You are on page 1of 25

ĐẤT NƯỚC

Leptonxtoi từng khẳng định: “Một tác phẩm nghệ thuật là sự


kết tinh của tình yêu”. Tình yêu tha thiết nhất, thiêng liêng nhất trong tâm
hồn mỗi chúng ta chính là tình yêu quê hương đất nước. Trong suy nghĩ của mỗi người, yêu
nước thường là một tình cảm lớn lao, xa vời, khó cảm nhận. Nếu như các nhà thơ cùng thời
thường chọn điểm nhìn về Đất Nước bằng những hình ảnh kỳ vĩ, mỹ lệ hay cảm hứng về lịch sử
qua các triều đại thì Nguyễn Khoa Điềm lại chọn điểm nhìn gần gũi, quen thuộc, bình dị để
miêu tả về Đất Nước. Đến với bài thơ “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm ta như đứng trước
muôn màu văn hóa, truyền thống, phong tục tươi đẹp vô ngần của dân tộc. Hình ảnh đất nước
hiện lên muôn màu muôn vẻ, sinh động lạ thường, lắng đọng trong tâm tưởng ta qua những nét
đẹp về phong tục tập quán, văn hóa, truyền thống mang đậm dấu ấn con người Việt. Trong đó
đoạn trích về …………… là hay nhất, nói về.

Nguyễn Khoa Điềm là người con xứ Huế. Sinh ra trong một gia đình trí thức, giàu truyền thống
yêu nước và tinh thần cách mạng. Ông học tập và trưởng thành ở miền Bắc, tham gia chiến đấu
và học tập ở miền Nam. Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ lớn, một nhà chính trị của Việt
Nam, ông là cây bút tiêu biểu cho thế hệ các nhà thơ trẻ thời chống Mĩ. Tác phẩm Đất nước viết
về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam về non sông đất nước, về sứ mệnh
thế hệ mình với quê hương đất nước. Đoạn trích nằm trong bài thơ Đất nước thuộc Trường
ca Mặt đường khát vọng hoàn thành ở chiến khu Trị – Thiên. Đoạn trích thuộc phần ….. nói
về……………………

 Nguồn gốc và các phương diện hợp thành Đất Nước:


a. Phân tích:
9 câu thơ đầu: Lý giải nguồn gốc của Đất Nước/ Đất Nước có từ bao giờ?
So sánh: Nếu những nhà thơ cùng thời điểm nhìn về Đất Nước bằng những hình ảnh kì vĩ, mĩ
lệ hay lấy nguồn cam hứng từ dòng lịch sử qua các triều đại thì nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm
lại như cánh chim lạc bầy khi ông chọn điểm nhìn từ hình ảnh quen thuộc, gần gũi, bình dị đê
miêu tả về Đất Nước. Đến với bài thơ “Đất Nước” cua NKĐ ta như đứng trước vườn hoa
muôn sắc về văn hóa, truyền thống, phong tục tươi đẹp vô ngần, sinh động lạ thường, mang
dậm dấu ấn của người dân nước Việt. Vẻ đẹp ấy được hiện lên sâu sắc nhất qua chín câu thơ
đầu cua bài thơ.

Đất Nước vốn là đề tài quen thuộc trong thơ ca, trở thành nguồn cảm hứng bất tận, khơi gợi
cảm xúc cho biết bao ngòi bút. Ở mỗi thời đại lịch sử, Đất Nước lại được định nghĩa theo
những quan niệm khác nhau. Đó là một Đất Nước thiêng liêng, hào sảng, trang trọng, mang
dáng vóc kỳ vĩ khó chạm tới trong thơ Lý Thường Kiệt:
"Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư"
Nguyễn Trãi trong "Bình Ngô đại cáo" cũng đã khẳng định sự tồn tại lâu đời của đất nước bằng
các yếu tố văn hóa, văn hiến, cương vực lãnh thổ, phong tục tập quán, sự hiện diện của các triều
đại lịch sử và những anh hùng hào kiệt:
"Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Nhưng khi đến với Đất Nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm, ta thấy đất nước mình bình dị và
thân quen, gần gũi đến lạ thường. Không chỉ vậy, nhà thơ còn đưa đến một cảm giác mới mẻ,
thấm thía và xúc động về Đất Nước trong quan hệ với cuộc sống của nhân dân dưới góc độ văn
hóa dân gian. "Đất Nước không phải là những gì trừu tượng, xa lạ, lớn lao mà là những gì rất
đỗi gần gũi, quen thuộc, gắn bó với đời sống và tinh thần của con người. "

* Thời điểm:
+ ngày xửa, ngày xưa: xác định
thời điểm xa xôi, không thể đưa
ra con số chính xác.
+ ngày đó (chỉ định từ): mang
tính chất tư duy tổng hợp khái
quát, từ những ngữ liệu văn hóa.
Câu thơ mở đầu được nhà thơ
viết theo thể câu khẳng định: “ Khi
ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”. Thể hiện niềm tự hào mãnh liệt về sự trường tồn của Đất
Nước qua mấy ngàn năm lịch sử. Câu thơ như lời khẳng định chắc nịch đóng đinh vào tâm
hồn tác giả và cả của người đọc; Đất Nước đã có từ rất lâu rồi và vẫn trường tồn đến ngày
hôm nay, qua biết bao thời kì dựng nước và giữ nước. Có lẽ, đó là niềm tự hào to lớn nhất
của nhà thơ cũng như của những con người Việt Nam máu đỏ da vàng.
Câu tiếp Vẻ đẹp của Đất Nước được diễn tả qua những phong tục tập quán trong cái nôi
thấm đẫm chiều sâu văn hóa: “ Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ
thường hay kể. Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn” Âm hưởng của những câu
chuyện cổ tích, thần thoại, truyền thuyết, ca dao, dân ca đã tạo nên một “khí quyển” dân gian
độc đáo, đầy quyến rũ của đoạn thơ, “Khí quyển” ấy tạo nên một không gian nghệ thuật gần
gũi đến bất ngờ. Đó là những câu chuyện kể của mẹ, “ngày xưa” là nhịp điệu ngàn đời của
lời kể cổ tích, có khả năng ngân vang trong tiềm thức của người Việt: người đọc lặng đi
trước cách định nghĩa về đất nước thật bất ngờ của Nguyễn Khoa Điềm bởi những câu
chuyện cổ tích vẫn luôn ăn sâu vào tiềm thức con người từ thuở ấu thơ đến khi trưởng thành,
đó còn là nguồn sữa ngọt lành để giúp ta lớn lên biết yêu thương đất nước con người. Nhà
thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã xúc động và viết nên:
“Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu vừa sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng gần”
Đất Nước lớn lao, kì vĩ sao lại chưa đựng trong một miếng trầu bé nhỏ? Hình thức câu thơ
dường như chưa đựng sự phi lí nhưng lại hoàn toàn hợp lí bởi tất cả những điều lớn lao đều
bắt nguồn từ những điều bé nhỏ. Câu thơ gợi nhớ về câu chuyện cổ tích “ Sự tích trầu cau”
được xem là xưa nhất trong những câu chuyện cổ. Miếng trầu là biểu tượng của tình yêu, là
biểu tượng tâm linh của người Việt. Từ phong tục ăn trầu, tục nhuộm răng đen cũng ra đời:
“Những cô hàng xén răng đen Cười như mùa thu tỏa nắng” Trong chín câu thơ đầu, Nguyễn
Khoa điềm đã chỉ ra rằng Đất Nước đã có từ rất lâu đời, gắn liền với những truyền thuyết,
cũng như những phong tục tập quán đặc trưng của người Việt Nam: “Đất Nước lớn lên khi
dân mình biết trồng tre mà đánh giặc. Tóc mẹ thì bởi sau đầu -> hình ảnh đẹp. Cha mẹ
thương nhau bằng gừng cay muối mặn Cái kèo, cái cột thành tên" -> lao động sản xuất, mái
ấm gia đình
Câu thơ tiếp theo, tác giả gợi nhắc đến sự nghiệp mở mang gây dựng luôn gắn liền với sự
nghiệp hy sinh và bảo vệ bờ cõi: “Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trống trẻ mà đánh
giặc". Câu thơ này tiếp tục gợi nhắc truyền thuyết Thánh Gióng vô cùng quen thuộc, nhắc
đến truyền thống yêu nước, bất khuất đứng lên chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Hình
tượng cây tre biểu trưng cho con người Việt Nam bất khuất, kiên cường, vươn thẳng lên để
đón lấy sự tự do: “tre giữ làng, giữ nước, giữ mãi nhà tranh, giữ đồng lúa chín...”. Hai chữ
“lớn lên” đã thể hiện sự trưởng thành của Đất Nước, hồi tưởng lại quá khứ quật cường của
dân tộc với những con người “chân trần chí thép”, những con người đang “dàn hàng ngang
gánh đất nước trên vai” như nhà thơ Tố Hữu đã từng ca ngợi: “Ta như thuở xưa thần Phù
Đổng Vụt lớn lên đánh đuổi giặc Ân Sức nhân dân khỏe như ngựa sắt Chí căm thù ta rèn
thép thành roi” Đất Nước và chúng ta đã cùng nhau gắn bó keo sơn, cùng nhau trải qua
những ngày diệt giặc để trưởng thành. Chao ôi, đó là thứ tình cảm thiêng liêng nhất của đời
người! Liên hệ với Tre việt Nam (nguyễn duy)
Thân gầy guộc, lá mong manh,
Mà sao nên lũy nên thành tre ơi?
Ở đâu tre cũng xanh tươi,
dù đất sỏi đất vôi bạc màu.
Sức sống mãnh liệt tạo nên vẻ đẹp choáng ngợp, ngợi ca tinh thần chiến đấu anh dũng của
ta.

- Từ truyền thống đánh giặc ngoại xâm Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục khai thác thêm nhiều yếu tố
mang vẻ đẹp thuần phong mỹ tục của con người Việt: “Tóc mẹ thì với sau đầu Cha mẹ thương
nhau bằng gừng cay muối mặn, Cái kèo, cái cột thành tên Hạt gạo phải một nắng hai sương xay,
giã, giần, sàng”
Đó là vẻ đẹp giản dị của người phụ nữ Việt Nam với phong tục “búi tóc sau đầu”, mặc dù cho
đã qua hàng ngàn năm bị phong kiến phương Bắc đô hộ, mấy chục năm trời Pháp thuộc, thế
nhưng cho đến khi Nguyễn Khoa điềm viết trường ca “Mặt đường khát vọng”, buí tóc ấy vẫn
giữ cho mình dáng vẻ ban đầu không đổi, vẫn kiên cường trụ vững sau gáy của người phụ nữ
Việt Nam. Đó còn là hình ảnh người mẹ “tóc bới sau đầu tần tảo, đảm đang”. Đây là hình ảnh
gợi lại cội nguồn của một dân tộc, một nét đặc thù của văn hóa Việt Nam với bới tóc thùy mị
của người phụ nữ: “Tóc ngang lưng vừa chừng em búi Để chi dài bối rối lòng anh” Câu thơ gợi
lên truyền thống coi trọng tình nghĩa vợ chồng và sự thủy chung son sắt. Trong cay đắng gian
nan của cuộc sống vất vả, nhọc nhằn thì cha mẹ lại càng gắn bó, khăng khít, chia ngọt sẻ bùi.
Càng trong những thử thách, gian lao thì vợ chồng lại càng trở nên thương yêu và gắn kết bền
chặt hơn với nhau.Ý thơ được toát lên từ những câu ca dao đẹp: “ Hai tay bưng chén muối đĩa
gừng Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau” Không chỉ vậy, Đất Nước còn ngời sáng bởi
đạo lí nghĩa tình thủy chung của đôi lứa. Dù trải qua bao sóng gió, cha mẹ vẫn thương nhau
"gừng cay muối mặn", không bao giờ thay đổi. Vì lẽ đó, muối - gừng trở thành biểu tượng cho
tình nghĩa gắn bó, thủy chung của vợ chồng.
"Tay bưng đĩa muối chén gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau."
hay
"Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta nghĩa nặng tình dày
Có xa nhau đi nữa cũng ba vạn
Sáu ngàn ngày cũng xa."
Đạo nghĩa vợ chồng ngàn năm chẳng rời. Một ngày nên duyên, cả đời ân tình không sao kể xiết.
Tình và nghĩa luôn đi cùng nhau, vợ chồng không chỉ có tình mà còn có nghĩa, gắn bó và
thương nhau trọn đời, như muôn lần muối vẫn mặn và gừng thì vẫn cay. Đây chính là truyền
thống tốt đẹp của đất nước mình tự bao đời.
Trong những câu thơ đầu tiên, nhà thơ đã sử dụng các từ xưng hô quen thuộc trong đời sống
mỗi người Việt, từ "mẹ", "bà", rồi "cha mẹ" - ta như được ở trong một sợi dây máu thịt gắn bó
bởi truyền thống, đều là "con Rồng cháu Tiên" cùng đoàn kết, thủy chung, yêu thương nhau
thành một truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc.

+ Từ cha mẹ thương nhau mới đi đến “Cái kèo cái cột thành tên”. Câu thơ gợi nhắc cho
người đọc nhớ đến tục làm nhà cổ của người Việt một cách vững chãi, bền chặt tránh được
mưa gió, thú dữ. Đó cũng là ngôi nhà tổ ấm cho mọi gia đình đoàn tụ bên nhau. Từ đó, tục
đặt tên con cái Kèo, cái Cột cũng ra đời.
+ Đâu chỉ có những vẻ đẹp trên, dân tộc ta còn có truyền thống lao động cần cù, chịu thương
chịu khó “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng”. Câu thơ gợi nhắc bài ca dao:
“Cày đồng đang buổi ban trưa Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày” Thành ngữ “Một nắng
hai sương” gợi nên sự cần cù chăm chỉ của cha ông ta. Để tạo ra được một bát cơm ngon,
những người nông dân phải “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời", làm việc quần quật và trải
qua rất nhiều công đoạn. Câu thơ này còn nhắc nhở chúng ta phải biết ơn những con người
cần mẫn làm ra thóc gạo, duy trì nền văn minh lúa nước:
- Câu thơ cuối cùng khép lại một câu khẳng định với niềm tự hào: Đất Nước có từ ngày đó.
“Ngày đó” là ngày nào ta không rõ nhưng chắc chắn ngày đó là ngày ta có truyền thống, có
phong tục tập quán, có văn hóa mà có văn hóa nghĩa là có đất nước. Đúng như lời Bác dặn
trước lúc đi xa “ Rằng muốn yêu tổ quốc mình, phải yêu những câu hát dân ca”. Dân ca, ca
dao là đặc trưng của văn hóa Việt Nam, muốn yêu Đất Nước trước hết phải yêu và quý trọng
văn hóa nước nhà. Bởi văn hóa chính là Đất Nước. Thật đáng quý, đáng tự hào biết bao lời
thơ dung dị, ngọt ngào của Nguyễn Khoa Điềm. Khác với các nhà thơ cùng thế hệ thường
tạo ra khoảng cách khá xa để chiêm ngưỡng và ngợi ca về đất nước với những ca từ, hình
ảnh kì vĩ, mĩ lệ và mang tính biểu tượng, Nguyễn Khoa Điềm đã lựa chọn điểm nhìn gần gũi
để miêu tả một đất nước tự nhiên, bình dị mà không kém phần thiêng liêng, tươi đẹp. Hình
ảnh đất nước trong chín câu thơ đầu được tái hiện qua nhiều góc độ, muôn màu muôn vẻ về
phong tục, tập quán, văn hóa, nét đẹp truyền thống mang đậm dấu ấn bản sắc của người
Việt.
Đất nước vốn là khái niệm không gian, đã được nhà thơ thời gian hoá, từ phạm trù khách
quan, chuyển hoá thành chủ quan: Đất Nước kết tinh, hoá thân trong cuộc sống của mỗi con
người. Thành công của đoạn thơ trên là nhờ vào việc lựa chọn thể thơ tự do, phóng khoáng
không bị bó buộc về số chữ trong một câu, số câu trong một bài vừa tạo ra nét độc đáo về
hình thức cho bài thơ, vừa là cơ hội để dòng chảy của cảm xúc được phát triển một cách tự
nhiên. Sử dụng các chất liệu văn hóa dân gian với đa dạng các thể loại: từ phong tục - tập
quán sinh hoạt của nhân dân đến các thể loại của văn học dân gian như cadao - dân ca,
truyện cổ tích, truyền thuyết, sự tích,...Điều đặc biệt là tác giả sử dụng một cách sáng tạo,
không trích dẫn nguyên văn mà chỉ trích một vài từ nhưng người đọc cũng có thể hiểu về thi
liệu dân gian ấy. Giọng thơ trữ tình - chính luận, là sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy
tư sâu lắng của người trí thức về đất nước và con người. Lời thơ nhẹ nhàng đúng chất giọng
thủ thỉ tâm tình nhưng vẫn mang đậm hồn thơ triết lí.
“Nếu như trong thơ Nguyễn Đình Thi, hình ảnh đất nước hào hoa, kiêu hãnh, lãng mạn và
tràn đầy sức sống thì trong thơ Nguyễn Khoa Điềm hình ảnh đất nước lại giàu có về văn hóa,
là sức mạnh của chân lý.” Với những thi liệu dân gian đậm đà chất thơ, được kết hợp độc
đáo với những suy nghĩ giàu chất trí tuệ đã khiến cho Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm sẽ
mãi lưu dấu ấn sâu đậm trong lòng mỗi bạn đọc như một bài ca bất hủ không bao giờ quên.
Và tác giả cũng đã góp phần làm tư tưởng đất nước của nhân dân trở lên phong phú hơn
trong thơ ca thời kỳ chống Mỹ.
=> Sử dụng dày đặc hệ thống thi liệu văn hóa dân gian gợi liên tưởng nên văn hóa Việt Nam
lâu đời, phong phú, giàu bản sắc. Đồng thời là một trong những phương thức tạo dựng nền
tảng văn hóa cơ bản, từ đó kêu gọi giới trẻ quay trở về cội nguồn, khắc phục lối sùng ngoại,
vong bản (mất gốc) => từ đó cho thấy tầm hiểu biết, tri thức văn hóa sâu rộng của tác giả.
- Đất Nước: + điệp nhiều lần => nhấn mạnh, tạo ấn tượng khắc họa nên chiều sâu, nhắc nhở
đặt Đất Nước vào vị trí trung tâm. Phần lớn đứng ở vị trí đầu câu như một lời thúc giục, thôi
thúc giới trẻ đưa Đất Nước lên mối quan tâm hàng đầu.
+ được viết hoa, khẳng định sự duy nhất, riêng biệt không lặp lại => thể hiện tông trọng,
ngời ca, ngưỡng mộ => không thể sánh đôi. => Ngôn ngữ bình dị - hiện đại để phù hợp với
đối tượng tiếp nhận – giới trẻ đô thị vùng tạm chiến miền Nam. Tác dụng rút ngắn khoảng
cách giữa đất nước với mỗi người. Đất nước không chỉ kì vĩ thiêng liêng mà còn gần gũi,
sinh động.
b. Phân tích Đất Nước trên phương diện địa lí:

Trước hết, Đất Nước được đặt trong chiều rộng mênh mông của không gian địa lý. Với suy luận
của tuổi trẻ, nhà thơ đã chia cắt Đất Nước thành 2 thành tố Đất và Nước để suy ngẫm và chiêm
nghiệm cho sâu sắc. Mở đầu đoạn thơ này là định nghĩa về "Đất" thật khác biệt:
"Đất là nơi anh đến trường"
"Đất" là con đường đưa anh đến trường, mở ra một không gian cụ thể của Đất Nước. Những
ngôi trường học thân quen là nơi gắn bó với mỗi con người, nơi ta cảm nhận được bao tình
thương mến của thầy cô, bạn bè, cung cấp cho ta chân trời tri thức rộng mở để chắp cánh cho
bao ước mơ, khát vọng bay cao, bay xa.
Khái niệm về "Nước" còn gây nhiều bất ngờ hơn:
"Nước là nơi em tắm"
Hình ảnh "giếng nước gốc đa" đâu đó hiện lên, gợi người đọc liên tưởng đến quê hương, đến
làng xóm, những ngõ quanh co rợp mát bóng tre làng, và cả giếng nước ở đầu làng. "Nước" là
nơi em tắm, hình ảnh bình dị thân thuộc của làng quê gợi lên những con sông quê hương bên lở
bên bồi, mang phù sa bồi đắp cho những cánh đồng châu thổ làm nên một vùng văn hóa xứ sở.
Đó còn là dòng sông đã tắm mát tuổi thơ, để con người được đẫm mình trong không gian trong
trẻo, yên bình của thiên nhiên. Và kỷ niệm của một thời thơ ấu cứ thế lặng lẽ theo ta cho đến hết
cuộc đời.
Hình ảnh "Đất" và "Nước" song hành với nhau, như anh và em gắn bó, và Đất Nước không chỉ
là không gian sinh hoạt hàng ngày nuôi dưỡng tâm hồn, thể chất mà còn là nơi in dấu bao kỉ
niệm của tình yêu đôi lứa.
"Đất Nước là nơi ta hẹn hò"
Bằng lăng kính của tình yêu đôi lứa nở rộ và rực rỡ nhất, Đất Nước trở thành không gian riêng
tư của anh và em, là nơi ta hẹn hò với bao bồn chồn, bâng khuâng, xao xuyến. Đó là nơi anh
nắm tay em nói những lời yêu thương trong bao vụng về, e ngại, khởi đầu cho một tình yêu đầu
đẹp đẽ. Tác giả đã cho thấy đây chính là biểu tượng cho sự thống nhất, hòa quyện giữa các yếu
tố "Đất" và "Nước", của anh và em, hợp thành một chỉnh thể, không thể thiếu một trong hai, gợi
lên một chiều sâu suy tưởng: Đất Nước là sự thống nhất giữa cái chung và cái riêng, cộng đồng
và cá nhân, to lớn và nhỏ bé, hiện thực và huyền thoại... gắn bó bền chặt không thể tách rời.
Với con mắt của tuổi trẻ, Đất Nước là cõi mộng với những kỉ niệm dịu ngọt của tình yêu,
"Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm"
"Đất Nước là nơi" - cụm từ này được điệp lại như một sự nhắc nhở và khẳng định, rằng từng
chút một trong sự lớn lên của tình yêu đôi lứa đều quyện hòa vào trong Đất Nước. Là nơi dung
chứa tình yêu của anh, của em, của đôi mình, là nơi "em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ
thầm", nơi để em chia sẻ những nỗi niềm, suy tư, trăn trở thầm kín của tình yêu. Hình ảnh chiếc
khăn đã trở thành một biểu tượng của tình yêu, chuyên chở tâm trạng của người con gái khi yêu.
"Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
Khăn thương nhớ ai
Khăn chùi nước mắt."
Hay hình ảnh chiếc khăn còn đi vào thơ Phan Thị Thanh Nhàn thật tinh tế:
"Giấu một chùm hoa sau chiếc khăn tay
Cô gái ngập ngừng sang nhà hàng xóm,
Bên ấy có người ngày mai ra trận."
(Hương thầm)
Ở câu thơ này, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm muốn nhắn nhủ về sự đan cài giữa tinh yêu cá nhân
với tình yêu đất nước, tuy hai mà một. Bởi chính những chàng trai, cô gái trẻ sẽ góp công xây
dựng đất nước, cống hiến cho dân tộc, và sự kết hợp của họ, tình yêu của họ sẽ thổi bùng sức
sống của đất nước, tô đẹp non sông gấm vóc Việt Nam và làm phong phú cuộc sống mỗi người.
Bằng việc sử dụng những chất liệu văn hóa dân gian như ca dao, các hình ảnh đặc trưng của quê
hương, thôn xóm, bản làng nước Việt, nhà thơ của "Đất Nước" đã gợi ra cho độc giả những
cách hiểu mới, cách cảm nhận mới về đất nước mình đang sống. Các biện pháp nghệ thuật như
điệp ngữ, phép chiết tự đã được vận dụng tinh tế, đem lại sự lý giải vừa như tâm tình, vừa rất
hợp lý và thuyết phục.
Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, Đất Nước còn là những vẻ đẹp từ thiên nhiên, từ những hình
ảnh đặc trưng trong câu ca dao:
"Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc
Nước là nơi con cá ngư ông móng nước biển khơi."
Lên núi rồi xuống biển, một lần nữa khái niệm Đất Nước lại được phân tách và lý giải sống
động. Hình ảnh chim phượng hoàng và cá ngư ông là một hình ảnh nổi bật trong ca dao xưa:
"Con chim phượng hoàng bay ngang hòn núi Bạc
Con cá ngư ông móng nước ngoài khơi
Gặp nhau đây xin phân tỏ đôi lời
Kẻo mai kia con cá về sông vịnh
Con chim nọ đổi dời về non xanh."
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã tiếp tục khơi sâu chất liệu của văn học dân gian, lấy ý tưởng từ
những câu hò Bình - Trị - Thiên vẽ nên một bức tranh Đất Nước giàu đẹp với núi sông hùng vĩ,
bát ngát biển khơi. "Đất lành chim đậu" là những hình ảnh đa dạng, phong phú của chim, của cá
tượng trưng cho sự thịnh vượng và trù phú của nước Việt. Quan hệ đoàn tụ của chim và cá gắn
liền với sự hài hòa giữa Đất và Nước. Nhà thơ đã kể tên những tài nguyên của Đất Nước trong
cảm hứng hào sảng, tự hào để thức tỉnh mỗi chúng ta ý thức bảo vệ và giữ gìn những vẻ đẹo
huy hoàng, tươi đẹp vốn có của quê hương.
"Dường như không gian Đất Nước còn là không gian tinh thần, là nơi trở về của những tâm hồn
yêu quê hương." Cũng như con chim phượng hoàng bay về núi, con cá ngư ông về với biển
khơi, mỗi con người cũng luôn hướng về cội nguồn Đất Nước. "Quê hương nếu ai không nhớ,
sẽ không lớn nổi thành người". Đất Nước trở thành nơi thiêng liêng gắn bó máu thịt với mỗi
chúng ta như "chim có tổ, người có tông".
Và trên hết, không gian Đất Nước là "nơi dân mình đoàn tụ", là không gian sinh tồn của cả cộng
đồng:
"Không gian mênh mông
Đất nước là nơi dân mình đoàn tụ"
"Không gian mênh mông" của Đất Nước rộng lớn với núi sông bờ cõi, với Bắc - Trung - Nam
một dải nối liền, là con đường anh đến trường, là dòng sông em tắm, là giếng nước, ao làng, là
rừng vàng biển bạc bao la. Không gian ấy trở thành ngôi nhà chung của đại gia đình Việt Nam
qua bao thế hệ, là cội nguồn, quê hương tinh thần của mỗi con người. Trải qua sự dai dẳng của
thời gian 'đằng đẵng", qua bao sóng gió, dân mình được đoàn tụ, quây quần. Đó là sự hội ngộ
sau những ngày tháng gian khổ, hay cũng chính là sự trở về với Tổ tiên, tất cả đều được đoàn tụ
trong chiều rộng không gian và chiều dài thời gian của Đất Nước. 54 dân tộc anh em cùng sinh
sống trên một dải đất hình chữ S, cùng sẻ chia Đất Nước và góp phần gìn giữ, xây dựng và phát
triển Đất Nước không ngừng. Đất Nước không nhỏ bé riêng tư mà là nơi sinh tồn của cả cộng
đồng dân tộc. Từ "dân mình" thật gần gũi, thân thiết, như thể tất cả chúng ta đều cùng chung
một gia đình, đều là ruột thịt. Câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm thật có sức gợi làm nao lòng
người.

c. Phân tích Đất Nước trên phương diện lịch sử: “Đất là nơi Chim về…Làm nên Đất
Nước muôn đời…”
*Đất Nước gắn với cội nguồn
‘Đất là nơi Chim về Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ Đẻ ra đồng
bào ta trong bọc trứng’
Dẫn dắt: Nếu ở đoạn thơ trước tác giả
bóc tách Đất Nước thành hai thành tố để
định nghĩ rồi lại quy hợp lại, để khẳng
định cho việc Đất Nước Việt Nam dù có
bị chia cắt thi sau cùng vẫn sẽ là một
quần thể thống nhất trên bản đồ thế giới
với hai tiếng “Việt Nam” hô vang. Vẫn
theo dòng cảm xúc suy tưởng, nhà thơ tiếp tục cắt nghĩa khái niệm Đất Nước ở phương diện
lịch sử, cội nguồn văn hóa dân tộc, đó là sự tiếp nối giữa các thế hệ từ quá khứ, hiện tại đến
tương lai.
- Tác giả nhấn mạnh dân tộc Việt Nam là nơi “đất lành chim đậu”, nơi có rồng thiêng “thăng
long” ngự tị, có cội nguồn lâu đời, gắn với truyền thuyết dân gian mà không một ai trên
mảnh đất hình chữ S thân thương này mà không nhớ. Đó là truyền thuyết “Con Rồng Cháu
Tiên”, Lạc Long Quân và Âu Cơ đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng. => Điều đó nhằm lí giải
nguồn gốc của người Việt, tất cả đều là anh em một nhà, dù có lên rừng hay xuống biển thì
nguồn cội từ xa xưa vẫn được đẻ ra từ trong một “bọc trứng”.
=> Qua đó, NKĐ thể hiện một niềm tự hào sâu sắc về mảnh đất “địa kinh nhân kiệt”; tự hào
mình là con Rông, cháu Tiên, là con cháu vua Hùng. => Những câu thơ như thôi thúc lòng
đoàn kết thương yêu, đùm bọc của nhân dân ta. Đó là bức thông điệp xanh nhà thơ muốn gửi
đến bạn đọc.
+ Ngôn ngữ bình dị, đời thường, mang màu sắc thuần Việt => dễ dàng được giới tre tiếp
nhận. => Thức tỉnh giới tre miền Nam thoát khỏi âm mưu thâm độc và lối sống thực dụng,
đòi hỏi cách ứng xử cao quý, xứng đáng với cội nguồn
* Đất Nước là sự tiếp nối giữa các thế hệ:
quá khứ - hiện tại - tương lai: “Những ai đã khuất Những ai bây giờ Yêu nhau và sinh con đẻ
cái Gánh vác phần người đi trước để lại Dặn dò con cháu chuyện mai sau Hằng năm ăn đâu làm
đâu Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”.
- “Những ai đã khuất” là những người trong quá khứ - những con người sống giản dị/ bình dị vô
danh, chết bình tâm, những con người đã có công dựng nước và phát triển đất nước.
- “Những ai bây giờ” là những người ở hiện tại, đang sống và chiến đấu.
- Tất cả đều ý thức được sứ mệnh “ Yêu nhau và sinh con đẻ cái/ Gánh vác phần người đi trước
để lại /Dặn dò con cháu chuyện mai sau”: người đọc ngỡ ngàng với điều tưởng chừng như giản
đơn ấy mà NKĐ lại cho rằng đó là nghĩa vụ/ sứ mệnh của nhân dân. Nếu như chúng ta nhìn
nhận vấn đề mang tính thời sự thì thấy nhà thơ đã sâu sắc vô cùng khi đã đi trước thời đại, cho
đến tận hôm nay vấn đề này vẫn còn mang tính chất nóng hổi.
+ “Yêu nhau và sinh con đẻ cái”: vốn như một quyền lợi thiêng liêng của mỗi con người lại là
nghĩa vụ của công dân đối với đất nước =>Nếu không có tình yêu lứa đôi, kết hoa thành tình
cảm gia đình và cho trái quả ngọt là những đứa con thân yêu thì một dân tộc liệu có thể trường
tồn hay không, hay nó sẽ đứng trên bờ vực của sự lụi tàn. Một chân lí quá đỗi giản đơn nhưng
mấy ai hiểu thấu, NKĐ đã đánh thứctrách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi thiêng liêng này của
nhân dân để tạo nên sức mạnh của dân tộc
+ “Gánh vác phần người đi trước để lại/ Dặn dò con cháu chuyện mai sau: đây là trách nhiệm
cầu nối, là sự gắn kết quá khứ và tương lai của những người đang sống trong hiện tại. Họ sẽ là
những người làm nốt những công việc còn dang dở của thế hệ đi trước. Và phải dặn dò, khuyên
bảo con cháu, những thế hệ mai sau hãy tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp của các thế hệ
cha anh, làm cho những truyền thống ấy ngày càng trường tồn, phát triển.
+ Gắn kết vào thời điểm hiện tại thì dân tộc ta đang trong cuộc chiến chống Mĩ, những thế hệ
cha ông đã bao người đổ máu,đã ngã xuống cho độc lập tự do của tổ quốc,nhưng cho đến thời
điểm đó công cuộc này còn đang dang dở, thậm chí tình hình cuộc chiến đang trong thế nước
sôi, lửa bỏng. Vậy nên điều NKĐ muốn nói với thế hệ trẻ thanh niên của miền Nam hãy đứng
lên, tiếp bước cha anh,đứng lên đánh đuổi quân thù để không phải hổ thẹn với cha anh.Đồng
thời nếu họ ngã xuống khi tuổi đời còn xanh,khi nhiệm vụ chưa hoàn thành thì họ hãy yên
tâm,bởi hậu thế mai sau sẽ tiếp bước làm nốt những việc còn dang dở.
=> Một dòng chảy lịch sử của dân tộc đang tuôn chảy trong từng câu từ, đang thấm dần vào tâm
hồn thế hệ trẻ, và chúng ta tin rằng họ đã được đánh thức, vì kết qủa cuộc kháng chiến đã là
minh chứng hùng hồn cho điều đó, bới không có minh chứng nào hùng hồn hơn thực tế lịch sử.
* Hai câu thơ cuối, nét văn hóa gắn với nững quan niệm, phong tục, tập quán kết tinh vẻ đẹp
tâm hồn của nhân dân
- Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Khoa Điềm gợi lại truyền thuyết Hùng Vương và ngày giỗ
tổ: “Hàng năm ăn đâu làm đâu Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”
- Phải chăng điều nhà thơ muốn nhắc nhở mọi người là nhớ về cội nguồn của dân tộc. Dù bôn
ba chốn nào, người dân Việt Nam cũng đều hướng về đất tổ, nhớ đến dòng giống Rồng Tiên
của mình. Nhắc đến chuyện xưa ấy như để khẳng định, cũng là để nhắc nhở, không khác nào
câu ca: “Dù ai đi ngược về xuôi Nhớ ngày giỗ tổ mồng mười tháng ba”
- Nhớ về nguồn cội quê hương, dân tộc cũng chính là cốt lõi sức mạnh trong tâm khảm mỗi con
người. Đó là tình cảm thiêng liêng làm cho chúng ta trưởng thành. “ Quê hương mỗi người chỉ
một Như là chỉ một mẹ thôi Quê hương nếu ai không nhớ Sẽ không lớn nổi thành người”
=> Vậy là những người đọc hôm nay đã hiểu phải làm gì, làm như thế nào và làm như vậy sẽ
được kết quả gì. Những điều tưởng như quá khô khan, lớn lao và cứng nhắc của vấn đề chính trị
nhưng đã được NKĐ mềm hóa qua những vần thơ giản dị, dễ hiểu và dễ đi vào lòng người.
Chất trữ tình chính trị cứ ngọt ngào và lắng sâu tạo nên sức truyền cảm cho bản trường ca về
ĐN.
=> Xuất phát từ trái tim chân thành và tình yêu quê hương DDN sâu năng, nhà thơ NKĐ đã
mang đến những khái niệm rất mới me, rất cụ thê nhung cũng rất gần gũi, thân thuộc với mỗi
con người Việt Nam. Thành công của đoạn thơ là sự vận dụng khéo léo chất liệu văn hóa, văn
học dân gian khiến cho hình tượng Đất Nước trở nên gần gũi, giàu sức gợi cảm. Điểm nổi bật
nhất về nghệ thuật trong đoạn thơ là lối giải thích: khi thì tách danh từ Đn thành hai thành tố
riêng rẽ, khi lại kết hợ lại để giải thích, khiến cho việc lí giải về Đất Nước càng trở nên sâu sắc.

* đất nước trộn lẫn dung hòa và Trách nhiệm của chúng ta ngày nay đối với Đất Nước:

 Đất Nước là sự thống nhất giữa cái riêng và nét chung, trộn lẫn dung hòa; Đất Nước
chính là "máu xương của mình", mỗi người phải có trách nhiệm với Đất Nước

Trong anh và em hôm nay


Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn to lớn
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất nước vẹn tròn, to lớn

6 câu thơ: nhà thơ diễn giải mối quan hệ giữa con người và ĐN, đó chính là mối quan hệ giữa
cá nhân và cộng đồng, giữa cái riêng và cái chung.
Dẫn dắt: Nếu như ở đoạn trước đó, tác giả nhìn nhận ĐN từ bề dày văn hóa dân tộc hàng nghìn
năm, thì ở đây lại là những suy nghĩ về Đất Nước từ cuộc sống hiện tại trong các mối quan hệ
riêng - chung, cá nhân - cộng đồng, sự tiếp nối giữa các thế hệ.
- Trước hết, Đất Nước gắn liền với tình yêu đôi lứa, với mỗi cá nhân. Câu thơ như lời bộc bạch
của đôi lứa khi cảm nhận thấy tình yêu ĐN cháy bỏng, đang chảy trong máu xương cốt tủy của
mình : Trong anh và em hôm nay Đều có một phần Đất Nước
- So sánh: Lâu nay, trong suy nghĩ của nhiều người, đất nước, quê hương, tổ quốc, dân tộc...
luôn là những khái niệm trừu tượng. Với nhà thơ trẻ đang đối mặt với cuộc chiến tranh khốc liệt
một mất một còn, đất nước gần gũi, thân thiết. Điều này chưa hẳn đã mới, trong ca dao, dân ca
có không ít những câu hát như thế: Anh đi anh nhớ quê nhà Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm
tương Nhớ ai dãi nắng dầm sương Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao.
Quê hương là tất cả những gì gắn bó ruột rà với con người. Đó là nơi ta yêu tha thiết. Song, cái
mới ở khổ thơ của Nguyễn Khoa Điềm là Đất Nước ở trong mỗi một con người, Đất Nước ở
trong ta: cách nói khẳng định một điều tất yếu, dĩ nhiên từ đó cho thấy ĐN hóa thân trong cuộc
sống của mỗi người.
* Đất Nước gắn với mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể:
- ĐN trong sự gắn kết của mọi người. Nên để ĐN ấy trọn vẹn thì : Khi hai đứa cầm tay Đất
Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm Khi chúng ta cầm tay mọi người Đất nước vẹn tròn,
to lớn
- Cấu trúc câu điều kiện: “ Khi … Đất Nước…”
+ điệp ngữ “cầm tay” : hành động bình dị của lứa đôi, mang đến những ý nghĩa cao đẹo, nó thể
hiện một tình cảm đẹp. Liên hệ Việt Bắc khổ hai: “ Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
+ Khi hai đứa “cầm tay” là khi hai đứa hiểu nhau, yêu thương nhau và Đất Nước từ đây cũng
như đẹp hơn, hài hòa, “nồng thắm” hơn.
=> ĐN vẫn đang là một không gian nhỏ hẹp, đậm chất riêng tư
+ Sử dụng các tính từ vô cùng gợi cảm biến những cảm xúc lớn thành gần gũi tiêu biểu cho chất
trữ tình chính trị của tác giả.
+ Khi chúng ta “cầm tay” mọi người , đây là một sự vươn xa, sự lớn dậy của cái tôi cá nhân. Vì
thế “anh và em” đã mở rộng tình yêu đến “mọi người”
Liên hệ: Ý thơ gợi cho ta tinh thần đoàn kết giữa con người với con người “Một cây làm chẳng
nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao”. Nhất là trong những năm tháng kháng chiến, ĐN bị
chia cắt Bắc-Nam thì “cầm tay” giữa mọi người thật ý nghĩa biết bao.
3 câu thơ tiếp, nhà thơ hướng về thế hệ tương lai - thế hệ mầm măng
- Sau khi nêu nhận thức về trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với ĐN, nhà thơ thể hiện niềm tin
trọn vẹn của mình vào thế hệ tương lai, những mầm non của ĐN:
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
- Hai từ “lớn lên”: thể hiện ước nguyện của tuổi trẻ hôm nay và mai sau sẽ trưởng thành toàn
vẹn cả về ngoại hình và trí tuệ, có kiến thức, trí tuệ, đủ sức, đử tài để tiếp cận những KHKT tiên
tiến của nhân loại, góp công sức mình cho sự phát triển của dân tộc. Để cho đn tiến xa hơn nữa
trên xa lộ phát triển của thế giới. Thực hiện ước mong của vị lãnh tụ vĩ đại kính yêu của dân
tộc, đưa ĐN “bước lên đài vinh quang, sánh vai với các cường quốc, năm châu”.
- Cụm từ “đi xa, những tháng ngày mơ mộng” như một ẩn dụ nói lên khát vọng chính đáng về
sự lớn mạnh, trường tồn, phát triển của ĐN trong tương lai => cảm hứng lãng mạn (Liên hệ
Việt Bắc khổ 8 Tin vui chiến thắng trăm miền/ Hào Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về/ Vui từ
Đồng Tháo, An Khê/ Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.) => Đó không chỉ là niềm mong mỏi
của nhà thơ NKĐ, mà còn là ước mong của hàng triệu người dân Việt Nam.
4 câu thơ cuối, nhà thơ tiếp tục đi sâu vào mối quan hệ giữa Đất Nước với tâm hồn con người.
Với giọng thơ nhắn nhủ, tâm tình như nhắc nhở thế hệ sau.
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…
- Lời nhắn nhủ nhẹ nhàng và cảm động với lối so sánh thật gần gũi, quen thuộc:Đất Nước là
một phần không thể thiếu trong anh và em, quý như máu như xương cấu thành đang chảy trong
cơ thể này. “Máu xương” là hình ảnh ẩn dụ chỉ sự hi sinh, mất mát.
- Vì “Đất Nước” này mà đã biết bao con người nằm xuống trong các cuộc đấu tranh chống
ngoại xâm đẫm máu, trong lịch sử hình thành. Lời thơ giản dị những rất đỗi chân thành thiêng
liêng!
- Điệp ngữ “Phải biết..” được nhắc đi nhắc lại như chạm khắc vào trong tim người đọc. Các từ
“gắn bó”, “san sẻ”; “hóa thân” giàu sức gợi cảm: “gắn bó” là gắn kết yêu thương, quan hệ mật
thiết với nhau, cùng nhau chia bùi sẻ ngọt.
- Từ gắn bó mà “san sẻ”, san trách nhiệm, san niềm vui nỗi buồn; “hóa thân” là dâng hiến cho
quê hương, cho Đất Nước.
Với quan niệm xưa, “hóa thân” là hóa tâm hồn mình vào những hình sông thế núi như núi Vọng
Phu, hòn Trống Mái, núi Bà Đen, Bà Điểm… Nhưng trong thời mới, “hóa thân” là cống hiến,
hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc: Là tự nguyện dâng hiến một phần sức lực, niềm say
mê, sự sáng tạo nhỏ bé của mình cho niềm vui quang của Tổ Quốc.

Những câu thơ tiếp theo đã thể hiện niềm tin vào tương lai của Đất Nước với một viễn cảnh
tươi sáng, huy hoàng:
"Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng."
Các từ ngữ "mai này", "lớn lên", "đi xa" trong tháng ngày mơ mộng đã cho thấy cái nhìn tích
cực về một tương lai tốt đẹp, một hành trình chinh phục ước mơ thật đẹp đẽ. Lời nhắn nhủ chân
thành, thấm thía của tác giả đã hướng đến thế hệ mai sau, những người sẽ "gánh vác phần người
đi trước để lại", xây dựng Đất Nước giàu đẹp văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu
như lời Bác Hồ từng căn dặn. Hai chữ "lớn lên" đã đặt kì vọng, niềm tin vào trí tuệ, bản lĩnh của
nhân dân. Và họ sẽ là người "mang Đất Nước đi xa" đến với chân trời tươi sáng, đến với
"những tháng ngày mơ mộng". Từ một Đất Nước nghèo khí hôm qua trở thành một Đất Nước
huy hoàng, rực rỡ, thực hiện được những điều mà ngày hôm qua chỉ là khao khát, hi vọng.
Bốn câu thơ cuối của đoạn thơ là cảm xúc trào dâng khi nhà thơ thấm thía sâu sắc ý thức trách
nhiệm của cá nhân với Đất Nước:
"Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời"
Lời thơ thủ thỉ tâm tình "em ơi em" như một tiếng gọi yêu thương , san sẻ với bao niềm vui
sướng khi ta nhận ra "Đất Nước là máu xương của mình". Vì lẽ đó mà ta phải biết "gắn bó và
san sẻ", "phải biết hóa thân" cho dáng hình xứ sở. Hai từ "phải biết" nhấn mạnh ý thức trách
nhiệm, nghĩa vụ cao cả và thiêng liêng của mỗi con người để làm nên "Đất Nước muôn đời".
Đó cũng chính là mệnh lệnh phát ra từ trái tim mỗi con người Việt Nam yêu nước để rồi nó trở
thành lời hiệu triệu mạnh mẽ mà tha thiết ngân vang. Để bảo vệ từng tấc đất quê hương, những
con người Việt Nam sẵn sàng đấu tranh và "hóa thân" cho núi sông, cho Đất Nước mãi mãi
trường tồn. Ý thơ đã cho thấy đây là tiếng thơ "mang sức mạnh ý chí và khát vọng vượt ra ngoài
giới hạn thông tin của ngôn từ". Có như vậy, ta mới có thể bảo vệ và giữ gìn "Đất Nước muôn
đời".
"Ôi tổ quốc khi cần ta chết
Cho mỗi căn nhà ngọn núi, con sông"
Mượn hình thức tâm tình, thủ thỉ của đôi trai gái yêu nhau, nhà thơ đã gửi gắm, nhắn nhủ đến
thế hệ mai sau trách nhiệm với Đất Nước. Lời thơ ngọt ngào sâu lắng thể hiện niềm tự hào sâu
sắc và tình yêu đối với Đất Nước, Đất Nước của "những người chưa bao giờ khuất" bởi "lòng
dân ta yêu nước thương nhà".

3.2. Tư tưởng Đất Nước của nhân dân - Nhân dân đã hóa thân để làm nên Đất Nước
 Nhân dân làm ra không gian địa lý của Đất Nước
Đoạn trích "Đất Nước" của Nguyễn Khoa Điềm đã đưa ta đến với một Đất Nước giản dị mà rất
đỗi đời thường, Đất Nước của nhân dân. Tìm cho mình một lối đi riêng, nhà thơ đã có những
phát hiện thật sâu sắc về địa lý, lịch sử, văn hóa của Đất Nước gắn với vai trò kiến tạo của nhân
dân. Đoạn thơ là câu trả lời mang tính thẩm mĩ cho câu hỏi: ai đã làm nên hình sông thế núi,
làm ra hình hài Đất Nước? Từ đó đi đến khẳng định: nhân dân chính là người làm ra không gian
địa lý của Đất Nước.
"Những người vợ nhớ chồng góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình cho đất tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối ống ông cha"
Đầu tiên, tư tưởng "Đất Nước của nhân dân" được thể hiện qua sự biết ơn sâu nặng của nhà thơ
đối với nhân dân - những người đã cống hiến từ điều nhỏ bé nhất cho Đất Nước. Tác giả đã nêu
ra những di tích văn hóa như Đền Hùng, Hòn Vọng Phu, các địa danh như làng Gióng, sông
Cửu Long, thắng cảnh như núi Bút, non Nghiên,... hoặc đơn giản chỉ là ruộng đồng, gò bãi, ao
đầm trải dài khắp lãnh thổ từ Bắc vào Nam như phác thảo một tấm bản đồ văn hóa của Đất
Nước.
Nếu những nhà thơ, nhà văn khác ngắm nhìn giang sơn gấm vóc, thiên nhiên như những kiệt tác
của tạo hóa, những sản phẩm tuyệt vời trong kiến tạo của thiên nhiên thì Nguyễn Khoa Điềm lại
gắn liền nó với đời sống của nhân dân, với tâm hồn của dân tộc. "Chính nhân dân là những
người đã hóa thân vào từng hình sông, dáng núi để làm nên vóc dáng, hình hài, cơ thể của Đất
Nước, làm nên linh hồn của các danh lam thắng cảnh, làm nên trầm tích văn hóa của mỗi địa
danh. Từng mảnh đất dòng sông, ngọn núi đều gắn liền với tính cách, tâm hồn con người Việt
Nam."
Bao thế hệ con người Việt nam đã đóng góp cho danh lam thắng cảnh của đất nước một sự hóa
thân, một ý nghĩa phủ nhuộm đậm đà cả tâm hồn dân tộc. Núi Vọng Phu ở Lạng Sơn, Thanh
Hóa, Bình Định gắn liền với sự tích nàng Tô Thị bồng con chờ chồng hóa đá, hòn Trống Mái
cũng là câu chuyện gắn bó nghĩa tình vợ chồng nghĩa nặng tình sâu. Những vẻ đẹp ấy hòa
quyện với nhau bởi sự thủy chung son sắt trong tâm hồn người Việt Nam nói chung và người
phụ nữ Việt Nam nói riêng. "Những người vợ nhớ chồng" còn gợi ta nhớ về nàng Vũ Nương
trong "Chuyện người con gái Nam Xương", hình ảnh người phụ nữ sắt son chờ chồng đã in sâu
vào nguồn cội nước non, từ thuở sơ khai đến khi đất nước chiến tranh, người vợ vẫn sắt son một
dạ đợi chồng. Tất cả họ đã "góp cho Đất Nước" không chỉ là hòn Vọng Phu hay hòn Trống Mái
nữa, danh lam thắng cảnh ấy không đơn thuần là hai hòn đá chụm vào nhau nữa mà là một câu
chuyện đời làm nên hình hài ấy.
Vẻ đẹp trong tâm hồn người Việt còn là tình yêu nước nồng nàn, nó đã góp phần làm nên những
di tích lịch sử, những mảnh đất thiêng liêng mà oanh liệt. Gót ngựa của Thánh Gióng đã để lại
cho Đất Nước trăm ao đầm ở vùng Sóc Sơn ngày nay như hiện thân cho khí phách kiên cường,
bất khuất của người dân Việt Nam, mãi đi vào cõi bất tử, đẹp đẽ ngời sáng. Hay hình ảnh chín
mươi chín con voi ở Phong Châu đã quần tụ để "góp mình" dựng đất tổ Hùng Vương là minh
chứng cho lòng dân cùng đồng thuận hướng về một quốc gia thống nhất.
Bên cạnh Sông Hồng "đỏ nặng phù sa" hay sông Mã "bờm ngựa phi thác trắng", Đất Nước còn
có Cửu Long giang thơ mộng, kiêu sa gắn với một huyền thoại đẫm màu sắc cổ tích. Những con
rồng nằm in từ bao đời nay để cho Nam Bộ một "dòng sông xanh thắm", dòng sông chín rồng
(Cửu Long) mềm mại chuyển mình qua những bờ bãi, xóm làng mang phù sa tỏa khắp muôn
nơi.
Và nếu không có những người học trò nghèo thì Đất Nước mình cũng sẽ có núi Bút, non
Nghiên gợi lên hình ảnh Đất Nước nghìn năm văn hiến với truyền thống hiếu học, tôn sư trọng
đạo "Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa". Ngay cả con cóc con gà quê hương cũng góp cho
Hạ Long thành thắng cảnh, thành di sản thiên nhiên thế giới, góp phần đưa vẻ đẹp Đất Nước
đến bốn biển năm châu. Rồi những tên đất tên làng cũng được tạo nên từ tên của những người
bình dị như ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm.
Đoạn thơ liên tiếp lặp lại những cụm từ "góp cho Đất Nước", "góp nên", "góp mình", "góp dòng
sông", "góp cho Hạ Long",... Và chủ thể của những đóng góp ấy là những người vợ nhớ chồng,
những cặp yêu nhau, là người học trò nghèo, là những người dân,... Tất cả điều vô danh đó
chính là nhân dân qua bao năm tháng đã lặng lẽ kiến tạo xây dựng nên Đất Nước, in dấu sâu
đậm trên dáng hình của quê hương xứ sở.
"Tâm hồn tôi khi tổ quốc soi vào
Thấy nghìn núi, trăm sông diễm lệ"
(Chế Lan Viên - "Chim lượn trăm vòng")
Bốn câu thơ cuối của đoạn thơ là sự khái quát sâu sắc được rút ra từ sự liệt kê các hiện tượng cụ
thể ở trên theo cấu trúc quy nạp. Nguyễn Khoa Điềm đã đi đến một chân lý trong đời sống
mang tính triết luận hiển nhiên, sâu sắc.
"Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta"
Những câu thơ trên có sự hòa quyện giữa chất trữ tình đằm thắm, thiết tha và chất chính luận trí
tuệ sắc sảo. Điều đó đã mang lại cái nhìn mới mẻ, độc đáo về những không gian địa lý của Đất
Nước, đồng thời đánh thức tình yêu quê hương Tổ quốc, lòng biết ơn với những thế hệ đi trước
đã xây dựng núi sông, bờ cõi.
Ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi, ở bất cứ nơi nào trên đất nước Việt Nam đều phảng phất
"một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha". Hình ảnh núi sông, rừng biển, những tên
bản, tên làng cũng chính là điệu hồn, là phong cách, là ước mơ, hoài bão của cha ông qua mấy
nghìn năm dựng nước và giữ nước.
Nếu bốn nghìn năm là dòng thời gian lịch sử đằng đẵng vô thủy vô chung thì cụm từ "đi đâu ta
cũng thấy" lại là hình ảnh của một Đất Nước mênh mông, rộng lớn với rừng vàng, biển bạc.
Trong dòng chảy bất tận của thời gian, trong cái mênh mông rộng lớn của không gian là
"Những cuộc đời đã hóa núi sông ta". Từ "hóa" không chỉ là sự đóng góp lớn lao bởi mồ hôi
xương máu của Nhân Dân mà còn là sự hóa thân kì diệu của những con người vô danh thầm
lặng đã làm nên non sông đất nước. Mỗi ngọn núi, dòng sông hay gò bãi, ruộng đồng đều có
một phần máu thịt tâm huyết của người xưa. Họ đã khai phá đất đai bằng đôi bàn tay cần cù, gửi
gắm linh hồn mình vào núi sông để truyền lại cho thế hệ mai sau. Bởi vậy mỗi danh lam thắng
cảnh, mỗi di tích văn hóa trên đất Việt đều là bức tượng đài bất tử về vẻ đẹp tâm hồn con người
Việt Nam. Ca ngợi núi sông diễm lệ cũng là ca ngợi, tôn vinh vẻ đẹp tâm hồn nhân dân.
Tư tưởng "Đất Nước của nhân dân" trước hết được thể hiện ở bình diện không gian, nó được tạo
nên bởi những vẻ đẹp tâm hồn, và những tình nghĩa ấy đã làm nên gương mặt của Đất Nước
thật đẹp đẽ và ngời sáng, tạo nên núi sông hùng vĩ, giang sơn gấm vóc tươi đẹp muôn đời.

 Đóng góp của nhân dân trên bình diện lịch sử


Bên cạnh những phát hiện mới mẻ, độc đáo về sự đóng góp của nhân dân trong việc làm ra
không gian địa lý của Đất Nước, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm còn hướng vào dòng chảy xa
xăm, sâu thẳm của lịch sử để suy tư, chiêm nghiệm về công sức của nhân dân trong sự nghiệp
dựng nước và giữ nước của dân tộc:
"Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn nghìn năm Đất Nước"
Đoạn thơ mở ra với tiếng gọi tha thiết "em ơi em" như tiếng hát thâm tình, như lời thủ thỉ trò
chuyện với "em". "Em" có thể là người con gái nào đó trong tưởng tượng của tác giả, cũng có
thể là thế hệ trẻ, những người sẽ kế tục sự nghiệp của cha ông hay chính là sự phân thân của tác
giả để độc thoại với chính mình. Nhà thơ đã đưa ta về "nhìn rất xa vào bốn nghìn năm Đất
Nước", một đất nước với lịch sử lâu dài, với truyền thống vẻ vang được tạo nên bởi sức mạnh,
sự vĩ đại của nhân dân.
Nghĩ về bốn nghìn năm Đất Nước, nhà thơ đã nhận thức được người làm nên Đất Nước không
chỉ là những anh hùng nổi tiếng mà còn là những con người vô danh, bình dị:
"Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà đàn bà cũng đánh"
Với những từ ngữ "người người", "lớp lớp", "con gái", "con trai", "có biết bao người", "người
người" đã gợi lên ấn tượng về sự đông đảo của nhân dân. Hết lớp này đến lớp khác, bao thế hệ
con người Việt Nam đã kế tiếp nhau viết nên những trang sử hào hùng của Đất Nước.
Ngược dòng chảy thời gian, chúng ta đã trở về với những người con gái, con trai bằng tuổi
chúng ta bây giờ. Khi hòa bình, họ cần cù lao động, chịu thương chịu khó, sống giản dị đầy yêu
thương. Khi giặc đến, người con trai ra trận dũng cảm đấu tranh và trở thành anh hùng, còn
người con gái ở nhà "nuôi cái cùng con", trở thành hậu phương vững chắc. Họ cùng đồng lòng
chung sức để đánh giặc cứu nước, và "ngày giặc đến nhà đàn bà cũng đánh" để Đất Nước mãi
tự hào với bao tên tuổi của những nữ anh hùng như Hai Bà Trưng, Võ Thị Sáu, Nguyễn Thị
Minh Khai,...
Cả đoạn thơ không có một tên riêng, chỉ có những người con gái, cũng không có một triều đại
lịch sử, không có cả tên một người anh hùng dù "những anh hùng cả anh và em hôm nay đều
nhớ". Có lẽ tên tuổi của họ tổ quốc ghi công, sử sách lưu truyền:
"Những người đã trở thành anh hùng
Những anh hùng cả anh và em đều nhớ"
Còn những con trai, con gái trong "bốn nghìn năm giống ta lứa tuổi" thì không ai nhớ mặt đặt
tên. Họ lặng lẽ hi sinh mồ hôi, xương máu, hiến dâng tuổi thanh xuân, hạnh phúc của mình để
"làm nên Đất Nước". Họ thầm lặng và lớn lao, vĩ đại. Và Đất Nước anh hùng được làm nên bởi
những con người bình thường, mộc mạc mà cao cả:
"Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu
Đã bật lên những tiếng căm hồn"
(Nguyễn Đình Thi)
Từ sự hi sinh lặng lẽ và âm thầm của nhân dân, nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã ca ngợi và khẳng
định công sức của những con người đã hóa thân vào Đất Nước:
"Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước."
Cấu trúc sóng đôi giữa "sống" và "chết", giữa "giản dị" và "bình tâm" đã gợi lên sự thanh thản,
nhẹ nhàng trong sự ra đi của bao thế hệ con người Việt Nam. Họ sống "giản dị", chân chất, thật
thà và "chết" cũng thật "bình tâm", sẵn sàng hiến dâng cuộc đời mình để "quyết tử cho tổ quốc
quyết sinh". Họ hi sinh không phải để đời sau tưởng nhớ, được vinh danh, cũng không phải để
ngợi ca mà bởi tiếng gọi của non sông đất nước "chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh". Lịch sử
4000 năm Đất Nước được viết bằng mồ hôi, nước mắt và xương máu của những con người cao
cả ấy.
"Họ" có thể là những người nông dân lam lũ trên đồng ruộng quen với "việc cuốc, việc cấy,
việc cày", làm ra hạt gạo phải "một nắng hai sương xay giã giần sàng" nhưng khi giặc đến họ
"không đợi ai đòi ai bắt", "sống đánh giặc chết cũng đánh giặc". "Họ" có thể là những người
con trai đã bỏ lại sau lưng mình gia đình, quê hương và những người thân yêu để "ra đi đầu
không ngoảnh lại" và có thể sẽ không bao giờ quay trở về. Bao nhiêu con người, không ai nhớ
mặt, cũng không ai để lại tên tuổi. Trên những nấm mồ vô danh là những dòng chữ đầy xót xa
"Tổ quốc khắc tên anh". Nhưng chính những con người ấy đã viết nên truyền thống vẻ vang
trong lịch sử của Đất Nước.
Đoạn thơ đã mang đến cho người đọc một nhận thức rất đơn giản mà thấm thía. Mỗi con người
Việt Nam dù nhỏ bé đều đã góp sức mình để xây dựng Đất Nước làm nên lịch sử dân tộc. Ta
không chỉ cảm nhân được tình yêu nước sâu sắc của Nguyễn Khoa Điềm mà dường như tình
cảm ấy còn lay động, thức tỉnh bao thế hệ trẻ, khơi dậy ở họ niềm tự hào về quê hương, đất
nước. Cũng chính vì vậy, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã thật sự "giúp con người hiểu được bản
thân mình, nâng cao niềm tin ở bản thân mình và làm nảy nở khát vọng hướng tới chân lý" (M.
Gorki).

 Nhân dân góp phần làm nên giá trị văn hóa, vật chất tinh thần
Nhân dân không chỉ là những người làm ra không gian địa lý, xây dựng nên giang sơn, gấm
vóc, làm nên lịch sử Đất Nước mà còn là những người viết nên truyền thống vẻ vang, lưu giữ và
truyền lại những giá trị vật chất tinh thần. Mọi vẻ đẹp văn hóa truyền thống đều do nhân dân tạo
ra và giữ truyền:
"Họ giữ và truyền cho ta hạt giống ta trồng
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà từ hòn than con cúi
Họ truyền giọng điệu cho con mình tập nói
Họ gánh theo tên xã làng trong mỗi chuyến di dân"
Từ "họ" được nêu lên như một điệp khúc, như nhấn mạnh vai trò, công lao to lớn của nhân dân
với Đất Nước. Bên cạnh đó là cặp từ "giữ - truyền" được nhắc lại như khẳng định sứ mệnh
thiêng liêng của mỗi con người, mỗi thế hệ trong công cuộc xây dựng đất nước "gánh vác phần
người đi trước để lại", "dặn dò con cháu chuyện mai sau" để đưa "Đất Nước đến những tháng
ngày mơ mộng."
Nhân dân là những người đã giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng để Việt Nam bốn nghìn năm
gắn liền với hình ảnh cây lúa và nền văn minh lúa nước. Hạt lúa được làm ra từ "một nắng hai
sương" như là tinh hoa của đất trời, kết tinh mồ hôi, công sức của người nông dân trên đồng.
Hạt lúa trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp tần tảo của người nông dân lao động, biểu tượng cho
một cuộc sống thanh bình, ấm no.
Không chỉ giữ lại hạt lúa cho ta trồng, nhân dân còn truyền "lửa qua mỗi nhà" từ hòn than qua
con cúi. Ngọn lửa là hình ảnh của sự sống, của sự quây quần, đầm ấm của ánh sáng và khát
vọng, của một cuộc sống thịnh vượng, sum vầy. Thuở xa xưa hình ảnh những người Việt
chuyền lửa cho nhau trong không gian thấm đượm tình làng nghĩa xóm những khi tắt lửa tối
đèn đã gợi lên biết bao yêu thương. Từ những bếp lửa "ấp iu nồng đượm" trong gia đình, ngọn
lửa đã bước vào cuộc chiến tranh máu lửa "hỏa mai đánh bằng rơm con cúi cũng đốt xong nhà
dạy đạo kia" để "Đất Nước rũ bùn đứng dậy sáng lòa". Ngọn lửa còn là hiện thân của lòng yêu
nước, ý chí kiên cường đánh giặc ngoại xâm.
Một trong những nét đẹp văn hóa của Đất Nước là ngôn ngữ, giọng điệu. Và nhân dân đã
"truyền lại giọng điệu cho con mình tập nói", giữ gìn ngôn ngữ tiếng Việt như giữ lấy linh hồn
của dân tộc. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, bao biến đổi của thời cuộc nhưng giọng điệu
và tiếng nói của dân tộc không bao giờ thay đổi. Điều đó đã khẳng định ý thức và tinh thần dân
tộc của nhân dân khi họ nhận ra một chân lí hiển nhiên, còn tiếng nói Đất Nước quê hương là
giữ lại được bản sắc văn hóa của một dân tộc.
Đồng thời, nhân dân còn lưu giữ lại những địa danh, những tên xã tên làng như lưu giữ lại
những kí ức của lịch sử qua mỗi chuyến di dân. Họ đã mang theo những tên xã tên làng thân
quen để đặt tên cho những vùng đất mới mà họ đi qua, những cái tên nặng trĩu tình yêu thương
và nỗi nhớ về cội nguồn, về đất tổ quê cha, về những truyền thống văn hóa thấm đượm tình yêu
thương. Nhân dân còn xây dựng nền tảng vững chắc cho con cháu đời sau an cư lạc nghiệp,
"đắp đập be bờ cho đời sau trồng cây hái trái". Những thế hệ đi trước đã vất vả làm lụng, kiên
nhẫn bền bỉ để người đời sau có những thành quả ngọt ngào.
Và cũng chính nhân dân viết lên truyền thống bất khuất trước mọi kẻ thù, lưu giữ vẻ đẹp văn
hóa ấy qua bao thế hệ
"Có giặc ngoại xâm thì đánh giặc ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại"
Giọng thơ rắn ròi, đanh thép đã thể hiện tinh thần tự giác, ý thức trách nhiệm cao độ của nhân
dân. Chính họ đã xông pha trận mạc để đánh đuổi ngoại xâm, sẵn sàng hi sinh để bảo vệ sự bình
yên của Đất Nước, cũng là bảo vệ những giá trị vật chất và tinh thần quý giá của dân tộc.

 Nhân dân làm nên chiều sâu tư tưởng

1. Khái quát: Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong thời kì chống
Mĩ cứu nước; thơ ông giàu chất trí tuệ, suy tư sâu lắng, cảm xúc nồng nàn. “Đất nước”là
đoạn thơ trích từ chương V trường ca “Mặt đường khát vọng”được hoàn thành ở chiến
trường Bình Trị Thiên năm 1971. Trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ miền Nam
xuống đường tranh đấu hòa hợp với cuộc kháng chiến của dân tộc. Đoạn thơ ta sắp phân
tích nằm ở phần hai của chương V. Nội dung bao trùm cả đoạn thơ là tư tưởng “Đất
Nước của nhân dân”.
Ngày xưa, người ta thường quan niệm: Đất Nước là của các triều đại, của vua. Trong
“Nam quốc sơn hà” – Lý Thường Kiệt cũng nói “Nam quốc sơn hà nam đế cư”. Trong
“Bình Ngô đại cáo” – Nguyễn Trãi Viết “Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc
lập”. Ngày nay trong thời đại Hồ Chí Minh, khi người ta nhìn thấy sức mạnh của nhân
dân, sự đóng góp máu xương của nhân dân đã làm nên Đất Nước cho nên Đất Nước phải
thuộc về nhân dân và của nhân dân.
2. Nội dung cảm nhận :
2.1. Đoạn thơ mở đầu bằng một lời khẳng định, lời khẳng định ấy là cảm hứng chung
cho cả đoạn thơ:
“Để Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân
arrow_forward_iosĐọc thêm
Đất nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”
Nhà thơ khẳng định chắc nịch “Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân”, lời khẳng
định ấy đã thể hiện một cách chân thành, mãnh liệt tình cảm của nhà thơ đối với dân tộc.
Hơn ai hết, nhà thơ hiểu rằng, để có được Đất Nước trường tồn, vĩnh cửu thì nhân dân
hơn ai hết là những người đã đổ máu xương, đổ công sức của mình để làm nên hình hài
đất nước. Vì thế Đất Nước không của riêng ai mà là của chung, của nhân dân và mãi mãi
thuộc về nhân dân.
Ở câu thơ thứ hai, nhà thơ lại một lần nữa khẳng định “Đất nước của nhân dân, Đất
Nước của ca dao thần thoại”. Điệp ngữ chuyển tiếp “Đất nước của nhân dân” được lặp lại
như thêm một lần nữa nhấn mạnh về cái sứ mệnh thiêng liêng của nhân dân đối với Đất
Nước. Vế thứ hai, nhà thơ nhấn mạnh “Đất Nước của ca dao thần thoại”. Nhắc đến ca
dao thần thoại ta lại càng nhớ đến nhân dân, vì hơn ai hết, Nhân dân lại là người tạo ra
văn hóa, tạo ra ca dao thần thoại. Mà đất nước của “ca dao thần thoại” nghĩa là Đất Nước
tươi đẹp vô ngần như vầng trăng cổ tích, ngọt ngào như ca dao, như nguồn sữa mẹ nuôi
ta lớn nên người. Và không phải ngẫu nhiên tác giả nhắc tới hai thể loại tiêu biểu nhất
của văn học dân gian. “Thần thoại” thể hiện cuộc sống qua trí tưởng tượng bay bổng của
nhân dân. Còn “ca dao” bộc lộ thế giới tâm hồn của nhân dân với tình yêu thương, với sự
lãng mạn cùng với tinh thần lạc quan. Đó là những tác phẩm do nhân dân sáng tạo, lưu
truyền và có khả năng phản chiếu tâm hồn, bản sắc dân tộc một cách đậm nét nhất.
2.2. Và khi nói đến “Đất nước của Nhân dân”, một cách tự nhiên, tác giả trở về với cội
nguồn phong phú đẹp đẽ của văn hóa, văn học dân gian mà tiêu biểu là trong ca dao. Vẻ
đẹp tinh thần của nhân dân, hơn đâu hết, có thể tìm thấy ở đó trong ca dao, dân ca,
truyện cổ tích. Ở đây tác giả chỉ chọn lọc ba câu để nói về ba phương diện quan trọng
nhất của truyền thống nhân dân, dân tộc:
Dạy anh biết yêu em từ thở trong nôi
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
Chức năng của ca dao, nói như Nguyễn Khoa Điềm là “dạy”. Chức năng ấy cùng với
ý nghĩa của nó được thể hiện qua ba phương diện. Phương diện thứ nhất, Nguyễn Khoa
Điềm nhấn mạnh về tình cảm thủy chung trong tình yêu của con người Việt Nam. Từ ý
thơ trong ca dao “Yêu em từ thuở trong nôi/ Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru”. Nhà thơ
đã viết nên lời chân tình của chàng trai đang yêu “Dạy anh biết yêu em từ thuở trong
nôi”. Tình yêu của chàng trai ấy không phải là ngọn gió thoáng qua, không phải là lời của
bướm ong mà là lời nói là nghĩ suy chân thật. Ý thơ đã khẳng định được một tình yêu
thủy chung bền vững không gì có thể đếm đong được. Nhân dân dạy ta biết yêu thương
lãng mạn, đắm say thủy chung với những câu ca dao ấy. Đây là phát hiện mới của
Nguyễn Khoa Điềm. Bởi lẽ từ xưa đến nay nói đến nhân dân người ta thường nghĩ đến
những phẩm chất cần cù chịu khó, bất khuất kiên cường. Còn ở đây tác giả lại ngợi ca vẻ
đẹp trẻ trung lãng mạn trong tình yêu, những mối tình từ thưở ấu thơ cho đến lúc trưởng
thành.
Ở phương diện thứ hai, Nhân dân gìn giữ và truyền lại cho ta quan niệm sống đẹp đẽ,
sâu sắc, ca dao đã “dạy anh biết” – Sống trên đời cần quý trọng tình nghĩa, phải “Biết
quý công cầm vàng những ngày lặn lội”. Câu thơ ấy lấy ý từ ca dao “Cầm vàng mà lội
qua sông/Vàng rơi không tiếc tiếc công cầm vàng”. Nhân dân đã dạy ta rằng: ở đời này
còn có thứ quý hơn vàng bạc, châu báu ngọc ngà… Đó là tình nghĩa giữa con người với
con người. Bởi vậy, nghĩa với tình còn nặng hơn nhiều lần giá trị vật chất.
Ở phương diện thứ ba, nhân dân đã dạy ta phải biết quyết liệt trong căm thù và chiến
đấu “Biết trồng tre đợi ngày thành gậy/ Đi trả thù mà không sợ dài lâu”. Hai câu thơ đã
gợi lại biết bao cuộc kháng chiến oanh liệt, trường kì của nhân dân trong biết bao cuộc
chiến vệ quốc vĩ đại. Từ thuở lập nước, ông cha ta đã luôn phải đương đầu với nạn ngoại
xâm. Cuộc chiến đấu giành độc lập tự do nào cũng kéo dài hàng chục năm, thậm chí hàng
trăm năm. Sau cả nghìn năm Bắc thuộc nhân dân vẫn đứng lên giành chủ quyền, rồi đến
100 năm đô hộ giặc Tây… thử hỏi nếu không có sự kiên trì bền bỉ và khát vọng tự do
mãnh liệt, dân tộc bé nhỏ này làm sao có thể vượt qua bao nhiêu khó khăn gian khổ, mất
mát hi sinh để đến ngày toàn thắng.
2.3. Bốn câu thơ cuối: Hình ảnh người chèo đò, kéo thuyền vượt thác cất cao tiếng hát là
một biểu tượng nói lên sức mạnh Nhân dân chiến thắng mọi thử thách, lạc quan tin
tưởng đưa Đất Nước đi tới một ngày mai vô cùng tươi sáng:
Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi…
Câu thơ gợi cho ta hình ảnh của những dòng sông, những dòng sông không biết đến
từ bến bờ nào nhưng khi hòa vào đất Việt lại vang lên biết bao câu hát điệu hò. Câu thơ
của Nguyễn Khoa Điềm làm ta nhớ đến những điệu hò hùng tráng trên sông Mã, điệu ca
Huế ngọt ngào trên sông Hương và điệu hò kéo lưới mạnh mẽ ở miền Trung, hay đờn ca
tài tử tha thiết trên sông Tiền, sông Hậu ở miền Nam. Và “dòng sông” ấy vừa có ý nghĩa
là dòng sông của quê hương đất nước nhưng vừa có ý nghĩa là dòng sông Văn Hóa, dòng
sông Lịch sử. Dân tộc ta có 54 dân tộc anh em, là 54 dòng chảy văn hóa đa dạng “trăm
màu, trăm dáng”. Và đó chính là sự đa dạng và phong phú của văn hóa Việt Nam đã vun
đắp phù sa qua bao năm tháng thăng trầm để làm nên một đất nước đậm đà bản sắc dân
tộc.
3. Tổng kết nghệ thuật: Đoạn thơ đã để lại âm hưởng ca dao, dân ca đặc sắc nhưng
không lấy lại nguyên văn mà sáng tạo làm nên một ý thơ riêng mềm mại, tài hoa và giàu
tính triết lý. Điệp ngữ “Đất Nước” được nhắc lại nhiều lần cùng với việc nhà thơ luôn
viết hoa hai từ “Đất Nước” tạo nên một tình cảm thiêng liêng xiết bao tự hào về non sông
gấm vóc Việt Nam.
KẾT BÀI
Tóm lại, đoạn thơ ta vừa phân tích đã thể hiện một cách rất thành công tư tưởng lớn
của thời đại “Đất Nước của nhân dân”. Cảm ơn nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã mang đến
cho ta một giọng thơ tài hoa và những câu thơ giàu tính triết lý để ta thêm hiểu, thêm yêu,
thêm tin vào sức mạnh của nhân dân và tin vào tình yêu Đất Nước của chính mình:
Ôi Tổ Quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta như vợ như chồng
Ôi Tổ Quốc nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà ngọn núi dòng sông

Nhân dân đã làm tất cả không quản gian lao, vì một lý tưởng:
"Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân
Đất Nước của Nhân Dân, Đất Nước của ca dao thần thoại".
Bốn từ "Đất Nước" được lặp lại, nhấn mạnh "Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân", của
những bài ca dao thần thoại, của nền văn hóa đã đi sâu vào huyết quản và trái tim. Để rồi Đất
Nước ấy đã dạy cho mỗi con người yêu quê hương, yêu tổ quốc:
"Dạy anh biết "yêu em từ thuở trong nôi"
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
Ôi những dòng sông bắt nguồn từ đâu
Mà khi về Đất nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi"
Đất Nước là cái nôi ấp ủ, dạy chúng ta tình yêu thương gia đình từ tấm bé, dạy ta biết quý công
sức mình. Đất Nước còn dạy ta biết kiên trì, phấn đấu cho mục tiêu phía trước, nuôi dưỡng ý chí
để ngày mai thành công. "Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu", từ nguồn cội nào đưa câu hát
về với Đất Nước? "Người đến khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác" như ông lái đò trên sông Đà
của Nguyễn Tuân, như đoàn thuyền đánh cá trong thơ Huy Cận,... Tất cả họ đều gợi lên rõ ràng
hình ảnh người lao động góp từng phần nhỏ tạo ra một Đất Nước kì vĩ, tạo nên "trăm màu trên
trăm dáng sông xuôi". Bởi vậy, nhân dân chính là người đã làm ra Đất Nước!

*đánh giá chung


- Đoạn trích thể hiện một cái nhìn mới mẻ về đất nước: Đất nước là sự hội tụ
và kết tinh bao công sức và khát vọng của nhân dân. Nhân dân là người làm
ra đất nước.
- Đoạn trích nằm trong ý đồ tư tưởng của tác giả: thức tỉnh tinh thần dân tộc
2. Nghệ thuật :
- Sự độc đáo đầy phóng khoáng của thể thơ tự do -> mạch cảm xúc thể hiện trôi chảy
- Giọng thơ trữ tình - chính luận
- Vận dụng những chất liệu của văn hoá và văn học dân gian (ngôn từ, hình
ảnh bình dị, dân dã, giàu sức gợi)

“Thơ Nguyễn Khoa Điềm có sức liên tưởng manh. Anh thường dẫn người đọc đi từ quá khứ
đến tương lai, từ khổ đau đến hạnh phúc, từ sách vở đến đời sống.” - Nguyễn Xuân Nam
 Làm sáng tỏ thêm tư tưởng Đất Nước của Nhân dân
Đất Nước đã được nhà thơ lí giải cắt nghĩa theo cảm nhận của riêng mình. Đoạn thơ thể hiện
niềm tự hào, trân trọng sâu sắc của tác giả dành cho Tổ quốc mình. Đoạn thơ rất thành công với
thể thơ tự do mỗi câu như một cảm xúc trào dâng từ đáy lòng thi sĩ. Nhà thơ đã vận dụng thành
cồn những chất liệu văn hóa văn học dân gian. Và khi kết thúc những câu thơ ấy, trong lòng
người đọc cũng xuất hiện hình ảnh đất nước vừa quen thuộc, vừa mới lạ, vừa thiêng liêng, vừa
gần gũi và biết bao mến thương.
Bằng cách đề cao vai trò to lớn của nhân dân lao động đối với đất nước, Nguyễn Khoa Điềm
một lần nữa đã làm rõ tư tưởng cốt lõi “Đất nước của nhân dân”, khẳng định vai trò, sức mạnh
và sự ảnh hưởng của nhân dân đối với lịch sử và đất nước. Đó là cả một truyền thống lâu đời
trong lịch sử văn học dân tộc. Tác phẩm đã tạo nên những cảm xúc, những rung động âm vang
trong lòng mỗi người đọc chính từ những cảm xúc chân thành, từ sự trải nghiệm của chính bản
thân tác giả mà nói lên những suy nghĩ chung của cả một thể hệ đối với đất nước

You might also like