Professional Documents
Culture Documents
+ “Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”. Đất nước được cảm nhận qua
truyền thống chống ngoại xâm hào hùng của dân tộc. Cây tre là biểu tượng của người Việt Nam,
gắn với đời sống thường ngày và có lúc trở thành vũ khí chống giặc. Truyền thuyết kể rằng
Thánh Gióng từng nhổ tre đánh giặc Ân.
-> Như vậy, sự hình thành và phát triển của ĐN gắn liền với những câu chuyện cổ, những
truyền thống tốt đẹp của nhân dân.
- ĐN còn được lý giải từ những phong tục tập quán, hình ảnh giản dị mà thân thuộc với chúng ta:
- Đất Nước được cảm nhận trong vẻ đẹp tình yêu của cha mẹ với lối sống nặng tình như “gừng
cay muối mặn”: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” .Hình ảnh thơ gợi nhớ câu ca
dao: “Tay bưng đĩa muối, chén gừng - Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”. Dù cay đắng,
gian nan nhưng cha mẹ vẫn đồng cam cộng khổ, chua ngọt sẻ bùi để tình cảm thêm mặn nồng,
thắm thiết.
+ Đất Nước không ở đâu xa, mà hiện hữu ngay trong ngôi nhà thân thương che chở ta hàng
ngày, trong tên gọi những đứa con rất đỗi thân yêu: Cái kèo cái cột thành tên
+ Đất Nước hóa thân vào hạt gạo với mồ hôi nước mắt của con người, với muối mặn phù sa
của đất mẹ, của nắng sương trong vũ trụ, đất trời để rồi mất bao công xay, giã, giần, sàng nữa
mới trở thành hạt gạo dẻo thơm trong bát cơm ta ăn nuôi ta lớn hàng ngày.
- Khép lại đoạn thơ, tác giả dùng câu khẳng định “ĐN có từ ngày đó” như trả lời cho câu hỏi:
“ĐN có từ bao giờ?”. Với những câu thơ trên, trong suốt không gian, thời gian, văn hóa, phong
tục của dân tộc, nhân dân Đất Nước đã hình thành, hiện hữu để từ đó ta có dải đất thân yêu hình
chữ S mang tên VN. Ngày đó là ngày nào, ta không thể khẳng định chính xác chỉ biết rằng Đất
Nước gắn bó trong cuộc đời của mỗi con người, gần gũi trong sinh hoạt của cuộc sống hàng
ngày, giản dị nhưng thân thương.
=> Như vậy, trong đoạn thơ, ĐN không được cắt nghĩa từ ranh giới lãnh thổ hay các triều
đại phong kiến mà gắn liền với những câu chuyện cổ, những truyền thống tốt đẹp của con
người VN. ĐN hiện lên bình dị, gần gũi, có trong những gì thân thuộc nhất với chúng ta.
Lịch sử lâu đời của ĐN được nhìn từ chiều sâu văn hoá và văn học dân gian. Đây chính là
điểm mới trong cách tìm hiểu về nguồn cội ĐN của NKĐ.
=> Lòng yêu nước được NKĐ thể hiện một cách cụ thể, nồng thắm. Đoạn thơ cho thấy ĐN
thật gắn bó gần gũi, thiêng liêng với mỗi con người. Vì vậy, trách nhiệm của mỗi con người
là phải bảo vệ ĐN bằng mọi cách.
2/ Ai đã làm nên Đất Nước? (Tư tưởng là ĐN của Nhân Dân):
a/ Về điạ lí:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”
- Nhân dân là người tô điểm nên vẻ đẹp, dáng hình đất nước:
+ Những người vợ nhớ chồng và núi Vọng phu: Là sự thủy chung
+ Cặp vợ chồng yêu nhau và hòn Trống mái: Là tình nghĩa vợ chồng
+ Chín mươi chín con voi và đất tổ Hùng Vương: Là tinh thần yêu nước, cội nguồn
+ Người học trò nghèo và núi Bút, non Nghiên: Là tinh thần hiếu học
-> Qua đôi mắt nhà thơ, những địa danh đấy như được hun đúc và tạo nên từ chính cuộc
đời, phẩm chất của người dân VN qua hàng nghìn thế hệ. Mỗi cảnh quan thiên nhiên, mỗi
danh lam thắng cảnh, di tích từ Bắc chí Nam đều in dáng hình con người.
- Sự hóa thân từ những phẩm chất tốt đẹp và từ chính cuộc đời của nhân ta được tác giả thể hiện
qua hàng loạt các động từ mạnh : góp cho, góp nên, để lại, góp mình, hóa để thể hiện sự tự
nguyện dâng hiến và dâng hiến trọn vẹn cho Đất Nước mà không có bất kì sự toan tính nào.
- Thiên nhiên đất nước không chỉ là sự vật mà còn là những nét đẹp tâm hồn nhân dân trong mấy
nghìn năm lịch sử:
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau 4.000 năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”
- Đất nước chính là những thành quả lao động, chiến đấu, là mồ hôi nước mắt và khát vọng của
nhiều thế hệ. Sự hóa thân của những con người bình thường đã làm nên sự bất tử cho Tổ quốc.
b/ Về lịch sử:
“Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào 4.000 năm Đất Nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng”
- NKĐ đã nhắc nhở thế hệ hôm nay hãy nhìn rất xa vào quá khứ của dân tộc: năm tháng nào cũng
người người lớp lớp già trẻ, gái trai vừa cần cù làm lụng để kiếm sống vừa đánh giặc cứu nước,
bất chấp hi sinh gian khổ và bạo lực quân thù. Họ sáng ngời với phẩm chất cần cù, chăm chỉ lao
động. Và vì thế họ lại trở thành anh hùng lao động trong thời chiến và những công dân tích cực
trong thời bình, nỗ lực hết mình cho công cuộc xây dựng Đất Nước.
“Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh”
- Chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng của dân tộc ta là chủ nghĩa anh hùng tập thể bất phân
già trẻ, đàn ông hay đàn bà:
+ Những người nông dân nghĩa sĩ trong văn tế của Nguyễn Đình Chiểu họ sẵn sàng từ bỏ làng
quê, công việc cuốc cày quen thuộc để vào trận. Những đồng chí trong thơ Chính Hữu cũng để
ruộng nương gửi bạn thân cày, những chiến sĩ Tây Tiến cũng sẵn sàng gác bút nghiên lên đường
đi chiến đấu khi tổ quốc cần. Có cái nhìn bao quát như vậy người đọc mới thấy hết không khí
hào hùng của ngày người con trai ra trận.
+ Hậu phương của họ là những người phụ nữ dứt lòng bịn rịn, đau đớn khi chia xa người cha,
người anh, người chồng, người yêu ra trận chiến đấu. Họ lặng lẽ nuôi cái cùng con, để những
người cầm súng chiến đấu vững dạ, yên tâm chắc tay súng. Không chỉ làm hậu phương vững
chắc, nếu một ngày có giặc ngoại xâm đến thì họ sằn sàng vùng lên :
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Thế mới có những nữ anh hùng như chị Út tịch với câu nói nổi tiếng : Còn cái lai quần cũng
đánh. -> Phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ VN, ba đảm đang, xứng đáng với 8 chữ vàng mà
Bác Hồ đã tặng : anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang.
“Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ”
- Chúng ta làm sao quên được Bà Trưng, Bà Triệu, Lê Lợi, Quang Trung…đã được ghi danh sử
sách.
Nhưng em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”
- Hơn nữa, nhân dân đã kiến tạo nên những giá trị lớn lao của đất nước bằng chính cuộc đời thầm
lặng vô danh, giản dị và bình tâm, sinh ra và lớn lên, lao động và đánh giặc, không ai nhớ mặt
đặt tên, thế hệ này nối tiếp thế hệ kia… Họ chiến đấu thầm lặng và ngã xuống lặng thầm. Chính
họ đã “làm ra ĐN”.
c/ Về văn hoá
Nhân dân bằng lao động sáng tạo đã dựng xây và gìn giữ mỗi giá trị tinh thần:
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyển lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại”
- Biện pháp nghệ thuật điệp từ “họ” để thể hiện công lao vô bờ bến, trùng trùng, điệp điệp của
nhân dân trong công cuộc giữ gìn và dựng xây ĐN.
- Nhân dân là những người truyền sự sống, linh hồn của dân tộc qua mỗi nhà, qua mỗi thế hệ. Họ
duy trì bản sắc dân tộc, phong tục tập quán: hạt lúa, ngọn lửa, giọng nói, truyền thống chống giặc
ngoại xâm…
- Họ lưu giữ những giá trị vật chất:
+ Đó là hạt lúa - thực phẩm thiết yếu hàng ngày nuôi sống bao thế hệ nhân dân,
+ Đó là ngọn lửa hồng được chuyền từ nhà này sang nhà khác. Hình ảnh thơ gợi người đọc nhớ
đến những tình cảm xóm làng đùm bọc, gắn bó và sống nghĩa tình, bởi từ xưa nhân dân ta đã
quan niệm “bán anh em xa mua láng giềng gần”, vì hàng xóm là những người “tối lửa tắt đèn có
nhau”.
- Họ lưu giữ những giá trị tinh thần:
+ Chiến tranh khốc liệt với bao cuộc di dân chạy loạn, tránh đạn bom, nhưng khi di cư, người
dân không quên mang theo tên xã tên làng, bởi đó chính là nguồn cội họ cần nhớ về, cần lưu giữ.
Người ta có thể bôn ba quá nửa đời nơi đất khách quê người, nhưng khi về già ai cũng trở về quê
hương, nơi chôn rau cắt rốn của mình.
+ Họ đắp đập be bờ, tạo dựng những giá trị vật chất nhưng những thế hệ mai sau lại được
hưởng những thành quả tinh thần là những trái quả ngọt ngào. Phải chăng đó là hình ảnh ẩn dụ
mà NKĐ muốn người đời sau hiểu rằng, có cuộc sống tự do, có hạnh phúc ngọt bùi ngày hôm
nay chính là do công sức bao thế hệ cha anh đã bỏ ra để tạo ra thành quả đó. Nên khi ăn trái hãy
nhớ về người vun đất, chăm cây.
+ Cao hơn nữa là tinh thần chiến đấu chống kẻ thù xâm lược trong bao cuộc kháng chiến của
dân tộc. Với tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc, họ sẵn sàng đứng lên đấu tranh khi có giặc xâm lăng
để bảo vệ tổ quốc, và khi có nội thù họ cũng sẵn sàng vùng lên đánh bại để lấy lại cuộc sống yên
bình. Nhân dân ta anh dũng, kiên cường là thế.
- Tác giả nhận thức rõ:“Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”. Hai vế
song song, đồng đẳng thể hiện cách định nghĩa về Đất Nước giản dị mà độc đáo.
- Cuối cùng, nói đến đất nước của nhân dân, tác giả trở về với cội nguồn phong phú, đẹp đẽ của
văn hóa dân tộc, văn hóa dân gian mà tiêu biểu là ca dao:
“Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu”
-> Nơi đó sáng lên vẻ đẹp tinh thần của ngươì Việt Nam: biết đắm say trong tình yêu, biết quý
trọng nghĩa tình và căm thù giặc sâu sắc.
- Đoạn thơ khép lại bằng câu hát ngân nga, trong trẻo:
“Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”
- Dòng sông ngàn năm vẫn trôi chảy, cũng như Đất Nước vẫn ngàn đời phát triển. Không biết rõ
dòng sông bắt nguồn từ đâu và cũng không ai hiểu rõ cặn kẽ cội nguồn Đất Nước, nhưng chỉ hiểu
rằng khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát, có niềm say hoan lạc, vui ca. Tiếng hát ấy ngân
nga trong giọng hát của người chèo đò, kéo thuyền vượt thác, để rồi Đất Nước theo khúc hát ngân
nga gợi lên trăm sắc màu trên trăm dáng sông xuôi đang ngày đêm miệt mài chảy.
“Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”
Trăm sắc màu lộng lẫy trên dòng sông của dân tộc, phải chăng đó là những phẩm chất, truyền
thống tốt đẹp của người dân VN đang tỏa sáng lung linh. Chính điều này tạo nên vẻ đẹp, sức
mạnh và sự cuốn hút của dân tộc VN trong niềm tự hào vô bờ của nhà thơ.