You are on page 1of 12

ĐẤT NƯỚC -Nguyễn Khoa Điềm-

I/ TÌM HIỂU CHUNG:


1. Tác giả:
- Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943 tại Thừa Thiên – Huế.
- Xuất thân trong một gia đình trí thức có truyền thống yêu nước và cách mạng.
- Là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thơ ông giàu chất suy tư,
xúc cảm dồn nén, mang màu sắc chính luận.
2. Tác phẩm:
a. Hoàn cảnh sáng tác:
- Trích phần đầu chương V của trường ca “Mặt đường khát vọng” - Tác phẩm được hoàn thành ở
chiến khu Trị – Thiên năm 1971, in lần đầu năm 1974.
- Bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ các thành thị vùng tạm chiếm miến Nam về non
sông đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình nhận rõ bộ mặt của đế quốc Mỹ, hướng về nhân dân
đất nước, đứng dậy xuống đường đấu tranh hòa nhịp với cuộc chiến đấu chống đế quốc Mĩ xâm
lược.
b. Bố cục: 2 phần:
- Phần 1 (Từ đầu–“đất nước muôn đời”): Cảm nhận độc đáo, mới mẻ của tác giả về đất nước.
- Phần 2 (Còn lại): Tư tưởng đất nước của nhân dân
3 . Chủ đề:
Khẳng định trách nhiệm của mỗi chúng ta đối với đất nước, và bộc lộ niềm tự hào, yêu thương
đất nước, nhân dân tha thiết, chân thành…thể hiện tư tưởng cốt lõi của nhận thức về Đất Nước là
của Nhân Dân.

II/ ĐỌC HIỂU VĂN BẢN:


“Đất Nước” là một cảm hứng lớn của thơ ca thời đại chống Mĩ. Với cảm xúc yêu mến, tự
hào, “Đất Nước” được tác giả khám phá, cảm nhận và suy ngẫm trong một cái nhìn toàn vẹn từ
nhiều bình diện: thời gian lịch sử, không gian địa lí, chiều sâu văn hóa, phong tục, lối sống và
tâm hồn dân tộc, từ đó làm nổi bật tư tưởng lớn: Đất Nước của nhân dân. Từ đó khơi dậy ý thức
trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với đất nước trong cuộc đấu tranh của dân tộc.

1/ Cảm nhận mới mẻ về Đất Nước:


a/ Đất Nước có từ bao giờ? (9 câu đầu)
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái "ngày xửa ngày xưa.." mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc.
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…”
Có ai đã từng tự hỏi chính mình rằng Đất Nước ta đang sống có từ bao giờ? Có lẽ để trả lời
được câu hỏi ấy không hề dễ dàng, vậy mà NKĐ đã thỏa mãn niềm băn khoăn của chúng ta bằng
một câu thơ thật giản dị: “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”
+ Lời khẳng định gợi nhớ 4000 năm dựng nước và giữ nước của nhân dân ta.
+ Đại từ “ta”: vừa chỉ cá thể, vừa chỉ mọi người.
- Tác giả lý giải về quá trình hình thành và phát triển cuả ĐN theo cách riêng của mình:
“Đất Nước có trong những cái "ngày xửa ngày xưa.." mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc.”
+ ĐN có trong những câu chuyện cổ tích bắt đầu bằng bốn chữ “ngày xửa ngày xưa” với
những bài học về đạo lý làm người. Cụm từ ngày xửa ngày xưa đưa người đọc trở về với thế giới
huyền bí của những câu chuyện cổ tích, với những ông bụt, bà tiên tốt bụng mang những phép
màu. Bằng giọng tâm tình, dịu ngọt như lời kể truyện cổ tích của mẹ hôm nào, NKĐ đã thể hiện
những cảm nhận, suy tưởng của mình về cội nguồn đất nước. 
+ “Miếng trầu bà ăn” là miếng trầu tình nghĩa trong “Sự tích trầu cau” khiến ta rưng rưng
nước mắt về tình cảm vợ chồng thủy chung, về tình nghĩa anh em gắn bó. Từ đó hình ảnh trầu
cau” trở thành thứ không thể thiếu được trong lễ cưới. “Miếng trầu là đầu câu chuyện”, miếng
trầu cũng là biểu hiện của văn hóa giao tiếp của người VN xưa.

+ “Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”. Đất nước được cảm nhận qua
truyền thống chống ngoại xâm hào hùng của dân tộc. Cây tre là biểu tượng của người Việt Nam,
gắn với đời sống thường ngày và có lúc trở thành vũ khí chống giặc. Truyền thuyết kể rằng
Thánh Gióng từng nhổ tre đánh giặc Ân.

-> Như vậy, sự hình thành và phát triển của ĐN gắn liền với những câu chuyện cổ, những
truyền thống tốt đẹp của nhân dân.

- ĐN còn được lý giải từ những phong tục tập quán, hình ảnh giản dị mà thân thuộc với chúng ta:

“Tóc mẹ thì bới sau đầu


Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”
+ Hình ảnh tóc mẹ bới sau đầu gợi cho ta về nét đẹp truyền thống của ng phụ nữ Việt. Đó là
nét đẹp của sự gọn gàng, đoan trang và duyên dáng.

- Đất Nước được cảm nhận trong vẻ đẹp tình yêu của cha mẹ với lối sống nặng tình như “gừng
cay muối mặn”: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” .Hình ảnh thơ gợi nhớ câu ca
dao: “Tay bưng đĩa muối, chén gừng - Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”. Dù cay đắng,
gian nan nhưng cha mẹ vẫn đồng cam cộng khổ, chua ngọt sẻ bùi để tình cảm thêm mặn nồng,
thắm thiết.
+ Đất Nước không ở đâu xa, mà hiện hữu ngay trong ngôi nhà thân thương che chở ta hàng
ngày, trong tên gọi những đứa con rất đỗi thân yêu: Cái kèo cái cột thành tên
+ Đất Nước hóa thân vào hạt gạo với mồ hôi nước mắt của con người, với muối mặn phù sa
của đất mẹ, của nắng sương trong vũ trụ, đất trời để rồi mất bao công xay, giã, giần, sàng nữa
mới trở thành hạt gạo dẻo thơm trong bát cơm ta ăn nuôi ta lớn hàng ngày.
- Khép lại đoạn thơ, tác giả dùng câu khẳng định “ĐN có từ ngày đó” như trả lời cho câu hỏi:
“ĐN có từ bao giờ?”. Với những câu thơ trên, trong suốt không gian, thời gian, văn hóa, phong
tục của dân tộc, nhân dân Đất Nước đã hình thành, hiện hữu để từ đó ta có dải đất thân yêu hình
chữ S mang tên VN. Ngày đó là ngày nào, ta không thể khẳng định chính xác chỉ biết rằng Đất
Nước gắn bó trong cuộc đời của mỗi con người, gần gũi trong sinh hoạt của cuộc sống hàng
ngày, giản dị nhưng thân thương.
=> Như vậy, trong đoạn thơ, ĐN không được cắt nghĩa từ ranh giới lãnh thổ hay các triều
đại phong kiến mà gắn liền với những câu chuyện cổ, những truyền thống tốt đẹp của con
người VN. ĐN hiện lên bình dị, gần gũi, có trong những gì thân thuộc nhất với chúng ta.
Lịch sử lâu đời của ĐN được nhìn từ chiều sâu văn hoá và văn học dân gian. Đây chính là
điểm mới trong cách tìm hiểu về nguồn cội ĐN của NKĐ.

b/ Đất Nước là gì? (20 câu tiếp theo)


“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi "con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc"
Nước là nơi "con cá ngư ông móng nước biển khơi"
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ”
- Tác giả định nghĩa theo lối tách – gộp từ rất độc đáo nhằm tìm hiểu kỹ hơn về ĐN và tạo ấn
tượng cho người đọc.
- Bằng điệp cấu trúc: “…là nơi”, tác giả nêu ra rất rõ khái niệm về ĐN.
- Sự cảm nhận đất nước từ nhiều phương diện điạ lí và lịch sử, thời gian và không gian, từ huyền
thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ với nguồn gốc từ bọc trăm trứng đẻ ra trăm con.
-> NKĐ khơi dậy truyền thuyết về đất tổ Hùng Vương, khơi dậy một đất nước với chiều
dài lịch sử bốn nghìn năm
- Thủ pháp độc đáo: tách hai thành tố Đất – Nước:
* Đất là nơi:
- Anh đến trường: Không gian học tập, là môi trường cung cấp tri thức cho “anh” bước vững
trên con đường tương lai.
- Con chim Phượng Hoàng bay về hòn núi bạc: Hình ảnh con chim phượng hoàng bay về hòn
núi bạc mang phong vị dân ca miền Trung, thẫm đẫm lòng yêu quê hương của tác giả. Dù chim
ham trái chín ăn xa, thì cũng giật mình nhớ gốc cây đa lại về. Con người Việt Nam là như thế,
lúc nào cũng hướng về quê hương, nguồn cội.
* Nước là nơi:
- Em tắm: Một giếng nước nơi gốc đa đầu làng, một bến sông quê thanh bình, một dải kênh xanh
nơi cánh đồng bát ngát là nơi lí tưởng để các cô thôn nữ ngồi quây quần tụ họp bên nhau gánh
nước, tắm mát…
+ Dòng sông quê hương còn là kỉ niệm của tuổi thơ, là dòng sông tắm mát và cũng chính là dòng
sông mang nặng phù xa.
+ Lối hát giao duyên
- Con cá ngư ông móng nước biển khơi: Câu ca dao miền trung không chỉ gợi nên con người
chung thủy, nghĩa tình mà còn ta niềm tự hào sâu sắc bởi biển khơi lắm tôm nhiều cá, bụng quẫy
như bạc rơi thoi. Đất nước VN giàu đẹp, trù phú, nuôi dưỡng sự sống và tâm hồn nhân dân. 
* Đất Nước là nơi:
- Ta hò hẹn: Khái niệm Đất Nước được hình thành ngay trong tình yêu lứa đôi của anh và em.
Đất Nước không ở đâu xa mà ngay trong không gian tình yêu - nơi ta hò hẹn. Không gian thơ
mộng, lãng mạn và trữ tình hiện ra, một khóm tre đầu làng trong một đêm trăng sáng nơi anh cất
tiếng hỏi giao duyên :
Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng
Tre non đủ lá đan sàng nên chăng ?
- Nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm: Hình ảnh chiếc khăn thương như vật bất li
thân của các cô gái xưa, là người bạn tri âm tri kỉ cùng chia sẻ bao vui buồn, là kỉ vật trong tình
yêu đôi lứa. Bởi :
Khăn thương nhớ ai,
Khăn rơi xuống đất.
Khăn thương nhớ ai,
Khăn vắt lên vai.
Khăn thương nhớ ai,
Khăn chùi nước mắt.
-> Một lần nữa, NKĐ lại khiến lòng người xúc động, bồi hồi trước tình cảm chân thành của
những tâm hồn yêu thương say đắm.
- Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
- Chỉ với 3 câu thơ, NKĐ đã đưa người đọc đi suốt chiều dài lịch sử 4000 năm của dân tộc, và đi
dọc dải đất cong cong hình chữ S thân thương. Với hai từ láy đằng đẵng, mênh mông cho thấy
cái miên man của thời gian, vô tận của không gian. Trong không gian và thời gian ấy nhân dân ta
cùng hội tụ, chung sống. 
- Dân mình đoàn tụ: Cho thấy tình cảm đồng bào gắn kết, son sắt của khối đại đoàn kết nhân dân
ta. Thật đơn giản nhưng nếu đặt câu thơ trong hoàn cảnh bom đạn chiến tranh lúc bấy giờ thì lại
có ý nghĩa lớn lao vô cùng để cổ vũ tinh thần đoàn kết của nhân dân. 
-> Thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông để mãi mãi là nơi dân mình đoàn tụ, là
không gian sinh tồn của cộng đồng Việt Nam qua bao thế hệ.
- Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
+ Hai câu thơ đầu gợi nhắc lại hai câu thành ngữ: Đất lành chim đậu, nước thiêng rồng ở. Nếu
hiểu như vậy thì một chân lí giản đơn là niềm tự hào về tổ quốc thân yêu: ĐN ta là nơi đất lành
và nước thiêng liêng. 
+ Hai câu thơ sau đã nhắc lại cội nguồn của nhân dân với truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu
Cơ. Với tích bọc trăm trứng và rồi để chia ra 50 con theo cha xuống biển, 50 theo mẹ lên non.
Qua đó như một lời giải thích vì sao nhân dân mình sinh sống trên tất cả các miền địa hình và
một điều quan trọng hơn cả là tác giả muốn nhắc nhở cho dân ta biết rằng, chúng ta dù là 54 dân
tộc, 54 bản sắc, mỗi dân tộc một chữ viết, tiếng nói và phong tục tập quán nhưng chúng ta đều từ
một cha một mẹ sinh ra. Mà cùng cha mẹ thì là anh em, nên hãy đối xử với nhau như “thủ túc”,
và nhớ lấy câu ca “gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau”.
-> Những câu thơ như thôi thúc lòng đoàn kết thương yêu, đùm bọc của nhân dân ta. Đó là
bức thông điệp xanh nhà thơ muốn gửi đến bạn đọc. 
=> ĐN gắn liền với mỗi người từ tuổi ấu thơ đến khi trưởng thành; từ không gian thầm
kín riêng tư đôi lứa đến nơi đoàn tụ của dân mình trong 1 không gian mênh mông gắn liền
với những câu dân ca xứ Huế. ĐN còn là không gian sinh tồn hết sức đời thường của nhân
dân qua bao thế hệ, nên mỗi người phải có một phần trách nhiệm.
* Những ai
- đã khuất/ bây giờ -> Thế hệ này nối tiếp thế hệ sau, những người đi trước đã khuất và
những người mai sau – hai thế hệ: quá khứ và hiện tại. Vậy người đọc tự hỏi nhịp cầu nào
nối hai thế hệ trên? Phải chăng đó chính là những người đang sống hiện tại:
- Yêu nhau và sinh con đẻ cái: Nếu không có tình yêu lứa đôi, kết hoa thành tình cảm gia đình và
cho trái quả ngọt là những đứa con thân yêu thì một dân tộc liệu có thể trường tồn hay không,
hay nó sẽ đứng trên bờ vực của sự lụi tàn. -> NKĐ đã đánh thức trách nhiệm, nghĩa vụ và
quyền lợi thiêng liêng này của nhân dân để tạo nên sức mạnh của dân tộc. 
- Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
+ Đây là trách nhiệm cầu nối, là sự gắn kết quá khứ và tương lai của những người đang sống
trong hiện tại. Họ sẽ là những người làm nốt những công việc còn dang dở của thế hệ đi trước.
Và phải dặn dò, khuyên bảo con cháu, những thế hệ mai sau hãy tiếp tục phát huy truyền thống
tốt đẹp của các thế hệ cha anh, làm cho những truyền thống ấy ngày càng trường tồn, phát triển. 
+ Có chăng điều NKĐ muốn nói với thế hệ trẻ thanh niên của miền Nam hãy đứng lên, tiếp bước
cha anh, đứng lên đánh đuổi quân thù để không phải hổ thẹn với cha anh. Đồng thời nếu họ ngã
xuống khi tuổi đời còn xanh, khi nhiệm vụ chưa hoàn thành thì họ hãy yên tâm, bởi hậu thế mai
sau sẽ tiếp bước làm nốt những việc còn dang dở. 
-> Một dòng chảy lịch sử của dân tộc đang tuôn chảy trong từng câu từ, đang thấm dần vào
tâm hồn thế hệ trẻ, và chúng ta tin rằng họ đã được đánh thức, vì kết qủa cuộc kháng chiến
đã là minh chứng hùng hồn cho điều đó, bới không có minh chứng nào hùng hồn hơn thực
tế lịch sử.
- Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ
+ Phải chăng điều nhà thơ muốn nhắc nhở mọi người là nhớ về cội nguồn của dân tộc. Dù bôn
ba chốn nào, người dân Việt Nam cũng đều hướng về đất tổ, nhớ đến dòng giống Rồng Tiên của
mình. Nhắc đến chuyện xưa ấy như để khẳng định, cũng là để nhắc nhở con cháu ta:
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mồng mười tháng ba
=>Vậy là những người đọc hôm nay đã hiểu phải làm gì, làm như thế nào và làm như vậy
sẽ được kết quả gì. Những điều tưởng như quá khô khan, lớn lao và cứng nhắc của vấn đề
chính trị nhưng đã được NKĐ mềm hóa qua những vần thơ giản dị, dễ hiểu và dễ đi vào
lòng người. Chất trữ tình chính trị cứ ngọt ngào và lắng sâu tạo nên sức truyền cảm cho
bản trường ca về ĐN
- ĐN còn được cảm nhận suốt chiều dài thời gian lịch sử từ quá khứ đến hiện tại và tương
lai. Đó là một đất nước thiêng liêng hào hùng trong quá khứ, giản dị, gần gũi trong hiện tại
tiếp tục kế thừa và phát huy truyền thống của cha anh, không quên cội nguồn.

c/ Trách nhiệm của mỗi người đối với Đất Nước:


- Lời nhắn nhủ của nhà thơ đối với thế hệ hôm nay
“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ra cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn to lớn”
+ Cách xưng hô “anh, em” thể hiện tình cảm đằm thắm, gần gũi, thân mật.
+ “Đều có”: từ khẳng định, nhắc nhở chúng ta ý thức: Trong mỗi con người đều có một phần
ĐN vì cùng chung huyết thống, cùng mang trong mình dòng máu của dân tộc VN. ĐN kết tinh,
hóa thân vào mỗi con người, mỗi người đều thừa hưởng di sản văn hóa tinh thần, vật chất của
dân tộc
+ Điệp từ “Khi”, “ĐN”, “cầm tay”-> nhấn mạnh ý thức đoàn kết dân tộc vì:
 Khi hai đứa cầm tay -> đất nước VN sẽ ấm áp tình người: “hài hòa nồng thắm”
 Khi chúng ta cầm tay mọi người -> đoàn kết thương yêu ĐNVN sẽ trường tồn vững mạnh: “vẹn
tròn to lớn”
=> Đó là mối quan hệ riêng – chung, cá nhân với tập thể, phải được chú ý gìn giữ thì ĐN
mới vững mạnh.
- Lời nhắn nhủ chân thành của nhà thơ với thế hệ mai sau:
“Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng”
+ Lời thơ thủ thỉ tâm tình như lời nhắn nhủ, dặn dò
- Hai từ lớn lên thể hiện ước nguyện của tuổi trẻ hôm nay và mai sau sẽ trưởng thành toàn vẹn cả
về ngoại hình và trí tuệ, có kiến thức, đủ sức, đủ tài để tiếp cận những KHKT tiên tiến của nhân
loại, góp công sức mình cho sự phát triển của dân tộc. Để cho Đất Nước tiến xa hơn nữa trên xa
lộ phát triển của thế giới. Thực hiện ước mong của vị lãnh tụ vĩ đại kính yêu của dân tộc, đưa Đất
Nước « bước lên đài vinh quang, sánh vai với các cường quốc, năm châu ». 
+ “Mang ĐN đi xa”: ĐN ngày càng tiến xa hơn, hùng mạnh hơn, có thể sánh vai với các cường
quốc năm châu -> sự kì vọng, tin tưởng vào thế hệ mai sau.
+ “Những tháng ngày mơ mộng”: từ biểu tượng -> hình ảnh ĐN tươi đẹp trong tương lai,
trong mơ ước.
- Nhắc nhở ý thức trách nhiệm của mỗi người đối với Đất Nước:
“Em ơi em! Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời”
+ “Em ơi em”: tiếng gọi tha thiết đằm thắm.
+ “Đất Nước là máu xương của mình”: câu khẳng định -> ĐNVN là máu xương của mỗi con
người VN. Để đất nước tồn tại như ngày hôm nay, biết bao thế hệ đã ngã xuống cho sự sống còn
của đất nước. Vì thế, mỗi một con người “phải biết” (điệp từ nhấn mạnh) -> “gắn bó san sẻ”: mỗi
con người phải có ý thức trách nhiệm xây dựng, bảo vệ ĐN.
+ “Hóa thân cho dáng hình xứ sở”: sẵn sàng hi sinh để ĐN trường tồn -> “làm nên ĐN muôn
đời”. Thời bình, người ta dâng hiến sức lực, mồ hôi cho tổ quốc. Thời chiến, người ta có thể dâng
hiến cả sự sống của mình. Sự dâng hiến ấy, theo suy ngẫm của nhà thơ, là cuộc hoá thân. Bóng
dáng mỗi người đã làm nên bóng dáng quê hương xứ sở, đất nước. Không có sự hoá thân kia làm
sao đất nước trường tồn, làm sao có được đất nước muôn đời! 

=> Lòng yêu nước được NKĐ thể hiện một cách cụ thể, nồng thắm. Đoạn thơ cho thấy ĐN
thật gắn bó gần gũi, thiêng liêng với mỗi con người. Vì vậy, trách nhiệm của mỗi con người
là phải bảo vệ ĐN bằng mọi cách.
2/ Ai đã làm nên Đất Nước? (Tư tưởng là ĐN của Nhân Dân):
a/ Về điạ lí:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”
- Nhân dân là người tô điểm nên vẻ đẹp, dáng hình đất nước:
+ Những người vợ nhớ chồng và núi Vọng phu: Là sự thủy chung
+ Cặp vợ chồng yêu nhau và hòn Trống mái: Là tình nghĩa vợ chồng
+ Chín mươi chín con voi và đất tổ Hùng Vương: Là tinh thần yêu nước, cội nguồn
+ Người học trò nghèo và núi Bút, non Nghiên: Là tinh thần hiếu học
-> Qua đôi mắt nhà thơ, những địa danh đấy như được hun đúc và tạo nên từ chính cuộc
đời, phẩm chất của người dân VN qua hàng nghìn thế hệ. Mỗi cảnh quan thiên nhiên, mỗi
danh lam thắng cảnh, di tích từ Bắc chí Nam đều in dáng hình con người.
- Sự hóa thân từ những phẩm chất tốt đẹp và từ chính cuộc đời của nhân ta được tác giả thể hiện
qua hàng loạt các động từ mạnh : góp cho, góp nên, để lại, góp mình, hóa để thể hiện sự tự
nguyện dâng hiến và dâng hiến trọn vẹn cho Đất Nước mà không có bất kì sự toan tính nào. 
- Thiên nhiên đất nước không chỉ là sự vật mà còn là những nét đẹp tâm hồn nhân dân trong mấy
nghìn năm lịch sử:
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau 4.000 năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”
- Đất nước chính là những thành quả lao động, chiến đấu, là mồ hôi nước mắt và khát vọng của
nhiều thế hệ. Sự hóa thân của những con người bình thường đã làm nên sự bất tử cho Tổ quốc.

b/ Về lịch sử:
“Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào 4.000 năm Đất Nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng”
- NKĐ đã nhắc nhở thế hệ hôm nay hãy nhìn rất xa vào quá khứ của dân tộc: năm tháng nào cũng
người người lớp lớp già trẻ, gái trai vừa cần cù làm lụng để kiếm sống vừa đánh giặc cứu nước,
bất chấp hi sinh gian khổ và bạo lực quân thù. Họ sáng ngời với phẩm chất cần cù, chăm chỉ lao
động. Và vì thế họ lại trở thành anh hùng lao động trong thời chiến và những công dân tích cực
trong thời bình, nỗ lực hết mình cho công cuộc xây dựng Đất Nước. 
“Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh”
- Chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng của dân tộc ta là chủ nghĩa anh hùng tập thể bất phân
già trẻ, đàn ông hay đàn bà:
+ Những người nông dân nghĩa sĩ trong văn tế của Nguyễn Đình Chiểu họ sẵn sàng từ bỏ làng
quê, công việc cuốc cày quen thuộc để vào trận. Những đồng chí trong thơ Chính Hữu cũng để
ruộng nương gửi bạn thân cày, những chiến sĩ Tây Tiến cũng sẵn sàng gác bút nghiên lên đường
đi chiến đấu khi tổ quốc cần. Có cái nhìn bao quát như vậy người đọc mới thấy hết không khí
hào hùng của ngày người con trai ra trận.
+ Hậu phương của họ là những người phụ nữ dứt lòng bịn rịn, đau đớn khi chia xa người cha,
người anh, người chồng, người yêu ra trận chiến đấu. Họ lặng lẽ nuôi cái cùng con, để những
người cầm súng chiến đấu vững dạ, yên tâm chắc tay súng. Không chỉ làm hậu phương vững
chắc, nếu một ngày có giặc ngoại xâm đến thì họ sằn sàng vùng lên : 
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Thế mới có những nữ anh hùng như chị Út tịch với câu nói nổi tiếng : Còn cái lai quần cũng
đánh. -> Phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ VN, ba đảm đang, xứng đáng với 8 chữ vàng mà
Bác Hồ đã tặng : anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang.
“Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ”
- Chúng ta làm sao quên được Bà Trưng, Bà Triệu, Lê Lợi, Quang Trung…đã được ghi danh sử
sách.
Nhưng em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”
- Hơn nữa, nhân dân đã kiến tạo nên những giá trị lớn lao của đất nước bằng chính cuộc đời thầm
lặng vô danh, giản dị và bình tâm, sinh ra và lớn lên, lao động và đánh giặc, không ai nhớ mặt
đặt tên, thế hệ này nối tiếp thế hệ kia… Họ chiến đấu thầm lặng và ngã xuống lặng thầm. Chính
họ đã “làm ra ĐN”.

c/ Về văn hoá
Nhân dân bằng lao động sáng tạo đã dựng xây và gìn giữ mỗi giá trị tinh thần:
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyển lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại”
- Biện pháp nghệ thuật điệp từ “họ” để thể hiện công lao vô bờ bến, trùng trùng, điệp điệp của
nhân dân trong công cuộc giữ gìn và dựng xây ĐN.
- Nhân dân là những người truyền sự sống, linh hồn của dân tộc qua mỗi nhà, qua mỗi thế hệ. Họ
duy trì bản sắc dân tộc, phong tục tập quán: hạt lúa, ngọn lửa, giọng nói, truyền thống chống giặc
ngoại xâm…
- Họ lưu giữ những giá trị vật chất:
+ Đó là hạt lúa - thực phẩm thiết yếu hàng ngày nuôi sống bao thế hệ nhân dân,
+ Đó là ngọn lửa hồng được chuyền từ nhà này sang nhà khác. Hình ảnh thơ gợi người đọc nhớ
đến những tình cảm xóm làng đùm bọc, gắn bó và sống nghĩa tình, bởi từ xưa nhân dân ta đã
quan niệm “bán anh em xa mua láng giềng gần”, vì hàng xóm là những người “tối lửa tắt đèn có
nhau”. 
- Họ lưu giữ những giá trị tinh thần:
+ Chiến tranh khốc liệt với bao cuộc di dân chạy loạn, tránh đạn bom, nhưng khi di cư, người
dân không quên mang theo tên xã tên làng, bởi đó chính là nguồn cội họ cần nhớ về, cần lưu giữ.
Người ta có thể bôn ba quá nửa đời nơi đất khách quê người, nhưng khi về già ai cũng trở về quê
hương, nơi chôn rau cắt rốn của mình.
+ Họ đắp đập be bờ, tạo dựng những giá trị vật chất nhưng những thế hệ mai sau lại được
hưởng những thành quả tinh thần là những trái quả ngọt ngào. Phải chăng đó là hình ảnh ẩn dụ
mà NKĐ muốn người đời sau hiểu rằng, có cuộc sống tự do, có hạnh phúc ngọt bùi ngày hôm
nay chính là do công sức bao thế hệ cha anh đã bỏ ra để tạo ra thành quả đó. Nên khi ăn trái hãy
nhớ về người vun đất, chăm cây. 
+ Cao hơn nữa là tinh thần chiến đấu chống kẻ thù xâm lược trong bao cuộc kháng chiến của
dân tộc. Với tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc, họ sẵn sàng đứng lên đấu tranh khi có giặc xâm lăng
để bảo vệ tổ quốc, và khi có nội thù họ cũng sẵn sàng vùng lên đánh bại để lấy lại cuộc sống yên
bình. Nhân dân ta anh dũng, kiên cường là thế. 
- Tác giả nhận thức rõ:“Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”. Hai vế
song song, đồng đẳng thể hiện cách định nghĩa về Đất Nước giản dị mà độc đáo.
- Cuối cùng, nói đến đất nước của nhân dân, tác giả trở về với cội nguồn phong phú, đẹp đẽ của
văn hóa dân tộc, văn hóa dân gian mà tiêu biểu là ca dao:
“Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu”
-> Nơi đó sáng lên vẻ đẹp tinh thần của ngươì Việt Nam: biết đắm say trong tình yêu, biết quý
trọng nghĩa tình và căm thù giặc sâu sắc.
- Đoạn thơ khép lại bằng câu hát ngân nga, trong trẻo:
“Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”
- Dòng sông ngàn năm vẫn trôi chảy, cũng như Đất Nước vẫn ngàn đời phát triển. Không biết rõ
dòng sông bắt nguồn từ đâu và cũng không ai hiểu rõ cặn kẽ cội nguồn Đất Nước, nhưng chỉ hiểu
rằng khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát, có niềm say hoan lạc, vui ca. Tiếng hát ấy ngân
nga trong giọng hát của người chèo đò, kéo thuyền vượt thác, để rồi Đất Nước theo khúc hát ngân
nga gợi lên trăm sắc màu trên trăm dáng sông xuôi đang ngày đêm miệt mài chảy. 
“Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”
Trăm sắc màu lộng lẫy trên dòng sông của dân tộc, phải chăng đó là những phẩm chất, truyền
thống tốt đẹp của người dân VN đang tỏa sáng lung linh. Chính điều này tạo nên vẻ đẹp, sức
mạnh và sự cuốn hút của dân tộc VN trong niềm tự hào vô bờ của nhà thơ.

III/ KẾT LUẬN:


1/ Nghệ thuật:
- Không khí, giọng điệu đã mở ra không gian nghệ thuật riêng đưa ta vào thế giới gần gũi, mĩ lệ,
bay bổng của ca dao, truyền thuyết, văn học dân gian mới mẻ và hiện đại.
- Sử dụng nhiều chất liệu dân gian.
- Hình ảnh bình dị, quen thuộc có khả năng liên tưởng cao.
- Thể thơ tự do dạt dào cảm xúc suy tư, mang đậm phong cách trữ tình chính luận.
- Tác phẩm mang đậm tính sử thi anh hùng. Các hình tượng thơ đậm màu sắc huyền thọai.
2/ Nội dung:
- Bài thơ là cảm nhận mới mẻ của tác giả về đất nước qua những vẻ đẹp được phát hiện ở chiều
sâu trên nhiều bình diện: lịch sử, địa lí, văn hóa.

You might also like