Professional Documents
Culture Documents
2
hữu cơ gây mùi hôi thối, bụi phấn hoa, khí Radon,VOCs,... Đối với loại này thì hiện nay khả
năng chế ngự của con người vẫn còn rất hạn chế.
- Khí Radon: là một khí không màu, không mùi, có trong tự nhiên, là khí phóng xạ hiếm
được hình thành từ sự phân rã phóng xạ tự nhiên của chất phóng xạ Uranium. Nó được coi là
một mối nguy hiểm sức khỏe. Khí Radon từ các nguồn tự nhiên có thể tích lũy trong các tòa
nhà, đặc biệt là trong khu vực kín như tầng hầm, nó là nguyên nhân đứng thứ hai gây ung thư
phổi, sau hút thuốc lá.
- Thực vật ở một số vùng phát ra một lượng đáng kể các hợp chất hữu cơ dễ bay hơi
(Volatile organic compounds - VOCs) vào môi trường trong những ngày ấm áp. Các hợp chất
VOCs, các hợp chất Hydrocarbon do con người tạo ra phản ứng với các chất ô nhiễm sơ cấp
như NOx thành những đám khói mù của các chất ô nhiễm thứ cấp. Cao su đen (black gum),
bạch dương, gỗ sồi và cây liễu là một số ví dụ về các loại thực vật có thể sản xuất nguồn
VOCs dồi dào, VOCs từ các loại này tạo ra hàm lượng Ozone cao gấp tám lần hơn so với các
loài cây khác.
Hydrocarbons + NOx → Khói quang hóa
VOCs + NOx → Ozone trên mặt đất
3
Khi bón đạm cho cây trồng sẽ có một lượng khí thải đưa vào không khí như NO2, N2O,
NH3.
− Việc phân hủy chất thải nông nghiệp trong chăn nuôi, đồng ruộng, ao hồ cũng tạo ra
các chất ô nhiễm như Methane (CH4), Hydrosulfua (H2S).
− Một trong các hoạt động nông nghiệp tạo ra các chất gây ô nhiễm không khí nhiều nhất
hiện nay là việc đốt rơm, rạ, đặc biệt là lúa tươi sau khi tuốt lấy thóc. Trước đây, việc
đốt thiêu hủy rơm rạ nhằm mục đích thay thế năng lượng đốt và phân bón, nhưng trong
hoàn cảnh hiện nay, khi công nghệ phát triển, xã hội hiện đại hóa, các sản phẩm thừa
này không được sử dụng rộng rãi, người dân thường đốt thiêu hủy rơm rạ ngay sau
công đoạn tuốt lấy thóc, việc đốt cây lúc tươi một cách ồ ạt, tập trung gây ảnh hưởng
đến không khí, các cây lúa tươi được đốt dưới nhiệt độ thấp gây phản ứng cháy không
hoàn toàn, tạo ra các chất ô nhiễm không khí độc hại như khói, bụi, CO, CO2.
4
− Các chất ô nhiễm sinh học như vi khuẩn, nấm mốc cũng có thể phát sinh từ các tháp
giải nhiệt, từ nước ngưng đọng trong các đường ống, hoặc từ thảm trải sàn, giấy dán
tường, vật liệu tiêu âm hoặc cách nhiệt ẩm ướt.
2.3. Các tác nhân sinh học gây ô nhiễm không khí
- Các vi khuẩn như Phế cầu, Liên cầu khuẩn tan huyết, Tụ cầu vàng, trực khuẩn Dịch
hạch, trực khuẩn Bạch hầu, trực khuẩn Lao.
- Các virus như Rhino virus, Coxsackie virus, Adeno virus, vivus Cúm, vivus Sởi, vivus
Quai bị,…
- Các loại bào tử nấm: nấm Actinomyces minutissimus gây hăm bẹn, bìu…, nấm
Trichophyton gây bệnh ở tóc, da, nấm Candida gây bệnh ở niêm mạc, gây dị ứng.
- Các loại dị nguyên gây dị ứng: phấn hoa, lông súc vật,…
IV. SỰ BIẾN ĐỔI CHẤT Ô NHIỄM TRONG KHÍ QUYỂN, NGHỊCH (ĐẢO) NHIỆT
1. Sink
Mặc dù các chất gây ô nhiễm thường xuyên được đưa vào khí quyển, nhưng cho đến nay
các chất ô nhiễm này vẫn chỉ tồn tại trong khí quyển dưới dạng vết. Sở dĩ như vậy là do có
nhiều quá trình vật lý hay hóa học xảy ra trong tự nhiên đã loại các chất gây ô nhiễm này ra
khỏi không khí, quá trình đó được gọi là sink.
Sink là những quá trình vật lý hay hóa học xảy ra trong tự nhiên nhằm loại các chất gây
ô nhiễm ra khỏi không khí.
Có 4 loại sink cơ bản trong khí quyển:
− Sự phân tán: Khí CO2 được hấp thụ bởi cây xanh trong quá trình quang hợp hoặc khí
CO2 cũng bị loại khỏi không khí qua quá trình hòa tan vào nước đại dương.
− Phản ứng hóa học: H2S bị oxy hóa trong không khí thành SO2. Các quá trình sink
không phải luôn loại các chất khí gây ô nhiễm ra khỏi không khí, trong nhiều trường
hợp nó chỉ chuyển từ chất khí gây ô nhiễm này thành một chất khí gây ô nhiễm khác.
− Quá trình lắng đọng khô (Dry deposition): Là quá trình vận chuyển các chất ô nhiễm
ở thể khí hay thể rắn (hạt) từ khí quyển đến bề mặt Trái đất trong điều kiện không có
mưa.
− Quá trình lắng đọng ướt (Wet deposition): Là quá trình thanh lọc các chất ô nhiễm
bằng nước trong khí quyển do sự kết hợp của chất ô nhiễm ở dạng khí hay hạt vào
trong hạt mưa, hạt sương mù, mây, tuyết và cuối cùng theo mưa rơi xuống mặt đất.
6
- Nguyên nhân: ban ngày, mặt đất hấp thụ các bức xạ mặt trời và nóng lên. Ban đêm quá
trình diễn ra ngược lại; mặt đất và các vật chất bức xạ nhiệt trở lại nên lạnh dần nhất là vào
thời điểm gần sáng. Do đó vào mùa đông, lúc sáng lớp không khí gần mặt đất có nhiệt độ thấp
trong khi không khí ở phía trên có nhiệt độ cao do mặt trời mọc, dẫn đến hiện tượng nghịch
đảo nhiệt.
- Tác hại: Trong điều kiện bình thường có dòng khí đối lưu từ dưới lên trên làm phát tán chất
gây ô nhiễm. Nhưng nếu có hiện tượng nghịch đảo nhiệt thì sẽ không hình thành được đối
lưu, không khí sát mặt đất không di chuyển lên trên được dẫn đến các chất ô nhiễm không
phát tán được mà tích lũy ngày càng nhiều đến nồng độ gây độc.
V. QUY ĐỊNH CỦA NHÀ NƯỚC VỀ CHẤT LƯỢNG MÔI TRƯỜNG KHÔNG KHÍ
Trong điều kiện và khả năng khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện nay chưa thể loại trừ hoàn
toàn chất thải ô nhiễm trong quá trình sản xuất, cho nên trên cơ sở các kết quả nghiên cứu về
vệ sinh y học các tổ chức quốc tế và nhiều quốc gia đã thiết lập các tiêu chuẩn bảo đảm cho
môi trường không khí tương đối trong sạch.
Theo Luật Bảo vệ Môi trường Việt Nam, tiêu chuẩn môi trường là những chuẩn mực, giới
hạn cho phép, được quy định làm căn cứ để quản lý môi trường. Các tiêu chuẩn môi trường
được quy định trong các Tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) không có tính bắt buộc (tự nguyện)
trong thực hiện, còn các Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia (QCVN), đây là các tiêu chuẩn bắt buộc
áp dụng.
Các tiêu chuẩn chất lượng về không khí có 2 dạng: tiêu chuẩn chất lượng không khí xung
quanh và tiêu chuẩn chất lượng không khí tại khu vực sản xuất.
Tiêu chuẩn chất lượng không khí xung quanh: Chất lượng không khí xung quanh là
chất lượng chung của không khí ngoài trời tại một vùng nào đó. Tiêu chuẩn chất lượng
không khí xung quanh chỉ áp dụng với không khí xung quanh, không áp dụng để đánh
giá chất lượng không khí trong phạm vi cơ sở sản xuất hoặc không khí trong nhà.
Tiêu chuẩn chất lượng không khí tại khu vực sản xuất hoặc nhà máy, xí nghiệp sinh
nguồn ô nhiễm: Thường xác định trong tường rào của nhà máy. Tuỳ theo đặc trưng
của công nghệ sản xuất và nguồn phát sinh chất ô nhiễm mà tiêu chuẩn được xây dựng
với nhiều loại chất ô nhiễm khác nhau, nhằm đảm bảo sức khỏe cho người lao động.
Tiêu chuẩn chất lượng môi trường không khí Việt Nam đã được Bộ Tài Nguyên và Môi
trường ban hành năm 2009. Trong đó có một số tiêu chuẩn về chất lượng không khí xung
quanh và nguồn thải. Ngoài các tiêu chuẩn môi trường qui định cho môi trường không khí
xung quanh và nguồn thải, trong quá trình nghiên cứu, đánh giá chất lượng không khí có ảnh
hưởng tới sức khỏe người lao động, nước ta còn sử dụng các tiêu chuẩn ngành như tiêu chuẩn
của Bộ Y tế, áp dụng cho môi trường làm việc:
7
STT Số hiệu tiêu chuẩn Tên tiêu chuẩn
3 QCVN 19:2009/BTNMT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải công
nghiệp đối với bụi và các chất vô cơ
4 QCVN 20:2009/BTNMT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải công
nghiệp đối với một số chất hữu cơ
5 QCVN 02/2019/BYT Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về bụi _ Giá trị
giới hạn tiếp xúc cho phép 5 yếu tố bụi tại nơi
làm việc
6 QCVN 26/2016/BYT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về vi khí hậu –
Giá trị cho phép vi khí hậu tại nơi làm việc
7 QCVN 03/2019/BYT Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia _ Giá trị giới hạn
tiếp xúc cho phép của 50 yếu tố hóa học tại nơi
làm việc
8 QCVN 24/2016/BYT Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về tiếng ồn_ Mức
tiếp xúc cho phép tiếng ồn tại nơi làm việc
8
1.1. Tác động cấp tính
Nếu tiếp xúc với một liều lượng chất gây ô nhiễm lớn hoặc ở nồng độ cao trong một thời
gian ngắn có thể bị nhiễm độc hoặc gây các dấu hiệu kích thích mắt, da, niêm mạc,… Nhiều
chất gây ô nhiễm có thể gây nhiễm độc cấp tính cho con người, đặc biệt là các khí CO, SO2
và các hóa chất bảo vệ thực vật có chứa Clo, thậm chí gây tử vong.
Lịch sử nhân loại đã chứng kiến vụ thảm họa ô nhiễm không khí do khói ở thành phố Luân
Đôn vào tháng 12/1952. Chỉ trong một vài ngày, một số lượng khói cực kỳ lớn từ các lò sưởi
và từ các ống khói của các nhà máy công nghiệp đốt bằng than đã tập trung với nồng độ rất
cao ở thành phố này và gây hậu quả làm chết 4.000 người, chủ yếu ở người lớn tuổi, đặc biệt
những người đã mắc bệnh phổi và tim mạn tính.
9
nơi mà mức độ ô nhiễm cao nhất. Người ta cũng tìm thấy bằng chứng tiếp xúc với PM2.5 liên
quan đến tỷ lệ tử vong do các bệnh tim mạch vành từ 12% đến 14%.
1.2.4. Ung thư
Tiếp xúc với PM2.5 cũng có liên quan với tăng nguy cơ tử vong do ung thư phổi từ 15%
đến 21% . Người ta cũng tìm thấy tiếp xúc với SO2 làm tăng tỷ lệ tử vong do ung thư phổi.
Năm 2011, một nghiên cứu dịch tễ học lớn của Đan Mạch tìm thấy một gia tăng nguy cơ
ung thư phổi cho những người sống trong khu vực có nồng độ NOx cao. Một nghiên cứu của
Đan Mạch cho kết quả ghi nhận có liên hệ giữa ô nhiễm không khí và các hình thức khác của
bệnh ung thư, bao gồm ung thư cổ tử cung và ung thư não.
Một số trường hợp đặc biệt về ung thư liên quan với ô nhiễm không khí do sự phát thải
chất ô nhiễm tại một số lò nấu kim loại không đảm bảo chất lượng, giải phóng Arsen gây ung
thư phổi; đồng thời cũng có bằng chứng đáng tin cậy cho thấy Amiante, Radon, khói thuốc lá
có liên quan với ung thư phổi.
1.2.5. Ảnh hưởng thần kinh trung ương
Tích tụ chì trong cơ thể gây ảnh hưởng tiêu cực lên hệ thần kinh trung ương. Năm 2014,
một nghiên cứu tại Đại học Trung tâm Y khoa Rochester, đăng công bố trên tạp chí
Environmental Health Perspectives, đã phát hiện ra rằng trẻ em tiếp xúc sớm với ô nhiễm
không khí gây ra những thay đổi có hại trong não như chứng tự kỷ và tâm thần phân liệt, và
cũng ảnh hưởng đến trí nhớ ngắn hạn, khả năng học tập và bốc đồng (impulsivity).
1.2.6. Bệnh về mắt
Ngứa mắt, cay mắt, chảy nước mắt hoặc viêm kết mạc là đặc trưng của ô nhiễm không
khí ở nồng độ cao là triệu chứng thường xảy ra với mức độ trầm trọng ở trong môi trường có
nồng độ các hạt ô nhiễm không khí cao hoặc nồng độ cao các chất khói quang hóa đặc biệt là
các Aldehyt.
2. Những tác động của ô nhiễm không khí đến môi trường
2.1. Mưa acid
Khi nước mưa có pH < 5,6 được gọi là mưa axít
10
2.1.2. Tác hại mưa acid
Mưa acid rất nguy hại đến môi trường sống, trong xây dựng, trong bảo tồn di tích lịch
sử,...
a) Nước bề mặt và động vật thủy sản: Mưa acid còn ảnh hưởng xấu tới ao, hồ. Nguyên
nhân do acid trong mưa làm độ pH ở đây bị giảm dưới 5 làm cho trứng của phần lớn
các loài cá sẽ không thể nở và ở pH thấp hơn nữa sẽ giết cả những con cá trưởng thành;
muối nhôm có rất nhiều trong đất nhưng chúng thường bị bất hoạt lại dưới dạng keo.
Các ion sulfat có thể giải phóng nhôm khỏi đất và chảy vào nước. Nhôm trong nước
sẽ tác động đến mang các loài cá, ngăn chặn cơ quan này trao đổi Oxy với nước, làm
cá không thể phát triển, hậu quả, hồ, ao trở thành các thuỷ vực chết.
b) Đất: Các điện tích dương Hydro trong mưa axit cũng sẽ làm hoạt hóa những chất độc
trong đất như là nhôm, và làm rửa trôi những chất dinh dưỡng và khoáng chất quan
trọng như Calci (Ca), Magnesium (Mg),... làm suy thoái đất, cây cối kém phát triển.
Lá cây gặp mưa acid sẽ bị "cháy" lấm chấm, mầm sẽ chết khô, làm cho khả năng quang
hợp của cây giảm, cho năng suất thấp.
c) Rừng và thảm thực vật khác: Rừng và các thảm thực vật bị tàn phá, Sở dĩ mưa acid
"giết hại" các khu rừng, vì chúng rửa trôi toàn bộ chất dinh dưỡng và những vi sinh
vật có lợi, làm yếu đi sức đề kháng của cây cối, khiến cây dễ bị mắc bệnh do nhiễm ký
sinh trùng. Lá cây gặp mưa acid bị "cháy" lấm chấm, mầm chết khô… Thông là loài
cây đặc biệt nhạy cảm với mưa acid.
d) Acid hóa đại dương (Ocean acidification) là sự sụt giảm liên tục trong độ pH của các
đại dương, còn gây ra bởi sự hấp thu Carbon dioxide (CO2) trong khí quyển.
e) Ảnh hưởng sức khỏe con người: Hầu hết tất cả mưa acid ảnh hưởng xấu đến sức khỏe
con người. Nó có thể làm hại chúng ta thông qua nước và ô nhiễm đất. Mưa acid ngấm
vào nước và đất, làm hòa tan các kim loại nặng. Thực vật dinh dưỡng nguồn nước, đất
chứa nhiều các chất kim loại nặng này. Thực phẩm bị ô nhiễm này có thể gây tổn hại
hệ thần kinh ở trẻ em, hoặc dẫn đến tổn thương não nghiêm trọng, thậm chí tử vong.
Các nhà khoa học nghi ngờ rằng nhôm, một trong những kim loại bị ảnh hưởng bởi
mưa acid, có liên quan đến bệnh Alzheimer.
f) Các tác hại khác: Mưa acid có thể làm hỏng các tòa nhà, các di tích lịch sử, và những
bức tượng, đặc biệt là chúng làm bằng đá như đá vôi và đá cẩm thạch, có chứa một
lượng lớn Calcium carbonate.
ClO + O → Cl + O2
ClO + O3 → ClO2 + O2
c) Sự nổ vũ khí hạt nhân: cũng tạo ra Oxid nitric, phá hủy lớp Ozone cũng giống
như phản ứng trên.
d) Phân đạm sử dụng trong nông nghiệp cũng có thể chuyển thành Oxid nitric thoát lên
tầng bình lưu để phản ứng với phân tử Ozone và tàn phá lớp Ozone này.
Lớp Ozone bị mỏng sẽ làm tia cực tím gia tăng ở mặt đất. Ở nồng độ hợp lý, tia UV làm
sậm da và kích thích sự tạo vitamin D ở da. Tuy nhiên, phơi dưới tia UV mạnh dễ gây phỏng
nặng và dẫn tới ung thư da. Các nhà nghiên cứu y khoa cho rằng lớp Ozone giảm đi 1% có
thể làm tăng 2% ung thư da (ung thư biểu mô tế bào gai, u hắc tố ác tính). Lớp Ozone mỏng
còn gây bệnh Đục thủy tinh thể.
12
Thực vật cũng chịu ảnh hưởng của tia UV, chúng thường bị chết ở liều cao, còn ở liều
thấp, thì lá cây bị hư hại, quang hợp bị ngăn trở, tăng trưởng chậm và đột biến.
Tóm lại, lớp Ozone đang bị phá hủy bởi hoạt động của con người, điều này đe doạ sự sống
của tất cả sinh vật trên hành tinh chúng ta.
2.4.1. Sương khói kiểu London (London-type Smog) hay sương khói hiện đại
Bình thường vào đêm mùa Đông, nhiệt độ gần mặt đất thường xuống rất thấp, tạo ra một
khối không khí lạnh có mật độ cao nằm sát mặt đất và một khối không khí tương đối ấm hơn
ở bên trên, gọi là hiện tượng đảo nhiệt (temperature inversion). Hiện tượng này hạn chế đáng
kể sự di chuyển của lớp không khí gần mặt đất. Khi trời sáng, mặt trời sưởi ấm dần các lớp
không khí và phá vỡ hiện tượng nghịch nhiệt cũng như sương tạo thành trong lớp không khí
lạnh sát mặt đất. Các hiện tượng nói trên đều là các hiện tượng tự nhiên thường xảy ra, đặc
biệt với các vùng ở vĩ độ cao. Tuy nhiên, sự cố sương khói xảy ra ở London lại do một số
nguyên nhân bổ sung sau:
− Sương xuất hiện vào thời điểm này quá dày đặc nên khó tan đi.
− Một lượng lớn khói từ đốt than có hàm lượng sulfur cao bị giữ lại trong lớp khí lạnh
sát mặt đất (do hiện tượng nghịch nhiệt).
Quá trình phản ứng khá đơn giản giữa Carbon và lưu huỳnh: Carbon bị đốt cháy để trở
thành CO2 hoặc CO (tùy thuộc vào mức độ của quá trình đốt cháy). Một số Carbon vẫn
chưa cháy hết tạo thành bồ hóng (các hạt khoảng 0,1 µm đường kính). Lưu huỳnh trong
than cũng bị cháy:
S + O2 → SO2
SO2 + OH → HSO3
HSO3 + O2 → HO2 + SO3
SO3 + H2O → H2SO4
Axít sulfuric sẽ kết tủa như mưa acid, vì vậy, hiện tượng sương khói London còn
được xem là mưa acid. Sương khói kiểu London làm gia tăng các bệnh đường hô hấp, đặc
biệt là bệnh Hen phế quản bị nặng và tử vong nhiều hơn.
2.4.2. Sương khói kiểu Los Angeles hay sương khói quang hóa (Photochemical
Smog) hay sương khói cổ điển
Sương khói kiểu Los Angeles hay sương khói cổ điển hay sương khói quang hóa
được mô tả lần đầu tiên vào những năm 1950. Đó là phản ứng hóa học của ánh sáng mặt trời
giữa các NOx và VOCs trong không khí. Sương khói quang hóa được coi là một vấn đề của
công nghiệp hóa hiện đại. Nó hiện diện trong tất cả các thành phố hiện đại, nhưng nó là phổ
biến hơn ở các thành phố với nắng ấm khí hậu khô và một số lượng lớn các loại xe cơ giới.
14
Sương khói kiểu Los Angeles xảy ra vào ban ngày khi có nắng ấm với mật độ giao thông
cao. Xe cộ thải ra các chất ô nhiễm sơ cấp như NOx và các Hydrocacbon chưa bị đốt cháy
hết, sau đó dưới tác dụng của ánh sáng mặt trời, nhiều phản ứng quang hóa đã diễn ra tạo
thành nhiều chất ô nhiễm thứ cấp như O3, HNO3, Aldehyde, Peroxyaxyl nitrat (PANs),
Particulate nitrate và Sulfate,...
Hydrocacbon + NOx → Sương khói quang hóa
Sương khói quang hóa có chứa nhiều NO2, nên khói thường có màu nâu mờ, khác với
sương khói kiểu London có màu xám đen.
Đối với động vật và con người, sương khói quang hóa kích thích gây cay bỏng mắt, khí
quản, phổi và đường hô hấp nói chung. Đối với thực vật, sương khói quang hóa ngăn cản
quá trình quang hợp, làm giảm năng suất cây trồng. Sương khói quang hóa có thể gây ăn
mòn kim loại và nhiều loại vật liệu khác.
1. Nguyễn Mạnh Liên, Lê Văn Đông. Các yếu tố vật lý của không khí, câu trúc khí quyển-khí
hậu Việt nam. Thành phần hóa học của không khí – Ô nhiễm không khí, Y học Môi trường và
Lao động, Nhà xuất bản Y học, Hà nội, 2010.
2. Trường Đại học Y tế công cộng (2016), Sức khỏe môi trường, Nhà xuất bản Y học Hà Nội.
3. Andersen, Z. J., Hvidberg, M., Jensen, S. S., Ketzel, M., Loft, S., Sorensen, M., Raaschou-
Nielsen, O. (2011). Chronic obstructive pulmonary disease and long-term exposure to traffic-
related air pollution: a cohort study.
4. "Indoor air pollution and household energy". WHO and UNEP. 2011.
5. Mateen, F. J.; Brook, R. D. (2011). "Air Pollution as an Emerging Global Risk Factor for
Stroke". JAMA 305 (12): 1240–1241. doi:10.1001/jama.2011.
6. Mark Z. Jacobson, Air Pollution and Global Warming: History, Science, and Solutions (2nd
Edition), Cambridge U Press, 2012.
7. World Health Organization 2010. WHO guidelines for indoor air quality: selected pollutants.
WHO Regional Office for Europe, 2010, Scherfigsvej 8, DK-2100 Copenhagen, Denmark.
(http://www.euro.who.int/pubrequest).
16