You are on page 1of 21

Nội dung cơ bản của thơ Trần Đăng Khoa.

Thế giới thiên nhiên, loài vật và con người trong thơ Trần Đăng Khoa hiện lên thật sống động. Đến với
thơ của anh, ta được sống trong một bầu không khí rất riêng – không khí của làng quê nông thôn Việt
Nam. Nhà nghiên cứu phê bình văn học Nguyễn Đăng Mạnh gọi anh là “nhà thơ mục đồng”, là “một
cây bút chuyên môn thực sự” viết về nông thôn, và khi lí giải “cái mầm thơ Khoa đã lớn lên từ miếng
đất nào”, Nguyễn Đăng Mạnh đã khẳng định: “làng quê đã tạo nên thơ Khoa từ màu sắc đến linh hồn”.
Theo ông, khi kể đến những nhà thơ của nông thôn Việt Nam, ngoài những người dân quê, tác giả của
hàng trăm câu ca dao bất hủ, chỉ có thể nhắc tới Nguyễn Khuyến. Một số cây bút viết về nông thôn
xuất hiện trong phong trào Thơ mới như Nguyễn Bính, Đoàn Văn Cừ, Anh Thơ,… nhưng thực ra họ
chưa thật sự nhập thân với hiện thực đó. Sau Cách mạng tháng Tám, người dân cày được học tập văn
hóa tới trình độ cao, các nhà thơ nông thôn mới dần dần có điều kiện xuất hiện. Trần Đăng Khoa là một
trong số đó. Đọc thơ Khoa, có thể thấy nông thôn ta thật là hào phóng đối với nghệ thuật. Chỉ cần chịu
khó quan sát bằng tấm lòng tha thiết, chân thành thì tự khắc cảnh vật nào, sự vật nào cũng sẵn lòng đãi
lại một vần thơ ít nhiều có ý vị. Nông thôn Việt Nam trong thơ Trần Đăng Khoa được thể hiện ở hai
phương diện: thiên nhiên nông thôn và con người nông thôn trong chiến tranh.
1. Thiên nhiên nông thôn.
Đây là mảng đề tài được Trần Đăng Khoa thể hiện nhiều nhất trong thơ mình. Là
một người con được sinh ra và lớn lên ở nông thôn nên Trần Đăng Khoa có tấm lòng yêu
thương, gắn bó sâu nặng đối với thôn Điền trì, xã Quốc Tuấn.. Từ sự gắn bó, từ lòng yêu thương cảnh
sắc thiên nhiên của quê nhà, Trần Đăng Khoa đã đưa vào thơ mình những hình ảnh hết sức quen thuộc
của làng quê Việt Nam. Đọc thơ Trần Đăng Khoa, không chỉ các em nhỏ mà tất cả chúng ta đều nhận
ra sự quen thuộcấy. Ở đâu mà chẳng có góc sân, cây trầu, khoảng trời, cánh đồng, cánh cò bay, Ở đâu
mà chẳng có chẳng có trò chơi thả diều, chọc ếch, câu cá, Những hình ảnh đó trong cái nhìn trong trẻo,
tinh khiết của trẻ thơ bỗng trở nên có hồn, có thần và đầy chất thơ. Tuy giống đấy mà lại khác đấy.
Khác bởi cảm nhận của mỗi người không ai giống ai. Đối với một số người, cây bàng, cây dừa, cây lựu,
vườn cải hay chiếc máy cày, cái nồi đồng, cây chổi, chỉ là những cây, những đồ vật vô tri vô giác.
Nhưng đối với Trần Đăng Khoa tất cả là bạn bè, tất cả đều có hồn, có hành động, tất cả đều ngộ
nghĩnh, đáng yêu.Cảnh sắc làng quê trong thơ ca cách mạng Việt Nam hiện đại thường được miêu tả và
cảm nhận trong dáng vẻ của làng quê nông nghiệp cổ truyền. Nguyễn Duy đã viết bài thơ Hơi ấm ổ
rơm làm cho chúng ta rất xúc động bởi khi đọc lên, từ những dòng thơ tỏa ra một sự ấm nồng lạ lùng
làm cho những ai đang sống ở quê hương thì càng thêm yêu mến, những ai đang xa quê thì nhớ thương
da diết nơi chôn nhau cắt rốn của mình:
Hạt gạo nuôi hết thảy chúng ta,
Riêng cái ấm nồng nàn như lửa.
Cái mộc mạc lên hương của lúa,
Đâu dễ chia cho tất cả mọi người.
Xuân Quỳnh cũng có cùng cảm xúc như thế trong Cỏ dại:
Trong cuộc đời bình yên tự ngàn xưa,
Gần gũi nhất vẫn là cây lúa.
Trần Đăng Khoa của chúng ta chưa từng trải nghiệm trong cuộc sống nhưng đã có
bài thơ mà nhiều người nằm lòng:
Hạt gạo làng ta
Có vị phù sa
Của sông Kinh Thầy
Có hương sen thơm
Trong hồ nước đầy...
(Hạt gạo làng ta)
Sinh ra và lớn lên ở nông thôn, gắn bó với ruộng đồng nên hơn ai hết, Trần Đăng Khoa hiểu rằng hạt
gạo trong cuộc sống có một vị trí vô cùng quan trọng. Trong những năm tháng chiến tranh thì giá trị
của nó càng tăng lên gấp bội. Để có được hạt gạo, người nông dân đã rất vất vả, phải bán mặt cho đất,
bán lưng cho trời. Và như đã nói, trong chiến tranh thì có biết bao người nông dân đang làm đồng đã
chết vì bom Mĩ. Thế nên, hạt gạo gửi ra tiền tuyến gửi về phương xa lại kết tinh thêm tình cảm thiết
tha, sâu nặng của hậu phương đối với tiền tuyến. Tố Hữu khi nhận định về thi ca, đã viết: Bài thơ hay
làm cho người ta không thấy câu thơ, chỉ còn cảm thấy tình người. Với bài thơ này, Trần Đăng Khoa đã
làm cho chúng ta cảm nhận được tình người đó. Trần Đăng Khoa đã khiêm nhường cho rằng bài thơ
của mình hay là nhờ được nhạc sĩ Trần Viết Bính phổ nhạc. Không khó khăn để tìm ra những em bé có
những câu, những ý như Trần Đăng Khoa viết hạt gạo làng ta nhưng mãi mãi chúng ta sẽ không tìm
được ai khác ngoài Trần Đăng Khoa với câu hạt vàng làng ta.
Cánh đồng làng Điền Trì cũng được Trần Đăng Khoa nói đến. Đó là nơi sản xuất,trồng trọt của xóm
làng. Đó là nơi tuổi thơ để mặc cho cánh diều thỏa sức tung bay. Ngàyngày đứng trước sân nhà nhìn
thấy cánh đồng nên nó trở nên quen thuộc với tất cả những người nơi đây. Riêng Trần Đăng Khoa với
giác quan tinh tế, nhạy cảm đã phát hiện:
Cánh đồng làng Điền Trì
Sớm nay sao mà rộng
Sương tan trên mũi súng
Trên sừng trâu cong veo
(Cánh đồng làng Điền Trì)
Trần Đăng Khoa ngạc nhiên trước sự đổi thay cánh đồng bởi sau khi gặt hái xong thì người dân bắt đầu
cấy mạ cho một vụ mùa khác. Từ một cánh đồng chỉ trơ gốc rạ nay bỗng nhiên tươi màu xanh của mạ
trong sương sớm chưa tan. Hình ảnh đơn sơ làm sao mà cũng đẹp làm sao. Trong con mắt yêu thương
thì tất cả sự vật đều trở nên đáng yêu, cho dù sự vật đó đối với người khác là bình thường.
Bên cạnh góc sân, cánh đồng thì dòng sông Kinh Thầy là nơi Trần Đăng Khoa hết lòng thương mến.
Chính dòng sông này đã tắm mát cho Trần Đăng Khoa. Chính dòng song này đưa nước vào tưới mắt
cho đồng ruộng, cây trái. Sông Kinh Thầy trong thơ Trần Đăng Khoa có Hàng chuối lên xanh mướt Phi
lao reo trập trùng. Vậy thôi, nhưng người đi xa vẫn nhớ hoài, vẫn mong có ngày được trở về đi dọc bờ
sông, vùng vẫy trong dòng nước mát như thuở ấu thơ.
Thiên nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa còn có cả thế giới loài vật, đồ vật. Chúng
hiện ra với một dáng vẻ vô cùng sinh động, đáng yêu. Trần Đăng Khoa có thể trò chuyện
thân mật với con trâu người bạn vô cùng thân thiết của nông dân:
Trâu ơi, ăn cỏ mật
Hay là ăn cỏ gà
Đừng ăn lúa đồng ta
Trâu ơi, uống nước nhá
Trâu cứ chén cho no
Ngày mai cày thật khỏe
Đừng lo đồng nứt nẻ
(Con trâu đen lông mượt)
Những con vật trong thơ của một em bé đều có những nét đáng yêu: con mèo (Đánh tam
cúc), con gà (Nói với con gà mái, Ò ó o), con chó (Sao không về Vàng ơi), chim (Tiếng
chim chích chòe, con chim hay hót),... Trong bài Buổi sáng nhà em, tất cả hiện lên thật sinh
động trong cái nhìn và sự liên tưởng của trẻ thơ. Mèo dậy rửa mặt trong tư thế hết sức đỏm
dáng cái tay rửa mặt, cái đầu nghiêng nghiêng. Cái Na, cu Chuối nghịch ngợm đứng vỗ
tay cười. Chị Tre chải tóc bên ao, nàng Mây thì ghé vào soi gương trong khi bà Sân đã
vấn chiếc khăn hồng đẹp thay từ khi Ông trời nổi lửa đằng đông.
Con người và sự vật gắn bó, giao hòa với nhau, cùng nhau bắt đầu ngày mới. Không
chỉ riêng nhà Trần Đăng Khoa mà mọi nhà đều như thế, tất cả tạo nên một không khí nhộn
nhịp, sôi động. Bài thơ mang đậm nét hồn nhiên, trẻ thơ đã làm cho chúng ta vừa đọc vừa
nở nụ cười trên môi. Cười vì không ngờ sự liên tưởng, ví von của một em nhỏ lại hay và
đúng bản chất của sự vật như thế. Cười vì đọc bài thơ này ta như sống dậy một cảm giác
yêu mến cuộc sống lạ lùng. Chợt nhận ra những ngây thơ, hồn nhiên của tuổi thơ đã rơi rớt
trên bước đường ta tìm kiếm công danh, địa vị. Tự nhủ lòng sáng mai sẽ dậy sớm để lắng
nghe âm thanh của cuộc sống
Hình ảnh con cò từ lâu đã được thơ ca Việt Nam biểu hiện như là một dấu hiệu về
làng quê nông nghiệp với những con người lam lũ, vất vả nơi đồng ruộng mà hồn hậu,
trắng trong. Trong cảm nhận của Trần Đăng Khoa, con cò có lúc hư ảo như trong ca dao
thần thoại:
Xưa mẹ ru em
Cũng tiếng võng này
Cánh cò trắng muốt
Bay - bay - bay - bay...
(Tiếng võng kêu)

Nó cũng đáng thương, nhỏ bé trước cuộc đời:


Trong giấc mơ em
Có gặp con cò
Lặn lội bờ sông
(Tiếng võng kêu)
Nhưng con cò ở đây có thêm những nét mới. Nó đánh nhịp bay vào bay ra như
những chớp trắng trên sông Kinh Thầy. Nó không còn đơn côi một mình trong đêm tối
mà trong bầy đàn, trong số đông và xuất hiện vào ban ngày, trong nắng đẹp của trời quê
yên ả. Và nếu trước kia tác giả dân gian thấy con cò đi đón cơn mưa trong tối tăm mù
mịt với vẻ cam chịu, thụ động, mệt mỏi, chẳng biết ai đưa cò về thì đối với Trần Đăng
Khoa:
Con cò
Trắng muốt
Bay ra đón cơn mưa...
Mừng đón cơn mưa
(Con cò trắng muốt)
Với một thái độ chủ động, tự tin, những con cò này trở thành tượng trưng cho tư thế
cứng cỏi, dũng cảm, cho tâm hồn trong trắng, thanh cao và ngay thẳng của con người, làng
quê Việt Nam đang vượt lên trên những thử thách khắc nghiệt. Nó góp phần làm cho thiên
nhiên ở làng quê Việt Nam tự ngàn xưa đã đẹp, hữu tình nay càng thêm đẹp, thêm hữu tình
hơn.
Đối với người lớn, thiên nhiên được miêu tả và cảm nhận chủ yếu bằng kinh
nghiệm, bằng lí trí và đôi lúc là cảm nhận bằng tâm trạng, nỗi niềm riêng của mình. Còn
trẻ con thì không thế. Đối với chúng, thiên nhiên chứa đựng những điều kì diệu, bí ẩn, thú
vị và chúng rất muốn chiêm ngưỡng, khám phá. Chính thiên nhiên với tất cả sự phong phú,
đa dạng của những sự vật đã giúp cho trẻ em nhận thức, hình thành tư duy và từ đó phát
triển trí tưởng tượng, làm giàu tâm hồn của các em.
Các em sáng tác một cách ngẫu hứng, không chủ ý, không theo một đề tài nhất định.
Hãy đọc một số bài thơ của các em nhỏ, ta sẽ nhận ra một điều trùng hợp ngẫu nhiên là các
em miêu tả rất nhiều về thiên nhiên. Bên cạnh việc miêu tả, các em cảm nhận được sự thay
đổi của cảnh vật, thời tiết cho dù sự thay đổi đó rất nhỏ mà đôi khi chúng ta không để ý
đến.
Ánh trăng được Trần Đăng Khoa nhắc đến rất nhiều trong thơ mình (hơn 10 lần).
Trẻ em ở nông thôn ngày ấy rất thích chơi trước sân nhà vào những ngày trăng sáng. Các
trò chơi mang đậm tính dân gian: xỉa cá mè, mèo đuổi chuột, Với Trần Đăng Khoa,
trăng không chỉ là một người bạn thân thiết cùng em chơi, chia sẻ bao điều suy nghĩ mà
còn là một người bạn thơ. Vẻ đẹp của trăng làm cho mọi vật như lặng đi:
Hàng cây cau lặng đứng
Hàng cây chuối đứng im
Con chim quên không kêu
Con sâu quên không kêu
Chỉ có trăng sáng tỏ
Soi rõ sân nhà em
(Trăng sáng sân nhà em)
Thực ra, chính Trần Đăng Khoa người đứng lặng trước ánh sáng huyền diệu ấy.
Trong tư thế đó, Trần Đăng Khoa cảm giác như tất cả mọi vật xung quanh cũng đều như
thế. Ánh trăng mênh mông, bát ngát như rải thảm xuống nhân gian làm rung động một tâm
hồn bé nhỏ. Không chỉ có một lần mà còn nhiều lần khác nữa: Tiếng đàn bầu và đêm
trăng, Trông trăng, Trăng ơi từ đâu đến... Trăng gợi cho Trần Đăng Khoa biết bao liên
tưởng, so sánh, mỗi liên tưởng, so sánh là một điều bất ngờ, thú vị, ngộ nghĩnh mà lại rất
hợp với trẻ con:
Trăng như cái mâm con
Ai treo ông cao thế
Ông nhìn đàn em bé
Muốn khoe cái mặt tròn
(Trông trăng)
Trăng hồng như quả chín
Lửng lơ trước sân nhà
Trăng tròn như mắt cá
Không bao giờ chớp mi
Trăng bay như quả bóng
Bạn nào đá lên trời
(Trăng ơi từ đâu đến)
Đó là những lúc trăng tròn. Còn khi trăng khuyết thì:
Ông trăng cười những lợi
Răng chẳng chiếc nào còn
(Trăng đầu tháng)
Không chỉ có trăng mà tất cả cảnh vật ở làng quê ấy đều gợi cho chúng ta một cảm
giác thanh thản, bình yên khi đọc lên những vần thơ được viết từ tâm hồn tinh tế, nhạy
cảm, sâu sắc của Trần Đăng Khoa. Nhà thơ nhỏ này không chỉ quan sát mà còn hòa lòng
mình với thiên nhiên nên lắng nghe được mọi âm thanh, phát hiện được sự vận động của
sự vật như trong bài Chớm thu:
Nửa đêm nghe ếch học bài
Lưa thưa vài hạt mưa ngoài hàng cây
Nghe trời trở gió heo may
Sáng ra vại nước rụng đầy hoa cau.
Dường như thời khắc nửa đêm gây cho người ta niềm xúc động mạnh mẽ. Lúc này
con người sẽ được trở về sống với chính mình chứ không phải cho kẻ khác. Và, chỉ những
người nào có những nỗi niềm, trăn trở mới phải thức đến lúc này. Chú bé Trần Đăng Khoa,
có lẽ, chỉ giật mình thức giấc nhưng trong cái se lạnh của gió heo may cùng tiếng mưa khẽ
rơi và hương thơm thoang thoảng của hoa cau đã không tài nào ngủ tiếp được. Cảnh vật
thiên nhiên đã không vận động, biến đổi một mình mà còn có một con người bé nhỏ đang
lặng theo dõi. Nằm trong nhà mà nghe được nhiều sự vật như thế, hẳn không chỉ Trần
Đăng Khoa có thính giác tinh nhạy mà chính là nhờ vào vốn hiểu biết của mình. Kiểu mưa
nhẹ nhàng điểm xuyết thêm cái rét mướt của gió heo may báo hiệu một mùa Đông sắp đến
chỉ có ở đồng bằng Bắc bộ mà thôi. Một bài thơ ngắn nhưng nắm bắt được khoảnh khắc
tuyệt vời của đất trời. Em nhỏ sống ở miền Nam không thể viết được những câu thơ như
thế.
Trần Đăng Khoa còn nghe được rất nhiều âm thanh mà không phải ai cũng nghe
được nếu như không có sự tinh nhạy của giác quan, đặc biệt là tâm hồn yêu thiên nhiên sâu
đậm:
Tiếng sương đọng mật
Đọng mật trên cành tre
Nghe ri rỉ tiếng sâu
Nó đang thở cuối tường
Nghe rì rầm rặng chuối
Há miệng đòi uống sương
(Nửa đêm tỉnh giấc)
Đọc những câu như thế, chúng tôi không thể không xuýt xoa bởi phát hiện tinh vi
của Trần Đăng Khoa và tự nhủ: Thì ra giọt sương, rặng chuối, sâu cũng có âm thanh nữa
đấy. Nhưng chắc gì chúng ta nghe được nếu không có một tâm hồn như Trần Đăng Khoa.
Cái tài, cái tình của Trần Đăng Khoa còn thể hiện ở việc cảm nhận được một âm thanh mà
mình không thể gọi tên, và không biết có thực hay không:
Một tiếng gì không rõ
Xôn xao cả đất trời…
Sẽ không quá lời khi Dương Thu Hương đã mượn lời của Pautôpxki nhận xét về
Anđecxen để nói tâm hồn nhạy cảm của Trần Đăng Khoa: “ Có tài nhìn thấy trong đêm tối
tiếng quang xa của tường vi giống ánh lấp lánh của đêm trăng, (…) có tai nghe thấy tiếng
càu nhàu của một gốc cây bị dẫn lưu cữu trong rừng” [11;110].
Nếu như ở bài Chớm thu và Nửa đêm tỉnh giấc, tác giả đã gợi cho chúng ta một
không gian, thời gian thật thơ mộng, bình yên của làng quê thì ở bài Ò ó o… là một cảnh
ồn ào, náo nhiệt của làng quê vào buổi sớm: Tiếng gà – Giục quả na – Mở mắt – Tròn xoe
- Giục hàng tre – Đâm măng – nhọn hoắt – Giục buồng chuối – Thơm lừng – Trứng cuốc –
Giục hạt đậu – Nảy mầm – Giục bông lúa – Uốn câu – Giục con trâu – Ra đồng – Giục
đàn sao – Trên trời – Chạy trốn,… Tất cả như hối hả, như bừng tỉnh sau một giấc ngủ.
“Tiếng gà đánh tan âm khí nặng nề, ở hoàn cảnh nước ta đang có giặc Mĩ xâm lược…”
(Một em nhỏ làm thơ – Xuân Diệu). Tiếng gà như một hiệu lệnh báo hiệu cho một ngày
mới bắt đầu, sự vật thì sinh sôi, nảy nở, chuyển đổi liên tục còn con người thì lao động sản
xuất phục vụ cho công cuộc vệ quốc vĩ đại. Nhịp điệu bài thơ thật sôi nổi, rộn ràng như
chính cuộc sống của những năm tháng chống Mĩ “tất cả tất cả cho tiền tuyến”.
Người đọc thích và khen ngợi thơ Trần Đăng Khoa không chỉ ở cách miêu tả thật
hay, chân thật mà còn ở chỗ các sự vật đều có hồn, đều biến chuyển, vận động như con
người. Trẻ em thường lầm tưởng những điều chúng trông thấy thực sự và những điều
chúng tưởng tượng từ thực tế ấy. Bởi thế, thơ của chúng miêu tả về sự vật vừa quen mà
cũng vừa lạ lùng, ngộ nghĩnh, đáng yêu. Những chuyển đổi âm thầm của vạn vật được
Trần Đăng Khoa cảm nhận một cách tinh tế: trời trở gió heo may, sắp mưa, tiếng gió trở
mình trăn trở trong đêm thu, nhịp thở của cái ngõ nhỏ, tiếng sâu, tiếng hạt sương đọng mật,
“tiếng cây lách cách đâm chồi” và tuyệt vời hơn nữa là tiếng rơi của chiếc lá đa “tiếng rơi
rất mỏng như là rơi nghiêng”. Câu thơ này đã được mọi người hết lời khen ngợi. Nghiêng
gợi tả hình dáng nhiều hơn nên khi mới đọc ta cứ nghĩ rằng người viết đã trông thấy chứ
không phải nghe thấy.
Đọc thơ Trần Đăng Khoa, ta như được sống với những hình ảnh dung dị nhất về
một miền quê yên bình, ấm áp tình người. Tất cả những sự vật, sự việc, con người dưới
con mắt trẻ thơ thông minh, đầy sáng tạo đã đi vào thơ đong đầy kỉ niệm. Một phút đứng ở
bờ ao nhìn hoa khế rụng, nghe tiếng chim hót, một lần sang nhà bạn thấy chú bù nhìn, một
mầm hoa dại ven đường,… cũng gợi cho Trần Đăng Khoa niềm thương mến thiết tha. Tất
cả hồn quê được Trần Đăng Khoa lưu giữ bằng thơ để những ai mỗi khi nhớ quê hương
đọc lên cảm thấy mình đã tìm được một đồng hương, một tri âm.
Viết về thiên nhiên thành công như thế, phải thừa nhận rằng bên cạnh tâm hồn, tài
năng của mình Trần Đăng Khoa còn học tập rất nhiều từ văn học dân gian và các nhà văn,
nhà thơ bậc thầy. Những học tập đó được vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo. Trong bài
Đám ma bác Giun ta thấy thấp thoáng hình bóng ca dao:
Con cò mắc dò mà chết
Mẹ con bìm bịp đổ thóc nếp ra xay
Cà cuống uống rượu la đà
Con cóc, con ngóe nhảy ra chia phần
Từ nhà văn Tô Hoài, Trần Đăng Khoa đã học để viết “Bờ tre vẫn chú dế mèn vuốt
râu” (Gửi bạn Chi-lê) dựa vào “Dế mèn phiêu lưu kí” và “Hạt mẩy uốn cong – Chim ngói
bay theo đàn” dựa vào đoạn văn “Tháng năm chim gáy đi ăn đôi, tháng mười chim gáy về
theo đàn”. Từ nhà văn Anđecxen, Trần Đăng Khoa viết “Chim co chân ngủ - Lim dim cành
tre” dựa vào hình ảnh con cò “đứng một chân vững ra phết”, “Cô gió chăn mây trên đồng”
dựa vào hình ảnh của cô bé chăn cừu trong truyện. Từ nữ sĩ Anh Thơ, Trần Đăng Khoa
viết “Bố em đi cày về - Đội sấm – Đội chớp – Đội cả trời mưa” dựa vào bài Chiều xuân:
“Ngoài đường lội, một vài người về chợ - trĩu gánh hàng như trĩu cả quang mưa”.
2. Hình ảnh người nông dân.
Bên cạnh thiên nhiên thì con người cũng được Trần Đăng Khoa miêu tả chân thực,
sinh động. Chủ yếu là những người nông dân với đời sống nhọc nhằn, vất vả mà tâm hồn
trong trắng, mộc mạc và giàu nghĩa tình.
Người nông dân mà Trần Đăng Khoa gần gũi và yêu thương nhất chính là bố mẹ
của mình. Là con nhà nông, Trần Đăng Khoa am hiểu tường tận công việc bố mẹ làm hàng
ngày. Những vần thơ em viết về bố mẹ cũng chính là viết về người nông dân nói chung ở
quê hương mình.
Hạt gạo làng ta như một khúc hát yêu thương, ca ngợi những người nông dân. Ai
cũng biết rằng để có được hạt gạo thì người nông dân phải làm lụng rất vất vả: “ Giọt mồ
hôi sa – Những trưa tháng sáu –Nước như ai nấu – Chết cả cá cờ - Cua ngoi lên bờ - Mẹ
em xuống cấy…”. Ta thấy có sự đối lập giữa hai hình ảnh Cua ngoi lên bờ và Mẹ em xuống
cấy. Từng nhánh mạ tươi non, thẳng đều tăm tắp đều có giọt mồ hôi của mẹ nhỏ xuống.
Người viết sống ở miền Nam, quanh năm đối mặt với cái nóng cứ ngỡ rằng miền Bắc cũng
chẳng hơn gì. Nhưng khi đọc bài Ao nhà mùa hạn mới biết mình đã sai:
Mùa mưa mà mưa chẳng đến
Đáy sâu nẻ toác khi nào
Rêu nằm mơ những sấm sét
Rồi khô trên cọc cầu ao…
Cái nắng như muốn hủy diệt tất cả. Rêu là loại thực vật dễ sống, chỉ cần không khi
hơi ẩm cũng đủ để chúng tồn tại. Thế nhưng thời tiết khắc nghiệt, mưa chỉ còn là niềm mơ
ước. Và chúng đã chết khô. Trong khi đó con người, nhất là người nông dân vẫn phải ra
đồng lao động. Người đọc như được Trần Đăng Khoa truyền sang nỗi thấm thía, xúc động
mạnh mẽ xen lẫn cảm thông, biết ơn những con người ngày đêm lao động, cống hiến thầm
lặng cho cuộc sống này. Những câu thơ “chạm vào bản chất của nông dân quê hương”
[14; 19]. Giọt mồ hôi gợi cho ta liên tưởng đến câu ca dao:
Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày
Nếu như mẹ em đứng cấy bất chấp cả cái nắng gay gắt, dữ đội của mùa hè Bắc bộ
thì bố em là người hùng trong cơn mưa: “Bố em đi cày về - Đội sấm – Đội chớp – Đội cả
trời mưa…”. Bức chân dung của người nông dân không bị mưa gió làm nhạt nhòa mà ngời
sáng như một tâm điểm của đất trời. Nắng mưa hay thậm chí là những thiên tai nào khác là
điều mà người nông dân phải chống chọi, phải vượt qua. Sức mạnh của họ không phải là
sức mạnh thần thánh mà chính là sức mạnh đã trải qua những năm tháng lao động vất vả
cùng với niềm tin bất diệt: Cuộc kháng chiến của dân tộc ta sẽ chiến thắng, đất nước ta sẽ
thống nhất hoàn toàn. Niềm tin đó là động lực thúc đẩy họ lao động và chiến đấu trong lạc
quan. Trên cánh đồng lúc nào cũng có tiếng nói, tiếng cười:
Nơi này mấy bác cày
Đâu nghiêng nghiêng chiếc nón…
Nơi kia là mấy chị
Thì thòm tát gầu dai…
Nơi ấy mấy cô cấy
Ngửa tay phí mặt trời
Mạ bén hàng thẳng đứng
Hồn nhiên trong tiếng cười
(Cánh đồng làng Điền Trì)
Đời sống tinh thần của người nông dân rất đơn giản, bình dị. Niềm vui của họ là
niềm vui được lao động, được cống hiến, được gặt hái những bông lúa vàng tươi sau một
vụ mùa:
Chị chủ nhiệm rũ rơm
Anh dân quân đập lúa
Thóc nở bung như sao
Nhuộm vàng cả trời sao.
(Thôn xóm vào mùa)
Trần Đăng Khoa viết nhiều về người nông dân không chỉ trên đồng ruộng mà còn
trên sông nước, trong các công việc kiến thiết nước nhà. Đó là bác chài ngồi “buông câu
trong bóng chiều” (Bên sông Kinh Thầy). Đó là các chị đi sửa đường hò vang theo từng
vòng bánh xe lăn trên đường (Chiếc ngõ nhỏ). Đó là các chị thanh niên xung phong (Đi tàu
hỏa). Đó là bác kéo xe chở vật liệu về xây dựng trường học (Lọc cà lọc cọc)… Người nông
dân trong thơ Trần Đăng Khoa là con người mới, tuy vất vả, khó nhọc nhưng năng động và
yêu đời, say mê nghệ thuật khác hẳn người nông dân lầm lũi trong ca dao xưa. Miền Bắc là
cái nôi văn hóa nghệ thuật, người dân xem sân khấu và âm nhạc là hơi thở, là lẽ sống của
mình. Thế nhưng kẻ thù đến, mang theo bom đạn ngày đêm gào thét. Tiếng đàn, tiếng hát,
những tuồng chèo,… bỗng trở nên quý báu, là niềm khao khát của con người Việt Nam.
Những khi đoàn văn công đến làng thì vui như hội. Tất cả bà con đều tập trung quanh các
anh văn công Quân giải phóng để lắng nghe tiếng đàn, tiếng hát:
Chị dân quân lái máy cày
Ngón chân cái vết bùn non còn lấm
Cụ già mấy lần tiễn cháu con ra trận
Đông nhất là trẻ em lên chín, lên mười
Tất cả bỗng thành thi sĩ
(Tiếng đàn bầu và đêm trăng)
Cũng có khi làng tự tổ chức đêm văn nghệ. Thế là những nông dân lam lũ hàng
ngày bỗng trở thành diễn viên. Họ đã sống hết mình với vai diễn:
Kìa cô Thị Mầu lên chùa
Đỏng đảnh dáng đi, mắt liếc
Ngắm cái tay cô phẩy quạt
Tưởng mình sống đã trăm năm
(Cô Thị Mầu)
Những người xem cũng chỉ biết có cô Thị Mầu đỏng đảnh:
Người xem thoáng như quên chị
Chiều nay gánh lúa trên đồng
Tảo tần nuôi em, nuôi mẹ
Mười năm ròng rã chờ chồng…
Cả cuộc đời gắn bó với ruộng đồng, với lũy tre làng, cây đa, bến nước… nhưng khi
đất nước lâm nguy, họ sẵn sàng lên đường chiến đấu, không một chút đắn đo, do dự. Hình
ảnh chú dế mèn điềm nhiên vuốt râu (trong Gửi bạn Chi-lê) là tư thế của người nông dân
ung dung, sẵn sàng ra chiến trường chiến đấu bảo vệ từng tấc đất, ngọn rau cho quê hương,
đất nước mình. Để rồi có người ngã xuống ở vùng đất xa xôi nào đó của Tổ quốc, có người
trở về với thân thể không còn nguyên vẹn, lại tiếp tục làm bạn với cái cuốc, cái cày, con
trâu, tiếp tục lao động, tiếp tục cống hiến. Ở thời kì sau (1975 đến nay), thơ của các em
thiếu nhi vẫn viết về thiên nhiên, về con người, nhất là những người thân xung quanh mình
nhưng không có được cái không khí khẩn trương, sôi nổi như Trần Đăng Khoa và các bạn
của mình đã viết trong thời đại kháng chiến chống Mĩ.
Tình cảm của con người và cảnh vật nơi đồng ruộng được Trần Đăng Khoa thẩm
thấu và đưa vào bài Khi mùa thu sang. Cảnh vật không lạ nhưng ăm ắp tình làm cho Trần
Đăng Khoa muốn kêu to lên “Thu sang rồi đấy! Thu sang!”. Chúng tôi nghĩ, thơ hay
không chỉ ở các con chữ đọc lên nghe mượt mà, êm dịu mà cốt ở cái tình của tác giả đối
với đối tượng được thể hiện. Nếu tác giả không xúc động, không có cái tâm mà chỉ muốn
phô diễn sự lạ thì làm sao có thể thổi hồn vào các con chữ được? Chúng tôi rất tán đồng ý
kiến cho rằng Trần Đăng Khoa đã sáng tác “không chỉ bằng tâm hồn của một cậu bé lớn
lên cùng những trò chăn trâu, thả diều, bắt cá mà thực sự còn bằng máu thịt của người
nông dân” [5; 153]. Ai đã hòa nhịp thở của mình với từng thay đổi rất nhỏ của của vạn vật
mới có thể cảm nhận được: “Mùi bùn đang ngấu – Mùi phân đang hoai – Vôi chưa tan hẳn
- Còn hăng rãnh cày…” để rồi say sưa, ngây ngất: “Trời đất đêm nay – Như chim mới hót
– Như rượu mới cất – Như mật mới đong… Thịt da ta cũng – Tỏa hơi ruộng đồng…”
(Hương đồng). Thiên nhiên và con người hòa làm một:
Đất trời cách một gang mây
Và tôi cùng với luống cày tỏa hương…
(Đồng chiều)
3. Âm vang của thời đại qua một tâm hồn thơ trẻ.
3.1. Số phận của những em bé Việt Nam trong chiến tranh
Càng yêu quê hương, đất nước Việt Nam bao nhiêu thì con người Việt Nam càng căm thù giặc Mĩ bấy
nhiêu. Không chỉ có người lớn mới biết yêu thương và căm thù mà trẻ con cũng thế. Lẽ ra, trong tâm
hồn ngây thơ, trong trắng của những trẻ em ở lứa tuổi Trần Đăng Khoa lúc bấy giờ chỉ nên có lòng yêu
thương chứ không có lòng thù hận. Khi Trần Đăng Khoa lên bảy, lên tám thì bè lũ Nhà Trắng bắt đầu
mở rộng chiến tranh ra miền Bắc. Trong hoàn cảnh chiến tranh, chứng kiến những hoang tàn, đổ nát,
chết chóc do chiến tranh gây ra như thế làm sao có thể không đau xót? Tập thơ Góc sân và khoảng trời
của Trần Đăng Khoa là những lời đồng cảm sâu sắc giúp chúng ta thấu hiểu được số phận và tâm hồn
của những em bé Việt Nam trong chiến tranh.
Đáng lí ra, những em bé - mầm non của một đất nước - phải được nâng niu, chămsóc và tạo mọi điều
kiện để phát triển, để các em được hưởng mọi ưu ái như lời Tố Hữu
luôn căn dặn những nhà văn, nhà thơ khi sáng tác cho thiếu nhi phải luôn tâm niệm một
điều: “Cái gì càng ngon, càng hay, càng đẹp, càng vui thì chúng ta để dành cho các em”.
Đằng này, các em lại là những nạn nhân trực tiếp hoặc gián tiếp phải gánh chịu
những hậu quả của khói lửa, đạn bom. Hậu quả trực tiếp: có biết bao sinh mạng của những
người thân của các em bị bị chiến tranh cướp đi và chính các em cũng bị chiến tranh giết
hại “nó thiêu cả bé chưa và được cơm” (Gửi bạn Chi-Lê). Hậu quả gián tiếp: Người lớn
(ông bà, cha mẹ…) không có nhiều thời gian để chăm sóc cho con em của mình, bởi vì họ
bận sản xuất, chiến đấu và nuôi bộ đội hay bất kì công việc gì góp phần bảo vệ đất nước.
Thế nên, các em phải tự chăm sóc bản thân mình là chính. Cũng là một em nhỏ như bao
em nhỏ khác, Trần Đăng Khoa đã nhìn thấy và xót xa về điều đó qua nhiều bài thơ trong
26
tập Góc sân và khoảng trời mà hình ảnh gần gũi và được nhắc khá nhiều là em gái của
mình - bé Thúy Giang. Thường là mọi người trong nhà đi vắng hết, bé Giang phải ở nhà
một mình. Ta có thể hình dung khuôn mặt tiu nghỉu thật tội nghiệp khi em nhìn trước, ngó
sau chẳng thấy ai khác ngoài chú mèo:
Cả nhà vắng hết
Chỉ còn bé Giang
Bé đánh tam cúc
Với con mèo hoang
(Đánh tam cúc)
Bé đã nảy ra một trò chơi với người bạn nhỏ này. Đối với mọi người, bé Giang chỉ
là một em bé 4, 5 tuổi, vẫn còn rất nhỏ. Vậy mà, khi chơi với chú mèo khoang, bé lại trở
thành người lớn. Bé rất biết nhường nhịn chú mèo khi nó tỏ ra nũng nịu:
À thôi mày được
Bé Giang dỗ dành
Mèo lè lưỡi đỏ
Liếm vào răng nanh…
Trần Đăng Khoa rất thương, rất thấu hiểu và thông cảm với bé Giang. Bản thân
Trần Đăng Khoa mới ít tuổi đầu cũng đã tỏ ra là người lớn qua những lời dặn dò em:
Dặn em đừng có chơi xa
Máy bay Mĩ bắn không ra kịp hầm
Đừng ra ao cá trước sân
Đuổi con bươm bướm trượt chân ngã nhào
Đừng đi bêu nắng nhức đầu
Đừng vầy nghịch đất, mắt đau, lấm người
(Dặn em)
Những “đừng” trong lời dặn dò thể hiện thái độ quan tâm, chăm sóc của một người
anh dành cho em và cũng chứng tỏ Trần Đăng Khoa phải người lớn so với tuổi của mình.
Không chỉ thương mỗi bé Giang, Trần Đăng Khoa còn nhận ra xung quanh mình còn có
những số phận trẻ em đồng trang lứa với mình phải chịu những bất hạnh của cuộc chiến
tranh xâm lược của kẻ thù:
Em biết lúc này giặc Mĩ đang đốt giết
Những bé thơ cùng với các đồ chơi
Những mái nhà cùng với tiếng chim vui
Những cánh rừng cùng với vầng trăng bạc
(Thư thơ)
Và ngay cả các con vật đồng thời là người bạn nhỏ mà các em yêu thương cũng bị
bom đạn làm cho khiếp sợ mà chạy tán loạn (Sao không về Vàng ơi)
Lớn hơn tuổi không chỉ có việc nhận thức đó, Trần Đăng Khoa ý thức được nỗi cực
nhọc của mẹ. Ý thức đó được thể hiện bằng hành động cụ thể, Trần Đăng Khoa đã giúp mẹ
làm rất nhiều công việc: Chống hạn, bắt sâu, chọc ếch, đưa em ngủ (trong “Tiếng võng
kêu”), kéo xe chở phân lót ruộng (trong “Cánh đồng làng Điền Trì”) … Khi mẹ vắng nhà,
Trần Đăng Khoa giống như một cô Tấm hiền lành, đảm đang trong cổ tích bà từng kể :
Khi mẹ vắng nhà, em luộc Trần Đăng Khoai
Khi mẹ vắng nhà, em cùng chị giã gạo
Khi mẹ vắng nhà, em thổi cơm
Khi mẹ vắng nhà, em nhổ cỏ vườn
Khi mẹ vắng nhà, em quét sân và quét cổng
Những gì Trần Đăng Khoa làm giúp cha mẹ thì có lẽ những em bé khác cũng thế,
tất cả các em phải làm lụng vất vả và bớt phần vô tư đùa nghịch. Các em chăm ngoan như
thế, nhưng khi được mẹ khen ngợi thì chẳng chịu nhận mà cứ một mực “con chưa ngoan,
chưa ngoan!”. Trong những đầu óc ngây thơ ấy đã biết nghĩ rằng việc của mình làm chỉ là
cỏn con, chưa thể bù đắp được những vất vả, gian lao của mẹ:
Áo mẹ mưa bạc màu
Đầu mẹ nắng cháy tóc
Mẹ ngày đêm khó nhọc
Một em bé mới 9 tuổi đầu đã biết quan sát hiện tượng (áo mẹ bạc màu, tóc mẹ cháy
nắng) để nhìn ra bản chất (mẹ ngày đêm khó nhọc). Vì đâu mà các em phải sớm già dặn
như thế nếu không phải vì cuộc xâm lược phục vụ cho lòng tham lam, độc ác của bọn đế
quốc Mĩ? Hiện thực cuộc sống đòi hỏi các em phải như thế. Chính các em cũng hiểu được
sự già dặn, khôn ngoan của mình là do đâu mà có:
Anh chớ bảo em là khôn trước tuổi
Cái gì cần nhớ trước thì nhớ trước
Cái gì không cần thì tạm nhớ sau
(Bọn trẻ xóm em – Hoàng Hiếu Nhân)
Sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh chiến tranh, phải tự chăm sóc bản thân khiến các
em sớm có ý thức hơn nhưng không vì thế mà mất đi nét hồn nhiên, ngây thơ vốn có của
trẻ nhỏ. Tập thơ của Trần Đăng Khoa đã miêu tả rất sinh động những trò chơi mà chỉ có
những em thiếu nhi ở vùng nông thôn mới có được. Đó là các trò chơi rất đậm chất dân
gian: xỉa cá mè, mèo đuổi chuột, thả diều,… Tất cả những trò chơi ấy thường diễn ra dưới
ánh trăng vàng - người bạn thân thiết của Trần Đăng Khoa.
Vẻ ngây thơ đáng yêu của các em được thể hiện qua cái nhìn hết sức ngộ nghĩnh mà
người lớn không thể nào có được:
Ông trăng cười những lợi
Răng chẳng chiếc nào còn
(Trăng đầu tháng)
Trăng đầu tháng khuyết và nếu từ dưới đất nhìn lên thì thấy một vài vệt đen nhô lên
làm cho bé thơ liên tưởng đến lợi của con người và sau đó lại thắc mắc rất ngây ngô nhưng
có lí:
Chú ơi trăng già thế
Sao bà bảo trăng non?
(Trăng đầu tháng)
Có lí bởi vì mọi người gọi trăng đầu tháng là trăng non nhưng trong mắt trẻ thơ thì
trăng lúc ấy trông giống như một cụ già đã rụng hết răng, chỉ còn trơ lợi mà thôi. Câu thơ
hồn nhiên và nói rất đúng tâm lí của trẻ thơ. Chúng có vô số thắc mắc và mong muốn được
giải đáp.
Ngoài việc thắc mắc, chúng rất hay bắt chước những hình ảnh, hành động của ai đó
mà chúng trông thấy hàng ngày và đặc biệt là có cảm tình với hình ảnh, hành động đó.
Hoàng Hiếu Nhân, nhà thơ trẻ cùng trang lứa với Trần Đăng Khoa, đã diễn tả lại hình ảnh
chú bộ đội lúc hành quân làm cho cả nhà vô cùng thích thú vì em đã gọi lại những kỉ niệm
chiến đấu một thời. Cháu bé Minh Hà thì khác. Cháu đã làm điệu bộ y hệt bà của mình
khiến cho mọi người vừa ngạc nhiên vừa xúc động:
Cái chân thì khệnh khạng
Tay vắt vẻo lưng cong
Đầu vấp va vấp vểnh
Cháu bỗng hóa bà còng
(Cháu làm bà còng)
Trần Đăng Khoa đã miêu tả chính xác hình dáng và điệu bộ của người bà qua các từ
láy giàu sức gợi hình: khệnh khạng, vắt vẻo, vấp va vấp vểnh. Hình ảnh người bà được
khắc họa mang dấu ấn của thời gian và chứa đựng niềm yêu thương tha thiết của tác giả.
Ở một bài thơ khác cháu bé lại tạo rất nhiều dáng điệu đáng yêu như đang được
chụp ảnh:
- Nón che kín đầu
Cháu thành con ốc
- Khăn bay mái tóc
Cháu hoá bướm hồng
- Váy hoa quay tít
Cháu thành con ong
- Nằm giữa lòng ông
Cháu là hạt thóc…
(Chụp ảnh)
Và đây nữa, sự vô tư của em nhỏ tội nghiệp, mới vài tuổi đầu đã biết thế nào là bom
đạn:
- Chú này buồn cười lắm nhé
Bom rùng. Cháu lại ngủ mê
Cứ tưởng tay bà đưa võng
Như ngày ru cháu ở quê..
(Cháu về)
Lời kể của cháu nhỏ nghe “líu ríu như là tiếng chim” nhưng nội dung lời kể lại chứa
đựng cả một sự thật lịch sử đang diễn ra trên đất nước ta. Chiến tranh đã dạy cho bé biết:
- Chú ơi, nếu còn bom Mĩ
Chú phải bịt tai thế này
Cháu bỗng xoay người ngang ghế
Như vừa có tiếng máy bay
(Cháu về)
Ngoài bản tính hồn nhiên, ngây thơ vốn có của trẻ thơ các em thiếu nhi của Việt
Nam trong chiến tranh còn có những điểm khác với trẻ em thế giới là luôn tự tin, rắn rỏi
trong hoàn cảnh khó khăn, khắc nghiệt:
Và các bạn thiếu niên
Bằng tuổi em
Trong tầm ngắm súng thù
Vẫn treo cao cờ đỏ
(Điều anh quên không kể)
Chúng tôi đến lớp ngày ngày
Mũ rơm tôi đội, túi đầy thuốc men
Ao trường vẫn nở hoa sen
Bờ tre vẫn chú dế mèn vuốt râu
(Gửi bạn Chi-Lê)
Và rất hiên ngang qua lời khẳng định :
Chúng tôi chẳng sợ Mĩ đâu
Vẫn vui vẫn hát những câu rộn ràng
(Gửi bạn Chi-Lê)
Đó là những dòng thơ mà Trần Đăng Khoa đáp lại với bạn bè thế giới và cũng để
đính chính lại ý nghĩ :
Người bạn nhỏ Việt Nam
Vắng nụ cười trên môi
(“Bức thư ngỏ Việt Nam” của Miraga Hilimét- thiếu nhi nước
Chi-lê)
Đúng là thiếu nhi Việt nam có đói cơm, khát nước, có vất vả vì phải tự chăm sóc
bạn thân, phải lao động trong hoàn cảnh khắc nghiệt của chiến tranh nhưng không vì thế
mà “vắng nụ cười trên môi”. Trái lại, các em “vẫn vui vẫn hát những câu rộn ràng”. Đó là
một đặc điểm không thể thiếu của lứa tuổi thiếu nhi. Và đó cũng thể hiện niềm tin của các
em vào tương lai tươi sáng của đất nước. Niềm tin ấy là có cơ sở thực tiễn. Khi Trần Đăng
Khoa làm bài thơ “Gửi bạn Chi-lê” thì đất nước ta đang có nhiều thắng lợi trên các chiến
trường cả nước:
Miền Nam thắng trận Đông Xuân
Miền Bắc bắn rụng hàng ngàn máy bay
Lạc quan, tin tưởng vào tương lai của đất nước, các em thiếu nhi Việt Nam rất
muốn đóng góp công sức của mình vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Ngày
ngày, các em làm những công việc vừa sức của mình như lời Bác Hồ dạy “tuổi nhỏ làm
việc nhỏ” và không lúc nào thôi mơ ước cho tương lai:
Nếu còn thằng giặc Mĩ
Hay bất cứ giặc nào
Tớ sẽ đi bộ đội
Giọng Tư nghe tự hào
(Bắt ông Rừng nộp củi)
“Nếu các thằng giặc thua”- lời tiên đoán của một đứa trẻ mà lại tràn đầy niềm tin
tưởng mang tính cách của con người Việt Nam: lạc quan trong mọi hoàn cảnh. Sau lời tiên
đoán ấy thì các em chia nhau các công việc góp phần xây dựng đất nước: em thì làm nhà
du hành vũ trụ, em thì vào văn công, em thì sẽ bắc chiếc cầu dài qua sông. Mơ ước bắc
chiếc cầu “dài hàng trăm ngàn thước” của các bạn Trần Đăng Khoa thật trùng hợp với lời
của Đỗ Thị Đoan Trang tâm tình với cây gạo:
Cây nhủ em: chóng lớn
Học giỏi thành công nhân
Bắc cầu trên sông rộng
Cho đò khỏi sang ngang.
Trẻ con nào chẳng mơ ước. Có những mơ ước thật cao xa và cũng có nhưng mơ ước
thật giản dị nhưng tất cả đều xuất phát từ ý muốn làm giàu đẹp cho quê hương đất nước.
Riêng Trần Đăng Khoa thì mơ ước “suốt đời làm thơ”. “Cái ước mơ thành nghệ sĩ này quả
là một nét mới” [17a; 48].
Những câu thơ như thế đã trả lời cho câu hỏi mà bao năm nay thế giới đã dày công
đi tìm đáp án: Tại sao Việt Nam - một đất nước nhỏ bé - lại có thể chiến thắng được Mĩ -
một đế quốc đã có nhiều chiến tích lẫy lững trong các cuộc xâm lược các quốc gia trên thế
giới? Chính kẻ thù của chúng ta cũng đã và đang đau đầu bởi họ vẫn không thể tin được
một yếu tố phi vật chất lại làm nên lại làm nên thắng lợi trong cuộc chiến không cân sức:
tinh thần dân tộc. Họ tin vào sức mạnh quân sự, sức mạnh kinh tế và những chiến thuật
tinh vi đến từng milimet. Điều đó cần thiết cho mọi cuộc chiến. Thế nhưng, họ lại quên đi
lịch sử. Dân tộc ta đã kiên cường, bất khuất đập tan ách đô hộ của 1000 giặc Tàu, 80 năm
đô hộ giặc Pháp thì lẽ nào lại cam phận làm nô lệ một lần nữa? Lời của Hồ Chủ tịch trong
bản Tuyên ngôn độc lập bất hủ đã nói thay lời non sông: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết
đem cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và tài sản để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
3.2. Lòng căm thù giặc Mĩ sâu sắc
Qua những câu thơ rất chân thực, Trần Đăng Khoa đã vẽ ra trước mắt người đọc
ngày ấy và bây giờ một cảnh mà nơi nơi, người người, kể cả trẻ con cũng nín thở vì một tin
dữ dội:
Mẹ nấu cơm dụi lửa
Bố em họ trâu giữa đường
Các cô thầy
Ngừng giảng bài giữa lớp
Bạn Tĩnh. Bạn Nho, bạn Lập
Bạn nào mắt cũng đỏ hoe
Bé Giang ngồi ở đâu hè
Cũng thôi đánh chuyền đánh chắt
(Hà Nội có Bác Hồ)
Năm 1972, tổng thống Mĩ đã ra lệnh ném bom B52 rải thảm Hà Nội, Hải Phòng và
oanh tạc miền Bắc sát hại hàng ngàn người dân vô tội, người già, trẻ con chúng cũng
không tha. Làm sao mà không chua xót, không căm thù khi hình ảnh “hố bom sâu - thăm
thẳm hố bom sâu” (Bến đò) ngày ngày hiển hiện trước mắt mình.
Đế quốc Mĩ mà đứng đầu là tổng thống Ních-xơn không chỉ gây ra tội ác đối với đất
nước và con người Việt Nam nói chung, thiếu nhi Việt Nam nói riêng mà còn đối với biết
bao thiếu nhi trên thế giới. Vậy mà khi đứng trong nghĩa trang của những người bị Hít-le
tàn sát, hắn đã nhỏ những giọt nước mắt như thương cảm sâu sắc lắm vậy. Mặc dù tội ác
đó được ngụy trang, ngụy biện bằng nhiều hình thức nhưng ai cũng nhận ra được sự thật.
Hành động giả nhân, giả nghĩa của bọn chúng không thể gạt được một đứa trẻ con. Trong
nghĩa trang mà Ních-xơn đang viếng có mộ của bé gái Tania (12 tuổi). Trần Đăng Khoa đã
hóa thân vào Tania để vạch trần bộ mặt của “ngài tổng thống” nói riêng và bọn đế quốc Mĩ
nói chung:
Ý nghĩ của hắn chạy từ đầu xuống chân
Từ chân xuống đất sâu nên tôi nghe hết:
“Nếu mày sống thì ông cũng giết”
(Lời một bạn gái mười hai tuổi)
Khi viết những câu thơ như thế thì hẳn người viết đã chất chứa trong lòng niềm căm
thù tột độ. Và đó không còn là sự căm thù cảm tính mà là tình cảm có chỉ dẫn của lí trí.
Đừng cho rằng trẻ con không có khả năng đó. Hãy đọc kĩ bài thơ ta sẽ thấy giọng điệu trẻ
con được giữ nguyên, không có một chút gượng ép, gò bó. Chính vì thế mà ta thấm thía
được bản chất của Đế quốc. Ai cũng nhận ra một điều giản dị: Ý nghĩ hắn (Ních-xơn) chạy
từ đầu xuống chân và chân liền với đất nên người nằm dưới mồ sâu trong ngót 30 năm vẫn
nhận ra được.
Không chỉ nhìn thấy được tội ác của giặc Mĩ không chỉ trên mặt đất, dưới lòng đất
mà còn dưới cả âm phủ. Trần Đăng Khoa đã tưởng tượng ra cảnh linh hồn đoàn người bị
bọn Mĩ giết hại lũ lượt kéo nhau đến đập của Diêm Vương đòi trừng phạt bọn giết người.
Bài thơ “Đập cửa Diêm Vương” có giá trị tố cáo thật sâu sắc: Những cụ già không tìm thấy
các bộ phận của thân thể mình, những bà mẹ bụng mang dạ chửa cũng bị giết hại, những
em bé thơ “đang lẫy đang bò”, “đang phi ngựa gỗ” không tìm được cha mẹ, ông bà… Nó
khiến những người đã từng sống trong chiến tranh thì ngậm ngùi chua xót, những người
chưa từng trải thì rùng mình, căm giận. Tất cả đều thắc mắc:
Tại sao Ních-xơn mang bom bi, bom phá
Bom hơi, bom Trần Đăng Khoan, bom lửa
Trút xuống đầu ta…
Trong khi họ - những người đã chết và chúng ta – những người
đang sống đều như
nhau:
Ta yêu sông Mi-xi-xi-pi của các ngươi
Như ta yêu sông Hồng của ta nhận nước bốn phương trời
Chưa bao giờ, và sẽ chẳng bao giờ
Ta nghĩ đến ném bom nước Mĩ.
Trong đoàn người đó có cả những em bé chết do bom Mĩ mà
không tìm thấy cha mẹ
của mình. Các em đã gọi thống thiết:
- Gió ơi! Gió ơi!
Cháu không tìm thấy mẹ cháu rồi
Mẹ cháu không gầy, không béo
Mẹ cháu không già không trẻ…
Bây giờ không ai cho cháu ăn
Không ai cho cháu ngủ
(Đập cửa Diêm Vương)
Tội ác của đế quốc Mĩ không chỉ vấp phải sự phản đối của nhân dân ở bản xứ mà
còn của cả thế giới, thậm chí là ngay cả nhân dân Mĩ yêu chuộng hòa bình và thiện chí.
Những thiếu nhi Mĩ đã hết sức đau xót, xấu hổ về hành động của cha anh mình. Tất cả
nhũng điều đó được thể hiện bằng việc nhân dân Mĩ liên tục tham gia vào các cuộc biểu
tình phản đối chiến tranh của đế quốc Mĩ ở Việt Nam. Hình ảnh của một thiếu nhi Mĩ đi
biểu tình đã khơi dậy trong Trần Đăng Khoa niềm xúc động mãnh liệt:
Bạn cùng đoàn người đi như thế
Đã mấy năm rồi
Cánh tay giơ lên
Không biết mỏi
Bạn đến khắp nơi trên thế giới
Miệng bạn thét vang
- Giôn-xơn không được giết trẻ con
- Giôn-xơn phải rút hết quân xâm lược
(Xem ảnh bạn thiếu nhi Mĩ đi biểu tình ở báo ảnh Việt Nam)
Căm thù giặc Mĩ, Hoàng Hiếu Nhân đã nặn tượng đất sét hình Ních-xơn với hình
thù kì quái và khẳng định:
Nếu đem đặt ra đường
Ai chẳng đòi vặn cổ.
(Thằng Ních-xơn)
Trong bài thơ “A! em biết thằng giặc Mĩ rồi!”, trẻ em đã biểu hiện thái độ căm thù
của mình và được cụ thể bằng hành động khi thấy máy bay Mĩ bị quân ta bắn rớt xuống
cánh đồng:
Bố em cầm đòn càn
Mẹ em mang đòn gánh
Chị em mang khẩu súng
Bé Giang mang que cời
Con chó Vàng mang hàm răng nhọn hoắt
Em không biết mang gì
Vớ ngay hòn đá
Cách đánh giặc của gia đình của Trần Đăng Khoa tiêu biểu cho cách đánh giặc của
đất nước ta qua các thời kì chống ngoại xâm. Chống lại kẻ thù chỉ bằng những vũ khí hết
sức thô sơ, có khi chỉ là những công cụ lao động nông nghiệp thường ngày. Thế nhưng, với
sức mạnh của lòng yêu nước nồng nàn, ý chí chiến đấu anh dũng và mục đích vệ quốc
chính nghĩa, chúng ta đã thắng lợi vẻ vang.
Em kể chuyện này là phản ứng của các em nhỏ khi gặp dấu chân của kẻ thù hằn trên
mảnh đất quê nhà:
Những dấu chân
Trông vào nhức mắt
Các bạn đã đào đổ xuống ao rồi
Từ lúc sáng mờ sương
Cho đến khi tiếng trống gọi về trường
Vẫn chưa hết những dấu chân trên cát
Vẫn chưa hết những dấu chân độc ác
Các bạn còn đào đổ xuống ao sâu.
Đọc bài thơ này, có nhiều người cho là không thật sự, bởi ngoài đời có ai làm như
thế bao giờ. Cách thể hiện khá ngộ nghĩnh, mang dấu ấn điển tích Sào Phủ, Hứa Do. Nên
nhớ rằng, tác giả có quyền dùng các hình tượng văn học để bộc lộ quan điểm, tư tưởng của
mình. Chúng ta đừng hỏi rằng “điều đó có thật không?”mà hãy hỏi rằng “qua đó tác giả
thể hiện điều gì?”. Nếu hỏi như câu sau thì chúng ta đã có câu trả lời: Trần Đăng Khoa
hay bất cứ một người Việt Nam yêu nước nào cũng căm thù giặc, cũng thấy “nhức mắt”
trước sự tồn tại của kẻ thù trên mảnh đất quê hương. Các em càng căm thù giặc Mĩ thì lại
càng thể hiện lòng yêu thương. Bởi lẽ thường, chúng ta căm ghét những gì phương hại đến
điều chúng ta yêu thương. Các em yêu đất nước Việt Nam, con người Việt Nam nên khi
đất nước Việt Nam bị giày xéo, con người Việt Nam bị giết hại thì lòng căm thù ấy trỗi
dậy. Đó là một hiện tượng tâm lí rất bình thường.

You might also like