You are on page 1of 63

CHƯƠNG II: GÓC SÂN VÀ KHOẢNG TRỜI - NHỮNG NGUỒN

CẢM HỨNG DÀO DẠT


1. Cảm hứng từ cảnh vật thiên nhiên và hình ảnh người nông dân

1.1. Cảnh vật thiên nhiên


Đây là mảng đề tài được Trần Đăng Khoa thể hiện nhiều nhất trong thơ mình.
Là một người con được sinh ra và lớn lên ở nông thôn nên Trần Đăng Khoa có
tấm lòng yêu thương, gắn bó sâu nặng đối với thôn Điền trì, xã Quốc Tuấn.
Trước khi đi tìm những nét đẹp của thiên nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa, ta
nên biết nhà thơ được mệnh danh là “thần đồng” đã bắt đầu sự nghiệp sáng tác
như thế nào.
Bài thơ đầu tiên của Trần Đăng Khoa là “Con bướm vàng”. Con bướm vàng
hiện ra rất thật và sống động với đôi cánh chập chờn. Lúc ấy, Trần Đăng Khoa
đang ngồi đun bếp. Nhìn thấy cánh bướm, Trần Đăng Khoa đã đuổi theo hệt
như một thi nhân xúc động trước cái đẹp và muốn nắm bắt cho kì được khoảnh
khắc tuyệt vời này. Kết quả của việc chạy theo chú bướm ấy là nồi cơm bị
trương, Trần Đăng Khoa bị mẹ mắng. Trần Đăng Khoa chỉ đứng im, không dám
bảo là tại làm thơ. Cánh bướm vàng ấy bay là một hoạt động bình thường như
các loài vật khác vận động, bắt mồi,... lại chính là tác nhân khơi dậy một hồn
thơ còn đang ẩn giấu bên trong một thân hình bé con của cậu bé lớp một. Hồn
thơ Trần Đăng Khoa đi lên từ bài thơ đầu tiên “Con bướm vàng” là như vậy đó.
Mãi sau này, Trần Đăng Khoa mới tiết lộ ban đầu viết là “Con bướm vàng –
Bay nhẹ nhàng – Trên bờ rào…” Trần Đăng Khoa thấy gì ghi nấy, hoàn toàn
chưa biết thế nào là ý đồ nghệ thuật. Con bướm vàng chao trên bờ rào là thật
chứ không phải là bờ cỏ. Làm gì có “bờ cỏ” ở vườn nhà. Người dân quê, nhất là
những người ở miền Bắc đời sống rất khó khăn, chủ yếu là trồng trọt nên họ rất
quý đất, có miếng nào là tận dụng cho bằng hết, dù chỉ miếng đất cạnh chân
rào, hay ô đất bé bằng bàn tay bên vại nước, không trồng cây thì họ cũng gieo
một ít rau thơm hay rau húng láng. Từ sự gắn bó, từ lòng yêu thương cảnh sắc
thiên nhiên của quê nhà, Trần Đăng Khoa đã đưa vào thơ mình những hình ảnh
hết sức quen thuộc của làng quê Việt Nam. Đọc thơ Trần Đăng Khoa, không chỉ
các em nhỏ mà tất cả chúng ta đều nhận ra sự quen thuộc ấy. Ở đâu mà chẳng
có góc sân, cây trầu, khoảng trời, cánh đồng, cánh cò bay,… Ở đâu mà chẳng
có chẳng có trò chơi thả diều, chọc ếch, câu cá, … Những hình ảnh đó trong cái
nhìn trong trẻo, tinh khiết của trẻ thơ bỗng trở nên có hồn, có thần và đầy chất
thơ. Tuy giống đấy mà lại khác đấy. Khác bởi cảm nhận của mỗi người không ai
giống ai. Đối với một số người, cây bàng, cây dừa, cây lựu, vườn cải hay chiếc
máy cày, cái nồi đồng, cây chổi,… chỉ là những cây, những đồ vật vô tri vô
giác. Nhưng đối với Trần Đăng Khoa tất cả là bạn bè, tất cả đều có hồn, có
hành động, tất cả đều ngộ nghĩnh, đáng yêu. Cảnh sắc làng quê trong thơ ca
cách mạng Việt Nam hiện đại thường được miêu tả và cảm nhận trong dáng vẻ
của làng quê nông nghiệp cổ truyền.

Trần Đăng Khoa của chúng ta chưa từng trải nghiệm trong cuộc sống nhưng đã
có bài thơ mà nhiều người nằm lòng:

Hạt gạo làng ta


Có vị phù sa
Của sông Kinh Thầy
Có hương sen thơm
Trong hồ nước đầy...
(Hạt gạo làng ta)

Không một chút cầu kì mà rất chân thật. Dưới sự khắc nghiệt của khí hậu,
những con vật, cỏ cây như ngừng hoạt động trong khi con người vẫn phải đối
mặt:

Giọt mồ hôi sa
Những trưa tháng sáu
Nước như ai nấu
Chết cả cá cờ
Cua ngoi lên bờ
Mẹ em xuống cấy…

Sinh ra và lớn lên ở nông thôn, gắn bó với ruộng đồng nên hơn ai hết, Trần
Đăng Khoa hiểu rằng hạt gạo trong cuộc sống có một vị trí vô cùng quan trọng.
Trong những năm tháng chiến tranh thì giá trị của nó càng tăng lên gấp bội. Để
có được hạt gạo, người nông dân đã rất vất vả, phải “bán mặt cho đất, bán lưng
cho trời”. Và như đã nói, trong chiến tranh thì có biết bao người nông dân đang
làm đồng đã chết vì bom Mĩ. Thế nên, hạt gạo “gửi ra tiền tuyến – gửi về
phương xa” lại kết tinh thêm tình cảm thiết tha, sâu nặng của hậu phương đối
với tiền tuyến. Tố Hữu khi nhận định về thi ca, đã viết: “Bài thơ hay làm cho
người ta không thấy câu thơ, chỉ còn cảm thấy tình người”. Với bài thơ này,
Trần Đăng Khoa đã làm cho chúng ta cảm nhận được tình người đó. Trần Đăng
Khoa đã khiêm nhường cho rằng bài thơ của mình hay là nhờ được nhạc sĩ Trần
Viết Bính phổ nhạc. Không khó khăn để tìm ra những em bé có những câu,
những ý như Trần Đăng Khoa viết “hạt gạo làng ta” nhưng mãi mãi chúng ta sẽ
không tìm được ai khác ngoài Trần Đăng Khoa với câu “hạt vàng làng ta”.
Cánh đồng làng Điền Trì cũng được Trần Đăng Khoa nói đến. Đó là nơi sản
xuất, trồng trọt của xóm làng. Đó là nơi tuổi thơ để mặc cho cánh diều thỏa sức
tung bay. Ngày ngày đứng trước sân nhà nhìn thấy cánh đồng nên nó trở nên
quen thuộc với tất cả những người nơi đây. Riêng Trần Đăng Khoa với giác
quan tinh tế, nhạy cảm đã phát hiện:

Cánh đồng làng Điền Trì


Sớm nay sao mà rộng
Sương tan trên mũi súng
Trên sừng trâu cong veo
(Cánh đồng làng Điền Trì)

Trần Đăng Khoa ngạc nhiên trước sự đổi thay cánh đồng bởi sau khi gặt hái
xong thì người dân bắt đầu cấy mạ cho một vụ mùa khác. Từ một cánh đồng chỉ
trơ gốc rạ nay bỗng nhiên tươi màu xanh của mạ trong sương sớm chưa tan.
Hình ảnh đơn sơ làm sao mà cũng đẹp làm sao. Trong con mắt yêu thương thì
tất cả sự vật đều trở nên đáng yêu, cho dù sự vật đó đối với người khác là bình
thường.

Bên cạnh góc sân, cánh đồng thì dòng sông Kinh Thầy là nơi Trần Đăng Khoa
hết lòng thương mến. Chính dòng sông này đã tắm mát cho Trần Đăng Khoa.
Chính dòng sông này đưa nước vào tưới mắt cho đồng ruộng, cây trái. Sông
Kinh Thầy trong thơ Trần Đăng Khoa có “Hàng chuối lên xanh mướt – Phi lao
reo trập trùng”. Vậy thôi, nhưng người đi xa vẫn nhớ hoài, vẫn mong có ngày
được trở về đi dọc bờ sông, vùng vẫy trong dòng nước mát như thuở ấu thơ.
Thiên nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa còn có cả thế giới loài vật, đồ vật.
Chúng hiện ra với một dáng vẻ vô cùng sinh động, đáng yêu. Trần Đăng Khoa
có thể trò chuyện thân mật với con trâu – người bạn vô cùng thân thiết của nông
dân:

Trâu ơi, ăn cỏ mật


Hay là ăn cỏ gà
Đừng ăn lúa đồng ta…
Trâu ơi, uống nước nhá…
Trâu cứ chén cho no
Ngày mai cày thật khỏe
Đừng lo đồng nứt nẻ…
(Con trâu đen lông mượt)

Những con vật trong thơ của một em bé đều có những nét đáng yêu: con mèo
(Đánh tam cúc), con gà (Nói với con gà mái, Ò ó o…), con chó (Sao không về
Vàng ơi), chim (Tiếng chim chích chòe, con chim hay hót),... Trong bài Buổi
sáng nhà em, tất cả hiện lên thật sinh động trong cái nhìn và sự liên tưởng của
trẻ thơ. Mèo dậy rửa mặt trong tư thế hết sức đỏm dáng “cái tay rửa mặt, cái đầu
nghiêng nghiêng”. Cái Na, cu Chuối nghịch ngợm đứng vỗ tay cười. Chị Tre
“chải tóc bên ao”, nàng Mây thì “ghé vào soi gương” trong khi bà Sân đã “vấn
chiếc khăn hồng đẹp thay” từ khi “Ông trời nổi lửa đằng đông”. Con người và
sự vật gắn bó, giao hòa với nhau, cùng nhau bắt đầu ngày mới. Không chỉ riêng
nhà Trần Đăng Khoa mà mọi nhà đều như thế, tất cả tạo nên một không khí
nhộn nhịp, sôi động. Bài thơ mang đậm nét hồn nhiên, trẻ thơ đã làm cho chúng
ta vừa đọc vừa nở nụ cười trên môi. Cười vì không ngờ sự liên tưởng, ví von
của một em nhỏ lại hay và đúng bản chất của sự vật như thế. Cười vì đọc bài
thơ này ta như sống dậy một cảm giác yêu mến cuộc sống lạ lùng. Chợt nhận ra
những ngây thơ, hồn nhiên của tuổi thơ đã rơi rớt trên bước đường ta tìm kiếm
công danh, địa vị. Tự nhủ lòng sáng mai sẽ dậy sớm để lắng nghe âm thanh của
cuộc sống… Hình ảnh con cò từ lâu đã được thơ ca Việt Nam biểu hiện như là
một dấu hiệu về làng quê nông nghiệp với những con người lam lũ, vất vả nơi
đồng ruộng mà hồn hậu, trắng trong. Trong cảm nhận của Trần Đăng Khoa, con
cò có lúc hư ảo như trong ca dao thần thoại:

Xưa mẹ ru em
Cũng tiếng võng này
Cánh cò trắng muốt
Bay - bay - bay - bay...
(Tiếng võng kêu)

Nó cũng đáng thương, nhỏ bé trước cuộc đời:


Trong giấc mơ em
Có gặp con cò
Lặn lội bờ sông
(Tiếng võng kêu)
Nhưng con cò ở đây có thêm những nét mới. Nó “đánh nhịp bay vào bay ra”
như những “chớp trắng trên sông Kinh Thầy”. Nó không còn đơn côi một mình
trong đêm tối mà trong bầy đàn, trong số đông và xuất hiện vào ban ngày, trong
nắng đẹp của trời quê yên ả. Và nếu trước kia tác giả dân gian thấy “con cò đi
đón cơn mưa” trong “tối tăm mù mịt” với vẻ cam chịu, thụ động, mệt mỏi,
chẳng biết “ai đưa cò về” thì đối với Trần Đăng Khoa:

Con cò
Trắng muốt
Bay ra đón cơn mưa...
Mừng đón cơn mưa
(Con cò trắng muốt)

Với một thái độ chủ động, tự tin, những con cò này trở thành tượng trưng cho tư
thế cứng cỏi, dũng cảm, cho tâm hồn trong trắng, thanh cao và ngay thẳng của
con người, làng quê Việt Nam đang vượt lên trên những thử thách khắc nghiệt.
Nó góp phần làm cho thiên nhiên ở làng quê Việt Nam tự ngàn xưa đã đẹp, hữu
tình nay càng thêm đẹp, thêm hữu tình hơn. Đối với người lớn, thiên nhiên được
miêu tả và cảm nhận chủ yếu bằng kinh nghiệm, bằng lí trí và đôi lúc là cảm
nhận bằng tâm trạng, nỗi niềm riêng của mình. Còn trẻ con thì không thế. Đối
với chúng, thiên nhiên chứa đựng những điều kì diệu, bí ẩn, thú vị và chúng rất
muốn chiêm ngưỡng, khám phá. Chính thiên nhiên với tất cả sự phong phú, đa
dạng của những sự vật đã giúp cho trẻ em nhận thức, hình thành tư duy và từ đó
phát triển trí tưởng tượng, làm giàu tâm hồn của các em. Các em sáng tác một
cách ngẫu hứng, không chủ ý, không theo một đề tài nhất định. Hãy đọc một số
bài thơ của các em nhỏ, ta sẽ nhận ra một điều trùng hợp ngẫu nhiên là các em
miêu tả rất nhiều về thiên nhiên. Bên cạnh việc miêu tả, các em cảm nhận được
sự thay đổi của cảnh vật, thời tiết cho dù sự thay đổi đó rất nhỏ mà đôi khi
chúng ta không để ý đến. Ánh trăng được Trần Đăng Khoa nhắc đến rất nhiều
trong thơ mình (hơn 10 lần). Trẻ em ở nông thôn ngày ấy rất thích chơi trước
sân nhà vào những ngày trăng sáng. Các trò chơi mang đậm tính dân gian: xỉa
cá mè, mèo đuổi chuột,… Với Trần Đăng Khoa trăng không chỉ là một người
bạn thân thiết cùng em chơi, chia sẻ bao điều suy nghĩ mà còn là một người bạn
thơ. Vẻ đẹp của trăng làm cho mọi vật như lặng đi:

Hàng cây cau lặng đứng


Hàng cây chuối đứng im
Con chim quên không kêu
Con sâu quên không kêu
Chỉ có trăng sáng tỏ
Soi rõ sân nhà em…
(Trăng sáng sân nhà em)

Thực ra, chính Trần Đăng Khoa người đứng lặng trước ánh sáng huyền diệu ấy.
Trong tư thế đó, Trần Đăng Khoa cảm giác như tất cả mọi vật xung quanh cũng
đều như thế. Ánh trăng mênh mông, bát ngát như rải thảm xuống nhân gian làm
rung động một tâm hồn bé nhỏ. Không chỉ có một lần mà còn nhiều lần khác
nữa: Tiếng đàn bầu và đêm trăng, Trông trăng, Trăng ơi… từ đâu đến... Trăng
gợi cho Trần Đăng Khoa biết bao liên tưởng, so sánh, mỗi liên tưởng, so sánh
là một điều bất ngờ, thú vị, ngộ nghĩnh mà lại rất hợp với trẻ con:

Trăng như cái mâm con


Ai treo ông cao thế
Ông nhìn đàn em bé
Muốn khoe cái mặt tròn
(Trông trăng)

Trăng hồng như quả chín


Lửng lơ trước sân nhà…
Trăng tròn như mắt cá
Không bao giờ chớp mi
Trăng bay như quả bóng
Bạn nào đá lên trời…
(Trăng ơi… từ đâu đến)

Đó là những lúc trăng tròn. Còn khi trăng khuyết thì:


Ông trăng cười những lợi
Răng chẳng chiếc nào còn
(Trăng đầu tháng)

Không chỉ có trăng mà tất cả cảnh vật ở làng quê ấy đều gợi cho chúng ta một
cảm giác thanh thản, bình yên khi đọc lên những vần thơ được viết từ tâm hồn
tinh tế, nhạy cảm, sâu sắc của Trần Đăng Khoa. Nhà thơ nhỏ này không chỉ
quan sát mà còn hòa lòng mình với thiên nhiên nên lắng nghe được mọi âm
thanh, phát hiện được sự vận động của sự vật như trong bài Chớm thu:

Nửa đêm nghe ếch học bài


Lưa thưa vài hạt mưa ngoài hàng cây
Nghe trời trở gió heo may
Sáng ra vại nước rụng đầy hoa cau.
(Chớm thu)

Dường như thời khắc nửa đêm gây cho người ta niềm xúc động mạnh mẽ. Lúc
này con người sẽ được trở về sống với chính mình chứ không phải cho kẻ khác.
Và, chỉ những người nào có những nỗi niềm, trăn trở mới phải thức đến lúc này.
Chú bé Trần Đăng Khoa, có lẽ, chỉ giật mình thức giấc nhưng trong cái se lạnh
của gió heo may cùng tiếng mưa khẽ rơi và hương thơm thoang thoảng của hoa
cau đã không tài nào ngủ tiếp được. Cảnh vật thiên nhiên đã không vận động,
biến đổi một mình mà còn có một con người bé nhỏ đang lặng theo dõi. Nằm
trong nhà mà nghe được nhiều sự vật như thế, hẳn không chỉ Trần Đăng Khoa
có thính giác tinh nhạy mà chính là nhờ vào vốn hiểu biết của mình. Kiểu mưa
nhẹ nhàng điểm xuyết thêm cái rét mướt của gió heo may báo hiệu một mùa
Đông sắp đến chỉ có ở đồng bằng Bắc bộ mà thôi. Một bài thơ ngắn nhưng nắm
bắt được khoảnh khắc tuyệt vời của đất trời. Em nhỏ sống ở miền Nam không
thể viết được những câu thơ như thế.

Trần Đăng Khoa còn nghe được rất nhiều âm thanh mà không phải ai cũng nghe
được nếu như không có sự tinh nhạy của giác quan, đặc biệt là tâm hồn yêu
thiên nhiên sâu đậm:

Tiếng sương đọng mật


Đọng mật trên cành tre
Nghe ri rỉ tiếng sâu
Nó đang thở cuối tường
Nghe rì rầm rặng chuối
Há miệng đòi uống sương
(Nửa đêm tỉnh giấc)

Đọc những câu như thế, chúng tôi không thể không xuýt xoa bởi phát hiện tinh
vi của Trần Đăng Khoa và tự nhủ: Thì ra giọt sương, rặng chuối, sâu cũng có
âm thanh nữa đấy. Nhưng chắc gì chúng ta nghe được nếu không có một tâm
hồn như Trần Đăng Khoa. Cái tài, cái tình của Trần Đăng Khoa còn thể hiện ở
việc cảm nhận được một âm thanh mà mình không thể gọi tên, và không biết có
thực hay không:

Một tiếng gì không rõ


Xôn xao cả đất trời…

Nếu như ở bài Chớm thu và Nửa đêm tỉnh giấc, tác giả đã gợi cho chúng ta một
không gian, thời gian thật thơ mộng, bình yên của làng quê thì ở bài Ò ó o… là
một cảnh ồn ào, náo nhiệt của làng quê vào buổi sớm: Tiếng gà – Giục quả na -
Mở mắt – Tròn xoe - Giục hàng tre – Đâm măng – nhọn hoắt – Giục buồng
chuối – Thơm lừng – Trứng cuốc – Giục hạt đậu – Nảy mầm – Giục bông lúa –
Uốn câu – Giục con trâu – Ra đồng – Giục đàn sao – Trên trời – Chạy trốn,…

Tất cả như hối hả, như bừng tỉnh sau một giấc ngủ. “Tiếng gà đánh tan âm khí
nặng nề, ở hoàn cảnh nước ta đang có giặc Mĩ xâm lược…” (Một em nhỏ làm
thơ – Xuân Diệu). Tiếng gà như một hiệu lệnh báo hiệu cho một ngày mới bắt
đầu, sự vật thì sinh sôi, nảy nở, chuyển đổi liên tục còn con người thì lao động
sản xuất phục vụ cho công cuộc vệ quốc vĩ đại. Nhịp điệu bài thơ thật sôi nổi,
rộn ràng như chính cuộc sống của những năm tháng chống Mĩ “tất cả tất cả cho
tiền tuyến”. Người đọc thích và khen ngợi thơ Trần Đăng Khoa không chỉ ở
cách miêu tả thật hay, chân thật mà còn ở chỗ các sự vật đều có hồn, đều biến
chuyển, vận động như con người. Trẻ em thường lầm tưởng những điều chúng
trông thấy thực sự và những điều chúng tưởng tượng từ thực tế ấy. Bởi thế, thơ
của chúng miêu tả về sự vật vừa quen mà cũng vừa lạ lùng, ngộ nghĩnh, đáng
yêu. Những chuyển đổi âm thầm của vạn vật được Trần Đăng Khoa cảm nhận
một cách tinh tế: trời trở gió heo may, sắp mưa, tiếng gió trở mình trăn trở trong
đêm thu, nhịp thở của cái ngõ nhỏ, tiếng sâu, tiếng hạt sương đọng mật, “tiếng
cây lách cách đâm chồi” và tuyệt vời hơn nữa là tiếng rơi của chiếc lá đa “tiếng
rơi rất mỏng như là rơi nghiêng”. Câu thơ này đã được mọi người hết lời khen
ngợi. Nghiêng gợi tả hình dáng nhiều hơn nên khi mới đọc ta cứ nghĩ rằng
người viết đã trông thấy chứ không phải nghe thấy. Đọc thơ Trần Đăng Khoa, ta
như được sống với những hình ảnh dung dị nhất về một miền quê yên bình, ấm
áp tình người. Tất cả những sự vật, sự việc, con người dưới con mắt trẻ thơ
thông minh, đầy sáng tạo đã đi vào thơ đong đầy kỉ niệm. Một phút đứng ở bờ
ao nhìn hoa khế rụng, nghe tiếng chim hót, một lần sang nhà bạn thấy chú bù
nhìn, một mầm hoa dại ven đường,… cũng gợi cho Trần Đăng Khoa niềm
thương mến thiết tha. Tất cả hồn quê được Trần Đăng Khoa lưu giữ bằng thơ để
những ai mỗi khi nhớ quê hương đọc lên cảm thấy mình đã tìm được một đồng
hương, một tri âm. Viết về thiên nhiên thành công như thế, phải thừa nhận rằng
bên cạnh tâm hồn, tài năng của mình Trần Đăng Khoa còn học tập rất nhiều từ
văn học dân gian và các nhà văn, nhà thơ bậc thầy. Những học tập đó được vận
dụng một cách linh hoạt, sáng tạo. Trong bài Đám ma bác Giun ta thấy thấp
thoáng hình bóng ca dao:

Con cò mắc dò mà chết


Mẹ con bìm bịp đổ thóc nếp ra xay
Cà cuống uống rượu la đà
Con cóc, con ngóe nhảy ra chia phần
(Đám ma bác giun)

Từ nhà văn Tô Hoài, Trần Đăng Khoa đã học để viết “Bờ tre vẫn chú dế mèn
vuốt râu” (Gửi bạn Chi-lê) dựa vào “Dế mèn phiêu lưu kí” và “Hạt mẩy uốn
cong – Chim ngói bay theo đàn” dựa vào đoạn văn “Tháng năm chim gáy đi ăn
đôi, tháng mười chim gáy về theo đàn”. Từ nhà văn Anđecxen, Trần Đăng Khoa
viết “Chim co chân ngủ - Lim dim cành tre” dựa vào hình ảnh con cò “đứng
một chân vững ra phết”, “Cô gió chăn mây trên đồng” dựa vào hình ảnh của cô
bé chăn cừu trong truyện. Từ nữ sĩ Anh Thơ, Trần Đăng Khoa viết “Bố em đi
cày về - Đội sấm – Đội chớp – Đội cả trời mưa” dựa vào bài Chiều xuân:
“Ngoài đường lội, một vài người về chợ - trĩu gánh hàng như trĩu cả quang
mưa”.

1.2. Hình ảnh người nông dân

Bên cạnh thiên nhiên thì con người cũng được Trần Đăng Khoa miêu tả chân
thực, sinh động. Chủ yếu là những người nông dân với đời sống nhọc nhằn, vất
vả mà tâm hồn trong trắng, mộc mạc và giàu nghĩa tình. Người nông dân mà
Trần Đăng Khoa gần gũi và yêu thương nhất chính là bố mẹ của mình. Là con
nhà nông, Trần Đăng Khoa am hiểu tường tận công việc bố mẹ làm hàng ngày.
Những vần thơ em viết về bố mẹ cũng chính là viết về người nông dân nói
chung ở quê hương mình. Hạt gạo làng ta như một khúc hát yêu thương, ca ngợi
những người nông dân. Ai cũng biết rằng để có được hạt gạo thì người nông dân
phải làm lụng rất vất vả: “ Giọt mồ hôi sa – Những trưa tháng sáu –Nước như ai
nấu – Chết cả cá cờ - Cua ngoi lên bờ - Mẹ em xuống cấy…”. Ta thấy có sự đối
lập giữa hai hình ảnh Cua ngoi lên bờ và Mẹ em xuống cấy. Từng nhánh mạ
tươi non, thẳng đều tăm tắp đều có giọt mồ hôi của mẹ nhỏ xuống. Người viết
sống ở miền Nam, quanh năm đối mặt với cái nóng cứ ngỡ rằng miền Bắc cũng
chẳng hơn gì. Nhưng khi đọc bài Ao nhà mùa hạn mới biết mình đã sai:

Mùa mưa mà mưa chẳng đến


Đáy sâu nẻ toác khi nào
Rêu nằm mơ những sấm sét
Rồi khô trên cọc cầu ao…

Cái nắng như muốn hủy diệt tất cả. Rêu là loại thực vật dễ sống, chỉ cần không
khi hơi ẩm cũng đủ để chúng tồn tại. Thế nhưng thời tiết khắc nghiệt, mưa chỉ
còn là niềm mơ ước. Và chúng đã chết khô. Trong khi đó con người, nhất là
người nông dân vẫn phải ra đồng lao động. Người đọc như được Trần Đăng
Khoa truyền sang nỗi thấm thía, xúc động mạnh mẽ xen lẫn cảm thông, biết ơn
những con người ngày đêm lao động, cống hiến thầm lặng cho cuộc sống này.
Những câu thơ “chạm vào bản chất của nông dân quê hương”

Giọt mồ hôi gợi cho ta liên tưởng đến câu ca dao:

Cày đồng đang buổi ban trưa


Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày

Nếu như mẹ em đứng cấy bất chấp cả cái nắng gay gắt, dữ đội của mùa hè Bắc
bộ thì bố em là người hùng trong cơn mưa: “Bố em đi cày về - Đội sấm – Đội
chớp – Đội cả trời mưa…”. Bức chân dung của người nông dân không bị mưa
gió làm nhạt nhòa mà ngời sáng như một tâm điểm của đất trời. Nắng mưa hay
thậm chí là những thiên tai nào khác là điều mà người nông dân phải chống
chọi, phải vượt qua. Sức mạnh của họ không phải là sức mạnh thần thánh mà
chính là sức mạnh đã trải qua những năm tháng lao động vất vả cùng với niềm
tin bất diệt: Cuộc kháng chiến của dân tộc ta sẽ chiến thắng, đất nước ta sẽ
thống nhất hoàn toàn. Niềm tin đó là động lực thúc đẩy họ lao động và chiến
đấu trong lạc quan. Trên cánh đồng lúc nào cũng có tiếng nói, tiếng cười:

Nơi này mấy bác cày


Đâu nghiêng nghiêng chiếc nón…
Nơi kia là mấy chị
Thì thòm tát gầu dai…
Nơi ấy mấy cô cấy
Ngửa tay phí mặt trời
Mạ bén hàng thẳng đứng
Hồn nhiên trong tiếng cười
(Cánh đồng làng Điền Trì)

Đời sống tinh thần của người nông dân rất đơn giản, bình dị. Niềm vui của họ là
niềm vui được lao động, được cống hiến, được gặt hái những bông lúa vàng
tươi sau một vụ mùa:

Chị chủ nhiệm rũ rơm


Anh dân quân đập lúa
Thóc nở bung như sao
Nhuộm vàng cả trời sao.
(Thôn xóm vào mùa)

Trần Đăng Khoa viết nhiều về người nông dân không chỉ trên đồng ruộng mà
còn trên sông nước, trong các công việc kiến thiết nước nhà. Đó là bác chài ngồi
“buông câu trong bóng chiều” (Bên sông Kinh Thầy). Đó là các chị đi sửa
đường hò vang theo từng vòng bánh xe lăn trên đường (Chiếc ngõ nhỏ). Đó là
các chị thanh niên xung phong (Đi tàu hỏa). Đó là bác kéo xe chở vật liệu về
xây dựng trường học (Lọc cà lọc cọc)… Người nông dân trong thơ Trần Đăng
Khoa là con người mới, tuy vất vả, khó nhọc nhưng năng động và yêu đời, say
mê nghệ thuật khác hẳn người nông dân lầm lũi trong ca dao xưa. Miền Bắc là
cái nôi văn hóa nghệ thuật, người dân xem sân khấu và âm nhạc là hơi thở, là lẽ
sống của mình. Thế nhưng kẻ thù đến, mang theo bom đạn ngày đêm gào thét.
Tiếng đàn, tiếng hát, những tuồng chèo,… bỗng trở nên quý báu, là niềm khao
khát của con người Việt Nam. Những khi đoàn văn công đến làng thì vui như
hội. Tất cả bà con đều tập trung quanh các anh văn công Quân giải phóng để
lắng nghe tiếng đàn, tiếng hát:

Chị dân quân lái máy cày


Ngón chân cái vết bùn non còn lấm
Cụ già mấy lần tiễn cháu con ra trận
Đông nhất là trẻ em lên chín, lên mười
Trong tiếng đàn bầu
Tất cả bỗng thành thi sĩ
(Tiếng đàn bầu và đêm trăng)

Cũng có khi làng tự tổ chức đêm văn nghệ. Thế là những nông dân lam lũ hàng
ngày bỗng trở thành diễn viên. Họ đã sống hết mình với vai diễn:
Kìa cô Thị Mầu lên chùa
Đỏng đảnh dáng đi, mắt liếc
Ngắm cái tay cô phẩy quạt
Tưởng mình sống đã trăm năm
(Cô Thị Mầu)
Những người xem cũng chỉ biết có cô Thị Mầu đỏng đảnh:
Người xem thoáng như quên chị
Chiều nay gánh lúa trên đồng
Tảo tần nuôi em, nuôi mẹ
Mười năm ròng rã chờ chồng…

Cả cuộc đời gắn bó với ruộng đồng, với lũy tre làng, cây đa, bến nước… nhưng
khi đất nước lâm nguy, họ sẵn sàng lên đường chiến đấu, không một chút đắn
đo, do dự. Hình ảnh chú dế mèn điềm nhiên vuốt râu (trong Gửi bạn Chi-lê) là
tư thế của người nông dân ung dung, sẵn sàng ra chiến trường chiến đấu bảo vệ
từng tấc đất, ngọn rau cho quê hương, đất nước mình. Để rồi có người ngã
xuống ở vùng đất xa xôi nào đó của Tổ quốc, có người trở về với thân thể
không còn nguyên vẹn, lại tiếp tục làm bạn với cái cuốc, cái cày, con trâu, tiếp
tục lao động, tiếp tục cống hiến.

Ở thời kì sau (1975 đến nay), thơ của các em thiếu nhi vẫn viết về thiên nhiên,
về con người, nhất là những người thân xung quanh mình nhưng không có được
cái không khí khẩn trương, sôi nổi như Trần Đăng Khoa và các bạn
của mình đã viết trong thời đại kháng chiến chống Mĩ.

Tình cảm của con người và cảnh vật nơi đồng ruộng được Trần Đăng Khoa
thẩm thấu và đưa vào bài Khi mùa thu sang. Cảnh vật không lạ nhưng ăm ắp
tình làm cho Trần Đăng Khoa muốn kêu to lên “Thu sang rồi đấy! Thu sang!”.
Chúng tôi nghĩ, thơ hay không chỉ ở các con chữ đọc lên nghe mượt mà, êm dịu
mà cốt ở cái tình của tác giả đối với đối tượng được thể hiện. Nếu tác giả không
xúc động, không có cái tâm mà chỉ muốn phô diễn sự lạ thì làm sao có thể thổi
hồn vào các con chữ được? Chúng tôi rất tán đồng ý kiến cho rằng Trần Đăng
Khoa đã sáng tác “không chỉ bằng tâm hồn của một cậu bé lớn lên cùng những
trò chăn trâu, thả diều, bắt cá mà thực sự còn bằng máu thịt của người nông
dân”. Ai đã hòa nhịp thở của mình với từng thay đổi rất nhỏ của của vạn vật
mới có thể cảm nhận được: “Mùi bùn đang ngấu – Mùi phân đang hoai – Vôi
chưa tan hẳn - Còn hăng rãnh cày…” để rồi say sưa, ngây ngất: “Trời đất đêm
nay – Như chim mới hót – Như rượu mới cất – Như mật mới đong… Thịt da ta
cũng – Tỏa hơi ruộng đồng…”
(Hương đồng).

Thiên nhiên và con người hòa làm một:


Đất trời cách một gang mây
Và tôi cùng với luống cày tỏa hương…
(Đồng chiều)

2. Cảm hứng từ những người thân yêu


Khi bàn về thơ thiếu nhi, giáo sư Vân Thanh cho rằng: “Tình cảm gia đình trong
thơ các em viết chưa nhiều. Thực ra lỗi không phải ở các em. Các em làm thơ vì
một nhu cầu tự nhiên của tâm hồn, những gì các em không sống, không biết hay
chưa thể nghiệm sâu thì các em chưa nói đến”. Đối với Trần Đăng Khoa thì
khác. Bên cạnh thiên nhiên, cuộc sống lao động ở nông thôn và những tình cảm
đối với Bác Hồ, bộ đội thì Trần Đăng Khoa viết khá nhiều về người thân của
mình. Những người gắn bó với Trần Đăng Khoa nhất thì phải nói đến: Bà, bố
mẹ, anh Minh, bé Giang và cháu bé Minh Hà (gọi Trần Đăng Khoa bằng chú).
Tất cả những người này đã góp phần hình thành và nuôi dưỡng hồn thơ Trần
Đăng Khoa.

Trong cả tập thơ chỉ có một bài Mưa là Trần Đăng Khoa viết về bố. Điều này
không có nghĩa là Trần Đăng Khoa không yêu bố mà là một hiện tượng tâm lí
bình thường. Người bố cho dù có thương con mức nào cũng ít thể hiện, vẻ ngoài
thường lạnh lùng, nghiêm khắc. Thế nên, trong ca dao dân ca hay trong văn học
viết cũng ít đề cập đến bố.

Trong khi đó, mẹ là cảm hứng vô tận của thơ, nhạc, họa…Trong các loại hình
nghệ thuật đó, mẹ được ví với cái cao cả, lớn lao như sông dài, như biển rộng,
như núi cao,… Trần Đăng Khoa viết về mẹ không như những người lớn đã viết.
Bằng tấm lòng yêu thương tha thiết, Trần Đăng Khoa nhận thức được những vất
vả, gian lao mà mẹ phải trải qua từ khi cưu mang con cho đến khi con trưởng
thành. Mẹ của Trần Đăng Khoa là hình ảnh của những bà mẹ trong các cuộc
kháng chiến. Hạt gạo làng ta làm bao người xúc động về tính chân thật, sức gợi
cảm của từ ngữ qua hình ảnh người mẹ phải đối mặt với cái nắng hè như đổ lửa
trên lưng, phải ngâm chân trong “nước như ai nấu” để cấy mạ, để làm ra hạt gạo
làng ta. Trần Đăng Khoa còn nhận thức được những vất vả của mẹ:

Áo mẹ mưa bạc màu


Đầu mẹ nắng cháy tóc
Mẹ ngày đêm khó nhọc
Đó là nguyên nhân sâu xa làm cho “mẹ ốm”:
Nắng mưa từ những ngày xưa
Lặn trong đời mẹ đến giờ chưa tan

Hiểu được điều đó nên Trần Đăng Khoa luôn chăm chỉ làm các công việc nhà
để bố mẹ đỡ mệt nhọc. Thực tế thì Trần Đăng Khoa đã làm rất nhiều việc: luộc
khoai, thổi cơm, nhổ cỏ vườn, quét sân (Khia mẹ vắng nhà), ru em ngủ (Tiếng
võng kêu),… Những việc làm tuy nhỏ nhưng đã thể hiện lòng yêu thương của
một đứa con hiếu thảo. Hơn thế, Trần Đăng Khoa còn làm nhiều trò khi Mẹ ốm:

Ngâm thơ, kể chuyện rồi thì múa ca


Rồi con diễn kịch giữa nhà
Một mình con sắm cả ba vai chèo

Trần Đăng Khoa không nói nhưng người đọc đều rưng rưng xúc động và thấy
được nụ cười hạnh phúc của người mẹ đang ốm khi đứa con quỳ bên giường
bệnh mà nói:

Vì con mẹ khổ đủ điều…


Mẹ là đất nước, tháng ngày của con…

Anh Minh là người mà Trần Đăng Khoa rất ngưỡng mộ tài “xuất khẩu thành
thơ”. Trong tập thơ có bài Nhận thư anh diễn tả nỗi vui mừng đến nỗi bàn tay
bóc thư mà “ngón tay cứ ríu vào nhau” của Trần Đăng Khoa. Tuy anh ở xa, khá
lâu mới về thăm nhà nhưng tình cảm của Trần Đăng Khoa dành cho anh rất sâu
đậm. Anh Minh không chỉ là anh mà còn là người bạn, là thầy giáo đã bồi
dưỡng cho Trần Đăng Khoa từ những quyển sách trong “thư viện nhỏ” mà anh
mua từ đồng lương giáo viên ít ỏi của mình. Anh chữa giúp Trần Đăng Khoa bài
thơ, góp ý để thơ Trần Đăng Khoa ngày càng hay hơn. Sau này khi trưởng thành
nhà thơ Trần Đăng Khoa có làm bài thơ Gửi bác Trần Nhuận Minh được mọi
người đánh giá cao. Trải qua bao bộn bề cuộc sống nhưng tình nghĩa anh em
không bao giờ phai nhạt. Trong bài thơ đó, hay nhất là ước muốn:

Thung thăng em với bác


Ta cưỡi thơ ra đồng.

Ngoài ra, người bà cũng được Trần Đăng Khoa nhắc đến với tất cả lòng kính
yêu. Không chỉ riêng Trần Đăng Khoa mà hầu như tất cả trẻ nhỏ đều như thế.
Người gần gũi nhiều nhất với trẻ nhỏ trong nhà không phải là bố mẹ mà chính là
bà. Niềm vui của bà là được chăm sóc, nuôi nấng những đứa cháu thơ. Nếu hình
ảnh người mẹ đẹp hơn khi gắn liền với sự vất vả, lo toan thì hình ảnh bà cũng
như thế khi gắn với việc chăm sóc, lo lắng, dạy dỗ cho cháu. Với bà, những việc
cỏn con hàng ngày đều mang một bài học nhân sinh:

“ Cái gai làm rách áo - Đừng giận nó cháu ơi - Nó cho cháu ý tứ - Những khi đi,
khi ngồi” (Cái gai). Khi cháu nhè, ông bà sẵn sàng làm mọi cách để cháu vui:
“Ông làm rồng rắn giữa sân - Lượn tròn, bà uốn dẻo chân - cháu cười”. Bài thơ
làm người đọc cảm động nhất là Bà và cháu. Trần Đăng Khoa hiểu tất cả nỗi cơ
cực mà bà của Hương đã gánh chịu từ khi còn trẻ đến khi tóc bạc. Ông và bố
của Hương lần lượt hi sinh trong cuộc kháng chiến, để lại “Cái vành tang cho bà
- Vết nhăn hằn sâu mãi - Và hắt hiu tuổi già”. Niềm an ủi duy nhất của bà là bé
Hương. Có bé Hương, bà như được tiếp thêm sinh lực để vui sống:

Bà vẫn vui công việc


Chả lúc nào ngơi tay
Khi bà thăm trận địa
Lúc bà trồng hàng cây (…)
Bà vẫn nuôi bộ đội
Suốt hăm mấy năm trời (…)
Không chỉ riêng một mình bà của Hương mà đó là hình ảnh của những bà mẹ
Việt Nam trong kháng chiến. Những người thân yêu nhất của mình lần lượt ra đi
rồi sau đóđược mấy người trở về. Nhưng, bằng tất cả ý chí và nghị lực phi
thường họ vẫn sống và sống một cách ý nghĩa.

Bên cạnh bà, đứa cháu vẫn vô tư với những suy nghĩ non trẻ của chúng. Chúng
thắc mắc đủ điều mà không phải bao giờ người lớn cũng giải thích được “Chú
ơi trăng già thế - Sao bà bảo trăng non?” (Trăng đầu tháng), “Biển đen màu mực
ai mài” (Hạ Long) hay “Đường nhăn hằn sâu khuôn mặt - Phải vết roi không, bà
ơi? ” (Chuyện của Bà).

Cũng cảm hứng này Trần Đăng Khoa nêu được một điều phi lí, trong khi mọi
cái đều có thể trở về sau ngày kí hiệp định Paris chấm dứt chiến tranh, lập lại
hòa bình ở Việt Nam:
Mây trắng về với sắc trời xanh
Hương về với hoa tươi quả ngọt
Chồi biếc nảy sinh về vườn tược
Nụ cười về mặn chát làn môi…
Hòa bình về da lành non vết đạn

Thì bà “lại chẳng bao giờ về lại mái tóc xanh”… nên Trần Đăng Khoa đã dặn
cháu Minh Hà:

Nhưng đừng hỏi, cháu ơi,


sao đầu bà bạc trắng
(Nói với cháu)

Bé thơ có những hành động hết sức dễ thương do chúng cố tình bắt chước cử
chỉ, điệu bộ của người lớn và những sự vật xung quanh. Bé Hà khi thì nhại dáng
đi của bà trông ngô nghê làm người đọc buồn cười, khi thì làm đủ kiểu như
đang chụp ảnh. Cháu bé Minh Hà của Trần Đăng Khoa mới tí tuổi đầu đã biết
thế nào là bom đạn và còn “dạy” chú Trần Đăng Khoa:

- Chú ơi, nếu còn bom Mĩ


Chú phải bịt tai thế này
Cháu bỗng xoay ngang trên ghế
Như vừa có tiếng máy bay
Đôi khi chính bản thân trẻ con cũng tự rút ra cho mình bài học:
Muốn giữa đường không đổ
Phải vượt lên cho đều…
(Bé Giang tập xe đạp)

Trong thơ Trần Đăng Khoa, những em bé trong thời chiến vẫn có những nét hồn
nhiên, ngây thơ của lứa tuổi chúng và cũng có những “kinh nghiệm, những suy
nghĩ già dặn so với tuổi. Chúng biết cách ngụy trang trên đường đến trường,
biết cách tự chăm sóc cho mình, biết cách tạo ra những trò chơi cùng các con
vật nuôi trong nhà khi không còn ai khác. Ngoài tình cảm dành cho những
người thân trong gia đình, Trần Đăng Khoa còn
có những bài thơ viết tặng cho các nhà thơ, nhà văn - những người thầy đã dạy
bảo, dẫn dắt Trần Đăng Khoa từ những bước đi đầu tiên trên con đường nghệ
thuật chông gai: Nếu chú ý một chút ta sẽ thấy rằng những bài thơ em viết tặng
mỗi người rất phù hợp với phong cách sáng tác của người đó. Nhà văn Tô Hoài
chuyên viết truyện về thế giới loài vật thì Trần Đăng Khoa tặng chú bài Ò ó o…
với các sự vật đang háo hức đón chào ngày mới, Huy Cận sáng tác với “nỗi sầu
vạn cổ” thì Trần Đăng Khoa tặng bài Nửa đêm tỉnh giấc bằng tất cả sự rung
cảm, tinh tế trước những vận động, rất khẽ khàng của đất trời,… Hơn thế, Trần
Đăng Khoa còn lẫy cả tên bài thơ, câu thơ, ý thơ của Tố Hữu, Xuân Diệu để viết
Kính tặng chú Tố Hữu, Ở nhà chú Xuân Diệu với vốn hiểu biết không trẻ con
chút nào về quê hương và sự nghiệp sáng tác của hai nhà thơ này. Trần Đăng
Khoa còn viết tặng cho bác P. Nê-ru-đa (nhà thơ Chi-lê) trong niềm xúc động
khi nghe tin bác bị sát hại trong vụ đảo chính năm 1973. Trần Đăng Khoa nói
lên tiếng lòng của một dân tộc Việt Nam - dân tộc liên tục bị ngoại xâm rất khao
khát hòa bình. Trần Đăng Khoa đã thay mặt thiếu nhi Việt Nam để trả lời với
thiếu nhi quốc tế qua bài Gửi bạn Chi-lê:
Chúng tôi chẳng sợ Mĩ đâu
Vẫn vui vẫn hát những câu rộn ràng

3. Cảm hứng từ hoàn cảnh lịch sử của đất nước

3.1. Số phận của những em bé Việt Nam trong chiến tranh


Càng yêu quê hương, đất nước Việt Nam bao nhiêu thì con người Việt Nam
càng căm thù giặc Mĩ bấy nhiêu. Không chỉ có người lớn mới biết yêu thương
và căm thù mà trẻ con cũng thế. Lẽ ra, trong tâm hồn ngây thơ, trong trắng của
những trẻ em ở lứa tuổi Trần Đăng Khoa lúc bấy giờ chỉ nên có lòng yêu
thương chứ không có lòng thù hận. Khi Trần Đăng Khoa lên bảy, lên tám thì bè
lũ Nhà Trắng bắt đầu mở rộng chiến tranh ra miền Bắc. Trong hoàn cảnh chiến
tranh, chứng kiến những hoang tàn, đổ nát, chết chóc do chiến tranh gây ra như
thế làm sao có thể không đau xót? Tập thơ Góc sân và khoảng trời của Trần
Đăng Khoa là những lời đồng cảm sâu sắc giúp chúng ta thấu hiểu được số phận
và tâm hồn của những em bé Việt Nam trong chiến tranh.
Đáng lí ra, những em bé - mầm non của một đất nước - phải được nâng niu,
chăm sóc và tạo mọi điều kiện để phát triển, để các em được hưởng mọi ưu ái
như lời Tố Hữu luôn căn dặn những nhà văn, nhà thơ khi sáng tác cho thiếu nhi
phải luôn tâm niệm một điều: “Cái gì càng ngon, càng hay, càng đẹp, càng vui
thì chúng ta để dành cho các em”. Đằng này, các em lại là những nạn nhân trực
tiếp hoặc gián tiếp phải gánh chịu những hậu quả của khói lửa, đạn bom. Hậu
quả trực tiếp: có biết bao sinh mạng của những người thân của các em bị bị
chiến tranh cướp đi và chính các em cũng bị chiến tranh giết hại “nó thiêu cả bé
chưa và được cơm” (Gửi bạn Chi-Lê). Hậu quả gián tiếp: Người lớn (ông bà,
cha mẹ…) không có nhiều thời gian để chăm sóc cho con em của mình, bởi vì
họ bận sản xuất, chiến đấu và nuôi bộ đội hay bất kì công việc gì góp phần bảo
vệ đất nước. Thế nên, các em phải tự chăm sóc bản thân mình là chính. Cũng là
một em nhỏ như bao em nhỏ khác, Trần Đăng Khoa đã nhìn thấy và xót xa về
điều đó qua nhiều bài thơ trong tập Góc sân và khoảng trời mà hình ảnh gần gũi
và được nhắc khá nhiều là em gái của mình - bé Thúy Giang. Thường là mọi
người trong nhà đi vắng hết, bé Giang phải ở nhà một mình. Ta có thể hình
dung khuôn mặt tiu nghỉu thật tội nghiệp khi em nhìn trước, ngó sau chẳng thấy
ai khác ngoài chú mèo:
Cả nhà vắng hết
Chỉ còn bé Giang
Bé đánh tam cúc
Với con mèo hoang
(Đánh tam cúc)
Bé đã nảy ra một trò chơi với người bạn nhỏ này. Đối với mọi người, bé Giang
chỉ là một em bé 4, 5 tuổi, vẫn còn rất nhỏ. Vậy mà, khi chơi với chú mèo
khoang, bé lại trở thành người lớn. Bé rất biết nhường nhịn chú mèo khi nó tỏ ra
nũng nịu:

À thôi mày được


Bé Giang dỗ dành
Mèo lè lưỡi đỏ
Liếm vào răng nanh…

Trần Đăng Khoa rất thương, rất thấu hiểu và thông cảm với bé Giang. Bản thân
Trần Đăng Khoa mới ít tuổi đầu cũng đã tỏ ra là người lớn qua những lời dặn dò
em:
Dặn em đừng có chơi xa
Máy bay Mĩ bắn không ra kịp hầm
Đừng ra ao cá trước sân
Đuổi con bươm bướm trượt chân ngã nhào
Đừng đi bêu nắng nhức đầu
Đừng vầy nghịch đất, mắt đau, lấm người
(Dặn em)

Những “đừng” trong lời dặn dò thể hiện thái độ quan tâm, chăm sóc của một
người anh dành cho em và cũng chứng tỏ Trần Đăng Khoa phải người lớn so
với tuổi của mình. Không chỉ thương mỗi bé Giang, Trần Đăng Khoa còn nhận
ra xung quanh mình còn có những số phận trẻ em đồng trang lứa với mình phải
chịu những bất hạnh của cuộc chiến tranh xâm lược của kẻ thù:
Em biết lúc này giặc Mĩ đang đốt giết
Những bé thơ cùng với các đồ chơi
Những mái nhà cùng với tiếng chim vui
Những cánh rừng cùng với vầng trăng bạc
(Thư thơ)

Và ngay cả các con vật đồng thời là người bạn nhỏ mà các em yêu thương cũng
bị bom đạn làm cho khiếp sợ mà chạy tán loạn (Sao không về Vàng ơi)
Lớn hơn tuổi không chỉ có việc nhận thức đó, Trần Đăng Khoa ý thức được nỗi
cực nhọc của mẹ. Ý thức đó được thể hiện bằng hành động cụ thể, Trần Đăng
Khoa đã giúp mẹ làm rất nhiều công việc: Chống hạn, bắt sâu, chọc ếch, đưa em
ngủ (trong “Tiếng võng kêu”), kéo xe chở phân lót ruộng (trong “Cánh đồng
làng Điền Trì”) … Khi mẹ vắng nhà, Trần Đăng Khoa giống như một cô Tấm
hiền lành, đảm đang trong cổ tích bà từng kể :

Khi mẹ vắng nhà, em luộc khoai


Khi mẹ vắng nhà, em cùng chị giã gạo
Khi mẹ vắng nhà, em thổi cơm
Khi mẹ vắng nhà, em nhổ cỏ vườn
Khi mẹ vắng nhà, em quét sân và quét cổng

Những gì Trần Đăng Khoa làm giúp cha mẹ thì có lẽ những em bé khác cũng
thế, tất cả các em phải làm lụng vất vả và bớt phần vô tư đùa nghịch. Các em
chăm ngoan như thế, nhưng khi được mẹ khen ngợi thì chẳng chịu nhận mà cứ
một mực “con chưa ngoan, chưa ngoan!”. Trong những đầu óc ngây thơ ấy đã
biết nghĩ rằng việc của mình làm chỉ là cỏn con, chưa thể bù đắp được những
vất vả, gian lao của mẹ:

Áo mẹ mưa bạc màu


Đầu mẹ nắng cháy tóc
Mẹ ngày đêm khó nhọc

Một em bé mới 9 tuổi đầu đã biết quan sát hiện tượng (áo mẹ bạc màu, tóc mẹ
cháy nắng) để nhìn ra bản chất (mẹ ngày đêm khó nhọc). Vì đâu mà các em phải
sớm già dặn như thế nếu không phải vì cuộc xâm lược phục vụ cho lòng tham
lam, độc ác của bọn đế quốc Mĩ? Hiện thực cuộc sống đòi hỏi các em phải như
thế. Chính các em cũng hiểu được sự già dặn, khôn ngoan của mình là do đâu
mà có:

Anh chớ bảo em là khôn trước tuổi


Cái gì cần nhớ trước thì nhớ trước
Cái gì không cần thì tạm nhớ sau
(Bọn trẻ xóm em – Hoàng Hiếu Nhân)

Sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh chiến tranh, phải tự chăm sóc bản thân khiến
các em sớm có ý thức hơn nhưng không vì thế mà mất đi nét hồn nhiên, ngây
thơ vốn có của trẻ nhỏ. Tập thơ của Trần Đăng Khoa đã miêu tả rất sinh động
những trò chơi mà chỉ có những em thiếu nhi ở vùng nông thôn mới có được.
Đó là các trò chơi rất đậm chất dân gian: xỉa cá mè, mèo đuổi chuột, thả diều,…
Tất cả những trò chơi ấy thường diễn ra dưới ánh trăng vàng - người bạn thân
thiết của Trần Đăng Khoa. Vẻ ngây thơ đáng yêu của các em được thể hiện qua
cái nhìn hết sức ngộ nghĩnh mà người lớn không thể nào có được:
Ông trăng cười những lợi
Răng chẳng chiếc nào còn
(Trăng đầu tháng)

Trăng đầu tháng khuyết và nếu từ dưới đất nhìn lên thì thấy một vài vệt đen nhô
lên làm cho bé thơ liên tưởng đến lợi của con người và sau đó lại thắc mắc rất
ngây ngô nhưng có lí:
Chú ơi trăng già thế
Sao bà bảo trăng non?
(Trăng đầu tháng)

Có lí bởi vì mọi người gọi trăng đầu tháng là trăng non nhưng trong mắt trẻ thơ
thì trăng lúc ấy trông giống như một cụ già đã rụng hết răng, chỉ còn trơ lợi mà
thôi. Câu thơ hồn nhiên và nói rất đúng tâm lí của trẻ thơ. Chúng có vô số thắc
mắc và mong muốn được giải đáp. Ngoài việc thắc mắc, chúng rất hay bắt
chước những hình ảnh, hành động của ai đó mà chúng trông thấy hàng ngày và
đặc biệt là có cảm tình với hình ảnh, hành động đó. Hoàng Hiếu Nhân, nhà thơ
trẻ cùng trang lứa với Trần Đăng Khoa, đã diễn tả lại hình ảnh chú bộ đội lúc
hành quân làm cho cả nhà vô cùng thích thú vì em đã gọi lại những kỉ niệm
chiến đấu một thời. Cháu bé Minh Hà thì khác. Cháu đã làm điệu bộ y hệt bà
của mình khiến cho mọi người vừa ngạc nhiên vừa xúc động:

Cái chân thì khệnh khạng


Tay vắt vẻo lưng cong
Đầu vấp va vấp vểnh
Cháu bỗng hóa bà còng
(Cháu làm bà còng)

Trần Đăng Khoa đã miêu tả chính xác hình dáng và điệu bộ của người bà qua
các từ láy giàu sức gợi hình: khệnh khạng, vắt vẻo, vấp va vấp vểnh. Hình ảnh
người bà được khắc họa mang dấu ấn của thời gian và chứa đựng niềm yêu
thương tha thiết của tác giả. Ở một bài thơ khác cháu bé lại tạo rất nhiều dáng
điệu đáng yêu như đang được chụp ảnh:

- Nón che kín đầu


Cháu thành con ốc
- Khăn bay mái tóc
Cháu hoá bướm hồng
- Váy hoa quay tít
Cháu thành con ong
- Nằm giữa lòng ông
Cháu là hạt thóc…
(Chụp ảnh)

Và đây nữa, sự vô tư của em nhỏ tội nghiệp, mới vài tuổi đầu đã biết thế nào là
bom đạn:
- Chú này buồn cười lắm nhé

Bom rùng. Cháu lại ngủ mê


Cứ tưởng tay bà đưa võng
Như ngày ru cháu ở quê..
(Cháu về)

Lời kể của cháu nhỏ nghe “líu ríu như là tiếng chim” nhưng nội dung lời kể lại
chứa đựng cả một sự thật lịch sử đang diễn ra trên đất nước ta. Chiến tranh đã
dạy cho bé biết:

- Chú ơi, nếu còn bom Mĩ


Chú phải bịt tai thế này
Cháu bỗng xoay người ngang ghế
Như vừa có tiếng máy bay
(Cháu về)

Ngoài bản tính hồn nhiên, ngây thơ vốn có của trẻ thơ các em thiếu nhi của Việt
Nam trong chiến tranh còn có những điểm khác với trẻ em thế giới là luôn tự
tin, rắn rỏi trong hoàn cảnh khó khăn, khắc nghiệt:

Và các bạn thiếu niên


Bằng tuổi em
Trong tầm ngắm súng thù
Vẫn treo cao cờ đỏ
(Điều anh quên không kể)
Chúng tôi đến lớp ngày ngày
Mũ rơm tôi đội, túi đầy thuốc men
Ao trường vẫn nở hoa sen
Bờ tre vẫn chú dế mèn vuốt râu
(Gửi bạn Chi-Lê)

Và rất hiên ngang qua lời khẳng định :


Chúng tôi chẳng sợ Mĩ đâu
Vẫn vui vẫn hát những câu rộn ràng
(Gửi bạn Chi-Lê)
Đó là những dòng thơ mà Trần Đăng Khoa đáp lại với bạn bè thế giới và cũng
để
đính chính lại ý nghĩ :
Người bạn nhỏ Việt Nam
Vắng nụ cười trên môi
(“Bức thư ngỏ Việt Nam” của Miraga Hilimét- thiếu nhi nước Chi-lê)

Đúng là thiếu nhi Việt nam có đói cơm, khát nước, có vất vả vì phải tự chăm
sóc bạn thân, phải lao động trong hoàn cảnh khắc nghiệt của chiến tranh nhưng
không vì thế mà “vắng nụ cười trên môi”. Trái lại, các em “vẫn vui vẫn hát
những câu rộn ràng”. Đó là một đặc điểm không thể thiếu của lứa tuổi thiếu nhi.
Và đó cũng thể hiện niềm tin của các em vào tương lai tươi sáng của đất nước.
Niềm tin ấy là có cơ sở thực tiễn. Khi Trần ĐăngKhoa làm bài thơ “Gửi bạn
Chi-lê” thì đất nước ta đang có nhiều thắng lợi trên các chiến trường cả nước:
Miền Nam thắng trận Đông Xuân
Miền Bắc bắn rụng hàng ngàn máy bay

Lạc quan, tin tưởng vào tương lai của đất nước, các em thiếu nhi Việt Nam rất
muốn đóng góp công sức của mình vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Ngày ngày, các em làm những công việc vừa sức của mình như lời Bác Hồ dạy
“tuổi nhỏ làm việc nhỏ” và không lúc nào thôi mơ ước cho tương lai:

Nếu còn thằng giặc Mĩ


Hay bất cứ giặc nào
Tớ sẽ đi bộ đội
Giọng Tư nghe tự hào
(Bắt ông Rừng nộp củi)

“Nếu các thằng giặc thua”- lời tiên đoán của một đứa trẻ mà lại tràn đầy niềm
tin tưởng mang tính cách của con người Việt Nam: lạc quan trong mọi hoàn
cảnh. Sau lời tiên đoán ấy thì các em chia nhau các công việc góp phần xây
dựng đất nước: em thì làm nhà du hành vũ trụ, em thì vào văn công, em thì sẽ
bắc chiếc cầu dài qua sông.

Trẻ con nào chẳng mơ ước. Có những mơ ước thật cao xa và cũng có nhưng mơ
ước thật giản dị nhưng tất cả đều xuất phát từ ý muốn làm giàu đẹp cho quê
hương đất nước. Riêng Trần Đăng Khoa thì mơ ước “suốt đời làm thơ”. “Cái
ước mơ thành nghệ sĩ này quả là một nét mới”

Những câu thơ như thế đã trả lời cho câu hỏi mà bao năm nay thế giới đã dày
công đi tìm đáp án: Tại sao Việt Nam - một đất nước nhỏ bé - lại có thể chiến
thắng được Mĩ - một đế quốc đã có nhiều chiến tích lẫy lững trong các cuộc
xâm lược các quốc gia trên thế giới? Chính kẻ thù của chúng ta cũng đã và đang
đau đầu bởi họ vẫn không thể tin được một yếu tố phi vật chất lại làm nên lại
làm nên thắng lợi trong cuộc chiến không cân sức: tinh thần dân tộc. Họ tin vào
sức mạnh quân sự, sức mạnh kinh tế và những chiến thuật tinh vi đến từng
milimet. Điều đó cần thiết cho mọi cuộc chiến. Thế nhưng, họ lại quên đi lịch
sử. Dân tộc ta đã kiên cường, bất khuất đập tan ách đô hộ của 1000 giặc Tàu, 80
năm đô hộ giặc Pháp thì lẽ nào lại cam phận làm nô lệ một lần nữa? Lời của Hồ
Chủ tịch trong bản Tuyên ngôn độc lập bất hủ đã nói thay lời non sông: “Toàn
thể dân tộc Việt Nam quyết đem cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và tài sản
để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.

3.2. Lòng căm thù giặc Mĩ sâu sắc

Qua những câu thơ rất chân thực, Trần Đăng Khoa đã vẽ ra trước mắt người đọc
ngày ấy và bây giờ một cảnh mà nơi nơi, người người, kể cả trẻ con cũng nín
thở vì một tin dữ dội:

Mẹ nấu cơm dụi lửa


Bố em họ trâu giữa đường
Các cô thầy
Ngừng giảng bài giữa lớp
Bạn Tĩnh. Bạn Nho, bạn Lập
Bạn nào mắt cũng đỏ hoe
Bé Giang ngồi ở đâu hè
Cũng thôi đánh chuyền đánh chắt
(Hà Nội có Bác Hồ)

Năm 1972, tổng thống Mĩ đã ra lệnh ném bom B52 rải thảm Hà Nội, Hải Phòng
và oanh tạc miền Bắc sát hại hàng ngàn người dân vô tội, người già, trẻ con
chúng cũng không tha. Làm sao mà không chua xót, không căm thù khi hình
ảnh “hố bom sâu - thăm thẳm hố bom sâu” (Bến đò) ngày ngày hiển hiện trước
mắt mình. Đế quốc Mĩ mà đứng đầu là tổng thống Ních-xơn không chỉ gây ra
tội ác đối với đất nước và con người Việt Nam nói chung, thiếu nhi Việt Nam
nói riêng mà còn đối với biết bao thiếu nhi trên thế giới. Vậy mà khi đứng trong
nghĩa trang của những người bị Hít-le tàn sát, hắn đã nhỏ những giọt nước mắt
như thương cảm sâu sắc lắm vậy. Mặc dù tội ác đó được ngụy trang, ngụy biện
bằng nhiều hình thức nhưng ai cũng nhận ra được sự thật. Hành động giả nhân,
giả nghĩa của bọn chúng không thể gạt được một đứa trẻ con. Trong nghĩa trang
mà Ních-xơn đang viếng có mộ của bé gái Tania (12 tuổi). Trần Đăng Khoa đã
hóa thân vào Tania để vạch trần bộ mặt của “ngài tổng thống” nói riêng và bọn
đế quốc Mĩ nói chung:

Ý nghĩ của hắn chạy từ đầu xuống chân


Từ chân xuống đất sâu nên tôi nghe hết:
“Nếu mày sống thì ông cũng giết”
(Lời một bạn gái mười hai tuổi)

Khi viết những câu thơ như thế thì hẳn người viết đã chất chứa trong lòng niềm
căm thù tột độ. Và đó không còn là sự căm thù cảm tính mà là tình cảm có chỉ
dẫn của lí trí. Đừng cho rằng trẻ con không có khả năng đó. Hãy đọc kĩ bài thơ
ta sẽ thấy giọng điệu trẻ con được giữ nguyên, không có một chút gượng ép, gò
bó. Chính vì thế mà ta thấm thía được bản chất của Đế quốc. Ai cũng nhận ra
một điều giản dị: Ý nghĩ hắn (Ních-xơn) chạy từ đầu xuống chân và chân liền
với đất nên người nằm dưới mồ sâu trong ngót 30 năm vẫn nhận ra được.

Không chỉ nhìn thấy được tội ác của giặc Mĩ không chỉ trên mặt đất, dưới lòng
đất mà còn dưới cả âm phủ. Trần Đăng Khoa đã tưởng tượng ra cảnh linh hồn
đoàn người bị bọn Mĩ giết hại lũ lượt kéo nhau đến đập của Diêm Vương đòi
trừng phạt bọn giết người.

Bài thơ “Đập cửa Diêm Vương” có giá trị tố cáo thật sâu sắc: Những cụ già
không tìm thấy các bộ phận của thân thể mình, những bà mẹ bụng mang dạ
chửa cũng bị giết hại, những em bé thơ “đang lẫy đang bò”, “đang phi ngựa gỗ”
không tìm được cha mẹ, ông bà… Nó khiến những người đã từng sống trong
chiến tranh thì ngậm ngùi chua xót, những người chưa từng trải thì rùng mình,
căm giận. Tất cả đều thắc mắc:
Tại sao Ních-xơn mang bom bi, bom phá
Bom hơi, bom Trần Đăng Khoan, bom lửa
Trút xuống đầu ta…

Trong khi họ - những người đã chết và chúng ta – những người đang sống đều
như nhau:

Ta yêu sông Mi-xi-xi-pi của các ngươi


Như ta yêu sông Hồng của ta nhận nước bốn phương trời
Chưa bao giờ, và sẽ chẳng bao giờ
Ta nghĩ đến ném bom nước Mĩ.
Trong đoàn người đó có cả những em bé chết do bom Mĩ mà không tìm thấy
cha mẹ
của mình. Các em đã gọi thống thiết:
- Gió ơi! Gió ơi!
Cháu không tìm thấy mẹ cháu rồi
Mẹ cháu không gầy, không béo
Mẹ cháu không già không trẻ…
Bây giờ không ai cho cháu ăn
Không ai cho cháu ngủ
(Đập cửa Diêm Vương)

Tội ác của đế quốc Mĩ không chỉ vấp phải sự phản đối của nhân dân ở bản xứ
mà còn của cả thế giới, thậm chí là ngay cả nhân dân Mĩ yêu chuộng hòa bình
và thiện chí. Những thiếu nhi Mĩ đã hết sức đau xót, xấu hổ về hành động của
cha anh mình. Tất cả những điều đó được thể hiện bằng việc nhân dân Mĩ liên
tục tham gia vào các cuộc biểu tình phản đối chiến tranh của đế quốc Mĩ ở Việt
Nam. Hình ảnh của một thiếu nhi Mĩ đi biểu tình đã khơi dậy trong Trần Đăng
Khoa niềm xúc động mãnh liệt:

Bạn cùng đoàn người đi như thế


Đã mấy năm rồi
Cánh tay giơ lên
Không biết mỏi
Bạn đến khắp nơi trên thế giới
Miệng bạn thét vang
Giôn-xơn không được giết trẻ con
- Giôn-xơn phải rút hết quân xâm lược
(Xem ảnh bạn thiếu nhi Mĩ đi biểu tình ở báo ảnh Việt Nam)
Căm thù giặc Mĩ, Hoàng Hiếu Nhân đã nặn tượng đất sét hình Ních-xơn với
hình
thù kì quái và khẳng định:
Nếu đem đặt ra đường
Ai chẳng đòi vặn cổ.
(Thằng Ních-xơn)

Trong bài thơ “A! em biết thằng giặc Mĩ rồi!”, trẻ em đã biểu hiện thái độ căm
thù của mình và được cụ thể bằng hành động khi thấy máy bay Mĩ bị quân ta
bắn rớt xuống cánh đồng:

Bố em cầm đòn càn


Mẹ em mang đòn gánh
Chị em mang khẩu súng
Bé Giang mang que cời
Con chó Vàng mang hàm răng nhọn hoắt
Em không biết mang gì
Vớ ngay hòn đá

Cách đánh giặc của gia đình của Trần Đăng Khoa tiêu biểu cho cách đánh giặc
của đất nước ta qua các thời kì chống ngoại xâm. Chống lại kẻ thù chỉ bằng
những vũ khí hết sức thô sơ, có khi chỉ là những công cụ lao động nông nghiệp
thường ngày. Thế nhưng, với sức mạnh của lòng yêu nước nồng nàn, ý chí
chiến đấu anh dũng và mục đích vệ quốc chính nghĩa, chúng ta đã thắng lợi vẻ
vang. Em kể chuyện này là phản ứng của các em nhỏ khi gặp dấu chân của kẻ
thù hằn trên mảnh đất quê nhà:

Những dấu chân


Trông vào nhức mắt
Các bạn đã đào đổ xuống ao rồi
Từ lúc sáng mờ sương
Cho đến khi tiếng trống gọi về trường
Vẫn chưa hết những dấu chân trên cát
Vẫn chưa hết những dấu chân độc ác
Các bạn còn đào đổ xuống ao sâu.
Đọc bài thơ này, có nhiều người cho là không thật sự, bởi ngoài đời có ai làm
như thế bao giờ. Cách thể hiện khá ngộ nghĩnh, mang dấu ấn điển tích Sào Phủ,
Hứa Do. Nên nhớ rằng, tác giả có quyền dùng các hình tượng văn học để bộc lộ
quan điểm, tư tưởng của mình. Chúng ta đừng hỏi rằng “điều đó có thật
không?”mà hãy hỏi rằng “qua đó tác giả thể hiện điều gì?”. Nếu hỏi như câu sau
thì chúng ta đã có câu trả lời: Trần Đăng Khoa hay bất cứ một người Việt Nam
yêu nước nào cũng căm thù giặc, cũng thấy “nhức mắt” trước sự tồn tại của kẻ
thù trên mảnh đất quê hương. Các em càng căm thù giặc Mĩ thì lại càng thể hiện
lòng yêu thương. Bởi lẽ thường, chúng ta căm ghét những gì phương hại đến
điều chúng ta yêu thương. Các em yêu đất nước Việt Nam, con người Việt Nam
nên khi đất nước Việt Nam bị giày xéo, con người Việt Nam bị giết hại thì lòng
căm thù ấy trỗi dậy. Đó là một hiện tượng tâm lí rất bình thường.

3.3. Tình cảm đối với Bác Hồ kính yêu


Trong các bức tranh văn học viết về cuộc kháng chiến của nhân dân ta có các
chân dung của những người anh hùng: Các anh chiến sĩ, những người dân công,
các bà mẹ Việt Nam anh hùng, các em bé liên lạc,… thì chân dung Bác Hồ hiện
lên rực rỡ nhất. Bác chính là linh hồn của dân tộc ta. Đối với thiếu nhi, Bác Hồ
dành tất cả sự yêu thương và niềm tin tưởng, hi vọng vào tương lai của các em:
“Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước
tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không,
chính là nhờ một phần lớn ở công lao học tập của các cháu” (Thư Bác Hồ gửi
học sinh nhân ngày khai giảng năm học đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, tháng 9/ 1945). Còn về phần các em thì rất yêu mến Bác, thường hát
vang bài hát phổ từ bài thơ của Người:

Ai yêu các nhi đồng


Bằng Bác Hồ Chí Minh
(Thơ trung thu 1946 – Hồ Chí Minh)

Cũng như bao trẻ em khác, Trần Đăng Khoa có một tấm lòng yêu mến đặc biệt
đối với Bác Hồ. Hàng ngày Trần Đăng Khoa nhìn ảnh Bác tưởng như Bác đang
nói chuyện với mình:

Cháu ơi đừng có chơi bời đâu xa


Trồng rau, quét bếp đuổi gà
Thấy tàu bay Mĩ nhớ ra hầm ngồi
(Ảnh Bác)
Khi tự tay mình trồng một cây bàng trên đường làng, cây bàng lớn lên che bóng
mát cho người làng, làm chỗ để họ nghỉ mệt sau những lúc lao động, Trần Đăng
Khoa đã vui sướng vì mình làm được việc tốt. Niềm vui đó theo em vào giấc
mơ. Em đã có một giấc mơ đẹp bởi trong mơ em đã gặp Bác Hồ - người mà em
hết lòng yêu mến:
Thấy cả Bác Hồ về làng
Cũng ngồi ở gốc cây bàng của em …

Trần Đăng Khoa yêu mến Bác nhưng lại không vòi vĩnh một điều gì. Bởi như
đã nói, các em sống tự lập và ý thức được rằng:

Bác lo bao việc trên đời.


Ngày ngày Bác vẫn mỉm cười với em

Chưa bao giờ đến Hà Nội nhưng Trần Đăng Khoa yêu mến Hà Nội xa xôi bởi vì
nơi ấy có Bác Hồ. Em vẫn thường “Em nằm lơ mơ ngủ - thấy mình về thủ đô”
(Trăng tròn).

Nhà thơ nhỏ say cảnh và mơ giấc mơ đẹp: Trước mắt mình là “Ngôi nhà Bác ở
giữa Ba Đình” và thấp thoáng bóng Bác đang chăm sóc món quà của miền Nam
yêu thương:

Bóng Bác bên cây vú sữa.


Tiếng Bác Hồ cười, em nghe rất rõ…
(Hà Nội có Bác Hồ)
Trong tâm trí trẻ thơ của Trần Đăng Khoa, Hà Nội xa xôi ấy có những cảnh vật,
đồ vật thật lạ mắt và thật đẹp: gò Đống Đa, chiếc cầu sắt bắc trên mái nhà mà xe
lửa và ô tô đi không gãy, Hồ Gươm,… Liên và An trong “ Hai đứa trẻ” (Thạch
Lam) cũng đã từng nghĩ về Hà Nội nhưng có một điều khác là: Hai chị em đã
từng có thời gian sống ở đấy và bây giờ nhớ về Hà Nội bởi cả hai đang sống
trong phố huyện tối tăm, “mong đợi có một cái gì tươi sáng”. Còn Trần Đăng
Khoa nghĩ về Hà Nội mà chưa một lần đến, nghĩ về Hà Nội như một phần
xương thịt của đất nước có Bác Hồ hiền hòa, yêu thương thiếu nhi đang sống ở
đó. Khi nghe tin giặc Mĩ ném bom Hà Nội, em đã hốt hoảng, lo lắng:
- Các chú bộ đội ơi
- Các chú bộ đội ơi
Thằng giặc Mĩ nó ném bom Hà Nội rồi
Hà Nội có Bác Hồ đang ở…
( Hà Nội có Bác Hồ)

Từ lâu, Trần Đăng Khoa đã mơ ước được đến với Hà Nội. Hình ảnh Hà Nội
tươi đẹp xuất hiện trong thơ Trần Đăng Khoa ba lần (Hà Nội,Hà Nội có Bác Hồ,
Đất trời sáng lắm hôm nay). Mơ ước đó đã thành hiện thực. Trần Đăng Khoa đã
được đến với thủ đô yêu dấu. Trần Đăng Khoa nói trong niềm hân hoan:
Bác ơi! Cháu đến đây rồi

Bài thơ này Trần Đăng Khoa ghi chú rất rõ: “Ba Đình, 30/5/1969” như đánh dấu
một cột mốc kỉ niệm đáng nhớ của cuộc đời, bởi không phải em nhỏ nào cũng
được đến với thủ đô Hà Nội. Trong hoàn cảnh đất nước còn đang diễn ra chiến
tranh thì việc đi lại càng khó khăn gấp bội. Tình cảm của các em là tình cảm của
búp mầm đối với gốc cội. Cẩm Thơ may mắn hơn Trần Đăng Khoa và các bạn
khác bởi em đã tận mắt nhìn thấy Bác Hồ bằng xương bằng thịt trong một lần
theo má đi dự hội nghị:

Em nhảy cả trong hội nghị


Em quên hết chú công an
Em muốn hát
Em muốn reo...
“Em muốn hát - Em muốn reo” nhưng mọi người đã im lặng, Bác Hồ sắp nói
chuyện nên “em ngồi xuống lắng nghe lời Bác”. Em cảm nhận được:
Bác ở trên cao mà em thấy rất gần
Vì em ở trong con ngươi của Bác
(Em gặp Bác Hồ)

Tất cả chúng ta, dù là người lớn hay trẻ nhỏ, đều ấp ủ ước mơ được một lần gặp
Bác. Nếu như ước mơ ấy thành sự thực thì còn gì xúc động cho bằng. Người lớn
vui sướng thì rưng rưng xúc động, vui sao cứ nước mắt cứ rơi. Còn trẻ con thì
không thế. Chúng vui sướng, hân hoan và nhảy múa không cần khách khí – tất
cả những hành động mà người lớn đôi lúc muốn thể hiện nhưng phải kìm nén.
Được gặp Bác, ai cũng cảm thấy mình thật bé bỏng, ai cũng muốn được ở thật
gần Bác, được nắm bàn tay Bác, được nghe Bác nói chuyện,… Không chỉ có
vui sướng vì được gặp Bác, cô bé còn tự nhủ với mình:

Lớn lên phải như cô Mười


Vào Nam đánh giặc
Để Bác Hồ yêu thế, dắt đi chơi.
(Em gặp Bác Hồ)

Chắc hẳn ngày hôm đó là một kỉ niệm đáng nhớ nhất trong đời của cô bé Cẩm
Thơ. Nói thế để thấy rằng, trên thế giới, ít có vị lãnh tụ nào được mọi tầng lớp
nhân dân, không chỉ trong nước mà quốc tế yêu mến, yêu mến một cách sâu sắc
như Bác Hồ của chúng ta. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã thay mặt đồng bào nói
lên lòng tự hào đó trong điếu văn Hồ Chủ tịch: “Dân tộc ta, nhân dân ta, non
sông đất nước ta đã sinh ra Hồ chủ tịch, người anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính
Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta”

Trần Đăng Khoa rất lo cho sức khỏe của Bác:


Sang năm Bác tám mươi rồi
Bác ơi, Bác thấy trong người khỏe không?
(Đất trời sáng lắm hôm nay)

Các em luôn muốn “Bác vui, Bác khỏe là lòng cháu vui”. Mong ước đó đã được
viết nên bài hát “Ngày ngày chúng cháu ước mong – mong sao Bác sống muôn
đời để dìu dắt nhi đồng thành người…”.

Một đứa trẻ chín tuổi mấy khi nghĩ được như Trần Đăng Khoa:
Bác lo nghĩ suốt một đời
Để cho chúng cháu vui chơi từng ngày.
(Đất trời sáng lắm hôm nay)

Yêu thương một người nào đó mà khi người đó mất đi, chúng ta cảm thấy thật
đau đớn, xót xa. Bác Hồ mất đi là một tổn thất lớn cho dân tộc, cho đất nước
Việt Nam. Trước sự mất mát lớn lao đó, Trần Đăng Khoa và các bạn nhỏ của
mình bày tỏ tình cảm, mỗi em một kiểu nhưng đều gặp nhau ở niểm tiếc nuối và
đau xót khôn tả. Cô bé Cẩm Thơ mới hôm nào reo vui trong hội nghị vì được
gặp Bác, nay nghe tin Bác mất em đã khóc nấc.

Các bạn của em cùng khóc như nhau:


Chưa bao giờ tất cả chúng em đều khóc
Nước mắt chảy không kịp lau
Các em sẵn sàng đổi những nhu cầu vui chơi hàng ngày của mình để Bác Hồ
được sống:
Giá chúng mình được ngủ một giấc
Ngủ không cần ăn bánh đi chơi
Để Bác Hồ sống mãi đời đời.
(Cẩm Thơ)
Nhưng điều mà các em mong muốn đánh đổi sẽ không bao giờ thành sự thật.
Thếnên, nỗi đau càng tăng thêm. Nỗi đau đã làm cho :

Trẻ nhỏ nghiêm trang như các cụ già


Các cụ già khóc như trẻ nhỏ

Sinh thời, Bác rất kì vọng vào thế hệ trẻ của đất nước. Ghi nhớ sâu sắc niềm kì
vọng đó, Trần Đăng Khoa tuy còn ít tuổi đã thay mặt cho tất cả thiếu niên hứa
với Bác:

Cháu thề phấn đấu suốt đời


Như lời Bác dạy, như lời Bác mong.

Bác đã mất nhưng hình ảnh của Bác còn sống mãi trong sự nghiệp của dân tộc,
trong tim của mọi người, trong đó có các em nhỏ. Những điều Bác dạy lúc sinh
thời chính là nguồn động viên để các em vượt qua nỗi đau mà phấn đấu trong
học tập và lao động, chiến đấu. Bác đã đi xa chúng ta gần 40 năm nhưng tình
cảm của cả dân tộc ta dành cho Bác không hề phai nhạt mà ngày càng đậm đà,
thắm thiết, sâu sắc hơn. Bác đã trở thành hình tượng đẹp nhất trong các sáng tác
của các nhà văn, nhà thơ, họa sĩ, nhạc sĩ,… Bác trởthành người đại diện cho dân
tộc Việt Nam khi chúng ta đứng trước bạn bè thế giới. Trần Đăng Khoa đã có
khoảng thời gian ngắn nằm viện điều trị bệnh mắt (1969).

Trong giấc mơ, Trần Đăng Khoa đã thấy Bác ân cần chăm sóc cho mình:

Có ai se sẽ ngồi xuống đầu giường


Đưa bàn tay mát như kem sữa
Xoa lên trán em đang dịu lửa
Vuốt lên mắt em đang mờ
A, Bác Hồ!
(Em gặp Bác Hồ)
Khi Trần Đăng Khoa viết bài này, Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã “đi gặp cụ
Các Mác - Lênin” một vài ngày. Bài thơ được viết bằng nỗi nhớ thương da diết
của một đứa bé dành cho người mà nó hết lòng yêu kính. Trong giấc mơ của
Trần Đăng Khoa, Bác hiện lên như một ông tiên hiền lành, nhân hậu trong cổ
tích. Nhưng ông tiên trong truyện cổ tích chẳng có được những cử chỉ chăm sóc
tận tình như Bác dành cho một đứa bé, đặc biệt là lúc nó đang bệnh. Ông tiên
Bác Hồ thì ân cần chăm sóc, gài từng khuy áo cho em khiến cho cơn bệnh giảm
đi rất nhiều. Trong cơn đau đớn, xót xa, mọi người thường bi quan nhưng Trần
Đăng Khoa lại mang trong lòng niềm tin mãnh liệt: Bác vẫn còn, vẫn sống mãi
với dân tộc và cả thế giới:

Nhưng Bác chỉ nghĩ ban ngày


Chứ ban đêm là Bác rời linh cữu
Bác chào chú đứng gác
Rồi đi vòng quanh khắp thế giới
Để chăm sóc trẻ con
Nhất là đứa nào phải nằm trong bệnh viện…
(Em gặp Bác Hồ)

Niềm tin ấy Trần Đăng Khoa thốt lên như thay lời cho cả non sông trong lúc
những người khác đang đau khổ. Ngày nay, đi đến đâu ta cũng gặp dòng chữ có
sức mạnh cổ vũ lớn lao tinh thần và sức lực của dân tộc Việt Nam: “Chủ tịch
Hồ Chí Minh sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta”. Tình cảm đối với Bác Hồ
là một nội dung đặc biệt góp phần tạo nên dáng vẻ riêng biệt của thơ thiếu nhi
trong thời khi chống Mĩ. Sau này, vẫn có những bài thơ thiếu nhi viết về Bác
nhưng có lẽ sẽ không có được cảm xúc nóng bỏng như thế.

3.4. Tình cảm dành cho các chú bộ đội


Trong thơ văn kháng chiến hay đề cập đến hình ảnh người chiến sĩ. Người chiến
sĩ cùng với những phẩm chất tốt đẹp của họ đã trở thành đề tài, nguồn cảm hứng
sáng tác của các nhà văn, nhà thơ, họa sĩ, nhạc sĩ,… Người chiến sĩ Việt Nam
đã chiến đấu anh dũng và sẵn sàng hi sinh tính mạng để bảo vệ từng tấc đất,
ngọn rau, và cuộc sống tự do cho dân tộc. Những trang sử vàng của chúng ta
được viết bằng máu, Tổ quốc ta được dựng nên từ hài cốt của các chiến sĩ. Hình
ảnh của họ trở nên cao quý trong lòng dân tộc với tên gọi thân thương, nghĩa
tình: bộ đội. Tuy còn nhỏ tuổi nhưng các em đã có nhận thức rằng giặc Mĩ là
những kẻ tàn ác, hung bạo đã gây nên biết bao thảm họa cho đất nước, con
người Việt Nam. Hình như chúng không có quả tim, không có nước mắt và máu
của chúng chắc không phải màu đỏ nên Núp trong “Đất nước đứng lên”
(Nguyên Ngọc) đã reo lên thích thú khi phát hiện ra một điều bấy lâu thắc mắc:
thằng giặc có chảy máu không?

Cẩm Thơ thì chăm chú, say sưa khi nghe chú bộ đội kể về giặc Mĩ. Em thấy rất
khinh khi bọn chúng “em mà có đói chả hèn thế đâu” và:

Muốn xin chiếc mũ tai bèo


Làm cô giải phóng vượt đèo Trường Sơn
(Chú giải phóng quân của em)

Mơ ước được là bộ đội, “đó quả là hiện tượng đánh dấu rõ nhất đặc điểm trong
thời kì lịch sử chúng ta đang sống: chúng ta phải chiến đấu”(Vân Thanh). Người
chiến sĩ của chúng ta đã dũng cảm, kiên cường như một vị tướng trước kẻ thù là
như thế. Nhưng khi trở về với cuộc sống thường ngày, với nhân dân thì họ rất
gần gũi, giản dị, chan hòa nghĩa tình:

Cháu nghe chú đánh những đâu


Những tàu chiến, những tàu bay rơi
Đến đây chỉ thấy chú cười
Chú đi gánh nước, chú ngồi đánh bi…
(Gởi theo các chú bộ đội)
Ở một bài thơ khác, Trần Đăng Khoa viết:
Vách đền ai tạc tượng ông
Lửa quăn giáp sắt, kiếm cong tuốt trần
Mặt hiền như bác nông dân
Nụ cười tươi sáng, mến thân đậm đà.
(Ngôi đền Bãi Cháy)

Trần Đăng Khoa lại nói đúng bản chất của bộ đội ta, nhân dân ta. Tất cả đều là
“người hiền cầm gươm”, không chỉ trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, Mĩ
mà là từ rất xưa đã vậy. Chúng ta yêu chuộng hoà bình, thích cuộc sống tự do và
muốn con người ai cũng có cuộc sống tốt đẹp chứ nào thích chiến tranh, nào
muốn đàn áp, chiếm đoạt đất đai, tài sản của dân tộc khác. Nhưng kẻ thù không
như thế, chúng dày xéo lên đất nước, tự do, nhân phẩm và những gì mà chúng ta
trân trọng. Ta đã không thể để cho chúng được thực hiện điều đó nên ta đã cầm
gươm chống lại - đó là một sự bắt buộc không thể khác hơn. Hết lòng yêu mến
mà cũng hết lòng tin tưởng vào bộ đội, đó là tình cảm của các em. Khi nghe đài
đưa tin giặc Mĩ ném bom Hà Nội, một nơi mà Trần Đăng Khoa chưa từng đến
nhưng biết nơi đó là đất nước mình, nơi đó có Hồ Gươm, có Bác Hồ, Trần Đăng
Khoa đã cất tiếng gọi vang:

- Các chú bộ đội ơi!


- Các chú bộ đội ơi!
Thằng giặc Mĩ nó ném bom Hà Nội rồi
Hà Nội có Bác Hồ đang ở…
(Hà Nội có Bác Hồ )

Thông thường, khi tuyệt vọng, khi nguy khốn, chúng ta thường gọi người nào
mà ta đặt trọn niềm tin yêu, nghĩ rằng họ sẽ là vị cứu tinh tuyệt vời nhất đối với
mình. Trần Đăng Khoa, trong hoàn cảnh như thế, đó là tiếng gọi thật lòng và tha
thiết nhất. Trong mắt các em, các chú là những bộ đội yêu đời. Trong Chiếc ngõ
nhỏ là hình ảnh các anh vừa hành quân vừa hát khúc quân hành, bất chấp sự
khắc nghiệt của thời tiết. Ngày đêm phải đối mặt với kẻ thù, phải trực tiếp nơi
chiến trường ác liệt, hơn ai hết các chú, các anh trân trọng và nâng niu những
phút giây hiếm hoi được gần gũi với người thân, những phút giây hòa bình, dù
chỉ là hòa bình trong chiến tranh:

Cánh đồng reo vui


Gió đồng rộng rãi
Nòng pháo bỗng nhiên dừng lại
Bao nhiêu cái mũ lắng nghe
Xa xa từ một ngọn tre
Tiếng chim chích chòe
đang
hót...
(Tiếng chim chích chòe)

Tiếng chim bỗng trở thành sứ giả của hòa bình. Với bài thơ khá ngắn này, Trần
Đăng Khoa “đã sờ được, đụng được cái tinh vi lớn lao của sự sống!” (Xuân
Diệu).

Lớp trẻ chúng tôi có một hạnh phúc là được sống trong hòa bình. Những diễn
biến, sự kiện chiến tranh chỉ được biết qua lời kể. Chúng tôi được kể rằng, mỗi
khi có đoàn văn công đến phục vụ văn nghệ là các anh như được tiếp thêm sinh
lực dù các tiết mục ca múa hết sức đơn sơ, diễn viên ít trang điểm và thiếu thốn
đạo cụ. Và các đoàn văn công với các con người tài năng và dũng cảm ấy đã bất
chấp mưa bom bão đạn, đi hết đơn vị này đến đơn vị khác để phục vụ văn nghệ,
tiếp thêm ngọn lửa cho chiến sĩ. Điều đó phải chăng là trong mỗi chiến sĩ có
một nghệ sĩ ở trong đó? Các anh hát, các anh đàn và xung quanh là những mẹ,
những chị, những em say sưa lắng nghe như uống từng lời. Tiếng đàn hát ấy
góp phần xóa đi “những âm thanh nhơ bẩn” mà kẻ thù đã tạo ra trên đất nước
chúng ta. Chiến tranh của đế quốc Mĩ có thể giết hại được con người chứ không
thể giết được tâm hồn Việt Nam.

Các chú bộ đội trong thơ Trần Đăng Khoa là những người rất thân thiện, vẫn
thường gánh nước giúp mẹ giúp chị, sửa lại mái nhà cho các cụ già và yêu
thương các em
nhỏ :

Kẹo xanh, kẹo đỏ rất nhiều


Đứa nào anh cũng chia đều như nhau
Đứa nào anh cũng xoa đầu
Đứa nào anh cũng bế lâu trong lòng
(Kẹo hồng kẹo xanh)

Giữ cho cháu trọn tiếng cười


Góc trời đỏ ngói khoảng trời xanh
Khoảng trời chỉ để chim bay
Góc trường chỉ để ngày ngày cháu vui
(Giữ cho chúng cháu khoảng trời bình yên)
Có món ngón gì ngon nhất, đẹp nhất, các em đều nhớ đến các chú. Trồng một
cây lựu, ngày ngày chăm sóc đến lúc nó ra quả thì Trần Đăng Khoa nghĩ ngay
đến việc biếu tặng:

Em ăn thấy nó ngọt bùi


Tặng chú bộ đội, chú cười với em
(Hoa lựu)

Các chú về thì các em vui đùa, ca hát, đến khi các chú tiếp tục lên đường thì các
em nhỏ rất tiếc nuối, chẳng muốn rời xa. Các chú như đã trở thành một trong
những thành viên trong gia đình của các em, dù thời gian các chú ở lại chỉ trong
vài ngày hoặc vài giờ ngắn ngủi mà thôi:

Các chú đã đi xa rồi


Cao cao ụ pháo như người đứng canh
(Trận địa bỏ không)

Câu chữ càng lúc càng ít như những bước chân của các chú đã đi xa. Em vẫn
đứng mà nhìn theo những bóng dáng oai hùng mà gần gũi, thân thương ấy cho
đến lúc bóng các chú mất hút.Người ta bảo rằng trẻ con nhớ rất lâu, nhất là
những người chúng yêu thương. Trần Đăng Khoa cũng thế, luôn mong mỏi một
ngày nào đó các chú sẽ lại trở về với thôn xóm, lại chơi đùa với mình:
Vẫn mong các chú trở về
Lại ngồi với cháu bên hè đánh bi.
(Gửi theo các chú bộ đội)

Bộ đội ta vừa là người anh, người bạn vừa là người thầy giáo của cá em nhỏ
(trong đó có Trần Đăng Khoa) dù các anh không cầm tay nắn chữ, dù không
phải bộ đội nào cũng trực tiếp đứng lớp giảng bài. Nhưng, qua những cuộc hành
quân gian khổ, những chiến công và những hi sinh của mình, các anh đã dạy các
em nhỏ thật nhiều bài học về lòng yêu Tổ quốc, lòng biết ơn những người đã hi
sinh thân mình để bảo vệ cuộc sống yên vui cho các em, về trách nhiệm của một
công dân đối với đất nước, nhất là trong hoàn cảnh khói lửa đạn bom. Trần
Đăng Khoa đã gọi một cách thân thương, trìu mến, thiết tha:
Chú thành thầy giáo cháu rồi Dạy cho cháu học làm người Việt Nam.
(Giữ cho chúng cháu khoảng trời bình yên)

Nhiều đức tính tốt đẹp, nhiều chiến công như thế nhưng các chú bộ đội rất
khiêm tốn. Các chú kể về Cổng Trời, về miền Nam, về sự thất bại của quân Mĩ
khi chúng thực hiện cuộc chiến tranh phi nghĩa ở đất nước ta. Mỗi lần gặp lại
bội đội là các em nhỏ được nghe những điều mới vừa xảy ra:
Chi tiết long lanh, mới như ban ngày
Trí nhớ anh vô tận và dạt dào như sông, như bể.

Các anh có thể kể chuyện một cách say sưa về các trận chiến đang xảy ra ở
Việt Nam và sẵn sàng trả lời các thắc mắc (dù là ngô nghê) của các em. Nhưng
các anh không bao giờ nói về mình. Trần Đăng Khoa đã nhận ra điều đó:
Chỉ có một điều anh quên kể
Anh vừa được tuyên dương là một anh hùng.
(Điều anh quên không kể)
Những người bộ đội đó là những anh nông dân, những “chị thanh niên xung
phong – áo bạc màu nắng gió” (Đi tàu hỏa) và cũng có khi đó là những thầy
giáo - Những thầy giáo tạm rời lớp học, tạm xa những đôi mắt ngây thơ của học
trò, tạm xa “Tiếng thơ đỏnắng xanh cây quanh nhà - Mái chèo nghiêng mặt
sông xa” để theo tiếng gọi của non sông khiến cho các em học trò rất luyến lưu
không muốn rời nhưng “vẫn cười vẫn hát để thầy đi xa” (Thầy giáo đi bộ đội).
Năm 1972, Trần Đăng Khoa gặp lại thầy giáo cũ. Niềm hân hoan và nỗi đau xót
hòa trộn vào nhau bởi vì Trần Đăng Khoa nhận ra ở thầy có một điều khác lạ.
Thầy bây giờ trở thành thương binh, đã để lại một chân ở vùng đất máu lửa
nhưng chan chứa yêu thương của Tố quốc. Trần Đăng Khoa bồi hồi nhớ lại năm
1966 em đã tặng cho thầy bài thơ “Hỏi đường” – bài thơ được viết bằng tất cả
sự yêu mến và thương nhớ và tự hào của một học trò dành cho thầy giáo, của
một em thiếu nhi dành cho chú bộ đội. Giờ thấy thầy với đôi nạng gỗ, vẫn tiếp
tục dạy hoc, tiếp tục cống hiến cho cuộc sống, cho đất nước, trong Trần Đăng
Khoa dâng lên niềm xót xa, cảm thấy mình chưa xứng đáng với sự hi sinh lớn
lao đó:
Dấu nạng hai bên như hai hành lỗ đáo
Chúng em nhận ra bàn chân thầy giáo
Như nhận ra cái chưa hoàn hảo
Của cuộc đời mình
(Bàn chân thầy giáo)

Trần Đăng Khoa và các bạn nhỏ cùng trang lứa luôn mang trong lòng một suy
nghĩ- suy nghĩ rất người lớn về trách nhiệm của một người dân khi đất nước bị
xâm lược:

Các anh đi quét sạch quân xâm lược


Em ở nhà, lòng bứt rứt sớm trưa
Biết bao điều em không thể nói được bằng thơ…
(Thư thơ)

Tình cảm của cậu bé Trần Đăng Khoa dành cho bộ đội thật sâu sắc. Càng thêm
yêu mến và tự hào về họ hơn khi họ hi sinh vì đất nước. Trong số các bài thơ
mà Trần Đăng Khoa viết về bộ đội, Trần Đăng Khoa có dành riêng một vài bài
để tặng cho anh Lê Lâm Ứng và các chú bộ đội Quân giải phóng miền Nam
(Giữ cho chúng cháu khoảng trời bình yên), gửi anh đã đến thăm em (Thư thơ),
cô Bưởi (Em dâng cô một vòng hoa, Về thăm cô Bưởi).
Cậu bé Trần Đăng Trần Đăng Khoa ngày ấy và nhà thơ Trần Đăng Khoa ngay
nay vẫn luôn dành tình cảm đặc biệt đối với nữ liệt sĩ Mạc Thị Bưởi. Mạc Thị
Bưởi (1927-1951) là một du kích ở huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Cô tham
gia cách mạng rất tích cực và hi sinh ở tuổi 24. Cô Bưởi hi sinh lúc Trần Đăng
Khoa chưa sinh ra. Những gì về cô Trần Đăng Khoa được nghe từ bố mẹ và
những người xung quanh. Ấy thế mà trong lòng cậu bé Trần Đăng Khoa rất yêu
quý, trân trọng và biết ơn cô:

Cô ơi!
Sông nước gọi tên
Nắng mưa phục kích trăng lên đánh đồn
Thương cô sóng cuộn quanh cồn
Nhát dao giặc giết…em còn thấy đau.
(Em dâng cô một vòng hoa)

Bốn năm sau, Trần Đăng Khoa đã nhận thức được một điều: Các anh hùng liệt
sĩ vẫn sống mãi trong trái tim của dân tộc ta. Trần Đăng Khoa đã nói thay tấm
lòng của mọi người khi em Về thăm cô Bưởi:
Bóng cô đi giữa triệu người
Hôm nay và cả muôn đời mai sau…
(Về thăm cô Bưởi)

3.5. Tình cảm đối với những miền quê trên đất nước

Chúng ta thường mang trong đầu một ý nghĩ rằng cảm hứng đối với những địa
danh trên đất nước chỉ có ở những nhà văn, nhà thơ từng rong ruổi trên các nẻo
đường đất nước mới có được. Ý nghĩ ấy đúng nhưng không hoàn toàn, bởi có
những người chưa một lần đến với miền đất nào đó nhưng vẫn có thể có tình
cảm thiết tha sâu nặng. Bác Hồ của chúng ta đau đáu hướng về miền Nam thân
yêu: “miền Nam trong trái tim tôi”. Tâm nguyện của Bác là sau khi thống nhất
nước nhà sẽ vào miền Nam cho thỏa lòng mong nhớ. Vậy mà, đến cuối đời, tâm
nguyện ấy vẫn chưa đạt được. Chế Lan Viên không đến Tây Bắc nhưng vẫn viết
được bài thơ rất hay về Tây Bắc. Nhà thơ nhỏ tuổi Trần Đăng Khoa cũng tiếp
nối tinh thần đó. Lúc nào em cũng mong muốn mình được đến với các miền Tổ
quốc yêu thương:

Em muốn con tàu này


Đưa em đi khắp đất nước
Ôi tổ quốc! Tổ quốc!
(Đi tàu hỏa)

Với niềm mong ước đó, Trần Đăng Khoa đã tâm sự cùng Than - người bạn thân
thiết, chân thật. Than giống như một nhà hiền triết nói lên tiếng nói của dân tộc
có lịch sử bốn ngàn năm văn hiến. Than lại giống như một nhà thơ. Nhà thơ
Than sẽ làm thơ ca ngợi cuộc sống, ca ngợi đất nước cùng với những truyền
thống chống giặc ngoại xâm:

- Tôi muốn làm thơ


Ca ngợi Vịnh Hạ Long
Có màu xanh từ thuở Ngô Quyền
Con sóng vẫn reo trên xác giặc
Ca ngợi bác nông dân
Sớm sớm lên tầng.
(Lời của Than)

Những nẻo đường hành quân của các chú bộ đội đến khắp nơi trên đất nước
cũng làm Trần Đăng Khoa liên tưởng đến những vùng đất đó dù chỉ là những lá
thư:

Chú thì đương Sơn La


Chú thì ra Cồn Cỏ
Chú thì giữ Hàm Rồng
Chú thì xa, xa nữa…
(Bà và cháu)

Khi viết bài thơ tặng nhà thơ Tố Hữu, Trần Đăng Khoa cũng đã gửi lòng về xứ
Huế mộng mơ - quê hương của Tố Hữu:

Chú ngồi với cháu trong phòng


Mái chèo nghe động một dòng Hương Giang
(Kính tặng chú Tố Hữu)

Và Trần Đăng Khoa đã cùng chú nhìn lại quãng thời gian đầy gian khổ nhưng
cũng đầy ánh sáng và tự hào khi được ánh sáng của Đảng chiếu sáng cuộc đời.
Lấy ý từ bài thơ“Từ ấy” của Tố Hữu, Trần Đăng Khoa đã viết những dòng thật
xúc động, chứng tỏ rất am hiểu về cuộc đời của chú:

Chú “Từ ấy” những gian nan


Đường lên Đắc Sút sương tan mặt ghềnh
Nhận được lá thư của anh Minh, Trần Đăng Khoa cảm thấy yêu mến lạ vùng đất
mỏ: Ôi miền đất anh đang sống
Nghe sao mà giản dị yêu thương…
Những muốn thăm làng thăm mỏ
Nếu anh không đạp xe về
Em sẽ lần đường cuốc bộ…
(Nhận thư anh)

Trần Đăng Khoa chưa một lần đến với thủ đô Hà Nội nhưng trong lòng luôn
thương nhớ nơi đó. Ngay cả trong giấc mơ, Trần Đăng Khoa cũng thường mơ
về Hà Nội xa xôi:
Em nằm lơ mơ ngủ
Thấy mình về Thủ đô
Ôi chao, trăng vàng óng
Quay tròn... bánh ô tô...
(Trăng tròn)

Trong những vùng đất của Tổ quốc, Trần Đăng Khoa dành một tình cảm đặc
biệt cho miền Nam ruột thịt. Điều đó đã được thể hiện qua các bài thơ thơ trong
tập Góc sân và khoảng trời. Theo quy luật của tình cảm con người một khi
người ta nhắc có nghĩa là người ta vẫn thường nghĩ đến và thấy thương thấy
nhớ. Trong ý nghĩ của Trần Đăng Khoa và các bạn lúc nào cũng có hai tiếng
miền Nam. Bài Bắt ông Rừng nộp củi, Trần Đăng Khoa đã vẽ ra một hình ảnh
thật sinh động: Các em đứng trên đỉnh núi mà ngó khắp bốn bề để rồi cảm thấy
“nghe thiêng liêng Tổ quốc”. Từ trên núi em thấy được nơi Nguyễn Trãi làm
thơ, nơi Trần Hưng Đạo chiến thắng quân Nam Hán, thấy hình ảnh Bác Hồ làm
thơ và vạch đường lối cứu nước. Trần Đăng Khoa cùng các bạn đã đưa cặp mắt
nhìn thật xa để được trông thấy miền Nam trong cảnh những phố phường náo
động. Náo động vì cuộc sống vẫn diễn ra như chưa bao giờ bị dập tắt theo ý đồ
của đế quốc Mĩ. Trần Đăng Khoa đã rất thích thú khi các chú bộ đội kể chuyện
về miền Nam với những chiến công ngày càng nhiều:

Này đây đường phố Sài Gòn


Rực trời ánh lửa phá đồn đêm nao
Bao nhiêu xe xích đổ nhào
Bao nhiêu giặc Mĩ chui vào áo quan.

Trong những lúc ca hát, tiếng đàn bầu gợi nhớ đến Nam Bộ với những câu hò,
điệu lí xàng, xê “đằm thắm khúc ru con Nam Bộ” và làng quê Kinh Bắc với
giọng quan họ ân tình “Tươi mát câu dân ca quan họ” (Tiếng đàn bầu và đêm
trăng). Trần Đăng Khoa yêu thương những vùng đất xa xôi, bởi vì đó có Bàn
chân thầy giáo:
Bàn chân thầy giáo gửi lại Khe Sanh
Hay Tây Ninh, Đồng Tháp
Bàn chân đạp xuống đầu lũ giặc
Cho lẽ sống làm người.

Như đã nói, những miền đất ấy Trần Đăng Khoa chưa một lần được đến.
Nhưng, từ trong sâu thẳm Trần Đăng Khoa lại yêu mến vô cùng. Trước kia, em
Trần Đăng Khoa yêu những địa danh đó vì đó là một phần của Tổ quốc thiêng
liêng, nơi đó cũng như quê em phải chịu nhiều hậu quả nặng nề của chiến tranh.
Giờ đây, Trần Đăng Khoa lại càng thêm yêu vì những nơi đó có bàn chân của
thầy giáo từng đi qua và một nơi nào đó có bàn chân của thầy để lại.

Không phải ngẫu nhiên mà cụm từ quê hương - đất nước lại hay đi chung với
nhau. Bởi mỗi người đều có một quê hương riêng của mình nhưng tất cả chúng
ta đều có chung một quê hương: Việt Nam. Quê hương không thể tách rời đối
với đất nước. Vận mệnh của đất nước có mối tương quan với quê hương của
mọi người. Vì thế, Trần Đăng Khoa không chỉ viết về làng Điền Trì của mình
mà còn viết về đất nước với niềm yêu mến, tự hào. Trần Đăng Khoa đã reo lên
niềm tự hào ấy:

Trăng từ đâu… từ đâu…


Trăng đi khắp mọi miền
Trăng ơi có nơi nào
Sáng hơn đất nước em!
(Trăng ơi… từ đâu đến…)

Hỏi để mà tự hào, khẳng định vẻ đẹp đặc biệt của đất nước mình. Câu hỏi thật
dễthương. Không chỉ tự hào về vẻ đẹp đấ nước mà Trần Đăng Khoa còn tự hào
về một đất nước anh hùng. Hai cảm hứng đó xuất hiện xuyên suốt trong thơ
Trần Đăng Khoa, không chỉ trong tập Góc sân và khoảng trời mà những tập thơ
được viết khi đã thành một anh lính biển hay những năm gần đây cũng thế. Trần
Đăng Khoa đã nói với bạn bè thế giới rằng:
Chúng tôi chẳng sợ Mĩ đâu
Vẫn vui, vẫn hát những câu rộn ràng.
(Gửi bạn Chi – lê)

Trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt, thế giới rất lo ngại cho Việt Nam về cả vật
chất và tinh thần khi phải đối mặt với cuộc chiến không cân sức như thế. Bạn bè
thiếu nhi quốc tế hiểu gì về tinhth thần của thiếu nhi Việt Nam? Có biết bao trẻ
em Việt Nam trả lời cho câu hỏi ấy nhưng lịch sử đã chọn Trần Đăng Khoa làm
người phát ngôn cho cả thế hệ, cả dân tộc.

CHƯƠNG III: GÓC SÂN VÀ KHOẢNG TRỜI – MỘT SỐ HÌNH


THỨC BIỂU HIỆN NỔI BẬT

1. Giọng điệu
Chúng tôi nghĩ rằng, nghiên cứu giọng thơ của một tác giả không phải là việc
đơn giản. Công việc này đòi hỏi nhiều thời gian và khả năng cảm thấu sâu sắc
mà không phải ai cũng có được. Trong pham vi của khóa luận, chúng tôi chỉ tìm
hiểu một vài nét mà chúng tôi cho là nổi bật trong tập thơ Góc sân và khoảng
trời. Đó là giọng thơ hồn nhiên, trong sáng, thiết tha và giọng triết lí, suy tư.

1.1. Hồn nhiên, trong sáng, thiết tha


Trong tập thơ, Trần Đăng Khoa thường xưng hô là “em” khiến cho người đọc
như đang lắng nghe lời tâm sự của một chú bé ngoan:

Em thường rải cái nong


Ra góc sân ngồi học
Những đêm có trăng mọc
Em chơi cho đến khuya…
(Cái sân)

Em đi chọc ếch chiều nay


Giỏ không thoắt đã đựng đầy tiếng kêu…
(Chọc ếch)

Có lẽ, trong lúc làm thơ, Trần Đăng Khoa tưởng tượng mình đang nói chuyện
với người lớn nào đó. Còn khi nói với các con vật, cây cối thì Trần Đăng Khoa
xưng “tao” và gọi “mày” một cách thân mật như những người bạn:

Cái đuôi vàng ngoáy tít


Cái mũi đen khịt khịt
Mày không bắt tay tao
Tay tao buồn làm sao
(Sao không về vàng ơi?)

Những lời Trần Đăng Khoa nói thì thầm với trầu mới đáng yêu làm sao:

Trầu ơi, hãy tỉnh lại


Mở mắt xanh ra nào
Lá nào muốn cho tao
Thì mày chìa ra nhé
Tay tao hái rất nhẹ
Không làm mày đau đâu
Đã dậy chưa hả trầu?...
(Đánh thức trầu)

Chỉ có trẻ thơ mới có giọng điệu như thế. Cả tập thơ mang giọng điệu trong tập
thơhết sức hồn nhiên, trong sáng, mang đậm tính cách trẻ con của tác giả. Bài
“Thơ vui” mang giọng thơ hết sức hồn nhiên pha lẫn nghịch ngợm:

…Diêm Vương đi vắng lâu rồi


Nghe đâu ăn cỗ Nhà Trời xa xăm…
Mải vui chén rượu, cuộc cờ
Quên không mở cửa Phủ cho cháu vào…

Bác Mạnh Sinh chẳng biết nghe tin đâu, tưởng Trần Đăng Khoa đã chết nên gửi
câu đối và thơ về nhà chia buồn cùng gia đình Trần Đăng Khoa. Cảm động
trước tấm lòng của Bác, Trần Đăng Khoa đã viết bài thơ gửi tặng và cũng báo
cho bác Sinh rằng Trần Đăng Khoa vẫn “chưa lặng lẽ qua đời được đâu”. Giọng
thơ nghịch ngợm nhưng đầy nghĩa tình. Đọc bài thơ này, có lẽ bác Sinh đã mỉm
cười hạnh phúc vì “thần đồng” Trần Đăng Khoa vẫn bình an, vẫn làm thơ hay
như bác và mọi người từng biết. Chiến tranh với sức tàn phá của nó làm cho
Trần Đăng Khoa ý thức hơn nhưng
không vì thế mà tâm hồn cằn cỗi. Tiếng thơ của Trần Đăng Khoa đã át đi “âm
thanh nhơ bẩn” bằng chính sự hồn nhiên, ngây thơ và thanh thản:

Tiếng diều vàng nắng


Trời xanh cao hơn
Dây diều em cắm
Bên bờ hố bom…
(Thả diều)

Bên cạnh hố bom, hiện thân của sự chết chóc, hủy diệt, cánh diều tuổi thơ vẫn
bay cao như khát vọng của thế hệ măng non Việt Nam. Âm thanh của tiếng diều
làm cho trời như cao hơn, xanh hơn đẹp hơn. Trần Đăng Khoa đã nói với bạn bè
trên thế giới rằng:

Chúng tôi đến lóp ngày ngày


Mũ rơm tôi đội, túi đầy thuốc men
Ao trường vẫn nở hoa sen
Bờ tre vẫn chú dế mèn vuốt râu
Chúng tôi chẳng sợ Mĩ đâu
Vẫn vui vẫn hát những câu rộn ràng
(Gửi bạn Chi - lê)

Với các con vật xung quanh, Trần Đăng Khoa dành cho chúng một tình cảm
yêu mến đặc biệt. Lời thơ trong Nói với con gà mái, Tiếng chim kêu,… hết sức
tha thiết. Nhìn vằn máu đỏ trong mắt con gà mái bị mất con, nghe tiếng chim bị
thương kêu thảm thiết trong bụi cây, Trần Đăng Khoa cảm thấy lòng mình như
có lửa đốt. Chỉ một tiếng chim kêu, một cái nhìn cũng gây cho con người xúc
động mãnh liệt. Tại sao giặc Mĩ đã nhẫn tâm sát hại hàng triệu người lại không
mảy may thương tiếc?
Bài “Sao không về Vàng ơi?” là tiếng gọi của một em nhỏ bị mất con vật
thương yêu thất. Ta cảm nhận trong từng lời thơ là nỗi nhớ nhung da diết, là
niềm mong chờ con Vàng quay trở về. Trần Đăng Khoa nhớ từng cử chỉ mừng
rỡ của nó mỗi khi Trần Đăng Khoa đi học về:

Đầu tiên mày rối rít


Cái đuôi mừng ngoáy tít
Rồi mày lắc cái đầu
Khịt khịt mũi, rung râu
Rồi mày nhún chân sau
Chân trước chồm, mày bắt…

Trong tập thơ có những bài được viết theo thể thơ lục bát: Mẹ ốm, Tiếng nói,
Hạ Long, Quê em,… Những bài này mang giọng hết sức thiết tha, gợi cho
người đọc sự cảm động. Mẹ ốm là tâm tình của một đứa con hiếu thảo:

Nắng mưa từ những ngày xưa


Lặn trong đời mẹ đến giờ chưa tan…
Cả đời đi gió đi sương
Bây giờ mẹ lại lần giường tập đi
Mẹ vui con có quản gì
Ngâm thơ kể chuyện rồi thì múa ca
Rồi con diễn kịch giữa nhà
Một mình con sắm cả ba vai chèo
Trần Đăng Khoa viết bài thơ này bằng tất cả nhận thức sâu sắc và tình thương
mến. Trần Đăng Khoa ý thức sâu sắc những nỗi cơ cực mà mẹ đã chịu đựng qua
từ “lặn”. Thử tìm một từ nào khác thay thế thì ý thơ sẽ giảm đi rất nhiều. Bài
thơ gây cho người đọc niềm xúc động thực sự bởi những suy nghĩ vừa hồn
nhiên vừa sâu sắc và giọng thơ tha thiết, chứa chan tình cảm.

1.2. Giọng triết lí, suy tư


Trần Đăng Khoa là chú bé thiếu nhi làm thơ nhưng thơ Trần Đăng Khoa khi đó
không phải chỉ dành riêng cho thiếu nhi đọc. Ở lứa tuổi còn chơi giun, chơi dế,
Trần Đăng Khoa đã “già trước tuổi” khi mang vào thơ mình những chuyện
chẳng trẻ con chút nào.
Tác giả vượt qua rất nhanh những bài thơ tả cảnh và nói tình theo đạo đức quy
ước của thời đại mình đang sống để tiến tới các bài thơ sâu sắc tình đời, thấm
thía buồn vui của thân phận làm người. Dưới ngòi bút viết chữ còn nguệch
ngoạc của chú bé nông thôn ấy đã hiện lên sâu sắc cả thế giới tâm sự của con
người - con người Việt Nam, con người nông dân xã Quốc Tuấn quê em và con
người tổng quát của cõi người. Hơn thế, trong bài “Trăng sáng sân nhà em” tâm
linh chú bé Trần Đăng Khoa còn có mối giao hòa với vũ trụ. Một đêm trăng
sáng trước sân nhà, Trần Đăng Khoa cảm nghe được trong sự im lặng của đất
trời, tiếng nói của hư vô biểu hiện bằng ánh sáng soi tỏ xuống sân nhà. Trần
Đăng Khoa biết đánh thức trầu rồi mới hái nó cho bà, cho mẹ. Trần Đăng Khoa
xem trầu như một người bạn nên rất nhẹ nhàng, từ tốn. Chú bé biết lắng nghe và
biết nói với thiên nhiên. Dường như trong tâm hồn của mỗi thi sĩ đều có con
người kì diệu đó, không phân biệt lớn tuổi hay nhỏ tuổi. Thuở bé, Trần Đăng
Khoa hay lên Côn Sơn viếng đền thờ Nguyễn Trãi. Không biết thuở ấy Trần
Đăng Khoa đã biết gì về thơ Nôm của Nguyễn Trãi chưa nhưng rõ ràng trong
hồn, Trần Đăng Khoa tự cảm nhận một mối giao lưu với người xưa – cũng là
cảm xúc tâm linh u uẩn. Trong Đêm Côn Sơn khi tiếng chim tiếng suối nhỏ dần
và thành mờ ảo thì Trần Đăng Khoa nghe rộn lên tiếng sấm, tiếng chuông, tiếng
gió,… lại cả tiếng ngâm thơ nữa. Bài thơ tinh vi trong bút pháp khi tả thật lẫn tả
ảo và càng tinh vi lúc từ cái thật mở sang cái ảo, cái lá đa rơi ở cõi người nhưng
tiếng động của nó như từ cõi tâm linh:
Ngoài thềm rơi chiếc lá đa
Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng

“Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng” - Câu thơ bật ra tưởng chừng ngẫu
nhiên, chỉ là một thoáng cảm bằng tai, nhưng đọc kỹ cả đoạn, cả bài, không khó
khăn nhận ra sự bất chợt ấy bắt đầu từ sự rung động của trái tim, sự bất chợt ấy
có vẻ vô thức, nhưng lại là tích góp đã được chuẩn bị của ý thức. Bởi thế câu
thơ trở nên có hồn, có thần. Nếu như ta đã từng cảm phục Nguyễn Khuyến
không màng công danh trở về hòa hồn mình với làng quê mùa thu yên ả đã cảm
nhận được “lá vàng trước gió khẽ đưa vèo” thì ta sẽ ngạc nhiên hơn khi người
thốt ra câu “tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng” là một cậu bé mới 10 tuổi
đầu. Mọi người kinh ngạc khi đọc những câu thơ u uẩn của chú bé Trần Đăng
Khoa. Cái hồn bé thơ ấy như sớm nhận được những tín hiệu mang mang xa
rộng và sâu thẳm từcuộc đời. Nhưng chúng ta thật sự cảm thấy gần gụi khi thấy
ở nơi Trần Đăng Khoa những cảm xúc đời sống chân thật, rất thật như vốn có ở
mỗi ngày thường mà lại thật sâu nặng chất nhân văn như những chiêm nghiệm
của một triết gia cao niên đã chứng kiến nhiều nhiều biến đổi của cuộc đời. Trần
Đăng Khoa kể chuyện bé Giang đánh tam cúc với con mèo. Con người bé trông
nhà một mình thì phải lấy mèo làm bạn, gạ nó đánh tam cúc với mình vì duy chỉ
có nó không phải làm việc đồng áng như những người lớn trong nhà của em.
Dường như con mèo biết được điều đó nên nó luôn tỏ ra nũng nịu, vòi vĩnh. Nó
cứ phỏng mũi “ngoao ngoao”, khi thua thì dỏng tai, xanh mắt lên không chịu.
Thế là con người, dù bé, cũng phải nhường “à thôi mày được”. Cuộc chơi tiếp
tục được là nhờ thế. Muốn làm người thì phải thế chứ sao! Loài vật nào chẳng
hiếu thắng. Chỉ có con người mới biết nhường nhịn, biết thua để cuộc sống luôn
hòa bình, đầy tình thương. Thơ của một em bé mới mười một tuổi đã chứa đựng
những triết lí của một triết gia. Đó cũng là một trong những điểm độc đáo của
thơ Trần Đăng Khoa so với thơ của các em thiếu nhi cùng tuổi. Ngoài ra, Trần
Đăng Khoa có bài thơ tám câu Cháu làm bà còng ít thấy ai nói tới nhưng đấy là
bài thơ thấm đượm buồn vui sâu sắc của kiếp người. Cháu Minh Hà của
TrầnĐăng Khoa chân đi còn chưa vững nhưng lại biết nhại dáng đi của người bà
cao tuổi, mắt đã mờ, lưng đã còng:

Tay vắt vẻo lưng cong


Đầu vấp va vấp vểnh

Trò chơi ấy là trò trẻ con ở đâu ở đâu ta cũng thấy bởi trẻ con hay bắt chước lời
nói, hành động của người lớn. Ta cười xòa rồi quên đi. Trần Đăng Khoa đã cho
ta thấy một chiều sâu nhân thế bằng bốn câu thơ nói bốn phản ứng tâm lí của
bốn thứ nhân và vật thế này:
Mèo tròn mắt lạ lùng
Chị cười lăn ra đất
Mẹ ngồi lặng hồi lâu
Bà đứng trào nước mắt

Chị cười lăn hồn nhiên. Mẹ ngồi lặng nghĩ ngợi mà bà thì trào nước mắt. Tại
sao lại khác nhau như thế? Bởi vì nỗi từng trải của mỗi người. Trần Đăng Khoa
không nói nhiều, thậm chí là không nói gì mà lại chạm vào nỗi đau nhân thế, mà
người đọc cảm nghe bao nỗi dâu bể đoạn trường của thân phận con người. Mỗi
chặng đường đời lại thấm thía thêm nỗi sâu nặng của thân phận ấy. Phải đến
tuổi già như bà mới biết đời người chỉ dài bằng một trò chơi: Chân vừa đi
khuệnh khoạng chưa vững đấy mà giờ đã còng rồi. Đừng vội cho rằng đây là tư
tưởng bi quan, ủy mị của Trần Đăng Khoa. Hãy để hồn mình lắng đọng sau
những thăng trầm, biến cố trong cuộc sống, chắc hẳn chúng ta cũng có cùng suy
nghĩ về cuộc đời như Trần Đăng Khoa vậy.

Bài thơ Mẹ ốm được mọi người đánh giá rất cao. Những bà mẹ khi được các
con mình đọc cho nghe không khỏi trào nước mắt vì cảm động. Từng chữ, từng
câu trong bài thơ rất tự nhiên, chân thực và cũng rất tinh tế, sâu sắc. Câu thơ
“Cả đời đi gió đi sương - Bây giờ mẹ lại lần giường tập đi” đã khiến cho các
nhà thơ lớn tuổi, có kinh nghiệm cũng phải ngả mũ chào. Bởi vì, “nếu họ có
được cái tinh tế và nhạy cảm như Trần Đăng Khoa thì họ sẽ làm cho câu thơ già
đi”[10;341] hoặc làm cho nó mang vẻ ngô nghê, trẻ con một cách gượng gạo rất
khó chịu. Trần Đăng Khoa viết hai dòng này thật cô đọng, không có từnào là
thừa. Từ nào cũng hàm chứa một lượng thông tin cần thiết, chính xác và biểu
cảm lạ lùng. Tác giả đã phải vận động cùng lúc hai quá trình trái ngược nhau:
Vừa phải trưởng thành, chính chắn hơn để nhìn nhận sự việc lại vừa phải quay
về bản chất trẻ con của mình để có được cái nhìn thuần khiết như thế. Tính triết
lí trong thơ của Trần Đăng Khoa không tập trung ở một bài nào mà rải đều
khắp, ngay cả trong lúc nghịch ngợm, đùa vui. Tác giả Góc sân và khoảng trời
thả cánh diều tuổi thơ bay lên trời cao rồi từ đó mà ngắm nhìn làng mạc, mái
trường, dòng sông, cánh đồng,… của quê hương. Cứ ngỡ đây là một bài thơ ca
ngợi cảnh quê hương tươi đẹp. Nhưng câu cuối : “Dây diều em cắm - Bên bờ hố
bom” (Thả diều) đã làm cho phương hướng cảm nhận của người đọc bị đảo lộn
một cách bất ngờ. Đến lúc này thì bài thơ đã thực sự phát lộ ra những lớp nghĩa
mới mẻ và giàu sức khái quát. Với hình ảnh diều và hố bom, bài thơ Thả diều
của Trần Đăng Khoa bỗng trở thành một triết lí về sự sống của dân tộc: Sự sống
bay lên từ trong cái chết, kẻ thù có thể giết chết chứ không thể thểhủy diệt được
con người Việt Nam. Cánh diều tuổi thơ không chỉ bay lên bầu trời cảm xúc mà
còn bay vào bầu trời của suy tưởng, triết luận. Nhưng, triết luận không phô
trương cho mọi người thấy mà là ẩn mình một cách kín đáo vào hình ảnh cánh
diều bay cao bất chấp sự đe dọa của bom đạn – một hình ảnh tươi tắn mà cũng
rất thâm trầm tạo nên bởi tâm hồn lạc quan của thi sĩ thiếu nhi Trần Đăng Khoa.
Đọc thơ Trần Đăng Khoa, ta thấy rất nhiều câu thơ mang màu sắc triết lí tạo cho
câu thơ thêm chiều sâu lẫn chiều rộng mà nhà thơ Xuân Diệu đã gọi là “bút
pháp người lớn”. Nhìn Bàn chân thầy giáo, Trần Đăng Khoa đã thốt lên những
lời thơ đầy suy tư, triết luận:

Ôi, bàn chân


In lên cổng trường những chiều giá buốt
In lên cổng trường những đêm mưa dầm
Dấu nạng hai bên như hai hành lỗ đáo
Chúng em nhận ra bàn chân thầy giáo
Như nhận ra cái chưa hoàn hảo

Của cuộc đời mình Bài thơ này Trần Đăng Khoa làm vào năm 1972, nghĩa là
em chỉ mới 14 tuổi. Vậy mà câu thơ lại già dặn như thế. Từ xưa, ông bà ta đã
đúc kết được một điều “nhân vô thập toàn” - câu nói ấy là chân lí của mọi thời
đại. Phàm là con người thì không ai được trọn vẹn tất cả. Thầy giáo đã gửi lại
một phần cơ thể ở vùng đất đầy máu lửa của Tổ quốc. Với những gì còn lại của
cơ thể và một tấm lòng trọn vẹn với phấn trắng, bảng đen, với đàn trò nhỏ ngây
thơ, thầy đã tiếp tục những tháng ngày cống hiến cho đất nước. Khi xưa và hiện
tại, thầy đều cống hiến tất cả cho cuộc đời, cho đất nước. Trần Đăng Khoa đã
nhận ra những cống hiến đó và cả sự nỗ lực phi thường ẩn trong con người đáng
kính đó. Từ nhìn nhận này mà sau đó ba năm (năm 1975), Trần Đăng Khoa đã
tình nguyện vào bộ đội để chiến đấu, để xứng đáng hơn với thầy, với các cha
anh của mình. Có thể lắm chứ! Khi chúng ta nhận thức sâu sắc một người nào
đó có những nghĩa cử cao đẹp, bất chợt chúng ta sẽ nhìn lại mình xem có được
như người ấy chưa. Nếu chưa, chúng ta luôn muốn được như vậy. Trần Đăng
Khoa cũng như thế. Trần Đăng Khoa đã từng lăn lộn nhiều năm ở chiến trường
Campuchia và ở quần đảo Trường Sa đầy nắng, gió và sóng biển.

Bài thơ Sao không về Vàng ơi người đọc cảm động sâu sắc trước nỗi buồn, nỗi
đau của một em bé bị mất đi một con vật mà em yêu thương. Trẻ em rất yêu các
vật nuôi trong nhà. Trong mắt các em, những con Vàng không là con vật mà là
một người bạn thân thiết. Đâu chỉ có thế, chúng ta còn nhận ra một điều: từ nỗi
hoảng sợ của một con chó đã tố cáo và khinh bỉ chiến tranh. Thì ra, tiếng bom
rùng dữ dội là thế mà chỉ làm cho một con chóhoảng sợ. Tiếng bom ấy chỉ có
tác dụng đe dọa được con vật, còn người thì không. Loài vật hoảng sợ vì chúng
không có sức mạnh tinh thần. Ẩn bên trong con người trên mảnh đất diều kì
Việt Nam từ bao đời nay luôn sục sôi tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết
sinh”.

Thơ Trần Đăng Khoa viết hồn nhiên, trong sáng, đó là đặc điểm của thơ thiếu
nhi. Hồn nhiên nhưng khá suy tư và đôi khi chạm vào nỗi đau nhân thế. Các bài:
Cháu làm bà còng, Con cò trắng muốt, ao nhà mùa hạn, Bến đò, Cơn dông,…
thể hiện sâu sắc điều đó. Trần Đăng Khoa miêu tả những điều trông thấy nhưng
Trần Đăng Khoa không phải trông thấy cái xác mà thấy cả cái hồn. Mọi người
đồng cảm với Trần Đăng Khoa một điều:
Ai cũng chỉ có một lần
Cái thuở thơ ngây…
(Bến đò)

Ta nghe như giọng nói của một nhà hiền triết. Chẳng biết khi viết câu thơ này
Trần Đăng Khoa có biết đến câu nói nổi tiếng của Hecralit “Không ai có thể tắm
hai lần trên một dòng sông” hay chưa. Những câu như thế quả là rất già so với
tuổi 14 của tác giả. Hình ảnh quả bòng trong cơn dông rụng xuống ao nhưng lại
“chẳng chịu chìm” gợi cho Trần Đăng Khoa tư thế hiên ngang, bất khuất của
một con người.
Trong bài Ghi chép về ngọn đèn dầu, Trần Đăng Khoa đã dùng chất liệu đơn sơ
và với bốn câu ngắn gọn đã nêu được suy nghĩ, cảm xúc của mình:

Đứng giữa nhà mà cháy


Mà tỏa sáng xung quanh
Chỉ thương cây đèn ấy
Không sáng nổi chân mình…

Trần Đăng Khoa chỉ nói một điều giản đơn rằng cây đèn có thể tỏa sáng cho
mọi vật xung quanh nhưng nó không soi sáng cho bản thân mình được. Dưới
chân nó luôn là bóng tối. Bài thơ có tựa đề là ghi chép chứ không phải là sáng
tác nhưng chất thơ, chất triết luận đã xuất hiện. Hai câu thơ cuối làm chúng tôi
suy nghĩ thật nhiều. Cây đèn dầu gợi sự liên tưởng đến những con người trong
cuộc sống. Cả cuộc đời họ chỉ biết sống, cống hiến và hi sinh chứ chưa hề,
không hề nhận hay mong được nhận một sự đền đáp nào. Nhưng đến lượt họ
thực sự cần một sự giúp đỡ từ người khác thì đâu phải lúc nào cũng được. Thế
nên, cuộc sống cần rất nhiều những cây đèn dầu sẵn sàng tỏa sáng cho nhau.
Mỗi người chúng ta hãy là một cây đèn dầu thì cuộc đời sẽ sáng bởi nghĩa tình
của chúng ta dành cho nhau:
Có gì đẹp trên đời hơn thế
Người yêu người sống để yêu nhau.
(Tố Hữu)

2. Trí tưởng tượng, liên tưởng phong phú


Người ta nói rằng tâm hồn của con người thuở hồng hoang với tâm hồn của một
đứa trẻ con có một sự gắn bó rất đặc biệt mà chúng ta khó có thể giải thích
được. Đó là sự đồng điệu về cách nhìn và cách cảm thế giới. Người xưa không
thể giải thích được các hiện tượng tự nhiên xã hội nên họ lí giải bằng trí tưởng
tượng nhiều màu sắc thần thánh. Trẻ con cũng thế, khi chúng bắt đầu biết quan
sát sự vật vật xung quanh thì mọi cái trong mắt chúng đều là lí thú và bí ẩn.

Một trong những yếu tố làm cho thơ Trần Đăng Khoa có những nét không thể
lẫn lộn với thơ của các em thiếu nhi khác là trí tưởng tượng rất phong phú,
mạnh mẽ, rất riêng của mình. Những liên tưởng của Trần Đăng Khoa thật lạ
lẫm, gây cho người đọc cảm giác bất ngờ, thú vị. Nhìn một tượng đá trong ngôi
đền Bãi Cháy, em chợt nhận ra một điều:

Và em bỗng hiểu ngôi đền


Hiểu ai tạc tượng người hiền cầm gươm
(Ngôi đền Bãi Cháy)

Thì ra, Trần Đăng Khoa liên tưởng đến hình ảnh chú bộ đội. Gương mặt hiền
lành gợi cho em biết bao tình cảm tốt đẹp. Gương mặt đó có những nét gì quen
thuộc, dễthương dễ mến lạ lùng. Bộ đội ta khi chiến đấu với kẻ thù thì dũng
cảm, hiên ngang nhưng khi trở về cuộc sống đời thường, bên cạnh người thân
quen thì rất hiền lành, chất phác. Việc cầm vũ khí là một việc không hề mong
muốn. Nhân dân Việt Nam không nuôi mộng bá vương, không khát máu mà chỉ
mong muốn cuộc sống hòa bình, tự do.

Sự liên tưởng phong phú ở nhiều bài thơ mang chất lãng mạn:
Vườn xanh biêng biếc tiếng chim
Dơi chiều khua chạng vạng
Ai dắt ông trăng vàng
Thả chơi trong lùm nhãn
(Hương nhãn)

Người đọc có thể nghĩ sao cũng được. Màu xanh có thể là của lá cây trong
vườn, cũng có thể tiếng chim làm cho khu vườn thêm sức sống, thêm xanh hơn.
Cánh dơi bay trên bầu trời đang sẫm tối như khua tất cả ánh sáng cất vào một
nơi, cả ông trăng cũng đang thập thò trong lùm nhãn. Một đêm có trăng nhưng
không sáng vằng vặc như đêm mười sáu cũng có nét huyền diệu trong con mắt
của Trần Đăng Khoa. Ngay cả ánh trăng đã trở nên thân thiết với mình, Trần
Đăng Khoa cũng liên tưởng đến nhiều hình ảnh khác nhau. Trăng có khi giống
như một quả chín tròn mộng:

Trăng hồng như quả chín


Lửng lơ lên trước nhà…
Có khi lại giống như:
Trăng tròn như mắt cá
Chẳng bao giờ chớp mi
Lúc thì lại giống như quả bóng mà Trần Đăng Khoa và các bạn thường chơi:
Trăng bay như quả bóng
Bạn nào đá lên trời…
(Trăng ơi… từ đâu đến…)

Trần Đăng Khoa có sự liên tưởng rất lạ. Khi nhắc đến con cò, mọi người hay
nghĩ đến người mẹ chịu thương chịu khó hay người nông dân lam lũ. Chỉ riêng
Trần Đăng Khoa nói về ý nghĩa hình ảnh con cò trong Con cò trắng muốt: “Khi
mưa đến, cây lúa đều hả hê hứng giọt mưa rơi, ếch nhái mở hội, cá múa tung
tăng thì con cò lại đứng trên cành cây ướt lông, chịu rét. Cháu nghĩ tới những
anh bộ đội đã hi sinh”.

Việc gì đối với em Trần Đăng Khoa cũng mới mẻ bởi sự liên tưởng ngộ nghĩnh,
vô tận của mình. Nhìn cánh diều bay liệng trên bầu trời lộng gió, Trần Đăng
Khoa nghĩ đến nhiều hình ảnh khác nhau:

Sao trời trôi qua


Diều thành trăng vàng…
Diều hay chiếc thuyền
Trôi trên sông Ngân…
Diều là hạt cau
Phơi trên nong trời…
Diều em - lưỡi liềm
Ai bỏ quên lại…
(Thả diều)

Trong thơ ca, cơn mưa thường phảng phất nét buồn buồn. Thế nhưng, cảnh mưa
trong thơ Trần Đăng Khoa lại khác hẳn. Cơn mưa làm cho cây lá thêm xanh tốt,
đất trời như tăng thêm sức sống. Mọi vật hối hả trong cơn mưa làm cho Trần
Đăng Khoa nghĩ đến trò chơi đánh trận giả với đầy đủ hình ảnh của người dũng
sĩ nơi trận mạc, các binh lính,…: “Ông Trời - Mặc áo giáp đen - Ra trận - Kiến -
Hành quân - Đầy đường…”. Đọc Cơn dông, người ta cứ cảm thấy thú vị khi
thấy Trần Đăng Khoa cũng biết chơi chữ nữa:
Quả bòng chết chẳng chịu chìm
Ao con mà sóng nổi lên bạc đầu

Chơi chữ nhưng và có vẻ triết lí. “Ao con” là chiếc ao nhỏ thì phải vui đùa hồn
nhiên với những đợt sóng lăn tăn. Chỉ có biển lớn, sông sâu mới có những con
sóng “bạc đầu”. Hình ảnh trong cơn dông trái với lôgic thông thường, Trần
Đăng Khoa đã tinh ý nhận ra điều đó. Thật ra, cái gọi là tinh ý của Trần Đăng
Khoa chúng ta cũng đã đôi lần bắt gặp, nhưng có khi nào ta liên tưởng như Trần
Đăng Khoa, có khi nào ta cảm thấy bứt rứt không yên với hình ảnh mình bắt
gặp và viết thành những vần thơ? Sự liên tưởng xuất hiện nhiều trong thơ Trần
Đăng Khoa bởi vì em còn đang tuổi thiếu nhi, mà thiếu nhi thì trí tưởng tượng
vô cùng tận. Những ý nghĩ rất người lớn ấy là do hoàn cảnh sống đã tạo nên một
Trần Đăng Khoa vừa hồn nhiên đáng yêu lại vừa sâu sắc, tinh tế.

3. Ngôn ngữ chính xác, sáng tạo, biểu cảm và giàu nhạc điệu
Tuy còn nhỏ nhưng Trần Đăng Khoa làm thơ rất có cân nhắc, lựa chọn theo suy
nghĩ của mình. Trong bài Mẹ ốm có câu “Cánh màn khép lỏng cả ngày” Trần
Đăng Khoa dùng rất chính xác. Tại sao khép lỏng mà không khép chặt ? Khép
lỏng vì đằng sau cánh màn luôn có sự hiện diện của em bé đang ngồi túc trực
bên mẹ. Khép lỏng vì mẹ luôn được mọi người vào ra thăm hỏi. Chỉ một chữ
thôi, Trần Đăng Khoa đã cho chúng ta cảm nhận được lòng yêu thương sâu đậm
của chú bé dành cho mẹ, nghĩa tình láng giềng dành cho nhau. Một trong những
ý nghĩa của thơ là làm cho con người hiểu nhau, yêu thương nhau. Trần Đăng
Khoa đã làm được điều đó. Trong lời hát ru cho đứa cháu nhỏ, Trần Đăng Khoa
dùng từ rất đắt: “Đất đang chín thóc - Trời đang chín trăng” (Cháu ngủ đi
rồi…). Không thể tìm được một từ nào khác thay thế từ chín mà Trần Đăng
Khoa đã sử dụng. Với từ này, mặt đất và bầu trời có mối quan hệ tương hỗ về
màu sắc. Trăng chiếu ánh vàng xuống mặt đất làm cho thóc thêm rực rỡ, ngời
sáng và phản chiếu ngược trở lại làm cho trăng thêm lung linh, lấp lánh.
Trong Thôn xóm vào mùa:
Thóc mặc áo vàng óng
Thở hí hóp trên sân

Trần Đăng Khoa đã không đồng ý khi ban biên tập sửa lại “Thóc mặc áo vàng
óng – Nhảy nhót mãi trên sân”. Xuân Diệu hiểu được điều đó: “ Nhân vật chính
là thóc, âm nhạc chính là thóc, múa nhảy chính là thóc… hạt thóc gồm hai mảnh
trấu quặp lại thành cái vỏ nên khi thóc văng ra, thóc mệt, thở hí hóp như con cá
có hai mang bị nằm trên cạn” (Một em nhỏ làm thơ). Nhạc điệu trong thơ Trần
Đăng Khoa rất phong phú, đã số các bài đều có nhạc điệu, âm sắc riêng: Trăng
sáng sân nhà em, Đánh thức trầu, Vườn em, Mưa, Ò ó o..., Khi mẹ vắng nhà,
Buổi sáng sân nhà em, Sao không về vàng ơi, Tiếng võng kêu, Đêm Côn Sơn,
Trăng ơi…từ đâu đến... Nhạc điệu ở các bài ấy rất gần với ca dao, đồng dao của
dân tộc ta. Đó là do Trần Đăng Khoa được sinh ra trong một làng quê, một gia
đình có truyền thống về văn học dân gian và bản thân em cũng luôn cố gắng vận
dụng, sáng tạo. Những câu thơ có sử dụng các câu ca dao, đồng dao, nhưng
Trần Đăng Khoa không lấy toàn bộ mà chỉ lấy ý hay một vài từ rồi viết theo
cách nghĩ, cách cảm của mình. Cho nên đọc thơ Trần Đăng Khoa, chúng ta vừa
có cảm giác quen quen mà cũng vừa có cảm giác thích thú vì một em bé nhỏ
tuổi như thế mà lại biết vận dụng linh hoạt văn học dân gian để biến cái chung
thành cái riêng của mình.

Thơ thiếu nhi do các em viết hay do người lớn viết cho các em thì thường sử
dụng câu gồm bốn hoặc năm chữ. Một câu thơ ngắn tạo nên ngữ điệu đơn giản,
nhịp nhàng các em sẽ dễ tiếp thu hơn, bởi tư duy, cảm xúc của trẻ em chưa
trưởng thành như người lớn. Điều này giải thích vì sao trong các trò chơi dân
gian của trẻ em có rất nhiều bài đồng dao. Trần Đăng Khoa trong tập Góc sân
và khoảng trời đã viết nhiều bài gồm các câu
thơ bốn, năm chữ: Hạt gạo làng ta, Tiếng võng kêu, Hà Nội, Chụp ảnh, Chiếc
ngõ nhỏ, Lọc cà lọc cọc,... Đặc biệt hơn, bài “Ò ó o...” chủ yếu sử dụng các câu
thơ chỉ có hai, ba
chữ:
Ò... ó... o...
Ò... ó... o...
Tiếng gà
Tiếng gà
Giục quả na
Mở mắt
Tròn xoe
Giục hàng tre
Đâm măng
Nhọn hoắt....

Câu thơ có tác dụng khác là có nhiều vần liên tiếp nhau hơn nên dễ đọc, dễ nhớ
và âm vang hơn bởi tính nhạc. Hãy đọc lại các bài thơ vừa nêu, nhất là bài “Ò ó
o...” sẽ thấy rõ điều đó. Bài thơ liên tục chuyển nhịp từ 3/ 2/ 2 đến 3/ 2, sau đó
trở lại 3/ 2/ 2 và kết thúc bằng nhịp điệu 3/ 2 gợi cho người đọc cảm giác cuộc
sống với những âm thanh và nhịp điệu thúc giục mọi người mọi, vật hãy cùng
hoạt động, cùng chung sức hát lên khúc nhạc yêu thương, cùng lao động hết
mình phục vụ cho công cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc ta. Âm thanh tiếng
gà lan xa, vận động được Trần Đăng Khoa sử dụng để tác động đến các vật
khác, làm cho nó cũng vận động theo (na mở mắt, tre đâm măng, hạt đậu nảy
mầm, buồng chuối tỏa hương...). Na, tre, buồng chuối, hạt đậu,... thực sự có vận
động nhưng rất chậm, không nhìn thấy được. Nhưng ở đây, cả hai vận động như
cuốn phim quay chậm và hình như sự vận động ấy hòa nhịp với âm thanh tiếng
gà. Đem cái động và âm thanh cho cái tĩnh, cái yên lặng làm cho sự vật thú vị,
kì ảo. Dường như, tất cả tập trung trong một hoạt động rộn ràng, nhịp nhàng bên
nhau. Trần Đăng Khoa không sử dụng nhiều từ mới lạ, phức tạp mà là những từ
có sẵn, đơn giản nhưng với sự sáng tạo, cái nhìn độc đáo, sự liên tưởng mới mẻ,
biết vận dụng các phép chuyển nghĩa bài thơ có một sức hấp dẫn kì lạ. Các động
từ sử dụng trong bài thơ là động từ mạnh như thúc giục sự vật vận động và phát
triển. Trong cái nhìn của trẻ con, sự vật vốn rất quen thuộc đối với mọi người lại
trở nên mới lạ, hấp dẫn như lần đầu tiên ta nhìn thấy con cò trắng “khiêng nắng
qua sông...”. Cái nón là đồ vật nhỏ bé gần gũi. Đội nón là một việc bình thường.
Mấy ai trong chúng ta quan tâm đến điều đó. Vậy mà nhà thơ nhỏ tuổi đã thấy
được cái hay của việc đội nón đấy. Thế là Trần Đăng Khoa tạo điều kiện để thay
đổi cái nón cụ thể, nhỏ bé bằng khoảng không gian rộng lớn, sôi động với âm
thanh, hình ảnh đầy biến động trong Mưa:

Bố em đi cày về
Đội sấm
Đội chớp
Đội cả trời mưa...

Trần Đăng Khoa đã thay chiếc nón lá cọ bằng sấm, chớp trong cơn mưa và
người bố - một nông dân bình thường - trở nên vĩ đại như một vị tướng oai hùng
dám đối đầu với thiên nhiên. Hình ảnh này Trần Đăng Khoa đã trông thấy nhiều
lần. Bằng tình cảm yêu quý dành cho bố Trần Đăng Khoa đã viết về bố rất đẹp.
Người nông dân Việt Nam vất vả lao động trên cánh đồng, dầm mưa dãi nắng là
việc rất đỗi bình thường, quen thuộc. Cả bài thơ chỉ có hơn một trăm tiếng mà
tác giả đã vẽ ra trước mắt người đọc quang cảnh, cảm giác mát mẻ lạ thường
của đất trời, cây cỏ, loài vật và con người. Với bài thơ này, Trần Đăng Khoa
không chỉ riêng dành để ca ngợi, cảm ơn bố mà còn dành tình cảm đó cho tất
cảnhững người đã ngày ngày chăm lo cho để mọi người yên tâm lao động, chiến
đấu và để Trần Đăng Khoa tiếp tục viết nên những bài thơ như “hạt gạo làng
ta”. Và đây nữa, âm thanh của tiếng võng ngân lên theo từng nhịp điệu bài thơ:

Kẽo cà kẽo kẹt


Kẽo cà kẽo kẹt
…Kẽo cà kẽo kẹt
Kẽo cà…
kẽo kẹt…

Chúng ta hình dung được cảnh một em bé đang say giấc nồng và âm thanh của
tiếng võng gợi nhớ về một thuở ấu thơ mà ai cũng từng trải qua. Nhịp thơ 2/2
gợi vẻ đong đưa của nhịp võng đều đặn. Bài thơ kết thúc với “kẽo cà – kẽo
kẹt…” mà âm thanh võng đưa sao còn ngân vang mãi.

4. Biện pháp tu từ
4.1. Nhân hóa
Tập thơ Góc sân và khoảng trời có rất nhiều sự vật, con vật được miêu tả với
các nét tính cách, hành động của con người. Đó là con mèo hiếu thắng cứ dỏng
tai, xanh mắt “ngoao ngoao” đến khi bé Giang chịu nhường phần thắng trong
trò chơi đánh tam cúc. Ếch là cậu học trò chăm chỉ học bài râm ran trong đêm.
Cào cào, cóc tía, chích chòe,… đều có đặc điểm hình dáng, tính cách riêng biệt.
Thế giới loài vật trong cảm nhận của trẻ thơ sao mà đáng yêu lạ. “Hay nói ầm ĩ -
Là con vịt bầu - Hay hỏi đâu đâu - là con chó vện - Hay chăng dây điện - Là con
nhện con…” (Kể cho bé nghe).

Trong bài Mưa, tác giả có cái nhìn rất ngộ nghĩnh. Bầu trời nhiều mây đen báo
hiệu sắp mưa được nhân hóa thành dũng sĩ oai hùng “Mặc áo giáp đen - Ra
trận”. Những cây mía là các tướng sĩ đang “múa gươm”. Tiếng sấm không làm
cho Trần Đăng Khoa sợ mà còn thích thú vì tiếng cười “khanh khách” - tiếng
cười nghe rất sảng khoái. Ngọn mồng tơi thì “nhảy múa” vui tươi. Tất cả sự vật
hào hứng, sẵn sàng đón nhận cơn mưa. Bài thơ chỉ hơn trăm chữ mà miêu tả
được cùng lúc nhiều sự vật trong cơn mưa. Mỗi sự vật có những thể hiện khác
nhau làm cho người đọc bất ngờ, thích thú vì cái nhìn ngộ nghĩnh, đáng yêu.

Đây là hình ảnh đàn kiến lũ lượt đưa ma bác Giun:


Cầm hương, Kiến Đất bạc đầu
Khóc than Kiến Cánh khoác màu áo tang
Kiến Lửa đốt đuốc đỏ làng
Kiến Kim chống gậy, Kiến Càng nặng vai…
(Đám ma bác giun)

Bài thơ như một bức tranh nhuốm màu u buồn của một đám đưa ma thực sự.
Trong đám ấy, kiến không còn là côn trùng nữa mà giống như con người với sự
đa dạng về hình dáng và tính cách. Kiến Kim thì chống Gậy đi một cách bệ vệ,
Kiến Cánh thì mặc áo tang vật vã khóc,… Trong khi kiến Đen đi ngất ngưởng
vì đã say rượu, say thịt, kiến Gió lại tranh thủ chia phần về mình. Đám ma
tưởng như có vẻ tang thương, bi ai lắm nhưng thực chất lại không phải như thế.
Giun và Kiến nào có họ hàng gì đâu. Thế nên, khi loài kia chết đi thì loài còn lại
được dịp hưởng lợi, cớ sao phải buồn? Rõ ràng trong cuộc sống vẫn có cảnh
tượng như thế. Nhà thơ Trần Đăng Khoa kể lại khi trông thấy các con kiến bâu
quanh một con giun đất, Trần Đăng Khoa đã chăm chú quan sát và chợt nảy ra ý
định rủ các bạn sau buổi học đi bắt các loại kiến. Bài thơ đã ra đời như thế đấy.
Trong nỗi nhớ thầy giáo đã đi bộ đội, Trần Đăng Khoa tưởng như cả con đường
cũng biết nhớ, biết thương như con người với lời tâm sự:
Đường rằng: Tao nhớ lắm thay
Khoa ơi, thầy giáo của mày đã xa
Bao giờ thống nhất nước nhà
Thầy về dạy học lại qua đường này…
(Hỏi đường)

Trong Buổi sáng nhà em, các sự vật cũng được Trần Đăng Khoa thổi vào linh
hồn:
Ông Trời nổi lửa đằng đông
Bà Sân vấn chiếc khăn hồng đẹp thay…
Cậu Mèo đã dậy từ lâu
Cái tay rửa mặt cái đầu nghiêng nghiêng
Mụ Gà cục tác như điên
Làm thằng Gà Trống huyên thiên một hồi
Cái Na đã tỉnh giấc rồi
Đàn chuối đứng vỗ tay cười vui sao
Chị Tre chải tóc bên ao
Nàng Mây áo trắng ghé vào soi gương
Bác Nồi Đồng hát bùng bong
Bà Chổi loẹt quẹt lom khom trong nhà…

Trần Đăng Khoa gọi các con vật, đồ vật trong nhà mình bằng các từ xưng hô
mật thiết: Ông Trời, bà Sân, cậu Mèo, cái Na, Chị Tre, bác Nồi Đồng,… Những
sự vật, con vật tưởng chừng không có gì đặc biệt lại trở nên sống động và ngộ
nghĩnh trong cái nhìn trẻ thơ. Trần Đăng Khoa miêu tả các con vật rất hợp với
tính cách của chúng. Này là chú Mèo đỏm dáng trong tư thế rửa mặt. Này là
thằng Gà Trống ưỡn ngực gáy vang. Này là chị Tre duyên dáng như một thiếu
nữ đang chải tóc,… Một ngày mới đến với tất cả âm thanh, màu sắc và hành
động của sự vật và con người. Ta thấy đằng sau câu chữ là hình ảnh một chú bé
tinh nghịch đang nhìn ngắm mọi vật với niềm vui tươi, yêu mến. Có điều đặc
biệt là Trần Đăng Khoa nhìn một sự vật không phải bao giờ cũng
giống nhau. Lúc thì Trần Đăng Khoa trông cây dừa giống như một người chiến
sĩ đứng gác:
Đứng canh trời đất bao la
Mà dừa đủng đỉnh như là đứng chơi
Lúc lại như một người bạn cùng Trần Đăng Khoa đùa nghịch trong mưa:
Cây dừa
Sải tay
Bơi
(Mưa)

Cây tre có khi là người con gái đẹp với mái tóc dài:
Chị Tre chải tóc bên ao
(Buổi sáng nhà em)

Tần ngần
Gỡ tóc
(Mưa)

Có khi giống như những cậu bé chăm chỉ học tập “Những cậu tre bá vai nhau
thì thầm đứng học” (Em kể chuyện này). Các con gà kiếm mồi trong sân cũng
khơi dậy trong lòng Trần Đăng Khoa niềm yêu thương tha thiết. Trần Đăng
Khoa không xem chúng là những con vật mà xem chúng cũng có tình cảm như
người vậy:

Mày tớp mồi, nhằn nhường con tất cả


Diều con no kềnh, diều mày vẫn lép không
(Nói với con gà mái)
Chính vì thế, khi gà con bị chết vì bom Mĩ, gà mẹ giận dữ, đau xót:
Trong mắt vằn những tia máu đỏ
Cái nhìn cháy như hai hòn lửa
…Máu tóe rồi, những ngón chân rách nát
…Lối rộng không đi, cứ lao vào vách đất
Tiếng mày gọi con, tiếng con tiếng mất…

Và, hòn than trong thơ Trần Đăng Khoa biết yêu người thợ mỏ, muốn làm thơ
để:

Ca ngợi Vịnh Hạ Long


Có màu xanh từ thuở Ngô Quyền
Con sống vẫn reo trên xác giặc
Ca ngợi bác công nhân
Sớm sơm lên tầng
(Lời của Than)

4.2. So sánh
Một điều dễ thấy trong thơ thiếu nhi là các hình ảnh được các em so sánh ví von
theo cách nhìn nhận của mình. Chưa thể giải thích, gọi tên được các sự vật nên
các em lấy sự vật này để so sánh với sự vật kia.

Tập thơ Góc sân và Khoảng trời có đến rất nhiều bài thơ có sử dụng biện pháp
so sánh. Trong mỗi bài lại có nhiều sự vật được so sánh: Hạt gạo làng ta, Lời
của Than, Đi tàu hỏa, Bà và cháu, Điều anh quên không kể,… Trần Đăng Khoa
hay dùng từ “như” để so sánh sự vật này với sự vật kia:
Hoa lựu như lửa lập lòe
Nhớ khi em tưới, em che hàng ngày…
(Hoa lựu)

Trăng hồng như quả chín…


(Trăng ơi… từ đâu đến…)

Cao cao ụ pháo như người đứng canh…


(Trận địa bỏ không)

Đôi khi Trần Đăng Khoa không dùng từ so sánh nhưng ta vẫn hiểu được:
Diều em - lưỡi liềm
Ai bỏ quên lại
(Thả diều)

Cùng một sự vật nhưng Trần Đăng Khoa lại so sánh với nhiều hình ảnh khác
nhau: Thả diều, Ngắm hoa, Trông trăng, Trăng ơi…từ đâu đến… Ánh trăng
được Trần Đăng Khoa miêu tả nhiều trong thơ mình. Nhìn trăng, Trần Đăng
Khoa liên tưởng và hay so sánh trăng với các vật khác nhau. Khi so sánh Trần
Đăng Khoa lại thường xuyên biến đổi trong cách nhìn. Lúc trông vào hình dạng:
“Trăng tròn như mắt cá - Chẳng bao giờ chớp mi”, “trăng như cái mâm con”,
lúc trông màu sắc thì trăng vừa “hồng như quả chín” (trăng mới nhú) vừa “nở
vàng như xôi” (trăng đã lên cao),… Trần Đăng Khoa còn so sánh cánh diều như
chiếc thuyền trôi trên dòng sông Ngân Hà, như hạt cau phơi trên nong trời, như
lưỡi liềm ai bỏ quên lại sau mùa gặt hái,… Nước của Hồ Gươm xanh trong
được Trần Đăng Khoa ví như “pha mực”(Hà Nội). Đoàn tàu “như những con cá
to” (Em về Hồng Gai). Bàn tay Bác Hồ thì “mát như kem sữa” (Em gặp Bác
Hồ),… Những gì Trần Đăng Khoa so sánh mới ngây thơ và đáng yêu làm sao!

Có những sự vật chúng ta thấy bình thường nhưng qua cái nhìn trẻ thơ và cách
so sánh ví von của Trần Đăng Khoa, chúng ta bỗng thấy mới lạ, đôi lúc lại trầm
ngâm suy nghĩ. Mặt bão, bàn chân thầy giáo, Ngôi đền Bãi Cháy,… là những
bài như thế. Ai cũng biết khi cơn bão đi qua nơi nào là nơi đó bị tàn phá, bao
nhiêu sức người trở thành cát bụi. thế nhưng, có ai trong chúng ta nghĩ đến
khuôn mặt cơn bão? Trần Đăng Khoa đã làm điều đó. Bão trong cái nhìn của
Trần Đăng Khoa làm chúng ta nhạc nhiên:
Bão đến ầm ầm
Như đoàn tàu hỏa
Bão đi thong thả
Như con bò gầy
(Mặt bão)

Chỉ với hai hình ảnh: đoàn tàu hỏa và con bò ốm yếu, gầy guộc chúng ta hình
dung được khuôn mặt của bão. Nó đến với sức mạnh hung hăng rồi bị suy yếu
dần sau khi đã tàn phá những công sức mà con người vất vả tạo ra. Bài thơ chỉ
có tám câu thôi nhưng ai chưa trải qua thực tế, chưa cảm thấy thấm thía sự mất
mát do thiên tai gây ra thì không thể nào viết được những câu như thế.

Thường thì trẻ em hay so sánh những cái trừu tượng, khó hiểu, khó diễn tả với
những cái cụ thể, dễ hiểu, dễ diễn tả. Ở một số bài trong tập thơ Trần Đăng
Khoa không làm như thế. Nghĩa là, từ một điều cụ thể, Trần Đăng Khoa so sánh
với điều trừu tượng. Từ những âm thanh của đoàn người đến gõ cửa Diêm
vương, Trần Đăng Khoa cảm nhận:

Như thiên nhiên đang tạo sông dựng núi


Như trái đất đang hình thành…

Trần Đăng Khoa không dùng động từ mạnh để diễn tả âm thanh này, vậy mà
chúng ta vẫn cảm nhận được sự quyết liệt, thôi thúc. Câu thơ so sánh gợi ra
trước mắt chúng ta một cảnh hỗn loạn, ngổn ngang của vô số người đến Diêm
Vương đòi công lí. Không cần nói ra số lượng, tự chúng ta biết được rằng: một
vài người thì không làm tạo ra được cảnh đó. Đế quốc Mĩ với tội ác của chúng
đã bị vạch trần. Hình ảnh so sánh lạ còn xuất hiện khi Trần Đăng Khoa ngây
ngất trước Hương
đồng:

Trời đất đêm nay


Như chim mới hót
Như rượu mới cất
Như mật mới đong…
Bông hoa mà em Giang ngắm cũng khơi dậy trong Trần Đăng Khoa niềm xúc
động:

Màu đẹp hơn tranh


Càng nhìn càng thắm
Như màu của nắng
Như màu của mưa
Dịu dàng non tơ…
(Ngắm hoa)

So sánh như vậy, Trần Đăng Khoa đã truyền cho người đọc cái cảm giác ngây
ngất của mình. Những hình ảnh trong thơ rất tinh khiết, gợi cảm. Không ai bắt
tác giả phải giải thích rõ nắng mưa màu gì, tiếng chim mới hót nghe làm sao,...
Chúng tôi nghĩ rằng, đây là một trong những nét khác biệt giữa thơ Trần Đăng
Khoa và thơ của các em thiếu nhi khác. Chính cái cảm nhận tinh tế, sâu sắc và
lạ lẫm đã thôi thúc Trần Đăng Khoa dày công tìm từ diễn đạt hết ý của mình.
Nếu chú ý hơn, chúng ta sẽ nhận thấy rằng ngoài biện pháp nhân hóa và so
sánh, trong tập thơ còn có cả phép ẩn dụ. Những phép tu từ mà Trần Đăng Khoa
sử dụng thường được kết hợp tuyệt vời với khả năng nghe, khả năng giao cảm
đặc biệt với vạn vật trong đất trời:

À uôm Ếch nói ao chuôm


Rào rào Gió nói cái vườn rộng thênh
Âu âu Chó nói đêm thanh
Te... te... Gà nói sáng banh ra rồi
Vi vu, Gió nói Mây trôi
Thào thào Trời nói xa vời Mặt Trăng...
(Tiếng nói)

Qua ngòi bút của Trần Đăng Khoa, người ta thấy không gian nông thôn mới yên
ả làm sao với cái mùi ngây ngây của bùn, hương nồng nàn của đất,... Bình dị là
thế nhưng chính nơi đây đã trở thành máu thịt của con người, trong đó có Trần
Đăng Khoa.

You might also like