You are on page 1of 17

ĐẤT NƯỚC

-Nguyễn Khoa Điềm-


I) Giới thiệu chung:
1) Tác giả:
- Nguyễn Khoa Điềm sinh ra ở TP Huế là miền quê giàu truyền thống vh dân gian và văn hóa
cung đình  nuôi dưỡng hồn thơ của NKĐ, thấm đẫm chất dân tộc trong thơ ca của mình
- Ông sinh ra trong 1 gia đình trí thức có cha là nhà phê bình lí luận theo quan điểm Mác xít.
- Đặc điểm thơ ca: thơ ông thể hiện xúc cảm và suy tư sâu lắng của 1 người trí thức trc vận
mệnh đất nước và nhân dân. Thơ ông mang tính dân tộc đậm đà khi mang vào rất nhiều chất
liệu văn hóa dân gian từ ca dao tục ngữ đến truyền thuyết cổ tích.
a) + b) Xuất xứ và HCST:
* Xuất xứ:
- Trích chương V – Trường ca mặt đường khát vọng
* HCST: 1971 - ở Bình Trị Thiên. Thời kì cuộc KCCM diễn ra vô cùng khắc liệt, nhất là ở
vùng Bình Trị Thiên.  năm đế quốc Mĩ cuồng chiến muốn chiếm đánh dân tộc ta. Đế quốc
Mĩ muốn chặt đứt khúc ruột miền Trung, tuyến tiếp tế duy nhất của miền Bắc vào miền Nam
nên chiến trường Bình Trị Thiên bị bắn phá khủng khiếp. Thứ 2 là do chúng muốn đánh bom
ra chiến trường miền Bắc, trong hoàn cảnh này chúng ta phải. Trước tình hình căng thẳng đó,
đất nước ta phải huy động mọi nguồn lực từ sức mạnh đến tinh thần cho cuộc kháng chiến.
Và vì thế văn chương trong hoàn cảnh này phải có xứ mệnh khơi dậy tinh thần đấu tranh bảo
vệ đất nước nhất là tinh thần của thế hệ trẻ.
- Trong đó Chế Lan Viên đã viết “Gửi Kiều cho em những năm kháng chiến”, “Đất nước
mình nghèo lắm hỡi em yêu/ Cho đến giọt lệ của cha ông cũng còn có ích với ta nhiều/Dẫu
súng đạn nặng đường ra hảo tuyến/Đi đường dài em giữ Truyện Kiều theo”
- Còn Tố Hữu đã viết bài kính gửi của Nguyễn Du để khơi dậy tinh thần diệt trừ cái ác cái
xấu và tiếp nối sứ mệnh cao cả đó thì NKĐ sáng tác “Trường Ca Mặt Đường Khát Vọng”
c) chủ đề: đoạn trích đã thể hiện quan niệm sâu sắc mới mẻ của NKĐ về đất nước và thể hiện
tư tưởng đất nước là của nhân dân
d) Bố cục: chia làm 2 phần lớn
- Phần 1: từ câu 1-42 là những cảm nhận sâu sắc mới mẻ của NKĐ về đất nước trên nhiều
phương diện trả lời cho câu hỏi lớn “Đất nước có từ bao giờ, hình thành từ đâu” và “đất nước
là gì”
+ 1-9: trloi câu hỏi đất nước có từ bao giờ
+ 10-42: Đất nước là gì
 10-22: đất nước là ko gian địa lí
 23-27: đất nước là thời gian lịch sử
 28-29: đất nước là chiều sâu văn hóa
 30-42: đất nước có trong mỗi con người và lời nhắn nhủ với thế hệ trẻ đối với đất
nước
Phần 2: 43-90: thể hiện tư tưởng đất nước là của nhân dân
- 43-54: kgian đất nước do nhân dân làm nên
- 55-72: lịch sử đất nước do các thế hệ nhân dân làm nên
- 73-90: chiều sâ văn hóa của đất nước cũng do nhân dân làm nên và lưu truyền

II. Đọc hiểu:


1. Từ 1-42: những cảm nhận sâu sắc mới mẻ của NKĐ về đất nước:
a) 1-9: trả lời câu hỏi “Đất nước có từ bao giờ”: câu thơ mở đầu giải đáp cho rất nhiều
người
Từ nhiều thế hệ khác nhau rằng đất nước chúng ta đang sống có từ bao giờ --> để trloi cho
câu hỏi này ko hề dễ dàng. Vậy mà chỉ cần 1 câu thơ mở đầu đoạn thơ, NKĐ đã thỏa mãn
niềm băn khoăn của chúng ta "Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi". Đó là mỗi con người chúng
ta sinh ra người thì may mắn có gia đình trọn vẹn nhưng cũng ko ít những mảnh đời bất hạnh
sinh ra đã ko rõ cha mẹ nguồn gốc của mình. Nhưng có một điều chắc chắn rằng tất cả mn
đều biết mình là công dân của nước nào bởi vì ngay khi cất tiếng khóc trào đời thì đã có 1 đất
nước hiện hữu cùng hình hài chúng ta. Chẳng biết đất nước có từ bao giờ nhưng khi chúng ta
sinh ra lớn lên thì đất nước đã có. Đất nước như chiếc nôi rọi sẵn đợi chúng ta trào đời.
--> Đây là 1 thực tế hiển nhiên và giản dị nhưng ko kém phần sâu sắc cho chúng ta thấy được
đất nước không ở đâu xa mà luôn gần gũi thân thuộc với chúng ta

*) 7 câu tiếp: đất nước hình thành từ đâu


- "Đất nước có trong những cái "ngày xửa ngày xưa..." mẹ thường hay kể"
+ cụm từ "ngày xửa ngày xưa" đã đưa người đọc trở về với tgioi huyền bí của những câu
chuyện cổ tích vs những ông bụt bà tiên, với những phép màu, ...
--> NKĐ đã thể hiện những suy tưởng của mình về cội nguồn đất nước rằng đất nước ko ở
đâu xa mà có ngay trong những câu chuyện cổ tích dân gian, trong tuổi thơ dịu ngọt của mỗi
người --> đất nước trở nên gần gũi thân thương
- "Đất nước bắt đầu trong miếng trầu bây giờ bà ăn: gợi lên sự tích trầu cau từ thời vua Hùng
dựng nước xa xưa, đó là sự hóa giải và gắn kết tình nghĩa anh em vợ chồng đằm thắm sắt son
--> đất nước có từ khi có những cộng đồng người yêu thương gắn kết với nhau
+ Miếng trầu còn gợi về phong tục của người Việt. Thứ nhất là phong tục ăn trầu nhuộm răng
mà như Hoàng Cầm đã viết "Những cô hàng xén răng đen cười như mùa thu tỏa nắng". Thứ 2
nó phản ánh phong tục truyền thống hiếu khách của người VN. Thứ 3 là thể hiện phong tục
của dân tộc VN, phong tục cưới hỏi. Không bao giờ vắng mặt 2 lễ vật trầu cau vì nó là biểu
tượng cho sự gắn kết thắm thiết của tình yêu đôi lứa. Thế nên trong ca dao mới có hình ảnh
về trầu cau đẹp đến nao lòng

VD: "Anh về cuốc đấy trồng cau/Cho em trồng ké dây trầu một bên/Khi nào cau nọ lớn
lên/Trầu kia ra lá thì nên vợ chồng"
- Trong truyện Tấm Cám, miếng trầu là thứ để khiến người chồng nhận ra vợ của mình
--> như vậy đất nước có từ khi cộng đồng người yêu thương gắn bó coi trọng những phong
tục đep của người dân VB. Phong tục cũng là yếu tố các định chủ quyền đất nước: “Phong
tục Bắc Nam cũng khác” (Nguyễn Trãi)
- “Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”: gợi về truyền thuyết Thánh
Gióng, đã nhổ tre đằng ngà đánh đuổi giặc Ân
+ Gợi cho người đọc về câu ca dao
“Thù này ắt hẳn còn lâu
Trồng tre lên gậy gặp đâu đánh què”
 Đất nước lớn lên nhờ ý thức bảo vệ chủ quyền của nhân dân
- “Tóc mẹ thì bới sao đầu”: phản ánh phong tục búi tóc thành cuộn sau gáy của người VN từ
bao đời:
“Tóc ngang lưng vừa chừng em búi
Để chi dài bối rối lòng anh”
 gợi ra phong tục búi tóc của người phụ nữ việt nam, vừa gợi sự trẻ đẹp nữ tính thể hiện sự
trưởng thành đảm đang tháo vát của người phụ nữ VN
 Đất nước có thể ẩn ngay trong vẻ đẹp nữ tính dịu dàng của người con gái Việt
- “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”: vẻ đẹp tâm hồn tình cảm của con người
VN đó chính là tình nghĩa đậm đà thủy chung son sắt
- “Cái kèo, cái cột thành tên”: đất nước đã có ngôn ngữ riêng  biểu hiện của 1 quốc gia độc
lập. Kèo và cột là cách đặt tên người theo quan niệm xưa bởi vì cuộc sống của nhân dân xưa
gắn liền với miền quê, với mái lá nhà tranh  Cha ông ta xưa gắn liền với những miền quê
thuần Pháp, với nền nông nghiệp thóc gạo với mái lá nhà tranh nên thường đặt tên cho con
bằng những cái tên nôm na dân dã lấy từ những bộ phận của căn nhà
 Đất nước không ở đâu xa, nó hiện hữu ngay trong những ngôi nhà thân thương, trong tên
gọi của những đứa con rất đỗi thân yêu
- “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”: nói đến nền văn minh nông nghiệp
lúa nước của đất nước ta. Để có được hạt gạo như một thứ gia bảo của mỗi gia đình thì người
dân nước ta phải trải qua quá trình lam lũ, phải đánh đổi cả mồ hôi nước mắt mới ra đc hạt
gạo quý giá ấy.  đất nước hình thành khi chúng ta có một nền văn minh riêng
 cách cảm nhận về đất nước của NKĐ thật gần gũi thân quen mà ko kém phần thi vị độc
đáo, làm siêu lòng cả những con người khó tính nhất
- Kết lại đoạn thơ, Nguyễn Khoa Điểm khẳng định chắc nịch “Đất nước có từ ngày đó…”.
Câu cuối của đoạn thơ là 1 lời đúc kết giản dị nhưng chắc chắn và trong suốt ko gian tgian
văn hóa phong tục của dân tộc thì đất nước đã hình thành và từ đó có dải đất thân yêu hình
chữ S mang tên VN. Nhưng ngày đó là ngày nào ta ko thể khẳng định chính xác chỉ biết rằng
đất nước gắn bó trong cuộc đời của mỗi con người, gần gũi trong sinh hoạt hàng ngày giản dị
nhưng rất đỗi thân thương.

NHẬN XÉT: ĐIỂM KHÁC BIỆT CỦA NKĐ VỀ ĐẤT NƯỚC


- Về cách lí giải của NKĐ về đất nước, đề tài đất nước vốn là đề tài trở đi trở lại trong vh từ
xưa đến nay ví dụ như Lý Thường Kiệt khẳng định chủ quyền đất nước về sách trời để
mở ra một khoảng cách về không gian giữa con người và đất nước. Nguyễn Trãi lại
định nghĩa đất nước bằng một loạt các từ ngữ tạo ra khoảng cách tgian của đất nước.
Chu Mạnh Trinh trong “Hương sơn phong cảnh ca” thì cho rằng cảnh đẹp hương sơn
là do tạo hóa khéo ra tay sắp đặt. Còn Nguyễn Đình Thi đã khẳng định: “Trời xanh đây
là của chúng ta/ Núi rừng đây là của chúng ta/ Những cánh đồng thơm mát/ Những ngả
đường bát ngát/ Những dòng sông đỏ nặng phù sa”
 các nhà thơ đều miêu tả đất nước bằng các hình ảnh kì vĩ mỹ lệ để tạo ra 1 khoảng cách
về không gian tgian để cho thấy một cái nhìn đầy ngưỡng vọng về đất nước. Còn NKĐ lại
cảm nhận về đất nước qua những từ ngữ hết sức bình dị đơn sơ. Để diễn tả điều này, tgia đã
sử dụng những đặc sắc nghệ thuật:
+ Cách sử dụng cấu trúc câu “Đất nước đã có”, “Đất nước bắt đầu”, “Đất nước lớn lên”, “Đất
nước có từ”. Nó có 2 tác dụng, cho ta hình dung đc quá tình hình thành và phát triển của đất
nước và cho ta thấy rằng đất nước không hề đứng yên mà luôn vận động phát triển theo bề
dày lịch sử
+ Cách sử dụng từ vựng: NKĐ đã sdung những từ thuộc trường từ vựng chỉ gia đình: bà, cha,
mẹ. Nó gợi về cái tình cảm gắn bó ruột già của mỗi gia đình và đó là khởi nguồn của đất
nước, cội nguồn của tình cảm. Nguyễn Thi “Những đứa con trong gia đình” khi chú Năm nói
với 2 đứa cháu trc ngày nhập ngũ: “Con sông gia đình cũng chảy về biển mà biển thì rộng
lắm, rộng bằng nước ta
+ Tác giả đã sử dụng những chất liệu vh dân gian, gợi về những câu chuyện cổ tích, truyền
thuyết, những bài ca dao dân ca. Khiến cho đất nước vừa hiện hữu rõ ràng vừa bình dị thân
quen vừa có chiều sâu văn hóa lịch sử

b) Đất nước là gì? (10-42)


*) 10-22: Đất nước là không gian địa lí:
- không gian sinh hoạt bình dị con người
- Không gian lớn lao kì vĩ
- Không gian sinh tồn của cả dân tộc
- Không gian thiêng liêng gắn với cội nguồn dân tộc
+ Không gian sinh hoạt bình dị:
 “Đất là nơi anh đến trường”: đất là không gian quen thuộc nâng bước chân anh ngày
ngày đến trường. Câu thơ tưởng chừng giản đơn nhưng lại chất chứa cả một bề dày
của lịch sử bởi vì từ hàng ngàn năm phong kiến chỉ có những chàng trai đc đến
trường. Họ mang theo cùng những con đường dưới chân là những ước mơ đến trường
để học hành thi cử đỗ đạt mang theo bảng vàng
 “Nước là nơi em tắm”: có thể là một không gian yên bình của một giếng nước gốc đa
đầu làng hoặc 1 bến sông quê yên bình hoặc 1 dải kênh xanh nơi cánh đồng bát ngát.
Đó là nơi các cô thôn nữ quây quần bên nhau. Nơi em tắm còn gợi đến truyện cổ tích
của Chử Đồng Tử với 1 bến sông quê thanh vắng hữu tình, nơi mà nàng tiên quay
màn bắt tiên để tắm rồi từ đó kết mối nhân duyên với CĐT  không gian sinh hoạt
bình dị
 “Đất nước là nơi ta hò hẹn”: có thể là 1 ko gian thơ mộng lãng mạn của 1 đêm trăng
bên khóm tre đầu làng để chàng trai có cớ hỏi cô gái “Đêm trăng thanh ai mới hỏi
nàng/ Tre non đủ lá, đan sàng nên trăng”. Không gian hẹn hò đó có thể là ko gian lao
động hàng ngày để đôi lứa trong hoàn cảnh nam nữ thụ thụ bất thân thì có dịp làm
quen chuyện trò rồi bày tỏ tình cảm.
VD:
- “Em thì vác cuốc thăm đồng/Anh thì giả cách đem lồng chọi chim/Vì em anh phải đi
tìm/Xưa nay anh biết chọi chim là gì”
- “Hỡi cô tát nước bên đàng/Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi”
 đất nước không phải là ko gian nào đó xa xôi mà là ko gian của tình yêu là nơi ta hog
hẹn
 “Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”: chiếc khăn là một vật
bất li thân của những cô gái thời xưa là một người bạn tri ân tri kỉ chia sẻ mọi nỗi vui
buồn vì thế nó cũng là kỉ vật trong tình yêu đôi lứa.
VD:
“Mỗi khi khăn mở trầu trao
Miệng chỉ cười nụ biết bao nhiêu tình”
“Gửi khăn gửi áo gửi lời
Gửi đôi chàng mạng cho người đàng xa”

 Câu thơ đã gợi nhắc đến bài ca dao “khăn thương nhớ ai” cho thấy chiếc khăn không
chỉ là kỉ vật mà còn thể hiện nỗi nhớ bâng khuâng cháy bỏng da diết nhưng cũng rất
dịu dàng nữ tính của 1 cô gái khi yêu
Không gian đất nước ko ở đâu xa mà đó là nơi chứng kiến tình cảm của những con người
yêu nhau. Đất là không gian mở ra cho anh bước đến chân trời kiến thức, còn nước là nơi em
tắm, nước đã gột rửa tâm hồn em trong sáng dịu hiền. Cùng với thời gian anh và em lớn lên
thì đất nước lại là nơi ta hò hẹn và là nơi chia sẻ tình cảm nhớ mong của những con người
đang yêu. Điều đặc biệt là đất và nước tách ra khi anh và em là 2 cá thể độc lập còn khi anh
và em hòa hợp để kết thành “ta” thì đất và nước đã hợp thành “đất nước”  đất nước chính là
nơi gắn kết mọi người
+ Không gian kì vĩ lớn lao:
 Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”:
 Mở ra không gian miền núi, nó gợi về câu ca dao dân ca miền trung, câu ca dao ấy
thấm đẫm tình yêu quê hương của con người đất Việt lúc nào cũng nhớ về quê hương
nguồn cội.
 Gợi về câu chuyện cổ tích “Cây khế” kể về 1 con chim ăn quả khế trả cục vàng và
người em hiền lành tốt bụng chịu thương chịu khó được trả công xứng đáng  niềm
tự hào của tác giả về tổ quốc VN vừa giàu đẹp lại vừa nghĩa tình
 Gợi về cổ tích “dựa đực dựa cái” kể về người em hiền lành tốt bụng thật thà chịu
thương chịu khó thì được đền đáp xứng đáng với cả núi vàng núi bạc  truyền thống
ân nghĩa của người VN
 Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”: không chỉ gợi về câu ca dao của
miền trung nghĩa tình mà còn gợi ra 1 hình ảnh thực đó là những con cá đớp trên mặt
nước để tạo ra những bong bóng. Giữa biển khơi bao la rộng lớn mà vẫn xuất hiện
hình ảnh những con cá đớp trên mặt nước qua đó cho chúng ta thấy một biển khơi lắm
tôm nhiều cá và cũng thể hiện niềm tự hào của tác giả về sự giàu có của không gian
đất nước.  không gian đất nước đc nới rộng từ vùng núi đến vùng biển
 2 câu thơ mở ra một không gian rừng vàng biển bạc, kỳ vĩ lớn lao
- Không gian sinh tồn của cả dân tộc:
+ “Đất nước là nơi dân mình đoàn tụ”: cụm từ “dân mình” cho thấy tình cảm đồng bào gắn
kết son sắt gần gũi và đặt trong hoàn cảnh chiến tranh bấy giờ thì nó càng có ý nghĩa lớn lao
trong việc cổ vũ tinh thần đoàn kết của nhân dân. Thứ 2 là cụm từ “đoàn tụ” đã bật tả được
khối đại đoàn kết của nhân dân ta, đó là cội nguồn sức mạnh của dân tộc. Khối đại đoàn kết
ấy không chỉ là giữa những người cùng một thời đại mà còn là sự gắn kết giữa các thế hệ để
tạo nên truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta từ ngàn đời
 Không gian đất nước là không gian sinh tồn của dân tộc  kgian gắn kết của mọi người
thuộc mọi thế hệ tạo nên truyền thống dân tộc
+ “Đất là nơi Chim về/Nước là nơi Rồng ở/Lạc Long Quân và Âu Cơ/Đẻ ra đồng bào ta trong
bọc trứng”:
 2 câu thơ đầu gợi lên 2 câu thành ngữ: “Đất lành chim đậu”, “Nước thiêng rồng ở”
gợi không gian vô cùng thiêng liêng  thể hiện niềm tự hào về đất nước thiêng liêng
 2 câu thơ sau nhắc lại cội nguồn của nhân dân với truyền thuyết LLQ và ÂC và sự
tích bọc trăm trứng rồi nở ra thành 100 con, 50 theo mẹ lên non 50 theo cha xuống
biển  tác giả giải thích tại sao nhân dân ta lại sống trên mọi địa hình từ núi đến biển
gồm 54 dân tộc anh em, 54 phong tục tập quán, 54 chữ việt và tiếng nói nhưng đều từ
1 mẹ sinh ra đều là một gia đình cho nên nhân dân ở mọi miền mọi dân tộc phải đối
xử với nhau như anh em ruột thịt
- Nghệ thuật: đoạn thơ đã thể hiện sử sáng tạo nghệ thuật độc đáo của NKĐ, tác giả đã tách
cụm từ đất nước thành 2 cụm từ riêng rồi xây dựng từng khái niệm của 2 từ đó để gộp lại
thành khái niệm “đất nước” là. Đây là cách giải thích khái niệm về Đất nước theo lối quy nạp.
Tác dụng của nó là biến một khái niệm vốn trừu tượng thành những hình ảnh cụ thể dễ tưởng
tượng để người đọc dễ bề hình dung về không gian địa lí. Dùng nghệ thuật điệp cấu trúc “đất
là”, “nước là”, “đất nước là” khiến cho mỗi câu thơ như 1 câu định nghĩa rồi lại vắt từ định
nghĩa này sang định nghĩa khác giúp người đọc cảm thấy thú vị, đi từ bất ngờ này sang bất
ngờ khác. Khiến cho dòng thơ như những định nghĩa về đất nước. Đất nước đc tách ra thành
2 từ để tìm từng khái niệm đây chính là lối chiết tự nhưng ko hề tạo ra 1 cảm giác ngô nghê
mà vẫn rất duyên dáng và ý nhị và qua đó cho thấy tác giả đã khám phá đất nước trên nhiều
bình diện khác nhau. Giọng điệu tâm tình thủ thỉ như đôi lứa yêu nhau chứ ko phải giọng
điệu chính luận khi viết về đất nước, điều này xuất phát từ đối tượng hướng tới của bài thơ.
Đó là mong muốn thức tỉnh thế hệ thanh niên ở đô thị miền Nam được ru ngủ bởi những thú
ăn chơi bởi sự du nhập để họ nhận thấy vai trò của mình trong công cuộc bảo vệ đất nước.
Với thế hệ trẻ tuổi thì còn sự lay động nào hơn là tình yêu đôi lứa  tác giả đã chọn giọng
điệu tâm tình thủ thỉ của đôi lứa yêu nhau để thức tỉnh thế hệ trẻ ở miền Nam. Đây cũng
chính là giọng điệu chủ đạo của bản trường ca
- Đất nước là thời gian lịch sử: (5 câu tiếp)
+ Thời gian lịch sử của đất nước thường đc tính bằng các niên đại, các triều đại nhưng đối với
NKĐ, lịch sử được tính bằng những người đã khuất.
 Thế hệ của những người đã khuất: quá khứ
 Bây giờ: thế hệ hiện tại
 Con cháu mai sau: tương lai
 thế hệ hiện tại có vai trò cầu nối giữa quá khứ với tương lai
+ Để thực hiện vai trò đó, thế hệ hiện tại có nghĩa vụ:
 Yêu nhau và sinh con đẻ cái vốn là quyền lợi thiêng liêng của mỗi con người nhưng
với NKĐ thì đó còn là nhiệm vụ của công dân đối với đất nước. Bởi vì nếu ko có tình
yêu lứa đôi, không kết thành một gia đình và không sinh ra những đứa con thân yêu
thì dân tộc không thể trường tồn, nó đứng trên bờ vực của sự lụi tàn. Đây là chân lí rất
đỗi giản đơn mà NKĐ đã đánh thức được quyền lợi thiêng liêng của mỗi người, quyền
được yêu, trách nhiệm đối với Tổ quốc
 Dặn dò con cháu chuyện mai sau, đây là trách nhiệm cầu nối và gắn kết giữa thế hệ
quá khứ và tương lai. Thế hệ hiện tại sẽ phải làm nốt nhiệm vụ còn dang dở của thế hệ
đi trước và phải dặn dò khuyên bảo con cháu của thế hệ mai sau hãy tiếp tục phát huy
truyền thống tốt đẹp của cha anh làm cho truyền thống ấy ngày càng trường tồn phát
triển.
 ý nghĩa: gắn kết vào thời điểm hiện tại khi dân tộc ta đang trong cuộc chiến khắc liệt. Khi
mà các thế hệ cha ông đã đổ máu, đã ngã xuống cho độc lập tự do của Tổ quốc, nhưng tại
thời điểm đó công cuộc này còn đang dang dở thậm chí tình thế nước sôi lửa bỏng  NKĐ
muốn nói với thế hệ thanh niên miền Nam lúc bấy giờ: hãy đứng lên tiếp bước cha anh đánh
đuổi kẻ thù. Nếu có phải ngã xuống vì TQ khi tuổi đời còn xanh thì hãy yên tâm vì đã có thế
hệ sau tiếp bước làm nốt những việc còn dang dở.
 Qua 5 câu thơ tái hiện lịch sử đất nước bằng 3 thế hệ hiện quá khứ hiện tại và TL, NKĐ
đã tạo ra 1 dòng chảy lịch sử dân tộc trong từng câu chữ. Dòng chảy đó ko tính bằng các niên
đại, triều đại mà nó tính bằng từng thế hệ con người, đó là đặc điểm nổi bật trong những câu
thơ NKĐ. Mỗi câu chữ lại thấm dần vào tâm hồn của thế hệ trẻ hiện tại và họ đã thật sự đc
đánh thức bởi vì kết quả của cuộc chiến đấu bảo vệ nền độc lập dân tộc chính là chiến thắng
của mùa xuân năm 1975 đã là minh chứng hùng hồn cho ý thức bảo vệ dân tộc của thế hệ
hiện tại đã đc đánh thức. Đây chính là sức nặng trong những câu thơ của NKĐ.
- 28-29: Đất nước là chiều sâu văn hóa:
“Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ”
+ Truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ta, truyền thống ấy được phản ánh trong
thơ ca “Dù ai đi ngược về xuôi/Nhớ ngày giỗ Tổ mùng một tháng ba”
Hoặc trong “Quê hương”:
“Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người”
 chiều sâu văn hóa đất nước
- 30-42: đất nước có trong mỗi con người (9 câu tiếp)
“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần đất nước”
- Trong mỗi người đều có 1 phần ĐN
 quan niệm vừa kế thừa vừa mới mẻ:
+ Lâu nay trong suy nghĩ nhiều người, quê hương, đất nước, dân tộc luôn là trừu tượng.
Nhưng đối với không ít người và cả NKĐ, đất nước thân thiết, gần gũi, bình dị những điều
này chưa hẳn là mới bởi vì trong ca dao, dân ca ta cũng bắt gắp những hình ảnh đất nước rất
gần gũi bình dị:
“Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương”
Nhớ ai dãi nắng dầm sương
Nhớ ai toa nước bên đường hôm nao”
+ Nhưng cái mới của NKĐ chính là cảm nhận đất nước có trong mỗi con người nhưng điều
tinh tế của NKĐ trong diễn đạt là “trong anh và em hôm nay đều có một phần đất nước”
 ĐN là sự gắn kết người với người
 Để đất nước trọn vẹn thì:
“Khi 2 đứa cầm tay
Đất nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người”
 Khi 2 đứa cầm tay  đất nước sẽ đẹp hơn. Muốn đất nước vẹn tròn to lớn thì anh và em
phải cầm tay mọi người. Trong bức tranh toàn diện của đất nước, mỗi con người là một mảnh
ghép. Khi anh và em gắn bó yêu thương thì sẽ kết lại thành gia đình. Các gia đình gắn kết với
nhau thì sẽ thành những làng quê và các làng quê gắn kết với nhau thì tự nhiên đất nước sẽ
vẹn tròn to lớn.
 Vai trò ko hề nhỏ của mỗi cá nhân đối với đất nước mình và đất nước có hùng cường
mạnh mẹ phát triển đc hay ko phụ thuộc rất nhiều vào sự nỗ lực of mỗi cá nhân con người 
thành công khơi dậy ý chí chiến đấu
- Nghệ thuật:
+ Điệp cấu trúc: “Khi… cầm tay… ĐN”, biện pháp khiến cho câu thơ như kiểu câu điều
kiện-kết quả trong lời ăn tiếng nói hàng ngày.
+ Điệp từ “cầm tay” là hành động thường xuất hiện trong thơ ca và nó thể hiện rất nhiều ý
nghĩa. Nó biểu trưng cho sự thân thiết tin cậy yêu thương gắn bó sẻ chia. Điệp từ cầm là gắn
với các tính từ chỉ mức độ. Điệp từ “cầm tay” này lại kết hợp với các từ chỉ mức độ (hài hòa,
nồng thắm, vẹn tròn, to lớn) khiến cho câu thơ mang sức nặng của tình cảm chân thành.
VD:
“Trước ba năm gặp Bác một lần
Cầm tay hỏi bác xa gần
Mừng rằng Bác hãy tinh thần chưa can”

Trong bài “Quê hương” của Giang Nam


“Tôi nắm bàn tay nhỏ nhắn ngậm ngùi
Em vẫn để yên trong tay tôi nóng bỏng”
Trong bài “Đồng chí” của Chính Hữu
“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
 ĐN ko chỉ là sự gắn kết của mn, đất nước không phải là một khái niệm trừu tượng, càng
không phải là 1 giá trị bất biến có sẵn mà đất nước là một thực thể sống, sự sống ấy ra sao thì
phụ thuộc vào tất cả con người trên mảnh đất đó. Nói cách khác đó là sự gắn kết của mỗi
cộng đồng, giữa công dân đối với tổ quốc.
- Với quan điểm này nhà thơ đã mơ về tương lai tươi sáng của dân tộc:
+ “Mai này con ta lớn lên”
 Mai này  thời tương lai
 Con ta  thế hệ con cháu tương lai
 Lớn lên: sự trưởng thành về cả thể chất và tình cảm
 Thể hiện niềm tin về 1 tương lai sẽ trưởng thành toàn vẹn kể cả thể chất, trí tuệ lẫn tình
cảm. Đó là thế hệ sẽ tiếp cận vs những điều tiên tiến của nhân loại để góp sức mình cho sự
phát triển của đất nước
+ “Con sẽ mang đất nước đi xa/ Đến những tháng ngày mơ mộng”: Là một lối nói ẩn dụ thể
hiện khát vọng thế hệ hiện tại về 1 thế hệ tương lai sẽ đưa đất nước lớn mạnh trường tồn vì
tác giả tin rằng mỗi người đều có 1 phần đất nước.
* Nhắn nhủ thế hệ trẻ:
“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời...”
- Những câu thơ đc viết theo kiểu suy luận
+ “Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình”: nêu 1 tiền đề  yêu cầu, mục đích đối với
thế hệ trẻ “phải biết để làm nên”. Những câu thơ giàu chất duy lí nhưng với giọng điệu tâm
tình thì nó ko hề lên gân mà trái lại nó là lời nhắn nhủ tha thiết.
+ “Phải biết gắn bó san sẻ/Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở/ Làm nên Đất Nước muôn
đời...”: sử dụng nhiều từ ngữ có tính chất tượng trưng gồm “máu xương”, “gắn bó”, “san sẻ”,
“hóa thân”, “dáng hình” và “muôn đời”.
 Máu xương: nghĩa thứ nhất chỉ bộ phận của cơ thể cho thấy ĐN vô cùng gần gũi, nó
có ở trong ta. Nghĩa thứ 2, máu xương chính là sự sống, ĐN đc bảo vệ bởi máu
xương, đc bảo vệ bởi sự sống của bao thế hệ và sự thực là đã bao người thuộc bao
nhiêu thế hệ đã ngã xuống cho sự tồn tại của đất nước  ĐN vô cùng thiêng liêng
 Gắn bó là yêu thương là quan hệ mật thiết với đất nước, giữa những con người với
nhau.
 San sẻ là cho đi, chia sẻ những niềm vui hạnh phúc, những gian khổ cho nhau để đất
nước ko chỉ là 1 tập hợp những con người rời rạc mà là một cộng đồng người yêu
thương gắn bó.
 “Hóa thân cho dáng hình xứ sở”: đc hiểu theo nghĩa rộng thì nó là sự dâng hiến, ở thời
chiến người ta có thể dâng hiến cả sự sống của mình cho đất nước. Còn thời bình thì
người ta dâng hiến sức lực và trí tuệ cho Tổ quốc.
Giống với ý nghĩa dâng hiến của Thanh Hải trong MXNN:
“Ta làm con chim hót
Ta làm một nhành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến
Ôi mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc”
 Những câu thơ mang đậm chất duy lí, đặt trách nhiệm cho thế hệ trẻ song nó đc diễn
đạt bằng giọng điệu trữ tình ngọt ngào khiến cho lời thơ ấy trở nên thiết tha thúc giục
lòng người

NHẬN XÉT VỀ CẢM NHẬN CỦA NKĐ VỀ ĐẤT NƯỚC:


- Nghệ thuật: Bài thơ mang đậm chấy duy lí nhưng với giọng điệu tâm tình nhắn nhủ khiến
cho những câu thơ cất lên như tiếng gọi của trái tim, nó thiết tha thúc giục lòng người.
- Nội dung: thể hiện quan niệm của NKĐ về đất nước, những cảm nhận vừa có tính chất kế
thừa truyền thống vừa có tính chất mới mẻ. Tác giả quan niệm đất nước là ko gian địa lí, thời
gian lịch sử, chiều sâu văn hóa giống như các nhà thơ trc đó quan niệm (dẫn chứng đã ghi ở
trên). Còn mới mẻ ở chỗ đất nước có trong mỗi con người, đất nước như sự sống và được bảo
vệ bởi bao thế hệ. Sự sống đó phụ thuộc vào sự cố gắng của mỗi còn người vì mỗi người là 1
mảnh ghép của đất nước.
+ Cảm nhận tính chất kế thừa:
Nguyễn Trãi trong “Bình Ngô Đại Cáo”:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nên văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”

2) Đất nước là của nhân dân (43-90):


a) Không gian địa lí của đất nước là do nhân dân hóa thân mà thành (43-54):
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta...”
- Nghệ thuật liệt kê:
 liệt kê những danh lam thắng cảnh của mọi miền Tổ quốc. Theo lẽ thông thường những
danh lam thắng cảnh này đều do bàn tay của tạo hóa, do mưa gió thiên nhiên tạo thành.
Nhưng qua con mắt của tác giả thì những danh lam thắng cảnh đó là do con người hun đúc
bởi chính phẩm chất của con người VN, do nhân dân tạo thành
+ Núi Vọng Phu: là do nàng Tô Thị bồng con chờ chồng đến hóa đá  ko phải do mưa nắng
tạo thành mà tạo nên nhờ phẩm chất tốt đẹp của hàng ngàn thế hệ phụ nữ của nhân dân VN
+ hòn Trống Mái: là hình bóng của cặp vợ chồng yêu nhau gắn bó ko nỡ rời xa tạo thành
+ trăm ao đồng: đc hình thành từ gót ngựa thánh Gióng khi đi qua ao đầm  kết tinh từ phẩm
chất yêu nước đánh giặc của con người VN
+ Đất tổ Hùng Vương: vừa thực vừa truyền thuyết vì nhìn ra xa ta sẽ thấy vô số những ngọn
núi nhỏ quây quần tụ hội chụm đầu vào ngôi đền nhân dân, đó là đền thờ Vua Hùng. Theo
truyền thuyến, nơi này đc góp thành từ 99 con voi và người xưa còn nhắc đó là 99 con voi thờ
phục về đất tổ thiêng liêng nơi thờ các vua Hùng, những người đã có công dựng nước. Đất tổ
được làm nên từ những vị vua Hùng và sự trung thành của nhân dân.
 đền hùng là nơi kết tinh truyền thống uống nước nhớ nguồn của con người VN.
+ dòng sông xanh thẳm: đc góp bởi 9 con rồng  sông Cửu Long của đồng bằng Bắc bộ đc
tạo ra bởi 9 con rồng nằm im.  phẩm chất kiên trì vượt khó và đầy nghĩa tình của con người
VN (sự tích sông Cửu Long)
+ Núi Bút non Nghiên: Quảng Ngãi, được làm nên bởi phẩm chất hiếu học của cậu học trò
nghèo  phẩm chất của người VN
+ Con cóc con gà: vật nuôi thân thiết của con người, danh lam thắng cảnh của Hạ Long
+ Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm: tên địa danh đồng bào Nam Bộ, kết tinh phẩm
chất của con người VN
 Không gian đất nước đc kết tinh từ phẩm chất nhân dân ngàn đời
- Điệp từ “góp”: góp cho, góp nên, góp mình, nhấn mạnh sự tự nguyện dâng hiến, sự dâng
hiến trọn vẹn cho ĐN mà ko có bất kì sự toan tính nào
 ý nghĩa: NKĐ viết Trường ca (1971) khi ĐN chia cắt làm 2 miền, tất cả mang nỗi đau của
một dân tộc chưa thống nhất. Cách nhà thơ liệt kê danh lam thắng cảnh mọi miền Tổ quốc
cho thấy nhà thơ ko bỏ qua vùng miền nào từ B-T-N, thông điệp nhà thơ gửi gắm tới người
đọc như Tố Hữu gửi gắm:
“Chúng ta, con một cha, nhà một nóc
Thịt với xương, tim óc dính liền
Dù ai nói ngả nói nghiêng
Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân
Dù ai rào giậu ngăn sân
Lòng ta vẫn vững là dân cụ Hồ”
- chính vì vậy, NKĐ khẳng định “Và ở đâu… sông ta” không gian đất nước ở mọi miền
không phải là những địa danh vô tri vô giác mà là dáng hình ao ước, lối sống ông cha, là
những hóa thân nhân dân trải qua 4000 năm lịch sử mà thành
b) Lịch sử đất nước do nhân dân làm nên (55-72)
“Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn ngàn năm Đất Nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ
Nhưng em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước

- Lịch sử đất nước là lịch sử 4 ngàn năm, là con số rất lớn, chiều dài rất xa của lịch sử dân
tộc. Con số mà tác giả muốn hướng tới đất nước ta có từ rất lâu, trong 4 ngàn năm đấy dân
tộc ta phải đấu tranh giữ nước và thời gian còn lại ngắn ngủi là để xây dựng đất nước. Với
NKĐ, bốn ngàn năm lịch sử đó gắn với người người lớp lớp. Từ láy “người người lớp lớp”
cho thấy sự nối tiếp của các thế hệ trong con đường xây dựng quê hương và cho chúng ta
thấy lực lượng hùng hậu của nhân dân dể xây dựng và bảo vệ đất nước trong suốt 4 ngàn năm
lịch sử. Nó còn tạo nên 1 giọng điệu nhanh, gấp nối liền cho thấy sự háo hức, hối thúc của
những con người sẵn sàng xả thân vì đất nước.
- Họ là ai: họ là những người con gái con trai bằng tuổi chúng ta. Thời bình họ là những
người lao động chăm chỉ côi cút, họ mang phẩm chất cần cù làm lụng.
VD: “Con cò mà đi ăn đêm/ Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao”
+ Khi có giặc: người con trai ra trận, họ sẵn sàng để lại quê hương, gia đình
VD: Đồng chí của Chính hữu. Tây tiến của quang Dũng: hssv Hà Thành sẵn sàng gác bút
nghiêng, lên đường chiến đấu
 thời kì nào người đầu tiên xông pha trận mạc là những người con trai. Nhìn bao quát cả
chiều dài lịch sử mới thấy hết được khí thế của người con trai ra trận
+ người con gái: “Trở về nuôi cái cùng con”
 Trở về: hình dung biết bao cuộc chia li của những người con gái với người chồng,
người cha, người anh ra trận chiến đấu đó là những cuộc chia li rất lòng
 Nuôi cái cùng con: trở về trở thành hậu phương vững chắc nuôi cha mẹ, con
 Nhưng nếu có một ngày giặc ngoại xâm đến: sẵn sàng đứng lên đánh giặc  anh
hùng nữ: từ thời Bà Trưng Bà Triệu, Võ Thị Sáu  Bác tặng 8 chữ vàng: anh hùng,
bất khuất, chung hậu, đảm đang
+ Trở thành “anh hùng”: cả anh và em đều nhớ
 có tên tuổi (hữu danh) được lưu trong sử sách
 Không ai nhớ mặt đặt tên  anh hùng vô danh, hòa chung vào các thế hệ trong 4000
lớp người. họ sống và chết và âm thầm công hiến và hi sinh cho đất nước, không cần
lưu danh sử sách. Họ sắn sàng hi sinh cho đất mẹ thân yêu để đất nước hôm nay có
dáng hình của đất nước.
 VD: Tây Tiến “áo bào”
Nhận xét về những nét mới của NKĐ khi lí giải về lịch sử đất nước: Nếu các nhà thơ trung
đại hoặc các nhà sử học đều cảm nhận về lịch sử đất nước bằng các niên đại triều đại
VD: Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập/Cùng Hán, Đương, Tống, Nguyên mỗi
bên xưng đế một phương”
Còn với NKĐ làm nên lịch sử đất nước ko phải là tgian hoặc triều đại của các ông vua mà đó
là các thế hệ nhân dân bình dị, họ là những anh hùng hữu danh và cả vô danh.
 bằng giọng điệu tâm tình thủ thỉ, NKĐ đã cho người đọc thấy lịch sử ĐN làm lên bởi các
thế hệ con người
c) Chiều sâu văn hóa của ĐN do nhân dân làm nên và lưu truyền (73-90):
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
Ôi những dòng sông bắt nước từ lâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi
* Nghệ thuật:
- Điệp từ “họ”  nhân dân qua đó để nhấn mạnh công lao vô bờ bến của nhân dân tỏng việc
dựng xây và giữ gìn văn hóa dân tộc
- BP liệt kê được sử dụng để cho thấy cái vai trò của nhân dân trong việc tạo nên và lưu
truyền những lĩnh vực văn hóa khác nhau
- Nghệ thuật dùng từ: độc đáo
+ truyền: sự di chuyển không ngắt quãng của cả yếu tố vật thể và phi vật thể như truyền điện,
truyền nước, truyền ngôi
+ chuyền: sự di chuyển của vật thể hữu hình
 vai trò nhân dân trong việc lưu giữ và truyền lại các giá trị văn hóa cả lĩnh vực vật chất và
tinh thần để tạo ra một truyền thống văn hóa của dân tộc

* 7 câu đầu: 73-80 ca ngợi nhân dân trong lĩnh vực văn học:
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
- Đây là cách giữ lửa và truyền lửa rất giản dị của nhân dân ta từ xa xưa, ngọn lửa hồng được
truyền từ nhà này qua nhà khác theo cách rất giản dị  gợi tình làng nghĩa xóm gắn bó nghĩa
tình của những người nông dân.
- Nhân dân là người lưu giữ những giá trị vật chất cho muôn đời sau:
+ Truyền lại cho ta hạt giống ta trồng: nhân dân đã truyền lại cho thế hệ sau cả 1 nền văn
minh lúa nước, một truyền thống canh tác sản xuất lúa nước
+ Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói: đây là cách truyền khẩu tiếng nói của dân tộc,
hành động giản dị tự nhiên nhưng lại vô cùng thiêng liêng vì đây cũng là cách nhân dân lưu
giữ truyền thống của dân tộc thể hiện niềm tự hào tự tôn dân tộc

(bù sau)
- “Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi: giàu yêu thương
+ Gợi đến câu ca dao “yêu em từ thuở trong nôi”
+ “anh yêu” và “em yêu” yêu nhau từ khi còn trong bụng mẹ
- “Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội”: biết trân trọng những thành quả lao động, đề
cao thành quả lao động
- “Biết trồng tre đợi ngày thành gậy”: gợi câu ca dao “thù này ắt hẳn dài lâu/Trồng tre thành
gậy gặp đâu đánh què”  truyền thống văn hóa bền bỉ đánh giặc
 với nghệ thuật liệt kê, điệp từ và sử dụng chất liệu văn hóa dân gian NKĐ đã cho người
đọc thấy truyền thống văn hóa của dân tộc đều do nhân dân tạo nên và lưu truyền.
* 4 câu kết: khúc ca ca ngợi vẻ đẹp của đất nước
- Nhà thơ chọn hình ảnh dòng sông, đây không phải hình ảnh ngẫu nhiên mà là hình ảnh
mang nhiều ẩn ý bởi vì dòng sông ngàn năm vẫn trôi chảy như đất nước ngàn đời phát triển.
Dòng sông bắt nước từ đâu ko ai rõ cũng ko ai rõ cặn kẽ cội nguồn của đất nước chỉ biết rằng
khi về đất nước mình thì bắt lên câu hát. Câu hát thể hiện niềm vui ca, lạc quan yêu đời và đó
là tiếng hát của những người chèo đò kéo thuyền vượt thác. Đây là hình ảnh có tính chất biểu
tượng cho gian khổ, đó là nhân dân lao động gian khổ nhưng để vượt qua những khó khăn
thách thức trong cuộc đời trên cái dòng sông giữ nước và dựng nước. Tuy nhiên họ vẫn lạc
quan vui ca, đó là vẻ đẹp của dân tộc VN để rồi trên dòng sông đất nước là trăm màu trên
trăm dáng sông xuôi. Trăm màu là sắc màu lộng lẫy trên dòng sông đất nước, là màu sắc của
những dân tộc khác nhau trên đất nước mình. Là những phẩm chất tốt đẹp của nhân dân tỏa
sáng lung linh. Điều này đã tạo nên vẻ đẹp, sức mạnh và sự cuốn hút của nd VN và thể hiện
niềm tự hào vô bờ bến của ĐN.

You might also like