You are on page 1of 9

Đất nước

Quê hương, đất nước luôn là nguồn cảm hứng bất tận trong thơ ca . Nếu như những nhà thơ cùng chọn
điểm nhìn về đất nước bằng những hình ảnh núi sông , thiên nhiên kì vĩ, thơ mộng hay những chiến
công vẻ vang của dân tộc , thì đến Nguyễn Khoa Điềm lại như cánh chim lạc bầy khi chọn điểm nhìn
bằng những hình ảnh rất bình dị gần gũi để miêu tả đất nước. Ông là một trong những gương mặt tiêu
biểu của thế hệ nhà thơ trẻ trưởng thành thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước .Đoạn trích “ Đất
nước" là một bài thơ tiêu biểu được trích trung tập thơ “ Mặt đường khát vọng” , đây được xem như một
khúc tráng ca để nhân dân hòa vang thể hiện niềm tự hào về những gì nhân dân đã cống hiến cho đất
nước Đồng thời thông qua những vần thơ kết hợp giữa cảm xúc và suy nghĩ , trữ tình và chính luận .
Nguyễn Khoa Điềm muốn thức tỉnh ý thức, tinh thần dân tộc,tình cảm gắn bó với nhân dân, đất nước
của thế hệ trẻ trung những năm tháng kháng chiến gian khổ.

Trường ca " Mặt đường khát vọng" được tác giả sang tác và hoàn thành ở chiến khu Trị-Thiên vào năm
1971. Đoạn trích “ Đất nước" là phần đầu chương V của bản trường ca này . Đoạn trích là những suy
nghĩ của tác giả về đất nước được nhìn trên nhiều góc độ , với tư tưởng chủ đạo là “ Đất nước của nhân
dân". “ Thơ Nguyễn Khoa Điềm giàu chất suy tư , cảm xúc lắng đọng thể hiện tâm tư của người tri thức
tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu của nhân dân", có lẽ vì thế mà tư tưởng “ Đất nước của nhân dân"
được nhà thơ gửi gắm vào đứa con tinh thần của mình .

Đất nước vốn được xây dựng nên bởi những giá trị vĩnh hằng , được vun đắp và giữ gìn qua nhiều thế
hệ tiếp nối . Vì vậy mà mở đầu bài thơ tác giả đã lí giải về nguồn gốc của đất nước một cách đầy mới
mẻ nhưng cũng rất gần gũi, thân quen :
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa, ngày xưa... mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Túc mẹ thì bởi sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèn, cái cột thành tên...
Hạt gạn phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng
Đất nước có từ ngày đó...”
Câu thơ mộc mạc, chân thành giản dị như một lời trò chuyện từ sâu thẳm trái tim nhà thơ muốn gửi tới
người đọc. Danh từ “ Đất nước" ở đây được viết hoa tạo nên cảm giác thiêng liêng, thành kính từ đó mà
đất nước trong trái tim mỗi người càng trở nên thiêng liêng hơn cả .Cách nói “ Khi ta lớn lên" là để sự
trưởng thành của mỗi người,song song với đó là sự trưởng thành trung nhận thức . là ý thức trách
nhiệm của mình đối với quê hương, đất nước , nơi chôn rau cắt rốn của mình. Ba chữ “ đã có rồi" vừa là
lười khẳng định vừa bộc bạch niềm tự hào về sự trường tồn của đất nước của nhà thơ.

Chính những câu chuyện ấy càng làm ta thêm xao xuyến,bồi hồi, bồi đắp cho ta tình cảm với quê
hương , đất nước. Bởi truyện cổ tích nước ta mang đầy tính nhân văn , dân tộc , ấy vậy mà nhà thơ Lâm
Thị Mỹ Dạ cũng từng viết :
“Tôi yêu chuyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu sa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng tìm”
Đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm còn được thể hiện ở nét sống đơn giản nhưng đậm đà bản sắc
dân tộc của những người bà , người mẹ Việt Nam . Đó là tục ăn trầu, hình ảnh “miếng trầu" gợi lên mối
quan hệ tình nghĩa , truyền thống tốt đẹp của người dân nước ta. Trong các tục cúng lễ, miếng trầu , quả
cau là biểu tượng cho lòng thành của con cháu dâng lên tổ tiên, nó còn là biểu tượng của hôn nhân tình
yêu , gia đình, là mối quan hệ vợ chồng thủy chung son sắt.
Một đất nước không thể thiếu truyền thống và một trong những truyền thống quý báu của dân tộc ta là
truyền thống đánh giặc giữ nước “ đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre đánh giặc". Câu thơ gợi
nhắc cho ta nhớ đến truyền thuyết Thánh Gióng nhổ tre đánh giặc-một vẻ đẹp kiên cường bất khất của
con người Việt Nam.Hình ảnh cây tre cũng gợi lên những vẻ đẹp phẩm chất của nhân dân ta : thật thà ,
chất phác , kiên cường ,dũng cảm kiên quyết bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ.
Từ truyền thống đánh giặc ngoại xâm, tác giả lại tiếp tục khai thác thêm những nét đẹp thuần phong mỹ
tục của con người Việt Nam. Đó là vẻ đẹp giản dị của người phụ nữ khi “ búi tác sau đầu",ca dao xưa
cũng từng nhắc tới hình ảnh này :
“Tóc ngang lưng vừa chừng em bởi
Để chi dài cho rối lòng anh”
Đạo lí ân nghĩa ngàn đời của cha mẹ cũng được nhà thơ khén lén đưa vào bài thơ “ cha mẹ thương
nhau bằng gừng cay muối mặn" như một cách riêng để khẳng định tình nghĩa son sắt ấy là nguồn gốc
của mọi tình yêu thương , như suối nguồn chảy qua bao thế hệ.
Ngoài ra , câu thơ “ cái kèn cái cột thành lên” còn gợi nhắc đến một nền văn hóa của người Việt đó là
truyền thống làm nhà bằng kèo, cột . Đất nước ta với nền văn minh lúa nước cùng truyền thống cần cù
lao động “ một nắng hai sương" để làm ra hạt gạn trắng ngần , hình ảnh ấy đã gợi lên bao sự lam lũ,cơ
cực của người nông dân Việt Nam . Qua đó tác giả cũng khéo léo nhắc nhở thế hệ sau này về truyền
thống “ Uống nước nhớ nguồn", ăn hạt cơm dẻo thơm hôm nay phải biết nhớ ơn công lao của người làm
ra nó . Khép lại khổ thơ đầu . nhà thơ khẳn định sự ra đời của đất nước một cách đầy tự hào “ Đất nước
có từ ngày đó.." , ngày nào không cụ thể nhưng chắc chắn ngày đó là ngày ta có truyền thống, có phong
tục tập quán,có nền văn hóa riêng. Đoạn thơ được vận dụng khéo léo những chất liệu văn hóa dân gian
như phong tục ăn trầu, sự tích Thánh Gióng , nền văn minh lúa nước ... Nhà thơ cũng sang tạo nhuần
nhuyễn thành ngữ, ca dao tục ngữ cùng các biện pháp điệp từ,so sánh ... Tất cả đã tạo nên một đoạn
thơ đậm đà không gian văn hóa người Việt.

Cũng viết về những truyền thống của đất nước ta lại liên tưởng tới những vần thơ của nhà thơ Tố Hữu,
thế nhưng ông lại khai thác sâu hơn về truyền thống đánh giặc của nhân dân ta :
“Ta như thuở xưa thần Phù Đổng
Vụt lớn lên, đánh đuổi giặc Ân.
Sức nhân dân khoẻ như ngựa sắt
Chí căm thù rèn thép làm rơi
Lửa chiến đấu ta phun vào mặt
Lũ sát nhân cướp nước hại nòi.”
“ Chính chiều sâu của nhữn giá trị văn hóa đã tạo nên nét phong cách riêng làm nên gương mặt thơ
Nguyễn Khoa Điềm"( Nguyễn Văn Nam). Bởi lẽ vậy , ông cũng đã thể hiện những cảm xúc,suy tư để rồi
cắt nghĩa khái niệm đất nước mới mẻ từ nhiều phương diện như địa lí lịch sử văn hóa trong hai mươi
câu thơ tiếp theo một cách đầy đặc sắc .Ở sáu câu thơ đầu tác giả đã giải thích về đất nước theo lối
chiết tự đi từ cái riêng đến cái chung qua phương diện địa lý :
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm mát
Đất Nước là nơi ta hẹn hò
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc"
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi
Đất nước trong định nghĩa của nhà thơ không phải là thứ gì đó cao siêu .xa vời mà đơn giản đó là không
gian sinh hoạt gần gũi với mỗi người “ Đất là nơi anh đến trường", “ nước là nơi em tắm". Ở đây, tác giả
đã cắt nghĩa hai từ “ đất”, “nước" để xoáy sâu vào nhiều mặt của đất nước. Đất nước gắn liền với tuổi
thơ mỗi người, là con đường di học,là ngôi trường cung cấp hành trang tri thức tương lai là dòng sông ,
cánh đồng nương ngô... gần gũi,quen thuộc.
Không chỉ vậy.Đất nước còn gắn với tình yêu đôi lứa là chốn hẹn hò của những đôi uyên ương. “Nơi ta
hẹn hò” đó là không gian của làng quê thanh bình, là giếng nước gốc đa...tất cả hòa quyện hài hòa với
nhau . Nếu ở hai câu thơ trên Đất nước bị chia thành hai từ riêng biệt thì ở hai câu thơ tiếp theo đất
nước lại hòa lại làm một trở thành không gian hẹn hò,nâng bước , minh chứng cho tình yêu đôi lứa.Khi
hai người yêu nhau thì đất nước cũng cùng sống trong nỗi nhớ thầm của cả hai : “ Đất nước là nơi em
đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”, câu thơ mang đậm đặc trưng của ca dao xưa :
“Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai”

Vận dụng hình ảnh trong ca dao , nhà thơ đã ngầm khẳng định : đất nước cũng là nơi cất lên những câu
ca dao hằng ngày trong mỗi miền quê yên bình. Đó là một ý thơ đẹp,bởi lẽ mấy ai lớn lên từ vành nôi mà
không nghe những lời ru,những câu ca dao ngọt ngào của mẹ.
Năm câu thơ tiếp theo . Nguyễn Khoa Điềm đã lí giải sâu sắc hơn về đất nước trên phương diện địa lý :
“Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc"
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi"
Thời gian đằng đẳng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ”
Đất nước gắn với không gian tráng lệ mênh mông của một vùng lãnh thổ . Không chỉ mượn hình ảnh
trong ca dao quen thuộc,ở ý thơ trên tác giả tiếp tục sử dụng những câu dân ca Huế sâu lắng ,ý nhị như
“ con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc". “ con cá ngư ông móng nước biển khơi" để nêu quan
niệm về đất nước. Những hình ảnh ấy gợi cho ta liên tưởng về dãy Trường Sơn hùng vĩ , về Biển Đông
mênh mông ...tất cả tạo nên một đất nước giàu tài nguyên thiên nhiên, rừng vàng biển bạc .
Đất nước hùng vĩ ấy còn gắn với khần gian sinh tồn thiêng liêng của dân tộc là chiều dài thời gian “ đằng
đẵng" với bao thế hệ cha anh thay nhau nằm xuống bảo vệ , giữ gìn đất nước, toàn vẹn lãnh thổ.Lý
Thường Kiệt cũng đã nói :
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.”
Nhân dân ta từ bao đời nay đều có truyền thống yêu nước, đoàn kết gắn bú bảo vệ từng tấc đất tấc
vàng của nước non. Vốn là người có kiến thức am hiểu sâu rộng .cách lí giải của nhà thơ về đất nước
thật tinh tế , sâu sắc.
Vẫn theo mạch cảm xúc ấy , nhà thơ tiếp tục cắt nghĩa đất nước trên phương diện lịch sử , cội nguồn
văn hóa dân tộc qua những câu thơ tiếp theo :
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
“Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trung bọc trứng"
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ."

Tác giả nhấn mạnh dân tộc Việt Nam là nơi đất lành chim đậu , nơi có Rồng thiêng ngự trị, cá cội nguồn
lâu dài gắn với truyền thuyết dân gian . Đó là truyền thuyết “ Con Rồng cháu Tiên", từ đó ta càng tự hào
là con Rồng , cháu Tiên là con cháu Vua Hùng . Đất nước còn là sự tiếp nối giữa các thế hệ : quá khứ-
hiện tại – tương lai. “ Những ai đã khuất" là những người trung quá trình gây dựng đất nước đã anh
dũng hi sinh, “những ai bây giờ" trong hiện tại tương lai những thế hệ người dân cứ tiếp nối từ đời này
sang đời khác , tất cả đều ý thức sâu sắc về sứ mệnh của mình là phải bảo vệ dân tộc toàn vẹn. Hơn
hết đó là ý thức về trách nhiệm duy trì giống nòi, từ đó góp phần vào một nhiệm vụ to lớn thiêng liêng đó
là “gánh vác phần người đi trước để lại" thế hệ sau tiếp nối thế hệ trước những tinh hoa dân tộc và “ dặn
dò con cháu đời sau” , biết “ cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ". Hai chữ “ cúi đầu" thể hiện niềm thành kính ,
thiêng liêng mà cũng rất đỗi tự hào về truyền thống nguồn gốc cha ông ta. Người dân Việt Nam dù đi
khắp bốn phương nhưng trong tâm linh họ luôn có một mái nhà chung để quay về “ dù chim ham trái
chín ăn xa , thì cũng giật mình nhớ gốc cây đa lại về". Thành công của đoạn thơ là sự vận dụng khéo léo
chất văn hóa , văn học dân gian khiến cho hình tượng đất nước trở nên gần gũi giàu sức gợi cảm. Điểm
nổi bật ở nghệ thuật trong khổ thơ là lối giải thích khi tách danh từ đất nước thành hai yếu tố riêng khi lại
kết hợp để làm nổi bật lí giải sâu sắc hơn về nguồn gốc sự phát triển của đất nước , vừa cụ thể vừa khái
quát.
Khổ thơ tiếp theo . Nguyễn Khoa Điềm đã khơi dậy cho người đọc trách nhiệm đối với Đất nước trong
mỗi cá nhân , về mối quan hệ cá nhân , cộng đồng .sự tiếp nối của các thế hệ trong một đất nước :
“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bú và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm lên Đất Nước muôn đời...
Nhà thơ Sáng Hồng từng nhận xét: “ Thư là tình cảm,lí trí kết hợp một cách nhuần nhuyễn và có nghệ
thuật . Tình cảm và lí trí ấy được diễn đạt bằng những hình tượng đẹp đẽ qua những lời thơ trong sang
vang lên nhạc điệu khác thường” . qua những dòng thơ đầy trăn trở của Nguyễn Khoa Điềm ta thấy ở đó
không chỉ đơn thuần là những vần thơ mà còn là tư tưởng, cảm xúc tình cảm của tác giả. Tác giả đã gửi
gắm tâm tư của mình vào đất nước , đất nước trung “ anh và em" hôm nay . Vì sao “ trong anh và em"
lại có một phần của đất nước? Vì đất nước là nơi ta sinh ra, nơi ta lớn lên ,sinh hoạt và học tập là chủ
quyền lãnh thổ là máu thịt thiêng liêng của chúng ta.Vì vậy nên trong ta luôn có một phần của lãnh thổ .

Bốn câu thơ tiếp theo tiếp tục mở rộng ý cho những câu thơ đầu,ý thư được viết theo cấu trúc câu điều
kiện “ khi...đất nước" kết hợp với điệp ngữ “cầm tay"đã mag đến những ý nghĩa cao đẹp. Khi hai người
cầm tay nhau là lúc thấu hiểu được nhau.yêu thương ,san sẻ mọi khó khăn ngọt bùi với nhau .Nói cách
khác khi anh và em cầm tay là đã có sự giao thua cảm xúc , giao thoa giữa tình yêu đất nước giữa hai
trái tim.Ý thư gợi cho ta tinh thần đoàn két giữa con người với con người “ Một cây làm chẳng nên non ,
ba cây chụm lại nên hòn núi cao".Nhất là trong những năm tháng kháng chiến , đất nước bị chia cắt Bắc
–Nam thì cái “ cầm tay' giữa mọi người thật ý nghĩa biết ban . Sau khi nêu nhận thức về trách nhiệm của
mỗi cá nhân đối với đất nước, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm thể hiện niềm tin trọn vẹn của mình vào thế
hệ tương lai, những mầm non của đất nước . Ước mơ về thế hệ sáu , thế hệ tương lai sẽ “mang đất
nước đi xa"kế tụng phát huy nền tinh hoa văn hóa nước nhà là điều bất cứ ai cũng mong muốn.Lời nhắn
nhủ của tác giả như một lời mong ước tha thiết : hãy đưa đất nước tiến về phía trước , đến “những ngày
tháng mơ mộng” , tháng ngày tự do hòa bình...
Bốn câu thơ cuối nhà thơ tiếp tục đi sâu vào mối quan hệ giữa đất nước và tâm hồn con người, cũng là
trách nhiệm của người dân với đất nước.Cấu trúc thơ đầy suy luận “ Đất nước là.." là tiêu đề, từ tiêu đề
ấy “ phải biết..để làm nên". Câu thơ giàu suy luận nhưng không khôn khan,cứng nhắc.Các từ ngữ mang
tính biểu tượng cao “ máu xương”.“gắn bó”, “san sẻ”. “ hóa thân”, “dáng hình"...mang ý nghĩa ẩn dụ cho
sự hi sinh ,mất mát . Điệp từ “phải biết" cùng các động từ giàu biểu cảm , nhằm nhấn mạnh tinh thần tự
nguyện của ta đối với sứ mệnh đất nước.Những lời nhắn nhủ chân thành,tha thiết của nhà thơ Nguyễn
Khoa Điềm làm ta nhớ tới những câu thơ trong bài “ Khát vọng tuổi trẻ" đừng hỏi tổ quốc đã làm gì cho
ta mà phải hải ta đã làm gì cho Tổ quốc hôm nay". rồi lại day dứt với những khát vọng cống hiến trong
bài “ Tự nguyện":
Nếu là chim,tôi sẽ là loài bồ câu trắng
Nếu là hoa tôi sẽ là một đóa hướng dương
Nếu là mây tôi sẽ là một vầng mây ấm
Nếu là người,tôi sẽ chết cho quê hương
Tư tưởng Đất nước của nhân dân thực ra đã có một quá trình phát triển trong lịch sử dân tộc nói chung
và văn học nói riêng.Điều này đã được thể hiện qua nhiều cây bút tiêu biểu như Đất nước( Nguyễn Đình
Thi), đường tới thành phố ( Hữu Thỉnh)... thế nhưng khi đến với Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm, tư
tưởng đất nước của nhân dân mới thành tư tưởng chủ đạo. Tư tưởng ấy là cái nhìn đầy chiều sâu mang
tính phát hiện mới mẻ về không gian địa lý thiên nhiên,đất nước trở nên thiêng liêng hơn bao giờ hết
"Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hàn Trống Mái
Gút ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con vai góp mình dựng đất
Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên

Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc. Ông Trang. Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một an ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta"
Tám câu thơ đầu , tác giả đã nêu ra những địa danh, thắng cảnh in đậm trong dấu ấn lối sống của nhân
dân từ miền xuôi đến miền ngược : núi vọng Phu , hòn Trống Mái , vịnh Hạ Long ,đất tổ Hùng Vương và
những địa danh mang tên :
ông Đốc ,ông Trang , bà Đen , bà Điểm...đâu đâu cũng mang bóng hình nhân dân. Bằng biện pháp liệt
kê nhà thơ đã diễn tả hình ảnh nhân dân đã hóa thân thành các danh lam thắng cảnh tuyệt đẹp cho đất
nước thêm phần rũ nét.Trước tiên nhà thơ đưa chúng ta đến miền Bắc thân yêu với sự xuất hiện của núi
Vọng Phu , hàn Trống mái biểu tượng cho tình cảm vợ chồng thủy chung .son sắt , bất chấp sự khắc
nghiệt của thời gian. Ta quên sau được vẻ đẹp của người anh hùng Thánh Giáng với chứng tích " Trăm
ao đầm để lại" ở vùng đất Súc Sơn , thể hiện sự bất khuất tinh thần yêu nước nồng nàn khí phách anh
hùng của con người nước Nam . Hay phải nhắc tới quần thể núi non hùng vĩ chín mươi chín con voi"
bao quanh Hi cương – Phú Thọ nơi đền thờ vua Hùng ngự trị ..Tất cả đã nhắc nhở chúng ta về
truyền thống đánh giặc.yêu nước xây dựng, bảo vệ đất nước của cha ông . Ở miền Trung nhà thơ lại
đưa ta về mảnh đất Quảng Ngãi để chiêm ngưỡng “núi Bút non Nghiên" do những cậu học trò nghèo
dựng nên , đó là biểu tượng của truyền thống hiếu học do nhân dân ta góp nên cho đất nước bao tên
tuổi . Cuối cùng .Nguyễn Khoa Điềm đưa ta về vùng đất phía Nam với dòng sông Cửu Long hiền hòa ,
tươi đẹp : “ những con rồng nằm im dòng sông xanh thẳm", hay là “ ông Đốc, ông Trang,Bà đen , Bà
Điểm...” – tên đất , tên làng đều mang hình bóng của nhân dân ta đã góp phần xây dựng nên nét đẹp
văn hóa , truyền thống để con cháu mai sau chiêm ngưỡng và tự hào.
Từ đó tác giả đã đưa đến một kết luận: Nhân dân chính là người đã tạo dựng , đã đặt tên ghi dấu ấn vào
cuộc đời mỗi ngọn núi,mỗi dòng sông ,đặc biệt là họ đã hóa thân vào bóng hình đất nước như một sứ
mệnh thiêng liêng. Bóng dáng của nhân dân gắn liền với đất nước “và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò
bãi – Chẳng mang một dáng hình ,một an ước,một lối sống ông cha".Họ đã góp phần tạo nên những giá
trị văn hóa phong tục tập quán,truyền thống vẻ vang của dân tộc.Không chỉ đơn giản là đóng góp tên
tuổi mà ở đây là góp cả cuộc đời và số phận của mình .Ý thư tuy đơn giản mà lại vôn cùng sâu sắc
khiên người đọc hình dung đất nước một cách gần gũi, thân thuộc hơn.
Sau hi bày tỏ những suy tư về quan điểm “ Đất nước của nhân dân" thì nhà thơ tiếp tục nhìn vào chiều
dài lịch sử trong bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước của nhân dân ta đầy niềm tự hàn,thán phục. Ở
chín câu thơ tiếp theo.nhà thơ nhấn mạnh tới những con người vôn danh không tên không tuổi nhưng
đã tạo dựng nên đất nước yên bình như hôm nay :
Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn ngàn năm Đất Nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Mở đầu đọan trích tác giả đã sử dụng lời gọi đầy tâm tình “ em ơi em" như đi vào cảm xúc của tất cả mọi
người.
“Em” là nhân vật trữ tình không xác định , cũng có thể hiểu đây là sự phân thân của tác giả để độc thoại
với chính mình . Nhà thơ đang nhìn vào lịch sự bốn ngàn năm và tự hào về những côn gái những chàng
trai xung phong ra mặt trận mà thời nào cũng có.Cách dùng từ “ Năm tháng nào" và điệp từ “ người
người lớp lớp" chỉ ý thức nối tiếp nhau làm nên lịch sử dân tộc. Từ đó , nhà thơ rút ra quan niệm rằng :
những người làm nên lịch sử không chỉ là những anh hùng nổi tiếng mà còn là những người dân vô
danh , bình dị .Những phẩm chất đáng quý của họ hiện lên qua từng sự kiện lịch sử , họ “cần cù làm
lụng" , hay khi đất nước có giặc ngoại xâm thì họ vẫn sẵn sang xung phong đánh giặc
bảo vệ quê hương, đất nước .
Và “ ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh" làm ta liên tưởng đến hình ảnh Bà Trưng , Bà Triệu, chị
Vũ Thị Sáu, chị út Tịch..Tuy họ là những người con gái nhưng khi đất nước có giặc xâm lăng thì họ vẫn
đứng lên chống trả quyết liệt.Từ đó đã làm nên vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam “ giải việc nước,đảm
việc nhà”
Nhìn vào lịch sử nước ta ,nhà thơ đã không nhắc lại những vị Vua hùng mà những người được kể lại là
những người vô danh trong cuộc sống đời thường , nhưng họ lại góp phần làm nên một đất nước hòa
bình, tự do như hôm nay:
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ
Những em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trung bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Ở đây đối tượng mà nhà thơ nhắc tới là những “ người con gái,con trai” , điệp từ “ con gái- con trai"
được lặp lại ba lần đã nhấn mạnh vẻ đẹp tầm quan trọng của thế hệ trẻ thế hệ sẽ tiếp nối truyền thống
cha ông.Trung “ bốn nghìn lớp người" ấy . có vô số những con người “không ai nhớ mặt đặt tên" nhưng
công lao và sự nghiệp họ để lại là một phần của đất nước ngày nay.họ đã hóa thân vào đất nước như
một phần máu thịt. Đọc những câu thơ trên , ta lại nhớ tới những vần thơ của Nguyễn Đình Thi , cũng
viết về những con người không tên bất tử , góp phần tạo dựng đất nước
Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trung tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng núi về
Không những thế,những người vôn danh ,bình dị ấy còn giữ gìn và truyền lại cho các thế hệ sau mọi giá
trị văn hóa, văn minh tinh thần cũng như vật chất của đất nước, dân tộc :
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa cho mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hải trái
Ở đoạn thơ này, điệp từ “họ" cùng cách núi “ họ giữ”, “họ truyền", " họ đắp đập be bờ" cho thấy sự đóng
góp tích cực của nhân dân vì sự phát triển của đất nước .Chính nhân dân đã mang đến giá trị vật
chất,văn hóa tinh hoa của dân tộc từ nền văn minh lúa nước.Không chỉ vậy họ còn mang những giá trị
tinh thần quý báu “ họ truyền giọng điệu cho con tập núi", bảo vệ ngôn ngữ dân tộc .phong tục tập quán
nét đẹp quê hương trên mọi nẻo đường.Họ còn “gánh theo tên xã tên làng trong mỗi chuyến di dân" ,
động từ “gánh ở đây làm cho tình yêu quê hương đất nước trong trái tim nhân dân càng thêm tha
thiết.Nhân dân còn là những người sẵn sang đứng lên bảo vệ đất nước trước những thế lực xâm lăng:
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Cấu trúc hôn ứng “ có..thì” cùng cách điệp liên tiếp hai lần trong câu thơ với sự phối hợp các động từ
mạnh “ chống. vùng lên,đánh bại..." làm cho giọng thơ thêm khỏe khoắn,cương quyết,đanh thép.Qua
đoạn thơ Nguyễn Khoa Điềm đã ca ngợi vai trò của lịch sử bằng những hình ảnh thơ mộc mạc , giản dị
giọng thơ vừa tự sự vừa trữ tình khẳng định sức mạnh lớn lao của nhân dân trong sự nghiệp gây dựng
đất nước.
Có thể nói “ Đất nước" của Nguyễn Khoa Điềm là một khúc ca về sự nhận thức về nguồn gốc sâu xa
của đất nước,về tâm hồn ,ý chí của nhân dân . Ở mười câu thơ cuối tác giả lại càng khẳng định chắc
chắn hơn tư tưởng “ đất nước là của nhân dân”. Đất nước của ca dan thần thoại :
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèn đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi...
Một lần nữa tác giả lại đưa ra lời khẳng định chắc nịch “ đất nước này là đất nước của nhân dân"lời
khẳng định ấy là nguồn cảm hứng cho cả đoạn thơ nói riêng và cho đoạn trích “ Đất nước" nói chung . Ở
đó còn là tình cảm chân thành , mãnh liệt của nhà thơ đối với đất nước. Hơn ai hết nhà thơ hiểu rằng để
có được đất nước như ngày hôm nay thì nhân dân chính là những người đã đổ máu xương làm nên
hình hài của đất nước .Vì thế đất nước không của riêng ai mà là của nhân dân.

Câu thơ thứ hai nhà thơ tiếp tục khẳng định tư tưởng ấy một lần nữa,điệp cum từ "đất nước của nhân
dân" như càng nhấn mạnh về sứ mệnh thiêng liêng của nhân dân đối với đất nước. Không chỉ vậy, “ đất
nước của ca dao thần thoại" là hình ảnh hoán dụ cho văn hóa , dân gian mà văn hóa dân gian là sản
phẩm trực tiếp của trí tuệ dân gian là nơi lưu trữ tôn vinh vẻ đẹp tâm hồn tính cách của nhân dân. Chính
vì vậy nhà thơ thể hiện tư tưởng “ Đất nước của nhân dân" là hoàn toàn có căn cứ bởi đất nước được
tạo dựng được giữ gìn bảo vệ , tồn tại và phát triển ...là từ tình yêu và nỗi đau từ mồ hôi nước mắt của
những người thầm lặng . Qua ca dao thần thoại nhân dân đã đem đến và lưu truyền cho biết bao thế hệ
mai sau những bài học đạo lí sâu sắc “ dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi” . Điều này
khẳng định tình cảm giữa con người với con người ; yêu thương , đùm bọc che chở. Ở phương diện thứ
hai , nhà thơ đã nêu lên quan niệm sống đẹp “ Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội” . được lấy từ
ý ca dao:
Cầm vàng mà lội qua sông
Vàng rơi không tiếc tiếc công cầm vàng
Ở đời này còn có thứ quý hơn vàng bạc châu báu đó là tình nghĩa giữa con người với con người,bởi vậy
tình nghĩa cùn nặng hơn nhiều lần giá trị vật chất.Phương diện thứ ba nhà thơ nhắc tới tinh thần yêu
nước và bảo vệ non sông phải quyết liệt chống kẻ thù xâm lược “ trồng tre đánh giặc” đó là truyền thống
anh hùng , bất khuất của nhân dân ta từ thuở lập nước vẫn hiên ngang kiên cường Ý thư đã gợi lên biết
bao cuộc kháng chiến oanh liệt , trường kì của nhân” dân , thử hỏi nếu không có kiên trì,bền bỉ ,thì dân
tộc ta liệu có tồn tại và phát triển được như ngày hôm nay không ?
Chính vì vậy , bốn câu thơ cuối đã nhấn mạnh của nhân dân dưới mọi khó khăn thách thức cùng tinh
thần lạc quan sẽ đưa đất nước đi tới “ sánh vai với các cường quốc nam châu” :
Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi...
Câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm làm ta nhớ đến những điệu hò trên sông Mã , ca Huế trên sông Hương
hay đờn ca tài tử tha thiết trên sông Hậu ...và “dòng sông ấy" vừa có nghĩa là dòng sông quê hương, đất
nước cũng như chính là dòng sông văn hóa,lịch sử của 54 dân tộc an hem hòa vào nhau “ trăm
màu".Chính sự đa dạng và phong phú của văn hóa Việt Nam đã vun đắp phù sa qua bao thăng trầm để
làm nên một đất nước đậm đà bản sắc dân tộc .

Cả chương v của trường ca “ Mặt đường khát vọng" như được bao bọc bởi không khí của văn hóa dân
gian Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng khéo léo và linh hoạt các chất liệu văn hóa dân gian: từ ca dao tục
ngữ đến truyền thuyết,cổ tích ... những chất liệu ấy đã tạo nên một thế giới nghệ thuật vừa gần gũi.quen
thuộc vừa sâu sắc gợi nên hồn thiêng sông núi nước Nam.Có thể nói tư tưởng “ đất nước của nhân
dân" đã thấm nhuần từ quan niệm đến cảm xúc , từ hình tượng đến chi tiết nghệ thuật của bài thơ.

You might also like