mình trưởng thành hơn, sống nhân hậu, tốt đẹp hơn khi nhận
ra từ đây ý nghĩa cao cả của việc cho và nhận, bài học quý giá về hạnh phúc – cái chỉ thực sự có
được khi con người biết sống hết lòng vì nhau.
5.3. THI PHÁP CỐT TRUYỆN TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN HỌC THIẾU NHI
TIÊU BIỂU
5.3.1. Cốt truyện của Đất rừng phương Nam
- Cốt truyện được triển khai song song cùng với cuộc hành trình - lưu lạc của nhân vật trung
tâm: Là một em bé lạc ba mẹ khi chạy tản cư, An phải đi ở cho một bà bán quán, sau làm con nuôi
một ông lão bắt rắn. An đi theo gia đình bố nuôi đi khắp "đất rừng phương Nam". Đây là một môtíp
không mới; sự mới mẻ, hấp dẫn là ở cách viết độc đáo của nhà văn mang nặng tình đất và tình
người Nam Bộ; bởi lẽ truyện không chỉ kể về quá trình đến với cách mạng của một thiếu niên, mà
còn dựng lên một chặng đường chiến đấu của nhân dân ta trong những ngày đầu Pháp trở lại Nam
Bộ.
- Cảnh vật và con người mang đậm bản sắc của vùng Tây Nam Bộ: Vừa anh hùng, vừa giàu
đẹp. Sắc thái văn hoá độc đáo cùng với những sự kiện có tính chất phiêu lưu, mạo hiểm nối tiếp
nhau diễn ra là những nhân tố chính góp phần mang lại sức hấp dẫn thực sự của câu chuyện. Tác giả
luôn đặt nhân vật vào những những hoàn hoàn cảnh gay go, phức tạp như cảnh kinh hoàng khi lạc
bố mẹ; sợ hãi, xót xa khi rời đoàn thuyền vận tải; gan dạ và thông minh để đương đầu với bọn Việt
gian; sung sướng bất ngờ khi được vợ chồng ông Hai bắt rắn cưu mang v.v...
- Kết thúc mở ở cuối truyện (buổi lễ tuyên thệ trang nghiêm của đội du kích địa phương) đã
phần nào phá vỡ cách xây dựng cốt truyện theo lối truyền thống của Đất rừng phương Nam. Điều
này nhấn mạnh sự trưởng thành của nhân vật An và khí thế hào hùng, tất thắng của cách mạng.
Chính những đặc trưng trong cốt truyện mà đọc tác phẩm, "tình yêu đất nước của chúng ta,
một lần nữa giàu có thêm, vì trong văn ông (Đoàn Giỏi), tình yêu đất nước bắt nguồn và liên hệ bền
chặt với sự độc đáo của nền văn hoá lâu đời của dân tộc" (Ma Văn Kháng. Từ điển Tác giả văn học
thiếu nhi Việt Nam; tr.228).
5.3.2. Cốt truyện của tiểu thuyết Tuổi thơ dữ dội
- Cốt truyện của tác phẩm được hình thành trên cơ sở những mẩu chuyện có thật về gương
chiến đấu, hi sinh của các chiến sĩ nhỏ tuổi Đội Thiếu niên trinh sát Mặt trận Huế trong những năm
đầu khi thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta. Kí ức mạnh mẽ về bản thân và đồng đội trong
những tháng ngày gian khổ nhưng anh hùng đó đã thôi thúc nhà văn viết nên một Tuổi thơ dữ dội
thật đặc sắc, hấp dẫn. Thành công của Phùng Quán là đã xây dựng được những nhân vật làm linh
hồn của cốt truyện, có sức sống lâu bền trong tâm trí bạn đọc như Mừng, Lượm, Quỳnh, Vịnh...
Qua tấm gương chiến đấu, hi sinh, không ngại gian khổ và chết chóc của những con người tuổi nhỏ
chí lớn này, Phùng Quán đã làm toát lên chủ đề tư tưởng của thiên truyện: "Thà chết không chịu
mất nước, không chịu làm nô lệ".
- Cốt truyện mang nhiều tính tự truyện: Nhân vật trong truyện là hiện thân của tác giả, bạn bè
thuở ấu thơ và đồng đội thân thương của ông... Tính chất "sự thật việc thật" này đã góp phần mang
lại sức hấp dẫn, đồng cảm mạnh mẽ ở người đọc: "Đọc hết dòng cuối cùng bộ ba tiểu thuyết Tuổi

80
thơ dữ dội của nhà văn Phùng Quán, lòng tôi rất đỗi bồi hồi xúc động. Những nhân vật trong sách
thực sự là những con người bằng xương bằng thịt đã từng là đồng đội của tôi, cùng tôi chia ngọt sẻ
bùi, chịu đựng gian khổ trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến trên mảnh đất Thừa Thiên Huế
anh hùng... (Đại tá Hoàng Văn Lâu - nguyên mẫu nhân vật trung đoàn trưởng Lâu trong tiểu thuyết
Tuổi thơ dữ dội).
- Cốt truyện đa tuyến, nhiều bình diện. Có thể triển khai theo từng tuyến nhân vật: Trẻ em -
người lớn, dân thường - quân giải phóng; theo từng chiến tuyến: Địch - ta; theo không - thời gian:
Vùng địch hậu, vùng giải phóng, quá khứ và hiện tại đan xen v.v...
- Cốt truyện mang đậm tính sử thi: Nhân vật chính diện suốt đời phấn đấu cho lí tưởng cách
mạng: "Suốt nghìn trang sách, khắc sâu vào lòng tôi là hai chữ Trung Hiếu. Một nỗi đau xé lòng khi
ta đọc đến lời trăn trối của Mừng, nhân vật trong truyện, trước lúc em đi vào cõi vĩnh hằng: "Anh
đừng nghi em là Việt gian nữa, anh hỉ" (Tài liệu 5; tr.602). Vì thế, đọc Tuổi thơ dữ dội chính là đọc
lại một phần lịch sử tuổi thơ Việt thấm đẫm xúc động, cảm phục và tự hào.
- Cốt truyện đan cài nhiều yếu tố gay cấn, đặc biệt khi nói về những công việc nặng nhọc, vất
vả, đầy mưu trí và hành động chiến đấu, hi sinh anh dũng của đội thiếu niên nhỏ tuổi trong Trung
đoàn Trần Cao Vân.
- Sự phối hợp tài tình giữa hai tuyến cốt truyện: Cốt truyện sự kiện và cốt truyện tâm lí (nhất
là ở hai nhân vật trung tâm Mừng và Lượm). Điều này đặt nhân vật trong nhiều mối quan hệ (với
đồng đội, nhân dân và với chính mình...), khắc hoạ toàn diện, sâu sắc chân dung nhân vật và diện
mạo chân thực của cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại.
HƯỚNG DẪN HỌC TẬP CHƯƠNG 5
I. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG
Chương này yêu cầu học viên xác định được khái niệm cốt truyện, nhận ra sự giống nhau và
khác nhau giữa cốt truyện tự nhiên và cốt truyện nghệ thuật. Đánh giá đúng vai trò của cốt truyện
nghệ thuật, người học sẽ có ý thức tìm hiểu, khai thác giá trị thẩm mĩ của thi pháp cốt truyện trong
quá trình dạy học ở trường tiểu học và nghiên cứu văn học thiếu nhi nói chung.
II. CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP THỰC HÀNH
1. Đọc câu chuyện sau đây và cho biết cốt truyện của nó được hình thành nên từ những sự
kiện chủ yếu nào?

SƯ TỬ VÀ CHÓ CON
Ở Luân Đôn người ta đem trưng bày thú dữ, ai xem phải nộp tiền hoặc chó con, mèo con cho
thú dữ ăn.
Có một người muốn xem thú, ông nhặt được một con chó con ở ngoài phố và đem vào vườn
thú. Người ta cho ông vào, còn con chó thì lập tức được vứt vào chuồng cho sư tử ăn.
Con chó cụp đuôi và nép mình vào góc chuồng. Con sư tử đến gần nó và ngửi. Chó con nằm
ngửa ra, giơ cả bốn chân lên và quẫy đuôi. Sư tử quờ chân lên mình chó rồi quay đi. Chó con vùng
đứng lên rồi quỳ khựng hai chân sau xuống trước mặt sư tử. Sư tử nhìn chó, lúc lắc cái đầu rồi
không đụng đến nữa.

81
Đến khi chủ chuồng ném thịt vào chỗ sư tử, sư tử xé một miếng phần chó. Đến tối, sư tử đi ngủ,
chó nằm xuống cạnh và gối đầu lên chân sư tử. Từ đó chó con sống cùng chuồng với sư tử. Sư tử không
đụng đến chó con, cùng ăn, cùng ngủ, thậm chí cùng chơi với chó con nữa.
Một lần có một người đến chuồng thú và nhận ra con chó của mình. Ông ta khẩn khoản xin
trả lại chó con. Chủ chuồng muốn trả nhưng vừa vào gọi chó để bắt thì sư tử đã xù lông gầm lên.
Suốt năm ấy sư tử sống cùng chó.
Một hôm chó ốm chết. Sư tử bỏ ăn, suốt ngày ngửi ngửi, liếm liếm và lấy chân xem chó. Đến
khi nó biết rằng chó chết thật, nó bỗng nhảy chồm lên, lông xù ra, quật đuôi liên hồi vào hai mạng
sườn, lao đầu vào chấn song và nhai gặm khoá then. Suốt ngày nó vật vã trong chuồng và gầm
rống lên, rồi sau nó mới nằm im xuống cạnh con chó đã chết. Chủ chuồng muốn lôi con chó chết ra
nhưng sư tử không cho ai đến gần. Chủ chuồng tưởng rằng rồi sư tử sẽ quên nỗi buồn ấy nếu cho
nó một con chó khác, bèn thả vào chuồng một con chó sống, nhưng lập tức sư tử xé xác nó ra. Sau
đó nó lấy chân quặp chặt con chó đã chết và cứ nằm như thế năm ngày liền.
Sang ngày thứ sáu sư tử tắt thở.
Lep Tônxtôi
(Bản dịch của Lê Đức Mẫn)
2. Ở Tiểu học, cốt truyện được chia làm mấy phần? Sự khác nhau trong quan niệm về cốt
truyện trên đây và cốt truyện trong sách giáo khoa Tiếng Việt tiểu học? Điều gì dẫn đến sự khác
nhau này?
3. Đọc câu chuyện sau đây và rút ra nhận xét về cốt truyện của nó:

RÙA VÀ THỎ
Người ta thường nói "chậm như rùa". Họ Rùa nhà tôi chẳng lấy làm buồn khi nghe câu nói
này, thậm chí còn thú vị và tự hào nữa. Bởi đã có một lần, câu nói quen thuộc với nhiều người này
không đúng. Đó là cái lần...
Nghe người ta chế nhạo, xem thường mình chậm chạp, tôi tự thấy hổ thẹn nên hằng ngày vẫn
ra ven hồ, cố sức tập chạy, cho khỏi mang tiếng với đời.
Một buổi sáng, tôi đang cố sức tập chạy thì có anh Thỏ - người vẫn thường được nhận giải
thưởng cao trong các cuộc thi chạy của muôn loài - đi tới. Anh ta vểnh râu chế nhạo tôi và cả họ
nhà tôi là trong cơ thể có dòng máu của...sên. Tôi căm lắm bèn thách anh ta chạy thi. Thỏ vênh váo
nhận lời ngay; lại còn dám chấp tôi một nửa quãng đường nữa.
Tôi vốn biết mình chẳng nhanh nhẹn bằng người, nên không nghĩ ngợi gì, cứ mải miết mà chạy,
chẳng dám ngẩng đầu lên. Thế rồi, tôi cũng tới được đích trong tiếng vỗ tay cổ vũ nồng nhiệt của
muôn loài. Lạ quá, anh Thỏ đâu? Tôi đang chờ đợi những lời mỉa mai cay độc của đối thủ ở cái đích
này, vì tôi nghĩ thế nào anh ta cũng tới đích trước.
Tôi quay đầu nhìn lại thì thấy anh ta đang vắt chân lên cổ mà chạy đằng sau mình. Chợt tôi
thấy anh ta sững lại, rồi rẽ ngang, phóng vào rừng mất hút.
Chắc là anh ta thua nên xấu hổ đó thôi!
4. Mối quan hệ giữa sự kiện và quan niệm cốt truyện thể hiện như thế nào trong truyện Dế
Mèn phiêu lưu kí của Tô Hoài?

82
5. Tại sao các bài thơ trong chương trình Tiếng Việt ở Tiểu học nói riêng, thơ thiếu nhi nói chung
thường có sự hiện diện của cốt truyện?
6. Cho biết những đặc trưng cơ bản trong thi pháp cốt truyện của truyện ngắn viết cho thiếu
nhi từ sau 1975.
III. GỢI Ý GIẢI BÀI TẬP
1. Đây là câu truyện đầy kịch tính. Nó gồm các sự kiện chính sau đây:
1/ Sư tử và chó con gặp nhau.
2/ Sư tử kết bạn với chó.
3/ Cái chết của chó con.
4/ Cái chết của sư tử.
* Nhận xét:
- Truyện ngắn, nhưng dung lượng lớn, các chi tiết dồn dập, nhiều sự kiện, nhiều thông báo.
Mỗi chi tiết đều mang nhiều ý nghĩa, người đọc phải theo dõi liên tục.
- Truyện đề cập tới một tình bạn đẹp đẽ, lạ lùng và hết sức cảm động trong thế giới loài vật.
Nhưng không chỉ có thế, câu chuyện còn gợi cho bạn đọc nghĩ về những điều sâu sắc hơn trong
cuộc sống của con người.
2. Ở Tiểu học (Phân môn Tập làm văn lớp 4, tập 1), cốt truyện được chia làm 3 phần: Mở đầu,
nội dung và kết thúc.
So với quan niệm về 5 phần của cốt truyện ở trên, ta thấy:
- Phần mở đầu: Bao gồm phần trình bày và thắt nút.
- Phần nội dung: Gồm phần phát triển và đỉnh điểm.
- Phần kết thúc: Giống phần mở nút.
Sự phân chia này là phù hợp với tư duy, nhận thức của học sinh tiểu học, với đặc điểm cốt
truyện dành cho thiếu nhi; vì thế giúp các em dễ thuộc, dễ nhớ.
3. Truyện Rùa và Thỏ trên đây có những đặc trưng sau:
3.1. Nhận xét: Truyện được kể lại bằng lời của một nhân vật trong truyện.
3.2. So với ngụ ngôn nguyên bản, cốt truyện ở đây có sự khác nhau rất rõ. Đó là sự không
trùng khít giữa cốt truyện tự nhiên và cốt truyện nghệ thuật:
- Cốt truyện tự nhiên (tương ứng với thời gian được trần thuật) diễn ra theo trật tự tuyến tính:
Rùa tập chạy - Gặp thỏ - Thách đấu - Chạy thi - Rùa tới đích trước thỏ.
- Cốt truyện nghệ thuật: Rùa thắng thỏ (khá lâu sau khi cuộc chạy thi diễn ra) - Rùa tập chạy -
Gặp thỏ - Thách đấu - Chạy thi - Rùa tới đích trước thỏ.
3.3. Sự đảo trật tự thời gian này đã kích thích sự hứng thú của người đọc, tăng thêm hấp dẫn
cho câu chuyện và khiến truyện mang đậm dấu ấn của truyện ngắn hiện đại.
4. Trong truyện đồng thoại Dế Mèn phiêu lưu kí, thế giới chia làm hai nửa: Nửa đầu tù túng,
quẩn quanh và đơn điệu (cuộc sống của cư dân bên đầm nước); nửa sau rộng mở, đổi thay và kì thú
trong suốt cuộc hành trình của Mèn và Trũi. Trong hoàn cảnh đó, những nhân tố chủ yếu tham gia
vào việc tạo ra sự thay đổi của hai quãng đời nhân vật trung tâm là cái chết của dế Choắt và việc Dế
Mèn bị bác Xiến Tóc cắt cụt hai sợi râu trở thành những sự kiện có ý nghĩa quan trọng. Nhờ chúng,
83
nhân vật chính của thiên truyện có thể rút ra những "bài học đường đời" để có đủ nghị lực, dũng khí
từ bỏ cuộc sống quẩn quanh, an phận, nhàm chán và kiêu căng, nông nổi để thực hiện lí tưởng, hoài
bão thiết lập một thế giới đại đồng, bốn bể là anh em của mình ở giai đoạn sau. Ở đoạn đời này,
những sự kiện quan trọng trong cuộc đời Dế Mèn có thể kể đến là: Một lần trôi trên sông suýt chết
và một lần bị cầm tù trong hang chim Trả giúp Mèn thấm thía hơn sự đẹp đẽ, cao cả của tình bạn
chung thuỷ, "sinh tử có nhau"; hai lần vì nóng nảy đã gây nên hai cuộc chiến không cần thiết với
Châu Chấu Voi và với họ nhà Kiến đã giúp Mèn tiến bộ hơn trong cách hành xử, có thêm từng trải,
hiểu mình và hiểu đời. Những sự việc này cũng góp phần nổi rõ tính cách, phẩm chất mới ở nhân
vật: Khao khát hiểu biết, ham hành động, trọng tình nghĩa và coi thường danh lợi, sẵn sàng khước
từ vinh quang, địa vị "chánh phó thủ lĩnh tổng Châu Chấu" để thực hiện lí tưởng sống mà mình đã
chọn.
Tác phẩm có kết cấu chương hồi với trình tự diễn ra theo thời gian. Mỗi chương thu gọn một
sự kiện, như một câu chuyện nhỏ làm bạn đọc nhỏ tuổi dễ theo dõi, dễ nhớ.
5. Sự hiện diện của cốt truyện trong thơ thiếu nhi giúp các em dễ nhớ, dễ thuộc tác phẩm. Các
em chẳng những đọc thơ mà còn kể lại được nội dung của bài thơ. Đây là một đặc trưng cơ bản của
thơ thiếu nhi. Điều đó giúp các em thêm yêu thích đọc thơ; thông qua đó người viết cũng như giáo
viên dễ dàng chuyển tải những bài học giáo dục nhẹ nhàng mà sâu sắc đến với các em.
6. Ngoài những đặc trưng thường thấy trong cốt truyện dành cho thiếu nhi nói chung, truyện
viết cho các em sau 1975, do những thay đổi về bối cảnh văn hoá - xã hội, đội ngũ sáng tác, đặc biệt
là tâm lí, thị hiếu của bạn đọc nhỏ tuổi, vẫn mang những nét khu biệt, dấu ấn thời đại rất rõ. Cụ thể
là:
- Bên cạnh cốt truyện sự kiện quen thuộc, nhiều truyện đã thành công với cốt truyện tâm lí,
đặc biệt là đối với thể loại tự truyện đang hồi sinh mạnh mẽ và đạt được những thành công nhất
định (Tuổi thơ dữ dội (Phùng Quán), Hành trình ngày thơ ấu (Dương Thu Hương), Tuổi thơ im
lặng (Duy Khán), Dòng sông thơ ấu (Nguyễn Quang Sáng), Đường về với Mẹ Chữ (Vi Hồng), Mẹ
Mèo (Dạ Ngân)...). Điều đó gia tăng khả năng của văn học trong việc khám phá thế giới nội tâm
phức tạp, tế vi của trẻ em hôm nay; đồng thời khẳng định vị thế của người viết đã có "cái tài để trở
lại thành con trẻ, giữ nguyên được cặp mắt trong veo của đứa trẻ không bị biến dạng, bị gãy khúc,
bị vẩn đục bởi bao nhiêu tháng năm chồng chất..." (Nguyễn Khải).
- Sự phá vỡ cốt truyện truyền thống bằng những thủ pháp mới: lắp ghép các thể loại nhật kí,
thơ, thư từ... vào trong truyện; các kĩ thuật truyện trong truyện, đảo lộn trật tự tuyến tính giữa các
thành phần cốt truyện... tạo thuận lợi cho khả năng tung phá của ngòi bút, mang lại cho tác phẩm
một diện mạo mới, cuốn hút sự say mê, ham thích cái lạ của trẻ em (Huyền thoại biển (Nguyễn Trí
Công), Mẫu tử (Phạm Quang Đẩu), Khẩu súng (Dương Duy Ngữ)...).
Thành công của Huyền thoại biển, bên cạnh tính nhân văn của nội dung, còn là sự mới lạ
trong thủ pháp dựng truyện. Tác phẩm bắt đầu từ lúc nhân vật "Tôi" - người kể chuyện - mệt nhoài,
co ro trên bãi biển vắng lặng, bên cạnh là bé Hải đang thiếp ngủ, phía trước là lâu đài cát "vẫn đứng
sừng sững" dưới ánh trăng vằng vặc. Nhờ đâu lâu đài cát không sụp đổ khi thuỷ triều đang lên?
Từ chi tiết nằm giữa (xét theo trật tự tuyến tính của cốt truyện tự nhiên), tác giả dẫn ta trở về
với những gì diễn ra trước đó; rồi lại tiếp tục theo dõi những diễn biến tiếp theo giữa hai nhân vật
này: Chiều hôm ấy, trên bãi biển có em nhỏ tên là Hải, mồ côi cha, mẹ đi lột mực (cá mực) qua
đêm. Chú bé ở nhà một mình cùng chiếc vỏ sò của người cha để lại với lời nói dành cho con trẻ:

84
"Ai có chiếc vỏ sò này, người đó sẽ gặp toàn may mắn..." Em bé mồ côi đang cần có điều ấy và tin
vào cái vỏ sò, luôn mang theo mình. Tha thẩn thế nào, Hải đã để chìm chiếc vỏ sò xuống biển bên
bờ cát và oà khóc. Thấy Hải khóc, nhân vật "Tôi" ra biển tắm, đã mò giúp em tìm lại cái vỏ sò quý
giá. Nghe Hải bày tỏ niềm tin vào chiếc vỏ sò, anh không tin. Đêm ấy, hai anh em ngủ trên bờ biển
chờ xem... Thuỷ triều đang dâng lên. Lâu đài cát (do Hải đắp) dần sụt xuống. Và bé Hải vẫn đang
say ngủ, môi nhoẻn cười. Người anh choàng tỉnh, thấy vậy đã nhoài người ra sức đắp lại không biết
bao nhiêu cái lâu đài cát khác theo mực nước dâng lên. Lúc Hải tỉnh giấc, thuỷ triều ngưng, lâu đài
và chiếc vỏ sò vẫn còn đó... Em trở về với niềm tin là món quà tình thương của người anh mới quen
tặng cho. Thế là em đã mang theo một huyền thoại về chiếc vỏ sò của biển như là niềm an ủi, may
mắn của một em bé mồ côi cha, mẹ đi vắng qua đêm phải sống một mình...
- Sự hiện diện của nhiều yếu tố bất ngờ luôn kích thích sự hứng thú, say mê của trẻ. Đây là
một nhân tố quan trọng mang lại sức hấp dẫn vượt trội của truyện so với thơ viết cho trẻ em hôm
nay (Con sáo (Phan Tùng Châu), Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ (Nguyễn Ngọc Thuần), Gióng chắn
(Hoà Vang), Điều không tính trước (Nguyễn Nhật Ánh), Thần may mắn (Hiền Trang), Vua lũ đồ
chơi (Quế Hương),...).
Lấy truyện ngắn Con sáo (Phan Tùng Châu) làm ví dụ. Truyện kể rằng, mỗi chủ nhật em nhỏ
nọ thường đến chơi nhà bác em. Nhà bác em có vườn cây sum suê với ổi, hồng quân, khế, vú sữa...
Có con chó Minô. Đặc biệt có con sáo quý với bộ lông đen tuyền và cái khoang vàng choé như
chiếc kiềng đeo cổ. Em mê ngay con sáo. Em ước ao được ấp ủ con sáo trong lòng bàn tay và cọ cái
đầu bé xíu của nó vào má mình. Và thế là, lợi dụng lúc bác em đang ngủ trưa, em đến với cái lồng
sáo. Không may, cái lồng rơi, cửa lồng bật mở, và con sáo chui ra, bay mất.
Chuyện gì sẽ xảy ra sau đó? Cơn giận dữ của ông bác? Nỗi ân hận của em nhỏ? Một bài học
luân lí về thói nghịch ngợm? v.v... Tất cả đều có thể hợp lí ở tính tất nhiên đã thành một nếp nghĩ,
một mô hình! Vậy mà không! Không có những ý tưởng đó. Cách một chủ nhật sợ hãi trốn tránh,
chủ nhật sau, đột ngột ông bác đến đón em. Đột ngột hơn, ở vườn bác, cái lồng không có con sáo
vẫn còn treo chỗ cũ, nhưng ở tít trên ngọn cây hồng quân có một đôi sáo, trong đó có con sáo sổ
lồng, đang hót ríu ran vang động cả không gian buổi giữa ngày.
Thế là tưởng mất mà hoá ra lại được. Mà cái được lại rất lớn lao. Được một niềm vui tràn
ngập âm thanh, được cảm nhận mới lạ về hạnh phúc, về tự do. Thật là bất ngờ mà cũng thật là tự
nhiên, hợp lô gích và có ý nghĩa giáo dục cao.
Điều này cũng bắt gặp trong truyện ngắn Điều không tính trước (Nguyễn Nhật Ánh). Tác
phẩm kể về một kế hoạch "phục thù" hoàn hảo của "Tôi" với Nghi. Bị từ chối một bàn thắng tuyệt
đẹp, "Tôi" lấy làm ức lắm. Đã vậy, tôi còn bị Nghi trêu: "Lần sau đừng ăn cắp trứng gà (ý nói chơi
không đẹp) nữa nghen!". "Tôi" đã phải hết sức đắn đo, cân nhắc khi tìm vũ khí để trị đối phương.
Cuối cùng, tất cả đã sẵn sàng: Một cái kìm được mài nhẵn trong túi, một thứ vũ khí hoá học lợi hại
đến nỗi... chỉ có trong tưởng tượng. Và một cái ná thun sẽ được thằng Phước cầm, ngồi sẵn trong
bụi cây, đợi 'Tôi" ra lệnh là tấn công liền! Thời gian hành động đã đến. Cứ ngỡ "cuộc chiến" sẽ diễn
ra đầy kịch tính. Vậy mà... Vẫn có kịch tính, nhưng lại theo một hướng đầy bất ngờ. Đó là sự xuất
hiện của những "điều không tính trước":
... Thấy tôi, Nghi reo lên:
- Ủa, mày đi đâu đó? Tao đang đi tìm mày nè!
Chờ từ nãy đến giờ, bỗng nghe "đối thủ" hỏi vậy, tôi không khỏi "thót bụng": "Chết cha! Vậy
là nó đã chuẩn bị rồi!".
85
Nắm chặt vũ khí trong tay, đợi Nghi đưa vũ khí ra là tôi sẵn sàng đối phó. Thế nhưng...
- Đây là cuốn luật bóng đá của anh tao. Cho mày mượn đọc để mai mốt đá bóng bọn mình
khỏi phải cãi nhau nữa! Trong đó, có ghi rõ luật việt vị đó!
Tôi đang ngơ ngác thì Nghi lấy trong túi ra mấy tờ giấy huơ lên:
- Đi xem phim không?
....
Không ngờ "Tôi" lại bị "đánh" trước; và "vũ khí" của Nghi lại là cuốn luật bóng đá và ba cái
vé đi xem phim. Thế là không có chuyện đánh nhau, thế là mấy thứ vũ khí lợi hại của tôi chẳng thể
phát huy tác dụng. Cuộc "đại chiến" đã lên "giây cót" được thay thế bằng một "buổi xem phim" đầy
ý nghĩa! Nguyễn Nhật Ánh đã dẫn dắt câu chuyện đi từ hồi hộp này đến hồi hộp khác rồi kết thúc
đầy bất ngờ, để lại nhiều nhắn nhủ cho bạn đọc nhỏ tuổi về quan niệm và cách ứng xử trong tình
bạn.
- Một số truyện có kết thúc để ngỏ (Bây giờ bạn ở đâu (Trần Thiên Hương), Tâm hồn mẹ
(Nguyễn Huy Thiệp), Tiếng vạc sành (Phạm Trung Khâu), Bên hồ hàm nguyệt (Phạm Thị Kim
Nhường), Ả ìa âu? (Quế Hương) v.v...) Ở lứa tuổi lớn hơn, cốt truyện kiểu này thường gợi suy nghĩ
ra nhiều phía, nhiều chiều đồng thời hướng bạn đọc tới những cảm xúc lớn lao về cuộc sống, về con
người với tất cả sự mới mẻ, phong phú, đẹp đẽ và kì lạ của chúng.

IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lã Thị Bắc Lý, Truyện viết cho thiếu nhi sau năm 1975, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội,
2003 (Chương ba).
2. Trần Đức Ngôn (chủ biên), Dương Thu Hương, Văn học thiếu nhi Việt Nam, Nxb Đại học Sư
phạm Hà Nội I, Hà Nội, 1994 (Chương một).
3. Nhiều tác giả, Văn học cho thiếu nhi (sau Cách mạng tháng Tám), NXB Văn học, Hà Nội,
1996.
4. Trần Đình Sử, Giáo trình Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1998 (Chương
tám).
5. Vân Thanh (Biên soạn), Tác giả văn học thiếu nhi Việt Nam, Nxb Từ điển bách khoa, Hà
Nội, 2006.
Học viên có thể tham khảo thêm các bài: Truyện viết cho thiếu nhi trong chặng đầu phát triển
(Vân Thanh); Mấy ý kiến về truyện lịch sử cho các em (Hà Ân); Truyện đồng thoại viết cho thiếu
nhi (Định Hải); Truyện viết cho thiếu nhi sau năm 1975: Diện mạo và quá trình phát triển (Lã Thị
Bắc Lý); Những truyện ngắn làm giàu tâm hồn trẻ (Ma Văn Kháng); Đọc lại "Đất rừng phương
Nam" của Đoàn Giỏi (Tế Hanh); Truyện thiếu nhi của Võ Quảng (Nguyễn Tuân); Nguyễn Huy Tưởng
và những truyện viết cho thiếu nhi (Phạm Hổ); Tô Hoài - "Dế Mèn" và "Cát bụi" (Văn Hồng); "Kính
vạn hoa" - phép lạ giữa ngày thường (Văn Hồng) v.v... (Trong Văn học thiếu nhi Việt Nam (Nghiên
cứu, lí luận, phê bình - tư liệu) (Vân Thanh biên soạn); tập 1, 2, Nxb.Kim đồng, Hà Nội, 2003).
.

86
Chương 6
KẾT CẤU TRONG VĂN HỌC THIẾU NHI

6.1. GIỚI THUYẾT VỀ KẾT CẤU NGHỆ THUẬT


6.1.1. Khái niệm kết cấu nghệ thuật
Về khái niệm kết cấu nghệ thuật, có một số cách hiểu như sau:
- Kết cấu nghệ thuật là toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của tác phẩm.
(Trần Đình Sử, Văn học tập 1. Nxb Hà Nội, 1993).
- Kết cấu là sự sắp xếp, phân bố các thành phần hình thức nghệ thuật tức là sự cấu tạo tác
phẩm tùy theo nội dung và thể tài.
(Lại Nguyên Ân, 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999).
- Kết cấu là toàn bộ tổ chức nghệ thuật sinh động của tác phẩm.
(Phạm Đăng Dư, Lê Lưu Oanh, Giáo trình lí luận văn học, Nxb Giáo dục, 1997)
Như vậy có thể hiểu kết cấu là toàn bộ sự tổ chức các yếu tố trong chỉnh thể nghệ thuật nhằm
chuyển tải những nội dung nhất định. Kết cấu sẽ ra đời cùng với ý đồ nghệ thuật của tác phẩm và sẽ
được cụ thể hóa cùng sự phát triển của hình tượng. Giữa kết cấu với kĩ thuật, thủ pháp có sự khác
biệt. Kĩ thuật và thủ pháp cũng là cách tổ chức, sắp xếp các yếu tố nghệ thuật để tạo thành nội dung
tác phẩm. Tuy nhiên, kĩ thuật và thủ pháp có hạn còn kết cấu thì vô hạn. Cùng một nội dung nhưng
với những cá tính sáng tạo khác nhau sẽ cho ra đời những cách cấu tạo, những biện pháp chuyển
nghĩa khác nhau. Thực tế cho thấy, cũng sử dụng hệ thống thủ pháp như thế nhưng mỗi tác phẩm
văn học là một kết cấu độc đáo, không lặp lại.
6.1.2. Vai trò của kết cấu nghệ thuật
- Kết cấu góp phần triển khai, trình bày hấp dẫn cốt truyện, cấu trúc hợp lí hệ thống nhân vật,
tổ chức điểm nhìn trần thuật, tạo ra tính toàn vẹn của tác phẩm như là một hiện tượng thẩm mĩ.
- Kết cấu là phương tiện khái quát nghệ thuật. Nhờ kết cấu mà các hiện tượng, sự vật, con
người được liên kết lại trong một chỉnh thể nội dung nhất định, từ đó góp phần bộc lộ tốt chủ đề và
tư tưởng tác phẩm. Sự lặp lại cấu trúc định nghĩa "quê hương là..." trong bài thơ Quê hương của Đỗ
Trung Quân cùng với việc đưa ra những hình tượng thơ gần gũi như: Chùm khế ngọt, đường đi học,
con diều biếc, đêm trăng... đã thể hiện tình yêu quê hương, sự gắn bó của trẻ thơ với những cảnh
tượng thân thuộc như góc nhìn quê hương.
- Kết cấu góp phần thể hiện nổi bật những nội dung chính yếu của nghệ thuật. Bài thơ Thả
diều của Trần Đăng Khoa có đến bảy khổ nhưng nội dung chính tập trung ở khổ kết với hình ảnh
đối lập giữa sự bay bổng tự do, ngạo nghễ của cánh diều với hình ảnh hố bom - biểu trưng cho
không gian chiến tranh khốc liệt. Kết cấu vòng tròn với việc lặp lại hình ảnh "Chú bé loắt choắt/Cái
xắc xinh xinh/ Cái chân thoăn thoắt/Cái đầu nghênh nghênh..." ở đầu và cuối bài thơ Lượm của Tố
Hữu đã thể hiện rõ sự bất tử của nhân vật. Kết thúc tác phẩm bằng những dòng thơ ấy cũng đã góp
phần xóa tan ấn tượng về những mất mát, đau thương và để cảm hứng lạc quan, niềm tin vào cách
mạng và thế hệ trẻ được thăng hoa.

87
- Kết cấu thể hiện quá trình lựa chọn, sắp xếp chất liệu hiện thực của nhà văn để biểu hiện một
tư tưởng nghệ thuật, một chân lí khái quát về đời sống. Kết cấu cũng phản ánh quá trình tư duy, vận
động nghệ thuật của nhà văn.
6.2. MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN CHỦ YẾU CỦA KẾT CẤU TRONG VĂN HỌC THIẾU NHI
Nếu xem xét ở bình diện quy luật tổ chức thể loại, chúng ta sẽ có ba loại kết cấu: Kết cấu tự
sự, kết cấu trữ tình, kết cấu kịch. Còn nếu xem xét ngay trong chỉnh thể tác phẩm, chúng ta sẽ thấy
kết cấu tồn tại ở hai cấp độ cơ bản: Cấp độ hình tượng và cấp độ trần thuật. Cấp độ hình tượng
chính là kết cấu ở bề sâu bao hàm hệ thống nhân vật, hệ thống chi tiết, hệ thống sự kiện... Trong khi
đó, cấp độ trần thuật được xem như kết cấu bề mặt bao gồm điểm nhìn trần thuật, cách tổ chức câu
và các phương thức tu từ.
6.2.1. Hệ thống hình tượng nhân vật
Nhân vật là hình thức cơ bản để văn học miêu tả thế giới trong tính hình tượng của nó. Đó
cũng là phương tiện để nhà văn khái quát các quy luật của cuộc sống, con người. Trong văn học,
loại hình nhân vật rất phong phú. Có thể dựa vào vai trò để phân chia nhân vật thành nhân vật
chính, nhân vật phụ, nhân vật trung tâm. Trong kết cấu, nhân vật chính xuất hiện nhiều, giữ vị trí
then chốt của truyện và thường được khắc họa đầy đặn hơn để thể hiện tập trung đề tài, chủ đề tác
phẩm. Trong các nhân vật chính, lại xuất hiện những nhân vật trung tâm - nơi quy tụ các mối mâu
thuẫn của tác phẩm. Còn nhân vật phụ sẽ mang những tình tiết, sự kiện... có tính chất hỗ trợ, bổ
sung. Ngoài ra, nếu xét về phương diện hệ tư tưởng, có thể chia ra hai loại nhân vật: Chính diện và
phản diện.
Nói đến hệ thống nhân vật là nói đến sự tổ chức các mối quan hệ của nhân vật. Thường thì
các nhân vật tồn tại những mối quan hệ đối lập, quan hệ đối chiếu tương phản và quan hệ bổ sung.
Quan hệ đối lập là quan hệ loại trừ nhau, gắn liền với sự đối lập về địa vị, phẩm chất, lí tưởng...
Nhân vật Tấm và Cám, Thạch Sanh và Lí Thông là sự đối lập như thế. Các nhân vật cùng loại, cùng
hướng đến mở rộng phạm vi của một loại hiện tượng sẽ gắn kết trong quan hệ bổ sung. Thường thì
nhân vật bổ sung là nhân vật phụ, góp phần làm rõ diện mạo tâm hồn của nhân vật chính. Trong
truyện Dế Mèn phiêu lưu kí, Dế Trũi, Châu Chấu Voi, Bọ Ngựa... là kiểu nhân vật bổ sung, cung
cấp cho ta những góc nhìn khác để thấy rõ hơn chân dung Dế Mèn. Còn quan hệ tương phản, đối
chiếu thì hướng đến làm nổi bật sự khác biệt của nhân vật. Trong quan hệ này, kiểu nhân vật gương
soi xuất hiện. Nguyên tắc kết cấu tương phản này đã tạo ra ranh giới rõ ràng giữa các nhân vật khác
tuyến lẫn nhân vật cũng tuyến.
Trong truyện Con Dog của Ma Văn Kháng, nhân vật Tôi và người em gái của mình là Thắm
được đặt trong quan hệ tương phản với người bố, với nhân vật đám đông bên bờ ao làng Mạ. Mấy
chục người đàn ông mặt mũi dữ tợn ấy đang bị chế ngự trong "cơn thích ứng thú rừng", thi nhau
ném những cồ đá củ đậu vào một con chó đang lóp ngóp dưới ao. Mặc cho con chó cuống cuồng
quẫy đạp, trốn chạy trong tuyệt vọng và kêu lên những tiếng thảm thiết, bọn đao phủ vẫn rộ những
tràng cười khoái trá. Và một cuộc hành hình thời trung cổ đã diễn ra ngay trên bờ ao. Cả đám người
nguyên thủy ấy đã nhảy ào xuống nước trong tiếng tru dài đau đớn và căm hận của con vật. Người
bố không có mặt trong cuộc hành hình ấy. Tuy nhiên, bên cạnh hai đứa con tràn đầy tình thương
yêu loài vật với một tình cảm nguyên sơ không vụ lợi, luôn tìm cách gột rửa những ấn tượng hãi
hùng và bi thảm trong sinh linh tội nghiệp thì người bố là một hình ảnh tương phản ghê gớm. Sự cứng
nhắc và lí trí đến tàn nhẫn của một người làm việc cho tòa án đã dẫn đến trận đòn tức tưởi với con
88
chó. Dẫu cho con chó đã tự vệ cho sự sống còn của bản thân, dẫu cho những đứa con đã khóc đến
sưng húp cả mặt, đã nhịn nhục chịu cái tát và những lời chửi của bố thì con chó vẫn bị đuổi ra khỏi
nhà. Hình ảnh bé Thắm đứng suốt ngày ở bờ ao làng Mạ chờ đợi con vật đáng thương đã để lại cho
chúng ta biểu tượng đẹp về lòng nhân ái, về lối sống ân tình của trẻ thơ.
6.2.2. Hệ thống sự kiện nghệ thuật và hệ thống cảm xúc
Sự kiện là một đơn vị cơ sở của truyện kể phản ánh sự vận động của đời sống và cũng đồng
thời tạo nên sự vận động của tác phẩm. Trong tác phẩm, sự kiện chính là những đổi thay, hành
động, việc làm của nhân vật mang ý nghĩa đánh dấu việc nhân vật vượt qua giới hạn ý nghĩa. Nói
cách khác, sự kiện góp phần phá vỡ những thông lệ để đưa nhận thức đến giới hạn mới. Trong
truyện Cá chuối con của Xuân Quỳnh, sự kiện cá Chuối mẹ bị Mèo cắn chảy máu khi đi tìm mồi
cho con quả đã có tác động lớn đến cá Chuối con. Sự kiện ấy đã giúp đàn con hiểu thấu hơn tình
yêu con đến quên mình của mẹ. Vì thế mà đàn cá Chuối con đã có những thức nhận mới mẻ. Họ
hiểu rằng mình cần phải tự đi kiếm ăn chứ không làm khổ mẹ nữa.
Tuy nhiên vẫn sẽ có rất nhiều trường hợp là dẫu tình huống có đổi thay nhưng nhân vật không
thay đổi về nhận thức, tính cách. Trong kết cấu tác phẩm, sự kiện góp phần làm cho các nhân vật
hoặc xích lại gần nhau hoặc xa nhau hơn. Việc tổ chức hệ thống sự kiện sẽ hướng đến thể hiện số
phận, tính cách con người và bức tranh xã hội.
Hình thức tổ chức hệ thống sự kiện cơ bản nhất của văn học là sự liên kết các sự kiện lại
thành chuyện. (Riêng tác phẩm trữ tình chủ yếu khai thác cảm xúc của con người trước sự kiện).
Lúc đó, tác phẩm sẽ là một chuỗi sự kiện có mở đầu, phát triển, kết thúc theo mối liên hệ nhân quả
liên tục. Sự kiện thử thách cao nhất đối với nhân vật sẽ dẫn đến bước ngoặt lớn cho sự phát triển
của truyện. Tuy nhiên sẽ có những tác phẩm không đi theo sự phát triển ấy, thậm chí không bao
hàm đầy đủ thành phần của cốt truyện.
Trong khi đó, hệ thống cảm xúc được xem là đặc trưng của thơ trữ tình. Các yếu tố không -
thời gian, hình ảnh, chi tiết, điểm nhìn... đã được liên kết trên nguyên tắc tưởng tượng trở thành
những hình tượng tạo hình nhằm chuyển tải cảm xúc tác phẩm. Vì thế nói đến hệ thống cảm xúc là
nói đến sự liên kết và tổ chức sự vận động của cảm xúc thơ qua các câu thơ, khổ thơ thông qua
dòng liên tưởng. Dòng ý thức trữ tình nối liền những hiện tượng tưởng chừng riêng lẻ thành một hệ
thống thống nhất, xâu chuỗi các sự vật, các biểu tượng. Dòng cảm xúc cũng sẽ thể hiện quy luật vận
động của tâm hồn và đời sống thông qua vô vàn các quan hệ. Chính vì thế mà tác giả Phạm Đăng
Dư đã cho rằng: "Tạo dựng quan hệ là một trong những kết cấu cơ bản của hệ thống cảm xúc". Bài
thơ Con yêu mẹ của Xuân Quỳnh đã thể hiện cảm xúc của nhân vật trữ tình thông qua nhiều mối
quan hệ: Cái hữu hạn và vô hạn, cái xa xôi và cái gần gũi, cái hữu hình và cái vô hình, cái vô lí và
có lí... Nhân vật trữ tình đã vận động từ cái hữu hạn, xa xôi của bầu trời, của Hà Nội, trường học...
để đến với cái gần gũi tưởng chừng như vô lí mà rất có lí, đó là "con yêu mẹ bằng con dế". Cách nói
đậm nét trẻ thơ ấy đã cụ thể hóa một điều vốn vô hình, đó là khái niệm tình yêu.
Hệ thống cảm xúc được tái hiện thông qua hai lớp hình tượng: Khách thể và chủ thể. Hai lớp
hình tượng này vận động phụ thuộc vào nhau dựa trên sự tương đồng về nhịp điệu của vận động đời
sống và vận động tâm hồn. Thường thì hệ thống cảm xúc được đặt trong tương quan với các sự
kiện, hình ảnh, nhân vật để thể hiện rõ hơn tình cảm của nhân vật trữ tình. Tình yêu loài vật, tình
yêu quê hương và lòng căm thù giặc Mĩ của Trần Đăng Khoa trong bài Sao không về Vàng ơi? đã
bộc lộ chân thực và rõ nét khi sự kiện con chó Vàng không về nhà diễn ra.
89
6.2.3. Hệ thống điểm nhìn
Điểm nhìn được xem là năng lực tinh thần đặc biệt của con người. M. Proust đã cho rằng:
"Đối với nhà văn cũng như đối với nhà họa sĩ, phong cách không phải là vấn đề kĩ thuật mà là vấn
đề cái nhìn". Khi bàn về cá tính sáng tạo của nhà văn, Khrapchencô cũng khẳng định: "Chân lí cuộc
sống trong sáng tác nghệ thuật không tồn tại bên ngoài cái nhìn nghệ thuật có tính cá nhân đối với
thế giới". Nguyên tắc quan trọng của kết cấu là nguyên tắc tổ chức cái nhìn sao cho bằng cảm thụ
trực tiếp, người đọc có thể nắm bắt được ý nghĩa của hình tượng và rung động thẩm mĩ của tác giả.
Với tác phẩm, vấn đề quan trọng là các hiện tượng đời sống được nhìn theo con mắt của chủ thể nào
và theo điểm nhìn không gian, thời gian nào. Hệ thống điểm nhìn ấy sẽ qui định cách tổ chức văn
bản, xác định quan hệ văn bản ngôn từ với thế giới hình tượng. Lập trường xã hội, lập trường tư
tưởng, kinh nghiệm sống và cá tính sáng tạo... là những yếu tố chi phối điểm nhìn.
Theo giáo sư Trần Đình Sử, cái nhìn có thể được xét ở hai phương diện: Điểm nhìn của người
trần thuật và nhân vật, cái nhìn thể hiện trong khách thể. Điểm nhìn tồn tại trong khách thể là điểm
nhìn không gian, thời gian, điểm nhìn ngôn từ, điểm nhìn bên trong... Nói cách khác, chính vị trí
của chủ thể trong không gian, thời gian, cách dùng ngôn từ của chủ thể cũng là một góc nhìn thể
hiện quan điểm. Sự kết hợp tất cả các điểm nhìn ấy sẽ tạo thành điểm nhìn nghệ thuật cho tác phẩm.
Còn theo Phạm Đăng Dư, ông dựa vào trường nhìn trần thuật và bình diện tâm lí để phân loại
điểm nhìn. Nếu xét về trường nhìn trần thuật thì có thể chia thành hai loại: Trường nhìn tác giả và
trường nhìn nhân vật. Trường nhìn tác giả là trần thuật theo sự quan sát, hiểu biết của người trần
thuật đứng ở ngoài truyện, ví dụ như truyện cổ tích, truyền thuyết... Còn trường nhìn nhân vật là
trần thuật theo quan điểm của một nhân vật trong một tác phẩm. Nói cách khác, người trần thuật đã
được nhân vật hóa để tham gia sâu vào cốt truyện. Trường nhìn này tất yếu sẽ bị hạn chế bởi địa vị,
tầm nhận thức, lập trường tư tưởng của người trần thuật đó. Trong khi đó, trường nhìn tác giả lại
đưa đến tính khách quan cho tác phẩm.
Khác với văn học dành cho người lớn, văn học thiếu nhi xuất hiện với mật độ lớn điểm nhìn trẻ
thơ. Có khi đó là cái nhìn trực tiếp của chính trẻ nhưng cũng có khi người lớn làm bé mình lại, thu
mình vào góc độ tuổi thơ. Và đó là một điểm nhìn thực sự trong sáng, với những rung cảm chân thực
vốn chưa bị nhiễu bởi những lí thuyết xơ cứng. Giá trị của điểm nhìn ấy chính là nguồn cơn khiến cho
nhà thơ Xuân Diệu cứ thèm có một đôi mắt xanh non của trẻ để nhìn đời. Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ
sau một chặng đường đời, đường thơ đa đoan và lắm tục lụy cũng vui mừng vì cuộc hội ngộ với điểm
nhìn tinh nguyên ấy:
"May có đứa bé
Còn ở trong hồn
Cái nhìn xanh biếc
Lung linh cội nguồn..."
Trong văn học, hiện tượng di chuyển điểm nhìn rất phổ biến và làm hình thành tính phức điệu
của tác phẩm. Văn học thiếu nhi hiện đại điển hình cho kiểu trần thuật xưng "Tôi" - kết quả của việc
nhà văn nhập vào vai nhân vật để có cái nhìn trong trẻo, hồn nhiên và chân thật của trẻ thơ.
6.3. THI PHÁP KẾT CẤU CỦA MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN HỌC THIẾU NHI TIÊU BIỂU
6.3.1. Kết cấu truyện dài Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ

90
Truyện có kết cấu theo kiểu chương hồi. Các sự kiện diễn ra trong truyện đi theo bước phát
triển của nhịp thời gian. Chất keo kết dính chuỗi sự kiện trong các chương chính là những bí mật.
Mỗi chương truyện đã trình bày trọn vẹn một bí mật thú vị mà nhân vật chính đã khám phá ra.
Truyện bắt đầu bằng những bí mật về âm thanh đẹp nhất của con người, đó là tiếng khóc và cái tên.
Những chương tiếp theo đã đẩy nhân vật chính đi xa hơn đến những bí mật mới lạ. Truyện là chuỗi
bí mật bất tận mà Dũng đã phát hiện ra trong quá trình "vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ": Bí mật về
cái răng khểnh của Dũng, về cái mũi hồng của cô giáo (chương 2); bí mật về những ngón tay của
ông Tư, chú Hùng và ngón tay út của Dũng (chương 3); bí mật về tình yêu của chú Hùng với cô
Hồng và bí mật về trò chơi của Dũng với ông Tư (chương 4); bí mật về con mắt thần (chương 5); bí
mật về đôi guốc của cô Hà (chương 6); bí mật về món quà ngọt ngào của người lạ mặt (chương 7);
bí mật về một ngày kinh hoàng (chương 8), về người lạ (chương 9), về ngày bí mật (chương 10), về
bà ma xơ (chương 11); bí mật về những lỗi lầm (chương 12), về những ngày bình thường (chương
13), về con rắn hai đầu (chương 14), về bi kịch của thằng Tí (chương 15), về ông lang vườn
(chương 16). Và chương cuối cùng đã khép lại với lời kết về những bí mật không thể nói hết. Cách
kết cấu ấy thể hiện một giọng kể chuyện rất quyến rũ, rất hấp dẫn như kể chuyện cổ tích. Vì thế mà
có người đã nhận xét rằng: "Cả một quyển sách được kể liền liền từ đầu đến cuối toàn những câu
chuyện bé xinh như những hạt ngọc, như muốn xâu thành chuỗi đeo vào cổ em. Kể cả lời kết xinh
và lời bạt cũng nhỏ xinh như thế".
Cách xây dựng nhân vật của Nguyễn Ngọc Thuần có điều khá đặc biệt là trong truyện không
hề có nhân vật đối lập, chỉ tồn tại những nhân vật bổ sung mà thôi. Mỗi một nhân vật là một nét
đẹp, một thiên sứ mang tình người ấm áp đến với cõi nhân gian. Khi nhận xét về truyện Nguyễn
Ngọc Thuần, Tôn Nữ Triệu Vương cho rằng: "Đôi khi, ta thấy nhân vật của anh tồn tại những mối
giao cảm với nhau vượt ra ngoài đời thực". Điều này rất đúng với nhân vật Dũng trong Vừa nhắm
mắt vừa mở cửa sổ. Dũng là nhân vật chính của truyện dài này. Giữa Dũng với bố mẹ, cô giáo,
những người láng giềng, bè bạn có sự giao cảm lớn. Cậu bé hồn nhiên, chân thật trong cảm xúc ấy
đã có lúc già trước tuổi bởi sự thấu hiểu lạ lùng về thế giới, về người thân. Em hiểu được nỗi buồn
của những người không còn đầy đủ thân thể như ông Tư, chú Hùng và đã tình nguyện làm bàn tay
cho ông Tư. Khi đến trường, Dũng lại giành tình yêu cho cô giáo Hà. Em quan tâm đến những chi
tiết nhỏ nhặt nhất như cái mũi hồng và đôi guốc màu xanh của cô. Cô giáo với sự trân trọng thị hiếu
của trẻ thơ nên đã đến lớp với đôi guốc màu xanh. Đó là biểu hiện đơn giản và chân thực nhất cho
tình yêu đối với cậu học trò dễ thương này. Dũng cũng thấm thía nỗi đau của cô Hồng khi đánh mất
bé Thương. Cái nắm tay ấm áp, sẻ chia cùng với câu hỏi ngây thơ của em: "Cô có thích ăn bắp rang
không?" đã trả lại nụ cười đầu tiên cho cô Hồng, một nụ cười trên khuôn mặt buồn. Tình yêu
thương và mối giao cảm ấy Dũng còn giành cho Tí. "Tôi đã khóc khi thấy đôi mắt thằng Tí nhấp
nháy một gợn vào chiều hôm đó. Tôi đã ôm lấy bàn tay mềm nhão của thằng Tí vào lòng mình, cái
bàn tay như vừa mới được sinh ra lần đầu tiên nên nó có vẻ dịu dàng và dễ bị tổn thương. Tôi còn
gọi tên nó rất nhiều lần như thể chưa từng được gọi trước đó, chưa từng nghe âm thanh đó...". Đây
chính là chất thơ của truyện, chất thơ của cổ tích tình người giữa thế giới đời thường.
Cách kể chuyện quyến rũ, dễ rung động lòng người của Nguyễn Ngọc Thuần còn thể hiện ở
những triết lí mà anh đã tài tình lồng ghép vào truyện. Những triết lí đó vang lên từ những phát
ngôn nhẹ nhàng, tự nhiên của bố, của mẹ mà kí ức tuổi thơ đã kịp thời ghi nhớ. Và đó thực sự là
những triết lí giàu chất thơ về cuộc sống, đặc biệt là về tình thương. Với những triết lí ấy, nhà văn
đã cụ thể hóa những vấn đề trừu tượng, khó hiểu, liên quan đến tâm linh con người. Ví dụ:

91
"Nỗi buồn chỉ vơi đi bằng tình thương chứ không có một phương thuốc nào hết. Khi chia sẻ
nỗi buồn chúng ta sẽ không buồn hơn nhưng người khác sẽ vui hơn" (tr.263).
"Âm nhạc chính là bà mẹ vĩnh cửu" (tr.277).
"Khi nhìn theo bóng một người mà ta không thể quên được, chúng ta sẽ thấy nỗi nhớ của
mình" (tr.285).
"Khi một người yêu thương của ta ra đi, cũng giống như chúng ta cắt lìa khoảng trời trong trái
tim mình. Đó là khoảng trời rất rộng mà chúng ta hít thở từng ngày" (tr.303).
"Người sống là một âm thanh nên khi sống người ta sẽ gây tiếng vang bằng chính cuộc sống
của mình" (tr.311).
v.v...
Ở những câu văn này, chúng ta ghi nhận tài năng của Nguyễn Ngọc Thuần khi anh đã có
những triết lí khác lạ, mới mẻ về những điều xưa cũ.
Cách xây dựng không gian nghệ thuật cũng là một mắc xích quan trọng của truyện dài này.
Trong tác phẩm, nhân vật chính được đặt trong nhiều mối quan hệ, nhiều không gian. Từ những
không gian này, nhân vật đã bộc lộ tất cả mọi ngóc ngách của thế giới tâm hồn. Nguyễn Ngọc
Thuần chuyên tâm xây dựng những không gian bình dị, gần gũi như: Không gian gia đình, khu
vườn, lớp học, cái sạp cũ ở góc chợ, nhà hộ sinh, nhà thờ... Mỗi không gian đều chứa đựng một bí
mật tuổi thơ. Gia đình là nơi có người bố tuyệt vời, người mà trong những ngày đầu con chào đời đã
phải tập đi thật nhẹ chân để nâng niu giấc ngủ trẻ thơ, những giấc ngủ đẹp như cánh đồng. Và ở đó
còn có những trò chơi hấp dẫn của Dũng và chú Hùng vào mỗi buổi sáng thức giấc. Mái trường là
nơi bạn bè tình nguyện làm người lạ mặt để lặng lẽ trao cho nhau những món quà tình thân. Cái sạp
cũ là nơi ông lão mù ăn xin cùng đứa cháu nhỏ của mình nuôi dưỡng giấc mơ về một khu vườn...
Từng ngày nắng, từng ngày mưa, cửa sổ tâm hồn Dũng không ngừng mở ra để khám phá thế giới,
để ghi nhớ từng rẻo đất. Khu vườn chính là hình ảnh thu nhỏ, là món quà bất tận dành tặng cho tuổi
thơ. Khu vườn ấy ngút ngàn màu sắc của sương mai, của nắng sớm, sắc màu huyền diệu của vì sao
đêm và cả những hương thơm của hoa cỏ, những nhịp thở của cây trong đêm tối. Vai trò dẫn lối,
đưa đường của những bông hoa cũng hình thành từ đó. Bên cạnh đó, có lúc nhà văn còn để cho
nhân vật phiêu lưu vào một không gian xa lạ hơn nhưng kết cục là nhân vật đã gặp phải rất nhiều
khó khăn trong môi trường ấy (Một ngày kinh hoàng). Không gian mưa kéo đến đồng loã với bóng
tối che lấp con đường về nhà. Nước mắt Dũng đã chảy dài trên lưng những người bạn trong nỗi nhớ
khu vườn, nỗi lo sợ mình sẽ thành con ma. Chính lúc này, Dũng mới cảm thấu sâu hơn tình yêu
máu thịt dành cho khu vườn, nơi đó có bố mẹ, làng mạc, có những gì thân quen.
Ngoài ra, truyện còn hấp dẫn người đọc bởi những không gian mang đầy tâm cảm. Lúc này,
những hình tượng nghệ thuật nhiều khi vô hình trung lại trở thành những không gian đầy ám gợi.
Mái tóc người mẹ, chiếc đàn pianô của bà ma xơ, góc tối trong kẹt tủ... là những không gian như
thế. Người mẹ gần như đã gửi hết mọi tâm tư vào khoảng không gian sâu thẳm của mái tóc. "Ngày
bí mật" - ngày cô Hồng sinh em bé bị thiếu tháng, mái tóc ấy trở nên đen đúa, từng sợi bay lất phất
như một bóng ma. Đặc tả không gian ấy chính là tác giả đã dự cảm được những nỗi buồn, những bất
hạnh của cuộc đời. Trong truyện, tác giả nhắc đi nhắc lại nhiều lần hình ảnh người mẹ quay về với
không gian mái tóc - khoảng lặng riêng của nhân vật. Mẹ gửi vào không gian ấy những đợi chờ khi
bố đi làm chưa về. Những lúc tâm trạng rối bời mẹ cũng lấy lược gỡ tóc như đang muốn gỡ rối tơ
lòng. Khi ngày mưa kéo dài lê thê và buồn bã đến, hành động chải tóc lại diễn ra như là sự kiếm tìm
niềm vui trong những khoảnh khắc buồn.
92
Chiếc đàn pianô của ma xơ Hiền là không gian u uẩn, lắng sâu. Bàn tay thon gầy của ma xơ
đã đánh thức từ những phím ngà những bài hát gợi nhớ tuổi thơ. Đã có lúc nhân vật Tôi tưởng như
có những nguồn sáng lạ lùng đang phát ra từ không gian ấy. Đơn giản bởi chiếc đàn ấy là nơi ma xơ
Hiền gửi gắm tâm sự của mình về cuộc đời. Vì thế mà khi ma xơ Hiền mất, cây đàn chỉ nằm im lìm
dưới bụi bặm và những bài hát thì lặng lẽ trong giấc ngủ mê.
Không gian bóng tối là không gian mà nhân vật Tôi luôn đi tìm. Từ những không gian rộng,
nhân vật lui về không gian hẹp của kẹt tủ, hốc tường để tâm tình, tự vấn và phát giác ra nhiều quan
niệm mới. Nhân vật Tôi quan niệm rằng, trong bóng tối nhìn mà cứ như không nhìn. Bởi đó là lúc
nhân vật cảm nhận thế giới không phải bằng trực giác thông thường mà bằng chính khả năng tưởng
tượng, bằng sự lắng đọng của tâm hồn. Đặc biệt hơn, "trong bóng tối sẽ không ai có thể nhìn thấy
khuôn mặt của tôi". Nhờ đó mà nhân vật dễ dàng hòa tan mình vào thế giới để tự do bay bổng và
phiêu du trong thế giới tưởng tượng. Trong bóng tối ấy, nhân vật Tôi đã có cơ hội đối diện với
những nỗi buồn thơ dại - những nỗi buồn nho nhỏ khi chọc ghẹo thằng cháu ông ăn xin. Cũng trong
không gian ấy, những nỗi nhớ và hoài niệm ngày xưa đã ùa về, bủa vây nhân vật. "Buổi chiều hôm
ấy, tôi chui vào góc tối của mình. Chưa bao giờ tôi nhớ nó đến thế. Tôi nhớ năm nọ nó rớt xuống
sông bố vớt nó lên và nó đã mang đến những trái ổi chín...".
Trong tác phẩm, khuynh hướng không gian hóa thời gian cũng xuất hiện. Những ngày mưa
thực chất là thời gian. Nhưng mưa ở đây còn là không gian. Nhà văn đã để cho nhân vật bày tỏ cách
nhìn của mình về không gian này. Người mẹ của nhân vật Tôi đã nói rằng, vào những ngày mưa nỗi
buồn bao giờ cũng nhiều hơn ngày nắng, nhất là những ngày mưa kéo dài. Trong không gian trữ
tình gợi buồn ấy, hình tượng nghệ thuật đã vận động với bao nỗi niềm tâm trạng. Khuôn mặt người
mẹ đã buồn buồn khi giấu đi những sợi tóc rụng. Tiếng đàn của ma xơ Hiền hay hơn, say mê hơn
trong những ngày mưa kéo dài lê thê. Cái khoảng trắng của những cơn mưa đêm ồ ạt, ẩm thấp, lạnh
lẽo cũng đã làm "biến đổi cả một khoảng trời trong giấc ngủ tôi". Chính vì đặc trưng thẩm mĩ tiền
định ấy mà mưa nhiều khi lại là điềm báo cho những bất hạnh. Trước ngày bi kịch xảy ra với thằng
Tí, mưa đã rả rích trên khu vườn tối om. Hơi lạnh của mưa đã vỗ vào mặt Dũng như một bàn tay vô
hình bằng nước đá, tạo nên cơn rùng mình ớn lạnh và đẩy nhân vật vào giấc mơ hãi hùng về con rắn
hai đầu.
Nguyễn Ngọc Thuần là nhà văn luôn được bạn đọc nhớ đến bởi những tên truyện đầy chất
thơ. Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ cũng là một tựa đề như thế. Chất thơ ấy từ tên tác phẩm chảy vào
tựa đề nhỏ của mỗi chương, đưa đến cho người đọc những ấn tượng ban đầu đầy mĩ cảm. Chúng ta
dễ dàng liệt kê ra những tựa đề như thế: Những âm thanh đẹp nhất, Tình yêu, Thương nhớ ngón tay,
Những ngày mưa, Ngày bí mật, Người khách lạ đến viếng khu vườn... Những tựa đề ấy như những
nốt nhạc dạo đầu rất ngọt ngào của bản thánh ca về tuổi thơ, mời gọi người đọc vào tác phẩm để đi
đến tận cùng mọi giai điệu. Câu chuyện được trần thuật theo ngôi thứ nhất. Ngôi trần thuật ấy được
định vị trực tiếp ngay ở những dòng mở đầu của tác phẩm: "Năm nay tôi mười tuổi". Người kể
chuyện cũng đồng thời là nhân vật nên màu sắc chủ quan chi phối nhiều đến hệ thống tình tiết
truyện. Nhưng đó cũng chính là một điểm nhìn rất khách quan. Mọi điều đều được nhìn nhận và lí
giải theo con mắt, theo tấm lòng của trẻ thơ nên đã tạo ra một thế giới nghệ thuật chân thực, trong
veo, ấm áp như những giấc mơ. "Bạn hãy tưởng tượng, một buổi sáng mờ sương. Bạn vừa nhắm
mắt vừa mở cửa sổ, và bạn chợt hiểu khu vườn nói gì. Bạn hiểu bây giờ là mùa gì và bông hoa nào
đang nở, tên gì. Từng tiếng bước chân trong vườn, bạn biết chính xác người có bước chân đó cách
xa bạn bao nhiêu mét..." (tr.208). Mọi điều kì diệu đã đến, dẫu nhân vật "vừa nhắm mắt vừa mở cửa

93
sổ". Nhan đề ấy đã hé lộ cho chúng ta biết con đường nhận thức thế giới rất ngây thơ, tinh khiết và
rất thú vị của trẻ. Đó là cách lắng đọng tâm hồn, mài sắc thính giác, phát huy cao độ trí tưởng tượng
trong sáng để cảm nhận thế giới ở nhiều giác độ. Con đường ấy sẽ dẫn lối đưa ta đến với bức tranh
phong phú, đa diện của hiện thực - bức tranh mà nếu chỉ nhìn thôi, chỉ dựa vào thị giác thôi thì
chúng ta không nắm bắt được tầng sâu của nó.
6.3.2. Kết cấu truyện ngụ ngôn Thầy bói xem voi
Ngụ ngôn là trong những thể loại tự sự xuất hiện khá sớm, từ trước công nguyên. Đây là một
hình thức truyện kể bằng văn vần hay văn xuôi. Ở đó, người ta mượn câu chuyện thường là về loài
vật để gửi thác một bài học về đạo đức, kinh nghiệm sống hoặc một điều răn dạy có tính chất triết lí
về nhân sinh, thế sự.
Có ý kiến cho rằng, phân tích một tác phẩm văn học dân gian tức là phân tích các dị bản của
nó (Trần Đình Sử, Đỗ Bình Trị, Văn học 1, Hà Nội, 1993). Phân tích các dị bản để thấy những thay
đổi về kết cấu nghệ thuật dưới quy chiếu của cá tính sáng tạo, của màu sắc văn hóa địa phương, của
cơ sở lịch sử xã hội... Ý kiến đó là điểm tựa để chúng ta tiến hành hoạt động so sánh, đối chiếu
truyện Thầy bói xem voi với truyện Con voi và bốn người mù.
Ngụ ngôn là một thể văn vừa có tính chất chính luận vừa có tính chất nghệ thuật. Bởi lẽ đây là
sự truyền đạt những điều luân lí, giáo huấn thông qua con đường hình tượng, được tổ chức với một
kết cấu nghệ thuật. Con voi và bốn anh mù là sản phẩm nghệ thuật của quê hương các học thuyết
tôn giáo và triết học cổ đại và cũng là nơi phát tích những ngụ ngôn nổi tiếng. So sánh, đối chiếu
truyện ngụ ngôn này với Thầy bói xem voi ở một số phương diện thuộc kết cấu nghệ thuật tác phẩm,
ta thấy thường thì nhân vật chính trong truyện ngụ ngôn là loài vật. Aristote chỉ thừa nhận các con
vật là nhân vật của truyện ngụ ngôn. Ông viết: "Nhưng dù thế nào, ngụ ngôn cũng chuyên riêng về
những loài cầm thú, côn trùng, lấy các loại ấy làm "chủ động" ra đóng các vai mà ra trò. Có thế
ngụ ngôn mới thành đặc tính, mới không lẫn lộn với những truyện cổ tích giải buồn, những truyện
tiếu lâm, khôi hài cùng những nhời bóng gió xa xôi khác...". Nhưng ở hai truyện này, các tác giả
dân gian đều mượn chính con người để gá gửi ý tưởng ngụ ngôn. Lấy những con người cùng chung
một khuyết tật bẩm sinh là mù, tác giả dân gian muốn xem đó là ẩn dụ cho hạng người không có
khả năng nhìn nhận, khám phá sự vật, hiện tượng. Tuy nhiên, trong khi truyện ngụ ngôn Thầy bói
xem voi viết về bốn ông thầy bói mù thì truyện Con voi và bốn anh mù giới hạn đối tượng thẩm mĩ
trong bốn anh mù. Như vậy, đối tượng thẩm mĩ của hai truyện ban đầu đã có sự khác biệt. Điều này
nói lên sự khác nhau trong đối tượng gá gửi ý tưởng ngụ ngôn. Chọn đối tượng là những ông thầy
bói, truyện ngụ ngôn Thầy bói xem voi muốn hướng đến một trong những lực lượng đại diện cho
văn hóa phong kiến Việt Nam.
Xem xét tình huống truyện chúng ta thấy cả hai truyện đều gặp nhau trong lõi sự kiện là
những người mù xem voi. Ý nghĩa của sự kiện ấy cũng không thay đổi ở hai tác phẩm khi cả hai tác
phẩm đều hướng đến một thông điệp, đó là không nên đánh giá sự vật từ những hiện tượng riêng lẻ
mà phải nhìn sự vật trong tính chỉnh thể của nó. Hai truyện trên đều phản ánh xung đột điển hình
của truyện ngụ ngôn, đó là xung đột giữa cái đúng với cái sai, giữa chân lí và ngụy lí. Mỗi ông thầy
bói đã có cách nhìn rất chính xác, thậm chí đã nói rất hình tượng về mỗi bộ phận của con voi. Tuy
nhiên họ đều sai lầm khi lấy cách nhìn riêng lẻ ấy để khái quát lên thành bản chất của sự vật. Xung
đột này mang ý nghĩa xã hội sâu sắc vì nó liên quan đến con đường nhận thức của con người. Đỗ
Bình Trị cho rằng: "Hiện tượng Thầy bói xem voi là hiện tượng sờ vào thực tế mà không nắm được
94
thực tế do sai lầm về phương pháp nhận thức, phương pháp suy nghĩ. Ai dám bảo loại sai lầm ấy là
của riêng ai?"
Truyện ngụ ngôn Con voi và bốn người mù kết thúc bằng câu văn: "Thế là cả bốn người mù
đều bị nhầm lại ba hoa với nhau. Tuy vậy mỗi người đã nói được một phần sự thật. Ai biết ngần
nào thì nói ngần ấy". Truyện Thầy bói xem voi khép lại câu chuyện với cảnh tượng bốn ông thầy
bói không ai chịu ai, thành ra xô xát, đánh nhau toạc đầu chảy máu. Một đằng là triết lí mà người kể
chuyện khách quan đưa ra, một đằng là hành động của nhân vật. Một đằng khắc sâu hơn trên bề mặt
văn bản thông điệp thẩm mĩ của tác phẩm, một đằng lại che giấu ý tưởng dưới hành động nhân vật.
Khó có thể nói được cái kết nào sâu sắc hơn cái kết nào. Kết thúc truyện Con voi và bốn người mù
phản ánh đúng đặc trưng văn học Ấn Độ, một nền văn học đằm sâu, thâm trầm trong những triết lí.
Còn truyện ngụ ngôn Thầy bói xem voi lại ít nhiều mang đặc điểm thi pháp truyện cười. Cách kết
thúc như thế đã tạo nên tiếng cười thú vị cho người đọc, vì thế bài học đạo đức không trở nên cứng
nhắc mà tìm được lối đi nhanh chóng vào tâm hồn người đọc.
Nhìn chung cả hai truyện đều có kết cấu điển hình của một ngụ ngôn, rất ngắn gọn, hàm súc.
Nhưng Con voi và bốn người mù thuộc kiểu truyện ngụ ý được diễn tả bằng lời. Còn Thầy bói xem
voi là truyện mà ngụ ý không được diễn tả bằng lời.
Từ sự đối sánh trên có thể thấy rằng, Thầy bói xem voi đã bước chân sang địa hạt truyện ngụ
ngôn bác học. Bởi lẽ, dẫu bản chất của truyện ngụ ngôn là tính triết lí, nhưng đề cập đến những vấn
đề thuộc lĩnh vực phương pháp tư duy lại là vấn đề thuộc phạm vi của triết học, còn xa lạ với lối tư
duy theo kinh nghiệm thực tế của người bình dân. Câu chuyện này đã thiên về biểu đạt những tư
tưởng đượm màu sắc triết học. Chính vì lí do này nên tư duy trẻ thơ khó nắm bắt được ý nghĩa câu
chuyện. Tác phẩm này là một điển hình cho kết cấu của truyện ngụ ngôn. Truyện ngụ ngôn không
phải là truyện kể về số phận của một nhân vật. Truyện chỉ nêu ra một tình huống, một hoàn cảnh,
trong đó diễn ra một hành động của một hay một số nhân vật nhằm minh họa cho một bài học nào
đó. Chính vì thế mà dung lượng của ngụ ngôn không dài. Xung đột truyện chỉ diễn ra trong một
hành động và chủ yếu qua tranh biện về lí lẽ mà thôi. Xét về kết cấu, truyện ngụ ngôn thường có 2
phần: Phần thứ nhất truyền đạt một hiện tượng, một nhân vật hay một sự kiện buồn cười; phần thứ
hai là những bài học đạo đức được rút ra qua các tác phẩm. Kết cấu này được La Phôngten diễn đạt
cách khác, ông cho rằng truyện ngụ ngôn bao gồm phần xác (câu chuyện kể) và phần hồn (bài học
luân lí). Thông thường, bài học luân lí chỉ ngụ trong câu chuyện kể, tựa như hồn phải gửi vào xác.
Thầy bói xem voi là tác phẩm như vậy.
6.3.3. Kết cấu bài thơ Nói với em
Kết cấu của một bài thơ trữ tình là sự tổ chức, triển khai tứ thơ, là sự "phô diễn dòng ý thức
đang vận động, suy tư". Kết cấu của bài thơ Nói với em cũng gắn với sự vận động về xúc cảm, nhận
thức của nhân vật trữ tình. "Nếu nhắm mắt" là một giả thiết thú vị mà tác giả đặt ra cho nhân vật trữ
tình. Nhắm mắt để có thể tập trung tâm trí, phát huy tối đa trí tưởng tượng, để tâm hồn thật nhẹ
nhàng, thật rộng mở và để mình có cơ hội nhìn thật sâu vào chính cõi lòng. Và hệ quả của nó thật là
thú vị. Ở khổ một, tác giả đặt trẻ thơ vào trong một thế giới trong veo, thanh bình, đầy âm sắc của
thiên nhiên kì diệu. Từ láy tượng thanh "lích rích" chính là điểm sáng thẩm mĩ của khổ thơ này.
Cũng là giả thiết đó, nhưng sang khổ thứ hai hệ quả đã thay đổi. Thế giới diệu kì của thiên nhiên đã
nhường chỗ cho một không gian cổ tích thần kì của con người. Những điều em không nhìn được
trong thực tế thì nay đã ùa về trong giấc mơ em với những bà tiên hiền hậu, với cô Tấm dịu dàng

95
trong đôi hài bảy dặm và trong quả thị thơm ngát... Tâm điểm của sự đổi thay nằm ở khổ thơ cuối.
Có thể nói khổ cuối là một gấp khúc bất ngờ trong kết cấu tác phẩm. Hai khổ thơ đầu là hành trình
đi tìm cái mới lạ trong những thế giới thần tiên, kì diệu của thiên nhiên và con người. Khổ thơ cuối
lại là hành trình đi ngược vào tâm linh, vào nỗi nhớ để đến với không gian đời thường gần gũi.
Không gian nghệ thuật tiếp tục chuyển động nhưng là chuyển động ngược chiều về quá khứ. Cái mà
em nhìn được giờ đây không phải là những phép lạ trong thế giới cổ tích, không phải là khung cảnh
nên thơ, tươi vui của thiên nhiên nữa. Giờ là bóng dáng mẹ cha sớm khuya vất vả, tần tảo nuôi con
khôn lớn. Giờ là những yêu thương, chăm chút, những lo toan của người thân. Bức màn của thế giới
thần kì đã vụt mất, không gian thần tiên của ước vọng đã lùi xa, chỉ còn đó chân ảnh của cuộc sống
đời thường với bao âu lo và yêu mến.
Bài thơ gây ấn tượng bởi kết cấu trùng điệp. Liên tiếp ở ba khổ thơ, cấu trúc câu: "Nếu nhắm
mắt... Sẽ..." được lặp lại. Nhưng đó không phải là sự lặp lại giản đơn, không có giá trị nghệ thuật.
Cũng là cấu trúc ấy nhưng mỗi lần xuất hiện là một biến đổi, một ý tứ sâu xa. Giả thiết một "Nếu
nhắm mắt trong vườn lộng gió" ít nhiều có đề cập đến sự can thiệp của ngoại cảnh, cụ thể là của
khu vườn. Giả thiết hai "nếu nhắm mắt nghe bà kể chuyện" lại đặt ra vai trò và sự tác động của
người bà. Đến giả thiết cuối cùng thì chỉ còn là sự hiện diện của chủ thể, chỉ đơn thuần là sự vận
động của dòng ý thức chủ thể mà thôi. Sự thay đổi về giả thiết tất yếu sẽ đưa đến những hệ quả khác
biệt như đã nói ở trên. Tuy nhiên, với việc lặp lại cấu trúc này thì nhịp thơ đã có sự đều đặn, hài
hòa. Quá trình vận động của không gian nghệ thuật, của cảm xúc cũng vì thế mà có hình hài rõ nét.
Nhân vật trữ tình đã di chuyển qua rất nhiều không gian để khám phá, tìm hiểu thế giới. Cứ mỗi lần
nhắm mắt là mỗi lần được đối diện với không gian khác lạ. Ở hai lần trước, có cảm giác như nhân
vật trữ tình cố gắng níu giữ thật lâu những thời khắc diệu kì với những lần nhắm mắt để có thể bay
bổng, phiêu lưu đến với những miền đất cổ tích. Mọi sự hoàn toàn đổi khác ở khổ ba. Đây là hành
trình dịch chuyển từ nhận thức đến tự nhận thức. Bây giờ thì "mắt nhắm rồi lại mở ra ngay". Phải
"mở mắt" để nhìn thật rõ, thật lâu bóng hình thân yêu của mẹ cha, để góp một phần nhỏ bé công sức
làm vợi đi nỗi vất vả, khó nhọc đang đè nặng trên đôi vai những người em thương yêu. Câu thơ kết
là một điểm nhấn thẩm mĩ của bài thơ. Ở đây, kết cấu đòn bẩy đã phát huy tác dụng của mình. Hai
khổ thơ đầu chỉ làm nền, làm điểm tựa cho sự thăng hoa của ý thơ khổ cuối mà thôi. Mọi sức nặng
nghệ thuật, những bí mật của thông điệp thẩm mĩ đã lắng đọng rất sâu trong khổ thơ cuối cùng. Đó
cũng chính là ranh giới giá trị của không gian nghệ thuật trong bài thơ.
Không sử dụng nhiều đến các biện pháp tu từ, bài thơ đi vào lòng người bằng sự chân thành
của cảm xúc. "Nói với em" rất nhiều nhưng kì thực chỉ muốn nhắn nhủ rằng: Cuộc đời này có rất
nhiều điều hấp dẫn và kì diệu, nhưng không gì ấm áp và cao đẹp hơn tình thương của mẹ cha. Vì
thế, em phải biết nâng niu điều kì diệu ấy bằng sự trân trọng, bằng lòng biết ơn và bằng cả những
hành động thiết thực nữa. Đó chính là thông điệp thẩm mĩ mà Vũ Quần Phương đã gửi đến bạn đọc
nhỏ tuổi.

HƯỚNG DẪN HỌC TẬP CHƯƠNG 6

I. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG


Xác định được khái niệm kết cấu và vai trò của kết cấu trong cấu trúc văn bản nghệ thuật, từ
đó vận dụng lí thuyết để xác định, phân tích nghệ thuật xây dựng kết cấu trong văn học thiếu nhi..
II. CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP THỰC HÀNH
96
1. Phân biệt tác phẩm trữ tình và tác phẩm tự sự ở góc độ kết cấu.
2. Nêu những sự kiện lớn gắn với quá trình phát triển tính cách của Dế Mèn trong tác phẩm
Dế Mèn phiêu lưu kí.
3. "Nguyễn Ngọc Thuần đã chọn thi pháp cổ tích cho những trang văn xuôi của anh" (Nguyễn
Thị Minh Thái). Hãy phân tích kết cấu tác phẩm Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ để làm sáng rõ nhận
định ấy.
4. Phân tích kết cấu bài thơ sau:

LUỸ TRE
Mỗi sớm mai thức dậy
Lũy tre xanh rì rào
Ngọn tre cong gọng vó
Kéo mặt trời lên cao.
Những trưa đồng đầy nắng,
Trâu nằm nhai bóng râm,
Tre bần thần nhớ gió
Chợt về đầy tiếng chim.
Mặt trời xuống núi ngủ
Tre nâng vầng trăng lên
Sao, sao treo đầy cành
Suốt đêm dài thắp sáng.

Bỗng gà lên tiếng gáy


Xôn xao ngoài lũy tre
Đêm chuyển dần về sáng
Mầm măng đợi nắng về.
Nguyễn Công Dương

III. GỢI Ý GIẢI BÀI TẬP


1. Phân biệt tác phẩm trữ tình và tác phẩm tự sự ở góc độ kết cấu
- Tác phẩm tự sự được đặc trưng bởi hệ thống sự kiện. Còn tác phẩm trữ tình lại là sự tổ chức
hệ thống cảm xúc. Tác phẩm trữ tình cũng hình thành trên cơ sở các sự kiện nhất định nhưng chủ yếu
là để khai thác cảm xúc, suy nghĩ của con người trước những sự kiện đó. Nói cách khác, trong kết cấu
trữ tình, chức năng của hệ thống sự kiện chủ yếu chỉ là cái cớ để chủ thể bộc lộ cảm xúc và suy tưởng
của mình.
- Tự sự là phương thức tái hiện đời sống của văn học trong toàn bộ tính khách quan. Vì thế,
kết cấu tự sự phong phú hơn về hệ thống nhân vật nhằm thể hiện bức tranh cụ thể về cuộc sống và
số phận con người. Tác phẩm trữ tình với mục đích đi vào thế giới chủ quan của con người cho nên
không xây dựng nhân vật cụ thể về diện mạo, hành động, lời nói...
- Nguyên tắc tái hiện đời sống trong tính chủ quan đã đặt cái tôi tự biểu hiện của tác phẩm trữ
tình vào vị trí trung tâm của kết cấu nghệ thuật và chi phối các bình diện khác. Do đó, ngôn ngữ

97
trong tác phẩm trữ tình không mang tính khách quan như tác phẩm tự sự. Lời thơ chỉ là lời đánh giá
và thể hiện trực tiếp quan hệ và cách nhìn của chủ thể trước cuộc đời. Còn ngôn ngữ của tác phẩm
tự sự lại là lời miêu tả, trần thuật nhằm hướng người đọc ra thế giới tồn tại bên ngoài nhà văn,
không phụ thuộc vào ý muốn, tình cảm của nhà văn.
2. Những sự kiện lớn gắn với quá trình phát triển tính cách của Dế Mèn trong tác phẩm Dế
Mèn phiêu lưu kí của Tô Hoài
- Cái chết của Dế Choắt là sự kiện đánh dấu sự ngông nghênh, tự đắc, hung hăng của Mèn.
Cái chết ấy cũng đưa đến cho nhân vật những ăn năn, hối hận. Bài học đường đời đầu tiên cũng
được mở ra từ đó.
- Cuộc gặp gỡ với bác Xiến tóc cùng với việc bị xén cụt một sợi râu mượt óng trên đầu đã đưa
đến cho Mèn "bài học mới vừa đắt vừa đau". Nhờ đó mà Mèn tỉnh ngộ, mới nhận ra thân phận của
một kẻ đi đánh thuê để làm trò cười cho thiên hạ, mới thoát ra khỏi giấc mê cuộc đời. Nói cách
khác, từ cuộc gặp gỡ ấy, Mèn đã lột xác về thể chất lẫn tinh thần để trở thành một Dế Mèn mới.
- Hành động Mèn ra tay bảo vệ cô Nhà Trò yếu ớt trước vòng vây của bọn Nhện ăn thịt ghi
nhận bước phát triển mới về tính cách của nhân vật này. Mèn đã rất hoan hỉ vì "đã làm được việc
đầu tiên có ích trong đời ". Một lẽ sống mới đã hình thành trong nhân vật, khi Mèn dõng dạc tuyên
bố với bọn Nhện: "Ở đời, thù hằn, độc ác làm gì". Kể từ sự kiện này trở đi thì Mèn đã rong ruổi trên
bước đường phiêu lưu và hình thành những nhân cách mới: Khát khao khám phá, trọng nghĩa tình,
khinh danh lợi...
3. Nguyễn Thị Minh Thái đã nhận xét rằng: "Nguyễn Ngọc Thuần đã chọn thi pháp cổ tích
cho những trang văn xuôi của anh". Thực ra tác phẩm này không phải là minh chứng rõ nét nhất
cho thi pháp cổ tích trong văn xuôi Nguyễn Ngọc Thuần như Một thiên nằm mộng. Tuy nhiên, dấu
ấn của thi pháp cổ tích vẫn để lại ở bình diện kết cấu. Cậu bé Dũng dẫu đứng trên mảnh đất của
hiện thực nhưng luôn thả mình trong tư duy huyền thoại. Nhân vật luôn hướng đến mọi hiện tượng
với cái nhìn bí ẩn, thần kì. Nhà thờ trong mắt Dũng cũng là một lâu đài bỏ hoang trong truyện cổ
tích. Dẫu mọi ngóc ngách bên trong nhà thờ này Dũng đều biết cả nhưng em vẫn thấy có những
điều bí ẩn mà mình phải khám phá. Một bông hoa mới xuất hiện trong khu vườn cũng gây cho nhân
vật cảm giác "ai đó đã ghé khu vườn lúc tôi đang ngủ. Họ chờ mãi không được đành gieo mầm hoa
xuống đất rồi bỏ đi mà không kịp gởi gắm hãy chăm sóc giùm tôi, hãy tưới nước ngày ba lần". Câu
chuyện vì thế mà luôn tồn tại ý niệm về những yếu tố thần kì như: Con mắt thần, con chim thần,
con rắn hai đầu...
Chính tư duy huyền thoại ấy mà thiên truyện đã xuất hiện không gian của những giấc mơ.
"Tôi cũng hay tưởng tượng mình sẽ mọc cánh, những cái cánh dài vừa vặn với thân thể tôi. Một
buổi chiều đầy gió tôi bay về phía cuối bầu trời. Nơi đó có những đám mây mang gương mặt của bé
Thương... Hàng đêm đôi cánh vẫn mọc dài và ngúc ngoắc. Trong những giấc mơ lơ đãng, tôi cũng
có một đôi cánh khác. Đó là đôi cánh mềm và trong suốt đưa tôi đi". Với nhân vật, giấc mơ ấy là
không gian thuận lợi để thực hiện những ước mơ tuổi thơ. Ước mơ được bay đến những miền xa
khác ngoài khu vườn và cả ước mơ gặp lại những gương mặt thân yêu đã mất. Chính vì thế mà nhân
vật tôi luôn "tưởng tượng mình là một cái ông gì đó trong câu chuyện cổ của mẹ, lên động tiên chỉ
nhờ giấc mơ".
Cũng có lúc truyện xuất hiện kết cấu truyện lồng truyện. Giữa dòng tự thuật của nhân vật tôi
xuất hiện lồng vào những câu chuyện cổ tích mà người mẹ đã kể. Câu chuyện cổ tích về con rắn hai
98
đầu ở trong những hang đá tối của những ngọn núi cao với một đầu thức một đầu ngủ, câu chuyện về
đàn ngựa bay đêm qua núi đồi, trên mình chúng là những kị sĩ mặc áo giáp, nút khuy đồng lóe sáng
ngang dọc những đường gấp khúc như một đêm sao sa hỗn loạn... Tất cả đã làm nên những khoảng
huyền thoại lấp lánh, rất hấp dẫn cho thiên truyện này.
4. Kết cấu bài thơ Lũy tre
- Chú ý đến cách tổ chức hình tượng thơ theo sự vận động của thời gian, từ sớm mai, buổi trưa,
chiều tối và đến lúc đêm chuyển dần về sáng. Ở mỗi thời điểm, lũy tre xuất hiện với những dạng thái
khác nhau.
- Bên cạnh đó cần quan tâm đến cách tổ chức ngôn ngữ thơ và hình tượng thơ độc đáo trong
tác phẩm như: Trâu nằm nhai bóng râm, Tre nâng vầng trăng lên/ Sao, sao treo đầy cành. Đó là
những hình ảnh thơ có hồn và đầy sức gợi, làm nên giá trị cho bài thơ.
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Đăng Dư - Lưu Lê Oanh, Giáo trình Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1997.
2. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi, Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục,
Hà Nội, 1997.
3. Trần Hoàng, Hướng dẫn học tập - Tư liệu tham khảo văn học dân gian và thi pháp văn học dân
gian, Nxb Đà Nẵng, 2005 (Chương bốn).
4. Trần Đình Sử, Giáo trình Dẫn luận thi pháp học. Nxb Giáo dục. Hà Nội 1998. (Chương
chín).
5. Nguyễn Ngọc Thuần, Cha và con và... tàu bay, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2005.
Học viên tìm đọc các bài: "Nhân vật" của tôi (Văn Trọng); Văn học thiếu nhi và việc xây
dựng con người mới; Nhịp điệu trong thơ thiếu nhi (Bùi Công Hùng); Đất nước, Bác Hồ, anh bộ
đội và các em (Văn Hồng); Thế giới loài vật và cỏ cây trong thơ Võ Quảng (Ngô Quân Miện); Từ
bài đến chi tiết (Chế Lan Viên) (Tập 1); Mỗi truyện có nhiều truyện (Nguyễn Đức Dân); Nhân vật
thiếu niên, nhi đồng trong di sản kịch truyền thống (Tất Thắng); Nhân vật trẻ thơ trong sáng tác
của Nam Cao (Bích Thu) v.v... (Trong Văn học thiếu nhi Việt Nam (Nghiên cứu, lí luận, phê bình,
tiểu luận - tư liệu) (Vân Thanh biên soạn); tập 2, Nxb.Kim Đồng, Hà Nội, 2003).

99
Chương 7
NGÔN TỪ NGHỆ THUẬT TRONG VĂN HỌC THIẾU NHI

7.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGÔN TỪ NGHỆ THUẬT


7.1.1. Khái niệm ngôn từ nghệ thuật
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người. Chúng ta sử dụng ngôn
ngữ cùng với các phương tiện phi ngôn ngữ như ánh mắt, nét mặt, cử chỉ, điệu bộ trong cuộc sống
hàng ngày để truyền đạt thông tin, cảm xúc, để phá vỡ khoảng yên lặng giữa con người với con
người và vạn vật xung quanh.
Ngôn từ nghệ thuật, xét trên bình diện rộng, là ngôn ngữ của các ngành nghệ thuật, trong đó có
văn học. Song, ở một góc độ nào đấy, ngôn từ nghệ thuật được hiểu trong phạm vi hẹp là ngôn ngữ
văn chương, được dùng trong các văn bản văn chương, có chức năng thẩm mĩ - tức đáp ứng nhu cầu
thẩm mĩ của con người bằng chính ngôn ngữ.
Ngôn từ nghệ thuật là một hiện tượng nghệ thuật do nghệ sĩ sáng tạo theo quy luật chung của
nghệ thuật. Điều này cũng nhằm khẳng định sự khác biệt về bản chất giữa ngôn từ nghệ thuật và
ngôn ngữ nói chung - mặc dù “văn học là nghệ thuật của ngôn từ”, văn học sử dụng ngôn ngữ, lấy
ngôn ngữ làm chất liệu để dệt nên hình tượng, để sáng tạo và thụ cảm. Đồng thời với việc sử dụng,
người nghệ sĩ cũng gia công ngôn ngữ để biến nó thành phương tiện biểu hiện nghệ thuật có hiệu
quả cao. Từ “quặng ngôn ngữ”, người sáng tác tôi luyện, gọt giũa để có được chất liệu cho hành
trình sáng tạo và thể nghiệm. Có thể nói, ngôn từ nghệ thuật là ngôn từ được lựa chọn và xử lí một
cách tinh tế. Điều này phần nào được thể hiện trong một ý thơ nói về công việc của người “luyện
đan ngôn từ”:
Nhà thơ như ong biến trăm hoa thành một mật
Một giọt mật thành, đời vạn chuyến ong bay.
Ngôn từ nghệ thuật được lấy từ chính cuộc sống nhưng khi đi vào tác phẩm, chúng mang
những đặc trưng của một loại hình kí hiệu đặc biệt. Và nếu ngôn từ hàng ngày trong đời sống phụ
thuộc vào ngữ cảnh trực tiếp thì ngôn từ nghệ thuật dựa vào nguyên tắc thủ tiêu đặc trưng trực tiếp
của ngữ cảnh. Lúc này, ngôn từ nghệ thuật chỉ có ngữ cảnh thời đại, ngữ cảnh văn hoá, ngữ cảnh
nội tại của chính nó.
7.1.2. Đặc trưng cơ bản của ngôn từ nghệ thuật
7.1.2.1. Những đặc trưng chung
Ngôn từ nghệ thuật - cũng như ngôn ngữ tự nhiên, đời thường, ngôn ngữ văn bản phi nghệ
thuật khác - đều có những đặc điểm chung như tính hình tượng, tính cụ thể, gợi cảm, tính cá thể
hoá, tình hàm súc, tính chính xác, tính đa nghĩa, tính tạo hình, tính nhịp điệu... V. Scơlôpxki
còn đề xuất thêm về tính lạ hoá, còn R. Jakobson thì xuất phát từ các chức năng giao tiếp mà xác
định tính thơ trong ngôn từ thơ... Song, cần phải hiểu đặc trưng ngôn từ nghệ thuật với một nội
dung sâu sắc hơn, gắn liền với đặc trưng phản ánh đời sống của văn học và nghệ thuật. Trên cơ sở
đó có thể xác định những đặc trưng cơ bản của ngôn từ nghệ thuật như sau:
- Đặc trưng thứ nhất: Tính hình tượng

100
Văn bản là một sản phẩm của một hoạt động giao tiếp đặc thù. Tính hình tượng của ngôn ngữ
trước hết phát sinh từ tính hình tượng của chủ thể lời nói được sáng tạo bằng tưởng tượng. Và do
vậy, tính hình tượng của bản thân ngôn từ nghệ thuật có những biến đổi về chất. Toàn bộ ngôn từ
đều là sản phẩm hư cấu cùng với chủ thể lời nói, là thứ ngôn từ miêu tả mà từ vần, nhịp, từ, câu và
tổ hợp trên câu đều có chức năng biểu diễn như diễn viên trên sân khấu nhằm tái hiện thực tại nghệ
thuật.
Tính hình tượng đặc trưng của ngôn từ nghệ thuật nằm sâu trong bản chất hình tượng của
sáng tác. Nói như Letxing, lời văn là lời của thế giới hình tượng muốn tự nói lên bằng ngôn từ và
hơn thế, ngôn từ trong nghệ thuật tự bản thân nó là một hình tượng của ngôn ngữ.
- Đặc trưng thứ hai: Tính tổ chức cao.
Tính tổ chức cao không phải là một độc quyền của ngôn từ nghệ thuật song đó là một đặc
trưng nổi bật, có ý nghĩa trong việc giải phóng tính hình tượng của từ. Lời văn nghệ thuật nói chung
không bao giờ chỉ thông báo giản đơn các việc xảy ra với nhân vật mà còn tái hiện cả một phức hợp
quan hệ chủ quan và khách quan trong sự kiện đó. Sự tổ chức ngôn từ tạo nên sự cân đối, hài hoà
cho tác phẩm, gia tăng sức biểu hiện và cao hơn, tạo ra những cách thức biểu đạt mới. Trong thơ,
tính tổ chức cao biểu hiện ở vần, nhịp, niêm, đối... Trong văn, đó là sự nối kết khéo léo các đơn vị
ngôn ngữ để tạo nên những chuỗi lời nhịp nhàng, có khi đẩy thành những đợt sóng cảm xúc trào
dâng. Trong Tôi đi học của Thanh Tịnh, đó là những dư vị ngọt ngào trở về vào mỗi độ thu sang:
“Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây
bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỉ niệm mơn man của buổi tựu trường.
Tôi quên sao được những cảm xúc trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi như mấy cánh hoa tươi
mỉm cười giữa bầu trời quang đãng...
Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi
trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tôi tự
nhiên thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn:
Hôm nay tôi đi học.”
Dòng thời gian chảy qua những kí ức êm ái của một khoảnh khắc quan trọng đầu đời nhân vật
trữ tình “tôi”. Nếu không quá chú ý tới một lớp tính từ chỉ xúc cảm như “nao nức”, “mơn man”,
“trong sáng”... thì chính cách chọn lựa về thời gian, chính sự “sắp xếp” đầy dụng ý những khoảng
nhớ, Thanh Tịnh đã kéo người đọc đi từ nao nức đến hồi hộp đợi chờ. Cuối cùng, khi những mảnh
ngôn từ được ráp lại hoàn chỉnh, trọn vẹn, bức thông điệp mới được hé mở: “Chính lòng tôi đang có
sự thay đổi lớn: Hôm nay tôi đi học”.
7.1.2.2. Ngôn từ nghệ thuật trong văn học thiếu nhi
Văn học thiếu nhi luôn là cuộc hành trình thi vị tìm về với ấu thơ, với những thanh âm trong
trẻo nhất, hồn nhiên nhất. Tính hình tượng, tính tổ chức cao hay cả tính lạ hoá, tính đa nghĩa... trong
các sáng tác dành cho trẻ mẫu giáo và học sinh tiểu học chính vì thế cũng có những dư vị riêng,
những biến điệu riêng.
Thơ, truyện viết cho thiếu nhi sử dụng một thứ ngôn từ rất chọn lọc, giản dị, trong sáng, dễ
hiểu và ngắn gọn... Bùi Công Hùng trong “Nhịp điệu thơ thiếu nhi” đã lí giải những điệu thơ trên cơ
sở nhịp điệu của hơi thở con người và cả của nhịp tim. Và do đó, những bài thơ dành cho trẻ thường
có những câu ngắn 4, 5 chữ, thậm chí là 2 đến 3 chữ, nhịp thơ cũng được ngắt nhiều lần trong một
câu:

101
... Tiếng gà
Giục quả na
Mở mắt
Tròn xoe
Giục hàng tre
Đâm măng
Nhọn hoắt
Giục buồng chuối
Thơm lừng
Trứng cuốc...
(Ò... ó... o..., Trần Đăng Khoa)
Sự nhịp nhàng còn thể hiện ở cách thức tổ chức câu, gieo vần, ở ngữ điệu đơn giản và một âm
sắc có chọn lọc. Những từ ngữ chỉ sự bừng tỉnh của vạn vật được đặt trong chuỗi ngôn từ tinh tế tạo
nên điểm nhấn cho thơ:
Mở mắt (tròn xoe)
(Đâm măng) nhọn hoắt
Thơm lừng (trứng cuốc)
... nảy mầm
... uốn câu
... ra đồng
... chạy trốn
Một đặc điểm nữa của ngôn từ trong văn học thiếu nhi là kết cấu ngôn ngữ trùng điệp được sử
dụng khá nhiều như chính một đặc điểm tâm lí trẻ: Thích nghe kể mãi một câu chuyện mà không
biết chán, đố nhau một câu dù ai cũng biết đáp án là gì... Trong văn (truyện), những câu dài cũng
thường được “tự động” chia cắt thành nhiều câu ngắn theo đúng lối nghĩ, lối nói của các em. Đối
với trẻ, hình thức hội thoại hình thành sớm hơn là độc thoại. Cho nên, văn cũng hướng tới những
cuộc trò chuyện giữa các nhân vật.
Trẻ rất hứng thú và dễ bị hấp dẫn bởi màu sắc, hình tượng và cũng đặc biệt thích tìm tòi,
khám phá. Văn học viết cho thiếu nhi đã lấp đầy những “cơn khát huyền diệu” đó bằng những từ
ngữ giàu màu sắc, lấp láy, tươi vui, đồng thời cũng mở ra chân trời của sự mới lạ qua phép so sánh,
nhân hoá trữ tình:
Trăng ơi... từ đâu đến?
Hay biển xanh diệu kì
Trăng tròn như mắt cá
Chẳng bao giờ chớp mi...

... Trăng bay như quả bóng


Đứa nào đá lên trời?
(Trăng ơi... từ đâu đến?, Trần Đăng Khoa)

Và: Cánh diều no gió


102
Sáo nó thổi vang
Sao trời trôi qua
Diều thành trăng vàng...

... Diều hay chiếc thuyền


Trôi bên sông Ngân...

Diều là hạt cau


Phơi trên nong trời...
... Diều em lưỡi liềm
Ai quên bỏ lại...

Cánh diều no gió


Nhạc trời réo vang
Tiếng diều xanh lúa
Uốn cong tre làng...
(Thả diều, Trần Đăng Khoa)
7.1.3. Chức năng cơ bản của ngôn từ nghệ thuật
Về chức năng của ngôn từ nghệ thuật, GS. Trần Đình Sử đã khẳng định: “Chức năng của
ngôn từ nghệ thuật là sáng tạo ra thực tại nghệ thuật, sáng tạo ra khách thể thẩm mĩ, đồng thời sáng
tạo ra bản thân các hình tượng ngôn từ, các biểu hiện nghệ thuật, các hình thức lời thơ, lời văn xuôi
nghệ thuật, để thoả mãn nhu cầu giao tiếp nghệ thuật” (Tài liệu 4, mục I, trang 210).
Để hiểu rõ chức năng của ngôn từ nghệ thuật, cần nhận diện đúng vai trò của ngôn từ trong
sáng tác nghệ thuật. Một số khuynh hướng nên tránh:
- Xem ngôn từ nghệ thuật như một phương tiện bề ngoài, phương tiện giản đơn để truyền đạt
cái hình tượng có sẵn.
- Ngôn từ cần nhưng không quan trọng, chỉ chú ý tới cá tính của ngôn từ nhân vật và ngôn từ
tác giả.
- Xem ngôn từ nghệ thuật không đáng tin cậy, chẳng qua là trò chơi dựa trên sự tương đồng
và khác biệt của các kí hiệu.
- Xem giá trị, bản chất của văn học nằm trong văn bản ngôn từ, coi việc phân tích ngôn từ
thay thế cho việc phân tích nội dung cuộc sống được thể hiện trong đó.
Khám phá tác phẩm nghệ thuật qua ngôn từ là một con đường, song cần xem xét mối quan hệ
biện chứng giữa ngôn từ và nội dung để không sa vào những cách tiếp cận cực đoan. Về chức năng,
sự chú ý đúng mức đến tính “sáng tạo” của ngôn từ là việc làm hữu hiệu giúp người nghiên cứu giải
mã được những giá trị tiềm ẩn của một phạm trù thi pháp học rất hấp dẫn và lí thú. Sự thể hiện của
chức năng sáng tạo thực tại nghệ thuật, sáng tạo khách thể thẩm mĩ... trong những tác phẩm cụ thể
cũng rất đa dạng và có độ khúc xạ thẩm mĩ lớn. Bởi ngôn từ nghệ thuật là một hiện tượng do nghệ
sĩ sáng tạo theo quy luật chung của nghệ thuật, nó in đậm dấu ấn chủ quan của người sáng tác.
Ngôn ngữ khi đi vào tác phẩm nghệ thuật đã mang những nét cách điệu, hay nói cách khác, tự bản
thân ngôn từ nghệ thuật đã sáng tạo ra các hình tượng ngôn từ, cung cấp cho nghệ thuật những biểu
103
tượng, những hình thức biểu đạt mới mẻ và do vậy, làm cho con người cảm thụ đời sống cũng như
ngôn từ một cách mới mẻ hơn.
Trong số các tác giả viết cho thiếu nhi, Phạm Hổ là một cây bút luôn kiếm tìm không mệt mỏi
những chất liệu ngôn từ vừa mộc mạc, gần gũi vừa mới lạ và đầy tính sáng tạo. Bài thơ Đàn gà mới
nở là một thể nghiệm dễ thương về ngôn từ:
... Lông vàng mát dịu
Mắt đẹp sáng ngời
Ôi! chú gà ơi
Ta yêu chú lắm!

Mẹ dang đôi cánh


Con biến vào trong
Mẹ ngẩng đầu trông
Bọn diều, bọn quạ.

Bây giờ thong thả


Mẹ đi lên đầu
Đàn con bé tí
Líu ríu chạy sau.

Con mẹ đẹp sao


Những hòn tơ nhỏ
Chạy như lăn tròn
Trên sân, trên cỏ.

Vườn trưa gió mát


Bướm bay dập dờn
Quanh đôi chân mẹ
Một rừng chân con.
Phạm Hổ chọn những câu thơ bốn chữ để kiến tạo bài thơ. Một hiện thực cuộc sống rất ngộ
nghĩnh, rất đáng yêu được ngôn từ nghệ thuật chuyển tải qua những gam màu đẹp và những nét vẽ
điểm xuyết tinh tế. Màu vàng mịn màng, mát dịu của bộ cánh non nớt, đôi mắt đẹp sáng ngời. Hình
ảnh gà mẹ đưa đàn con đi tìm mồi cũng được khắc chạm một cách khéo léo. Đàn gà con bé tí lúc thì
“biến” vào trong đôi cánh của mẹ, khi lại “líu ríu” chạy theo sau. Phép so sánh đẩy tứ thơ bay lên
cùng tưởng tượng bay bổng về những viên ngọc trẻ thơ sáng lấp lánh:
Con mẹ đẹp sao
Những hòn tơ nhỏ
Chạy như lăn tròn
Trên sân, trên cỏ.

104
Ngôn ngữ bài thơ căng tròn sức sống, sức sống mới nảy sinh với vẻ đẹp non tơ. Sau lớp vỏ
ngôn từ ấy là những sáng tạo mới mẻ về hình tượng ngôn từ, hình tượng nghệ thuật: đàn gà “biến”
vào cánh mẹ, những chú gà nhỏ xinh lăn tròn như “hòn tơ” và từ “rừng” như một điểm nhấn tuyệt
vời của sự bừng nở sức sống.
Lời thơ trong trẻo. Ý thơ cũng tràn ngập sự yêu thương. Và ngôn từ nghệ thuật, với “sứ
mệnh” của nó đã chuyển tải những giai điệu đẹp từ cuộc sống vào nghệ thuật.
7.2. CÁC PHƯƠNG DIỆN CHỦ YẾU CỦA THI PHÁP NGÔN TỪ TRONG VĂN HỌC
THIẾU NHI
7.2.1. Thi pháp trong các hình thức tổ chức từ và cụm từ
Trong quá trình vận hành ngôn ngữ, người nghệ sĩ đã vận dụng các nguyên tắc nghệ thuật, các
phương pháp tu từ... nhằm tăng hiệu quả biểu hiện và giá trị gợi cảm. Sự lựa chọn và vận dụng những
nguyên tắc nghệ thuật ấy làm thành đối tượng của thi pháp học ngôn từ.
Ngôn từ là chất liệu quan trọng để dệt nên những tác phẩm nghệ thuật với đường nét, màu
sắc, thanh âm đẫm chất đời và tình người. Song để tổ chức những đơn vị ngôn ngữ như từ và cụm
từ, nhà văn, nhà thơ cần có một dụng công nghệ thuật nhất định, cần có những phương thức tu từ
như so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, nhân hoá, điệp từ ngữ... Trong văn học thiếu nhi, những biện pháp đặc
trưng có thể kể đến là so sánh, nhân hoá, điệp từ ngữ và một phần những định ngữ nghệ thuật đặc
sắc.
- Phép so sánh - hình thức tổ chức tiêu biểu
Trong thế giới tâm hồn trẻ thơ, mọi sự vật dường như đều gặp gỡ nhau ở một điểm nào đó.
Với các em, sự ví von, so sánh luôn là những khám phá thú vị. Ngôi sao như đôi mắt, mặt biển như
tấm gương khổng lồ màu ngọc bích, dòng sông như dải lụa và cánh diều thì như chiếc lưỡi liềm ai
đó bỏ quên trên trời... Những bài học vỡ lòng đầu tiên về con chữ cũng được đặt trong phép so
sánh: “O tròn như quả trứng gà...”.
Biện pháp tu từ so sánh được vận dụng khá nhiều trong các sáng tác văn học thiếu nhi, tạo nên
phép nối kết từ ngữ đầy màu sắc và hiệu quả. A và B trong hai vế so sánh và được so sánh vừa
mang tính hình tượng vừa cụ thể, gần gũi và dễ nắm bắt, được trẻ thơ cảm thụ rất nhanh. Ví như
hình ảnh hoa lựu trong bài thơ sau:
Hoa cà tim tím
Hoa mướp vàng vàng
Hoa lựu chói chang
Đỏ như đốm lửa...
So sánh mà làm bật nổi được cả màu sắc lẫn cái “động” của sự vật (hoa lựu - đốm lửa).
Do đặc điểm tâm lí và tư duy lứa tuổi nên những sáng tác dành cho thiếu nhi sử dụng so sánh
tu từ nhiều hơn là ẩn dụ. Bản thân “từ so sánh” cũng không có nhiều biến điệu lắm. Thường gặp
nhất là “như”, “giống như”, “tựa như”...; phép so sánh - định nghĩa sử dụng hệ từ “là” không điển
hình trong văn học thiếu nhi mặc dù vẫn có.
- Nhân hoá tu từ - sự thổi hồn sống vào vạn vật
Trẻ đặc biệt thích thú khi được “trò chuyện” với vạn vật xung quanh. Các em gọi chiếc trống
trường là “bạn”, là “bác”, gọi vầng trăng là “chị”, gọi sóng là đứa trẻ thích rong chơi... Những câu

105
chuyện, những bài thơ mà ở đó, nhân vật chính là đồ vật, con vật, cây cối,... hết sức sống động,
mang hơi thở và suy nghĩ của con người luôn kéo các em về với những đam mê hồn nhiên, trong
trẻo. Có lẽ vì thế mà những “Bác nồi đồng”, những “Dế Mèn phiêu lưu kí”, những “Cô gió mất tên”
luôn hấp dẫn và chiếm được tình cảm của độc giả nhỏ tuổi.
Nhân hoá tu từ cho phép ngôn từ vận động từ trường “vô sinh” của thế giới đồ vật... sang
trường “hữu sinh” của thế giới con người. Sự vật cựa mình tỉnh giấc, mang hơi thở người, có tâm sự
và lời nói. Chúng đối thoại với nhau, tặng cho nhau những bài học từ cuộc sống.
- Điệp từ ngữ - phương thức nối kết hữu hiệu và phép tạo nhịp điệu cho thơ ca
Sự lặp lại, sự trùng điệp trong việc tổ chức từ và cụm từ giúp trẻ khắc sâu những ấn tượng
thẩm mĩ về nhân vật, về lời văn, câu thơ. Trong văn học thiếu nhi, ta bắt gặp rất nhiều những
phương thức vận hành ngôn từ như thế:
Bạn trai vin cành hái
Bạn gái lượm đầy tay
Bạn trai túi áo đầy
Bạn gái cài sau nón.
(Chùm hoa dẻ)
Điệp từ ngữ cũng là phép tạo nhịp điệu hữu hiệu. Mỗi động từ “giục” được lặp lại trong bài
thơ Ò... ó... o... là một lần đánh thức cảm nhận đồng thời với bước đi nhịp nhàng của thời gian và sự
vận động đều đặn của ngôn ngữ. Tuy vậy, trong văn học thiếu nhi, hình thức điệp từ ngữ không bao
hàm tất cả các tiểu loại. Thường gặp nhất là điệp gián cách. Điệp liên hoàn (như: Cùng trông lại mà
cùng chẳng thấy - Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu - Ngàn dâu xanh ngắt một màu...) dường
như thiếu vắng.
- Định ngữ nghệ thuật (epitet)
Theo A. N. Vêxeelôpxki, định ngữ nghệ thuật là “xác định một chiều của từ ngữ hoặc là đổi
mới hẳn một ý nghĩa chung, hoặc là nhấn mạnh một tính chất đặc trưng, nổi bật của đối tượng” (Thi
pháp học lịch sử. Dẫn theo Trần Đình Sử, tài liệu 4, trang 220). Trong văn học thiếu nhi, những
định ngữ có tính “cao quý” mà văn học cổ điển hay dùng như mắt ngọc, tay ngà, râu hùm, hàm én,
mày ngài... thường không xuất hiện. Định ngữ nghệ thuật của các tác phẩm văn học thiếu nhi
thường gần với phép so sánh, gắn với những hình ảnh rất thân thuộc trong thế giới sống động của
trẻ thơ như tóc râu ngô, tóc rễ tre. Hay như trong bài thơ Con mắt, định ngữ nghệ thuật đã làm cho
hình ảnh thơ thực sự thăng hoa:
Con mắt trời nóng bỏng
Rừng rực những ngôi sao
Đêm đêm con mắt ấy
Cháy bùng trên mặt ao.

Thẳm sâu con mắt đất


Hun hút những giếng thơi
Đêm đêm con mắt ấy
Nói điều chi với trời?

106
Ngoài ra, mỗi nhà văn khi sử dụng ngôn từ nghệ thuật cũng tạo nên những trường nghĩa bao
trùm, hình thành tính quan niệm trong sáng tạo. Thế giới ngôn từ trong thơ Trần Đăng Khoa, Phạm
Hổ là những minh chứng tiêu biểu.
7.2.2. Thi pháp cú pháp
Thi pháp cú pháp là một phương diện quan trọng của thi pháp học và ở đây có cấu trúc bề sâu
của tư duy nghệ thuật đang chi phối hình thức hành văn của tác giả.
Mỗi nhà văn, nhà thơ đều mang trong mình những mạch nguồn xúc cảm riêng với khát khao
hoà nó vào dòng chảy chung của nghệ thuật vì nhân loại. Sự tổ chức cú pháp cũng góp phần định
hình phong cách sáng tác cho chính họ. Đọc Tô Hoài, độc giả bắt gặp một thế giới ngôn từ sống
động, rộn rịp những tính từ và từ láy. Câu văn sống động, trong sáng với những tiết tấu nhanh -
chậm linh hoạt kế tiếp nhau theo các cấu trúc dài - ngắn khác nhau: “Màu lúa chín dưới đồng vàng
xuộm lại. Nắng nhạt ngả màu vàng hoe. Trong vườn, lắc lư những chùm quả xoan vàng lịm không
trông thấy cuống, như những chuỗi tràng hạt bồ đề treo lơ lửng. Từng chiếc lá mít vàng ối. Tàu đu
đủ, chiếc lá sắn héo lại mở ra năm cánh vàng tươi. Buồng chuối đốm quả chín vàng…” (Quang
cảnh làng mạc ngày mùa). Với Phạm Hổ, đó là sự dụng tâm trong những câu thơ ngắn, lặp lại tạo
nhịp điệu như chính hơi thở, nhịp tim của trẻ. Trong truyện, câu văn trĩu xuống bởi những đột biến
tâm lí, đằm thắm yêu thương. Trần Đăng Khoa viết từ khi còn rất nhỏ, tám tuổi đã xuất hiện trên thi
đàn như một “thần đồng thơ”. Những câu ca mẹ hát, những lời ru của bà và cái chân chất, mộc mạc
của làng quê... đã đổ bóng vào thơ anh. Và bởi, đó là thơ thiếu nhi viết cho chính tuổi ấu thơ của
mình nên lời ca, ngôn từ cũng rất đỗi tự nhiên, hồn hậu. Song, không phải vì thế mà trong không
gian ấy vắng cái chiều sâu và chiều rộng của tính triết lí - điều mà Xuân Diệu gọi là “Bút pháp
người lớn”. Kiệm lời nhưng sắc sảo và rất lắng sâu:
Dây diều em cắm
Bên bờ hố bom.
Chỉ bằng một phép tương phản, hình ảnh sự sống - cánh diều của tuổi thơ vươn lên rào rạt,
mạnh mẽ trên cái chết - hố bom giặc Mĩ.
Quy tắc kết hợp của ngôn từ trên bình diện cú pháp nghệ thuật cũng thể hiện khá đa dạng.
Một số các hình thức tổ chức như biện pháp đối chiếu khách thể và chủ thể tạo thành khổ thơ hay
còn gọi là phép song hành tâm lí, phép đảo trang, đối, lặp lại... được xem là điển hình cho thi pháp
trong cú pháp. Trong văn học trung đại, đối trở thành một quy tắc đặc trưng:
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
(Nguyễn Khuyến)
Trong văn học thiếu nhi, có thể kể đến một số quy tắc kết hợp của ngôn từ cú pháp tiêu biểu
như: Phép lặp, câu cấu tạo theo hình thức lời nói với lời hô, lời chêm, câu vắt dòng.
- Phép lặp trên bình diện (cấp độ) cú pháp
Bên cạnh điệp từ ngữ, trong văn học thiếu nhi còn rất nhiều những sáng tác ghi nhận phép điệp
kiểu câu. Phép tu từ này tạo nên nhịp điệu, ấn tượng thẩm mĩ ở người đọc - đặc biệt là độc giả nhỏ
tuổi:
Khi mẹ vắng nhà, em luộc khoai

107
Khi mẹ vắng nhà, em cùng chị giã gạo
Khi mẹ vắng nhà, em quét sân và quét cổng.
(Khi mẹ vắng nhà, Trần Đăng Khoa)
Cũng có khi, câu được lặp lại “nguyên dạng” của nó. Trong Thả diều, Trần Đăng Khoa đã mở
đầu cho cả ba khổ thơ đầu bằng câu “cánh diều no gió”. Đến khổ thơ thứ năm, cấu trúc cú pháp này
lại được “điệp” một lần nữa. Cả không gian được gom lại trong đáy mắt, và hình ảnh cánh diều
căng tràn sức sống in đậm giữa nền trời đầy gió như neo đậu mãi trong tâm hồn người.
Phép lặp tạo sự trùng điệp trong văn chương và cả trong cảm thức người đọc. Trong Mùa thảo
quả, ta cũng bắt gặp phép kết cấu ngôn từ này. Và nhờ thế, cả rừng Đản Khao, đâu đâu cũng như
bừng dậy ánh sáng của hoa thảo quả, hương thơm của thảo quả, sức vươn lên rạt rào của những chồi
thảo quả.
- Kết cấu câu đối - đáp (đối thoại)
Xuân Quỳnh được biết đến như một cây bút nữ có giọng thơ đằm thắm, lắng sâu. Nhưng
trong vốn văn chương của chị còn có những dòng rất dịu, rất trong trẻo dành cho trẻ thơ. Điều dễ
nhận thấy ở những trang viết ấy là lối kể chuyện tâm tình và những “cuộc thoại” giữa người lớn và
trẻ con, giữa tình yêu với tình yêu:
- Con yêu mẹ bằng ông trời
Rộng lắm không bao giờ hết
- Thế thì làm sao con biết
Là trời ở những nơi đâu...
...
- À mẹ ơi có con dế
Luôn trong bao diêm con đây
Mở ra là con thấy ngay
Con yêu mẹ bằng con dế.
(Con yêu mẹ)
Trẻ rất thích được vỗ về, được trò chuyện (và thậm chí được nghe chính tiếng nói của riêng
mình). Văn học thiếu nhi đã mở cửa thế giới màu nhiệm ấy bằng những lời thoại, như “Sao không
về Vàng ơi?”, “Trăng ơi... từ đâu đến?”. Nét vẽ còn tinh tế dừng lại ở những lời gọi rất nũng nịu,
ngộ nghĩnh, đáng yêu:
- Nhanh cho con bú tí
Đói, đói rồi mẹ ơi...
- Gì mà nhặng lên thế
Mới nhả vú đấy thôi!
- Nhả vú là đói rồi
Mẹ ơi, con bú tí!
(Bê đòi bú, Phạm Hổ)
hay:
Mau chia cám
108
Chia cám!
(Võ Quảng)
- Câu vắt dòng
Đây là một trong những sáng tạo của câu thơ Việt Nam hiện đại - phân biệt với câu thơ điệu
ngâm trong thơ cổ điển. Chế Lan Viên từng viết Tập qua hàng với những dòng thơ tiếp nối thú vị.
Trong những sáng tác dành cho thiếu nhi, các nhà thơ cũng đặc biệt lí thú với cấu trúc này. Có lẽ
một phần vì câu (văn và thơ) trong văn học thiếu nhi thường ngắn gọn (bằng với nhịp thở và nhịp
tim của trẻ) nên sự vắt dòng sẽ giúp tạo nên một chuỗi phát ngôn trọn vẹn đồng thời tăng nhịp điệu
và gợi cảm xúc:
Mùa thu của em
Là vàng hoa cúc
Như nghìn con mắt
Mở nhìn trời êm.
(Mùa thu của em, Quang Huy)
Và: Em thấy cả trời sao
Xuyên qua từng kẽ lá
Em thấy cơn mưa rào
Ướt tiếng cười của bố.
(Chiếc võng của bố, Phan Thế Cải)
Rất nhiều bài thơ của Trần Đăng Khoa mà tiêu biểu là Hạt gạo làng ta, Ò ó o... cũng sử dụng
thành công kiểu câu vắt dòng.
7.2.3. Ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ người kể chuyện
7.2.3.1. Ngôn ngữ nhân vật
- Ngôn ngữ nhân vật chỉ “lời nói của nhân vật trong tác phẩm văn học”. Nó là phương tiện để
bộc lộ cá tính, tính cách và hành vi tâm lí của nhân vật trong tình huống cụ thể. Chính vì thế, ngôn
ngữ nhân vật thường được cá thể hoá và tình huống hoá một cách triệt để. Hai đặc tính này giúp
người đọc vừa có thể nhận diện đúng “giọng”, “vai” nhân vật vừa thấy được cái chung, cái khái
quát của con người và xã hội trong đó có thể thấy cả chính mình.
- Ngôn ngữ nhân vật có chức năng thúc đẩy sự kiện vận động và phát triển. Balzac từng phát
biểu: “Không phải lỗi của tôi, nếu nhân vật nói to lên như thế”. Điều đó có nghĩa là, rất nhiều những
thông điệp thẩm mĩ được nhà văn chuyển vào ngôn ngữ nhân vật, để nhân vật nói hộ mình.
- Xét về hình thức, ngôn ngữ nhân vật có thể chia thành hai loại chính: Lời đối thoại của nhân
vật và lời độc thoại (độc thoại nội tâm và dòng ý thức). Trong văn học thiếu nhi, lời đối thoại
thường nhiều hơn. Lời độc thoại cũng được “diễn tả” tương đối giản dị.
- Ngôn ngữ nhân vật thường được thiết kế đồng thời với các hành vi phi ngôn ngữ và nếu xét
trên quan điểm giao tiếp, chúng có mối liên hệ tương hỗ lẫn nhau trong việc chuyển tải ý đồ nghệ
thuật và chân dung nhân vật.
Lưu ý: Học viên tham khảo mục IV.1, tài liệu 4, trang 224 - 228.
7.2.3.2. Ngôn ngữ người kể chuyện

109
- Ngôn ngữ người kể chuyện (còn gọi là ngôn ngữ dẫn truyện, ngôn ngữ trần thuật, ngôn ngữ
thuyết minh hay lời gián tiếp; phân biệt với lời trực tiếp của nhân vật) là ngôn ngữ của người đóng
vai kể, giới thiệu, miêu tả, dẫn dắt nhân vật vào tình huống cụ thể. Ngôn ngữ người kể chuyện hay
lời gián tiếp là một hiện tượng nghệ thuật độc đáo, có nhiều dạng thức:
+ Lời kể một giọng: Lời kể hướng tới sự vật nhằm tái hiện, giới thiệu về nó.
+ Lời kể nhiều giọng: Lời kể vừa hướng vào tái hiện đối tượng vừa đối thoại ngầm với lời
người khác ngoài đối tượng hoặc đối thoại ngầm với chính đối tượng. Lời kể nhiều giọng lại có thể
được chia thành những dạng cơ bản sau:
+ Lời văn nhại: là lời nói bằng giọng người khác có đưa vào đó một khuynh hướng nghĩa
đối lập hẳn với khuynh hướng của lời người đó.
+ Lời phong cách hoá: Là lời trần thuật bằng giọng người khác mà khuynh hướng nghĩa
cùng chiều với giọng ấy để tạo sắc thái, không khí cá thể.
+ Lời nửa trực tiếp: Là lời của người trần thuật với lời lẽ, ý nghĩa, ngữ điệu của nhân vật
nhằm bộc lộ nội tâm nhân vật.
+ Lời kể theo ngôn ngữ thứ nhất, xưng “tôi”: Một số nhà nghiên cứu xếp loại này vào lời
trực tiếp - tức ngôn ngữ nhân vật. Song xét về chức năng trần thuật, lời kể theo ngôi thứ nhất, xưng
“tôi” lại có tính gián tiếp.
+ Độc thoại nội tâm hay lời trần thuật nội tại: Độc thoại nội tâm là lời của nhân vật, lời
trực tiếp, có thể nói với mình hoặc với người khác nhưng độc lập với các lời đối đáp. Độc thoại nội
tâm, vì vậy vừa có thể là lời trực tiếp vừa có thể là lời gián tiếp dùng để trần thuật. Phạm vi của nó
bao gồm cả lời nửa trực tiếp.
- Ngôn ngữ người kể chuyện gắn với cái nhìn bao trùm cả truyện kể. Nguyễn Đình Thi gọi đó
là cái “văn nền” của người kể. Giọng của người kể được xem là giọng chủ đạo, có khả năng chọn
lựa và chi phối nhân vật.
Sự hài hoà giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ người kể chuyện tạo nên vẻ đẹp của tác phẩm
nghệ thuật. Chúng góp phần xác nhận phong cách, cá tính sáng tạo của nhà văn và phân biệt ngôn
từ văn học, nghệ thuật với ngôn từ thực tế.
7.2.4. Giọng điệu trần thuật
Theo quan điểm chung của các nhà nghiên cứu văn học hiện nay, giọng điệu được thiết kế bởi
mối quan hệ, thái độ, lập trường tư tưởng, tình cảm của người kể chuyện với các hiện tượng, các sự
kiện được miêu tả cũng như người nghe tạo thành giọng điệu trần thuật.
Nghệ sĩ hoài thai tác phẩm với những trở trăn, chiêm nghiệm từ cuộc sống. Tác phẩm là ghi
nhận của người sáng tác về cuộc đời, con người và về cả chính những xung động trong tâm hồn
mình. Giọng điệu trần thuật được kết tinh bởi mối quan hệ giữa lập trường sáng tác với những sự
kiện được nói tới, với người nghe.
Tô Hoài là một nhà văn của những truyện đồng thoại. Vượt ra ngoài khuôn khổ của những kí
hiệu khô khan, ngôn từ trong tác phẩm của ông thực sự là một cuộc du ngoạn kì thú vào thế giới trẻ
thơ, thể hiện một quá trình lao động, sáng tạo nghiêm túc và tâm huyết. Với Tô Hoài, “mỗi chữ đều
soi bóng hoàn cảnh và tình hình xã hội lúc chữ ấy ra đời... Người viết không thể ngồi bóp óc suy
nghĩ, trau dồi câu chữ mà phải đi vào thực tế đời sống mới bồi bổ chữ nghĩa cho ngòi bút. Không
một tài năng to lớn nào có thể nghĩ ra được chữ, chỉ có tích luỹ nhiều chữ đã chắt chiu được hàng
110
ngày mới có cơ hội sáng tạo ra chữ của phong cách ngòi bút” (Tô Hoài (1977), Nghệ thuật và
phương pháp viết văn).
Giọng điệu trần thuật trong Dế Mèn phiêu lưu kí là một nét đặc sắc mà bằng một hệ thống
ngôn ngữ sinh động, đầy tính sáng tạo và đẫm hơi thở cuộc sống, nhà văn đã xây dựng được.
Nhân vật chính của tác phẩm - chàng Dế Mèn - đã dẫn người đọc đi suốt cuộc phiêu lưu kì thú
của mình với một giọng kể nhẹ nhàng cũng như đầy trăn trở, đầy suy tư. Cái “tôi” vừa ngạo nghễ,
tự hào vừa lắng sâu những dư vị cuộc sống là kết tinh của những tư tưởng nhân văn, từ góc nhìn ý
vị về cuộc sống đại đồng, về tình bạn, về hoà bình nhân loại.
Giọng điệu trong Dế Mèn phiêu lưu kí có sự đối trọng giữa kể và tả. Ngôn ngữ miêu tả vừa dí
dỏm vừa ấn tượng bởi phép so sánh và nhân hoá tu từ. Đó cũng là giọng điệu tươi vui, sinh động và
đáng yêu. Thế giới loài vật với Dế Mèn, Dế Trũi, Xiến Tóc, Cào Cào, Kiến,... được tái hiện qua
chất giọng dung dị, qua lối nói ví von và khúc xạ bởi lăng kính của nhân vật “tôi” đầy tính tư tưởng.
Từ đó, hơi thở “người” ùa vào tác phẩm, làm bật nổi những thông điệp ngầm ẩn dấu sau đó - sau
giọng điệu rất đỗi tươi tắn và thấm đẫm yêu thương. Giọng điệu trần thuật cũng luôn luôn “biến
động”. Khi thì duyên dáng, hóm hỉnh, lúc lại mỉa mai, châm biếm, có khi rất đằm thắm, trữ tình.
Quan điểm ấy luôn gắn với một thái độ, một tâm trạng nào đấy của tác giả: Yêu, ghét, sẻ chia, thông
cảm...
7.3. THI PHÁP NGÔN TỪ NGHỆ THUẬT TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN HỌC
THIẾU NHI TIÊU BIỂU
7.3.1. Thi pháp ngôn từ trong tác phẩm Đất rừng phương Nam của Đoàn Giỏi
- Đất rừng phương Nam được sáng tác năm 1957, lấy bối cảnh những ngày đầu kháng chiến
chống Pháp ở Nam Bộ. Truyện kể về cuộc hành trình của cậu bé An - một đứa trẻ lạc bố mẹ khi
chạy tản cư. Theo bước chân An, người đọc đến với Đất rừng phương Nam, với những con người
nhân hậu và bao dung, với những khung cảnh thiên nhiên kì thú.
- Về tác phẩm, nhà văn Tô Hoài từng nhận xét: “Cái đặc sắc riêng của Đất rừng phương Nam
ấy là nhà văn Đoàn Giỏi đưa bạn đọc đến vùng đất rừng phương Nam thật xa, thế mà mỗi trang
truyện lại làm chúng mình thấy thiết tha và sôi nổi yêu đất nước khắp mọi nơi, yêu con người khắp
đất nước, bất cứ đâu”. Từ một địa danh ở phía Nam tổ quốc, nhà văn đã mở rộng trường nhìn về
cuộc sống, về con người, về cảnh sắc tươi đẹp. Một trong những điều làm nên giá trị tác phẩm là
ngôn từ nghệ thuật.
- Ngôn từ trong Đất rừng phương Nam rất giàu hình ảnh. Các hình tượng văn học (con người
và cảnh vật) được thể hiện qua thứ ngôn ngữ sinh động, hồn hậu và đậm phong vị Nam Bộ. Đặc
trưng đầu tiên về ngôn từ nghệ thuật trong tác phẩm là cách lựa chọn chất liệu ngôn ngữ. Nhà văn
đã sử dụng chính lời nói của người “phương Nam” để bộc bạch những suy tư từ đáy lòng họ, những
yêu thương về mảnh đất nơi họ đang sống và gắn bó. Hệ thống từ địa phương (phương ngữ Nam
Bộ) được đánh giá là thành công vượt bậc của Đoàn Giỏi khi viết Đất rừng phương Nam.
- Xét trên bình diện rộng, tác phẩm có độ dài tương đối vừa phải, được cấu trúc thành từng
phần rõ ràng: (1) Xóm chợ nhỏ, một vùng quê xa lạ; (2) Trong tửu quán; (3) Ông lão bắt rắn;... (20)
Lên đường chiến đấu. Nhà văn rất hay dùng phương thức tu từ so sánh, pha một chút dư vị “khoa
trương” để kích thích trí tưởng tượng của người đọc. Chẳng hạn như:
...“Nụ cười hả hê, chiến thắng của bánh phồng tôm thả vào chảo mỡ đang sôi réo”.

111
...“Bé như hạt khế, cứ lắc lư lắc lư từ đất nhoi lên... là điệu bay của con mối cánh”.
...“Cuộc đời và uy tín của bà ta, nói tóm lại đều tập trung ở hai cái túi nặng trĩu bạc giấy này”.
- Đoàn Giỏi đã xử lí rất khéo léo mối quan hệ hài hoà giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ
người kể chuyện. Qua cái nhìn của nhân vật - người kể chuyện xưng "Tôi", các sự kiện lần lượt xảy
đến, nối tiếp, gối đầu lên nhau làm cho cuộc hành trình càng thêm thú vị. Không phải là những cuộc
đối thoại với mật độ đậm đặc nhưng người đọc cũng kịp nhận ra từng giọng nhân vật, từng cá tính,
từng cách nói. Giọng của An, của thằng Cò, của ông Hai, của lão Ba Ngù, của dì Tư Béo, của vợ
chồng Tư Mắm... mỗi người một vẻ, không lẫn vào nhau. Người kể chuyện và “tôi” có một sự phức
hợp rất khéo léo tạo nên một giọng kể rất duyên dẫn người đọc đi từ ngạc nhiên này tới bất ngờ
khác. Giọng điệu trần thuật cũng luôn luôn thay đổi. Khi tự hào với cảnh sắc thiên nhiên, khi lộ rõ
căm thù trước tội ác của giặc, khi hồi hộp với những cuộc “săn sấu”, “lấy mật ong”. Có lúc lại rất
đỗi suy tư trước những hi sinh của con người Nam Bộ quật cường.
- Qua ngòi bút miêu tả cảnh vật và con người đặc sắc của Đoàn Giỏi, bức tranh Đất rừng
phương Nam hiện lên một cách rõ nét. Ngôn ngữ tả và ngôn ngữ kể hoà lẫn vào nhau làm cho
truyện vừa có chất tự sự vừa có phong vị trữ tình. Tác phẩm thực sự là một sự thăng hoa về ngôn từ
nghệ thuật - thứ ngôn từ mang hơi thở chân chất, mộc mạc của con người, quê hương Nam Bộ.
7.3.2. Thi pháp ngôn từ trong bài thơ Hạt gạo làng ta của Trần Đăng Khoa
Trần Đăng Khoa là tác giả có khối lượng tác phẩm khá lớn được đưa vào giảng dạy ở nhà
trường tiểu học. Hạt gạo làng ta là một trong số đó.
Bài thơ ra đời năm 1968, khi Trần Đăng Khoa mới 11 tuổi, đang học lớp 5 trường làng. Từ
những nhọc nhằn của người nông dân chân lấm tay bùn, một nắng hai sương, từ mảnh đất với vị
phù sa, với hương sen và tình yêu quê hương đất nước..., Trần Đăng Khoa đã làm thức dậy một
niềm tin yêu mới bằng “Hạt gạo làng ta”.
- Hình tượng nghệ thuật đặc sắc trong bài thơ là hạt gạo - hạt gạo của chính làng quê chú bé
Khoa, nơi có con sông Kinh Thầy với cánh cò trắng, nơi có hồ sen ngạt ngào hương thơm. Khắc
chạm hình tượng ấy trên một không gian ăm ắp yêu thương, Trần Đăng Khoa đã chọn một thứ ngôn
từ rất trong, rất dịu và cũng rất đỗi tự hào:
Hạt gạo làng ta
Có vị phù sa
Của sông Kinh Thầy...
Trong hình tượng “hạt gạo” còn chứa những phác thảo khác: Sự khắc nghiệt của thiên nhiên
tương phản với sự bền bỉ, chịu thương chịu khó của người nông dân mà cụ thể trong bài thơ là hình
ảnh mẹ; sự ác liệt của bom Mĩ đặt bên cạnh niềm kiêu hãnh của người chiến sĩ ra đi bảo vệ quê
hương, niềm vui của hậu phương khi gửi gạo ra tiền tuyến; và hơn thế là hình ảnh những bé thơ góp
sức mình cho đất nước. Hạt gạo - chính vì thế là kết tinh của hồn quê dân dã, của niềm vui và của
tình yêu.
- Trần Đăng Khoa đã sử dụng một cách khéo léo thứ ngôn ngữ thơ giàu sức gợi, kiểu lời nói
“gián tiếp” và lối bộc bạch rất khéo, rất duyên. Không phải là một phát biểu trực tiếp như trong câu
ca:
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.
112
Mà cậu bé Khoa tìm đến những cách biểu đạt khác, để rồi, với hình ảnh kết thúc bài thơ,
người đọc ngỡ ngàng với phép định nghĩa:
Hạt gạo làng ta...
... Hạt vàng làng ta.
- Về tổ chức từ và cụm từ, tổ chức cú pháp, Trần Đăng Khoa đã xử lí sắc sảo các phương thức
tu từ như: Điệp từ ngữ, điệp kiểu câu (gián cách), câu vắt dòng, phép tương phản, so sánh... Đặc
biệt là kiểu câu vắt dòng. Dường như mỗi khổ thơ là một câu được ngắt ra thành những nhịp điệu
ngắn, ngân nga như câu hát, tưởng chừng không bao giờ tan được trong không gian thơ ấy. Tính tổ
chức cao trong xây dựng hình tượng nghệ thuật cũng tạo thành một nét độc đáo của Hạt gạo làng
ta. Từ sự kết tinh của hương vị quê hương đến sự thăng hoa của lao động vất vả, đến ý nghĩa của
hạt gạo “gửi ra tiền tuyến”..., hạt gạo thực sự đã trở thành biểu tượng của tình yêu đất nước và tình
yêu lao động.
- Với một Hạt gạo làng ta chưa đủ để nói hết tài năng thơ Trần Đăng Khoa nhưng đó là một
nét phác thảo giản dị về giọng thơ thiếu nhi giàu suy tưởng và sắc sảo. Khám phá thế giới nghệ
thuật thơ Trần Đăng Khoa qua một Góc sân và khoảng trời thôi cũng khiến người đọc ngỡ ngàng.
Có thể nói, về ngôn từ nghệ thuật, thơ Trần Đăng Khoa đã chạm đến được ranh giới của sự viên
mãn. Đó là thứ ngôn ngữ chính xác, biểu cảm và giàu âm thanh, nhịp điệu.
Có thể nói, ngôn ngữ thơ Trần Đăng Khoa rất giàu âm thanh, nhịp điệu. Một tiếng gà, một
tiếng mưa... cũng khuấy động cả không gian thơ. Âm thanh ấy, nhịp điệu ấy được tạo bởi những câu
thơ ngắn, gối đầu nhau, nhịp nhàng như chính hơi thở của cuộc sống.
Trần Đăng Khoa rất yêu cuộc sống. Chính vì thế, giọng thơ của anh cũng tươi mới, căng tràn
nhựa đời, tình người. Song, lẫn trong giai điệu vui tươi ấy là sắc thái êm dịu, tha thiết, cũng có khi
pha lẫn ngậm ngùi. Và ở rất nhiều bài, sự đối lập trong hình tượng thơ đã làm bùng cháy mãnh liệt
một tình yêu quê hương bên cạnh lòng căm thù giặc. Thơ Trần Đăng Khoa - chính vì thế - đôi khi
lạc vào một trường suy tưởng, triết lí rất “già”.

HƯỚNG DẪN HỌC TẬP CHƯƠNG 7

I. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG


Văn học là nghệ thuật ngôn từ. Ngôn từ trong văn học thiếu nhi là một bình diện hấp dẫn
không chỉ người nghiên cứu mà cả trẻ thơ - những bạn đọc hồn nhiên và thánh thiện. Song, thế giới
ngôn từ lại luôn mở ra những chiều tiếp nhận mới mẻ, những cảm thụ khác nhau trong “cái lí” của
những biến điệu cuộc sống và cảm xúc. Trọng tâm của chương 7 được xác lập trên cở sở những tiền
đề đó. Nó yêu cầu người học xác định rõ khái niệm, chức năng và đặc trưng của ngôn từ nghệ thuật,
mô tả được các phương diện chủ yếu của thi pháp ngôn từ trong văn học thiếu nhi, phân tích các
phương diện đó trong hình thức tổ chức từ và cụm từ, trong cú pháp, phân định rõ ngôn ngữ nhân
vật và ngôn ngữ người kể chuyện; mô tả giọng điệu nghệ thuật - nét nổi bật của thi pháp ngôn từ.
Từ những hiểu biết về thi pháp ngôn từ, người học có thể áp dụng lí luận vào phân tích giá trị của
ngôn từ nghệ thuật trong một số tác phẩm văn học thiếu nhi tiêu biểu.
II. CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP THỰC HÀNH
1. Phân biệt ngôn từ nghệ thuật với lời nói tự nhiên hàng ngày.
2. Đọc các văn bản nghệ thuật sau và trả lời câu hỏi.

113
TRE VIỆT NAM
Tre xanh,
Xanh tự bao giờ?
Chuyện ngày xưa... đã có bờ tre xanh.

Thân gầy guộc, lá mong manh


Mà sao nên luỹ nên thành tre ơi?

Ở đâu tre cũng xanh tươi


Cho dù đất sỏi đất vôi bạc màu?
Có gì đâu có gì đâu
Mỡ màu ít, chắt dồn lâu hoá nhiều
Rễ siêng không ngại đất nghèo
Tre bao nhiêu rễ bấy nhiêu cần cù.
Vươn mình trong gió tre đu
Cây kham khổ cũng hát ru lá cành.
Yêu nhiều nắng nỏ trời xanh
Tre xanh không đứng khuất mình bóng râm.
Bão bùng thân bọc lấy thân
Tay ôm, tay níu tre gần nhau thêm.
Thương nhau, tre chẳng ở riêng
Lũy thành từ đó mà nên hỡi người.
Chẳng may thân gãy cành rơi
Vẫn nguyên cái gốc truyền đời cho măng.
Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường.
Lưng trần phơi nắng phơi sương
Có manh áo cộc, tre nhường cho con.
Măng non là búp măng non
Đã mang dáng thẳng thân tròn của tre.
Năm qua đi, tháng qua đi
Tre già măng mọc có gì lạ đâu.

Mai sau,
Mai sau,
Mai sau,
Đất xanh tre mãi xanh màu tre xanh.

114
Nguyễn Duy
(Sách giáo khoa Tiếng Việt 4, Tập 1, trang 41)

MÙA THẢO QUẢ


Thảo quả trên rừng Đản Khao đã vào mùa.
Gió tây lướt thướt bay qua rừng, quyến hương thảo quả đi, rải theo triền núi, đưa hương thảo
quả ngọt lựng, thơm nồng vào những thôn xóm Chin San. Gió thơm. Cây cỏ thơm. Đất trời thơm.
Người đi từ rừng thảo quả về, hương thơm đậm, ủ ấp trong từng nếp áo, nếp khăn.
Thảo quả trên rừng Đản Khao đã chín nục. Chẳng có thứ quả nào hương thơm lại ngây ngất kì
lạ đến như thế. Mới đầu xuân năm kia, những hạt thảo quả gieo trên đất rừng, qua một năm, đã lớn
cao tới bụng người. Một năm sau nữa, từ một thân lẻ, thảo quả đâm thêm hai nhánh mới. Sự sinh
sôi sao mà mạnh mẽ vậy. Thoáng cái, dưới bóng râm của rừng già, thảo quả sầm uất từng khóm râm
lan tỏa nơi tầng rừng thấp, vươn ngọn, xòe lá, lấn chiếm không gian.
Sự sống cứ tiếp tục trong âm thầm, hoa thảo quả nảy dưới gốc cây kín đáo và lặng lẽ. Ngày
qua, trong sương thu ẩm ướt và mưa rây bụi mùa đông, những chùm hoa khép miệng bắt đầu kết
trái. Thảo quả chín dần. Dưới đáy rừng, tựa như đột ngột bỗng rực lên những chùm thảo quả đỏ
chon chót, như chứa lửa, chứa nắng. Rừng ngập hương thơm. Rừng sáng như có lửa hắt lên dưới
đáy rừng.
Rừng say ngây và ấm nóng. Thảo quả như những đốm lửa hồng, ngày qua ngày lại thắp thêm
nhiều ngọn mới, nhấp nháy vui mắt.
Ma Văn Kháng
(Sách giáo khoa Tiếng Việt 5, Tập 1, trang 113 - 114)
a. Chỉ rõ các đặc trưng cơ bản của ngôn từ nghệ thuật trong hai tác phẩm trên.
b. Nét đặc sắc nhất trong ngôn từ nghệ thuật ở mỗi tác phẩm theo đánh giá của anh (chị)?
3. Điền những thông tin còn thiếu vào chỗ trống để hoàn thành những câu sau:
a. Các phương thức tu từ tiêu biểu dùng để tổ chức từ và cụm từ trong văn học thiếu nhi là so
sánh, nhân hoá,...
b. Mỗi nhà văn khi sử dụng ngôn từ nghệ thuật cũng tạo nên những..., hình thành tính... trong
sáng tạo.
c.... trong thi pháp cú pháp giúp tạo nhịp điệu và khắc sâu ấn tượng về đối tượng được đề cập.
d. Câu vắt dòng sẽ giúp nhà thơ...
e. Ngôn ngữ nhân vật là...
g. Ngôn ngữ nhân vật có thể chia thành hai loại chính là...
h. Sở dĩ có thể xem lời kể theo ngôi thứ nhất (xưng “tôi”) là lời nói gián tiếp vì...
i. Trong truyện, người kể có thể không xuất hiện (ẩn vai trò của mình) nhưng bắt buộc phải
có..., làm thành một bình diện đối lập với...
k. Có thể nói rằng ngôn ngữ kể và ngôn ngữ nhân vật là một... trong phạm trù nghệ thuật tự
sự.
g. Giọng điệu trần thuật là...
4. Đọc bài thơ Mặt trời xanh của tôi của Nguyễn Viết Bình và trả lời câu hỏi:
115
MẶT TRỜI XANH CỦA TÔI
Đã có ai lắng nghe Đã có ai dậy sớm
Tiếng mưa trong rừng cọ? Nhìn lên rừng cọ tươi?
Như tiếng thác dội về, Lá xoè từng tia nắng
Như ào ào trận gió. Giống hệt như mặt trời.

Đã ai lên rừng cọ Rừng cọ ơi, rừng cọ!


Giữa một buổi trưa hè, Lá đẹp, lá ngời ngời,
Gối đầu lên thảm cỏ Tôi yêu, thường vẫn gọi
Nhìn trời xanh, lá che... Mặt trời xanh của tôi!

a. Chỉ ra những phương thức tổ chức từ và cụm từ trong bài thơ.


b. Nêu những phương thức cú pháp trong bài thơ.
c. Có thể xác định được lời gián tiếp và lời trực tiếp trong tác phẩm không? Vì sao?
5. Phân tích nghệ thuật ngôn từ trong một tác phẩm văn học thuộc chương trình Tiếng Việt
tiểu học.
6. Thiết kế giáo án cho một tiết dạy theo yêu cầu: Phân tích ngôn từ nghệ thuật trong một tác
phẩm văn học thiếu nhi.
III. GỢI Ý GIẢI BÀI TẬP
1. Phân biệt ngôn từ nghệ thuật với lời nói tự nhiên hàng ngày
- Nghệ thuật được xây dựng nên từ cuộc sống, từ chất liệu ngôn ngữ. Ngôn từ nghệ thuật “sử
dụng ngôn ngữ trong đời sống hàng ngày, ngôn ngữ trong sách vở cũ và mới, nói chung là tất cả các
lớp một cách rộng rãi nhưng được tái tạo lại hay đúng hơn là “được cải tạo về mặt chức năng”
(Nguyễn Thái Hoà). Điểm khởi phát của ngôn từ nghệ thuật là một gợi ý cho những tương đồng,
cho sự gặp gỡ trong những đặc trưng cơ bản của nghệ thuật ngôn từ và ngôn ngữ trong đời sống
hàng ngày.
- Ngôn từ nghệ thuật có những thuộc tính như tính hình tượng, tính cụ thể, tính gợi cảm, tính
cá thể hoá, tính hàm súc, tính chính xác... Những đặc trưng đó cũng được xác nhận là có trong ngôn
ngữ tự nhiên, đời thường. Tuy nhiên, trong nghệ thuật, trong văn học, những tính chất trên được
biểu hiện tập trung hơn và thuần tuý hơn.
- Ngôn từ nghệ thuật là ngôn từ được kiến tạo lại, mang dấu ấn sáng tạo của người nghệ sĩ.
Tính đa dạng trong ngôn từ nghệ thuật và ngôn ngữ, lời nói tự nhiên hàng ngày cũng không giống
nhau. Khác với lời nói hàng ngày, ngôn từ nghệ thuật có rất nhiều thể loại (kịch, thơ, văn xuôi nghệ
thuật...).
- Xét về mặt chức năng, ngôn từ nghệ thuật có chức năng thẩm mĩ. Do đó, nó mang tính nghệ
thuật và trở thành tinh hoa của ngôn ngữ - tức ngôn ngữ mang giá trị thẩm mĩ so với các loại ngôn
ngữ phi nghệ thuật khác. Ngôn ngữ đời thường lại được biểu hiện đặc trưng bởi chức năng giao
tiếp.
2. Định hướng trả lời cho bài tập 2
116
2.1. Câu hỏi a
- Học viên nắm được hai đặc trưng cơ bản của ngôn từ nghệ thuật:
+ Tính hình tượng
+ Tính tổ chức cao
- Hình tượng nghệ thuật trong mỗi tác phẩm có những nét đẹp riêng, được xây dựng bởi lớp
ngôn từ nghệ thuật đặc trưng. Ở Tre Việt Nam là ngôn ngữ thơ. Ở Mùa thảo quả là ngôn ngữ miêu
tả sống động và giàu hình ảnh.
- Cách tổ chức về mặt ngôn từ trong hai tác phẩm cũng có những dấu ấn riêng. Nguyễn Duy
đã chọn cho mình một cách mở đầu thú vị: Đặt câu hỏi tu từ. Từ đó, bài thơ được kiến tạo để trả lời
cho những câu hỏi về cội nguồn, về tình thương... qua hình tượng “tre”. Từng lớp ngôn từ được bóc
tách dần cùng với sự hình dung trọn vẹn về “Tre Việt Nam”. Còn với Ma Văn Kháng, đó là nhịp
điệu tăng dần của thứ ngôn từ giàu sức gợi, khiến cho không gian như ngập hương thơm, tràn
hương thơm và bừng lên sức sống của rừng thảo quả.
2.2. Câu hỏi b
Đây là bài tập đòi hỏi sự đánh giá và cảm thụ riêng, sáng tạo của người học. Sinh viên cũng
cần có những kiến thức cơ bản, toàn diện về ngôn từ nghệ thuật, từ đó soi chiếu vào tác phẩm để
tìm ra dấu ấn sâu sắc trong ngôn từ nghệ thuật ở mỗi tác phẩm; so sánh, bình giá để đưa ra kết luận.
Có thể có những quan điểm khác nhau ở người học song điều quan trọng là lí giải cho sự chọn
lựa của mình.
3. Gợi ý trả lời
a. điệp từ ngữ, định ngữ nghệ thuật,...
b. trường nghĩa bao trùm... quan điểm...
c. Phép lặp.
d. tạo tính liên kết, tính chỉnh thể... cho thơ.
e. lời nói của nhân vật trong tác phẩm.
g. lời đối thoại và lời độc thoại.
h. nó độc lập với các lời đối đáp.
i. ngôn ngữ kể... ngôn ngữ nhân vật.
k. tiểu phạm trù thẩm mĩ/tiểu phạm trù mĩ học.
l. sự kết tinh bởi mối quan hệ, thái độ, lập trường tư tưởng, tình cảm của người kể chuyện với
các hiện tượng, các sự kiện được miêu tả cũng như người nghe.
4. Để trả lời các câu hỏi trong bài tập này, cần nắm vững những nội dung cơ bản về thi pháp
trong tổ chức từ và cụm từ, thi pháp trong cú pháp. Những đặc điểm cơ bản trên các phương diện đã
nêu thể hiện trong bài thơ một cách khá sắc sảo. Tiêu biểu là phép điệp (từ ngữ, kiểu câu), câu hỏi
tu từ, câu vắt dòng, phép tu từ so sánh...
- Lời gián tiếp và lời trực tiếp (ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật) có phải là
đặc trưng độc quyền của các tác giả văn xuôi như truyện ngắn, tiểu thuyết? Liệu trong thơ (sáng tác
trữ tình) có ngôn ngữ nhân vật, có ngôn ngữ người kể chuyện? Trả lời được những câu hỏi đó sẽ
giúp người học nhận thức bản chất của tri thức về ngôn ngữ nhân vật, ngôn ngữ người kể chuyện;
đồng thời giải mã được những ẩn số cho câu hỏi c.

117
5. Chọn một tác phẩm văn học thuộc chương trình Tiếng Việt tiểu học, phân tích để làm rõ
một số đặc trưng sau:
- Ngôn từ nghệ thuật là một trong những vẻ đẹp của Sắc màu em yêu. Nó được Phạm Đình Ân
thể hiện qua một hệ thống từ chỉ màu sắc (đỏ, xanh, vàng, trắng, đen, tím, nâu) và một hệ thống từ
chỉ sự vật tương đồng, tương ứng với mỗi sắc màu kì diệu đó (máu, lá cờ, khăn quàng = màu đỏ;
đồng bằng, rừng núi, biển, bầu trời = xanh; lúa, hoa cúc, nắng = màu vàng; trang giấy, hoa hồng
bạch, tóc bà = màu trắng; than, mắt bé, màn đêm = màu đen; hoa cà, hoa sim, chiếc khăn, nét mực =
màu tím; áo mẹ, đất đai, gỗ rừng = màu nâu). Phạm Đình Ân cũng sử dụng phương thức kết hợp từ,
cụm từ như so sánh, định ngữ nghệ thuật...
- Đối với tác phẩm truyện, cần làm rõ ngôn ngữ người kể chuyện, ngôn ngữ nhân vật…
- Đặc trưng chung trong hình thức tổ chức từ và cụm từ: Nghệ thuật sử dụng từ, biện pháp tu
từ so sánh, nhân hóa, điệp, định ngữ nghệ thuật...
- Đặc sắc trong thi pháp cú pháp: Phép lặp, kết cấu câu đối đáp, câu vắt dòng,…
Ví dụ: Ngôn từ nghệ thuật trong bài thơ Sắc màu em yêu của Phạm Đình Ân
+ Câu thơ ngắn, nhịp điệu vừa phải với lối viết vắt dòng đã tạo cho bài thơ một sự nhịp
nhàng. Phép định ngữ nghệ thuật xuất hiện như một phương thức tổ chức từ và cụm từ đặc sắc.
+ Màu đen được gắn với các sự vật: Hòn than, đôi mắt, màn đêm. Những sự vật đó được
cụ thể hoá: Hòn than óng ánh, đôi mắt (của) bé ngoan và màn đêm (thì) yên tĩnh.
+ Đối với khổ thơ cuối, dạng thức câu vắt dụng thể hiện rất rõ nét: Dòng 1 nối kết dòng 2,
dòng 3 nối kết dòng 4...
6. Chọn tác phẩm có những khám phá và sáng tạo độc đáo về ngôn từ nghệ thuật. Xác định
nhiệm vụ trọng tâm của bài dạy là phân tích ngôn từ nghệ thuật trong tác phẩm đó.
- Bài dạy cần xác định rõ các thao tác của giáo viên và học sinh, chú ý xây dựng hệ thống câu
hỏi nêu vấn đề.
- Trích đoạn kế hoạch bài học tham khảo:
Trích đoạn: GIÓ TỪ TAY MẸ
(Vương Trọng)
Hoạt động của giáo viên Hoạt động của học sinh
Hình ảnh mở đầu bài thơ là chiếc Quạt nan được so sánh là “như
quạt nan. Nó được miêu tả bằng lá, chớp chớp lay lay” rất sống
những từ ngữ nào? động, nó mỏng dính nhưng quạt
gió thì lại rất dày.
Nhà thơ đã dùng hai từ trái nghĩa Học sinh lắng nghe
nhau để làm nổi bật hình ảnh quạt
nan và quạt gió, đó là mỏng dính và
dày. Từ dày trong câu thơ vừa thực
vừa ảo vì nó là tượng trưng cho hơi
mát tình thương.
Khổ thơ thứ hai và khổ thơ thứ ba Hai khổ thơ giống nhau ở chỗ:
có đặc điểm gì giống nhau? - Dòng 1 và 2 nói về gió của
thiên nhiên, dòng 3 và 4 nói về

118
gió từ tay mẹ.
Vậy gió từ thiên nhiên được mô tả Gió trời có khi còn nghỉ, còn
khác với gió từ tay mẹ như thế nào? gió từ tay mẹ thì thổi suốt đêm
ngày. Gió trời có khi rét buốt còn
gió mẹ lúc nào cũng mát.
Nhà thơ đã đặt gió trời, gió từ thiên Học sinh lắng nghe và tự đọc
nhiên trong sự tương phản, đối lập thầm theo hướng dẫn.
với gió từ tay mẹ. Khi đọc những
dòng thơ này, các em phải đọc nối
kết dòng 1 với dòng 2, dòng 3 với
dòng 4; chú ý nhấn giọng ở những từ
như: Nghỉ, suốt (đêm ngày), rét buốt,
lúc nào cũng mát.
Theo các em, vì sao “gió từ tay Vì mẹ lúc nào cũng thương yêu
mẹ” lại “thổi suốt đêm ngày” và “lúc con, muốn mang đến cho con
nào cũng mát”? những gì mát lành nhất.
Hai khổ thơ đã khắc hoạ hình ảnh Khổ cuối tác giả lại quay về với
mẹ ngồi quạt cho con ngủ với tất cả hình ảnh quạt nan. Quạt nan cũng
tình yêu thương. Ở những khổ thơ “chớp chớp lay lay” nhưng không
cuối cùng, nhà thơ đã lặp lại một phải là như lá mà là như cánh.
hình ảnh cũ. Đó là hình ảnh nào? Nó
có gì khác so với cách miêu tả ban
đầu?
Từ “cánh” trong câu thơ gợi cho Đó có thể là cánh chim, cánh
em liên tưởng đến hình ảnh gì? bướm... Đó là sự bay lên của
những giấc mơ.
Gió từ tay mẹ, từ chiếc quạt nan Học sinh lắng nghe
mỏng dính mẹ cầm đã đưa em vào
giấc ngủ êm đềm. Cánh vẫn là “rất
mỏng” nhưng nó tạo cảm giác của sự
êm ái, nhẹ nhàng. Cùng một sự vật
nhưng nhà thơ đã có những so sánh
khác nhau. Tất cả đều làm nổi bật
tình thương yêu của mẹ.
Yêu cầu 1 hoặc 2 học sinh đọc bài
thơ, chú ý những câu thơ vắt dòng và
Học sinh đọc bài
những từ ngữ cần nhấn giọng.

119
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hoàng Văn Cẩn, Dạy học tác phẩm văn học dành cho thiếu nhi, Nxb Giáo dục, Hà Nội
2005. (Chương III, Chương IV).
2. Phương Lựu (Chủ biên), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội 1998. (Phần hai, chương
XVI).
3. Lã Thị Bắc Lý, Giáo trình văn học trẻ em, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội 2003.
4. Trần Đình Sử, Tuyển tập - Tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội 2005. (Chương X).
Học viên tìm đọc các bài: Cái lí và chiều sâu trong ngôn ngữ truyện nhi đồng (Nguyễn Đức
Dân); "Con yêu mẹ bằng con dế" - Một tư duy thơ Xuân Quỳnh (Phạm Xuân Nguyên) (Tập 1); Chất
hài hước trong sáng tác văn xuôi của Võ Quảng (Vương Trí Nhàn); Thanh nhạc của câu và từ
trong văn xuôi Võ Quảng (Hoàng Tiến) v.v.... (Trong Văn học thiếu nhi Việt Nam (Nghiên cứu, lí
luận, phê bình, tiểu luận - tư liệu) (Vân Thanh biên soạn); tập 2, Nxb.Kim Đồng, Hà Nội, 2003).

120
ChÞu tr¸ch nhiÖm néi dung:
Pgs.Ts. NguyÔn v¨n hßa
Biªn tËp:
Tæ c«ng nghÖ th«ng tin
Phßng kh¶o thÝ - ®¶m b¶o chÊt l−îng gi¸o dôc

121

You might also like