Professional Documents
Culture Documents
N I Dung TĐK
N I Dung TĐK
Thế giới thiên nhiên, loài vật và con người trong thơ Trần Đăng Khoa hiện lên thật sống động. Đến với
thơ của anh, ta được sống trong một bầu không khí rất riêng – không khí của làng quê nông thôn Việt
Nam. Nhà nghiên cứu phê bình văn học Nguyễn Đăng Mạnh gọi anh là “nhà thơ mục đồng”, là “một
cây bút chuyên môn thực sự” viết về nông thôn, và khi lí giải “cái mầm thơ Khoa đã lớn lên từ miếng
đất nào”, Nguyễn Đăng Mạnh đã khẳng định: “làng quê đã tạo nên thơ Khoa từ màu sắc đến linh hồn”.
Theo ông, khi kể đến những nhà thơ của nông thôn Việt Nam, ngoài những người dân quê, tác giả của
hàng trăm câu ca dao bất hủ, chỉ có thể nhắc tới Nguyễn Khuyến. Một số cây bút viết về nông thôn
xuất hiện trong phong trào Thơ mới như Nguyễn Bính, Đoàn Văn Cừ, Anh Thơ,… nhưng thực ra họ
chưa thật sự nhập thân với hiện thực đó. Sau Cách mạng tháng Tám, người dân cày được học tập văn
hóa tới trình độ cao, các nhà thơ nông thôn mới dần dần có điều kiện xuất hiện. Trần Đăng Khoa là một
trong số đó. Đọc thơ Khoa, có thể thấy nông thôn ta thật là hào phóng đối với nghệ thuật. Chỉ cần chịu
khó quan sát bằng tấm lòng tha thiết, chân thành thì tự khắc cảnh vật nào, sự vật nào cũng sẵn lòng đãi
lại một vần thơ ít nhiều có ý vị. Nông thôn Việt Nam trong thơ Trần Đăng Khoa được thể hiện ở hai
phương diện: thiên nhiên nông thôn và con người nông thôn trong chiến tranh.
1. Thiên nhiên nông thôn.
Đây là mảng đề tài được Trần Đăng Khoa thể hiện nhiều nhất trong thơ mình. Là
một người con được sinh ra và lớn lên ở nông thôn nên Trần Đăng Khoa có tấm lòng yêu
thương, gắn bó sâu nặng đối với thôn Điền trì, xã Quốc Tuấn.. Từ sự gắn bó, từ lòng yêu thương cảnh
sắc thiên nhiên của quê nhà, Trần Đăng Khoa đã đưa vào thơ mình những hình ảnh hết sức quen thuộc
của làng quê Việt Nam. Đọc thơ Trần Đăng Khoa, không chỉ các em nhỏ mà tất cả chúng ta đều nhận
ra sự quen thuộcấy. Ở đâu mà chẳng có góc sân, cây trầu, khoảng trời, cánh đồng, cánh cò bay, Ở đâu
mà chẳng có chẳng có trò chơi thả diều, chọc ếch, câu cá, Những hình ảnh đó trong cái nhìn trong trẻo,
tinh khiết của trẻ thơ bỗng trở nên có hồn, có thần và đầy chất thơ. Tuy giống đấy mà lại khác đấy.
Khác bởi cảm nhận của mỗi người không ai giống ai. Đối với một số người, cây bàng, cây dừa, cây lựu,
vườn cải hay chiếc máy cày, cái nồi đồng, cây chổi, chỉ là những cây, những đồ vật vô tri vô giác.
Nhưng đối với Trần Đăng Khoa tất cả là bạn bè, tất cả đều có hồn, có hành động, tất cả đều ngộ
nghĩnh, đáng yêu.Cảnh sắc làng quê trong thơ ca cách mạng Việt Nam hiện đại thường được miêu tả và
cảm nhận trong dáng vẻ của làng quê nông nghiệp cổ truyền. Nguyễn Duy đã viết bài thơ Hơi ấm ổ
rơm làm cho chúng ta rất xúc động bởi khi đọc lên, từ những dòng thơ tỏa ra một sự ấm nồng lạ lùng
làm cho những ai đang sống ở quê hương thì càng thêm yêu mến, những ai đang xa quê thì nhớ thương
da diết nơi chôn nhau cắt rốn của mình:
Hạt gạo nuôi hết thảy chúng ta,
Riêng cái ấm nồng nàn như lửa.
Cái mộc mạc lên hương của lúa,
Đâu dễ chia cho tất cả mọi người.
Xuân Quỳnh cũng có cùng cảm xúc như thế trong Cỏ dại:
Trong cuộc đời bình yên tự ngàn xưa,
Gần gũi nhất vẫn là cây lúa.
Trần Đăng Khoa của chúng ta chưa từng trải nghiệm trong cuộc sống nhưng đã có
bài thơ mà nhiều người nằm lòng:
Hạt gạo làng ta
Có vị phù sa
Của sông Kinh Thầy
Có hương sen thơm
Trong hồ nước đầy...
(Hạt gạo làng ta)
Sinh ra và lớn lên ở nông thôn, gắn bó với ruộng đồng nên hơn ai hết, Trần Đăng Khoa hiểu rằng hạt
gạo trong cuộc sống có một vị trí vô cùng quan trọng. Trong những năm tháng chiến tranh thì giá trị
của nó càng tăng lên gấp bội. Để có được hạt gạo, người nông dân đã rất vất vả, phải bán mặt cho đất,
bán lưng cho trời. Và như đã nói, trong chiến tranh thì có biết bao người nông dân đang làm đồng đã
chết vì bom Mĩ. Thế nên, hạt gạo gửi ra tiền tuyến gửi về phương xa lại kết tinh thêm tình cảm thiết
tha, sâu nặng của hậu phương đối với tiền tuyến. Tố Hữu khi nhận định về thi ca, đã viết: Bài thơ hay
làm cho người ta không thấy câu thơ, chỉ còn cảm thấy tình người. Với bài thơ này, Trần Đăng Khoa đã
làm cho chúng ta cảm nhận được tình người đó. Trần Đăng Khoa đã khiêm nhường cho rằng bài thơ
của mình hay là nhờ được nhạc sĩ Trần Viết Bính phổ nhạc. Không khó khăn để tìm ra những em bé có
những câu, những ý như Trần Đăng Khoa viết hạt gạo làng ta nhưng mãi mãi chúng ta sẽ không tìm
được ai khác ngoài Trần Đăng Khoa với câu hạt vàng làng ta.
Cánh đồng làng Điền Trì cũng được Trần Đăng Khoa nói đến. Đó là nơi sản xuất,trồng trọt của xóm
làng. Đó là nơi tuổi thơ để mặc cho cánh diều thỏa sức tung bay. Ngàyngày đứng trước sân nhà nhìn
thấy cánh đồng nên nó trở nên quen thuộc với tất cả những người nơi đây. Riêng Trần Đăng Khoa với
giác quan tinh tế, nhạy cảm đã phát hiện:
Cánh đồng làng Điền Trì
Sớm nay sao mà rộng
Sương tan trên mũi súng
Trên sừng trâu cong veo
(Cánh đồng làng Điền Trì)
Trần Đăng Khoa ngạc nhiên trước sự đổi thay cánh đồng bởi sau khi gặt hái xong thì người dân bắt đầu
cấy mạ cho một vụ mùa khác. Từ một cánh đồng chỉ trơ gốc rạ nay bỗng nhiên tươi màu xanh của mạ
trong sương sớm chưa tan. Hình ảnh đơn sơ làm sao mà cũng đẹp làm sao. Trong con mắt yêu thương
thì tất cả sự vật đều trở nên đáng yêu, cho dù sự vật đó đối với người khác là bình thường.
Bên cạnh góc sân, cánh đồng thì dòng sông Kinh Thầy là nơi Trần Đăng Khoa hết lòng thương mến.
Chính dòng sông này đã tắm mát cho Trần Đăng Khoa. Chính dòng song này đưa nước vào tưới mắt
cho đồng ruộng, cây trái. Sông Kinh Thầy trong thơ Trần Đăng Khoa có Hàng chuối lên xanh mướt Phi
lao reo trập trùng. Vậy thôi, nhưng người đi xa vẫn nhớ hoài, vẫn mong có ngày được trở về đi dọc bờ
sông, vùng vẫy trong dòng nước mát như thuở ấu thơ.
Thiên nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa còn có cả thế giới loài vật, đồ vật. Chúng
hiện ra với một dáng vẻ vô cùng sinh động, đáng yêu. Trần Đăng Khoa có thể trò chuyện
thân mật với con trâu người bạn vô cùng thân thiết của nông dân:
Trâu ơi, ăn cỏ mật
Hay là ăn cỏ gà
Đừng ăn lúa đồng ta
Trâu ơi, uống nước nhá
Trâu cứ chén cho no
Ngày mai cày thật khỏe
Đừng lo đồng nứt nẻ
(Con trâu đen lông mượt)
Những con vật trong thơ của một em bé đều có những nét đáng yêu: con mèo (Đánh tam
cúc), con gà (Nói với con gà mái, Ò ó o), con chó (Sao không về Vàng ơi), chim (Tiếng
chim chích chòe, con chim hay hót),... Trong bài Buổi sáng nhà em, tất cả hiện lên thật sinh
động trong cái nhìn và sự liên tưởng của trẻ thơ. Mèo dậy rửa mặt trong tư thế hết sức đỏm
dáng cái tay rửa mặt, cái đầu nghiêng nghiêng. Cái Na, cu Chuối nghịch ngợm đứng vỗ
tay cười. Chị Tre chải tóc bên ao, nàng Mây thì ghé vào soi gương trong khi bà Sân đã
vấn chiếc khăn hồng đẹp thay từ khi Ông trời nổi lửa đằng đông.
Con người và sự vật gắn bó, giao hòa với nhau, cùng nhau bắt đầu ngày mới. Không
chỉ riêng nhà Trần Đăng Khoa mà mọi nhà đều như thế, tất cả tạo nên một không khí nhộn
nhịp, sôi động. Bài thơ mang đậm nét hồn nhiên, trẻ thơ đã làm cho chúng ta vừa đọc vừa
nở nụ cười trên môi. Cười vì không ngờ sự liên tưởng, ví von của một em nhỏ lại hay và
đúng bản chất của sự vật như thế. Cười vì đọc bài thơ này ta như sống dậy một cảm giác
yêu mến cuộc sống lạ lùng. Chợt nhận ra những ngây thơ, hồn nhiên của tuổi thơ đã rơi rớt
trên bước đường ta tìm kiếm công danh, địa vị. Tự nhủ lòng sáng mai sẽ dậy sớm để lắng
nghe âm thanh của cuộc sống
Hình ảnh con cò từ lâu đã được thơ ca Việt Nam biểu hiện như là một dấu hiệu về
làng quê nông nghiệp với những con người lam lũ, vất vả nơi đồng ruộng mà hồn hậu,
trắng trong. Trong cảm nhận của Trần Đăng Khoa, con cò có lúc hư ảo như trong ca dao
thần thoại:
Xưa mẹ ru em
Cũng tiếng võng này
Cánh cò trắng muốt
Bay - bay - bay - bay...
(Tiếng võng kêu)