(Trích trường ca Mặt đường khát vọng - Nguyễn Khoa Điềm)
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả: - Nguyễn Khoa Điềm 1943 quê ở Huế, xuất thân trong một gia đình trí thức có truyền thống yêu nước và cm, cha là nhà văn Nguyễn Hải Triều. - Sau khi tốt nghiệp ĐHSP ông về MN tham gia cuộc k/c chống Mĩ, từng bị giặc bắt giam đến tổng tiến công Mậu Thân được giải thoát, tiếp tục hoạt động và bắt đầu làm thơ. - Sau 1975 ông tiếp tục hoạt động văn nghệ và công tác chính trị. Ông làm tông thư ký Hội Nhà văn VN khóa V, Bộ trưởng bộ VHTT, Bí thư TƯ Đảng, Trưởng ban TTVH TƯ, Ủy viên bộ chính trị từ năm 2001 -2006. Hiện đã nghỉ hưu. - Ông là nhà thơ tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ những năm chống Mĩ. Thơ ông giàu chất suy tư, xúc cảm dồn nén, thể hiện tâm tư của người trí thức tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu của ND. Năm 2000 ông nhận giải thưởng nhà nước về vhnt. 2. Trường ca Mặt đường khát vọng: - Sáng tác 1971 tại chiến khu Trị Thiên, in lần đầu 1974. - Nội dung: Mặt đường khát vọng không có cốt tự sự hay triển khai cảm xúc về một nhân vật anh hùng như Nguyễn Văn Trỗi của Lê Anh Xuân, Bài ca chim chơ - rao của Thu Bồn hay Theo chân Bác của Tố Hữu. Tác phẩm phản ánh quá trình thức tỉnh của một tầng lớp tuổi trẻ thành thị MN, nhận rõ mặt kẻ thù và ý thức được trách nhiệm của mình với ND với đất nước và đứng lên đấu tranh cùng với ND. 3. Đoạn trích: *) Vị trí: Đoạn trích nằm ở chương 5 (tp gồm 9 chương), thể hiện cốt lõi tư tưởng của cả tp: Đất Nước là của nhân dân, nhân dân đã làm nên Đất Nước. *) Bố cục: 2 phần - Phần 1: Từ đầu đến “ Làm nên Đất Nước muôn đời” : Đất Nước không phải là cái gì chung chung, trừu tượng mà rất gần gũi thân thiết, gắn bos máu thịt trong đ/sg con người, trong t/y đôi lứa. - Phần 2: Còn lại: T/g mở rộng tư tưởng Đất Nước của nhân dân từ quan hệ lứa đôi quan hệ cộng đồng và sự tiếp nối của các thế hệ. II. Đọc hiểu đoạn trích: 1. Đi tìm định nghĩa về ĐN *) Đất Nước có từ bao giờ? Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể. Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn ... - Tìm về ngọn nguồn của quá trình sinh thành ĐN, T/g khẳng định ĐN được hình thành từ những gì bình dị, quen thuộc nhất trong c/sg của ND. Đó là những câu chuyện cổ tích, là miếng trầu bà ăn, là hạt gọa nuôi ta mỗi ngày. Ngay từ những dòng thơ đầu, NKĐ đã đem đến cho ng đọc một cảm nhận rằng ĐN không phải là cái chung chung trừu tượng, mà là những gì gần gũi, thân thuộc nhất trong c/sg hàng ngày. Đn xa xôi bởi “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”, nhưng ĐN không xa vời bởi ĐN có ở quanh ta và có trong mỗi người. - ĐN còn được hình thành từ những phong tục tập quán, từ bản sắc riêng của tâm hồn Việt. Đó là tập quán ăn trầu, bới tóc sau đầu, là lối sống nghĩa tình gừng cay muối mặn. Nhà thơ đã sử dụng cả một hệ thống h/ảnh giàu ý nghĩa ẩn dụ để khẳng định vai trò to lớn của ND trong quá trình hình thành ĐN. ND đã tạo nên những phong tục tập quán riêng, dẫu chỉ là cách bới tóc sau đầu của người phụ nữ cũng phản chiếu linh hồn ĐN. Cũng từ tình nghĩa thủy chung son sắt của mẹ cha, từ mối quan hệ đầm ấm trong mỗi gia đình mà ĐN lớn lên và vững bền qua năm tháng. Nó phản chiếu quan niệm nhân sinh của một dân tộc luôn coi trọng nghĩa tình. Dân tộc ấy dẫu nếm trải nhiều cay đắng, gian truân “gừng cay muối mặn” vẫn thắm thiết thủy chung. - ĐN còn được hình thành từ quá trình nhận thức và lao động đầy sáng tạo của ND. Đó là sự nắm bắt những kiến thức của c/sg, sự s/tạo ra ngôn ngữ để mọi vật được gọi thành tên. Đặc biệt qua h/ảnh hạt gạo nhỏ bé, t/g đã tái hiện cả một hành trình lao động vĩ đại của ND “Hạt gọa phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng”. Dòng thơ đột ngột kéo dài và được ngắt thành nhiều nhịp, giúp ta cảm nhận được hành trình đằng đẵng làm ra hạt gạo. Ai đã tìm ra cây lúa giữa ngàn vạn cây hoang dại khác? Ai đã tìm ra cách gieo cấy bón chăm để có được những vụ mùa đầu tiên? Và ai đã nghĩ ra cách xay, giã, dần, sàng để biến những hạt thóc thành những hạt gạo nuôi sống chúng ta? Không một vĩ nhân nào có đủ sức lực và thời gian để làm nên những điều kỳ diệu ấy. Đó chính là công sức của ND. Chính vì vậy, nhà thơ một lần nữa khẳng định rằng Đn có từ những ngày ND bắt đầu con đường lao động và chiến đấu. Cách cảm nhận về ĐN như vậy khiến cho ĐN gần gũi, thân thiết, bình dị như c/sg hàng ngày. Song cái hay của đoạn thơ lại chính là lối nói bình dị mà mới mẻ của nhà thơ. Với lối nói ấy/ t/g đã khơi dậy trong tiềm thức sâu xa của người đọc những kỷ niệm, những ấn tượng về một quê hương VN, con người VN gần gũi, nghĩa tình. *) Đất Nước là gì? - Điều bất ngờ thú vị mà nhà thơ đem đến cho người đọc chính là cách định nghĩa về ĐN. Nhà thơ đã tách Đất, Nước thành hai yếu tố rồi lại hợp lại trong một chỉnh thể thống nhất hài hòa, khiến ĐN hiện lên vừa cụ thể riên tư gần gũi, vừa lớn lao cao cả thiêng liêng. Trong cả một đoạn thơ dài, điệp ngữ “là nơi” cứ lặp đi lặp lại làm hiện lên những khoảng không gian mà con người từng gắn bó yêu thương: là con đường đưa ta đến trường, là bến nước thân quen gắn với bao kỷ niệm, là gốc đa sân đình …nơi chúng kiến những cuộc hẹn hò của biết bao đôi lứa. Đn còn là mảnh đất dưới chân người con gái vì khắc khoải, nhớ nhung người yêu mà “đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”. Nhìn thấy ĐN hiện diện ngay trong những khoảng riêng tư nhất của tâm hồn, NKĐ đã phát hiện cội nguồn của t/y đất nước quê hương có trong mỗi chúng ta đề bắt nguồn từ sự gắn bó yêu thương của mỗi người đối với những gì gần gũi thân thương nhất. Như vậy trong cách nhìn về không gian ĐN, NKĐ nghiêng nhiều hơn về các không gian riêng tư, không gian đời thường. Trước nay chúng ta vẫn quen nhìn DDN ở tầm vóc lớn lao, kỳ vĩ, cách nhìn ấy dễ tạo ra khoảng cách. CÒn NKĐ đã nhìn ĐN từ cự ly gần và ông đã phát hiện ra một DDN hết sức thân quen, gần gũi với cá nhân mỗi con người. - Đất Nước còn là không gian mênh mông của rừng vàng biển bạc, là biên islanhx thổ của TQ. Đất là nơi “con chim phượng hoangfbay về hòn núi bạc” Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi” ĐN còn là không gian sinh tồn của cả cộng đồng có từ thời xa xưa Đất là nơi chim về Nước là nơi rồng ở - Đất Nước còn là thời gian lịch sử Lạc Long Quân và Âu Cơ Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng. Lời thơ dẫn dắt người đọc trở về thuở bình minh sơ khai của ĐN bằng huyền thoại về LLQ Và Âu Cơ. Đồng thời cũng bằng những huyền thoại ấy nhà thơ đã khẳng định tryền thống đoàn kết bao bọc yêu thương của ng Việt. Dẫu lên rừng xuống bể, dẫu sinh sống ở những vùng miền khác nhau nhưng tất cả đều chung cội nguồn con rồng cháu tiên. Cùng trên hành trình thời gian đằng đẵng, thế hệ này nối tiếp thế hệ kia chưa bao giờ đứt gãy “Những ai đã khuất…chuyện mai sau”. Quá khứ, hiện tại, tương lai đã được kết nối bằng t/y ĐN, bằng trách nhiệm của từng thế hệ con người. Mỗi thế hệ đều mang trên vaitrachs nhiệm với những người đã khuất và cả con cháu mai sau. Những con người đã từng sống một c/sg tưởng như rất bình thường “Yêu nhau và sinh con đẻ cái”, nhưng chính bằng cuộc sống này, họ đã gìn giữ và truyền lại linh hồn ĐN. Mỗi thế hệ tiếp nhận bao thành quả của lớp người đi trước để rồi sáng tạo và truyền lại cho thế hệ sau. Trong đó điều quí giá nhất vẫn là truyền thống đọa lý uống nước nhớ nguồn “Hàng năm ăn đâu làm đâu / Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ”. Như vậy ĐN không chỉ là những gì gần gũi riêng tư mafconf là tài sản vô giá của cả một dân tộc. - Từ những cảm nhận trên, NKĐ đi đến mốt ý tưởng sâu sắc: ĐN có trong mỗi người, mỗi cá nhân phải có trách nhiệm với ĐN. Trong anh và em hôm nay Đều có một phần đất nước Trong cách cảm nhận của NKĐ, ĐN không chỉ đơn thuần là cái khách thể mà còn có trong chủ thể. ĐN có trong mỗi c/đời, hóa thân trong máu thịt mỗi con người. Số phận mỗi con người hòa vào số phận của quê hương đất nước. Tình yêu quê hương đất nước hiện diện trong tình cảm lứa đôi hài hòa nồng thắm “Khi chúng ta cầm tay / Đất Nước hài hòa nồng thắm” và chính ĐN là sự hòa nhập trọn vẹn giữa mỗi cá nhân với cộng đồng “Khi chúng ta cầm tay mọi người/ Đất Nước vẹn tròn to lớn”. ĐN còn là sự gắn kết liên tục giữa thế hệ này với thế hệ khác “Mai ngày con ta lớn lên / Con sẽ mang Đất Nước đi xa/ Đến những tháng ngày mơ mộng”. ĐN đã thấm tự nhiên vào máu thịt, đã hóa thành máu xương của mỗi người, sự sống của mỗi cá nhân không phải là riêng của mỗi người mà là của cả ĐN. Bởi thế “Phải biết gắn bó và san sẻ / Biết hóa thân cho dáng hình xứ sở”. Tức là mỗi người phải có trách nhiệm với ĐN, hy sinh cho ĐN cũng là hy sinh cho chính mình. Ở đây có sự giao thoa tự nhiên giữa giọng điệu trữ tình và giọng chính luận làm cho âm hưởng đoạn thơ trở nên sâu lắng, thiết tha, khiến người đọc bồi hồi nhận ra ý nghĩa cuối cùng về ĐN “Đất Nước là máu xương của mình”, vì thế trách nhiệm đối với ĐN cũng là trách nhiệm với bản thân mình. Biết quí, biết gìn giữ, biết đoàn kết góp sức, thậm chí hy sinh cái riêng để làm nên cái chung thì ĐN sẽ mãi vững bền. lời nhắc nhở về trách nhiệm đối với ĐN đối với thế hệ trẻ không nặng nề khô khan mà như một lời tự nhủ chân thành. Nói về ĐN bằng ngôn ngữ của tình yêu, khiến cho những trách nhiệm, những bổn phận đến với mỗi người một cách nhẹ nhàng mà sâu sắc. 2. Đất Nước của nhân dân: (trả lời cho câu hỏi: Ai đã làm nên ĐN?) Tư tưởng ĐN của ND đã qui tụ mọi cách nhìn, đưa đến những phát hiện và cảm nhận mới mẻ, sâu sắc của NKĐ về các phương diện như địa lí, lịch sử, văn hóa… a. Về phương diện địa lí: Những người vợ nhớ chồng còn góp cho ĐN những núi Vọng Phu Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Tống Mái Gót ngựa của THánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương *) Xưa nay, khi nói đến những danh lam thắng cảnh của ĐN, người ta thường ngợi ca sự hào phóng của tự nhiên, cảm tạ công lao của tạo hóa. Còn đối với NKĐ thì đó chính là những tặng vật của ND. Nhà thơ đã lựa chọn những hình ảnh thiên nhiên tiêu biểu nhất để khám phá và khẳng định rằng chính ND đã tạo dựng nên toàn bộ không gian địa lí của ĐN. Họ sáng tạo bằng cách truyền tâm hồn vào cảnh vật để núi non, ao đàm, sông suối vô tri vô giác cũng trở nên có linh hồn, có sức sống. - Nếu không có bao nhiêu thế hệ từng thủy chung son sắt, mòn mỏi trông ngóng chồng thì núi vẫn mãi chỉ là núi đá vô tri mà thôi. Chính tình yêu và nỗi đau của những người vợ nhớ chồng đã biến núi thành những hòn Vọng phu vòi vọi giữa trời. - Cũng chính ND với trí tưởng tượng bay bổng, lãng mạn đã tặng cho những vùng biển cả những hòn Trống mái nghiêng đầu bên nhau trên sông nước. Cảnh đẹp ấy của thiên nhiên chắc chắn đã sinh ra từ trái tim của cặp vợ chồng yêu thương đằm thắm trong hạnh phúc lứa đôi. - Có khi sáng tạo của thiên nhiên lại bắt nguồn từ truyền thống bất khuất kiên cường, từ tinh thần đoàn kết dân tộc. Từ điểm nhìn này, họ đã biến những ao đầm thành vết chân ngựa Gióng, thành dấu tích của những chiến công oanh liệt chống giặc ngoại xâm. Và đây nữa, 99 ngọn núi nơi đất Tổ Hùng Vương cũng biến thành đàn voi biết cúi đầu hướng về nơi địa linh – cội nguồn của nước Việt. *) Sự “góp cho” của ND để làm nên không gian địa lý của ĐN còn hiện diện ở khắp mọi nơi trên ĐN này: Những con nằm im góp dòng sông xanh thẳm Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm - Không gian được mở rộng với những sông suối, bờ bãi, ở khắp mọi miền của ĐN, nơi nào nhà thơ cũng thấy những bằng chứng của một chân lí: ND là chủ thể sáng tạo nên ĐN. Họ biến những sự vật tưởng như bé nhỏ bình thường (con cốc, con gà) thành vẻ đẹp tô điểm cho nước non này. Đến cả những người học trò nghèo cũng có thể tằng cho ĐN “núi Bút, non Nghiên”… Nhà thơ còn mượn hàng loạt địa danh quen thuộc của Nam Bộ để tô đậm vai trò lớn của ND. Ngay cả những con người bình thường nhất cũng có thể tặng cho ĐN cái tên của họ để thàng tên làn, tên núi, tên sông. - Từ điểm nhìn độc đáo khi quan sát không gian địa lí, NKĐ đã khái quát thành một suy tư giàu tính triết luận Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha Ôi Đất Nước bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy Những cuộc đời đã hóa núi sông ta… b. Tư tưởng ĐN của nhân dân còn được khẳng định qua cách cảm nhận của nhà thơ về thời gian lịch sử. *) Xưa nay khi nói đến lịch sử dựng nước và giữ nước, người ta thường nhắc đến những triều đạivàng son, những bậc anh hùng đã để lại tên tuổi. Còn ở đây, NKĐ đã nhấn mạn vào sự hiện diện của mấy nghìn lớp người vô danh Năm tháng nào cũng người người lớp lớp Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta …… Có biết bao người con gái, con trai Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứ tuổi Họ đã sống và chết Giản dị và bình tâm Nhưng họ đã làm ra Đất Nước Những câu thơ đã vẽ lên hình ảnh của bao nhiêu lớp người bình thường, không tên tuổi, nhưng chính họ đã tạo nên lịch sử của ĐN. Bằng cuộc sống tưởng như rất giản dị, những con người khiêm nhường ấy đã lặng lẽ tạo nên tất cả những truyền thống tốt đẹp của dân tộc : cần cù chăm chỉ trong lao động, bất khuất kiên cường trong chiến đấu. Những câu thơ ngắn nhưng chưa đựng những xúc cảm chân thành trước những hy sinh thầm lặng, những đóng góp lớn lao của những người vô danh. Họ chính là Nhân Dân *) Không chỉ tạo nên những trang sử hào hùng, ND còn sáng tạo và lưu truyền mọi giá trị vật chất và tinh thần của ĐN. Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng Họ truyền lửa qua mỗi nhà từ hòn than qua con cúi Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái - Điệp từ « họ » đứng đầu các dòng thơ, khiến ta có cảm giác mỗi câu thơ là một trang dài ngợi ca công lao vĩ đại của ND. Điệp khúc « truyền cho », « truyền lửa », « Truyền giọng điệu »… gợi liên tửng đến một cuộc chạy tiếp sức của các thế hệ nối tiếp nhau trên hành trình lịch sử. - Trên nền của thời gian mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước, nhà thơ đã tô đậm cả một hệ thống hình ảnh có ý nghĩa ẩn dụ, biểu tượng cho những thành quả vĩ đại của ND. + Trước hết đó là thành quả của một quá trình lao động sáng tạo cần cù « Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng ». Chỉ là hạt lúa nhỏ bé, song đã kết đọng bao nhiêu công sức, trí tuệ và tâm huyết của ND. Có công lao của những người đầu tiên phát hiện ra cây lúa giữa thiên nhiên hoang dại để mang về với con người. Có công là những người đã tìm ra cách gieo trồng, chăm bón để có những mùa, những vụ nối tiếp nhau… Một quá trình phức tạp, lâu dài như thế chỉ có thể hoàn thành nhờ công sức của ND, của các thế hệ kế tiếp nhau với những kinh nghiệm, những sáng tạo…để có được nền văn minh lúa nước. + ND còn sáng tạo và truyền cho ta ngọn lửa, thứ đã làm nên bước tiến vượt bậc của loài người : « Họ truyền lửa qua mỗi nhà từ hòn than qua con cúi ». Cách miêu tả của nhà thơ khiến cho hình ảnh ngọn lửa ẩn chứa nhiều ý nghĩa sâu xa. Đó là ngọn lửa được lưu giữ trong hình thức thô sơ « hòn than…con cúi » để bếp lửa mỗi nhà vẫn sáng những bữa cơm thường. Đó còn là ngọn lửa của tinh thần bất khuất của một dân tộc yêu tự do đã đánh đuổi bao nhiêu các thế lực ngoại xâm để bảo vệ ĐN. + Cũng chính ND đã sáng tạo và lưu truyền những giá trị tinh thần quí báu như phong tục, tập quán, giọng nói cha ông, tên xã, tên làng,…và hành trình ấy đã tạo nên bản sắc của dân tộc để rồi cho dù phải trải qua ngàn năm Bắc thuộc, trăn năm Pháp thuộc, cho dù chúng có dùng bất cứ thủ đoạn nào cũng không thể làm mai một được bản sắc riêng của dân tộc VN. + ND còn truyền cho ta cả tinh thần lao động cần cù và đức hy sinh « Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái ». Hình ảnh đắp đập be bờ đã gợi lại cả một hành trình gian nan, ND đã đổ biết bao mồ hôi công sức để khai khẩn đầm hoang, quai đê lấn biển để tạo nên hệ thống kênh rạch, mương máng, bờ bãi ruộng đồng…để các thế hệ sau có thể trồng cây hái trái trên những mảnh đất màu mỡ phì nhiêu ấy. Đó cũng là tấm lòng cao cả vị tha của thế hệ này dành cho thế hệ kia. Cùng với tinh thần lao động cần cù, ND còn gìn giữ và truyền lại cho đời sau tinh thần bất khuất kiên cường trong chiến đấu « Có ngoại xâm thì cùng nhau đánh bại ». Nhà thơ đã khái quát mấy ngàn năm lịch sử của một dân tộc yêu tự do, chưa bao giờ chịu cúi đầu sống kiếp nô lệ. Lời thơ đã làm sống dậy không khí của những cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại và cả khí thế hào hùng của những cuộc khởi nghĩa nông dân chống lại thù trong giặc ngoài và hiện lên sừng sững là tầm vóc của ND. c. Tư tưởng Đất Nước của ND còn được khẳng định từ phương diện văn hóa. Để Đất Nước này là Đất Nước của Nhân dân Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại - Để khẳng định ĐN của ND, nhà thơ đã tìm về với cội nguồn pphong phú, đẹp đẽ của văn hóa, văn học dân gian bởi đó là sáng tạo của ND, là nơi lưu giữ tâm hồn, truyền thống dân tộc. Câu thơ được đặt trong sự tương xứng đồng đẳng giữa 2 vế : ND và ca dao thần thoại đẻ khẳng định chính ND là người đã sáng tạo ra kho tàng văn hóa tinh thần của dân tộc. Nhà thơ đã chọn ra từ kho tàng thơ ca dân gian 3 nét đẹp tiêu biểu nhất của tâm hồn Việt, của bản sắc văn hóa ĐN + Thật say đắm trong tình yêu: “yêu em từ thuở trong nôi » + Rất quí trọng tình nghĩa « quí công cầm vàng những ngày lặn lội » + Kiên trì, bền bỉ trong đấu tranh với kẻ thù « Trồng tre đợi ngày thành gậy/ Đi trả thù mà không sợ dài lâu » Những câu thơ của NKĐ không chỉ mượn ý tứ từ những câu ca dao quen thuộc mà còn vươn tới tầm khái quát mới mẻ, sâu sắc hơn : khẳng định công lao vĩ đại của ND đối với ĐN. ND không chỉ tạo nên không gian địa lí, không chỉ viết nên bốn ngàn năm lịch sử mà còn sáng tạo và gìn giữ bản sắc văn hóa – hình thành nên tính cách và tâm hồn dân tộc. - Từ đó nhà thơ khơi dậy niềm tự hào kiêu hãnh về ND, về ĐN Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi. + Ở những câu thơ này đã có sự hòa quyện một cách kỳ lạ của những câu hát dân gian. Nó làm sống dậy không gian của quê hương đất VIệt, gợi lên không khí riêng của cuộc sống trên đất này. + Cách nói độc đáo của nhà thơ không chỉ gợi lên hình ảnh những dòng sông thân thuộc vẫn mang nguồn nước và phù sa tưới tắm, bồi đắp cho những ruộng đồng bờ bãi mà còn làm sống dậy vẻ đẹp riêng không thể trộn lẫn của những dòng sông ấy. Những con sông có thể bắt nước từ một nơi nào đó, nhưng khi trôi chảy trên đất Việt thì « bắt lên câu hát » đã thấm đẫm tâm tư, tình cảm của con người. Cho nên từ những dòng sông toát lên vẻ đẹp của cuộc sống nơi đây – vẻ đẹp của tâm hồn ND. Đó là một cuộc sống nhiều vất vả gian nan « chèo đò, kéo thuyền vượt thác » nhưng luôn ngời lên tinh thần lạc quan. Sự tương phản của những hình ảnh thơ này đã được nhà thơ sử dụng để tô đậm ấn tượng về sức sống mãnh liệt của tâm hồn VN. 3. Những đặc sắc về nghệ thuật : a. Sử dụng chất liệu dân gian: - Bài thơ tạo dựng được một không khí, giọng điệu, một không gian nghệ thuật riêng, đưa ta vào thế giới gần gũi, mỹ lệ và bay bổng của ca dao, truyền thuyết, của văn hóa dân gian nhưng lại ismer qua cách cảm nhận và tư duy hiện đại với hình thức câu thơ tự do. Đó chính là nét đặc sắc thẩm mỹ thống nhất với tư tưởng “ Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoai” - Chất liệu dân gian còn được sử dụng rất da dạng và sáng tạo: + Có những phong tục, tập quán, những vật dụng quen thuộc (miếng trầu, tóc bới sau đầu, cái kèo cái cột, hạt gạo xay, giã, dần, sàng, hòn than, con cúi…) + Có những truyền thuyết, những truyện cổ dân gian (Hùng vương, Lạc Long Quân - Âu Cơ, Thánh Gióng, trầu cau, núi VỌng Phu, hòn Trống Mái…) + Có tục ngữ, thành ngữ, ca dao, dân ca… Cách sử dụng cũng rất sáng tạo: Có khi lấy nguyên vẹn một câu dân ca (Câu hò Bình Trị Thiên – xem chú giải tr 119); cooskhi chỉ gợi ra bằng vài chữ của câu ca dao, hay một hình ảnh, một chi tiết trong truyền thuyết, cổ tich. Chất liệu văn hóa, văn học dân gian được sử dụng đậm đặc đã tạo nên một không gian nghệ thuật riêng của đoạn trích: vừa bình dị, gần gũi, hiện thực lại vừa giàu trí tưởng tượng bay bổng, mơ mộng. Chất dân gian hòa quyện chất hiện đại thể hiện ở các yếu tố suy tưởng, triết lí và ở thể thơ tự do với những câu thơ dài ngắn xen kẽ và nhịp điệu linh hoạt. b. Bài thơ thể hiện những đặc điểm của phong cách thơ NKĐ: sự kết hợp chính luận và trữ tình, suy tưởng và cảm xúc. - Chất chính luận nằm trong ý đồ của tác giả: thức tỉnh tinh thần dân tộc của thế hệ trẻ thành thị MN để dứt khoát trong sự lựa chọn đứng về phía ND và CM. Tính chính luận đã chi phối kết cấu: đoạn trích được xây dựng theo cách lập luận như trả lời cho những câu hỏi: Đất Nước có tự bao giở? Đất Nước là gì? Ai đã làm nên ĐN? ĐN là của ai?...Tất cae những câu hỏi ấy được trả lời không phải bằng một bài nghị luận thuần túy mà có sự kết hợp chính luận với trữ tình, suy tưởng với cảm xúc. - Chất trữ tình không chỉ được biểu hiện ở những câu thơ trực tiếp bộc lộ tình cảm, cảm xúc của chủ thể mà còn thấm vào trong cái nhìn, trong thái độ traantrongj, yêu quí với mỗi hình ảnh, chi tiết về ĐN gắn liền với ND được miêu tả, được gợi ra trong đoạn trích. Chất trữ tình được thể hiện qua giọng điệu của bài thơ: giọng tâm tình nhắn nhủ của đôi lứa yêu nhau; giọng tự nhủ, tự đối thoại với chính mình của chủ thể trữ tình và hơn hết là giọng tâm tình nhắn gửi đối với người đọc (đặc biệt là thế hệ trẻ MN trong những năm đánh Mĩ) - Chất suy tưởng cũng là một ưu thế tạo nên sự thành công của đoạn trích. Nhờ chất suy tưởng mà nhà thơ đã phát hiện được nhiều ý nghĩa mới và sâu từ những thứ tưởng như đã quen thuộc: NHững truyện cổ tích, những câu ca dao, những địa danh, những thắng cảnh, những tên đất, tên làng, tên núi, tên sông, những lối sống, những quan niệm, thậm chí cả những sự vật bình thường nhất như con cóc, con gà, cái kèo, cái cột… Những suy nghĩ, phát hiện ấy không phải được nói lên bằng một mệnh đề khô khan mà qua những hình ảnh thơ và cảm xúc của chủ thể trữ tình. III. Tổng kết: 1. Về nội dung: Tư tửng Đn của ND đã xuất hiện trong truyền thống lịch sử. Những nhà thơ lớn, nhà văn hóa lớn đã từng nói lên nhận thức về vai trò của ND trong lịch sử như Nguyễn Trãi “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân…” “Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới”… Phan Bội Châu cũng đã từng nói “Dân là dân nước, nước là nước dân”; “ Một nước có anh hùng hay không cũng là do ND trong nước ấy có anh hùng hay không mà thôi”. Đến VH hiện đại ta đã từng nghe vang lên câu thơ của Nguyễn Đinh Thi “Ôm đất nước những người áo vải/ Đã đứng lên thành những anh hùng”… Đến thời kỳ chống Mĩ, tư tưởng ĐN của ND một lần nữa được nhận thức sâu sắc hơn bởi vai trò đóng góp to lớn và những hy sinh vô vàn của ND trong cuộc đấu tranh lâu dài và vô cùng khốc liệt này. Đất Nước của NKĐ đã góp thêm một thành công trong dòng thơ viết về ĐN thời chống Mĩ, làm mới mẻ và sâu sắc thêm nhận thức về ND và ĐN. 2. Về nghệ thuật: - Bài thơ đã tạo ra một thế giới nghệ thuật đậm chất dân gian phù hợp với nội dung tư tưởng Đất Nước của ND, ĐN của ca dao thần thoại. Bài thơ có sự kết hợp hài hòa giữa trứ tình và chính luận. IV. Dặn dò: - Nắm chắc nội dung và nghệ thuật của bài thơ. - Luyện phân tích từng đoạn thơ. - Chuẩn bị bài Sóng ( Xuân Quỳnh)