You are on page 1of 40

Nhóm 6 – Lớp giáo dục tiểu học C – Khóa 11

Thành viên trong nhóm:


30. Nguyễn Trần Bảo Ngọc
31. Phan Châu Kim Ngọc
32. Đỗ Nguyễn Khôi Nguyên
33. Đoàn Ngọc Nhi
34. Trần Thị Thảo Nhi
Phân công công việc cho các thành viên
Phần 1: Giới thiệu vài nét về Trần Đăng Khoa và tổng hợp bài. (Trần Thị Thảo
Nhi. Nguyễn Trần Bảo Ngọc)
Phần 2: Nội dung cơ bản của thơ Trần Đăng Khoa (Đoàn Ngọc Nhi, Phan Châu
Kim Ngọc)
Phần 3: Đặc sắc về nghệ thuật về thơ thiếu nhi Trần Đăng Khoa . (Đỗ Nguyễn
Khôi Nguyên)
Phần 4: Tập thơ “Góc sân và khoảng trời” (Nguyễn Trần Bảo Ngọc, Trần Thị Thảo
Nhi, Phan Châu Kim Ngọc)
Đề bài: Thuyết trình về thơ Trần Đăng Khoa.
 Giới thiệu vài nét về Trần Đăng Khoa.
1. Cuộc đời
Nhà thơ Trần Đăng Khoa sinh ngày 24-4-1958 tại ở làng Trực Trì, xã Quốc Tuấn,
huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương.. Ông sống và làm việc chủ yếu ở Thành phố Hà
Nội, nước Việt Nam.
Trần Đăng Khoa là một nhà thơ nổi tiếng được mệnh danh là "Thần đồng thơ trẻ".
Ông cũng là một nhà văn và một nhà báo. Ông giữ chức vụ biên tập viên Tạp chí
Văn nghệ Quân đội, nguyên là Trưởng ban Văn học Nghệ thuật, Giám đốc Hệ Phát
thanh có hình của kênh VOVTV của Đài tiếng nói Việt Nam. Hiện nay, ông giữ
chức Phó Bí thư Đảng ủy Đài Tiếng nói Việt Nam.
Nhà thơ Trần Đăng Khoa bắt đầu sáng tác từ rất sơm, năm 8 tuổi ông đã có một số
sáng tác được in trên báo. Năm 10 tuổi, ông đã cho xuất bản tập thơ đầu tiên với
nhan đề "Từ góc sân nhà em "(1968). Cũng trong năm 1968, ông đã cho ra mắt tập
thơ thứ hai là "Góc sân và khoảng trời" do nhà xuất bản Kim Đồng ấn hành. Trong
đó, bài thơ "Hạt gạo làng ta" sáng tác năm 1968, là bài thơ phổ biến nhất của nhà
thơ Trần Đăng Khoa. Bài Thơ này đã được nhạc sĩ Trần Viết Bính phổ nhạc năm
1971, bài hát được rất nhiều người yêu thích, nhất là lứa tuổi thiếu niên, nhi đồng.
Năm 10 tuổi, nhà thơ Trần Đăng Khoa là người đề nghị đổi câu thơ "Đường ta đi
rộng thênh thang tám thước" trong bài thơ "Ta đi tới" của nhà thơ Tố Hữu , thành
"Đường ta rộng thênh thang ta bước" . Điều này đã làm cho giới văn học Việt Nam
một phen ngỡ ngàng.
Trần Đăng Khoa nhập ngũ ngày 26 tháng 2 năm 1975 khi đang học lớp 10/10 tại
trường phổ thông cấp 3 Nam Sách, quân số tại Tiểu đoàn 691 Trung đoàn 2 Quân
tăng cường Hải Hưng. Sau khi thống nhất, việc bổ sung quân cho chiến trường
khong còn cần thiết nữa, ông được bổ sung về quân chủng hải quân. Sau đó ông
theo học Trường Viết văn Nguyễn Du và được cử sang học tại Viện Văn học Thế
giới M.
2. Những yếu tố ảnh hưởng đến con đường thơ của Trần Đăng Khoa.
a. Dòng sữa văn học dân gian của quê hương.
Tuổi thơ của Trần Đăng Khoa gắn bó máu thịt với thôn Điền Trì, xã Quốc
Tuấn một làng quê ven bờ sông Kinh Thầy. Cũng như bao trẻ em khác, ngay
từ khi còn trong nôi, Trần Đăng Khoa đã được nuôi dưỡng bằng những dòng
sữa ngọt ngào của văn học dân gian qua những điệu chèo Lưu Bình – Dương
Lễ, Quan âm Thị Kính...của bà ngoại, qua những lời kể về tích Trừu, Tống
Trân – Cúc Hoa... của mẹ.
b. Truyền thống gia đình
Trần Đăng Khoa xuất thân trong một gia đình có truyền thống văn học. Trần
Nhuận Minh (anh ruột Trần Đăng Khoa) đã có năng khiếu làm thơ văn
những khá khiêm nhường, bật lên trong thời kì đổi mới mà sau này trong
một cuộc phỏng vấn với báo chí, Trần Đăng Khoa đã cho đó là một sự “lột
xác”.
c. Ảnh hưởng từ các nhà thơ, văn bậc thầy.
Một điều may mắn là trong quá trình sáng tác, Trần Đăng Khoa đã được gặp
và tiếp xúc với các bậc thầy văn thơ như: Tố Hữu, Huy Cận, Tô Hoài, Chế
Lan Viên,... Những nhà văn, nhà thơ ấy đã dìu dắt rất tận tình để Trần Đăng
Khoa vượt qua sự ấu trĩ mà phát triển tư duy nghệ thuật, nhanh chóng trưởng
thành trong việc sáng tác thơTrong cuộc đời sáng tác, Trần Đăng Khoa chịu
ảnh hưởng sâu sắc của người thầy nghiêm khắc này.
d. Sự động viên, giúp đỡ của gia đình và thầy cô, bạn bè.
Từ khi biết đọc, biết viết, Trần Đăng Khoa đã hết sức tận dụng tủ sách của
anh Trần Nhuận Minh. Anh là người rất thích làm thơ, ham đọc sách. Anh
đã tạo cho mình một “thư viện nhỏ” ở trong nhà. Trần Đăng Khoa đã đọc rất
nhiều kho chỉ là học sinh cấp 1, cấp 2. Bấy giờ, Trần Nhuận Minh là một
thầy giáo, một nhà thơ được nhiều người ngưỡng mộ ở vùng đất mỏ Hồng
Gai. Trần Đăng Khoa rất khâm phục tài năng sáng tác thơ của anh trai mình.
Người đầu tiên được thưởng thức thơ của Trần Đăng Khoa là bé Thúy
Giang. Được anh Trần Đăng Khoa đọc thơ cho nghe, bé Giang rất thích và
cứ đọc đi đọc lại cho bạn bè nghe.
Một trong những nhân tố quan trọng góp phần làm cho thơ Trần Đăng Khoa
ngày một hay hơn chính là nhờ thầy cô, bạn bè. Những người thầy, người
bạn này đã hết lòng động viên, khuyến khích và bình phẩm, sửa chữa thơ
Trần Đăng Khoa
e. Thời đại kháng chiến chống Mĩ.
Những yếu tố làm nên những trang thơ văn có giá trị cho đời là yếu tố
thời đại mà tác giả đang sống (tất nhiên, tài năng của họ là chủ yếu). Hồn thơ
Trần Đăng Khoa được hình thành và phát triển cũng là nhờ một phần yếu tố
thời đại. Cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mĩ đặt dân tộc ta trước
những thử thách gay gắt. Đó là một thời đại mà đời sống mà số phận của
mỗi người phải gắn chặt với nhau, tính chất gay go, quyết liệt của cuộc chiến
đấu chông Mĩ, dân tộc ta phải huy động và phát huy cao độ tất cả sức mạnh
vật chất và tinh thần, phải gắn kết tất cả lại với nhau, không phân biệt tầng
lớp, lứa tuổi, giới tính, tôn giáo,.. Trong thời “đất nước đứng lên” như thế,
hồn thơ trẻ của Trần Đăng Khoa bỗng vụt sáng như một hiện tượng lạ chưa
từng có trong lịch sử văn học nước nhà. Hồn thơ đó đã nói lên tiếng nói
chung của cả dân tộc, được mọi người đồng tình, ủng hộ và ngưỡng mộ.
 Tóm lại, nếu không có những yếu tố như trên thì hồn thơ của Trần Đăng
Khoa sẽ không được hình thành và phát triển. Hoặc là nếu có hình thành
và phát triển cũng không thể gây dược tiếng vang như ngày hôm nay.
3. Sự nghiệp sáng tác.
Xuất bản trong nước:
- Từ góc sân nhà em (1968)
- Thơ Trần Đăng Khoa, tập 1 (tuyển 1966-1969) (1970)
- Góc sân và khoảng trời (1973)
- Khúc hát người anh hùng (trường ca – 1975)
- Kể cho bé nghe (1979)
- Thơ Trần Đăng Khoa, tập 2 (tuyển 1969 – 1975) (1983)
Xuất bản ở nước ngoài:
- Tiếng hát còn tiếp tục (Pháp, 1971)
- Góc sân và khoảng trời của tôi (Cu ba, 1973)
- Cánh diều no gió (CHDC Đức, 1973)
- Con bướm vàng (Hunggari, 1973)
Trần Đăng Khoa đã được nhận nhiều giải thưởng về thơ. Đặc biệt, anh đã
vinh dự nhận được Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
 Nội dung cơ bản của thơ Trần Đăng Khoa
1. Thiên nhiên nông thôn.
Đây là mảng đề tài được Trần Đăng Khoa thể hiện nhiều nhất trong thơ mình. Là
một người con được sinh ra và lớn lên ở nông thôn nên Trần Đăng Khoa có tấm
lòng yêu
thương, gắn bó sâu nặng đối với thôn Điền trì, xã Quốc Tuấn.. Từ sự gắn bó, từ
lòng yêu thương cảnh sắc thiên nhiên của quê nhà, Trần Đăng Khoa đã đưa vào thơ
mình những hình ảnh hết sức quen thuộc của làng quê Việt Nam. Đọc thơ Trần
Đăng Khoa, không chỉ các em nhỏ mà tất cả chúng ta đều nhận ra sự quen thuộcấy.
Ở đâu mà chẳng có góc sân, cây trầu, khoảng trời, cánh đồng, cánh cò bay, Ở đâu
mà chẳng có chẳng có trò chơi thả diều, chọc ếch, câu cá, Những hình ảnh đó trong
cái nhìn trong trẻo, tinh khiết của trẻ thơ bỗng trở nên có hồn, có thần và đầy chất
thơ. Tuy giống đấy mà lại khác đấy. Khác bởi cảm nhận của mỗi người không ai
giống ai. Đối với một số người, cây bàng, cây dừa, cây lựu, vườn cải hay chiếc
máy cày, cái nồi đồng, cây chổi, chỉ là những cây, những đồ vật vô tri vô giác.
Nhưng đối với Trần Đăng Khoa tất cả là bạn bè, tất cả đều có hồn, có hành động,
tất cả đều ngộ nghĩnh, đáng yêu.Cảnh sắc làng quê trong thơ ca cách mạng Việt
Nam hiện đại thường được miêu tả và cảm nhận trong dáng vẻ của làng quê nông
nghiệp cổ truyền. Nguyễn Duy đã viết bài thơ Hơi ấm ổ rơm làm cho chúng ta rất
xúc động bởi khi đọc lên, từ những dòng thơ tỏa ra một sự ấm nồng lạ lùng làm
cho những ai đang sống ở quê hương thì càng thêm yêu mến, những ai đang xa quê
thì nhớ thương da diết nơi chôn nhau cắt rốn của mình:
Hạt gạo nuôi hết thảy chúng ta,
Riêng cái ấm nồng nàn như lửa.
Cái mộc mạc lên hương của lúa,
Đâu dễ chia cho tất cả mọi người.
Trần Đăng Khoa của chúng ta chưa từng trải nghiệm trong cuộc sống nhưng đã có
bài thơ mà nhiều người nằm lòng:
Hạt gạo làng ta
Có vị phù sa
Của sông Kinh Thầy
Có hương sen thơm
Trong hồ nước đầy...
(Hạt gạo làng ta)
Sinh ra và lớn lên ở nông thôn, gắn bó với ruộng đồng nên hơn ai hết, Trần Đăng
Khoa hiểu rằng hạt gạo trong cuộc sống có một vị trí vô cùng quan trọng. Trong
những năm tháng chiến tranh thì giá trị của nó càng tăng lên gấp bội. Để có được
hạt gạo, người nông dân đã rất vất vả, phải bán mặt cho đất, bán lưng cho trời. Và
như đã nói, trong chiến tranh thì có biết bao người nông dân đang làm đồng đã chết
vì bom Mĩ. Thế nên, hạt gạo gửi ra tiền tuyến gửi về phương xa lại kết tinh thêm
tình cảm thiết tha, sâu nặng của hậu phương đối với tiền tuyến. Tố Hữu khi nhận
định về thi ca, đã viết: Bài thơ hay làm cho người ta không thấy câu thơ, chỉ còn
cảm thấy tình người. Với bài thơ này, Trần Đăng Khoa đã làm cho chúng ta cảm
nhận được tình người đó. Trần Đăng Khoa đã khiêm nhường cho rằng bài thơ của
mình hay là nhờ được nhạc sĩ Trần Viết Bính phổ nhạc. Không khó khăn để tìm ra
những em bé có những câu, những ý như Trần Đăng Khoa viết hạt gạo làng ta
nhưng mãi mãi chúng ta sẽ không tìm được ai khác ngoài Trần Đăng Khoa với câu
hạt vàng làng ta.
Cánh đồng làng Điền Trì cũng được Trần Đăng Khoa nói đến. Đó là nơi sản
xuất,trồng trọt của xóm làng. Đó là nơi tuổi thơ để mặc cho cánh diều thỏa sức
tung bay. Ngàyngày đứng trước sân nhà nhìn thấy cánh đồng nên nó trở nên quen
thuộc với tất cả những người nơi đây. Riêng Trần Đăng Khoa với giác quan tinh tế,
nhạy cảm đã phát hiện:
Cánh đồng làng Điền Trì
Sớm nay sao mà rộng
Sương tan trên mũi súng
Trên sừng trâu cong veo
(Cánh đồng làng Điền Trì)
Trần Đăng Khoa ngạc nhiên trước sự đổi thay cánh đồng bởi sau khi gặt hái xong
thì người dân bắt đầu cấy mạ cho một vụ mùa khác. Từ một cánh đồng chỉ trơ gốc
rạ nay bỗng nhiên tươi màu xanh của mạ trong sương sớm chưa tan. Hình ảnh đơn
sơ làm sao mà cũng đẹp làm sao. Trong con mắt yêu thương thì tất cả sự vật đều
trở nên đáng yêu, cho dù sự vật đó đối với người khác là bình thường.
Bên cạnh góc sân, cánh đồng thì dòng sông Kinh Thầy là nơi Trần Đăng Khoa hết
lòng thương mến. Chính dòng sông này đã tắm mát cho Trần Đăng Khoa. Chính
dòng song này đưa nước vào tưới mắt cho đồng ruộng, cây trái. Sông Kinh Thầy
trong thơ Trần Đăng Khoa có Hàng chuối lên xanh mướt Phi lao reo trập trùng.
Vậy thôi, nhưng người đi xa vẫn nhớ hoài, vẫn mong có ngày được trở về đi dọc
bờ sông, vùng vẫy trong dòng nước mát như thuở ấu thơ.
Thiên nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa còn có cả thế giới loài vật, đồ vật. Chúng
hiện ra với một dáng vẻ vô cùng sinh động, đáng yêu. Trần Đăng Khoa có thể trò
chuyện thân mật với con trâu người bạn vô cùng thân thiết của nông dân:
Trâu ơi, ăn cỏ mật
Hay là ăn cỏ gà
Đừng ăn lúa đồng ta
Trâu ơi, uống nước nhá
Trâu cứ chén cho no
Ngày mai cày thật khỏe
Đừng lo đồng nứt nẻ
(Con trâu đen lông mượt)
Những con vật trong thơ của một em bé đều có những nét đáng yêu: con mèo
(Đánh tam cúc), con gà (Nói với con gà mái, Ò ó o), con chó (Sao không về Vàng
ơi), chim (Tiếng chim chích chòe, con chim hay hót),... Trong bài Buổi sáng nhà
em, tất cả hiện lên thật sinh động trong cái nhìn và sự liên tưởng của trẻ thơ. Mèo
dậy rửa mặt trong tư thế hết sức đỏm dáng cái tay rửa mặt, cái đầu nghiêng
nghiêng. Cái Na, cu Chuối nghịch ngợm đứng vỗ tay cười. Chị Tre chải tóc bên ao,
nàng Mây thì ghé vào soi gương trong khi bà Sân đã vấn chiếc khăn hồng đẹp thay
từ khi Ông trời nổi lửa đằng đông.
Con người và sự vật gắn bó, giao hòa với nhau, cùng nhau bắt đầu ngày mới.
Không chỉ riêng nhà Trần Đăng Khoa mà mọi nhà đều như thế, tất cả tạo nên một
không khí nhộn nhịp, sôi động. Bài thơ mang đậm nét hồn nhiên, trẻ thơ đã làm
cho chúng ta vừa đọc vừa nở nụ cười trên môi. Cười vì không ngờ sự liên tưởng, ví
von của một em nhỏ lại hay và đúng bản chất của sự vật như thế. Cười vì đọc bài
thơ này ta như sống dậy một cảm giác yêu mến cuộc sống lạ lùng. Chợt nhận ra
những ngây thơ, hồn nhiên của tuổi thơ đã rơi rớt trên bước đường ta tìm kiếm
công danh, địa vị. Tự nhủ lòng sáng mai sẽ dậy sớm để lắng nghe âm thanh của
cuộc sống.
Hình ảnh con cò từ lâu đã được thơ ca Việt Nam biểu hiện như là một dấu hiệu về
làng quê nông nghiệp với những con người lam lũ, vất vả nơi đồng ruộng mà hồn
hậu, trắng trong. Trong cảm nhận của Trần Đăng Khoa, con cò có lúc hư ảo như
trong ca dao thần thoại:
Xưa mẹ ru em
Cũng tiếng võng này
Cánh cò trắng muốt
Bay - bay - bay - bay...
(Tiếng võng kêu)Nó cũng đáng thương, nhỏ bé trước cuộc đời:Trong giấc mơ em
Có gặp con cò
Lặn lội bờ sông
(Tiếng võng kêu)
Nhưng con cò ở đây có thêm những nét mới. Nó đánh nhịp bay vào bay ra như
những chớp trắng trên sông Kinh Thầy. Nó không còn đơn côi một mình trong
đêm tối mà trong bầy đàn, trong số đông và xuất hiện vào ban ngày, trong nắng
đẹp của trời quê yên ả. Và nếu trước kia tác giả dân gian thấy con cò đi đón cơn
mưa trong tối tăm mù mịt với vẻ cam chịu, thụ động, mệt mỏi, chẳng biết ai đưa cò
về thì đối với Trần Đăng Khoa:
Con cò
Trắng muốt
Bay ra đón cơn mưa...
Mừng đón cơn mưa
(Con cò trắng muốt)
Với một thái độ chủ động, tự tin, những con cò này trở thành tượng trưng cho tư
thế cứng cỏi, dũng cảm, cho tâm hồn trong trắng, thanh cao và ngay thẳng của con
người, làng quê Việt Nam đang vượt lên trên những thử thách khắc nghiệt. Nó góp
phần làm cho thiên nhiên ở làng quê Việt Nam tự ngàn xưa đã đẹp, hữu tình nay
càng thêm đẹp, thêm hữu tình hơn.
Đối với người lớn, thiên nhiên được miêu tả và cảm nhận chủ yếu bằng kinh
nghiệm, bằng lí trí và đôi lúc là cảm nhận bằng tâm trạng, nỗi niềm riêng của
mình. Còn trẻ con thì không thế. Đối với chúng, thiên nhiên chứa đựng những điều
kì diệu, bí ẩn, thú vị và chúng rất muốn chiêm ngưỡng, khám phá. Chính thiên
nhiên với tất cả sự phong phú, đa dạng của những sự vật đã giúp cho trẻ em nhận
thức, hình thành tư duy và từ đó phát triển trí tưởng tượng, làm giàu tâm hồn của
các em.
Các em sáng tác một cách ngẫu hứng, không chủ ý, không theo một đề tài nhất
định. Hãy đọc một số bài thơ của các em nhỏ, ta sẽ nhận ra một điều trùng hợp
ngẫu nhiên là các em miêu tả rất nhiều về thiên nhiên. Bên cạnh việc miêu tả, các
em cảm nhận được sự thay đổi của cảnh vật, thời tiết cho dù sự thay đổi đó rất nhỏ
mà đôi khi chúng ta không để ý đến.
Ánh trăng được Trần Đăng Khoa nhắc đến rất nhiều trong thơ mình (hơn 10 lần).
Trẻ em ở nông thôn ngày ấy rất thích chơi trước sân nhà vào những ngày trăng
sáng. Các trò chơi mang đậm tính dân gian: xỉa cá mè, mèo đuổi chuột, Với Trần
Đăng Khoa, trăng không chỉ là một người bạn thân thiết cùng em chơi, chia sẻ bao
điều suy nghĩ mà còn là một người bạn thơ. Vẻ đẹp của trăng làm cho mọi vật như
lặng đi:
Hàng cây cau lặng đứng
Hàng cây chuối đứng im
Con chim quên không kêu
Con sâu quên không kêu
Chỉ có trăng sáng tỏ
Soi rõ sân nhà em
(Trăng sáng sân nhà em)
Thực ra, chính Trần Đăng Khoa người đứng lặng trước ánh sáng huyền diệu ấy.
Trong tư thế đó, Trần Đăng Khoa cảm giác như tất cả mọi vật xung quanh cũng
đều như thế. Ánh trăng mênh mông, bát ngát như rải thảm xuống nhân gian làm
rung động một tâm hồn bé nhỏ. Không chỉ có một lần mà còn nhiều lần khác nữa:
Tiếng đàn bầu và đêm trăng, Trông trăng, Trăng ơi từ đâu đến... Trăng gợi cho
Trần Đăng Khoa biết bao liên tưởng, so sánh, mỗi liên tưởng, so sánh là một điều
bất ngờ, thú vị, ngộ nghĩnh mà lại rất hợp với trẻ con:
Trăng như cái mâm con
Ai treo ông cao thế
Ông nhìn đàn em bé
Muốn khoe cái mặt tròn
(Trông trăng)
Trăng hồng như quả chín
Lửng lơ trước sân nhà
Trăng tròn như mắt cá
Không bao giờ chớp mi
Trăng bay như quả bóng
Bạn nào đá lên trời
(Trăng ơi từ đâu đến)
Đó là những lúc trăng tròn. Còn khi trăng khuyết thì:
Ông trăng cười những lợi
Răng chẳng chiếc nào còn
(Trăng đầu tháng)
Không chỉ có trăng mà tất cả cảnh vật ở làng quê ấy đều gợi cho chúng ta một cảm
giác thanh thản, bình yên khi đọc lên những vần thơ được viết từ tâm hồn tinh tế,
nhạy cảm, sâu sắc của Trần Đăng Khoa. Nhà thơ nhỏ này không chỉ quan sát mà
còn hòa long mình với thiên nhiên nên lắng nghe được mọi âm thanh, phát hiện
được sự vận động của sự vật như trong bài Chớm thu:
Nửa đêm nghe ếch học bài
Lưa thưa vài hạt mưa ngoài hàng cây
Nghe trời trở gió heo may
Sáng ra vại nước rụng đầy hoa cau.

Dường như thời khắc nửa đêm gây cho người ta niềm xúc động mạnh mẽ. Lúc này
con người sẽ được trở về sống với chính mình chứ không phải cho kẻ khác. Và, chỉ
những người nào có những nỗi niềm, trăn trở mới phải thức đến lúc này. Chú bé
Trần Đăng Khoa, có lẽ, chỉ giật mình thức giấc nhưng trong cái se lạnh của gió heo
may cùng tiếng mưa khẽ rơi và hương thơm thoang thoảng của hoa cau đã không
tài nào ngủ tiếp được. Cảnh vật thiên nhiên đã không vận động, biến đổi một mình
mà còn có một con người bé nhỏ đang lặng theo dõi. Nằm trong nhà mà nghe được
nhiều sự vật như thế, hẳn không chỉ Trần Đăng Khoa có thính giác tinh nhạy mà
chính là nhờ vào vốn hiểu biết của mình. Kiểu mưa nhẹ nhàng điểm xuyết thêm cái
rét mướt của gió heo may báo hiệu một mùa Đông sắp đến chỉ có ở đồng bằng Bắc
bộ mà thôi. Một bài thơ ngắn nhưng nắm bắt được khoảnh khắc tuyệt vời của đất
trời. Em nhỏ sống ở miền Nam không thể viết được những câu thơ như thế.
Trần Đăng Khoa còn nghe được rất nhiều âm thanh mà không phải ai cũng nghe
được nếu như không có sự tinh nhạy của giác quan, đặc biệt là tâm hồn yêu thiên
nhiên sâu đậm:
Tiếng sương đọng mật
Đọng mật trên cành tre
Nghe ri rỉ tiếng sâu
Nó đang thở cuối tường
Nghe rì rầm rặng chuối
Há miệng đòi uống sương
(Nửa đêm tỉnh giấc)
Đọc những câu như thế, chúng tôi không thể không xuýt xoa bởi phát hiện tinh vi
của Trần Đăng Khoa và tự nhủ: Thì ra giọt sương, rặng chuối, sâu cũng có âm
thanh nữa đấy. Nhưng chắc gì chúng ta nghe được nếu không có một tâm hồn như
Trần Đăng Khoa. Cái tài, cái tình của Trần Đăng Khoa còn thể hiện ở việc cảm
nhận được một âm thanh mà mình không thể gọi tên, và không biết có thực hay
không:
Một tiếng gì không rõ
Xôn xao cả đất trời…
Sẽ không quá lời khi Dương Thu Hương đã mượn lời của Pautôpxki nhận xét về
Anđecxen để nói tâm hồn nhạy cảm của Trần Đăng Khoa: “ Có tài nhìn thấy trong
đêm tối tiếng quang xa của tường vi giống ánh lấp lánh của đêm trăng, (…) có tai
nghe thấy tiếng càu nhàu của một gốc cây bị dẫn lưu cữu trong rừng”
Nếu như ở bài Chớm thu và Nửa đêm tỉnh giấc, tác giả đã gợi cho chúng ta một
không gian, thời gian thật thơ mộng, bình yên của làng quê thì ở bài Ò ó o… là
một cảnh ồn ào, náo nhiệt của làng quê vào buổi sớm: Tiếng gà – Giục quả na –
Mở mắt – Tròn xoe - Giục hàng tre – Đâm măng – nhọn hoắt – Giục buồng chuối –
Thơm lừng – Trứng cuốc – Giục hạt đậu – Nảy mầm – Giục bông lúa – Uốn câu –
Giục con trâu – Ra đồng – Giục đàn sao – Trên trời – Chạy trốn,… Tất cả như hối
hả, như bừng tỉnh sau một giấc ngủ. “Tiếng gà đánh tan âm khí nặng nề, ở hoàn
cảnh nước ta đang có giặc Mĩ xâm lược…” (Một em nhỏ làm thơ – Xuân Diệu).
Tiếng gà như một hiệu lệnh báo hiệu cho một ngày mới bắt đầu, sự vật thì sinh sôi,
nảy nở, chuyển đổi liên tục còn con người thì lao động sản xuất phục vụ cho công
cuộc vệ quốc vĩ đại. Nhịp điệu bài thơ thật sôi nổi, rộn ràng như chính cuộc sống
của những năm tháng chống Mĩ “tất cả tất cả cho tiền tuyến”.
Người đọc thích và khen ngợi thơ Trần Đăng Khoa không chỉ ở cách miêu tả thật
hay, chân thật mà còn ở chỗ các sự vật đều có hồn, đều biến chuyển, vận động như
con người. Trẻ em thường lầm tưởng những điều chúng trông thấy thực sự và
những điều chúng tưởng tượng từ thực tế ấy. Bởi thế, thơ của chúng miêu tả về sự
vật vừa quen mà cũng vừa lạ lùng, ngộ nghĩnh, đáng yêu. Những chuyển đổi âm
thầm của vạn vật được Trần Đăng Khoa cảm nhận một cách tinh tế: trời trở gió heo
may, sắp mưa, tiếng gió trở mình trăn trở trong đêm thu, nhịp thở của cái ngõ nhỏ,
tiếng sâu, tiếng hạt sương đọng mật, “tiếng cây lách cách đâm chồi” và tuyệt vời
hơn nữa là tiếng rơi của chiếc lá đa “tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng”. Câu
thơ này đã được mọi người hết lời khen ngợi. Nghiêng gợi tả hình dáng nhiều hơn
nên khi mới đọc ta cứ nghĩ rằng người viết đã trông thấy chứ không phải nghe
thấy. Đọc thơ Trần Đăng Khoa, ta như được sống với những hình ảnh dung dị nhất
về một miền quê yên bình, ấm áp tình người. Tất cả những sự vật, sự việc, con
người dưới con mắt trẻ thơ thông minh, đầy sáng tạo đã đi vào thơ đong đầy kỉ
niệm. Một phút đứng ở bờ ao nhìn hoa khế rụng, nghe tiếng chim hót, một lần sang
nhà bạn thấy chú bù nhìn, một mầm hoa dại ven đường,… cũng gợi cho Trần Đăng
Khoa niềm thương mến thiết tha. Tất cả hồn quê được Trần Đăng Khoa lưu giữ
bằng thơ để những ai mỗi khi nhớ quê hương đọc lên cảm thấy mình đã tìm được
một đồng hương, một tri âm. Viết về thiên nhiên thành công như thế, phải thừa
nhận rằng bên cạnh tâm hồn, tài năng của mình Trần Đăng Khoa còn học tập rất
nhiều từ văn học dân gian và các nhà văn, nhà thơ bậc thầy. Những học tập đó
được vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo. Trong bài Đám ma bác Giun ta thấy
thấp thoáng hình bóng ca dao:

Con cò mắc dò mà chết


Mẹ con bìm bịp đổ thóc nếp ra xay
Cà cuống uống rượu la đà
Con cóc, con ngóe nhảy ra chia phần
Từ nhà văn Tô Hoài, Trần Đăng Khoa đã học để viết “Bờ tre vẫn chú dế mèn vuốt
râu” (Gửi bạn Chi-lê) dựa vào “Dế mèn phiêu lưu kí” và “Hạt mẩy uốn cong –
Chim ngói bay theo đàn” dựa vào đoạn văn “Tháng năm chim gáy đi ăn đôi, tháng
mười chim gáy về theo đàn”. Từ nhà văn Anđecxen, Trần Đăng Khoa viết “Chim
co chân ngủ - Lim dim cành tre” dựa vào hình ảnh con cò “đứng một chân vững ra
phết”, “Cô gió chăn mây trên đồng” dựa vào hình ảnh của cô bé chăn cừu trong
truyện. Từ nữ sĩ Anh Thơ, Trần Đăng Khoa viết “Bố em đi cày về - Đội sấm – Đội
chớp – Đội cả trời mưa” dựa vào bài Chiều xuân: “Ngoài đường lội, một vài người
về chợ - trĩu gánh hàng như trĩu cả quang mưa”.
2. Hình ảnh người nông dân.
Bên cạnh thiên nhiên thì con người cũng được Trần Đăng Khoa miêu tả chân thực,
sinh động. Chủ yếu là những người nông dân với đời sống nhọc nhằn, vất vả mà
tâm hồn trong trắng, mộc mạc và giàu nghĩa tình. Người nông dân mà Trần Đăng
Khoa gần gũi và yêu thương nhất chính là bố mẹ của mình. Là con nhà nông, Trần
Đăng Khoa am hiểu tường tận công việc bố mẹ làm hàng ngày. Những vần thơ em
viết về bố mẹ cũng chính là viết về người nông dân nói chung ở quê hương mình.
Hạt gạo làng ta như một khúc hát yêu thương, ca ngợi những người nông dân. Ai
cũng biết rằng để có được hạt gạo thì người nông dân phải làm lụng rất vất vả: “
Giọt mồ hôi sa – Những trưa tháng sáu –Nước như ai nấu – Chết cả cá cờ - Cua
ngoi lên bờ - Mẹ em xuống cấy…”. Ta thấy có sự đối lập giữa hai hình ảnh Cua
ngoi lên bờ và Mẹ em xuống cấy. Từng nhánh mạ tươi non, thẳng đều tăm tắp đều
có giọt mồ hôi của mẹ nhỏ xuống.
Người viết sống ở miền Nam, quanh năm đối mặt với cái nóng cứ ngỡ rằng miền
Bắc cũng chẳng hơn gì. Nhưng khi đọc bài Ao nhà mùa hạn mới biết mình đã sai:
Mùa mưa mà mưa chẳng đến
Đáy sâu nẻ toác khi nào
Rêu nằm mơ những sấm sét
Rồi khô trên cọc cầu ao…

Cái nắng như muốn hủy diệt tất cả. Rêu là loại thực vật dễ sống, chỉ cần không khi
hơi ẩm cũng đủ để chúng tồn tại. Thế nhưng thời tiết khắc nghiệt, mưa chỉ còn là
niềm mơ ước. Và chúng đã chết khô. Trong khi đó con người, nhất là người nông
dân vẫn phải ra đồng lao động. Người đọc như được Trần Đăng Khoa truyền sang
nỗi thấm thía, xúc động mạnh mẽ xen lẫn cảm thông, biết ơn những con người
ngày đêm lao động, cống hiến thầm lặng cho cuộc sống này. Những câu thơ “chạm
vào bản chất của nông dân quê hương” Giọt mồ hôi gợi cho ta liên tưởng đến câu
ca dao:
Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày
Nếu như mẹ em đứng cấy bất chấp cả cái nắng gay gắt, dữ đội của mùa hè Bắc bộ
thì bố em là người hùng trong cơn mưa: “Bố em đi cày về - Đội sấm – Đội chớp –
Đội cả trời mưa…”. Bức chân dung của người nông dân không bị mưa gió làm
nhạt nhòa mà ngời sáng như một tâm điểm của đất trời. Nắng mưa hay thậm chí là
những thiên tai nào khác là điều mà người nông dân phải chống chọi, phải vượt
qua. Sức mạnh của họ không phải là sức mạnh thần thánh mà chính là sức mạnh đã
trải qua những năm tháng lao động vất vả cùng với niềm tin bất diệt: Cuộc kháng
chiến của dân tộc ta sẽ chiến thắng, đất nước ta sẽ thống nhất hoàn toàn. Niềm tin
đó là động lực thúc đẩy họ lao động và chiến đấu trong lạc quan. Trên cánh đồng
lúc nào cũng có tiếng nói, tiếng cười:
Nơi này mấy bác cày
Đâu nghiêng nghiêng chiếc nón…
Nơi kia là mấy chị
Thì thòm tát gầu dai…
Nơi ấy mấy cô cấy
Ngửa tay phí mặt trời
Mạ bén hàng thẳng đứng
Hồn nhiên trong tiếng cười
(Cánh đồng làng Điền Trì)
Đời sống tinh thần của người nông dân rất đơn giản, bình dị. Niềm vui của họ là
niềm vui được lao động, được cống hiến, được gặt hái những bông lúa vàng tươi
sau một vụ mùa:
Chị chủ nhiệm rũ rơm
Anh dân quân đập lúa
Thóc nở bung như sao
Nhuộm vàng cả trời sao.
(Thôn xóm vào mùa)
Trần Đăng Khoa viết nhiều về người nông dân không chỉ trên đồng ruộng mà còn
trên sông nước, trong các công việc kiến thiết nước nhà. Đó là bác chài ngồi
“buông câu trong bóng chiều” (Bên sông Kinh Thầy). Đó là các chị đi sửa đường
hò vang theo từng vòng bánh xe lăn trên đường (Chiếc ngõ nhỏ). Đó là các chị
thanh niên xung phong (Đi tàu hỏa). Đó là bác kéo xe chở vật liệu về xây dựng
trường học (Lọc cà lọc cọc)… Người nông dân trong thơ Trần Đăng Khoa là con
người mới, tuy vất vả, khó nhọc nhưng năng động và yêu đời, say mê nghệ thuật
khác hẳn người nông dân lầm lũi trong ca dao xưa. Miền Bắc là cái nôi văn hóa
nghệ thuật, người dân xem sân khấu và âm nhạc là hơi thở, là lẽ sống của mình.
Thế nhưng kẻ thù đến, mang theo bom đạn ngày đêm gào thét. Tiếng đàn, tiếng
hát, những tuồng chèo,… bỗng trở nên quý báu, là niềm khao khát của con người
Việt Nam. Những khi đoàn văn công đến làng thì vui như hội. Tất cả bà con đều
tập trung quanh các anh văn công Quân giải phóng để lắng nghe tiếng đàn, tiếng
hát:
Chị dân quân lái máy cày
Ngón chân cái vết bùn non còn lấm
Cụ già mấy lần tiễn cháu con ra trận
Đông nhất là trẻ em lên chín, lên mười
Tất cả bỗng thành thi sĩ
(Tiếng đàn bầu và đêm trăng)
Cũng có khi làng tự tổ chức đêm văn nghệ. Thế là những nông dân lam lũ hàng
ngày bỗng trở thành diễn viên. Họ đã sống hết mình với vai diễn:
Kìa cô Thị Mầu lên chùa
Đỏng đảnh dáng đi, mắt liếc
Ngắm cái tay cô phẩy quạt
Tưởng mình sống đã trăm năm
(Cô Thị Mầu)
Những người xem cũng chỉ biết có cô Thị Mầu đỏng đảnh:
Người xem thoáng như quên chị
Chiều nay gánh lúa trên đồng
Tảo tần nuôi em, nuôi mẹ
Mười năm ròng rã chờ chồng…
Cả cuộc đời gắn bó với ruộng đồng, với lũy tre làng, cây đa, bến nước… nhưng khi
đất nước lâm nguy, họ sẵn sàng lên đường chiến đấu, không một chút đắn đo, do
dự. Hình ảnh chú dế mèn điềm nhiên vuốt râu (trong Gửi bạn Chi-lê) là tư thế của
người nông dân ung dung, sẵn sàng ra chiến trường chiến đấu bảo vệ từng tấc đất,
ngọn rau cho quê hương, đất nước mình. Để rồi có người ngã xuống ở vùng đất xa
xôi nào đó của Tổ quốc, có người trở về với thân thể không còn nguyên vẹn, lại
tiếp tục làm bạn với cái cuốc, cái cày, con trâu, tiếp tục lao động, tiếp tục cống
hiến. Ở thời kì sau (1975 đến nay), thơ của các em thiếu nhi vẫn viết về thiên
nhiên, về con người, nhất là những người thân xung quanh mình nhưng không có
được cái không khí khẩn trương, sôi nổi như Trần Đăng Khoa và các bạn của mình
đã viết trong thời đại kháng chiến chống Mĩ. Tình cảm của con người và cảnh vật
nơi đồng ruộng được Trần Đăng Khoa thẩm thấu và đưa vào bài Khi mùa thu sang.
Cảnh vật không lạ nhưng ăm ắp tình làm cho Trần Đăng Khoa muốn kêu to lên
“Thu sang rồi đấy! Thu sang!”. Chúng tôi nghĩ, thơ hay không chỉ ở các con chữ
đọc lên nghe mượt mà, êm dịu mà cốt ở cái tình của tác giả đối với đối tượng được
thể hiện. Nếu tác giả không xúc động, không có cái tâm mà chỉ muốn phô diễn sự
lạ thì làm sao có thể thổi hồn vào các con chữ được? Chúng tôi rất tán đồng ý kiến
cho rằng Trần Đăng Khoa đã sáng tác “không chỉ bằng tâm hồn của một cậu bé lớn
lên cùng những trò chăn trâu, thả diều, bắt cá mà thực sự còn bằng máu thịt của
người nông dân”. Ai đã hòa nhịp thở của mình với từng thay đổi rất nhỏ của của
vạn vật mới có thể cảm nhận được: “Mùi bùn đang ngấu – Mùi phân đang hoai –
Vôi chưa tan hẳn - Còn hăng rãnh cày…” để rồi say sưa, ngây ngất: “Trời đất đêm
nay – Như chim mới hót – Như rượu mới cất – Như mật mới đong… Thịt da ta
cũng – Tỏa hơi ruộng đồng…” (Hương đồng). Thiên nhiên và con người hòa làm
một:
Đất trời cách một gang mây
Và tôi cùng với luống cày tỏa hương…
(Đồng chiều)
3. Âm vang của thời đại qua một tâm hồn thơ trẻ.
3.1. Số phận của những em bé Việt Nam trong chiến tranh
Càng yêu quê hương, đất nước Việt Nam bao nhiêu thì con người Việt Nam càng
căm thù giặc Mĩ bấy nhiêu. Không chỉ có người lớn mới biết yêu thương và căm
thù mà trẻ con cũng thế. Lẽ ra, trong tâm hồn ngây thơ, trong trắng của những trẻ
em ở lứa tuổi Trần Đăng Khoa lúc bấy giờ chỉ nên có lòng yêu thương chứ không
có lòng thù hận. Khi Trần Đăng Khoa lên bảy, lên tám thì bè lũ Nhà Trắng bắt đầu
mở rộng chiến tranh ra miền Bắc. Trong hoàn cảnh chiến tranh, chứng kiến những
hoang tàn, đổ nát, chết chóc do chiến tranh gây ra như thế làm sao có thể không
đau xót? Tập thơ Góc sân và khoảng trời của Trần Đăng Khoa là những lời đồng
cảm sâu sắc giúp chúng ta thấu hiểu được số phận và tâm hồn của những em bé
Việt Nam trong chiến tranh.
Đáng lí ra, những em bé - mầm non của một đất nước - phải được nâng niu,
chămsóc và tạo mọi điều kiện để phát triển, để các em được hưởng mọi ưu ái như
lời Tố Hữu luôn căn dặn những nhà văn, nhà thơ khi sáng tác cho thiếu nhi phải
luôn tâm niệm một điều: “Cái gì càng ngon, càng hay, càng đẹp, càng vui thì chúng
ta để dành cho các em”. Đằng này, các em lại là những nạn nhân trực tiếp hoặc
gián tiếp phải gánh chịu những hậu quả của khói lửa, đạn bom. Hậu quả trực tiếp:
có biết bao sinh mạng của những người thân của các em bị bị chiến tranh cướp đi
và chính các em cũng bị chiến tranh giết hại “nó thiêu cả bé chưa và được cơm”
(Gửi bạn Chi-Lê). Hậu quả gián tiếp: Người lớn (ông bà, cha mẹ…) không có
nhiều thời gian để chăm sóc cho con em của mình, bởi vì họ bận sản xuất, chiến
đấu và nuôi bộ đội hay bất kì công việc gì góp phần bảo vệ đất nước. Thế nên, các
em phải tự chăm sóc bản thân mình là chính. Cũng là một em nhỏ như bao em nhỏ
khác, Trần Đăng Khoa đã nhìn thấy và xót xa về điều đó qua nhiều bài thơ trong
26 tập Góc sân và khoảng trời mà hình ảnh gần gũi và được nhắc khá nhiều là em
gái của mình - bé Thúy Giang. Thường là mọi người trong nhà đi vắng hết, bé
Giang phải ở nhà một mình. Ta có thể hình dung khuôn mặt tiu nghỉu thật tội
nghiệp khi em nhìn trước, ngó sau chẳng thấy ai khác ngoài chú mèo:
Cả nhà vắng hết
Chỉ còn bé Giang
Bé đánh tam cúc
Với con mèo hoang
(Đánh tam cúc)
Bé đã nảy ra một trò chơi với người bạn nhỏ này. Đối với mọi người, bé Giang chỉ
là một em bé 4, 5 tuổi, vẫn còn rất nhỏ. Vậy mà, khi chơi với chú mèo khoang, bé
lại trở thành người lớn. Bé rất biết nhường nhịn chú mèo khi nó tỏ ra nũng nịu:
À thôi mày được
Bé Giang dỗ dành
Mèo lè lưỡi đỏ
Liếm vào răng nanh…

Trần Đăng Khoa rất thương, rất thấu hiểu và thông cảm với bé Giang. Bản thân
Trần Đăng Khoa mới ít tuổi đầu cũng đã tỏ ra là người lớn qua những lời dặn dò
em:
Dặn em đừng có chơi xa
Máy bay Mĩ bắn không ra kịp hầm
Đừng ra ao cá trước sân
Đuổi con bươm bướm trượt chân ngã nhào
Đừng đi bêu nắng nhức đầu
Đừng vầy nghịch đất, mắt đau, lấm người
(Dặn em)
Những “đừng” trong lời dặn dò thể hiện thái độ quan tâm, chăm sóc của một người
anh dành cho em và cũng chứng tỏ Trần Đăng Khoa phải người lớn so với tuổi của
mình. Không chỉ thương mỗi bé Giang, Trần Đăng Khoa còn nhận ra xung quanh
mình còn có những số phận trẻ em đồng trang lứa với mình phải chịu những bất
hạnh của cuộc chiến tranh xâm lược của kẻ thù:
Em biết lúc này giặc Mĩ đang đốt giết
Những bé thơ cùng với các đồ chơi
Những mái nhà cùng với tiếng chim vui
Những cánh rừng cùng với vầng trăng bạc
(Thư thơ)
Và ngay cả các con vật đồng thời là người bạn nhỏ mà các em yêu thương cũng bị
bom đạn làm cho khiếp sợ mà chạy tán loạn (Sao không về Vàng ơi) Lớn hơn tuổi
không chỉ có việc nhận thức đó, Trần Đăng Khoa ý thức được nỗi cực nhọc của
mẹ. Ý thức đó được thể hiện bằng hành động cụ thể, Trần Đăng Khoa đã giúp mẹ
làm rất nhiều công việc: Chống hạn, bắt sâu, chọc ếch, đưa em ngủ (trong “Tiếng
võng kêu”), kéo xe chở phân lót ruộng (trong “Cánh đồng làng Điền Trì”) … Khi
mẹ vắng nhà, Trần Đăng Khoa giống như một cô Tấm hiền lành, đảm đang trong
cổ tích bà từng kể :
Khi mẹ vắng nhà, em luộc khoai
Khi mẹ vắng nhà, em cùng chị giã gạo
Khi mẹ vắng nhà, em thổi cơm
Khi mẹ vắng nhà, em nhổ cỏ vườn
Khi mẹ vắng nhà, em quét sân và quét cổng
Những gì Trần Đăng Khoa làm giúp cha mẹ thì có lẽ những em bé khác cũng thế,
tất cả các em phải làm lụng vất vả và bớt phần vô tư đùa nghịch. Các em chăm
ngoan như thế, nhưng khi được mẹ khen ngợi thì chẳng chịu nhận mà cứ một mực
“con chưa ngoan, chưa ngoan!”. Trong những đầu óc ngây thơ ấy đã biết nghĩ rằng
việc của mình làm chỉ là cỏn con, chưa thể bù đắp được những vất vả, gian lao của
mẹ:
Áo mẹ mưa bạc màu
Đầu mẹ nắng cháy tóc
Mẹ ngày đêm khó nhọc
Một em bé mới 9 tuổi đầu đã biết quan sát hiện tượng (áo mẹ bạc màu, tóc mẹ
cháy nắng) để nhìn ra bản chất (mẹ ngày đêm khó nhọc). Vì đâu mà các em phải
sớm già dặn như thế nếu không phải vì cuộc xâm lược phục vụ cho lòng tham lam,
độc ác của bọn đế quốc Mĩ? Hiện thực cuộc sống đòi hỏi các em phải như thế.
Sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh chiến tranh, phải tự chăm sóc bản thân khiến
các em sớm có ý thức hơn nhưng không vì thế mà mất đi nét hồn nhiên, ngây thơ
vốn có của trẻ nhỏ. Tập thơ của Trần Đăng Khoa đã miêu tả rất sinh động những
trò chơi mà chỉ có những em thiếu nhi ở vùng nông thôn mới có được. Đó là các
trò chơi rất đậm chất dân gian: xỉa cá mè, mèo đuổi chuột, thả diều,… Tất cả
những trò chơi ấy thường diễn ra dưới ánh trăng vàng - người bạn thân thiết của
Trần Đăng Khoa. Vẻ ngây thơ đáng yêu của các em được thể hiện qua cái nhìn hết
sức ngộ nghĩnh mà người lớn không thể nào có được:
Ông trăng cười những lợi
Răng chẳng chiếc nào còn
(Trăng đầu tháng)
Trăng đầu tháng khuyết và nếu từ dưới đất nhìn lên thì thấy một vài vệt đen nhô
lên làm cho bé thơ liên tưởng đến lợi của con người và sau đó lại thắc mắc rất ngây
ngô nhưng có lí:
Chú ơi trăng già thế
Sao bà bảo trăng non?
(Trăng đầu tháng)

Có lí bởi vì mọi người gọi trăng đầu tháng là trăng non nhưng trong mắt trẻ thơ thì
trăng lúc ấy trông giống như một cụ già đã rụng hết răng, chỉ còn trơ lợi mà thôi.
Câu thơ hồn nhiên và nói rất đúng tâm lí của trẻ thơ. Chúng có vô số thắc mắc và
mong muốn được giải đáp. Ngoài việc thắc mắc, chúng rất hay bắt chước những
hình ảnh, hành động của ai đó mà chúng trông thấy hàng ngày và đặc biệt là có
cảm tình với hình ảnh, hành động đó. Hoàng Hiếu Nhân, nhà thơ trẻ cùng trang lứa
với Trần Đăng Khoa, đã diễn tả lại hình ảnh chú bộ đội lúc hành quân làm cho cả
nhà vô cùng thích thú vì em đã gọi lại những kỉ niệm chiến đấu một thời. Cháu bé
Minh Hà thì khác. Cháu đã làm điệu bộ y hệt bà của mình khiến cho mọi người
vừa ngạc nhiên vừa xúc động:
Cái chân thì khệnh khạng
Tay vắt vẻo lưng cong
Đầu vấp va vấp vểnh
Cháu bỗng hóa bà còng
(Cháu làm bà còng)
Trần Đăng Khoa đã miêu tả chính xác hình dáng và điệu bộ của người bà qua các
từ láy giàu sức gợi hình: khệnh khạng, vắt vẻo, vấp va vấp vểnh. Hình ảnh người
bà được khắc họa mang dấu ấn của thời gian và chứa đựng niềm yêu thương tha
thiết của tác giả. Ở một bài thơ khác cháu bé lại tạo rất nhiều dáng điệu đáng yêu
như đang được chụp ảnh:
- Nón che kín đầu
Cháu thành con ốc
- Khăn bay mái tóc
Cháu hoá bướm hồng
- Váy hoa quay tít
Cháu thành con ong
- Nằm giữa lòng ông
Cháu là hạt thóc…
(Chụp ảnh)
Và đây nữa, sự vô tư của em nhỏ tội nghiệp, mới vài tuổi đầu đã biết thế nào là
bom đạn:
- Chú này buồn cười lắm nhé
Bom rùng. Cháu lại ngủ mê
Cứ tưởng tay bà đưa võng
Như ngày ru cháu ở quê..
(Cháu về)
Lời kể của cháu nhỏ nghe “líu ríu như là tiếng chim” nhưng nội dung lời kể lại
chứa đựng cả một sự thật lịch sử đang diễn ra trên đất nước ta. Chiến tranh đã dạy
cho bé biết:
- Chú ơi, nếu còn bom Mĩ
Chú phải bịt tai thế này
Cháu bỗng xoay người ngang ghế
Như vừa có tiếng máy bay
(Cháu về)
Ngoài bản tính hồn nhiên, ngây thơ vốn có của trẻ thơ các em thiếu nhi của Việt
Nam trong chiến tranh còn có những điểm khác với trẻ em thế giới là luôn tự tin,
rắn rỏi trong hoàn cảnh khó khăn, khắc nghiệt:
Và các bạn thiếu niên
Bằng tuổi em
Trong tầm ngắm súng thù
Vẫn treo cao cờ đỏ
(Điều anh quên không kể)
Chúng tôi đến lớp ngày ngày
Mũ rơm tôi đội, túi đầy thuốc men
Ao trường vẫn nở hoa sen
Bờ tre vẫn chú dế mèn vuốt râu
(Gửi bạn Chi-Lê)
Và rất hiên ngang qua lời khẳng định :
Chúng tôi chẳng sợ Mĩ đâu
Vẫn vui vẫn hát những câu rộn ràng
(Gửi bạn Chi-Lê)
Đó là những dòng thơ mà Trần Đăng Khoa đáp lại với bạn bè thế giới và cũng để
đính chính lại ý nghĩ :
Người bạn nhỏ Việt Nam
Vắng nụ cười trên môi
(“Bức thư ngỏ Việt Nam” của Miraga Hilimét- thiếu nhi nước Chi-lê)
Đúng là thiếu nhi Việt nam có đói cơm, khát nước, có vất vả vì phải tự chăm sóc
bạn thân, phải lao động trong hoàn cảnh khắc nghiệt của chiến tranh nhưng không
vì thế mà “vắng nụ cười trên môi”. Trái lại, các em “vẫn vui vẫn hát những câu rộn
ràng”. Đó là một đặc điểm không thể thiếu của lứa tuổi thiếu nhi. Và đó cũng thể
hiện niềm tin của các em vào tương lai tươi sáng của đất nước. Niềm tin ấy là có
cơ sở thực tiễn. Khi Trần Đăng Khoa làm bài thơ “Gửi bạn Chi-lê” thì đất nước ta
đang có nhiều thắng lợi trên các chiến trường cả nước:
Miền Nam thắng trận Đông Xuân
Miền Bắc bắn rụng hàng ngàn máy bay
Lạc quan, tin tưởng vào tương lai của đất nước, các em thiếu nhi Việt Nam rất
muốn đóng góp công sức của mình vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Ngày ngày, các em làm những công việc vừa sức của mình như lời Bác Hồ dạy
“tuổi nhỏ làm việc nhỏ” và không lúc nào thôi mơ ước cho tương lai:
Nếu còn thằng giặc Mĩ
Hay bất cứ giặc nào
Tớ sẽ đi bộ đội
Giọng Tư nghe tự hào
(Bắt ông Rừng nộp củi)
“Nếu các thằng giặc thua”- lời tiên đoán của một đứa trẻ mà lại tràn đầy niềm tin
tưởng mang tính cách của con người Việt Nam: lạc quan trong mọi hoàn cảnh. Sau
lời tiên đoán ấy thì các em chia nhau các công việc góp phần xây dựng đất nước:
em thì làm nhà du hành vũ trụ, em thì vào văn công, em thì sẽ bắc chiếc cầu dài
qua sông. Mơ ước bắc chiếc cầu “dài hàng trăm ngàn thước” của các bạn Trần
Đăng Khoa thật trùng hợp với lời của Đỗ Thị Đoan Trang tâm tình với cây gạo:
Cây nhủ em: chóng lớn
Học giỏi thành công nhân
Bắc cầu trên sông rộng
Cho đò khỏi sang ngang.
Trẻ con nào chẳng mơ ước. Có những mơ ước thật cao xa và cũng có nhưng mơ
ước thật giản dị nhưng tất cả đều xuất phát từ ý muốn làm giàu đẹp cho quê hương
đất nước. Riêng Trần Đăng Khoa thì mơ ước “suốt đời làm thơ”. “Cái ước mơ
thành nghệ sĩ này quả là một nét mới”.
Những câu thơ như thế đã trả lời cho câu hỏi mà bao năm nay thế giới đã dày công
đi tìm đáp án: Tại sao Việt Nam - một đất nước nhỏ bé - lại có thể chiến thắng
được Mĩ - một đế quốc đã có nhiều chiến tích lẫy lững trong các cuộc xâm lược
các quốc gia trên thế giới? Chính kẻ thù của chúng ta cũng đã và đang đau đầu bởi
họ vẫn không thể tin được một yếu tố phi vật chất lại làm nên lại làm nên thắng lợi
trong cuộc chiến không cân sức: tinh thần dân tộc. Họ tin vào sức mạnh quân sự,
sức mạnh kinh tế và những chiến thuật tinh vi đến từng milimet. Điều đó cần thiết
cho mọi cuộc chiến. Thế nhưng, họ lại quên đi lịch sử. Dân tộc ta đã kiên cường,
bất khuất đập tan ách đô hộ của 1000 giặc Tàu, 80 năm đô hộ giặc Pháp thì lẽ nào
lại cam phận làm nô lệ một lần nữa? Lời của Hồ Chủ tịch trong bản Tuyên ngôn
độc lập bất hủ đã nói thay lời non sông: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem cả
tinh thần và lực lượng, tính mệnh và tài sản để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
3.2. Lòng căm thù giặc Mĩ sâu sắc
Qua những câu thơ rất chân thực, Trần Đăng Khoa đã vẽ ra trước mắt người đọc
ngày ấy và bây giờ một cảnh mà nơi nơi, người người, kể cả trẻ con cũng nín thở
vì một tin dữ dội:
Mẹ nấu cơm dụi lửa
Bố em họ trâu giữa đường
Các cô thầy
Ngừng giảng bài giữa lớp
Bạn Tĩnh. Bạn Nho, bạn Lập
Bạn nào mắt cũng đỏ hoe
Bé Giang ngồi ở đâu hè
Cũng thôi đánh chuyền đánh chắt
(Hà Nội có Bác Hồ)
Năm 1972, tổng thống Mĩ đã ra lệnh ném bom B52 rải thảm Hà Nội, Hải Phòng và
oanh tạc miền Bắc sát hại hàng ngàn người dân vô tội, người già, trẻ con chúng
cũng không tha. Làm sao mà không chua xót, không căm thù khi hình ảnh “hố bom
sâu – thăm thẳm hố bom sâu” (Bến đò) ngày ngày hiển hiện trước mắt mình. Đế
quốc Mĩ mà đứng đầu là tổng thống Ních-xơn không chỉ gây ra tội ác đối với đất
nước và con người Việt Nam nói chung, thiếu nhi Việt Nam nói riêng mà còn đối
với biết bao thiếu nhi trên thế giới. Vậy mà khi đứng trong nghĩa trang của những
người bị Hít-le tàn sát, hắn đã nhỏ những giọt nước mắt như thương cảm sâu sắc
lắm vậy. Mặc dù tội ác đó được ngụy trang, ngụy biện bằng nhiều hình thức nhưng
ai cũng nhận ra được sự thật. Hành động giả nhân, giả nghĩa của bọn chúng không
thể gạt được một đứa trẻ con. Trong nghĩa trang mà Ních-xơn đang viếng có mộ
của bé gái Tania (12 tuổi). Trần Đăng Khoa đã hóa thân vào Tania để vạch trần bộ
mặt của “ngài tổng thống” nói riêng và bọn đế quốc Mĩ nói chung:
Ý nghĩ của hắn chạy từ đầu xuống chân
Từ chân xuống đất sâu nên tôi nghe hết:
“Nếu mày sống thì ông cũng giết”
(Lời một bạn gái mười hai tuổi)
Khi viết những câu thơ như thế thì hẳn người viết đã chất chứa trong lòng niềm
căm thù tột độ. Và đó không còn là sự căm thù cảm tính mà là tình cảm có chỉ dẫn
của lí trí. Đừng cho rằng trẻ con không có khả năng đó. Hãy đọc kĩ bài thơ ta sẽ
thấy giọng điệu trẻ con được giữ nguyên, không có một chút gượng ép, gò bó.
Chính vì thế mà ta thấm thía được bản chất của Đế quốc. Ai cũng nhận ra một điều
giản dị: Ý nghĩ hắn (Ních-xơn) chạy từ đầu xuống chân và chân liền với đất nên
người nằm dưới mồ sâu trong ngót 30 năm vẫn nhận ra được. Không chỉ nhìn thấy
được tội ác của giặc Mĩ không chỉ trên mặt đất, dưới lòng đất mà còn dưới cả âm
phủ. Trần Đăng Khoa đã tưởng tượng ra cảnh linh hồn đoàn người bị bọn Mĩ giết
hại lũ lượt kéo nhau đến đập của Diêm Vương đòi trừng phạt bọn giết người. Bài
thơ “Đập cửa Diêm Vương” có giá trị tố cáo thật sâu sắc: Những cụ già không tìm
thấy các bộ phận của thân thể mình, những bà mẹ bụng mang dạ chửa cũng bị giết
hại, những em bé thơ “đang lẫy đang bò”, “đang phi ngựa gỗ” không tìm được cha
mẹ, ông bà… Nó khiến những người đã từng sống trong chiến tranh thì ngậm ngùi
chua xót, những người chưa từng trải thì rùng mình, căm giận. Tất cả đều thắc
mắc:
Tại sao Ních-xơn mang bom bi, bom phá
Bom hơi, bom Trần Đăng Khoan, bom lửa
Trút xuống đầu ta…
Trong khi họ - những người đã chết và chúng ta – những người đang sống đều như
nhau:
Ta yêu sông Mi-xi-xi-pi của các ngươi
Như ta yêu sông Hồng của ta nhận nước bốn phương trời
Chưa bao giờ, và sẽ chẳng bao giờ
Ta nghĩ đến ném bom nước Mĩ.
Trong đoàn người đó có cả những em bé chết do bom Mĩ mà không tìm thấy cha
mẹ
của mình. Các em đã gọi thống thiết:
- Gió ơi! Gió ơi!
Cháu không tìm thấy mẹ cháu rồi
Mẹ cháu không gầy, không béo
Mẹ cháu không già không trẻ…
Bây giờ không ai cho cháu ăn
Không ai cho cháu ngủ
(Đập cửa Diêm Vương)
Tội ác của đế quốc Mĩ không chỉ vấp phải sự phản đối của nhân dân ở bản xứ mà
còn của cả thế giới, thậm chí là ngay cả nhân dân Mĩ yêu chuộng hòa bình và thiện
chí. Những thiếu nhi Mĩ đã hết sức đau xót, xấu hổ về hành động của cha anh
mình. Tất cả những điều đó được thể hiện bằng việc nhân dân Mĩ liên tục tham gia
vào các cuộc biểu tình phản đối chiến tranh của đế quốc Mĩ ở Việt Nam. Hình ảnh
của một thiếu nhi Mĩ đi biểu tình đã khơi dậy trong Trần Đăng Khoa niềm xúc
động mãnh liệt:
Bạn cùng đoàn người đi như thế
Đã mấy năm rồi
Cánh tay giơ lên
Không biết mỏi
Bạn đến khắp nơi trên thế giới
Miệng bạn thét vang
- Giôn-xơn không được giết trẻ con
- Giôn-xơn phải rút hết quân xâm lược
(Xem ảnh bạn thiếu nhi Mĩ đi biểu tình ở báo ảnh Việt Nam)
Căm thù giặc Mĩ, Hoàng Hiếu Nhân đã nặn tượng đất sét hình Ních-xơn với hình
thù kì quái và khẳng định:
Nếu đem đặt ra đường
Ai chẳng đòi vặn cổ.
(Thằng Ních-xơn)

Trong bài thơ “A! em biết thằng giặc Mĩ rồi!”, trẻ em đã biểu hiện thái độ căm thù
của mình và được cụ thể bằng hành động khi thấy máy bay Mĩ bị quân ta bắn rớt
xuống cánh đồng:
Bố em cầm đòn càn
Mẹ em mang đòn gánh
Chị em mang khẩu súng
Bé Giang mang que cời
Con chó Vàng mang hàm răng nhọn hoắt
Em không biết mang gì
Vớ ngay hòn đá
Cách đánh giặc của gia đình của Trần Đăng Khoa tiêu biểu cho cách đánh giặc của
đất nước ta qua các thời kì chống ngoại xâm. Chống lại kẻ thù chỉ bằng những vũ
khí hết sức thô sơ, có khi chỉ là những công cụ lao động nông nghiệp thường ngày.
Thế nhưng, với sức mạnh của lòng yêu nước nồng nàn, ý chí chiến đấu anh dũng
và mục đích vệ quốc chính nghĩa, chúng ta đã thắng lợi vẻ vang. Em kể chuyện
này là phản ứng của các em nhỏ khi gặp dấu chân của kẻ thù hằn trên mảnh đất quê
nhà:
Những dấu chân
Trông vào nhức mắt
Các bạn đã đào đổ xuống ao rồi
Từ lúc sáng mờ sương
Cho đến khi tiếng trống gọi về trường
Vẫn chưa hết những dấu chân trên cát
Vẫn chưa hết những dấu chân độc ác
Các bạn còn đào đổ xuống ao sâu.
Đọc bài thơ này, có nhiều người cho là không thật sự, bởi ngoài đời có ai làm như
thế bao giờ. Cách thể hiện khá ngộ nghĩnh, mang dấu ấn điển tích Sào Phủ, Hứa
Do. Nên nhớ rằng, tác giả có quyền dùng các hình tượng văn học để bộc lộ quan
điểm, tư tưởng của mình. Chúng ta đừng hỏi rằng “điều đó có thật không?”mà hãy
hỏi rằng “qua đó tác giả thể hiện điều gì?”. Nếu hỏi như câu sau thì chúng ta đã có
câu trả lời: Trần Đăng Khoa hay bất cứ một người Việt Nam yêu nước nào cũng
căm thù giặc, cũng thấy “nhức mắt” trước sự tồn tại của kẻ thù trên mảnh đất quê
hương. Các em càng căm thù giặc Mĩ thì lại càng thể hiện lòng yêu thương. Bởi lẽ
thường, chúng ta căm ghét những gì phương hại đến điều chúng ta yêu thương.
Các em yêu đất nước Việt Nam, con người Việt Nam nên khi đất nước Việt Nam
bị giày xéo, con người Việt Nam bị giết hại thì lòng căm thù ấy trỗi dậy. Đó là một
hiện tượng tâm lí rất bình thường.
 Đặc sắc nghệ thuật về thơ thiếu nhi Trần Đăng Khoa
1/ Tâm hồn trẻ thơ qua cách nhìn , cách tả cảnh vật.
Trong cái nhìn của Khoa , tất cả thế giới xung quanh đều như có tâm hồn , đều là
bầu bạn. Anh thường sử dụng biện pháp nhân hóa để miêu tả cảnh vật. Và cái nhìn
“vật ngã đồng nhất” anh có thể kết bạn với một chú chó vàng (Sao không về Vàng
ơi?) và chuyện trò thân thiết với người bạn của nông (Con trâu đen lông mượt)
hoặc với cây trầu (Đánh thức trầu).Bé Giang có thể cùng chơi với con mèo khoang
(Đánh tam cúc),.....Buổi sáng nhà em với ông trời , bà sân, cậu mèo , mụ già , cái
na , cu chuối , chị tre , bác nồi đồng ,…. làm nên một thế giới đầy hấp dẫn với sự
nhôn nhịp , đông vui đầy sức sống của một buổi sáng , một ngày mới bắt đầu.
Trong Em kể chuyện này , “Những chị lúa phất phơ bím tóc” , “Những cậu tre bá
vai nhau thì thầm đứng học” ,….. quây quần xung quanh những cậu bé thông minh
tinh nghịch tạo thành một thế giới trẻ thơ thật vui tươi , sống động , cũng với lối
nhân cách hóa như vậy , Khoa viết về cây dừa , khi thì như người bạn hào phóng:
“Dang tay đón gió , gật đầu gọi trăng” , kh thì như một người lính:
Đứng canh trời đất bao la
Mà dừa đủng đỉnh như là đứng chơi.
(Cây dừa)
Có lẽ, trong lúc làm thơ, Trần Đăng Khoa tưởng tượng mình đang nói chuyện với
người lớn nào đó. Còn khi nói với các con vật, cây cối thì Trần Đăng Khoa xưng
“tao” và gọi “mày” một cách thân mật như những người bạn:
Cái đuôi vàng ngoáy tít
Cái mũi đen khịt
Mày không bắt tay tao
Tay tao buồn làm sao
(Sao không về vàng ơi?)
Miêu tả cảnh Buổi sáng nhà em với những nhân vật thật sống động
…Cậu mèo đã dậy từ lâu
Cái tay rửa mặt , cái đầu nghiêng nghiên
Mụ gà cục tác như điên
Làm thằng gà trống luyên thuyên một hồi
Cái na đã tỉnh giấc rồi
Đàn chuối đứng vỗ tay cười vui sao…
(Buổi sáng nhà em)
Ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên giao cảm với vật trong những sắc thái rung động ,
tinh vi nhất , Khoa như tìm thấy ở thiên nhiên một sự hòa điệu về tâm hồn. Bài thơ
Đánh thức trầu là một ví dụ. Lời thơ như tiếng chuyện trò thủ thỉ:
Đã ngủ rồi hả trầu
Tao đã đi ngủ đâu
Mà trầu mày đã ngủ?
(Đánh thức trầu)
Dịu dàng nâng nhiu lá trầu bé bỏng , hái một lá cũng sợ trầu đau , anh phải
hát mãi để đánh thức trầu dậy. Đối với anh , cây trầu cũng biết cảm giác , cũng
“nghe” được những tiếng tâm tình của con người:
Lá nào muốn cho tao
Thì mày chìa ra nhé
Tay tao hái rất nhẹ
Không làm mày đau đâu…
(Đánh thức trầu)
Cũng chính vì giao cảm với thiên nhiên , tạo vật nên Khoa có thể nghe được:
Chiếc ngõ nhỏ
Thở sương đêm
Ông trăng lên
Cười trong lá
(Chiếc ngõ nhỏ)
Chiếc ngõ nhỏ trong con mắt của anh cũng có cuộc sống riêng đầy sôi động ,
có một thế giới tâm hồn phong phú và không kém phần thơ mộng.Chiếc ngõ nhỏ
gắn bó với con người và cuộc sống của họ . Khi các chú bộ đội hành quân đi qua ,
đi xa “chiếc ngõ nhỏ , ở lại nhà” , nó cũng xao xuyến và nhớ mong,…..
2/ Trí tưởng tượng phong phú bay bổng và sự liên tưởng , so sánh kì diệu

Người ta nói rằng tâm hồn của con người thuở hồng hoang với tâm hồn của
một đứa trẻ con có một sự gắn bó rất đặc biệt mà chúng ta khó có thể giải thích
được. Đó là sự đồng điệu về cách nhìn và cách cảm thế giới. Người xưa không thể
giải thích được các hiện 55 tượng tự nhiên xã hội nên họ lí giải bằng trí tưởng
tượng nhiều màu sắc thần thánh. Trẻ con cũng thế, khi chúng bắt đầu biết quan sát
sự vật vật xung quanh thì mọi cái trong mắt chúng đều là lí thú và bí ẩn. Một trong
những yếu tố làm cho thơ Trần Đăng Khoa có những nét không thể lẫn lộn với thơ
của các em thiếu nhi khác là trí tưởng tượng rất phong phú, mạnh mẽ, rất riêng của
mình. Những liên tưởng của Trần Đăng Khoa thật lạ lẫm, gây cho người đọc cảm
giác bất ngờ, thú vị. Nhìn một tượng đá trong ngôi đền Bãi Cháy, em chợt nhận ra
một điều:
Và em bỗng hiểu ngôi đền
Hiểu ai tạc tượng người hiền cầm gươm
(Ngôi đền Bãi Cháy)

Không bao giờ Khoa nhìn sự vật trong sự đau đớn , trần trụi mà luông luôn phát
hiện ra những mối liên hệ của chúng hoặc liên tưởng tới những hình ảnh tương
đồng khác để từ đó khái quát lên một cái gì đó cao hơn.
Từ một cánh diều , khi thì tưởng tượng ra:
Sao trời trôi qua
Diều thành trăng vàng
Khi lại thấy:
Diều hay chiếc thuyền
Trôi trên song Ngân….
Diều là hạt cau
Phơi trên nong trời…
Diều em – lưỡi liềm
Ai quên bỏ lại…
(Thả diều)
Người đọc có thể nghĩ sao cũng được. Màu xanh có thể là của lá cây trong
vườn, cũng có thể tiếng chim làm cho khu vườn thêm sức sống, thêm xanh hơn.
Cánh dơi bay trên bầu trời đang sẫm tối như khua tất cả ánh sáng cất vào một nơi,
cả ông trăng cũng đang thập thò trong lùm nhãn. Một đêm có trăng nhưng không
sáng vằng vặc như đêm mười sáu cũng có nét huyền diệu trong con mắt của Trần
Đăng Khoa. Ngay cả ánh trăng đã trở nên thân thiết với mình, Trần Đăng Khoa
cũng liên tưởng đến nhiều hình ảnh khác nhau. Trăng có khi giống như một quả
chín tròn mộng:
Trăng hồng như quả chin
Lửng lơ trên trước nhà.

Có khi hình dung ra:


Trăng tròn như mắt cá
Chẳng bao giờ chớp mi
Và táo bạo hơn nữa là:
Trăng bay như quả bóng
Bạn nào đá lên trời.
(Trăng ơi…..từ đâu đến)
Thì ra, Trần Đăng Khoa liên tưởng đến hình ảnh chú bộ đội. Gương
mặt hiền lành gợi cho em biết bao tình cảm tốt đẹp. Gương mặt đó có những nét gì
quen thuộc, dễ thương dễ mến lạ lùng. Bộ đội ta khi chiến đấu với kẻ thù thì dũng
cảm, hiên ngang nhưng khi trở về cuộc sống đời thường, bên cạnh người thân quen
thì rất hiền lành, chất phác. Việc cầm vũ khí là một việc không hề mong muốn.
Nhân dân Việt Nam không nuôi mộng bá vương, không khát máu mà chỉ mong
muốn cuộc sống hòa bình, tự do. Sự liên tưởng phong phú ở nhiều bài thơ mang
chất lãng mạn:
Vườn xanh biếc tiếng chim
Dơi chiều khua chạng vạng
Ai dắt ông trăng vàng
Thả chơi trong lùm nhãn.
(Hương nhãn)
Với màu xanh có thể là của lá cây trong vườm , cũng có thể là tiếng chim
làm cho khu vườn thêm sức sống. Cánh dơi bay trên bầu trời đang sẫm tối như
khua tất cả ánh sáng cất vào trong một nơi và cả ông trăng cũng đăng thập thò
trong lùm nhãn.
3/ Ngôn ngữ chính xác , biểu cảm và giàu âm thanh , nhịp điệu
Hầu như mỗi từ , mỗi câu trong thơ Trần Đăng Khoa đọc lên đều thấy rõ sự
gia công sáng tạo của tác giả.
Anh tả cảnh Mẹ ốm:
Cánh màn khéo lỏng cả ngày
Không phải là cánh màn khép chặt , hay cánh màn khép hờ mà phải
đúng là cánh màn khép lỏng . Nếu khép chặt thì ra người đã chết , khép hờ gần
giống như khép lỏng nhưng sắc thái biểu cảm của nó mờ hơn , nhạt hơn . Cánh
màn khép lỏng vì thường xuyên có người vào ra thăm hỏi , và còn vì đằng sau cánh
màn khép lỏng luôn có cậu bé con ngồi chăm mẹ ốm. Chỉ cần một từ hé ra thôi mà
hiện lên cả một thế giới tâm hồn sâu sắc. Thông cảm với nỗi nhọc nhằn của mẹ ,
Khoa cũng không viết nhiều mà chỉ bằng một câu:
Nắng mưa từ những ngày xưa
Lặn trong đời mẹ đến giờ chưa tan.
Người đọc cũng có thể cảm nhận được biết bao yêu thương và sự trân trọng
ẩn chứa trong từ “lặn” ấy.
Hoặc khi viết:
Sân kho máy tuốt lúa
Mở miệng cười ầm ầm
Thóc mặc áo vàng ống
Thở hí hóp trên sân.
(Thôn xóm vào mùa)
Anh dùng từ “hí hóp” khi đăng bài này ở địa phương , biên tập đã sửa lại là
“Thóc mặc áo vàng óng , Nhảy nhót mãi trên sân”. Lúc đó Khoa 10 tuổi , anh thắc
mắc: “Sao lại chữa của em! Hết ngày mùa thì thóc làm sao nhảy nhót được mãi.
Em nói là thóc nó thở hí hóp kia mà!”
Ngôn ngữ thơ Khoa rất giàu âm thanh nhịp điệu. Đó là âm thanh rộn rã , náo
nức và nhịp điệu khẩn trương của cuộc sống . Bài thơ Ò ó o… ” chủ yếu sử dụng
các câu thơ chỉ có hai, ba chữ là một ví dụ:
Ò ó o….
Ò ó o….
Tiếng gà
Tiếng gà
Giục quả na
Mở mắt
Tròn xoa
Giục hàng tre
Đâm măng
Nhọn hoắt
Gọi ông trời
Nhô lên
Rửa mặt
Ôi! Bốn bề
Bát ngát
Tiếng gà
Ò ó o…
Ò ó o…
Câu thơ có tác dụng khác là có nhiều vần liên tiếp nhau hơn nên dễ
đọc, dễ nhớ và âm vang hơn bởi tính nhạc. Hãy đọc lại các bài thơ vừa nêu, nhất là
bài “Ò ó o...” sẽ thấy rõ điều đó. Bài thơ liên tục chuyển nhịp từ 3/ 2/ 2 đến 3/ 2,
sau đó trở lại 3/ 2/ 2 và kết thúc bằng nhịp điệu 3/ 2 gợi cho người đọc cảm giác
cuộc sống với những âm thanh và nhịp điệu thúc giục mọi người mọi, vật hãy cùng
hoạt động, cùng chung sức hát lên khúc nhạc yêu thương, cùng lao động hết mình
phục vụ cho công cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc ta. Âm thanh tiếng gà lan
xa, vận động được Trần Đăng Khoa sử dụng để tác động đến các vật khác, làm cho
nó cũng vận động theo (na mở mắt, tre đâm măng, hạt đậu nảy mầm, buồng chuối
tỏa hương...). Na, tre, buồng chuối, hạt đậu,... thực sự có vận động nhưng rất chậm,
không nhìn thấy được. Nhưng ở đây, cả hai vận động như cuốn phim quay chậm và
hình như sự vận động ấy hòa nhịp với âm thanh tiếng gà. Đem cái động và âm
thanh cho cái tĩnh, cái yên lặng làm cho sự vật thú vị, kì ảo. Dường như, tất cả tập
trung trong một hoạt động rộn ràng, nhịp nhàng bên nhau. Trần Đăng Khoa không
sử dụng nhiều từ mới lạ, phức tạp mà là những từ có sẵn, đơn giản nhưng với sự
sáng tạo, cái nhìn độc đáo, sự liên tưởng mới mẻ, biết vận dụng các phép chuyển
nghĩa bài thơ có một sức hấp dẫn kì lạ. Các động từ sử dụng trong bài thơ là động
từ mạnh như thúc giục sự vật vận động và phát triển.
Và đây nữa, âm thanh của tiếng võng ngân lên theo từng nhịp điệu bài thơ:
Kẽo cà kẽo
Kẽo cà kẽo kẹt
…Kẽo cà kẽo
Kẽo cà…
kẽo kẹt…
(Tiếng võng kêu)
Chúng ta hình dung được cảnh một em bé đang say giấc nồng và âm thanh
của tiếng võng gợi nhớ về một thuở ấu thơ mà ai cũng từng trải qua. Nhịp thơ 2/2
gợi vẻ đong đưa của nhịp võng đều đặn. Bài thơ kết thúc với “kẽo cà – kẽo kẹt…”
mà âm thanh võng đưa sao còn ngân vang mãi.
Thơ Trần Đăng Khoa có những bài hát ngắn gọn , vui nhộm như phong cách đồng
dao (Kể cho bé nghe , Ò ó o,… Mưa , Tiếng võng kêu,…) Cũng có những bài mang
sắc thái êm dịu , ngọt ngào , tha thiết như những bài dân ca (Mẹ ốm , Đánh thức
trầu , Cây dừa , Em dâng cô một vòng hoa,….)

4/ Những hình ảnh đẹp , sáng tạo và độc đáo

Trần Đăng Khoa đặc biệt chú ý học tập những tinh hoa văn hóa truyền thống
và đương đại để sáng tạo ra những hình ảnh đẹp và độc đáo trong thơ của mình.
Trong thơ anh tìm ra rất nhiều hình ảnh do được gợi ý từ những câu ca , điệu thể
tìm thấy trong thơ anh rất nhiều hình ảnh do được gợi ý từ những câu ca , điệu hát
quen thuộc hoặc từ trong những câu chuyện cổ hấp dẫn trong văn hóa dân gian.
Như hình tượng Thánh Gióng (trong truyện Thánh Gióng) , Thần trụ trời (trong
truyện thần trụ trời) đã giúp anh sáng tạo ra những hình ảnh rất đẹp với không gian
rộng lớn , sôi động với âm thanh , hình ảnh trong bài Mưa:
Ông trời
Mặc áo giáp đen
Ra trận…
Và:
…Bố em đi cày về
Đội sấm
Đội chop
Đội cả trời mưa
(Mưa)
Từ một câu đó dân gian về quả dừa:
Chân không tới đất
Cật không tới trời
Lơ lửng giữa trời
Mà đeo bụng nước
Đã giúp anh viết rất hay về cây dừa:
Ai mang nước ngọt , nước lành
Ai đeo bao hũ rượu quanh cổ dừa
(Cây dừa)
Đây là hình ảnh đàn kiến lũ lượt đưa ma bác Giun:
Cầm hương, Kiến Đất bạc đầu
Khóc than Kiến Cánh khoác màu áo tang
Kiến Lửa đốt đuốc đỏ làng
Kiến Kim chống gậy, Kiến Càng nặng vai…
(Đám ma bác giun)
(Đám ma bác giun) Bài thơ như một bức tranh nhuốm màu u buồn của một
đám đưa ma thực sự. Trong đám ấy, kiến không còn là côn trùng nữa mà giống
như con người với sự đa dạng về hình dáng và tính cách. Kiến Kim thì chống Gậy
đi một cách bệ vệ, Kiến Cánh thì mặc áo tang vật vã khóc,… Trong khi kiến Đen
đi ngất ngưởng vì đã say rượu, say thịt, kiến Gió lại tranh thủ chia phần về mình.
Đám ma tưởng như có vẻ tang thương, bi ai lắm nhưng thực chất lại không phải
như thế. Giun và Kiến nào có họ hàng gì đâu. Thế nên, khi loài kia chết đi thì loài
còn lại được dịp hưởng lợi, cớ sao phải buồn? Rõ ràng trong cuộc sống vẫn có
cảnh tượng như thế. Nhà thơ Trần Đăng Khoa kể lại khi trông thấy các con kiến
bâu quanh một con giun đất, Trần Đăng Khoa đã chăm chú quan sát và chợt nảy ra
ý định rủ các bạn sau buổi học đi bắt các loại kiến. Bài thơ đã ra đời như thế đấy
Đọc bài thơ Đám ma bác giun , ta cũng thấy thấp thoáng bóng những câu ca dao
cổ:
Con cò mắc giò mà chết
Con quạ ở nhà mua nếp làm chay
Con cu đánh trống bằng tay
Chào mào đội mũ làm thầy đọc văn
Chiền chiện vừa khóc vừa lăn
Một bầy se sẻ bịt khăn chở cò
(Con con mắc giò)
Với việc sáng tạo hình ảnh con cò là quá trình học tập vận dụng rất nhiều ở
ca dao, biến tinh hoa truyền thống thành cái của mình . Điều đó thể hiện anh là một
tri thức , làm việc nghiêm túc của một tác giả trẻ tuổi.
Anh còn chú ý học tập các tác giả hiện đại , anh lưu giữ những thứ đã đọc
được để sáng tạo ra cái độc đáo của riêng mình , ví dụ: Hình tượng Dế Mèn trong
Dế Mèn phiêu lưu kí của Tô Hoài đã giúp anh viết nên câu thơ nổi tiếng:
Ao trường vẫn nở hoa sen
Bờ tre vẫn chú dế mèn vuốt râu
(Gửi bạn Chi Lê)
Hay từ câu thơ của Bàng Bá Lân:
Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi
(Tiếng hát trong trăng)
Đã gọi ý cho Trần Đăng Khoa sáng tạo ra hình ảnh:
Mẹ em tát nước , nắng đầy trong khau
(Buổi sáng nhà em)
Tóm lại, thơ của Trần Đăng Khoa mang với tâm hồn thơ phong phú , nhạy
cảm và tinh tế với khả năng tạo tuyệt vời , thơ anh đã chiếm được sự yêu thích của
bạn đọc qua nhiều thế hệ. Đó là một hiện tượng thơ đặc biệt có vị trí xứng đáng
trong nền văn học thiếu nhi nói riêng và trong lịch sử nói chung.
Đọc thơ của anh , ta cảm nhận được tâm hồn trẻ trong sáng , giản dị , chan
chứa tình yêu đằm thắm , thiết tha với con người , thiên nhiên và cuộc sống.Đến
với thơ anh trước tiên là cảm xúc chân thành và rung động , tâm hồn người lớn họ
được trở về với tuổi thơ của họ và tìm lại được cái trong trẻo , những cảm xúc đối
với thiên nhiên , đối với nghệ thuật. Nhưng không chỉ vậy , thời gian và thực tế đã
khẳng định thơ Trần Đăng Khoa đã chinh phục được thế hệ tuổi thơ. Cụ thể là thơ
của anh đã được đặt trong mối tương quan với hàng loạt vấn đề bao trùm hơn , lâu
dài hơn của thời đại của lịch sử.
 Tập thơ “Góc sân và khoảng trời”.
1.1. Hoàn cảnh sáng tác và nội dung
Tập thơ Góc sân và khoảng trời được Trần Đăng Khoa sáng tác từ năm 1966 -1973
được Nhà xuất bản Văn học phát hành vào năm 2006 gồm 142 bài, trong đó có 9
bài được viết vào năm 1974.
Góc sân và khoảng trời được sáng tác trong những năm tháng dầu sôi lửa bỏng của
cuộc kháng chiến chống Mĩ nên chứa đựng rất nhiều yếu tố của thời đại. Trần
Đăng Khoa, với lòng căm thù giặc sâu sắc, đã tố cáo tội ác của giặc nhưng không
phải bằng việc kể ra những sự kiện, thống kê những con số như một nhà sử học mà
như một nhà thơ với những vần thơ “mạnh hơn những tiếng bom”.
Cảm hứng chủ đạo trong tập thơ là tình cảm của Trần Đăng Khoa dành cho quê
hương, đất nước, con người Việt Nam. Đó là tình cảm yêu thương, gắn bó, tự hào,
lạc quan và tin tưởng vào ngày toàn thắng của cách mạng. Tập thơ còn thể hiện
một năng lực quan sát rất nhạy bén của Trần Đăng Khoa đối với những cảnh vật,
cuộc sống ở nông thôn. Tuy còn nhỏ tuổi nhưng Trần Đăng Khoa đã biết sử dụng
nhiều cách biểu hiện khác nhau trong tập thơ để khắc họa, miêu tả thế giới với
những sự vật vô cùng phong phú, đa dạng và sinh động: nghệ thuật tả cảnh, ngôn
ngữ chính xác, gợi cảm khiến hình ảnh quen thuộc trở nên độc đáo và giọng thơ
vừa hồn nhiên, trong sáng lại vừa triết lí, sâu sắc. Tất cả những gì Trần Đăng Khoa
nhắc đến trong thơ không xa lạ, cao siêu mà ngược lại, rất gần gũi, quen thuộc,
thân thương. Gần gũi, quen thuộc đến mức chúng ta không để ý, không nghĩ rằng
trăng, cây lúa, con trâu, con mèo, cánh cò, những đồ vật trong nhà… lại có thể viết
thành thơ với những nét vô cùng độc đáo của nó. Trần Đăng Khoa, với đôi mắt trẻ
thơ, với tài năng thiên bẩm cùng với sự học tập, lao động, sáng tạo nghiêm túc đã
viết nên những vần thơ thật hay. Trải qua gần nửa thế kỉ mà tập thơ của một em
nhỏ Trần Đăng Khoa vẫn được đánh giá là hay, là có ý, có tình. Đây là trường hợp
hiếm hoi của nền văn học nước ta từ trước đến nay.
Với phạm vi nghiên cứu của một khóa luận đại học, chúng tôi xin phép chỉ đi sâu
vào hai vấn đề: nguồn cảm hứng dào dạt làm nên Góc sân và khoảng trời và một số
hình thức biểu hiện đặc sắc làm nên Góc sân và khoảng trời.
1.2. Nghệ thuật
Góc sân và khoảng trời đã tạo nên những lớp không gian đa dạng, phong phú.
Trong tập thơ tồn tại cả không gian bầu trời lẫn không gian mặt đất, không gian vũ
trụ lẫn không gian xã hội... Tất cả đã làm nên một thế giới nghệ thuật muôn màu,
muôn sắc. Trong đó, không gian nghệ thuật trung tâm của tập thơ Góc sân và
khoảng trời chính là không gian làng quê. Rất hiếm khi Trần Đăng Khoa để cho
thơ mình chạy ra khỏi môi trường này. Làng quê đã trở thành nơi ẩn náu bình yên
nhưng cũng rất quyến rũ của một hồn thơ bé nhỏ. Trong mênh mang cảnh sắc nông
thôn mộc mạc ấy, Khoa dành nhiều tâm tư cho không gian nghệ thuật "góc sân",
một không gian đặc trưng cho nền "văn minh thôn dã", không gian có vị trí đặc
biệt đối với đời sống tâm linh người dân quê. Nhàthơ Xuân Diệu đã phát hiện ra ý
nghĩa đặc biệt của không gian này khi nhận định rằng: "Cái vũ trụ tí hon ấy như
lòng đỏ trứng gà". Với Khoa, không gian nhỏ bé, đơn sơ, thân thuộc này là một thế
giới diệu kì của tuổi thơ. Góc sân ấy là điểm tựa để em nhìn ra thế giới:
Góc sân nho nhỏ mới xây
Chiều chiều em đứng nơi này em trông
Thấy trời xanh biếc mênh mông
Cánh cò chớp trắng trên sông Kinh Thầy
Từ khoảng không gian này, Khoa đã thả tuổi thơ bay lên cùng với ánh trăng đêm
rằm, bay lên cùng với cái diệu kì của đất trời... Và cũng tại nơi đây đã chứng kiến
bao sinh hoạt của con người và loài vật. Đó là cảnh những chú gà con liếp nhiếp đi
tìm mồi cùng mẹ (Gà con liếp nhiếp), cảnh thôn xóm vào mùa với chiếc máy tuốt
lúa mở miệng cười ầm ầm, với thóc vàng óng một màu no đủ, với ấm chè nóng
thơm hương lúa đồng đang cùng ông trăng và các đội bình công mừng một mùa
bội thu (Thôn xóm vào mùa). Góc sân ấy cũng trở thành sân khấu để tiếng trống
chèo sâu vợi, tiếng mõ đưa hương hoa đại len vào tâm tư con người (Cô Thị Mầu).
Tuổi thơ luôn bị mê hoặc bởi những trò vui. Niềm hân hoan của chú bé Khoa nhỏ
tuổi cũng vút lên từ góc sân nhỏ với bao sinh hoạt hấp dẫn:
Em thường rải cái nong
Ra góc sân ngồi học
Những đêm có trăng mọc
Em chơi cho đến khuya
(Cái sân)
Trong hồn nhiên của thế giới trẻ thơ, Trần Đăng Khoa luôn lấy cái sân làm địa
điểm diễn ra mọi trò chơi. Nào là trò xỉa cá mè, trò mèo đuổi chuột, trò hứng nước
mưa... Ở đấy, em đã chạy nhảy tung tăng, đã múa hát say mê quanh ông trăng đêm
rằm. Lắm lúc sân cũng trở thành nền bản vẽ để trẻ phác họa lên những bức tranh về
cô tiên, về đồng lúa chín...
Không phải ngẫu nhiên mà Khoa viết nhiều về góc sân. Đối với người dân quê
Việt Nam nói chung, đối với những trẻ thơ chưa bao giờ vượt khỏi lũy tre xanh
như Khoa thì đây là không gian thân thuộc, gắn bó như là máu thịt. Bao nhiêu sinh
hoạt của người dân quê, bao nhiêu trò chơi của trẻ nhỏ đều gắn với địa điểm này.
Chính không gian này cũng là nhịp cầu đưa trẻ đến với những không gian rộng lớn
hơn.Càng ngày thơ Trần Đăng Khoa càng mở rộng không gian nghệ thuật và đó
đều là những khoảng không gian thấm đượm hồn quê Việt Nam. Đến với thơ
Khoa, ta được ngắm nhìn những mảnh vườn quê hương ở nhiều giác độ khác nhau.
Là vườn cải tốt tươi, "lá xanh như mảnh mây trời lao xao" khi gió đến (Vườn cải).
Là khu vườn "dậy tiếng dịu hiền" từ vị ngọt của luống cà, ranh khoai, từ âm thanh
của tiếng lá vẫy gió trong những đêm "lấp ló trăng lên" (Vườn em). Là mảnh vườn
xanh biếc tiếng chim, rộn rã trong tiếng dơi khua lúc chạng vạng, nên thơ trong
hình ảnh ông trăng vàng dạo chơi dưới lùm nhãn (Hương nhãn). Rồi khi thu về
lành lạnh ta lại được nghe "Vườn sau nổi gió nghe như mưa rào" (Đêm thu) v.v...
Với hình ảnh con đường - nơi giữ sự liên thông giữa những không gian của mặt
đất, Khoa cũng dành cho nhiều quyến luyến. Đã có lần cậu bé này "hỏi đường"
rằng:
Đường ơi, có nhớ chăng là
Ngày nào dạy học, thầy qua đường này?
Con đường ấy đã một thời in bàn chân thầy giáo. Vậy mà giờ đây thầy đã đi xa rồi.
Bóng cây vẫn rợp con đường mà người xưa đã vắng. Không gian con đường vì thế
mà trở thành điểm nhấn của tâm tư và hoài niệm.
Với người nông dân, cánh đồng là ngôi nhà thứ hai. Người thơ rất trẻ của chúng ta
đã chín sớm trong suy tư và cảm xúc nên đã viết về không gian này thật tinh tế.
Cánh đồng Điền Trì thân thuộc đi vào thơ mang theo tâm tình của người con quê
hương:
Cánh đồng làng Điền Trì
Sớm nay sao mà rộng
Sương tan trên mũi súng
Trên sừng trâu cong veo
Cánh đồng này có in bóng hình những bác nông dân đang cày ruộng, những chị
thôn nữ tát gầu giai và cấy mạ, in bóng em chở phân ra lót ruộng... Nơi ấy có hồn
nhiên tiếng cười, có bọt tung trắng hoa nhài khi nước reo trong lòng máng, có lúa
vàng trong đáy mắt, có luống cày tỏa hương, có mây hong trên gốc rạ... Không
gian này đã tạo nên một âm sắc rất riêng cho thơ Khoa bởi nó đã chiết được mùi
hương riêng cho mình. Nhớ lắm những cánh đồng nồng mùi bùn ngấu, mùi phân
đang hoai và còn hăng mùi vôi chưa tan hẳn dưới những rãnh cày. Nhớ lắm những
giọt mồ hôi đang ủ mật cho đồng lên hương, cho hạt giống bốc men trong đất. Nhớ
lắm khung cảnh yên bình, đẹp tựa bài thơ:
Đồng ẩm trăng non
Luống cày sực nức
Mưa rào bữa trước
Nắng nồng chiều nay
(Hương đồng)
Có thể nói, viết về cánh đồng quê là cuộc dạo chơi ân tình không ngừng nghỉ trong
đời thơ Trần Đăng Khoa. Trong cuộc dạo chơi này anh không phải là khách qua
đường. Vị khách thơ trẻ tuổi này dẫu bước chân có đi lạc không gian ấy thì trái tim
vẫn "neo đậu bến quê":
Sáng đứng đỉnh Côn Sơn
Hương đồng thơm trong túi
(Côn Sơn)
Tình lưu luyến ấy không có gì đáng ngạc nhiên cả. Bởi lẽ, Khoa đã thú nhận với
chúng ta rằng:
Thịt da ta cũng
Tỏa hơi ruộng đồng
(Hương đồng)
Nhắc đến không gian nông thôn trong thơ Khoa chúng ta không thể bỏ qua dòng
sông Kinh Thầy. Dòng sông này đã từ đồng bằng Bắc Bộ chảy tràn vào thơ Trần
Đăng Khoa, trở thành một vùng thẩm mĩ thi vị. Dòng "sông Kinh bên lở bên bồi"
đã thực sự thăng hoa trong trang thơ Khoa. Phù sa của dòng sông đã ngấm sâu vào
thiên nhiên, để rồi cảnh vật đã trỗi dậy trong một sức sống mãnh liệt:
Hàng chuối lên xanh mướt
Phi lao reo chập chùng
Vài ngôi nhà đỏ ngói
In bóng xuống dòng sông
(Bên sông Kinh Thầy)
Không gian này đã cùng với hương sen thơm, với lời mẹ hát, với bão tháng bảy,
mưa tháng ba, với giọt mồ hôi... để làm nên "hạt gạo làng ta". Khoa không quên
điều đó khi anh viết:
Hạt gạo làng ta
Có vị phù sa
Của sông Kinh Thầy
(Hạt gạo làng ta)
Chính vì thế mà lòng biết ơn với dòng sông đã trở thành tình cảm thường trực
trong Khoa. Và cũng bởi cái ơn sâu nặng đó nên thi sĩ đã một đời không thôi tìm
kiếm bí mật về không gian này:
Sông ơi nhớ thương ai
Mà bốn mùa nước đỏ
Con chim nghiêng mắt ngó
Phù sa hồng đôi chân
(Cầu Cầm)
Những không gian trên đã tập hợp lại làm nên không khí thanh bình, yên ả ngàn
đời của thôn quê Việt Nam. Nhưng bên bến bờ bình yên ấy, gương mặt chiến tranh
lại hiện về. Là tiếng bom rùng rùng nổ trong đêm trăng tràn đầy tiếng đàn bầu, một
không gian căng tràn đã "tự rung lên sức mạnh Việt Nam". Là hình ảnh những hố
bom, những ngôi trường tốc mái... Chiến tranh còn hiện hình trong đôi nạng gỗ bên
bàn thầy giáo, bên mặt bảng đen lỗ chỗ vết bom bi, bên cả những bài học dang
dở... Nhưng đó chỉ là phông nền làm hiển hiện và thăng hoa một không gian khác –
không gian của sự sống và niềm tin. Hàng cau đã ngã xuống nhưng tiếng đàn bầu
vẫn tuôn trào vô tận như những suối nguồn mát trong để xóa đi những âm thanh dơ
bẩn của cuộc chiến. Hình ảnh cánh diều vươn cao ngạo nghễ bên bờ hố bom là một
sự tương phản rất đẹp của không gian nghệ thuật, thể hiện được sức sống vĩnh
hằng của con người:
Tiếng diều vàng nắng
Trời xanh cao hơn
Dây diều em cắm
Bên bờ hố bom
(Thả diều)
Ngoài ra, Góc sân và khoảng trời cũng đã đưa đến cho người đọc những khoảng
không gian
tâm lí giàu sức biểu cảm. Con người là một thực thể tồn tại trong không gian.
Nhưng tự bản thân
con người cũng là một thế giới, một không gian với những chiều kích và tính chất
riêng. Ý thức
được điều ấy nên Trần Đăng Khoa luôn có thiên hướng khai thác không gian con
người với bề sâu
tâm hồn. Câu thơ:
"Nắng mưa từ những ngày xưa
Lặn trong đời mẹ đến giờ chưa tan"
đã làm chúng ta xúc động. "Nắng mưa" vốn là không gian của vũ trụ đã được xã
hội hóa thành một không gian gợi nhớ những vất vả, khó nhọc. Không dừng lại ở
đó, "nắng mưa" còn thâm nhập vào không gian con người, tạc nên vóc dáng, hình
hài chứa đầy nhọc nhằn của người mẹ. Từ "lặn" đã cụ thể hóa sự di chuyển của
không gian biểu trưng vốn rất trừu tượng ấy. Bàn chân của thầy giáo trong bài thơ
cùng tên cũng là một không gian như thế. Ẩn sau một bàn chân đã mất ấy là âm
vang của chiến trường, của sự hi sinh lặng lẽ. Đằng sau hình hài không hoàn hảo
ấy là cả một tấm lòng rạch ròi những yêu thương, hờn ghét, là cả một lẽ sống cao
đẹp. Chính vì thế mà "bàn chân thầy, bàn chân đã mất, vẫn dẫn chúng em đi trọn
cuộc đời". Đứng trước bàn chân ấy, những thế hệ học trò đã ngỡ ngàng nhận ra
được cái chưa hoàn hảo của chính cuộc đời mình. Góc sân và khoảng trời, tựa đề
của tập thơ đồng thời cũng đã mở ra hai thế giới đối lập. Đối lập giữa không gian
mặt đất nhỏ bé với không gian bầu trời rộng lớn. Đối lập giữa không gian thân
thuộc với khoảng xa vời, vô tận. Nhưng đó chỉ là sự đối lập bề ngoài của không
gian thực. Còn trong ý nghĩa biểu trưng thì hai miền thẩm mĩ này lại tìm được mối
liên thông chặt chẽ. Góc sân đại diện cho khoảng không gian gần gũi, quen thuộc
đối với trẻ thơ. Còn khoảng trời mang ý nghĩa biểu trưng cho một chân trời trong
mơ ước, cho những nơi xa rộng bao la của cuộc đời đầy hấp dẫn đang mời gọi tuổi
thơ. Chân trời ấy được kiến tạo bởi những con người có tình yêu đằm sâu với
không gian đời thường.

You might also like