You are on page 1of 6

QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI TRONG VĂN HỌC

TRUNG ĐẠI VIỆT NAM


Quan niệm nghệ thuật về con người là một phạm trù rất quan trọng, được nhắc
đi nhắc lại nhiều lần trong thi pháp học. Mặc dù hiện nay, khái niệm này chưa
được các nhà nghiên cứu định nghĩa một cách thống nhất và chặt chẽ, nhưng nó đã
phần nào gợi mở cho chúng ta hướng đến đối tượng chủ yếu của văn học. Theo đó,
“Văn học nghệ thuật là một sự ý thức về đời sống, nên nó mang tính chất quan
niệm rất cụ thể” và “Hình tượng nghệ thuật một khi đã hình thành là mang tính
chất quan niệm, ngay cả vô thức cũng là quan niệm về cái vô thức. Nhà văn không
thể miêu tả đối tượng mà không có quan niệm về đối tượng”[4;23]. Có thể khẳng
định, quan niệm chính là một phương tiện thiết yếu của sáng tạo nghệ thuật. Do
vậy, tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học trung đại nói riêng
và văn học Việt Nam nói chung, chính là bước đi thiết thực để đến với chiều sâu
của các tác phẩm, của các giai đoạn văn học. 
1. Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học trung đại
Con người trong văn học trung đại Việt Nam rất phong phú. Nó khác biệt
với con người trong văn học dân gian. Mỗi thể loại có một cách quan niệm và biếu
hiện con người riêng nhưng vẫn có cái chung. Quan niệm chung chi phối văn học
trung đại Việt Nam là:
1.1. Con người vũ trụ
Thời trung đại, con người chủ yếu sống bằng nông nghiệp nên thường dựa
vào tự nhiên, khai thác tự nhiên để sống. Do đó, con người trung đại tin ở sự thống
nhất trong thế giới. Thiên nhiên là bạn tri âm tri kỷ của con người. Người phương
Đông xưa cũng quan niệm: thiên nhiên có mối giao hòa, giao cảm với con người
bởi con người là một "tiểu vũ trụ" có quan hệ tương thông tương cảm với "đại vũ
trụ"- thiên nhiên ngoại giới (Thiên nhân tương cảm, thiên nhân hợp nhất). Con
người là một yếu tố trong mô hình vũ trụ: Thiên - Địa - Nhân hợp thành "Tam
Tài". Con người sống trong vòng "Thiên phú địa tái" (Trời che, đất chở). Cho
nên, quan niệm “Thiên – Địa – Nhân” hay “Thiên Nhân tương cảm” cổ xưa ấy đã
chi phối nhiều đến sự biểu hiện trong tác phẩm nghệ thuật. Do đó thơ văn trung đại
thường chỉ xuất hiện một con người đứng trước trời đất.
Chẳng hạn, thi đề quen thuộc của thơ trữ tình trung đại chính là con người
một mình đối diện, đàm tâm với thiên nhiên vũ trụ. Người anh hùng được nhắc đến
với tầm vóc sánh ngang vũ trụ:
                        “Trí chủ hữu hoài phù địa trục
                        Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.”
                        (Phò vua bụng những mong xoay đất,
                        Gột giáp sông kia khó vạch trời)
(Đăng Dung – Cảm Hoài)
 Hay trong bài thơ Thuật hoài (Phạm Ngũ Lão), không gian nghệ thuật hiện
lên là một không gian vũ trụ khoáng đạt, rộng lớn và hoành tráng, mà trong đó, con
người dù nhỏ bé song vẫn cố gắng vươn lên ngang tầm và có khát vọng làm chủ
trời đất, vũ trụ, chinh phục thiên nhiên. Tác giả đã phóng lớn ngọn giáo của mình
cho tương xứng với kích thước của đất nước, của vũ trụ:
                                    “Hoành sóc giang san cáp kỷ thu,
                                    Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu”
                                    (Múa giáo non sông trải mấy thu
                                    Ba quân hùng dũng nuốt sao Ngưu)
Ở bài Tự tình nổi tiếng của nữ sĩ Hồ Xuân Hương, hình tượng con người vũ
trụ nổi bật rõ:
"Trơ cái hồng nhan với nước non".
Con người được đặt giữa không gian mênh mông của vũ trụ nhưng không
hòa nhập vào không gian bao la rộng lớn ấy mà cô độc, lẻ loi một mình. Nữ sĩ đưa
từ “trơ” ra đầu câu như để nhấn mạnh sự đối lập của một cá thể đơn lẻ với cả vũ trụ
mênh mông, để gia tăng cảm giác cô đơn, quạnh vắng trong tâm hồn nhân vật trữ
tình. Khi bất đắc chí, đau đáu vì cuộc duyên không trọn, con người tìm về với thiên
nhiên như trở về nguồn cội nhưng lại bắt gặp:
“Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
Thiên nhiên và lòng người vốn tương ứng tương cảm và có sự đồng điệu.
Thế nên con người đang đau đáu vì cuộc duyên không trọn vẹn thì vầng trăng kia
cũng chỉ có thể là vầng trăng khuyết giữa trời đang dần xế bóng.
            Chính vì vậy, ở đây, con người không xuất hiện với tư cách cá nhân. Họ
buồn không phải một cá nhân buồn, mà cả vũ trụ cũng buồn theo, đúng như
Nguyễn Du đã từng nói:
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
                                    (Nguyễn Du - Truyện Kiều – Câu 1243-1244)
 Đó là “con người vũ trụ” sống trong quy tắc “hô, ứng”. Vui buồn của mỗi
con người buộc cả vũ trụ chuyển động.
                                 “Vật mình, vẫy gió, tuôn mưa,              
                              Dầm dề giọt ngọc thẫn thờ hồn mai.”
                                                          (Nguyễn Du - Truyện Kiều – Câu 2795-2796)
Sự miêu tả gián tiếp trong thơ trung đại chính là bị sự chi phối của quan
niệm vũ trụ đó. Con người không được miêu tả như một hiện tượng xã hội mà
được như là một bộ phận của thiên nhiên, của vũ trụ. Chẳng hạn như khi nói sự
bình phục của Kiều, thì Nguyễn Du viết:
 “ Vừa tuần nguyệt sáng, gương trong”
(Nguyễn Du - Truyện Kiều – Câu 1191)
về tình yêu của từ Hải và Kiều, thì:
“ Trai anh hùng, gái thuyền quyên
Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng”
(Nguyễn Du - Truyện Kiều – Câu 2211,2212)
Ngoài ra, do quan niệm vũ trụ trong văn học ta bắt nguồn từ rất xa xôi, gắn
liền với những quan niệm thần bí, tướng số. Cho nên, đặc biệt đối với những nhân
vật xuất chúng, tác giả thường miêu tả thành những con người dị tướng, phi
thường, hun đúc một sức mạnh nào đó của vũ trụ. Đó là những con người “chịu
mệnh trời”. Từ Hải chính là nhân vật được Nguyễn Du xây dựng dựa trên quan
niệm này:
                        “Râu hùm hàm én mày ngài
                        Vai năm tất rộng thân mười thước cao”.
                                                                                    (Câu 2168-2169)
Đây là con người mà chí khí và tài năng được đo bằng chiều kích của vũ trụ.
Bởi thế, nói đến Từ Hải, người đọc như thấy hiện rõ trước mắt mình một hình ảnh
cao rộng của trời đất và vũ trụ.
Như vậy, hình tượng con người vũ trụ trong dòng chảy văn học trung đại
Việt Nam đã cho chúng ta thấy được quan niệm về con người của các tác giả trung
đại. Con người đó là một cá thể vũ trụ, mang dấu ấn vũ trụ, thiên nhiên qua  đất
trời, mây nước, cỏ cây, muông… với cái đạo vững bền, sâu thẳm của nó. Đây là
nét khu biệt không thể lẫn so với các kiểu con người trong các thời kì sau của văn
học.
1.2. Con người đạo đức
Toàn bộ xã hội trung đại được nhìn nhận trong một hệ thống tôn giáo đạo
đức. Cho nên, con người luôn được nhìn nhận ở phương diện đạo đức luân lí. Vì
thế, văn chương xưa chia xã hội thành hai tuyến: thiện – ác, tốt – xấu với mục đích,
chức năng nổi bật là giáo huấn:
                        “Trai thời trung hiếu làm đầu
                        Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình.”
                                                            (Nguyễn Đình Chiểu – Lục Vân Tiên)
Chính vì vậy, con người sống theo luân lí đạo đức, theo lí trí thì được coi là
chân chính; còn những người sống theo xúc cảm, theo những luân lí trần thế, nhân
bản thì bị coi thường, chê trách.
Bên cạnh đó, con người trong văn học trung đại còn là con người của tấm
lòng, con người của chí khí và việc tỏ lòng, tỏ chí khí là nét đặc trưng của họ. Bởi
vậy, cái có giá trị nhất của con người thuộc về tấm lòng, muốn đánh giá về một con
người là xem tấm lòng của họ như thế nào. Trong Truyện Kiều, để “tỏ lòng” hiếu
thảo, Kiều đã bán mình chuộc cha. Đó là một hành động phi thường, trên thực tế
nàng có thể vay tiền chuộc cha, nhưng như thế thì quá bình thường. Tương tự,
Kiều Nguyệt Nga cũng thể hiện tấm lòng trinh liệt của mình khi ôm bức chân dung
Vân Tiên nhảy xuống sông tự vẫn.
Như vậy, sự “tỏ lòng” là rất quan trọng trong văn học trung đại. Chính nó đã
làm cho hệ thống sự kiện trở nên gay gắt, căng thẳng hơn chứ không hề xây dựng
được cốt truyện đơn thuần trên những việc bình thường hàng ngày.
Nguyễn Trãi, vị anh hùng dân tộc, vào thế kỷ thứ XV, là một nhà quân sự
thiên tài, nhà chính trị lỗi lạc, một nhà văn hóa vĩ đại của dân tộc. Trong tác
phẩm Gia huấn ca, ông đã đề cao đạo đức luân lí trong mối quan hệ giữa cá nhân,
gia đình và xã hội. Đạo hiếu được nhấn mạnh rất rõ:
                        “Dù nội ngoại bên nào cũng vậy
                        Đừng tranh giành bên ấy, bên này
Cù Lao đội đức cao dày,
Phải lo hiếu kính đêm ngày khăng khăng.”
            Còn phận làm con đối với cha mẹ thì:
                                    “Khi ấm lạnh ta hầu săn sóc
                                    Xem cháo cơm thay thế mọi bề
                                    Ra vào thăm hỏi từng khi
                                    Người đà vô sự ta thì an tâm”.
Trong truyện Nôm, các nhân vật luôn luôn bày tỏ tấm lòng rất rõ rệt. Các
nhân vật tự trừu tượng hóa, đem tấm lòng ra đối diện với nhau. Trong Truyền kỳ
mạn lục hình tượng con người đạo đức cũng được xuất hiện, có thể kể đến nhân
Tử Văn trong Chuyện chức phán sự đền Tản Viên. Với hình ảnh người trí thức
Tử Văn có tính tình cương trực, dũng cảm “thấy sự gian tà thì không chịu được”
Nguyễn Dữ hướng đến đề cao con người của công lý, chính nghĩa, đồng thời phê
phán và trừng trị những kẻ phi đạo đức, xảo quyệt, làm hại nhân dân.
Tóm lại, cùng với con người vũ trụ, hình tượng con người đạo đức cũng xuất
hiện nhiều trong các tác phẩm văn học trung đại. Qua đó góp phần làm phong phú
thêm hệ thống nhân vật của một thời kỳ văn học.
1.3. Con người đấng bậc
Cùng với mô hình con người vũ trụ và con người đạo đức là thái độ tôn
xưng với những con người tài tình, phân biệt với những người khác. Trong văn học
trung đại còn tồn tại một quan niệm khác về con người đó là quan niệm về con
người đấng bậc. Điều này được thể hiện rõ nét nhất là trong tác phẩm Truyện
Kiều của Nguyễn Du. Cách miêu tả của Nguyễn Du chịu sự chi phối của quan
niệm đấng bậc về con người. Trong quan niệm của ông, những con người như Kim
Trọng, Thúy Kiều, Từ Hải là những “đấng”, những “bậc” đáng kính trọng. Họ là
“đấng tài hoa” (Đạm Tiên); “bậc tài danh” (Kim Trọng); “bậc bố kinh” (Thúy
Kiều); “đấng anh hùng” (Từ Hải)... Đối với những nhân vật ấy, tác giả dành cho
những lời trang trọng, tượng trưng. Còn bọn Tú Bà, Mã Giám Sinh là bọn vô loài,
bọn chúng không có mẫu mực gì cả, mỗi đứa một vẻ, đều là “tuồng” vô lại. Bọn
chúng được miêu tả theo đặc tính thực tế về nghề nghiệp cá nhân theo kiểu “Thoắt
trông nhờn nhợt màu da”, hoặc: “Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao”… rất hiện
thực.
Như vậy, con đường đi đến chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du rất độc đáo,
theo kiểu phương Đông. Cách “quan niệm về con người” này chi phối một giai
đoạn rất dài của Văn học Việt Nam gần mười thế kỷ.
1.4. Con người có ý thức cá nhân
Con người cá nhân trong văn học chính là sự phản ánh cái tôi, là sự giãi bày,
diễn tả thế giới tư tưởng, tình cảm riêng tư của tác giả. Nói cách khác, con người
cá nhân trong văn  học chính là sự tự khắc họa tâm tư, tình cảm, ý chí của tác giả
được thể hiện thông qua những tác phẩm mà họ sáng tác. Tùy theo từng giai đoạn,
thời kỳ văn học, mà con người cá nhân có những đặc điểm khác nhau.
Riêng đối với văn học trung đại con người cá nhân cũng được thể hiện ở
mức độ đậm nhạt và qua nhiều bình diện khác nhau. Cụ thể, ý thức về con người
cá nhân trong văn học trung đại Việt Nam trải qua hai giai đoạn với những hình
thái khác nhau. Từ thế kỉ X đến thế kỉ XVIII về cơ bản con người cá nhân được
“khẳng định trên bình diện tinh thần, như một thực thể tinh thần, siêu nghiệm dưới
các hình thức tu dưỡng, lựa chọn xuất xứ, hoàn thiện nhân cách, tự hạn chế nhu
cầu vật chất, tự đối lập với thói tục. Con người cá nhân tự khẳng định mình bằng
cách gắn mình với đạo, với tự nhiên, với nghĩa vụ trong sự nghiệp chung của của
cộng đồng. Yếu tố quyền lợi cá nhân chưa được chú ý [3;194]. Còn từ thế kỉ XVIII
đến hết thế kỉ XIX, “con người trong văn học đã kêu to lên nhu cầu về quyền sống
cá nhân, quyền hưởng hạnh phúc cá nhân như một quyền tự nhiên” [3;194].
 Ví như, con người cá nhân với ý thức khẳng định vẻ đẹp và tài năng (thơ Hồ
Xuân Hương); con người với nhu cầu bộc lộ tình cảm riêng tư, tâm sự u uẩn (thơ
Nôm Nguyễn Trãi, thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm,...); con người thể hiện cảm hứng sống
ẩn dật, hành lạc (thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Hàng); con người với tình yêu
lứa đôi, hạnh phúc, khát vọng nhu cầu trần thế (Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích
quái và Truyền kỳ mạn lục); Con người cá nhân với niềm lo sợ tuổi trẻ chóng
tàn (Chinh phụ ngâm), Con người cá nhân công danh hưởng lạc ngoài khuôn
khổ (thơ văn Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát); Con người cá nhân giải thoát
bằng hưởng lạc (thơ ca trù cuối thế kỉ XIX), Con người cá nhân trống rỗng, mất
hết ý nghĩa (thơ Nguyễn Khuyến),…
Qua quá trình khảo sát ta có thể khẳng định rằng, con người cá nhân trong
văn học trung đại Việt Nam có một quá trình tự ý thức chậm chạp, lâu dài nhưng
mạnh mẽ. Tuy qua từng thời kì lịch sử có chịu ảnh hưởng của ý thức hệ thống trị
đương thời nhưng không bao giờ đóng khung trong ý thức hệ đó, mà phản ánh quá
trình vận động, giải phóng cá tính của con người trong thực tế đời sống.
KẾT LUẬN
Có ý kiến cho rằng, mọi sự thay đổi trong văn học đều bắt nguồn từ sự thay
đổi trong quan niệm nghệ thuật về con người. Do vậy, đi sâu khám phá quan niệm
nghệ thuật về con người trong văn học trung đại Việt Nam là bước đi ngắn nhất để
chúng ta đến gần với cái bản chất nội tại của tác phẩm, nắm được sự thay đổi, cách
tân và vận động của cả một giai đoạn, một thời kì văn học trung đại, đồng thời nêu
bật được sức hấp dẫn của thời kì văn học này cũng như khẳng định những giá trị
không lỗi thời của nó về sau.

You might also like