Professional Documents
Culture Documents
PRODUCTION CREDITS
Production Editor | Heather Austin, The World Bank
Designer | Shepherd, Inc.
Images | Front Cover: Nobelwind offshore wind farm/© Vestas; p. 26: Aberdeen Bay offshore wind
farm/© Vestas; Back Cover: Burbo Bank Extension offshore wind farm/© Vestas.
All images remain the sole property of their source and may not be used for any purpose without written
permission from the source.
2. Hai kịch bản cho điện gió ngoài khơi ở Việt Nam . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 2
2.1 Các loại dự án điện gió ngoài khơi . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 5
iii
5. Lộ trình điện gió ngoài khơi cho Việt Nam: những khuyến
nghị của chúng tôi . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 20
5.1 Tầm nhìn và mục tiêu quy mô . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 20
5.2 Cho thuê, cấp phép và mua bán điện . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 21
5.3 Tài chính dự án . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 22
5.4 Cơ sở hạ tầng truyền tải và cảng biển . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 23
5.5 Phát triển chuỗi cung ứng . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 23
5.6 Tiêu chuẩn và quy định . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 24
6. Các thành phần chính để ngành điện gió ngoài khơi thành công . . . . . . . . . . . . 28
6.1 Chính sách ổn định và danh mục rõ ràng các dự án tiềm năng . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 28
6.2 Một chiến lược ngành chặt chẽ . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 30
6.3 Các cơ quan phải được phân bổ nguồn lực . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 31
6.4 Môi trường cạnh tranh . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 31
6.5 Sự quan tâm và ủng hộ của công chúng . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 33
6.6 Cam kết an toàn . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 33
6.7 Sử dụng các vị trí tốt nhất . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 34
7. Lợi ích và thách thức của điện gió ngoài khơi . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 37
7.1 Lợi ích . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 37
7.2 Thách thức . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 40
Mục lục v
Mục lục ix
Chú thích
xi
FIT Biểu giá điện ưu đãi cho năng lượng tái tạo hòa lưới
JV Liên doanh
PM Thủ tướng
SSSI Địa điểm được quan tâm đặc biệt về khoa học
US$ Đô la Mỹ
WDPA Cơ sở dữ liệu của thế giới về các khu vực được bảo vệ
MOEA Bộ Kinh tế
MS Marine Scotland
PVN PetroVietnam
VASEP Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam
VIET Tổ chức sáng kiến về chuyển đổi năng lượng Việt Nam
Theo hợp đồng với Ngân Hàng Thế Giới, lộ trình điện gió ngoài khơi cho Việt Nam được thực
hiện bởi BVG Associates cùng với Atkins, Frontier Economics, Sterling Technical Services (Việt
Nam) và ông Dư Văn Toán.
Lộ trình này được ủy thác và giám sát bởi ông Trần Hồng Kỳ (Chuyên gia năng lượng cấp cao,
Ngân hàng Thế giới), ông Rahul Kitchlu (Chuyên gia năng lượng cấp cao, Ngân hàng Thế giới) và
ông Chu Bá Thi (Chuyên gia năng lượng cao cấp, Ngân hàng Thế giới). Định hướng cho lộ trình
này được cung cấp bởi nhóm Phát triển điện gió ngoài khơi của Ngân hàng Thế giới, dẫn đầu bởi
Mark Leybourne (Chuyên gia năng lượng cấp cao, ESMAP/Ngân hàng Thế giới) và Sean Whittaker
(Chuyên gia các ngành công nghiệp, IFC), và được hỗ trợ bởi Oliver Knight (Chuyên gia năng
lượng cấp cao , Ngân hàng Thế giới) và Alastair Dutton (Tư vấn, ESMAP/Ngân hàng Thế giới).
Phân tích và lập bản đồ GIS được thực hiện bởi Clara Ivanescu (Nhà địa lý, Ngân hàng Thế giới) và
Rachel Fox (Tư vấn, ESMAP/Ngân hàng Thế giới).
Báo cáo được bình duyệt bởi Peter Johansen (Chuyên gia năng lượng cấp cao, Ngân hàng Thế
giới), Manuel Berlengiero (Chuyên gia năng lượng cấp cao, Ngân hàng Thế giới) và Lazeena
Rahman (Giám đốc đầu tư, IFC)—chúng tôi rất cảm ơn họ đã dành thời gian và phản hồi cho báo
cáo.
Báo cáo này là một trong chuỗi các nghiên cứu về lộ trình gió ngoài khơi do Ngân hàng Thế giới
ủy quyền trong Chương trình Phát triển Gió Ngoài khơi. Nghiên cứu này do Chương trình Hỗ trợ
Quản lý Ngành Năng lượng (ESMAP) tài trợ.
Chúng tôi đặc biệt biết ơn nhiều bên liên quan đã cung cấp thông tin phản hồi trong quá trình
tham vấn báo cáo, và đặc biệt là tất cả các thông tin đầu vào do Bộ Công Thương (MOIT) cung
cấp.
Chúng tôi đặc biệt cảm ơn Neil Douglas và Bruce Valpy của BVG Associates vì đã lãnh đạo nhóm
tư vấn cũng như sự nhiệt tình và cống hiến của họ đối với chủ đề này. Chúng tôi cũng cảm ơn
Liming Qiao từ Hội đồng Năng lượng Gió Toàn cầu (GWEC) vì những quan điểm và phản hồi của
cô ấy về lộ trình này.
Cuối cùng, chúng tôi cảm ơn Cơ quan Năng lượng Đan Mạch (DEA) vì sự hợp tác liên tục của họ
và vui lòng cung cấp kết quả từ các nghiên cứu do DEA chủ trì, làm đầu vào để tăng cường chất
lượng của nghiên cứu.
xvii
Báo cáo được hình thành trong khuôn khổ Chương trình phát triển điện gió ngoài khơi của Nhóm
Ngân Hàng Thế Giới1 nhằm mục đích thúc đẩy phát triển điện gió ngoài khơi ở các thị trường mới
nổi và được tài trợ bởi Chương trình Hỗ trợ Quản lý Ngành Năng lượng (ESMAP).
Điện gió ngoài khơi có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc đáp ứng bền vững nhu cầu
điện đang gia tăng nhanh chóng của Việt Nam và có tiềm năng cung cấp 12% điện năng của Việt
Nam vào năm 2035. Việc thay thế các nhà máy nhiệt điện chạy bằng than có thể giúp tránh phát
thải hơn 200 triệu tấn CO2 và thêm ít nhất 50 tỷ đô la Mỹ cho nền kinh tế Việt Nam bằng cách kích
thích sự phát triển của chuỗi cung ứng địa phương, tạo ra hàng nghìn việc làm có tay nghề cao và
xuất khẩu sang các thị trường điện gió ngoài khơi khác trên toàn cầu.
Báo cáo dựa trên hai kịch bản tiềm năng để phát triển điện gió ngoài khơi,2 đó là:
■ Kịch bản tăng trưởng thấp, mở rộng phát triển điện gió ngoài khơi ở mức vừa phải, nhờ đó
cung cấp 5% nhu cầu điện của Việt Nam vào năm 2035, và
■ Kịch bản tăng trưởng cao, mở rộng phát triển điện gió ngoài khơi ở mức cao, nhờ đó cung
cấp 12% nhu cầu điện của Việt Nam vào năm 2035.
Cả kịch bản tăng trưởng thấp và cao đều yêu cầu các điều kiện hỗ trợ tương tự nhau, nhưng trong
kịch bản tăng trưởng cao, một tầm nhìn tham vọng hơn được thiết lập với yêu cầu hành động sớm
hơn. Các số liệu chính của hai kịch bản tăng trưởng này ví dụ như các chỉ số chính về phát điện,
chi phí, kinh tế và phát thải, được tóm tắt trong hình dưới đây.
Cả hai kịch bản tăng trưởng đều có thể mang lại lợi ích đáng kể cho Việt Nam, tuy nhiên, kết quả
chỉ ra rằng kịch bản tăng trưởng cao có thể mang lại lợi ích kinh tế lớn hơn nhiều với chi phí tổng
thể thấp hơn. So với kịch bản tăng trưởng thấp, tăng trưởng cao sẽ dẫn đến:
xviii
Một thị trường gió ngoài khơi lớn hơn của Việt Nam, theo kịch bản tăng trưởng cao, sẽ cho phép
đầu tư và tối ưu hóa chuỗi cung ứng địa phương nhiều hơn, dẫn đến xuất khẩu sang thị trường
khu vực và toàn cầu. Một chuỗi cung ứng của Việt Nam lớn hơn, có năng lực hơn sẽ làm tăng hàm
lượng nội địa trong các dự án, do đó giảm nhập khẩu và thúc đẩy phát triển kinh tế. Một chuỗi
cung ứng địa phương lớn hơn cũng có thể làm tăng cạnh tranh và chi phí năng lượng.
Theo một kịch bản tăng trưởng cao, chi phí sản xuất gió ngoài khơi có thể ngang bằng với chi phí
sản xuất nhiên liệu hóa thạch sớm hơn, có chi phí ròng tích lũy thấp hơn 60% cho người tiêu dùng
cho đến năm 2035 và mang lại lợi ích ròng cho người tiêu dùng từ năm 2036—sớm hơn ba năm so
với mức đạt được theo kịch bản tăng trưởng thấp.
Kinh nghiệm tại các thị trường điện gió ngoài khơi đi trước cho thấy rằng các mục tiêu dài hạn,
đầy tham vọng có thể là nền tảng cho sự phát triển của ngành. Kết quả của lộ trình này cho thấy
mục tiêu 10 GW vào năm 2030 và 25 GW vào năm 2035 có thể sẽ hoàn thành mục tiêu này. Đồng
thời, hệ quả của việc tăng trưởng cao hơn là nguy cơ tác động xấu đến môi trường và xã hội cao
hơn. Điều này càng đặt ra tầm quan trọng lớn hơn đối với nhu cầu xây dựng quy hoạch không
gian biển và khung pháp lý về môi trường trước khi ban hành hợp đồng thuê biển.
Lộ trình này đề xuất rằng các quy định, pháp luật, quy trình và cơ sở hạ tầng hiện có cần được cải
thiện hoặc phát triển để đạt được tầm nhìn mà Chính phủ Việt Nam đã đề ra. Lộ trình này cung
cấp một loạt các bước tiếp theo được khuyến nghị để giúp tạo điều kiện để thành lập và phát
triển điện gió ngoài khơi thành một ngành công nghiệp.
Hình ES.1: Tác động của điện gió ngoài khơi ở Việt Nam trong các kịch bản thấp và kịch
bản cao, giai đoạn 2020–2035.3
11 GW
Công suất vận hành của điện gió ngoài khơi
25 GW (cao hơn 2.3 lần)
203 TWh
Lượng điện sản xuất (đo bằng Twh)
433 TWh (cao hơn 2.1 lần)
4.8 tỷ USD
Chi phí ròng cho người sử dụng
1.9 tỷ USD (thấp hơn 60%)
13 tỷ USD
Tổng lượng giá trị gia tăng trong nước
50 tỷ USD (cao hơn 3.8 lần)
Hình ES.2: Các chủ đề ưu tiên để phát triển ngành điện gió ngoài khơi thành công
2020–2021:
Xác định tầm nhìn
– Tầm nhìn 2050
– Mục tiêu 2030 và 2035
2021–2022:
Tạo các quy trình
Công nghiệp – Quy hoạch không gian biển
điện gió – Cho thuê biển
ngoài khơi – Cấp phép
thành công – Mua bán điện
– Phát triển chuỗi cung ứng
2022–2035:
Phát triển cơ sở hạ tầng
– Truyền tải điện
– Hệ thống cảng
– Chuỗi cung ứng
Tài chính dự án
9. Giữ EVN là đối tác mua điện (PPA), và điều chỉnh điều khoản của hợp đồng mua điện để dự
án có thể được ngân hàng bảo lãnh
10. Khuyến khích các cơ chế tài chính để giảm chi phí vốn
Báo cáo này là kết quả của nghiên cứu được Nhóm Ngân hàng Thế giới (WBG) giao cho công
ty tư vấn chiến lược năng lượng tái tạo BVG Associates (BVGA), liên danh với Atkins, Frontier
Economics, Sterling Technical Services (Vietnam) và ông Dư Văn Toán thực hiện.
Đây là nghiên cứu đầu tiên trong một loạt các nghiên cứu về lộ trình do Nhóm Ngân hàng Thế
giới hỗ trợ (một phần của chương trình phát triển điện gió ngoài khơi của Ngân Hàng4) với mục
tiêu đẩy nhanh việc mở rộng điện gió ngoài khơi ở các thị trường mới nổi và hỗ trợ kỹ thuật cho
các quốc gia này, từ đó các quốc gia có thể đánh giá tiềm năng gió ngoài khơi của mình và phát
triển danh mục các dự án tiềm năng và sẵn sàng cho đầu tư.
Báo cáo được thực hiện theo lời mời của Chính phủ Việt Nam yêu cầu Nhóm Ngân hàng Thế giới
đề nghị hỗ trợ. Nghiên cứu được thực hiện trong thời gian từ tháng 2 đến tháng 10 năm 2020.
Nghiên cứu này nhằm hỗ trợ sự cộng tác giữa Chính phủ Việt Nam và ngành công nghiệp điện
gió. Nó không phản ánh quan điểm của Chính phủ Việt Nam.
■ Phần 2: Mô tả hai kịch bản đối với điện gió ngoài khơi ở Việt Nam được sử dụng trong
nghiên cứu
■ Phần 3 và 4: Tóm tắt ngắn gọn về kết quả của hai kịch bản này, sử dụng kết quả của các
phần sau trong báo cáo
■ Phần 5: Khuyến nghị của chúng tôi và lộ trình phát triển điện gió ngoài khơi ở Việt Nam.
■ Thông tin bổ sung
■ Phần 6 đến 8: Các thành phần chính của một ngành điện gió thành công, lợi ích và thách
thức của điện gió ngoài khơi và bối cảnh quy mô thị trường ở Việt Nam
■ Phần 9 đến 22: Phân tích bao gồm tất cả các khía cạnh chính về tương lai của điện gió ngoài
khơi ở Việt Nam
Việt Nam có nguồn năng lượng gió ngoài khơi tương đối lớn so với thế giới, nằm gần bờ, gần các
trung tâm đông dân cư, và ở trong các khu vực biển tương đối nông.
Việt Nam có cơ hội sử dụng nguồn tài nguyên này để đáp ứng gần 30% nhu cầu điện vào năm
2050, và ngành công nghiệp điện gió sẽ vẫn tiếp tục phát triển trong những năm sau đó.
Báo cáo này đã khảo sát tác động của hai kịch bản tăng trưởng khác nhau có thể xảy ra, được
lựa chọn để khái quát các con đường khả thi đối với Việt Nam trong bối cảnh nhu cầu điện trong
tương lai, như được thảo luận trong Phần 8. Các kịch bản này không được lựa chọn để phù hợp
với các tuyên bố hiện hành của Chính phủ. Hai kịch bản đó là:
Sự khác biệt giữa hai kịch bản được thảo luận dưới đây. Lưu ý rằng mặc dù cả hai kịch bản có vẻ
như đều thể hiện là một đường liền mạch như trong Hình 2.1 nhưng tốc độ lắp đặt thực tế hàng
năm dự kiến có thể thay đổi do quy mô và thời điểm dự án cụ thể.
Hình 2.1: Công suất đặt hàng năm và công suất vận hành lũy kế trong hai kịch bản
4 80
Công suất lắp đặt hàng năm (GW)
2 40
1 20
0 0
20 r
20
20 1
20 2
20 3
20 4
20 5
20 6
20 7
20 8
20 9
20 0
20 1
20 2
20 3
20 4
20 5
20 6
20 7
20 8
20 9
20 0
20 1
20 2
20 3
20 4
20 5
20 6
20 7
20 8
20 9
50
e
2
2
2
2
2
2
2
2
2
3
3
3
3
3
3
3
3
3
3
4
4
4
4
4
4
4
4
4
4
rli
20
Ea
Kịch bản tăng trưởng thấp Kịch bản tăng trưởng cao
Hình 2.2: Tham vọng dài hạn trong kịch bản tăng trưởng thấp
4 80
Công suất lắp đặt hàng năm (GW)
2 40
1 20
0 0
2020 2025 2030 2035 2040 2045 2050
Năm lắp đặt
Hình 2.3: Tham vọng dài hạn trong kịch bản tăng trưởng cao
4 80
Công suất lắp đặt hàng năm (GW)
3 60
2 40
1 20
0 0
2020 2025 2030 2035 2040 2045 2050
Năm lắp đặt
2. Hai kịch bản cho điện gió ngoài khơi ở Việt Nam 3
Kịch bản tăng trưởng thấp Kịch bản tăng trưởng cao
Môi trường chính sách • Thể hiện rõ mục tiêu lắp đặt đến năm • Như kịch bản tăng trưởng thấp,
2030, gắn với mục tiêu giảm chi phí nhưng tầm nhìn tốt hơn và độ tin
tưởng cao hơn
• Giới thiệu đấu thầu cạnh tranh • Như kịch bản tăng trưởng thấp
• Không có yêu cầu chính thức về nội • Như kịch bản tăng trưởng thấp
địa hóa, nhưng trong quy trình đấu
giá, các công ty phát triển điện gió
ngoài khơi phải nộp kế hoạch cho
chính phủ để tạo ra và duy trì lợi ích
cho địa phương
• Khuyến khích chú trọng phát triển địa • Khuyến khích hợp tác với các công ty
phương nước ngoài và xuất khẩu thông qua
các chương trình của chính phủ
Môi trường pháp lý • Có quy trình cho thuê, ĐTMX và cấp • Như kịch bản tăng trưởng thấp,
phép minh bạch và kịp thời với một nhưng tiến độ nhanh hơn và gia tăng
quy trình rõ rang, chỉ cần chấp thuận lòng tin. Cần sự hợp tác và phối hợp
của một số ít cơ quan bộ ngành giữa các bộ ngành và chính quyền địa
phương.
• Quy hoạch không gian biển được • Như kịch bản tăng trưởng thấp
xem xét ngay từ đầu, với điện gió
ngoài khơi là một phần chính của quy
hoạch này; các dự án đã trong giai
đoaạn phát triển phải được giải quyêt
hài hòa để xây dựng được niềm tin và
danh mục dự án tiềm năng sớm
• Hợp đồng mua bán điện hợp lý, giúp • Như kịch bản tăng trưởng thấp
dự án có thể được ngân hàng bảo
lãnh
Chuỗi cung ứng • Chủ yếu sử dụng tuabin từ các đơn vị • Như kịch bản tăng trưởng thấp
cung cấp trên thế giới, mặc dù rất có
khả năng sẽ chịu sự cạnh tranh mạnh
mẽ của các nhà thầu Trung Quốc
• Có tương đối tỷ lệ nội địa hóa, nhưng • Liên doanh và đầu tư từ nước ngoài
thiếu sự hiệu quả và sự tăng trưởng giúp nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, giảm
của một thị trường tăng trưởng cao, chi phí tạo điều kiện để xuất khẩu
và thiếu mối quan hệ với các tập đoàn thuận lợi và kịp thời
sản xuất toàn cầu, nên chi phí cao hơn
và xuất khẩu ít hơn
Các điều kiện tiên • Một số hạn chế về đầu tư và sở hữu • Mở rộng đầu tư hoặc sở hữu nước
quyết khác cho kịch nước ngoài ngoài, bao gồm cho phép chuyển lợi
bản nhuận về nước đấu tư
• Giảm rủi ro đầu tư bằng cách chứng • Như kịch bản tăng trưởng thấp
minh dòng doanh thu đều đặn
Các kịch bản này được so sánh với kịch bản khi mà chính phủ không có bất kỳ hành động nào, với
những đặc điểm sau: tầm nhìn thị trường dài hạn bị hạn chế, thiếu những quy trình cho thuê và
cấp phép minh bạch và kịp thời, thiếu tin tưởng vào các hợp đồng mua bán điện, vốn là những nét
điển hình của một quốc gia ở giai đoạn đầu phát triển điện gió ngoài khơi. Trong kịch bản như vậy,
việc thiếu quy hoạch không gian biển cũng làm tăng nguy cơ các dự án tìm sai vị trí, có tác động
lớn đối với môi trường và xã hội, và làm giảm khả năng vay ngân hàng của các dự án này.
Trong một môi trường như vậy, chúng tôi dự báo rằng các đơn vị phát triển trong và ngoài nước
sẽ tiếp tục phát triển, tài trợ và xây dựng một số lượng ít các dự án móng cố định ngoài khơi và dự
án điện gió gần bờ. Các rủi ro liên quan tới việc đầu tư, phát triển và mua bán điện sẽ cao và các
dự án sẽ tốn kém. Sẽ không có một danh mục dự án lớn tiềm năng một cách rõ ràng, đủ để giúp
cho giảm chi phí năng lượng hoặc giúp đầu tư chuỗi cung ứng trong nước.
■ Dự án ngoài khơi móng cố định truyền thống (Conventional Fixed Offshore). Các dự án này
thường ở độ sâu từ 10 đến 35 m, sử dụng móng cố định, phương pháp lắp đặt và tua-bin lớn
tương tự như được sử dụng trong nhiều dự án ở châu Âu và một vài nơi khác ở châu Á. Chúng tôi
dự kiến là các dự án này sẽ chiếm phần lớn thị trường điện gió ngoài khơi ở Việt Nam.
■ Dự án móng nổi. (Floating). Các dự án ở vùng nước sâu hơn (thường lớn hơn 50 m) sẽ sử
dụng móng nổi. Các dự án có quy mô thương mại có thể được lắp đặt vào cuối những năm
2020, nhưng có khả năng chiếm một nửa công suất lắp đặt mới vào năm 2050.
Ngoài ra, chúng tôi cũng thảo luận một cách định tính về các dự án điện gió gần bờ. Các dự án điện
gió gần bờ là dự án mà trang trại gió rất gần bờ (cách bờ 3 hải lý ~ 5.5 km) và có thể tiếp cận trực
tiếp từ đất liền. Móng của tuabin gió trong các dự án này thường là cọc có nắp bằng bê tông, tuabin
được sử dụng là tuabin gió vốn dùng trên bờ nhưng với thay đổi nhỏ. Việc lắp đặt tuabin thường sử
dụng xà lan đơn giản và tiến hành ở những vùng nước nông, lặng sóng. Những dự án như vậy được
coi là bước đệm giữa điện gió trên bờ và ngoài khơi. Việt Nam đã sớm thiết lập một danh sách các
dự án như vậy, đặc biệt ở khu vực Đồng Bằng sông Cửu Long, phía nam Thành Phố Hồ Chí Minh.
Tuy nhiên, việc phát triển điện gió ở các khu vực gần bờ này có nguy cơ cao gây ra các tác động xấu
đến môi trường và xã hội vì một số lý do bao gồm; sự hiện diện của các loài động vật nằm trong
Sách Đỏ ở các vùng ven biển; việc các khu vực này gần với các môi trường sống được bảo vệ hoặc
nhạy cảm; tác động tiềm tàng đến động lực trầm tích ven biển; và tác động tiềm tàng đến các cộng
đồng ven biển, đặc biệt là đối với sinh kế của những người đánh bắt tận thu. Các dự án điện gió
gần bờ nằm gần các Khu Vực Đa Dạng Sinh Học Trọng Điểm (Key Biodiversity Areas), khu vực môi
trường sống quan trọng hoặc nhạy cảm của động vật hoang dã, sẽ khó đáp ứng các tiêu chuẩn của
các quỹ quốc tế, thường tuân theo tiêu chuẩn môi trường và xã hội của Nhóm Ngân hàng Thế giới.
Do đó, báo cáo này đưa ra các khuyến nghị nhằm giải quyết các rủi ro liên quan đến việc phát triển
rộng rãi các dự án điện gió gần bờ. Chúng tôi dự đoán rằng sau khi các dự án điện gió gần bờ đầu
tiên được hoàn thành, hầu hết các dự án khác sẽ sử dụng móng cố định truyền thống.
2. Hai kịch bản cho điện gió ngoài khơi ở Việt Nam 5
Nhìn chung, dự án móng cố định và dự án móng nổi sẽ chiếm khoảng 2,4% diện tích ở những
khu vực phát triển tiềm năng được xác định trong Hình 3.1—xem chương 20 về dữ liệu không gian
để có thêm thông tin.
Hình 3.1: Các khu vực phát triển điện gió ngoài khơi tiềm năng (theo định nghĩa của WBG6)
Nguồn: ESMAP. 2021. Going Global: Expanding Offshore Wind to Emerging Markets (Vol. 50): Technical Potential for
Offshore Wind in Vietnam—Map (English). Washington, DC: World Bank Group. http://documents.worldbank.org/curated/
en/340451572465613444/Technical-Potential-for-Offshore-Wind-in-Vietnam-Map
6
Hình 3.2: Điện từ năng lượng gió ngoài khơi và các nguồn khác đến năm 2050 theo kịch
bản tăng trưởng thấp
1,600 40
Lượng điện cung cấp (TWh)
800 20
400 10
0 0
2020 2025 2030 2035 2040 2045 2050
3.3 Chi phí điện quy dẫn (LCOE) và lợi ích ròng đối với khách hàng
Chi phí năng lượng của các dự án gió ngoài khơi đầu tiên sẽ cao do rủi ro liên quan đến thị
trường mới và sự thiếu năng lực chuỗi cung ứng địa phương. Chi phí cho các dự án này có thể
nằm trong khoảng 150–200 USD/MWh. Công suất của các dự án đầu tiên này sẽ nhỏ (< 500 MW),
do đó tác động tổng thể của chi phí cao sẽ được giảm thiểu.
Kinh nghiệm từ các thị trường khác cho thấy chi phí năng lượng giảm nhanh chóng khi nhiều
dự án được xây dựng hơn, rủi ro giảm và năng lực địa phương tăng lên. Trong kịch bản này, chi
phí năng lượng của các dự án có thể giảm xuống khoảng 80–90 USD/MWh vào năm 2030 và
60–70 USD/MWh vào năm 2035. Việc giảm chi phí năng lượng được thảo luận trong Phần 9 và
các động lực chính là:
■ Sử dụng các tuabin lớn ngoài khơi với các rôto được thiết kế cho các khu vực gió có tốc độ
thấp hơn.
■ Giảm chi phí vốn do giảm rủi ro và có được nguồn tài chính lớn sẵn sàng đầu tư.
■ Tăng trưởng trong nguồn cung trong nước và khu vực, nâng cao năng lực và cạnh tranh, được
thúc đẩy bởi quy mô và độ tin cậy của thị trường.
200 10,000
160 8,000
120 6,000
80 4,000
40 2,000
0 0
2020 2025 2030 2035 2040 2045 2050
Năm lắp đặt
Chi phí ròng đối với người tiêu dùng vào năm 2035 là 4,8 tỷ US, tuy nhiên, chi phí này được trả hết
vào năm 2039. Từ đó trở đi, điện gió ngoài khơi mang lại lợi ích ròng tăng lên ngày càng nhanh
cho người tiêu dùng và nền kinh tế của Việt Nam. Giải thích cho Hình 3.3 và cách tính toán chi phí
ròng được trình bày trong Phần 7.1.
Hình 3.4 cho thấy trước năm 2035, sẽ có khoảng 190,000 năm FTE được tạo ra từ lĩnh vực điện
gió ngoài khơi.7 40% trong số này là cho xuất khẩu các linh kiện từ Việt Nam, được sản xuất bởi
công nhân Việt Nam. Trong những năm 2030, việc làm hàng năm sẽ vào khoảng 20,000 FTE.
Chi tiết về chuỗi cung ứng, lợi ích kinh tế của ngành công nghiệp gió ngoài khơi và nhu cầu đầu
tư chuỗi cung ứng được thảo luận trong Phần 10 và 11, trong đó có phân tích chi tiết tỷ lệ nội địa
hóa sản xuất 40%.
500,000
400,000
300,000
Năm FTE
200,000
100,000
0
2020–2024 2025–2029 2030–2035
Màu đậm—Trong nước Màu nhạt—Xuất khẩu
Hình 3.5: GVA trong nước trong kịch bản tăng trưởng thấp
40
30
GVA (tỷ USD)
20
10
0
2020–2024 2025–2029 2030–2035
Màu đậm—Trong nước Màu nhạt—Xuất khẩu
3.5 Cơ sở hạ tầng
Trong kịch bản này, hệ thống truyền tải điện sẽ được hưởng lợi từ chương trình nâng cấp đang
thực hiện, ngoài khối lượng đã được quy hoạch ở Việt Nam. Củng cố lưới truyền tải sẽ đặt mục
tiêu giải quyết tắc nghẽn lưới điện, bao gồm nâng cấp trục kết nối bắc-nam để truyền tải điện từ
các trang trại gió ngoài khơi khu vực bờ biển nam trung bộ (Bình Thuận, Ninh Thuận) tới các khu
đô thị lớn ở Miền Bắc. Hệ thống truyền tải được trình bày trong Phần 17.
Với tốc độ lắp đặt hàng năm là 1,6 GW, cần sử dụng từ 2–3 cảng để xây dựng điện gió ngoài khơi
cùng một lúc. Các cảng này rất có thể ở xung quanh khu vực Vũng Tàu và Thành phố Hồ Chí Minh,
mặc dù đôi khi có thể sử dụng các cảng xa hơn về phía bắc. Một số cảng có thể cần phải nâng cấp,
nhưng khối lượng công việc không đáng kể. Các cảng cụ thể sẽ được thảo luận trong Phần 18.
Điện gió ngoài khơi có những các tác động tiêu cực nhất định về môi trường sống, đa dạng hóa
sinh học, tới những ngư dân và người dân địa phương. Những tác động này có thể lên tới tầm cỡ
quốc tế khi cân nhắc đến tác động lũy kế, và rất khó có thể quản lý.
Điện gió ngoài khơi cũng sẽ có những tác động tiềm tàng đối với các khu vực được quy định là
môi trường nhạy cảm về sinh thái, những sinh vật ở trong sách đỏ, các khu vực có giá trị về cảnh
quan, và có tác động đối với những đối tượng sử dụng biển khác bao gồm các ngành công
nghiệp dầu khí và đánh bắt cá. Để tránh và/hoặc quản lý những tác động này, chúng ta cần phải
hoàn thành quy hoạch không gian biển hiệu quả ngay từ đầu. Các đánh giá tác động môi trường
và xã hội (ESIA) cụ thể cho từng dự án sẽ được yêu cầu để thu thập dữ liệu cơ bản và xác định các
biện pháp thích hợp để tránh, giảm thiểu và bù đắp cho các tác động liên quan đến dự án Các
cân nhắc chính về môi trường và xã hội được thảo luận trong Phần 12.
Người dân Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ giảm ô nhiễm cục bộ do các nhà máy than gây ra và
môi trường toàn cầu sẽ được hưởng lợi vì chúng ta tránh phát thải tổng cộng 102 triệu tấn CO2
Các cộng đồng dân cư ven biển sẽ được hưởng lợi từ hoạt động kinh tế và việc làm kiến tạo từ dự
án điện gió ngoài khơi (thảo luận trong Phần 3.4). Mọi người sẽ nhận thức được sự hiện diện của
các trang trại gió ngoài khơi và cơ sở hạ tầng ở trên bờ.
Những người làm việc trong các hoạt động xây dựng và vận hành trang trại gió ngoài khơi sẽ
được bảo vệ khỏi các nguy hiểm thông qua cách tiếp cận toàn diện về an toàn lao động và bảo
vệ công trình. Chúng tôi sẽ thảo luận về điều này trong Phần 16.
Các dự án sẽ được phát triển bởi nhiều tổ chức khác nhau: các công ty phát triển tư nhân quốc tế
và trong nước. và các doanh nghiệp nhà nước.
Để đạt được kịch bản này, khung chính sách và quy định về cho thuê, ĐMTX, cấp phép và PPA cần
phải vững chắc, minh bạch và kịp thời, như vậy mới có được các nguồn tài chính cạnh tranh về giá
từ các tổ chức cho vay quốc tế. Các khía cạnh này được thảo luận trong Phần 1 và 15.
Cần tiếp cận các nguồn tài chính công để tài trợ cho các cơ sở hạ tầng dự án quan trọng bao gồm
nâng cấp cảng biển và lưới điện truyền tải. Các công cụ tài chính như cho vay đa phương, tăng
cường tín dụng và áp dụng các tiêu chuẩn xanh có thể được sử dụng để thu hút nguồn tài chính
quốc tế và giảm chi phí cho điện gió ngoài khơi ở Việt Nam. Nội dung này được thảo luận trong
Phần 18 và 19.
3.8 Các hành động để thực hiện kịch bản tăng trưởng thấp
Khuyến nghị của chúng tôi đối với các hành động của chính phủ được liệt kê trong Phần 5. Các
khuyến nghị này được đưa ra thông qua phân tích các thành phần chính của một ngành điện gió
ngoài khơi thành công, như được thảo luận trong Phần 6.
3.9 Phân tích SWOT cho Việt Nam trong kịch bản tăng trưởng thấp
Phân tích các điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và nguy cơ (SWOT) đối với Việt Nam khi áp dụng kịch
bản thấp (so với kịch bản cao) được trình bày trong Bảng 3.1.
• Cung cấp nguồn cung điện sạch tại chỗ quy mô • Quy mô thị trường sẽ không thu hút được nhiều
lớn, chi phí thấp, cùng với việc làm dài hạn và lợi quan tâm của các đơn vị phát triển quốc tế
ích kinh tế • Quy mô thị trường sẽ không duy trì được sự cạnh
• Triển khai chậm hơn giúp có nhiều thời gian hơn tranh trong nước đủ để có thể cạnh tranh xuất
để phản ứng khi ngành và công nghệ thay đổi khẩu về cung ứng cũng như sản xuất móng
• Chi phí năng lượng cao hơn 23% so với kịch bản
tăng trưởng cao và chi phí ròng lũy kế cao hơn
2,5 lần cho 47% điện năng vào năm 2035
• Chính phủ phải làm cùng một khối lượng công
việc để tạo ra 27% khối lượng việc làm và GVA so
với kịch bản tăng trưởng cao vào năm 2035
• Phụ thuộc quá nhiều vào các dự án điện gió gần
bờ có tác động môi trường và xã hội cao
• Có thể tăng tốc lên kịch bản tăng trưởng cao • Chuỗi cung ứng trong khu vực chắc chắn được
hơn bất cứ lúc nào thiết lập nhiều hơn ở các thị trường Đông/Đông
Nam Á khác, dẫn tới nhập khẩu nhiều hơn
• Các đơn vị cung cấp tuabin gió toàn cầu sẽ ít khả
năng phát triển loại tuabin gió tốc độ thấp phù
hợp với thị trường Việt Nam, vốn là nhân tố chính
để giảm chi phí năng lượng
• Trong trường hợp không có hướng dẫn và tiêu
chuẩn rõ ràng của Chính phủ đối với ĐTMX,
lựa chọn địa điểm và phát triển các dự án ban
đầu không tốt, bao gồm các dự án điện gió gần
bờ, có thể dẫn đến các tác động bất lợi về môi
trường và xã hội và làm tổn hại đến uy tín của
ngành, làm chậm các cơ hội đầu tư từ nước ngoài
và triển vọng tăng trưởng trong tương lai
Kịch bản tăng trưởng cao mang lại nhiều công suất sản xuất điện hơn, nhiều việc làm hơn, chi phí
lũy kế ròng thấp hơn, hoàn vốn nhanh hơn và tránh được nhiều phát thải CO2 hơn so với kịch bản
tăng trưởng thấp. Tất cả các chỉ số đều được cải thiện do giảm chi phí nhiều hơn nhờ thị trường
lớn hơn. Để đạt được quy mô và tốc độ tang trường này, chính phủ phải thực hiện cam kết lớn
hơn và có hành động khẩn cấp hơn, tuy nhiên nổ lực của chính phủ chỉ khó hơn một chút so với
kịch bản phát triển thấp.
Hình 4.1: Điện cung cấp hàng năm từ năng lượng gió ngoài khơi và các nguồn khác đến
năm 2050 trong kịch bản tăng trưởng cao
1,600 40
Lượng điện cung cấp (TWh)
1,200 30
800 20
400 10
0 0
2020 2025 2030 2035 2040 2045 2050
13
4.3 Chi phí điện và lợi ích ròng đối với người tiêu dùng
Hình 4.2 cho thấy xu hướng của LCOE và chi phí ròng tích lũy của điện gió ngoài khơi trong điều
kiện tăng trưởng cao (xem Hộp 7.1 trong Phần 7.1 để giải thích về giả định đằng sau hình vẽ).
Tương tự với kịch bản tăng trưởng thấp, Hình 4.2 cho thấy chi phí năng lượng của các dự án gió
ngoài khơi đầu tiên được ước tính là cao và trong nửa đầu những năm 2020 sẽ cung cấp một
lượng nhỏ công suất gió ngoài khơi với chi phí tương đối nhỏ cho người tiêu dùng. (Lưu ý: LCOE
của các dự án đầu tiên của Việt Nam sẽ phụ thuộc vào nhiều yếu tố ảnh hưởng và như Phần 9 mô
tả, có những cách để giảm chi phí). Khi tốc độ phát triển tăng nhanh trong nửa sau của thập kỷ
này, việc giảm chi phí nhanh hơn xảy ra so với kịch bản tăng trưởng thấp. Điều này làm giảm đáng
kể chi phí ròng tổng thể cho người tiêu dùng và mang lại lợi ích kinh tế lớn hơn nhiều.
Hình 4.2: LCOE và chi phí ròng lũy kế của điện gió ngoài khơi so với công nghệ truyền
thống trong kịch bản tăng trưởng cao
200 10,000
160 8,000
120 6,000
80 4,000
40 2,000
0 0
2020 2025 2030 2035 2040 2045 2050
Năm lắp đặt
■ Giảm chi phí vốn (CAPEX) do tỷ lệ đầu tư vào chuỗi cung ứng cao hơn, tối ưu hóa cho quy mô
lớn hơn và gia tăng cạnh tranh.
■ Chi phí vốn bình quân gia quyền (WACC) thấp hơn do khả năng huy động vốn đầu tư nước
ngoài nhiều hơn và giảm rủi ro theo kịch bản tăng trưởng cao.
Nội dung này được thảo luận trong Phần 6.4 và Phần 9.
Chi phí ròng đối với người tiêu dùng vào năm 2035 là 1,9 tỷ US$, bằng 40% chi phí trong kịch bản
tăng trưởng thấp.
Chi phí ròng của điện gió ngoài khơi được trả hết vào năm 2036, sớm hơn ba năm so với kịch bản
tăng trưởng thấp—taị thời điểm đó, ngành điện gió ngoài khơi đã có tác động tích cực đến nền kinh
tế Việt Nam và người tiêu dùng. Chi tiết về nguồn gốc của các số liệu này được nêu trong Phần 7.1.
Chi tiết về chuỗi cung ứng, lợi ích kinh tế của điện gió ngoài khơi và nhu cầu đầu tư chuỗi cung
ứng được thảo luận trong Phần 10 và 11, trong đó có phân tích chi tiết tỷ lệ nội địa hóa 60%.
Việc làm
Hình 4.3 cho thấy vào năm 2035, 700.000 năm FTE11 sẽ được tạo ra trong lĩnh vực điện gió ngoài
khơi. 40% trong số này là cho xuất khẩu các linh kiện từ Việt Nam, được sản xuất bởi công nhân
Việt Nam. Trong những năm 2030, việc làm hàng năm sẽ là khoảng 80.000 FTE, cao hơn khoảng
bốn lần so với kịch bản tăng trưởng thấp. Điều này là do khối lượng được lắp đặt gấp 2,3 lần và
số lượng việc làm được tạo ra cho mỗi MW lắp đặt gấp 1,6 lần (nhờ tỷ lệ nội địa hóa lớn hơn).
500,000
400,000
300,000
Năm FTE
200,000
100,000
0
2020–2024 2025–2029 2030–2035
Màu đậm—Trong nước Màu nhạt—Xuất khẩu
Hình 4.4: GVA trong nước trong kịch bản tăng trưởng cao
40
30
GVA (tỷ USD)
20
10
0
2020–2024 2025–2029 2030–2035
Màu đậm—Trong nước Màu nhạt—Xuất khẩu
4.5 Cơ sở hạ tầng
Trong kịch bản này, hệ thống truyền tải điện cần được củng cố nhiều hơn nữa. Củng cố lưới
truyền tải với mục đích giải quyết các tắc nghẽn lưới điện, bao gồm nâng cấp trục kết nối từ nam
ra bắc để truyền tải điện từ các trang trại gió ngoài khơi bờ biển Nam Trung Bộ đến các đô thị lớn
của Miền Bắc. Với chiều dài của mạng lưới truyền tải, có thể áp dụng công nghệ HVDC. Việc nâng
cấp lưới điện có thể mất khá nhiều thời gian nên điều quan trọng là phải làm từ sớm. Hệ thống
truyền được thảo luận trong Phần 16.
Với tốc độ lắp đặt hàng năm là 3 GW, cần sử dụng từ 4 đến 6 cảng biển để xây dựng điện gió
ngoài khơi cùng một lúc. Các cảng này rất có thể xung quanh khu vực Vũng Tàu, Thành phố Hồ
Chí Minh và Nha Trang, bao gồm cả cảng cho các dự án móng nổi. Các cảng được thảo luận
trong Phần 18.
Các khu vực gần bờ thường có tầm ảnh hưởng quan trọng với đối với sinh kế từ việc đánh bắt cá,
và đa dạng sinh học. Các dự án điện gió gần bờ nằm gần các Khu Vực Đa Dạng Sinh Học Trọng
Điểm (Key Biodiversity Areas), khu vực môi trường sống quan trọng hoặc nhạy cảm của động vật
hoang dã khả năng cao sẽ có tác động lớn tới môi trường, và khó có khả năng đáp ứng các tiêu
chuẩn về môi trường và xã hội của Nhóm Ngân hàng Thế giới. Mặc dù một số lượng lớn hơn các
dự án điện gió gần bờ đã được đưa vào kịch bản tăng trưởng cao, sẽ tốt hơn nếu các dự án này sẽ
được thay thế bằng các dự án điện gió xa bờ.
Cũng giống như các công trình cơ sở hạ tầng khác, điện gió ngoài khơi có những các tác động tiêu
cực nhất định về môi trường sống, tới những ngư dân và người dân địa phương. Những tác động
này có thể lên tới tầm cỡ quốc tế khi cân nhắc đến tác động lũy kế, và rất khó có thể quản lý.
Điện gió ngoài khơi cũng sẽ có những tác động tiềm tàng đối với các khu vực được quy định là
môi trường nhạy cảm về sinh thái, những sinh vật ở trong sách đỏ, các khu vực có giá trị về cảnh
quan, và có tác động đối với những đối tượng sử dụng biển khác bao gồm các ngành công
nghiệp dầu khí và đánh bắt cá. Theo kịch bản tăng trưởng cao này, sẽ xảy ra nhiều tác động tích
lũy hơn. Tác động môi trường và xã hội sẽ lan rộng và đòi hỏi đánh giá và quản lý ở mức độ cao
hơn. Những tác động này có thể được giảm thiểu hoặc tránh nếu quy hoạch không gian biển
cân nhắc đầy đủ các vấn đề về môi trường và xã hội. Các đánh giá tác động môi trường và xã hội
(ESIA) cụ thể cho từng dự án sẽ được yêu cầu để thu thập dữ liệu cơ bản và xác định các biện
pháp thích hợp để tránh, giảm thiểu và bù đắp cho các tác động liên quan đến dự án Các cân
nhắc chính về môi trường và xã hội được thảo luận trong Phần 12.
Các cộng đồng dân cư ven biển sẽ được hưởng lợi nhiều hơn so với kịch bản tăng trưởng thấp từ
các dự án hoạt động kinh tế và việc làm, như được thảo luận trong Phần 4.4. Mọi người sẽ nhận
thức được sự hiện diện của các trang trại gió ngoài khơi và cơ sở hạ tầng ở trên bờ.
Những người làm việc trong các hoạt động xây dựng và vận hành trang trại gió ngoài khơi sẽ
được bảo vệ khỏi các nguy hiểm thông qua cách tiếp cận toàn diện về an toàn lao động và bảo
vệ công trình. Chúng tôi sẽ thảo luận về điều này trong Phần 16.
Để đạt được kịch bản này, khung chính sách và quy định về cho thuê, ĐTMX, cấp phép và PPA cần
phải vững chắc, minh bạch và kịp thời, như vậy mới có được các nguồn tài chính cạnh tranh về
giá từ các tổ chức cho vay quốc tế. Các tiêu chuẩn và quy trình mà không đáp ứng được thông lệ
quốc tế tốt của ngành sẽ làm hạn chế nguồn tài chính quốc tế cho các dự án. Cần thực hiện các
công việc này khẩn trương hơn so với kịch bản tăng trưởng thấp. Các khía cạnh này được thảo
luận trong Phần 1 và 15.
Như trong kịch bản tăng trưởng thấp, cần tiếp cận các nguồn tài chính công để tài trợ cho các cơ
sở hạ tầng dự án quan trọng bao gồm nâng cấp cảng biển và lưới điện truyền tải. Nội dung này
được thảo luận trong Phần 19.
4.8 Các hành động để thực hiện kịch bản tăng trưởng cao
Khuyến nghị của chúng tôi đối với các hành động của chính phủ được liệt kê trong Phần 5. Các
khuyến nghị này được đưa ra thông qua phân tích các thành phần chính của một ngành điện gió
ngoài khơi thành công, như được thảo luận trong Phần 6. Do quy mô của ngành lớn hơn và tốc độ
tăng trưởng nhanh hơn trong kịch bản này so với kịch bản tăng trưởng thấp, cần có cam kết nhiều
hơn và hành động cấp bách hơn của Chính phủ.
4.9 Phân tích SWOT cho Việt Nam trong kịch bản tăng trưởng cao
Phân tích các điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và nguy cơ (SWOT) đối với Việt Nam khi áp dụng kịch
bản này (so với kịch bản tăng trưởng thấp) được trình bày trong Bảng 4.1.
• Nguồn cung cấp điện sạch tại chỗ, quy mô lớn, • Trong những năm đầu, chi phí năng lượng cao
chi phí thấp, với việc làm và lợi ích kinh tế dài hạn hơn so với công nghệ truyền thống
• Quy mô thị trường lớn hơn sẽ duy trì mối quan • Một vài dự án điện gió gần bờ với khả năng có
tâm lớn của các đơn vị phát triển quốc tế, giúp tác động môi trường xã hội cao
thúc đẩy đổi mới và LCOE thấp hơn 18% so với
kịch bản tăng trưởng thấp trước năm 2035
• Quy mô thị trường lớn hơn sẽ duy trì cạnh tranh
trong nước và hỗ trợ xuất khẩu, tạo ra việc làm
và GVA gấp 3,7 lần so với kịch bản tăng trưởng
thấp, vào năm 2035
• Chi phí năng lượng thấp hơn 18% và chi phí ròng
lũy kế thấp hơn 40% so với kịch bản tăng trưởng
thấp trong khi lượng điện gấp 2,1 lần vào năm
2035
• Tiềm năng xuất khẩu cao hơn nhiều—sang khu • Chi phí ròng lớn nếu ngành không tiến triển sau
vực Đông Á/Đông Nam Á và các khu vực khác những năm đầu
• Yêu cầu cấp bách hơn đối với Chính phủ trong
việc thực hiện cam kết quy mô lớn cho điện gió
ngoài khơi
• Trong trường hợp không có hướng dẫn và tiêu
chuẩn rõ ràng của Chính phủ cho ĐTMX, việc lựa
chọn địa điểm và phát triển các dự án ban đầu
không tốt, có thể dẫn tới các tác động bất lợi về
môi trường và xã hội làm tổn hại đến uy tín của
ngành, làm chậm tiến độ cơ hội đầu tư và triển
vọng tăng trưởng trong tương lai
Điện gió ngoài khơi đã thành công ở một số nước châu Âu (ví dụ như ở Anh, Đức, Đan Mạch và
Hà Lan) là vì các chính phủ của các nước đó đã thực hiện và duy trì được khung chính sách chiến
lược khuyến khích sự phát triển các trang trại gió ngoài khơi thông qua các đơn vị phát triển và
nhà đầu tư tư nhân, sử dụng các quy trình trong quy hoạch không gian biển để cân bằng nhu cầu
của các bên liên quan và các hạn chế về môi trường.
Các chính phủ đã nhận ra rằng nếu họ đưa ra được một khung chính sách và quy định ổn định và
hấp dẫn, với tầm nhìn tối thiểu là 10 năm tiếp theo, thì các đơn vị phát triển sẽ xây dựng được các
trang trại gió ngoài khơi cung cấp điện năng (chi phí thấp và không phát thải carbon) để tiếp sức
cho nền kinh tế.
Các khung chính sách và quy định này đã tạo ra các quy trình vững chắc, minh bạch và kịp thời
về cho thuê đáy biển và cấp phép dự án. Đồng thời, họ cũng xem xét cần đầu tư gì vào lưới điện
và cơ sở hạ tầng khác để có được một danh mục dự án tiềm năng lâu dài. Cuối cùng, họ đã hiểu
được những gì có thể làm để đảm bảo các dự án khả điện gió ngoài khơi có thể thu hút vốn cạnh
tranh bằng cách đưa ra một lộ trình ổn định và hấp dẫn cho lượng điện mà các dự án sản xuất ra.
Dựa trên kinh nghiệm ở một loạt quốc gia, Phần 6 tóm tắt những thành phần chính của một
ngành điện gió ngoài khơi thành công.
Các bước chính trong lộ trình điện gió ngoài khơi ở Việt Nam sẽ được trình bày trong các mục
dưới đây và được tóm tắt trong Hình 5.1 và Hình 5.2.
20 khuyến nghị này là chung cho cả kịch bản tăng trưởng thấp và cao. Nỗ lực của Chính Phủ để
thực hiện những khuyến nghĩ này là tương đương trong 2 kịch bản, trừ khuyến nghị 12 và 14.
Tuy nhiên, kịch bản tăng trưởng cao lớn hơn cần được thực hiện nhanh hơn và sẽ có hiệu quả cao
hơn rất nhiều.
20
Chính phủ đặt ra các mục tiêu lắp đặt điện gió ngoài khơi cho năm 2030 và 2035 phù hợp
với kịch bản tăng trưởng cao và đảm bảo tất cả các chính sách và quy định tiếp theo đều cần nhắc
tới các mục tiêu này. Tiếp theo đó, chúng tôi khuyến nghị Chính phủ theo dõi việc giảm chi phí
khi dự án được xây dựng và điều chỉnh các mục tiêu lắp đặt theo mức giảm chi phí đạt được.
Báo cáo này đã khẳng định cần phải có đầu tư quốc tế để phát triển tiềm năng điện gió ngoài
khơi tại Việt Nam. Để thực hiện được điều này, cần có một lộ trình bán điện ổn định. Chúng tôi
khuyến nghị rằng:
Chính phủ cần phát triển một quy hoạch không gian biển toàn diện và có nguồn tài nguyên tốt
cho điện gió ngoài khơi để định hướng cho các đơn vị phát triển vào những khu vực Chính phủ
muốn thấy các dự án diễn ra. Quy hoạch không gian biển sẽ cân nhắc đầu đủ các vấn đề về môi
trường và xã hội, được hướng dẫn bởi các cố vấn chiến lược và cần thu hút sự tham gia của những
đối tượng sử dụng biển khác (xem Phần 14).
Chính phủ cần thiết lập các cơ quan cho thuê và cấp phép điện gió ngoài khơi, với các quy
trình vững chắc, minh bạch và kịp thời. Các cơ quan này phải đảm bảo các thông lệ quốc tế liên
quan tới đánh giá tác động môi trường và xã hội (ĐTMX) được áp dụng và giám sát.
Các cơ quan chức năng đặc thù này cần có nguồn lực, quyền hạn và kiến thức để phối hợp tất
cả các ban ngành của chính phủ và giao tiếp với tất cả các bên liên quan. Các cơ quan này có
thể là một phần của các cơ quan hiện có nhưng phải rõ ràng để mọi người có thể nhận biết.
Cơ quan cấp phép cũng cần phải có trình độ và năng lực cần thiết để đánh giá các cân nhắc về
môi trường và xã hội.
Các quy trình cho thuê khu vực biển (đáy biển) và cấp phép cần được thiết kế sao cho đơn
giản, có hạn định về thời gian và nhất quán; những quy định này cần đưa ra các quyết định
trong một khung thời gian đã thống nhất để mang lại sự minh bạch và tự tin cho các đơn vị
phát triển và để các đơn vị phát triển duy trì được tiêu chuẩn cao về bảo vệ môi trường và xã
hội (xem Phần 12).
Nhiều thông lệ tốt từ các cơ quan chức năng ở các thị trường châu Âu có thể áp dụng được và
cần được chia sẻ với các bên liên quan và các tổ chức được tham vấn tại Việt Nam, những tổ chức
này cần có đủ nguồn lực để đảm nhận vai trò của mình.
Chính phủ xác định cách tiếp cận ưu tiên của mình trong việc đấu thầu cho thuê biển và hợp
đồng mua bán điện (có khả năng được ngân hàng bảo lãnh), thiết lập quy trình tập trung một
giai đoạn hoặc quy trình phân cấp hai giai đoạn. Đánh giá về các phương án cho thuê và cấp
phép được trình bày trong Phần 14.
5. Lộ trình điện gió ngoài khơi cho Việt Nam: những khuyến nghị của chúng tôi 21
Chính phủ thiết lập một chương trình cho đấu thầu cho thuê đáy biển để cho thuê với quy mô
đủ để thực hiện tầm nhìn cho điện gió ngoài khơi sau năm 2030. Điều này bao gồm xem xét cho
thuê theo từng giai đoạn của dự án thử nghiệm hoặc các dự án thương mại trong giai đoạn đầu
để Chính phủ, các bên liên quan và chuỗi cung ứng có được tự tin và kinh nghiệm ở quy mô nhỏ
và ít rủi ro hơn trước khi thực hiện các dự án lớn hơn. Tốc độ cho thuê hàng năm phải đạt 4 GW
mỗi năm trước năm 2025 nếu muốn đạt kịch bản tăng trưởng cao. Cần có sự phối hợp giữa các
bộ ngành của Chính phủ và chính quyền địa phương khi thực hiện cả hai kịch bản trên, đặc biệt
là trong kịch bản tăng trưởng cao.
Chính phủ cần điều chỉnh lại giá mua điện, các điều khoản và điều kiện của FIT hiện nay để
đảm bảo hợp đồng mua bán điện (PPA) có thể được bảo lãnh bởi ngân hàng. Hợp đồng mua
bán điện (PPA) cần phải khả thi về mặt tài chính cho các trang trại gió lớn ngoài khơi ở các khu
vực nước sâu hơn. Điều này giúp định hình lộ trình bán điện cho các dự án tiên phong về điện gió
ngoài khơi, giúp quy trình cấp phép được khẳng định và chuỗi cung ứng được phát triển. Giá FIT,
có khả ngày càng giảm, cần duy trì cho các dự án đến năm 2025 để chính phủ có đủ thời gian xây
dựng và thực hiện một cơ chế cạnh tranh thay thế (xem Phần 14 và 15).
Các tiêu chí về đủ điều kiện và thời gian hợp lệ áp dụng FIT, và chương trình đấu giá sau đó cần
được nêu rõ để thị trường có được tầm nhìn đầu tư, mang lại sự tin tưởng và ổn định.
Chính phủ cần giữ EVN là một đối tác PPA đáng tin cậy và và giải quyết những quan ngại về
khả năng bảo lãnh ngân hàng của các PPA do EVN cung cấp. EVN có xếp hạng tín nhiệm cao
nhưng thị trường sẽ yêu cầu các điều khoản PPA chặt chẽ hơn để có thể được ngân hàng bảo
lãnh, vì các dự án điện gió ngoài khơi có chi phí vốn và rủi ro cao hơn đáng kể so với phát điện
gió trên đất liền. Các điều khoản PPA này rất cần thiết để thu hút các nhà đầu tư và các nhà cung
cấp tín dụng quốc tế, để cung cấp đủ khối lượng tài chính và chi phí vốn thấp, điều mà các ngân
hàng trong nước không thể tự cung cấp (xem Phần 15).
Chính phủ cần khuyến khích các biện pháp tài chính khác nhau để giảm chi phí vốn cho các
dự án điện gió ngoài khơi, trong đó có sự tham gia của những tổ chức cho vay đa phương, triển
khai các cơ chế tăng cường tín dụng và áp dụng các tiêu chuẩn xanh (xem Phần 19). Chính phủ
cần tham vấn các tổ chức cho vay và các nhà đầu tư quốc tế để lấy ý kiến và xác định các giải
pháp.
Chính phủ cần yêu cầu củng cố đáng kể hệ thống truyền tải từ nam ra bắc để có thể truyền
tải được lượng điện gió ngoài khơi từ các khu vực tập trung nguồn năng lượng này ở phía nam
trung bộ đến các trung tâm dân cư ở miền Bắc. Việc nâng cấp lưới điện thực hiện quá trình đánh
giá tác động môi trường xã hội như thế nào, cấp phép, tìm nguồn tài chính và chi trả ra sao cần
phải được thể hiện rõ ràng, vì đây là tiền đề quan trọng để thể hiện sự minh bạch cho thị trường
(xem Phần 17).
Chính phủ cần xác định cách tiếp cận ưu tiên của mình đối với đầu tư truyền tải để tăng tốc
và thực hiện nâng cấp hệ thống truyền tải theo yêu cầu với chi phí tốt nhất đối với Chính phủ và
tại thời điểm các đơn vị phát triển dự án cần. Một khối lượng đầu tư lớn sẽ cần cho công việc này
nên tìm nguồn vốn cần thiết là một bước vô cùng quan trọng (xem Phần 17).
Chính phủ cần tạo điều kiện đầu tư nâng cấp cảng biển đủ để phục vụ cho sản xuất, xây dựng
và vận hành của điện gió ngoài khơi.Điều này cần được gấp rút thực hiện ở những nơi đã đặt mục
tiêu khối lượng hoặc nơi mà cơ hội cho chuỗi cung ứng trong nước đang có rủi ro (xem Phần 18).
Quy hoạch tổng thể cảng biển hiện đang trong quá trình xây dựng nên cần đưa vào xem xét cụ
thể đối với điện gió ngoài khơi.
Bằng việc cam kết khối lượng mục tiêu đầy tham vọng đối với điện gió ngoài khơi, thiết lập quy
trình toàn diện cho thuê khu vực biển và cấp phép và cung cấp lộ trình bán điện ổn định, Việt Nam
sẽ thu hút được sự quan tâm đáng kể từ cộng đồng phát triển điện gió ngoài khơi quốc tế.
Điều này sẽ dẫn đến sự phát triển và tăng trưởng của chuỗi cung ứng cho điện gió ngoài khơi,
duy trì những công việc đang cói, tạo thêm việc làm mới và dẫn đến hoạt động kinh tế có giá trị
cao tại Việt Nam.
Các cơ quan liên ngành cần phối hợp để tối đa lợi ích và phát triển năng lực cho các địa phương.
Chính phủ cần yêu cầu các đơn vị phát triển chuẩn bị kế hoạch chuỗi cung ứng trong đó có
tính đến sự tham gia của các doanh nghiệp Việt Nam, hỗ trợ phát triển kỹ nẵng của nhân công
bản địa, đổi mới sáng tạo và giảm chi phí năng lượng, mà không yêu cầu mức độ cụ thể về nội
địa hóa (xem Phần 10).
Chính phủ đào tạo, khuyến khích và tạo điều kiện để đầu tư vào chuỗi cung ứng trong nước
để xây dựng năng lực chuỗi cung ứng tại Việt Nam. Các khoản đầu tư lớn cần thiết được thảo
5. Lộ trình điện gió ngoài khơi cho Việt Nam: những khuyến nghị của chúng tôi 23
Chính phủ cần thực hiện đánh giá kỹ năng cho ngành và tạo điều kiện để thực hiện một
chương trình đào tạo và kỹ năng kịp thời cho đội ngũ lao động Việt Nam thông qua hợp tác với
các đơn vị phát triển quốc tế và các đơn vị cung cấp.
Chính phủ giải quyết các khía cạnh về môi trường kinh doanh và pháp lý tại Việt Nam hiện
đang là các rào cản đối với đầu tư từ nước ngoài.
Việc có một khung tiêu chuẩn đánh giá tác động môi trường và xã hội được công nhận rộng rãi,
quy định kỹ thuật và quy phạm thiết kế là yếu tố quan trọng để thiết lập khả năng được ngân
hàng bảo lãnh và thu hút và duy trì quan tâm và đầu tư từ thị trường. Chúng tôi khuyến nghị rằng:
Chính phủ cần xây dựng một khung và quy định về đánh giá tác động môi trường và xã hội
đối với điện gió ngoài khơi, đáp ứng yêu cầu của các thông lệ quốc tế (xem Phần 13).
Chính phủ cần xây dựng một khung rõ ràng các tiêu chuẩn và luật pháp về an toàn và sức
khỏe lao động, kết hợp với quy tắc tốt trong ngành dầu khí và các quy tắc về an toàn lao động
trong lĩnh vực điện gió ngoài khơi ở các nước phát triển khác (xem Phần 16).
Chính phủ cần thiết lập một khung các quy chuẩn và quy định kỹ thuật, bao gồm các tiêu
chuẩn thiết kế trang trại gió và các quy chuẩn tuân thủ của lưới điện.
Kịch bản tăng trưởng thấp Giai đoạn 1: Khởi đầu Giai đoạn 2: Công nghiệp hóa Giai đoạn 3: Đầy đủ khả năng Giai đoạn 4: Xây dựng ổn định
Khởi động Tăng gấp rưỡi số lượng lắp đặt tuabin/năm Tăng gấp đôi số lượng lắp đặt tuabin/năm Duy trì tốc độ lắp đặt tối đa
Cho phép các dự án đầu tiên phát triển Dự án móng cố định lớn đầu tiên bắt đầu Tăng tốc xuất khẩu Tăng khối lượng móng nổi
Thiết lập khung và quy định Chuyển từ FIT sang đấu giá Dự án móng nổi lớn đầu tiên Giảm khối lượng móng cố định
Giáo dục các bên liên quan Phát triển nền tảng kỹ năng và công nghiệp Các dự án vùng bãi triều cuối cùng được xây dựng
Bắt đầu nâng cấp đường truyền điện Thực hiện nâng cấp đường truyền
2020 2021 2022 2023 2024 2025 2026 2027 2028 2029 2030 2031 2032 2033 2034 2035 2040 2045 2050
Tỷ lệ lắp đặt tuabin gió hàng năm (GW/năm) 0.1 0.4 0.1 0.3 0.4 0.4 0.5 0.5 0.6 0.7 0.8 0.9 1.0 1.1 1.3 1.4 1.6 1.6 1.6
Công suất hoạt động cộng dồn (cuối năm) (GW) 0.2 0.7 0.8 1.1 1.5 1.9 2.4 2.9 3.5 4.2 5.0 5.9 6.9 8.0 9.2 11 19 27 35
Tầm nhìn và mục tiêu về khối lượng
1. Công bố tầm nhìn về điện gió ngoài khơi đến năm 2050
2. Đặt mục tiêu lắp đặt điện gió ngoài khơi đến năm 2030 và 2035
Cho thuê, cấp phép và mua bán điện
3. Xây dựng quy hoạch không gian biển cho điện gió ngoài khơi
4. Tạo cơ quan cho thuê và cấp phép
5. Xác định cách tiếp cận ưu tiên đối với việc thuê đáy biển và mua điện
6. Dần chuyển đổi sang cơ chế cạnh tranh cho điện gió ngoài khơi
7. Xây dựng chương trình cho đấu thầu đáy biển (GW theo từng thời kỳ) 1 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 10 10
8. Sửa đổi các điều khoản và điều kiện của FIT, kéo dài đến năm 2025
Tài chính dự án
9. Đảm bảo khả năng được ngân hàng bảo lãnh của các thỏa thuận PPA
trong tương lai
10. Khuyến khích các cơ chế tài chính để giảm chi phí vốn
Cơ sở hạ tầng truyền tải và cảng biển
11. Củng cố đáng kể hệ thống truyền tải điện
12. Xác định cách tiếp cận về đầu tư cho truyền tải điện
13. Tạo điều kiện đầu tư vào các công trình cảng
Phát triển chuỗi cung ứng
14. Chuẩn bị kế hoạch chuỗi cung ứng và hướng dẫn tỷ lệ nội địa hóa
15. Cho phép đầu tư vào các doanh nghiệp của chuỗi cung ứng địa phương
16. Thực hiện đánh giá về kỹ năng và đào tạo
17. Giải quyết các rào cản đối với đầu tư từ nước ngoài
Tiêu chuẩn và quy định
18. Tạo khung đánh giá tác động môi trường và xã hội
19. Tạo khung quy định cho an toàn lao động cho điện gió ngoài khơi
20. Tạo khung quy chuẩn và quy định kỹ thuật
5. Lộ trình điện gió ngoài khơi cho Việt Nam: những khuyến nghị của chúng tôi 25
6/3/21 8:54 AM
Hình 5.2: Lộ trình kịch bản tăng trưởng cao cho điện gió ngoài khơi ở Việt Nam
Kịch bản tăng trưởng cao Giai đoạn 1: Khởi đầu Giai đoạn 2: Công nghiệp hóa Giai đoạn 3: Đầy đủ khả năng Giai đoạn 4: Xây dựng ổn định
Khởi động Tăng gấp rưỡi số lượng lắp đặt tuabin/năm Tăng gấp đôi số lượng lắp đặt tuabin/năm Duy trì tốc độ lắp đặt tối đa
Cho phép các dự án đầu tiên phát triển Dự án móng cố định lớn đầu tiên bắt đầu Tăng tốc xuất khẩu Tăng khối lượng móng nổi
Thiết lập khung và quy định Chuyển từ FIT sang đấu giá Dự án móng nổi lớn đầu tiên Giảm khối lượng móng cố định
Giáo dục các bên liên quan Phát triển nền tảng kỹ năng và công nghiệp Các dự án vùng bãi triều cuối cùng được xây dựng
Bắt đầu nâng cấp đường truyền điện Thực hiện nâng cấp đường truyền
Bắt đầu nâng cấp cảng Hoàn thành nâng cấp cảng
6/3/21 8:54 AM
Thông tin hỗ trợ
27
Dựa vào kinh nghiệm của nhiều quốc gia, phần này tóm tắt các thành phần chính cho một ngành
điện gió ngoài khơi thành công.
6.1 Chính sách ổn định và danh mục rõ ràng các dự án tiềm năng
Các khu vực cho thuê biển đủ nhiều và hấp dẫn để phát triển
Các đơn vị phát triển dự án điện gió ngoài khơi và chuỗi cung ứng cần có niềm tin vào một danh
mục dự án tiềm năng đủ lớn và rõ ràng để có thể cam kết vào cho đầu tư, liên tục nâng cao năng
lực và cạnh tranh.
Các hợp đồng cho thuê được phân bổ cũng cần phải minh bạch, vững chắc và có khả năng được
ngân hàng bảo lãnh, có như vậy các đơn vị phát triển mới có thể tự tin đầu tư ở giai đoạn đầu.
Việt Nam có nguồn năng lượng gió dồi dào, hấp dẫn và đang thiết lập một danh mục dự án tiềm
năng khoảng 4 GW mỗi năm được cho thuê vào trước năm 2025 để có thể lắp đặt 3 GW mỗi năm
trước năm 2030. Cùng với các cơ hội xuất khẩu, quy mô thị trường này sẽ giúp Việt Nam có vai trò
hàng đầu ở thị trường khu vực.
Phân kỳ các hoạt động chính được trình bày trong Hình 6.1. Biểu đồ này đã tính cả mức độ suy
hao thực tế, trong đó các dự án bị chậm trễ, thay đổi quy mô hoặc thất bại vì lý do môi trường, kỹ
thuật hay thương mại. Con số này có tính chất chỉ báo, không phản ánh đầy đủ danh mục các dự
án tiềm năng đã có ở mức độ được cho thuê hoặc chấp thuận. Tuy nhiên, điều này cho thấy đạt
được tốc độ cho thuê 4 GW mỗi năm là một hoạt động cấp bách nếu Việt Nam đi theo kịch bản
tăng trưởng cao.
Biểu đồ dựa trên các mốc thời gian dự án điển hình như sau:
Chính phủ có khả năng thay đổi một số điểm trong kế hoạch này, và tốc độ chung có thể tăng lên
theo thời gian.
Khuyến nghị 1, 2 và 8 của chúng tôi liên quan đến điểm này.
28
0
2020 2025 2030 2035 2040 2045 2050
Khuyến nghị 3, 4 và 18 của chúng tôi liên quan đến điểm này.
Chế độ giảm rủi ro biến động giá điện dài hạn cho các đơn vị
phát triển
Chủ đầu tư các trang trại gió ngoài khơi phải đối mặt với rủi ro lớn trong phát triển và xây dựng
dự án và các rủi ro tiếp diễn liên quan đến tốc độ gió và hiệu suất dự án. Các rủi ro bổ sung do
cắt giảm lưới điện và giá bán điện thay đổi phát sinh thêm chi phí tài chính cho các dự án, dẫn
tới tăng chi phí đối với người tiêu dùng. Cũng có những rủi ro liên quan đến thay đổi hồi cứu đối
với giá điện. Các nước có tốc độ phát triển dự án nhanh đã quản lý rủi ro này thông qua các hợp
đồng vững chắc, được chính phủ bảo đảm và chính sách ổn định. Ở một số thị trường, những
điều này không có nhiều vai trò đối với giá điện bán buôn biến đổi.
Các khuyến nghị 7, 8, 9 và 10 của chúng tôi liên quan tới điều này.
Các khuyến nghị 9 và 16 của chúng tôi liên quan đến điều này.
29
Áp lực giảm chi phí quá lớn mà không quan tâm đến lợi ích của chuỗi cung ứng trong nước sẽ
dễ khiến đầu tư trong nước quá ít. Ngược lại, yêu cầu quá cao đối với tỷ lệ nội địa hóa sản xuất sẽ
làm tăng chi phí và dẫn đến tăng trưởng thị trường chậm, cản trở việc tạo ra việc làm trong nước.
Một chiến lược ngành tốt là phải cân bằng chi phí đối với người tiêu dùng và tạo ra việc làm.
Ngành công nghiệp điện gió ngoài khơi có thể giúp Chính phủ tìm ra những cách tối ưu để đạt
được các mục tiêu này.
Điện gió ngoài khơi cần phải đầu tư vào các cơ sở hạ tầng mới để tối đa hóa hiệu quả. Cả ngành
và Chính phủ cần làm việc cùng nhau để thỏa thuận về những gì cần phải làm và cách thức tài trợ
cho những công việc đó.
Điều kiện cụ thể về địa điểm đặt trang trại gió và năng lực nghiên cứu và phát triển (R&D) tại mỗi
quốc gia cũng dẫn tới các cơ hội giảm chi phí năng lượng nhờ đổi mới sáng tạo. Ở khu vực Đông/
Đông Nam Á, ngành điện gió ngoài khơi đang phải đối mặt với những thách thức mới do động
đất, sóng thần, bão và các điều kiện mặt bằng khác so với ở châu Âu. Khi ngành này phát triển, sẽ
tiếp tục có những lĩnh vực mới mà nếu có hỗ trợ R&D của chính phủ, nó sẽ vừa giúp giảm chi phí
năng lượng vừa tạo ra giá trị trong nước.
Khuyến nghị 13 và 14 của chúng tôi liên quan đến điểm này.
■ Đầu tư ở ngoài khơi có thể không hiệu quả, với mỗi dự án xây dựng phải hệ thống truyền tải
riêng kết nối vào bờ, ngay cả khi nằm gần các dự án khác mà lẽ ra có thể chia sẻ cơ sở hạ tầng.
■ Có thể xảy ra chậm trễ trên bờ do việc củng cố lưới truyền tải cho từng dự án cụ thể để truyền
tải điện năng trên toàn quốc cần có thời gian xây dựng dài.
Phần 17 cho thấy cần phải đầu tư khá lớn vào hệ thống truyền tải điện. Thiết kế, đầu tư và xây dựng
thêm hệ thống truyền tải mới là một dự án dài hạn và cần được bắt đầu như một hạng mục ưu tiên.
Khuyến nghị 11 của chúng tôi liên quan đến điều này.
Trong hầu hết các trường hợp, các công ty và dự án khác nhau sẽ sử dụng chung một hạ tầng cảng
trong nhiều năm. Phần 18 cho thấy Việt Nam có đủ cơ sở hạ tầng cảng biển có thể đáp ứng yêu cầu của
các dự án điện gió ngoài khơi hiện tại và tương lai, hầu hết trong số đó chỉ cần đầu tư nâng cấp nhỏ.
Khuyến nghị 12 của chúng tôi liên quan đến điều này.
Tiêu chuẩn
Có một khung pháp lý được công nhận rộng rãi về quy định kỹ thuật và quy phạm thiết kế là một
yếu tố quan trọng trong việc thiết lập khả năng được ngân hàng bảo lãnh, thu hút và duy trì lợi ích
quốc tế trên thị trường, bảo vệ môi trường và giữ an toàn cho người lao động.
Cần tìm cách cân bằng giữa việc điều chỉnh các tiêu chuẩn quốc gia hiện có liên quan đến các
ngành công nghiệp khác và áp dụng những thông lệ quốc tế tốt về điện gió ngoài khơi, giúp
giảm rủi ro và chi phí cho các công ty quốc tế khi cung cấp cho Việt Nam.
Khuyến nghị 17 và 18 của chúng tôi liên quan đến điều này
Việt Nam có thể giải quyết vấn đề này bằng cách đảm bảo cho các cơ quan nhà nước có các kỹ
năng và nguồn lực cần thiết để đưa ra các quyết định vững chắc và kịp thời.
Các cơ quan này sẽ tham gia quản lý môi trường, cho thuê địa điểm, cấp phép và cung cấp các
cơ chế hỗ trợ thị trường. Khi được cung cấp đầy đủ nguồn lực, các cơ quan này sẽ tạo ra một môi
trường mang lại niềm tin cho ngành có thể đưa ra các quyết định kinh doanh; và chính phủ có thể
lập kế hoạch chi tiêu và có niềm tin là chính phủ đang đạt được các mục tiêu chính sách của mình.
Không chỉ các tổ chức trực tiếp tham gia hỗ trợ ngành điện gió ngoài khơi mới cần được trang bị
nguồn lực. Các trang trại gió ngoài khơi còn có tác động tới các đơn vị quân sự và hàng không và
các cơ quan bảo vệ môi trường.
Nhân viên cần được đào tạo để sử dụng kiến thức và thực hiện các thông lệ tốt học được ở những
nơi khác trên thế giới trong 20 năm qua của ngành điện gió ngoài khơi.
6. Các thành phần chính để ngành điện gió ngoài khơi thành công 31
Khi có môi trường cạnh tranh tốt với đủ số lượng địa điểm dự án và hợp đồng mua bán điện (PPA)
thì các dự án tốt nhất sẽ được xây dựng và mang lại giá trị tốt nhất. Khuyến nghị 6 và 7 của chúng
tôi liên quan đến điểm này.
Khối lượng
Với kịch bản thấp, khối lượng hàng năm cuối cùng sẽ đạt 1,6 GW với khoảng 100 tuabin và móng
cần lắp đặt. Kịch bản cao đạt gấp đôi mức khối lượng này.
Phân tích trước đây12 với Hình 6.2 từ báo cáo được trình bày lại ở đây cho thấy các cơ sở cần sản
xuất khoảng 100 đơn vị mỗi năm để đạt được mức cạnh tranh quốc tế hiệu quả tốt. Sau một thời
gian ngành phát triển, khối lượng này sẽ tăng dần lên.
Tương tự, đối với một lĩnh vực cung ứng nhất định cần đầu tư đáng kể, số lượng tối ưu các đơn vị
cung cấp thường từ 3 đến 4 đơn vị.
Mặc dù xuất phát từ thị trường khác nhưng nguyên tắc và xu hướng này vẫn được áp dụng.
Hình 6.2: Tác động tương đối của số lượng đơn vị cung cấp tuabin đến chi phí điện
ở thị trường châu Âu, với tốc độ triển khai trung bình hàng năm từ 3,5 GW (2015).13
0
Giảm LCOE (%)
–1
–2
–3
–4
1 2 3 4 5 6
Số lượng nhà cung cấp
Nguồn: Reproduced from Approaches to cost-reduction in offshore wind. BVG Associates for the Committee on Climate
Change, June 2015.
Chúng tôi dự báo rằng vào năm 2030, thị trường Đông/ Đông Nam Á có thể sẽ đạt hơn 10 GW
mỗi năm.
Việt Nam có thị trường trong nước 3 GW mỗi năm và là một đối tác tham gia tích cực trong thị
trường khu vực tạo cơ hội cho các đơn vị cung cấp trong nước cung cấp cho các dự án Việt Nam
và xuất khẩu, cũng như thúc đẩy cạnh tranh cần thiết để giảm chi phí điện. Khuyến nghị của 1 và 2
chúng tôi liên quan đến điều này.
Chính phủ có thể cung cấp một kênh quan trọng cho những tiếng nói này và ngành sẽ lắng nghe.
Chính phủ và các tổ chức cấp phép khác cũng có thể nâng cao nhận thức cho người dân về lợi ích
của điện gió ngoài khơi, bao gồm các lợi ích môi trường, tạo ra việc làm và phát triển kinh tế địa
phương.
Quá trình tham gia của cộng chúng và các bên liên quan, ví dụ với các cộng đồng đánh cá, có thể
bắt đầu sớm hơn nhiều so với phát triển dự án và tốt nhất là phù hợp với quy hoạch không gian
biển.
Ngành điện gió ngoài khơi bảo vệ an toàn lao động cho công nhân của mình bằng cách phải
“làm đúng ngay từ đầu”—mục đích là dự báo những sai lầm thay vì chỉ rút kinh nghiệm sau khi sai
lẩm đã xảy ra.
Việt Nam có nền tảng để phát triển từ kinh nghiệm trong ngành công nghiệp dầu khí ngoài khơi.
Điều quan trọng là phải đảm bảo sự giao tiếp và hợp tác mạnh mẽ trong toàn ngành. Tổ chức An
toàn và Sức khỏe ngành điện gió ngoài khơi toàn cầu (G+) có một nhóm đầu mối ở châu Á-Thái
Bình Dương (APAC). Tổ chức Gió toàn cầu (GWO) đã cung cấp bộ khung về việc đào tạo và
chứng nhận an toàn lao động trong ngành điện gió ngoài khơi.
6. Các thành phần chính để ngành điện gió ngoài khơi thành công 33
Việt Nam cần tập trung phát triển một khuôn khổ toàn diện về quy hoạch không gian biển để đạt
được sự cân bằng nói trên và đưa ra định hướng rõ ràng cho các đơn vị phát triển dự án và nhà
đầu tư, những người phát triển điện gió ngoài khơi một cách có trách nhiệm và tôn trọng sẽ được
hoan nghênh và khuyến khích.
Chi phí điện từ các trang trại gió ngoài khơi thay đổi theo vị trí, tùy thuộc vào các yếu tố bao gồm
điều kiện gió và đáy biển, độ sâu của nước và khoảng cách từ bờ.
Bằng cách tập trung vào phát triển bền vững các địa điểm có chi phí thấp nhất, Việt Nam có thể
đảm bảo rằng điện gió ngoài khơi là một lựa chọn hợp lý cho người dân, doanh nghiệp và các
ngành công nghiệp.
Điện gió ngoài khơi là một ngành phát triển nhanh chóng, được đổi mới liên tục dẫn tới giảm chi
phí năng lượng một cách đều đặn. Kinh nghiệm ở các thị trường điện gió ngoài khơi khác cho
thấy ngành sẽ đạt được mức giảm chi phí tốt nhất trong môi trường cạnh tranh, khi chính phủ đưa
ra hướng dẫn rõ ràng về địa điểm nhằm bảo vệ lợi ích của môi trường và cộng đồng.
Việt Nam đã có dự án điện gió gần bờ đang vận hành và một danh sách các dự án tiềm năng.
Phát triển nguồn năng lượng này một cách trách nhiệm và bền vững là một điều cần làm do
những hạn chế sử dụng đất ở Việt Nam. Quy mô của các dự án này sẽ ở mức khá nhỏ. Thêm vào
đó, một số dự án điện gió gần bờ có thể không được thực hiện do rủi ro cao về tác động xấu đối
với môi trường và xã hội trong khu vực.
Các trang trại gió ngoài khơi lớn hơn, sử dụng các tuabin ngoài khơi lớn nhất hiện có, rốt cục sẽ
trở thành hình thức chủ yếu của điện gió ngoài khơi ở Việt Nam, đầu tiên là loại móng cố định,
sau đó đến loại móng nổi, do có quy mô và cuối cùng là chi phí thấp hơn.
Khuyến nghị 3 và 4 của chúng tôi liên quan đến điều này.
Tuy nhiên, điều quan trọng là phải thừa nhận là các trang trại gió ngoài khơi là các dự án công
nghiệp lớn; và xây dựng chúng cần thực hiện theo cách giảm thiểu tối đa tác động cục bộ có hại
Hình 6.3 cho thấy một số hạn chế về môi trường, xã hội và kỹ thuật cần được xem xét khi lập kế
hoạch bố trí và phát triển các dự án gió ngoài khơi. Các tập dữ liệu không gian có trong bản đồ
này được tóm tắt trong Phần 20 (Xem Bảng 20.2 trong Phần 20.3) cùng với phương pháp luận
được sử dụng.
Chính phủ cần thực hiện một quy trình cấp phép vững chắc trong đó thiết kế, xây dựng và vận
hành các trang trại gió ngoài khơi phải được thực hiện theo các tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế tốt
của ngành, bao gồm cả những tiêu chuẩn và thông lệ đối với ĐTMX.
Khuyến nghị 3 và 4 của chúng tôi liên quan đến điều này.
Các trang trại gió ngoài khơi ở Việt Nam phải cân nhắc đến sinh kế của người dân, với các sở thích
giải trí và di sản văn hóa của họ.
Khuyến nghị 3 và 4 của chúng tôi liên quan đến điều này.
Mặc dù công trình đã xem xét các yếu tố kỹ thuật, kinh tế và môi trường ảnh hưởng đến việc bố trí
các trang trại gió ngoài khơi, các tác động tiêu cực đến môi trường và xã hội liên quan đến các dự
án điện gió gần bờ vẫn chưa được đề cập đầy đủ.
6. Các thành phần chính để ngành điện gió ngoài khơi thành công 35
■ Trong nước: Sau khi được lắp đặt, quốc gia đó không còn phụ thuộc vào nhiên liệu nhập
khẩu từ các nước khác, do đó tăng cường an ninh năng lượng.
■ Chi phí thấp: Chi phí trên toàn bộ vòng đời vẫn đang giảm xuống nhanh chóng, trong khi
đối với các phương án nhiên liệu hóa thạch truyền thống, chi phí lại đang tăng lên. Tài trợ cho
các dự án điện gió ngoài khơi trở nên dễ dàng hơn và đồng thời, tài trợ cho sản xuất điện từ
nhiên liệu hóa thạch trở nên khó khăn hơn.
■ Quy mô lớn: Các dự án với quy mô GW có thể được xây dựng nhanh chóng.
■ Tạo việc làm dài hạn: Cả trong giai đoạn xây dựng và vận hành, điện gió ngoài khơi tạo ra và
duy trì việc làm trong nước và lợi ích kinh tế địa phương, đặc biệt là ở các vùng ven biển.
■ Sạch: Điện gió ngoài khơi ít phát thải carbon, ít gây ô nhiễm không khí, sử dụng nước và đất
rất thấp.
Trong nước
Hiện nay, nguồn cung cấp điện của Việt Nam chủ yếu từ than, khí đốt và thủy điện, như trong
Hình 7.1. Theo kế hoạch, nhu cầu trong tương lai được đáp ứng bằng tăng công suất điện than,
điện gió và điện mặt trời,15 trong khi tăng thêm nguồn cung từ thủy điện lớn có rất ít cơ hội.
Mặc dù chủ yếu sử dụng tài nguyên thiên nhiên trong nước để sản xuất điện từ khí đốt và thủy
điện, Việt Nam ngày càng nhập khẩu nhiều than từ Úc, Trung Quốc và Nga. Nhập khẩu dự kiến sẽ
đạt 70% vào năm 2030. Điện gió ngoài khơi, cùng với điện gió trên bờ và điện mặt trời, mang lại
sự độc lập hơn về năng lượng, tăng cường an ninh năng lượng cho nguồn cung và cải thiện cán
cân thương mại của Việt Nam.
37
30
10
0
1990 1995 2000 2005 2010 2015 2017
Nguồn: Thông tu quan Năng lượng Quốc tế, https://www.iea.org/country/viet-nam, truy cập lần cuối vào tháng 11 năm 2020.
Hôp 7.1
·
Giải thích Hình 3.3 và Hình 4.2: LCOE và chi phí ròng lũy kế của
điện gió ngoài khơi
Các cột màu xanh thể hiện chi phí điện quy dẫn (LCOE) của điện gió ngoài khơi được lắp đặt trong
một năm cụ thể, giả định là không đổi trong vòng đời trang trại là 25 năm. Các cột màu xám thể hiện
chi phí điện bình quân hàng năm của công nghệ truyền thống vận hành trong năm đó, giả định là
tăng chậm theo thời gian do lạm phát giá nhiên liệu và các biện pháp giảm phát thải carbon khác. Chi
phí của điện gió ngoài khơi trong một năm bất kỳ được tính từ các dự án triển khai sớm có chi phí cao
và các dự án sau này có chi phí thấp hơn. Chi phí điện của một dự án điện gió ngoài khơi được tính là
không đổi trong suốt vòng đời của nó. Chi phí của công nghệ truyền thống chịu tác động nhiều hơn
bởi giá nhiên liệu, do đó chi phí trong một năm nhất định được giả định là giống nhau cho toàn bộ
sản lượng.17 Đường màu đen là chi phí ròng lũy kế của điện gió ngoài khơi từ năm 2020.
Trong ví dụ này, chi phí ròng đối với người tiêu dùng vào năm 2035 là 1,9 tỷ USD.18 Chi phí này được
trả hết vào năm 2036.19
Lạm phát giá nhiên liệu và các biện pháp giảm phát thải carbon khác được tính gần đúng.20, 21 Nếu
lạm phát của các công nghệ truyền thống giảm từ 2% xuống 1%, thì lúc đó trong các kịch bản cao
(thấp), chi phí ròng tối đa sẽ là 7,3 tỷ US$ (7,0 tỷ US$), chi phí ròng vào năm 2035 sẽ là 6,6 tỷ US$
(6,9 tỷ US$) và chi phí này sẽ được trả hết vào năm 2039 (2043).
Quy mô lớn
Các dự án điện gió ngoài khơi ở các thị trường trưởng thành thường có công suất từ 0,5 GW đến
1,5 GW. Năm ngoái, các giai đoạn đầu dự án Dogger Bank ở Anh được phát triển đã giành được
các hợp đồng mua bán điện với tổng khối lượng 3,6 GW. Tuabin gió ngoài khơi công suất lớn hơn
Sạch
Điện gió ngoài khơi ít phát thải khí carbon và các ô nhiễm khác và sử dụng ít nước và đất hơn so
với các nguồn điện từ hạt nhân và nhiên liệu hóa thạch.
Carbon
Nhiên liệu hóa thạch giải phóng trung bình 500 tấn carbon (CO2) trên mỗi GWh điện được sản
xuất ra.22, 23 Trong kịch bản tăng trưởng cao, đến năm 2035, điện gió ngoài khơi sẽ sản xuất ra
hơn 430 TWh, tiết kiệm được khoảng 220 triệu tấn CO2, lũy kế. Trong kịch bản thấp, con số này
chỉ hơn 100 triệu tấn. Một trang trại gió 1 GW điển hình tiết kiệm hơn 2,2 triệu tấn CO2 mỗi năm.
Tại Việt Nam, lượng phát thải từ than có thể cao hơn ít nhất 60% so với mức nêu ở trên, với lượng
phát thải từ than giảm từ mức hơn 1000 tấn CO2 trên một GWh năm 2010,24 mức tiết kiệm này
còn cao hơn.
Phân tích của Siemens Gamesa Renewable Energy cho thấy một trang trại gió ngoài khơi hoàn trả
được lượng carbon phát thải trong quá trình xây dựng trong vòng 7,4 tháng kể từ khi bắt đầu vận
hành. Tuổi thọ của một trang trại gió ngoài khơi có thể là 25 năm hoặc cao hơn.25
Ô nhiễm
Sulphur dioxide (SO2) và nitrogen oxides (NOx) là những tác nhân gây ô nhiễm được biết đến với
việc tạo ra khói bụi và kích hoạt hen suyễn.
Nhiên liệu hóa thạch phát thải bình quân 1,1 tấn SO2 và 0,7 tấn NOx trên mỗi GWh điện sản
xuất ra.26 Trong kịch bản tăng trưởng cao, điện gió ngoài khơi tiết kiệm 480.000 tấn SO2 và
300.000 tấn NOx, lũy kế vào năm 2035.
Hiệp hội Năng lượng gió Hoa Kỳ ước tính giảm ô nhiễm không khí sẽ tiết kiệm được 9,4 tỷ US$
cho sức khỏe cộng đồng vào năm 2018 từ 96 GW điện gió trên bờ sản xuất ra trong năm đó.27
Nước
Các nhà máy nhiệt điện cần nước để sản xuất điện và làm mát thiết bị tạo ra năng lượng.
Nhiên liệu hóa thạch tiêu thụ bình quân 15 triệu lít nước cho mỗi GWh.28 Các trang trại gió cần
rất ít nước. Trong kịch bản tăng trưởng cao, điện gió ngoài khơi tiết kiệm 6,5 nghìn tỷ lít nước vào
năm 2035, với trang trại gió 1 GW tiết kiệm 65 tỷ lít nước mỗi năm.
Đất
Các dự án năng lượng tái tạo trên bờ thường bị hạn chế do mật độ dân số địa phương và cạnh
tranh trong sử dụng đất. Dấu ấn trên bờ của điện gió ngoài khơi được giới hạn ở cơ sở hạ tầng
7. Lợi ích và thách thức của điện gió ngoài khơi 39
Trong các thị trường trưởng thành, dự báo cho vài ngày tới là tương đối chính xác, nhưng dự báo
về sản lượng điện vẫn cần các tác động từ phía cung hoặc phía cầu để đảm bảo cung cấp điện
được liên tục.
Đầu tư vào quá trình chuyển đổi năng lượng chắc chắn liên quan đến đầu tư vào công nghệ lưới
điện thông minh, các nguồn điện linh hoạt và các giải pháp lưu trữ và quản lý năng lượng.
Công nghệ
Việc tIếp tục giảm chi phí điện từ điện gió ngoài khơi ở Việt Nam phụ thuộc vào sự phát triển và
hỗ trợ từ công nghệ mới, cụ thể là:
■ Tuabin ngoài khơi lớn hơn với rôto được thiết kế cho các vị trí có tốc độ gió thấp hơn, cộng
với tất cả các công tác hậu cần và thiết bị liên quan đến việc sử dụng chúng. Chúng ta vẫn
chưa chắc chắn là những tuabin này sẽ được phát triển hay không.
■ Giải pháp để giải quyết các điều kiện cụ thể của khu vực, trong đó có bão nhiệt đới.
■ Cải tiến liên tục trong sản xuất, lắp đặt, vận hành và độ tin cậy của các trang trại gió ngoài khơi.
Hai ý đầu tiên liên quan cụ thể đến thị trường Đông Á; ý cuối cùng áp dụng cho điện gió ngoài
khơi trên toàn cầu.
Ngoài ra, hiện vẫn còn một rủi ro lỗi về chủng loại gây ra vấn đề đáng kể đối với độ tin cậy, đặc
biệt là khi các tuabin gió ngoài khơi kết hợp một loạt công nghệ ở quy mô lớn nhất mà nó sử
dụng về khối lượng, trên toàn cầu.
Ở các thị trường mới, không phải tất cả đều giảm được chi phí, vì chuỗi cung ứng và kinh nghiệm
cần có thời gian để phát triển và các giải pháp cho các thách thức cụ thể của từng quốc gia cần
có thời gian xây dựng.
Điều này có nghĩa là, như thể hiện trong Mục 9.3, chi phí khi bắt đầu sẽ cao hơn nhưng giảm
xuống nhanh hơn so với tốc độ giảm ở một thị trường đã được thiết lập.
Phân tích của chúng tôi cho thấy: vượt qua giai đoạn chi phí cao này theo kịch bản thị trường cao
có chi phí ròng trên một MWh đối với người tiêu dùng thấp hơn so với kịch bản thị trường thấp,
nhưng trong mỗi trường hợp, vẫn có chi phí ròng lũy kế tối đa khoảng 5 tỷ US$. Điều này chuyển
thành lợi ích ròng vào những năm 2030 trong cả hai trường hợp nhưng điều quan trọng là phải
nhận biết được chi phí này.
7. Lợi ích và thách thức của điện gió ngoài khơi 41
Trong các thị trường điện gió ngoài khơi trưởng thành, quy trình ĐTMX vững chắc và mức độ
tham gia cao của các bên liên quan được sử dụng để đảm bảo những tác động này được nhận
diện và quản lý. Điều này đòi hỏi phải thu thập khối lượng đáng kể dữ liệu nền cơ sở về môi
trường và xã hội mà việc thu thấp một số dữ liệu trong số đó có thể mất hai năm hoặc nhiều hơn.
Yêu cầu thu thập dữ liệu này cần được đưa vào trong các bước về cấp phép để có đủ thời gian
cho thu thập dữ liệu trước khi xây dựng.
Hình 8.1: Vị trí của Việt Nam trong 12 quốc gia hàng đầu về điện gió ngoài khơi
trên toàn cầu
100.00
Công suất vận hành điện gió ngoài khơi (GW)
10.0
1.0
0.10
0.01
K
ức
Bi
am
ản
n
an
n
uố
uố
La
La
iể
ạc
U
tB
Lo
N
M
Q
ần
à
hậ
H
ụy
ệt
ài
an
g
àn
Ph
Đ
Vi
un
N
Th
Đ
H
Tr
Dựa vào học hỏi từ các quốc gia đang tiến xa hơn trong điện gió ngoài khơi, có một số yếu tố
chính để tối đa hóa lợi ích. Các yếu tố này được khảo sát dưới đây, bao gồm cả đánh giá của
chúng tôi về các cơ hội và điều kiện tiên quyết cụ thể để Việt Nam hiện thực hóa các cơ hội này.
Chúng tôi khuyến nghị các hành động chính trong Phần 2.5.
8.2 Tầm nhìn điện gió ngoài khơi đến năm 2050
Phát triển một dự án điện gió ngoài khơi là đầu tư cơ sở hạ tầng dài hạn. Phát triển một chương
trình quốc gia gồm nhiều dự án cần được xem xét trong bối cảnh quy hoạch chiến lược năng
lượng trong nhiều thập kỷ.
Việt Nam có thể tăng tốc các dự án điện gió ngoài khơi nhanh chóng trong vài năm tới. Thành
công của việc tăng tốc này phụ thuộc vào sự rõ ràng trong tham vọng dài hạn của Chính phủ và
các hành động mà Chính phủ thực hiện để tạo điều kiện tăng trưởng.
43
Nhu cầu được thiết lập bằng cách kết hợp dự báo dân số của Ngân hàng Thế giới,dân số
Việt Nam sẽ tăng lên 110 triệu vào năm 2050 với số liệu thống kê sử dụng điện bình quân đầu
người từ Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA), bắt đầu từ 1,9 MWh mỗi năm vào năm 2017 và theo
đường cong tăng trưởng lên 10 MWh mỗi năm vào năm 2050.29, 30, 31
Bảng 8.1: Điện từ nguồn điện gió ngoài khơi đến năm 2050 trong kịch bản tăng
trưởng cao
Việt đạt đến công suất 70 GW này là thoải mái theo quan điểm công bố trước đây của Ngân hàng
Thế giới về tiềm năng kỹ thuật của điện gió ngoài khơi tại Việt Nam: 599 GW, trong đó có 261 GW
móng cố định và 338 GW móng nổi.32 Tiềm năng kỹ thuật này không tính đến các hạn chế về môi
trường và xã hội và bao gồm tất cả các vị trí có tốc độ gió trên 7 m/giây ở độ cao 100 m, độ sâu
nhỏ hơn 1,000 m và quy mô tối thiểu 10 km2.
70 GW này cũng ít hơn 160 GW tiềm năng kỹ thuật được sàng lọc gần đây theo DEA.33
Dựa vào hiểu biết của chúng tôi về các hạn chế kinh tế và xã hội và nhu cầu trong tương lai,
chúng tôi tin rằng đưa ra 70 GW là một tầm nhìn cân bằng và thực tế đối với điện gió ngoài khơi ở
Việt Nam vào năm 2050.
Với các nguồn tài nguyên tái tạo khác của Việt Nam, điện gió ngoài khơi có thể giúp Việt Nam tiến
một bước lớn trong việc giảm phát thải khí cacbon cho ngành điện, khi Việt Nam tiếp tục phát
triển kinh tế và chuyển sang một tương lai không phát thải khí carbon và đáp ứng các nghĩa vụ
quốc tế. Sản lượng điện 27% là thấp hơn một chút so với tầm nhìn của Wind Europe đối với toàn
bộ châu Âu vào năm 2050.34
Chúng tôi nhận ra rằng chuyển đổi năng lượng sẽ liên quan đến các lĩnh vực khác ngoài điện. Có
rất nhiều công việc đang được tiến hành để khảo sát sự phối hợp giữa điện gió ngoài khơi và sản
Mặc dù vẫn còn nhiều bất trắc, giả định tăng trưởng của điện gió ngoài khơi theo xu hướng trong
Hình 8.2 là hợp lý, khi đó Việt Nam là một trong những thị trường lớn nhất, sau Trung Quốc.
Hình 8.2: Dự báo tương đối về công suất điện gió ngoài khơi lũy kế trong kịch bản tăng
trưởng cao ở Việt Nam và phần còn lại của Đông và Đông Nam Á vào cuối năm 2030,
2040 và 2050
300
Công suất vận hành điện gió ngoài khơi (GW)
200
100
0
c
ản
am
es
ác
uố
uố
oa
in
Kh
tB
tN
Q
pp
hậ
ài
ệ
ng
àn
ili
Đ
Vi
N
Ph
H
u
Tr
150 GW
250 GW
550 GW
Tổng Toàn Cầu 2050
450 GW
8.6 Số liệu về chi phí và sản lượng điện gió ngoài khơi của Việt Nam
Bảng 8.2 và Bảng 8.3 trình bày các số liệu chính cho cả hai kịch bản trong giai đoạn 2020–2050,
hỗ trợ tính toán cho toàn bộ nghiên cứu. Các giá trị tô đậm được lấy trong Phần 9.
Để đơn giản, dữ liệu được cung cấp giả định tất cả công suất được lắp đặt ở các địa điểm móng
cố định, bỏ qua LCOE cũng như sản xuất năng lượng thấp hơn từ các dự án điện gió gần bờ và
LCOE cũng như sản xuất năng lượng cao hơn từ các vị trí móng nổi. Chúng tôi giả định không có
phát điện từ các dự án được lắp đặt trong năm đó.
LCOE và hệ số công suất cho các dự án được lắp đặt trong năm được tính bằng nội suy tuyến tính
giữa các điểm được tính toán vào năm 2023, 2030 và 2035. Đối với LCOE, giảm 2% so với cùng
kỳ năm trước được giả định từ sau năm 2035 và một giá trị cố định được giả định trước năm 2023.
Đối với hệ số công suất, tăng 0,5% so với cùng kỳ năm trước được giả định từ sau năm 2035 và
một giá trị cố định được giả định trước 2023. Điều này có nghĩa rằng các yếu tố công suất tiếp
tục tăng từ 57% vào năm 2035 lên trên 60% vào năm 2050. Mặc dù các con số này có vẻ cao hơn
so với các dự án hiện tại, căn cứ vào tốc độ phát triển công nghệ trong vòng 30 năm, điều này là
thực tế, giả định sử dụng các tuabin rất lớn (lớn hơn các tuabin 20 MW đang được dự trù lắp đặt
vào năm 2035) với các rôto được thiết kế cho điều kiện tốc độ gió thấp.
Sản lượng điện hàng năm là tổng tất cả các trang trại gió vận hành trong năm, có tính tới các hệ
số công suất khác nhau cho mỗi công suất hàng năm được lắp đặt. Sản lượng điện lũy kế là tổng
của các sản lượng này theo thời gian.
Chi phí ròng hàng năm là tổng tất cả sản lượng điện của các trang trại gió vận hành trong năm x
LCOE, có tính đến sản lượng điện và LCOE khác nhau cho mỗi công suất được lắp đặt, trừ đi chi
phí sản xuất hàng năm từ công nghệ truyền thống trong năm (xem Phần 7.1). Chi phí ròng lũy kế
là tổng của các chi phí này theo thời gian.
Hệ số
LCOE cho công suất
Công Công suất các dự án cho các
suất đặt vận hành được lắp dự án Sản lượng Chi phí
hàng lũy kế vào đặt trong được lắp điện Sản lượng ròng hàng Chi phí
năm cuối năm năm (US$/ đặt trong hàng năm điện lũy năm (triệu ròng lũy kế
Năm (GW) (GW) MWh) năm (%) (GWh) kế (GWh) US$) (triệu US$)
2020 0,1 0,2 174 32 0,3 0,3 28 28
2021 0,4 0,7 174 32 0,7 0,9 38 66
2022 0,1 0,8 174 32 1,9 2,8 156 222
2023 0,3 1,1 174 32 2,2 5,0 180 402
2024 0,4 1,5 161 35 3,1 8,1 262 664
2025 0,4 1,9 148 38 4,2 12,3 347 1.010
2026 0,5 2,4 135 41 5,6 18,0 431 1.441
2027 0,5 2,9 122 44 7,4 25,3 507 1.948
2028 0,6 3,5 109 47 9,5 34,8 568 2.516
2029 0,7 4,2 96 50 12,1 46,9 602 3.118
2030 0,8 5,0 83 53 15,1 62,0 595 3.713
2031 0,9 5,9 78 54 18,8 80,8 531 4.245
2032 1,0 6,9 74 55 22,9 103,7 430 4.675
2033 1,1 8,0 70 55 27,6 131,3 283 4.958
2034 1,3 9,2 66 56 33,0 164,3 79 5.037
2035 1,4 10,7 62 57 39,1 203,4 –197 4.840
2036 1,6 12,2 61 57 46,2 249,6 –561 4.279
2037 1,6 13,8 60 57 54,0 303,6 –993 3.286
2038 1,6 15,5 58 57 62,1 365,7 –1.488 1.799
2039 1,6 17,1 57 58 70,3 435,9 –2.031 –232
2040 1,6 18,7 56 58 78,5 514,4 –2.624 –2.856
2041 1,6 20,3 55 58 86,7 601,2 –3.268 –6.124
2042 1,6 22,0 54 59 95,0 696,2 –3.965 –10.089
2043 1,6 23,6 53 59 103,4 799,6 –4.716 –14.805
2044 1,6 25,2 52 59 111,8 911,4 –5.522 –20.327
2045 1,6 26,8 51 59 120,2 1.031,6 –6.385 –26.712
2046 1,6 28,5 50 60 128,4 1.160,0 –7.326 –34.038
2047 1,6 30,1 49 60 136,5 1.296,5 –8.364 –42.402
2048 1,6 31,7 48 60 143,8 1.440,3 –9.415 –51.817
2049 1,6 33,3 47 61 152,1 1.592,5 –10.555 –62.372
2050 1,6 35,0 46 61 159,9 1.752,4 –11.749 –74.120
Nguồn: BVG Associates.
Hệ số
LCOE cho công suất
Công Công suất các dự án cho các
suất đặt vận hành được lắp dự án Sản lượng Chi phí
hàng lũy kế vào đặt trong được lắp điện Sản lượng ròng hàng Chi phí
năm cuối năm năm (US $/ đặt trong hàng năm điện lũy năm (triệu ròng lũy kế
Năm (GW) (GW) MWh) năm (%) (GWh) kế (GWh) US$) (triệu US$)
2020 0,1 0,2 174 32 0,3 0,3 28 28
2021 0,4 0,7 174 32 0,7 0,9 38 66
2022 0,1 0,8 174 32 1,9 2,8 156 222
2023 0,3 1,1 174 32 2,2 5,0 180 402
2024 0,5 1,6 160 35 3,1 8,1 262 664
2025 0,9 2,5 145 38 4,6 12,7 376 1.040
2026 1,0 3,5 131 41 7,5 20,3 547 1.587
2027 1,2 4,7 116 44 11,2 31,5 701 2.288
2028 1,4 6,1 101 47 15,9 47,5 816 3.104
2029 1,8 7,9 87 51 21,9 69,4 863 3.967
2030 2,2 10,0 72 54 29,7 99,1 793 4.760
2031 2,5 12,6 68 54 39,8 138,9 534 5.295
2032 2,9 15,5 64 55 52,0 190,9 139 5.434
2033 3,0 18,5 59 56 65,9 256,8 –416 5.018
2034 3,0 21,5 55 56 80,7 337,5 –1.120 3.898
2035 3,0 24,6 51 57 95,6 433,2 –1.958 1.940
2036 3,0 27,6 50 57 110,8 543,9 –2.933 –993
2037 3,0 30,6 49 58 126,0 669,9 –3.994 –4.987
2038 3,0 33,7 48 58 141,3 811,2 –5.143 –10.130
2039 3,0 36,7 47 58 156,7 967,9 –6.381 –16.512
2040 3,0 39,7 46 58 172,1 1.140,0 –7.712 –24.224
2041 3,0 42,7 45 59 187,6 1.327,6 –9.138 –33.362
2042 3,0 45,8 44 59 203,2 1.530.8 –10.661 –44.024
2043 3,0 48,8 43 59 218,9 1.749.7 –12.285 –56.309
2044 3,0 51,8 42 60 234,7 1.984.4 –14.011 –70.320
2045 3,0 54,9 41 60 250,5 2.234.9 –15.843 –86.163
2046 3,0 57,9 41 60 266,1 2.501.0 –17.803 –103.967
2047 3,0 60,9 40 61 281,7 2.782.7 –19.912 –123.879
2048 3,0 64,0 39 61 296,6 3.079.3 –22.088 –145.967
2049 3,0 67,0 38 61 312,4 3.391.7 –24.407 –170.374
2050 3,0 70,0 37 61 327,8 3.719.5 –26.844 –197.218
Nguồn: BVG Associates.
Chúng tôi thực hiện việc này theo hai kịch bản khác nhau. Điều này rất quan trọng vì chúng ta cần
hiểu trong dài hạn chi phí điện từ điện gió ngoài khơi sẽ ra sao và làm thế nào để tác động đến
chi phí đó.
Chúng tôi sẽ tập trung vào điện gió móng cố định. Chúng tôi cũng đề cập một cách định lượng
tới các dự án điện gió gần bờ và móng nổi, với một cách tiếp cận đơn giản hơn. Tuy nhiên, lưu ý
rằng các tính toán không tính đến các chi phí ngoại lai (ví dụ: tác động tiêu cực đến cộng đồng
ngư dân), có thể là đáng kể, đặc biệt là đối với các dự án điện gió gần bờ.
Để cung cấp bối cảnh địa lý, Hình 9.1 trình bày giá trị tương đối của LCOE cho một dự án tham
khảo điển hình ở vùng biển Việt Nam. Phân tích đơn giản này chỉ nhằm mục đích đưa ra các
hướng dẫn về những khu vực nào có khả năng có các dự án với chi phí năng lượng thấp nhất, tuy
nhiên, nó nêu bật hai khu vực lớn có thể thuận lợi cho các dự án móng nổi và móng cố định với
chi phí tương đối thấp. Thông tin thêm về bản đồ này và phương pháp luận đằng sau việc tạo ra
nó, được cung cấp trong Phần 20 về Dữ Liệu Không gian.
Bối cảnh cho các kịch bản này được thảo luận trong Phần 8.
Chúng tôi đã thiết lập chi phí đường cơ sở (để lắp đặt vào năm 2023, nhận ra sự khác biệt chính
giữa các dự án ở châu Âu và Việt Nam) và xu hướng (chi phí vào năm 2030 và 2035) dựa trên các
tham số chính được xác định trong Bảng 9.1.
Giải thích về phương pháp luận, các định nghĩa và giả định chi tiết được trình bày trong Phần 9.5.
49
Bảng 9.1: Các tham số chính cho dự án móng cố định được mô hình hóa theo năm lắp đặt
■ Khác biệt chính giữa các dự án ở Việt Nam và châu Âu là tốc độ gió thấp hơn và chi phí cao
hơn trong những năm đầu. Cơ hội chính để giảm LCOE ngoài xu hướng thị trường đã được
thiết lập nằm ở việc sử dụng tuabin lớn với rôtor được thiết kế cho các vị trí có tốc độ gió
thấp. Các thị trường điện gió ngoài khơi mới khác cũng sẽ được hưởng lợi từ các loại tuabin
như vậy, miễn là các thị trường này được các đơn vị cung cấp tuabin gió công nhận là cơ hội
lâu dài, những đơn vị cung cấp này sẽ phát triển các biến thể của tuabin tiêu chuẩn dành cho
tốc độ gió thấp. Tốc độ của hoạt động này sẽ tăng lên khi có cạnh tranh từ các đơn vị cung
cấp tuabin gió của Trung Quốc, đang bắt đầu xem xét các cơ hội như vậy.
■ LCOE của điện gió móng nổi ngoài khơi vẫn cao hơn điện gió móng cố định nhưng nó có thể
mở rộng công suất. Đến năm 2035, điện gió móng nổi ngoài khơi có LCOE chỉ cao hơn 15%
so với các vị trí điện gió móng cố định ngoài khơi tốt nhất (và có thể so sánh được với các vị trí
điện gió ngoài khơi sẵn có).
Năm 2035, trong kịch bản tăng trưởng cao, điện gió ngoài khơi ở Việt Nam có LCOE thấp hơn
mức trung bình toàn cầu vì chi phí cơ bản thấp.
Năm 2030, LCOE trong kịch bản tăng trưởng thấp cao hơn 14% so với kịch bản tăng trưởng cao.
Khoảng cách này tăng lên 223% vào năm 2035.
Khoảng một phần ba lợi ích của kịch bản tăng trưởng cao là do giảm chi phí vốn (CAPEX) có
được từ tăng đầu tư chuỗi cung ứng, tối ưu hóa cho khối lượng lớn hơn và gia tăng cạnh tranh.
Chiếm hầu hết trong hai phần ba còn lại là do chi phí vốn bình quân gia quyền (WACC) thấp hơn
do kỳ vọng đầu tư nước ngoài nhiều hơn và giảm rủi ro theo kịch bản tăng trưởng cao.
Chi tiết đằng sau những xu hướng LCOE này sẽ được thảo luận dưới đây.
Bảng 9.2: LCOEs chỉ báo cho các khu vực dự án điển hình của Việt Nam đã được lập mô
hình
Dự án
Dự án gần móng Dự án
bờ kịch Dự án gần Dự án móng Dự án móng nổi kịch móng
bản tăng bờ kịch bản cố định kịch cố định kịch bản tăng nổi kịch
trưởng tăng trưởng bản tăng bản tăng trưởng bản tăng
Năm lắp thấp (US$/ cao (US$/ trưởng thấp trưởng cao thấp (US$/ trưởng cao
đặt MWh) MWh) (US$/MWh) (US$/MWh) MWh) (US$/MWh)
200
150
LCOE ($/MWh)
100
50
0
2020 2021 2022 2023 2024 2025 2026 2027 2028 2029 2030 2031 2032 2033 2034 2035
Năm lắp đặt
Khu vực bãi triều kịch bản tăng trưởng thấp Khu vực bãi triều kịch bản tăng trưởng cao
Dự án móng cố địch ở các nước đã phát triển Dự án móng nổi ở các nước đã phát triển
Dự án móng cố định kịch bản tăng trưởng thấp Dự án móng nổi kịch bản tăng trưởng thấp
Dự án móng cố định kịch bản tăng trưởng cao Dự án móng nổi kịch bản tăng trưởng cao
Xu hướng chung
Giảm LCOE trên toàn cầu đối với điện gió móng cố định ngoài khơi được thể hiện trong Bảng 9.2
nhờ vào cải tiến công nghệ và quy trình, tăng kích thước tuabin và tăng quy mô trang trại gió.
Tăng kích thước tuabin và quy mô trang trại mang lại hiệu quả kinh tế của quy mô trong sản xuất và
công tác hậu cần, bao gồm cả vận hành, bảo trì và dịch vụ (OMS). Ngoài ra, giảm chi phí còn diễn ra
vì tính kinh tế của quy mô trong từng phần vì các tuabin lớn đòi hỏi cơ sở hạ tầng ít hơn trên mỗi MW.
Cải tiến công nghệ bao gồm các cải tiến trong thiết kế, sản xuất và sử dụng các thiết bị giám sát
công nghệ cao. Điều này dẫn đến tuabin có khí động học tốt hơn và do đó sản xuất năng lượng
nhiều hơn, hoặc giảm chi phí của các thành phần. Ngoài ra, các cải tiến trong xử lý các cấu kiện
lớn của các đơn vị vận hành tàu và cảng là yếu tố chủ chốt giúp giảm chi phí.
Ở Việt Nam, LCOE của dự án móng cố định vào năm 2023 cao hơn LCOE móng cố định tại các thị
trường đã phát triển (như châu Âu). Điều này là do những trong một thị trường mới, quy mô trang
trại ban đầu nhỏ hơn và rủi ro khá lớn ảnh hưởng đến WACC. Sự khác biệt chính nữa là tốc độ gió
trung bình ở 2 nơi. Tốc độ gió ở Việt Nam thấp hơn so với ở các thị trường đã thiết lập.37 Điều này
dẫn tới sản lượng điện hàng năm thấp hơn, và do đó LCOE cao hơn. Với năm 2023, chúng tôi sử
dụng những giả định sau:
Theo thời gian, LCOE tại Việt Nam (ban đầu cao hơn so với thế giới do thị trường mới phát triển)
sẽ giảm dần. Một môi trường pháp lý vững chắc với tầm nhìn rõ ràng sẽ tạo điều kiện cho các nhà
đầu tư nâng cao công suất và kỹ năng. Nhiều cấu kiện điện gió ngoài khơi được sản xuất trong
nước với hiệu quả ngày càng tăng. Cạnh tranh hạn chế thúc đẩy một số đổi mới và giảm chi phí.
Chi phí hậu cần giảm xuống và quan trọng hơn, WACC giảm xuống phần nào do sự chắc chắn
tăng lên trong tất cả các khía cạnh của vòng đời dự án và doanh thu.
Chúng tôi giả định kịch bàn tăng trường thấp (so với kịch bản nền năm 2023):
Như trình bày trong Bảng 9.1, chúng tôi giả định rằng các dự án điển hình được phát triển ở khu vực nước
sâu hơn, xa bờ hơn, nhưng đặc biệt quan trọng ở tốc độ gió cao hơn và sử dụng tua-bin lớn hơn với rôto
được thiết kế cho các vị trí gió có tốc độ gió thấp hơn, làm tăng đáng kể hệ số công suất thông thường.
Phân tích LCOE và hệ số công suất cho các dự án điện gió móng cố định ngoài khơi trong kịch
bản này được thể hiện trong Hình 9.3. Các nguồn của việc giảm LCOE có thể được phân loại theo
yếu tố chi phí, như thể hiện trong Hình 9.4, hoặc phân loại mức giảm là do tác động cục bộ hay
toàn cầu, như trong Hình 9.5.
Theo thời gian, LCOE tại Việt Nam (ban đầu cao hơn so với thế giới do thị trường mới phát triển)
giảm xuống bằng không. Một môi trường pháp lý vững chắc với tầm nhìn rõ ràng sẽ tạo điều kiện
cho các nhà đầu tư nâng cao công suất và kỹ năng. Nhiều cấu kiện điện gió ngoài khơi được sản
xuất trong nước với hiệu quả ngày càng tăng. Cạnh tranh hạn chế thúc đẩy một số đổi mới và
giảm chi phí. Chi phí hậu cần giảm xuống và quan trọng hơn, WACC giảm xuống phần nào do sự
chắc chắn tăng lên trong tất cả các khía cạnh của vòng đời dự án và doanh thu.
So với kịch bản tăng trưởng thấp, chúng tôi đã giả định:
Các điều kiện tại địa điểm dự án giống như đối với kịch bản tăng trưởng thấp.
9. Giảm chi phí điện 53
180 60
150 50
120 40
Hệ số công suất
LCOE ($/MWh)
90 30
60 20
30 10
0 0
Kịch bản nền—2023 Kịch bản tăng trưởng Kịch bản tăng trưởng
($/MWh) thấp—2030 ($/MWh) thấp—2035 ($/MWh)
Các thành phần của LCOE và hệ số công suất đối với điện gió móng cố định ngoài khơi trong
kịch bản này được thể hiện trong Hình 9.6.
Cũng giống như trong kịch bản thấp, nguồn giảm LCOE được thể hiện ở đây nhờ vào yếu tố chi
phí trong Hình 9.7. Khác biệt lớn nhất so với kịch bản tăng trưởng thấp là giảm WACC lớn hơn
do rủi ro thị trường giảm hơn nữa và cạnh tranh gia tăng giữa các tổ chức cho vay. Trong các khía
cạnh khác, tiết kiệm là do tăng cường nâng cao năng lực, cạnh tranh và hợp tác quốc tế.
Nguồn giảm LCOE được thể hiện theo địa lý trong Hình 9.8. Trong kịch bản cao, những tác động
ở Việt Nam lớn hơn nhiều, phản ánh sự gia tăng trong nước về hiệu quả và giảm thiểu rủi ro.
Cả 2 kịch bản—2023
Phát triển dự án
Tuabin
Móng
Cáp liên kết hệ thống
Lắp đặt công trình phát điện
Trạm biến áp ngoài khơi
Cáp xuất điện
Lắp đặt công trình truyền tải
Vận hành và bảo trì theo kế hoạch
Bảo trì ngoài kế hoạch
Sản lượng điện hàng năm (AEP)
Thời gian tồn tại của dự án
WACC
Kịch bản tăng trưởng thấp—2030
Phát triển dự án
Tuabin
Móng
Cáp liên kết hệ thống
Lắp đặt công trình phát điện
Trạm biến áp ngoài khơi
Cáp xuất điện
Lắp đặt công trình truyền tải
Vận hành và bảo trì theo kế hoạch
Bảo trì ngoài kế hoạch
Sản lượng điện hàng năm (AEP)
Thời gian tồn tại của dự án
WACC
Kịch bản tăng trưởng thấp—2035
0 30 60 90 120 150 180
LCOE ($/MWh)
Hình 9.5: Nguồn giảm LCOE theo địa lý cho các địa điểm điện gió ngoài khơi móng
cố địnhtrong kịch bản tăng trưởng thấp
Cả 2 kịch bản—2023
Tác động từ thế giới
Tác động từ Việt Nam
Kịch bản tăng trưởng thấp—2030
Tác động từ thế giới
Tác động từ Việt Nam
Kịch bản tăng trưởng thấp—2035
0 30 60 90 120 150 180
LCOE ($/MWh)
180 60
150 50
120 40
Hệ số công suất
LCOE ($/MWh)
90 30
60 20
30 10
0 0
Kịch bản Kịch bản tăng trưởng Kịch bản tăng trưởng
nền—2023 ($/MWh) thấp—2030 ($/MWh) thấp—2035 ($/MWh)
đã được đưa vào đánh giá, nhưng khó khăn của các dự án này để đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế
về môi trường và xã hội có thể đồng nghĩa với việc sẽ không có nợ lãi suất thấp, có nghĩa là LCOE
cho các dự án vùng triều có thể đã không được đánh giá chính xác.
Đối với các dự án điện gió gần bờ vào năm 2030 và 2035, sẽ có sự cắt giảm chi phí do kinh
nghiệm cũng như tăng tốc độ tuabin, nhưng không có thay đổi lớn về quy mô trang trại, điện
năng hoặc WACC, do đó mức giảm LCOE ít hơn so với điện gió ngoài khơi móng cố định. Đến
năm 2035, điện gió ngoài khơi móng cố định có LCOE thấp hơn so với dự án điện gió gần bờ,
cho cả hai kịch bản tăng trưởng thấp và cao. Trên thực tế, các tác động môi trường và xã hội ngày
càng tăng của các dự án điện gió gần bờ, đặc biệt là các tác động tích lũy, có thể khiến chúng
sớm trở nên không khả thi.
Móng nổi
Chúng tôi giả định sự khác biệt giữa điện gió móng nổi và móng cố định mà chúng tôi quan sát
được ở các thị trường khác sẽ tương tự như ở Việt Nam. Gia tăng tương tự về chi phí và rủi ro và
khả năng tương tự để xây dựng tại các địa điểm có tốc độ gió cao hơn. Do đó, chúng tôi giả định
rằng sự chênh lệch LCOE giữa các công nghệ này trên thị trường thế giới sẽ được phản ánh tại
Việt Nam, giảm xuống chỉ còn chênh lệch nhỏ trong đầu những năm 2030.
Cả 2 kịch bản—2023
Phát triển dự án
Tuabin
Móng
Cáp liên kết hệ thống
Lắp đặt công trình phát điện
Trạm biến áp ngoài khơi
Cáp xuất điện
Lắp đặt công trình truyền tải
Vận hành và bảo trì theo kế hoạch
Bảo trì ngoài kế hoạch
Sản lượng điện hàng năm (AEP)
Thời gian tồn tại của dự án
WACC
Kịch bản tăng trưởng thấp—2030
Phát triển dự án
Tuabin
Móng
Cáp liên kết hệ thống
Lắp đặt công trình phát điện
Trạm biến áp ngoài khơi
Cáp xuất điện
Lắp đặt công trình truyền tải
Vận hành và bảo trì theo kế hoạch
Bảo trì ngoài kế hoạch
Sản lượng điện hàng năm (AEP)
Thời gian tồn tại của dự án
WACC
Kịch bản tăng trưởng thấp—2035
0 30 60 90 120 150 180
LCOE ($/MWh)
Hình 9.8: Nguồn giảm LCOE theo địa lý cho các địa điểm điện gió ngoài khơi móng cố
định trong kịch bản tăng trưởng cao
Cả 2 kịch bản—2023
Tác động từ thế giới
Tác động từ Việt Nam
Kịch bản tăng trưởng thấp—2030
Tác động từ thế giới
Tác động từ Việt Nam
Kịch bản tăng trưởng thấp—2035
0 30 60 90 120 150 180
LCOE ($/MWh)
■ Sử dụng các tuabin ngoài khơi lớn hơn với rôto được thiết kế cho các vị trí có tốc độ gió thấp
hơn. Vẫn chưa có gì đảm bảo là những tuabin như vậy sẽ được phát triển. Tín hiệu thị trường
rõ ràng từ các quốc gia cần loại tua-bin đó sẽ giúp thực hiện được đầu tư kiểu này. Các nước
này bao gồm Việt Nam, Nhật Bản và Hàn Quốc. Đối với các hãng cung cấp tuabin hàng đầu,
đầu tư cần thiết để phát triển các tua-bin gió tốc độ thấp có thể lên đến khoảng 1 tỷ US$.
■ Giảm WACC do giảm rủi ro và sẵn có khối lượng tài chính đáng kể. Giảm WACC là một trong
những động lực chính trong việc giảm LCOE. WACC là một hàm phụ thuộc vào các vấn đề và
rủi ro của thị trường. Để có thể giảm WACC đòi hỏi phải thiết lập một khuôn khổ và quy định
ổn định, minh bạch và vững chắc cho điện gió ngoài khơi và niềm tin vào danh mục dự án
tiềm năng và tăng trưởng của ngành điện gió ngoài khơi tại Việt Nam.
■ Tăng trưởng trong cung cấp tại chỗ và khu vực, nâng cao năng lực và cạnh tranh, được thúc
đẩy bởi khối lượng và niềm tin vào thị trường.
n lt + Mt
∑ t=s
(1 + r)t
LCOE =
Et
∑nt=s
(1 + r)t
trong đó:
lt Chi phí đầu tư trong năm t
Mt Chi phí vận hành, bảo dưỡng và dịch vụ trong năm t
Et Sản lượng điện trong năm t
r Tỷ lệ chiết khấu
s Năm bắt đầu dự án, và
n Số năm tuổi thọ dự án
Chúng tôi sử dụng phương pháp chi phí vốn bình quân gia quyền (WACC) để thiết lập tỷ lệ chiết
khấu. Đó là một tỷ lệ dựa vào mức bình quân gia quyền của tỷ lệ nợ và vốn chủ sở hữu, từ khi bắt
đầu dự án đến khi kết thúc hoạt động.
Trong thực tế, ở đây chúng tôi đã thực hiện một nghiên cứu về các nghiên cứu. Chúng tôi tiếp cận
các nghiên cứu đã được công bố, nhưng chủ yếu là các nghiên cứu chưa được công bố mà chúng
Điều này phù hợp ở giai đoạn này vì không có dự án nào đang hoạt động (hoặc thậm chí được
thiết kế) ở quy mô này tại Việt Nam.
Điểm mấu chốt để phân tích bao gồm các bước sau:
A. Thiết lập kịch bản cơ sở cho một dự án được lắp đặt vào năm 2023 giả dụ rằng dự án diễn ra
ở châu Âu . Chúng tôi đã thực hiện điều này bằng cách sử dụng các mô hình chi phí đã được
chứng minh theo thời gian, cho một tuabin quy mô 10 MW.
B. Chuyển đổi nó sang điều kiện chuỗi cung ứng, địa điểm và thị trường của Việt Nam và chuỗi
cung ứng, vẫn dành cho một dự án được lắp đặt vào năm 2023. Đối với mỗi yếu tố chi phí
được nêu trong Bảng 9.3, chúng tôi đã thiết lập một hệ số tỷ lệ để tính đến sự khác biệt so với
Châu Âu. Ví dụ, do việc cấp phép phức tạp hơn, ít kinh nghiệm phát triển dự án ở Việt Nam,
chi phí khảo sát thấp hơn và quy mô dự án nhỏ hơn, nhìn chung, phân tích của chúng tôi đã
cộng thêm khoảng 35% vào chi phí phát triển. Chúng tôi đã xem xét các yếu tố như tỷ lệ bão,
tàu lắp đặt ở Đông Á và nhiều yếu tố liên quan khác. Để làm điều này, chúng tôi đã sử dụng
kinh nghiệm của chúng tôi về các thị trường mới và phản hồi về Việt Nam.
C. Sau đó, chúng tôi đã thiết lập các yếu tố ‘toàn cầu’ xem xét sự sẵn có của các tuabin lớn hơn,
nhiều đổi mới trong ngành và cắt giảm chi phí từ kinh nghiệm cho các dự án được lắp đặt vào
năm 2030, độc lập với những gì xảy ra ở Việt Nam. Để làm điều này, chúng tôi đã sử dụng các
mô hình “từ dưới lên” (bottom-up) nắm bắt tác động của các phát kiến với từng yếu tố chi phí.
Dữ liệu đằng sau các mô hình này đến từ nhiều dự án trong ngành, đánh giá về giá đấu giá và
các rà soát đồng cấp, cả ở mức độ chi tiết và với góc nhìn từ trên xuống.
D. Chúng tôi lặp lại quy trình này để tính đến các thay đổi từ năm 2030 đến 2035. Rõ ràng có sự
không chắc chắn về việc trong khoảng thời gian này, công nghệ nào sẽ trở nên phổ biến, và
việc chi phí của công nghệ này là bao nhiêu. Nhưng việc thực hiện một loạt các dự án khảo
sát khung thời gian này đã cho chúng tôi hiểu biết quan trọng.
E. Chúng tôi áp dụng các hệ số thu được ở bước 3 và 4 như nhau trong cả hai kịch bản ở
Việt Nam.
F. Sau đó, chúng tôi cũng đã khảo sát tác động của từng kịch bản đến thay đổi chi phí của
Việt Nam trong khoảng thời gian từ 2023 đến 2030, sau đó từ 2030 đến 2035. Một lần nữa,
chúng tôi đã áp dụng riêng biệt cho từng yếu tố chi phí. Chúng tôi đã xem xét:
• Các tác động nhất thời, chẳng hạn như thiếu kinh nghiệm trong ngành và rủi ro pháp lý
cao. Ví dụ: nếu chúng tôi áp dụng phần chi phí cao hơn ở bước 2, chúng tôi giả định rằng
vào năm 2035 trong kịch bản tăng trưởng cao, phần lớn phần chi phí cao hơn đó đã bị loại
bỏ bởi tốc độ giảm chi phí từ kinh nghiệm nhanh hơn so với châu Âu trong cùng thời kỳ.
• Tác động lâu dài, chẳng hạn như cần phải thiết kế để chống chịu được các cơn bão. Trong
một số trường hợp như vậy, chúng tôi giả định chi phí ban đầu tạm thời lớn hơn sau đó
giảm xuống theo thời gian, ví dụ thiết kế cho khả năng chống bão được tối ưu hóa hơn.
• Thay đổi về nguồn cung, khi sử dụng nhiều sản phẩm, dịch vụ của khu vực và Việt Nam
hơn.
G. Sau đó, chúng tôi đã kết hợp tất cả các yếu tố toàn cầu và của Việt Nam lại với nhau để tạo
ra các xu hướng LCOE như được thể hiện và xem xét các yếu tố này dựa trên cách tiếp cận từ
trên xuống về giảm chi phí.
Tuabin
■ Tuabin được chứng nhận Class IA/S theo tiêu chuẩn thiết kế tuabin gió ngoài khơi quốc tế IEC
61400-3 cho năm 2023, Class IIA cho những năm sau đó.
Cơ cấu đỡ
■ Điều kiện mặt đất là tốt đối với điện gió ngoài khơi. Đôi khi chỉ có những vị trí có áp lực chịu
lực thấp hơn, xuất hiện đá tảng hoặc có độ dốc đáng kể.
Lắp đặt
■ Việc lắp đặt được thực hiện tuần tự từ móng, cáp liên kết hệ thống, sau đó là lắp cột (đã được
lắp ráp sẵn) cùng với tuabin.
■ Sử dụng một tàu tự nâng (jack-up) để lắp đặt các cọc đơn và các phần chuyển tiếp.
■ Sử dụng hai tàu tự nâng (jack-up) để lắp đặt giàn chân đế và đóng cọc chân, và vận chuyển
các cấu kiện từ cảng lắp đặt.
■ Cáp liên kết hệ thống được lắp đặt thông qua ống J với các bước đặt, khảo sát và chôn cáp.
■ Một tàu tự nâng thu gom các cấu kiện từ cảng lắp đặt để lắp đặt tuabin.
Chúng tôi tập trung vào nhu cầu chuỗi cung ứng điện gió móng cố định ngoài khơi, bao gồm cả
điện gió gần bờ và móng nổi ở độ sâu nông hơn. Các cảng được đề cập trong Phần 18.
Chúng tôi cũng khảo sát các nút cổ chai tiềm ẩn có thể làm chậm tiến độ của ngành trong từng
kịch bản.
Phân tích này rất quan trọng vì nó củng cố những nghiên cứu về giảm chi phí và lợi ích kinh tế
trong Phần 6 và 10.
65
Phân tích này cho thấy Việt Nam có năng lực liên quan trong hầu hết chuỗi cung ứng. Các cơ hội
chính nằm ở chỗ:
■ Có năng lực,
■ Việc cung cấp từ Việt Nam (vốn nhạy cảm với kịch bản tăng trưởng) là hợp lý, và
■ Rủi ro đầu tư là thấp nhất.
Do đó, cơ hội lớn nhất nằm trong trong các loại như sản xuất cột, móng và trạm biến áp.
Hồ sơ theo
dõi và năng
lực của Năng
Việt Nam lực của
trong Việt Nam Lợi ích của
ngành điện trong các việc cung Rủi ro
Các công ty lớn có liên gió ngoài ngành cấp từ đầu tư ở Quy mô
Loại quan ở Việt Nam khơi tương tự Việt Nam Việt Nam cơ hội
Phát triển và cấp Nhiều đơn vị phát triển và 4 4 4 4 2
phép tư vấn trong nước cộng với
PTSC, Technip Vietnam và
Vietsovpetro
Cột CS Wind 1 3 3 2 3
Bảng 10.4: Thay đổi chuỗi cung ứng của Việt Nam trong các kịch bản tăng trưởng thấp và cao
Sử dụng chuỗi cung ứng trong nước trong quá trình phát triển sẽ có nhiều lợi ích vì các công ty
này hiểu rõ các quy định của Việt Nam và các công ty trong nước có thể giảm thiểu chi phí hậu
cần và lao động. Rào cản gia nhập thấp, với các khoản đầu tư chủ yếu vào các kỹ năng để đáp
ứng nhu cầu của điện gió ngoài khơi. Những kết luận này được tóm tắt trong Hình 10.1.
Hình 10.1: Đánh giá chuỗi cung ứng cho phát triển và cấp phép
Kinh nghiệm
của Việt Nam
trong điện gió
ngoài khơi
4
3
Năng lực của
2
Quy mô của Việt Nam
cơ hội 1 trong các lĩnh
vực song
song
Trong cả hai kịch bản thị trường, các đơn vị phát triển trên thế giới có thể sẽ tham gia ngày càng
nhiều, trong nhiều trường hợp là hợp tác với các đơn vị phát triển trong nước. Chuỗi cung ứng
phát triển có thể vẫn chủ yếu là của Việt Nam mặc dù các đơn vị phát triển toàn cầu chắc sẽ sử
dụng các công ty kỹ thuật chuyên ngành hoạt động ở các thị trường đã thiết lập nhiều hơn. Nhiều
trong số các công ty này sẽ có mặt ở Việt Nam trong kịch bản thị trường cao.
Tuabin
Với sự tham gia của các đơn vị phát triển trên thế giới, chúng tôi dự báo các trang trại gió của
Việt Nam sẽ sử dụng các đơn vị cung cấp tuabin đang thống trị thị trường châu Âu và Hoa Kỳ vì
các thiết bị này mang lại chi phí điện thấp nhất.
Việt Nam không có nhà máy sản xuất tuabin, và tuabin cho dự án điện gió ngoài khơi đầu tiên ở
Việt Nam là sản phẩm dùng cho dự án trên bờ của các đơn vị cung cấp trên thế giới.
Khi thị trường Đông và Đông Nam Á phát triển, các đơn vị cung cấp tuabin có trụ sở tại châu Âu
sẽ thấy giá trị trong việc nội địa hóa các hoạt động của mình. Điều này giúp giảm chi phí vận
chuyển, mặc dù các quyết định có thể bị tác động bởi những hạn chế về năng lực tại các nhà máy
hiện có. Yêu cầu về hàm lượng nội địa hóa cũng sớm dẫn tới việc đưa ra quyết định đầu tư vào
trong nước. Đồng thời, các đơn vị cung cấp cũng thận trọng vì hộp vỏ và trục cánh quạt của họ có
chuỗi cung ứng phức tạp và các cấu phần này rất quan trọng đối với hiệu suất và độ tin cậy của
tuabin. Rào cản đầu tư vì thế rất cao.
Những cân nhắc về chính trị và thị trường đã thúc đẩy Siemens Gamesa đầu tư vào một nhà máy
lắp ráp hộp vỏ tại Đài Loan và GE cam kết xây dựng một nhà máy ở tỉnh Quảng Đông, Trung
Quốc. MHI Vestas hiện vẫn chưa cam kết nhà máy nào và Nhật Bản là một địa điểm đáng tin cậy.
Có thể trong thập kỷ này, các đơn vị cung cấp tuabin gió hàng đầu thế giới sẽ chỉ thiết lập các
nhà máy ở Đông và Đông Nam Á. Cơ hội cho Việt Nam rất có thể sẽ đến trong chuỗi cung ứng,
ví dụ cáp hạ thế dùng bên trong cho tất cả các đơn vị cung cấp tuabin. Những kết luận này được
tóm tắt trong Hình 10.2.
Tuabin gió
Việt Nam không có nhà máy sản xuất tuabin. Chi phí vận chuyển tuabin khá cao và sản xuất chúng
tương đối dễ dàng để nội địa hoá vì chuỗi cung ứng của nó chủ yếu là nguyên vật liệu từ các
đơn vị cung cấp hàng hóa. Lợi ích của việc cung cấp nguyên vật liệu cho mặt hàng này từ trong
nước thấp hơn nhiều so với tuabin thành phẩm. Với thị trường điện gió ngoài khơi đang phát
triển trong khu vực, các đơn vị cung cấp tuabin toàn cầu có thể sẽ đầu tư vào các nhà máy sản
xuất ở Đông/Đông Nam Á. MHI Vestas và Siemens Gamesa đã cam kết với Đài Loan và cơ hội
cho Việt Nam rất có thể đến từ việc cung cấp vật liệu composite. Ví dụ, Triac Composites và An
Việt Long cung cấp các sản phẩm sợi carbon.
Những kết luận này được tóm tắt trong Hình 10.3.
Kinh nghiệm
của Việt Nam
trong điện gió
ngoài khơi
4
3
Năng lực của
2
Quy mô của Việt Nam
cơ hội 1 trong các lĩnh
vực song
song
Kinh nghiệm
của Việt Nam
trong điện gió
ngoài khơi
4
3
Năng lực của
2
Quy mô của Việt Nam
cơ hội 1 trong các lĩnh
vực song
song
Cột
CS Wind có một nhà máy sản xuất cột ở miền Nam Việt Nam. Nếu đầu tư, nó có thể sản xuất các cột
ngoài khơi, mặc dù hiện tại nó chưa tiếp cận được trực tiếp các công trình cảng biển để vận chuyển.
Cung cấp trong nước cũng mang lại những lợi ích về hậu cần và trong kịch bản tăng trưởng cao,
sẽ rất hợp lý nếu có một nhà máy ven biển của Việt Nam được thiết kế để đáp ứng nhu cầu từ thị
trường nước ngoài. Sản xuất cột chủ yếu đã được tự động hóa và Việt Nam có lực lượng lao động
có trình độ phù hợp.
Kinh nghiệm
của Việt Nam
trong điện gió
ngoài khơi
4
3
Năng lực của
2
Quy mô của Việt Nam
cơ hội 1 trong các lĩnh
vực song
song
Móng cho các trang trại gió gần bờ của Việt Nam dùng cọc phủ bê tông đầu cọc. Các cọc này
phù hợp cho các dự án gần bờ nhưng không phù hợp cho các trang trại gió móng cố định
ngoài khơi.
Có thể thị trường móng cho các dự án móng cố định sẽ chủ yếu là cọc đơn (monopiles), và giàn
chân đế (jackets) ở những vùng nước sâu hơn. Cũng có thể sử dụng móng bê tông dựa vào trọng
lực (gravity base foundations) tùy vào địa điểm cụ thể và sau đó là móng nổi vào cuối thập kỷ này
ở các vùng nước sâu hơn 50–60 m. Móng trọng lực không còn được sử dụng rộng rãi cho các
trang trại gió ngoài khơi ở quy mô công nghiệp nhưng chúng có thể hấp dẫn đối với các địa điểm
có điều kiện mặt đất gây khó khăn cho việc đóng cọc.
Cung cấp móng trong nước cũng mang lại các lợi ích về hậu cần, đặc biệt đối với vận chuyển giàn
chân đế rất tốn kém.
Việt Nam có kỹ năng tốt trong chế tạo thép, đặc biệt là từ công nghiệp đóng tàu và dầu khí. Các
công ty Việt Nam có cơ hội lớn trong chế tạo móng. Các công ty chính có thể tham gia là Alpha
ECC, Công ty xây lắp dầu khí PetroVietnam, PV Shipyard, PTSC và Vietsovpetro.
Kinh nghiệm
của Việt Nam
trong điện gió
ngoài khơi
4
3
Năng lực của
2
Quy mô của Việt Nam
cơ hội 1 trong các lĩnh
vực song
song
Việt Nam không có năng lực sản xuất cáp biển ngầm. Lợi ích hậu cần thấp vì trong nhiều trường
hợp, một tàu chở cáp có thể vận chuyển tất cả cáp cho một dự án từ nhà máy sản xuất chỉ trong
một hoặc hai hành trình. Các nhà máy cáp biển ngầm đặt ở Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc
và chúng có thể sẽ được sử dụng cho các dự án ở Việt Nam. Khi thị trường Đông/Đông Nam Á
phát triển, có thể cần phải đầu tư mới nhưng các đơn vị cung cấp cáp thường tìm cách mở rộng
các nhà máy hiện có thay vì đầu tư vào các địa điểm mới. Điều này là do thời gian đưa các nhà
máy mới vào sản xuất thường rất lâu với độ chắc chắn thị trường thấp, nghĩa là rủi ro đầu tư khá
lớn. Các đơn vị cung cấp cũng thận trọng trong việc pha loãng năng lực kỹ thuật tại các trung tâm
đã có năng lực rất tốt của mình. Mặc dù vậy, trong kịch bản tăng trưởng cao, nhu cầu cáp ngầm
trong nước cao có thể thúc đẩy đầu tư vào Việt Nam nếu có thị trường tốt. Những kết luận này
được tóm tắt trong Hình 10.6.
Cho đến nay, các trang trại gió gần bờ ở Việt Nam đã được xây dựng mà không có trạm biến áp
ngoài khơi và Việt Nam cũng không có kinh nghiệm tại các thị trường khác.
Cung cấp trạm biến áp cho điện gió ngoài khơi cần phối hợp với ngành cung cấp giàn (dầu khí)
trong đóng tàu và dầu khí vì nó đòi hỏi kỹ năng chế tạo thép và tích hợp hệ thống. Các trạm
thường là loại thiết kế đơn chiếc và do đó, những đơn vị mới gia nhập không cần đầu tư để sản
Kinh nghiệm
của Việt Nam
trong điện gió
ngoài khơi
4
3
Năng lực của
2
Quy mô của Việt Nam
cơ hội 1 trong các lĩnh
vực song
song
xuất hiệu quả về mặt khối lượng. Một thách thức đối với những đơn vị mới tham gia là tỷ suất lợi
nhuận trong ngành điện gió ngoài khơi thấp hơn so với ngành dầu khí.
Các đơn vị cung cấp hiện tại ở các thị trường khác thường làm việc tại các địa điểm đã có do nhu
cầu không đồng đều và thực tế là cần ít đầu tư cụ thể.
Việt Nam có một số đơn vị chế tạo có kỹ năng và kinh nghiệm trong cung cấp trạm biến áp, có
thể thông qua liên doanh với các đơn vị cung cấp thiết bị điện. Các công ty chính có thể sẽ là
Alpha ECC, Công ty xây lắp dầu khí PetroVietnam, Công ty chế tạo giàn khoan dầu khí, PTSC và
Vietsovpetro.
Việt Nam cũng có năng lực cung cấp linh kiện điện. ABB có một nhà máy biến áp tại Hà Nội và
các nhà máy sản xuất thiết bị điện cao thế và trung thế ở Bắc Ninh.
Ngành điện gió ngoài khơi thường quá nhỏ để thúc đẩy đầu tư sản xuất thiết bị điện ở các địa
điểm mới. Lĩnh vực truyền tải và phân phối điện lớn hơn nhiều và cũng sử dụng các sản phẩm
tương tự. Tăng trưởng ngành nhanh chóng ở Việt Nam có thể tạo điều kiện để đầu tư nhiều hơn.
Hình 10.7 tóm tắt các kết luận của chúng tôi.
Cơ sở hạ tầng trên bờ
Cơ sở hạ tầng trên bờ bao gồm cáp xuất điện trên bờ, trạm biến áp trên bờ và cơ sở vận hành.
Cần phối hợp nhiều với phần còn lại của ngành xây dựng dân dụng và các công ty trong nước
sẽ đảm nhận công việc này. Các công ty Việt Nam chắc sẽ không phải đầu tư lớn cho việc này.
Hình 10.8 tóm tắt các kết luận của chúng tôi.
Kinh nghiệm
của Việt Nam
trong điện gió
ngoài khơi
4
3
Năng lực của
2
Quy mô của Việt Nam
cơ hội 1 trong các lĩnh
vực song
song
Hình 10.8: Đánh giá chuỗi cung ứng cho cơ sở hạ tầng trên bờ
Kinh nghiệm
của Việt Nam
trong điện gió
ngoài khơi
4
3
Năng lực của
2
Quy mô của Việt Nam
cơ hội 1 trong các lĩnh
vực song
song
Lắp ráp sơ bộ tại cảng và lắp ráp cuối cùng tại trang trại gió do đơn vị cung cấp tuabin thực hiện.
Các trang trại gió móng cố định ngoài khơi sử dụng các tàu tự nâng chuyên dụng được chế tạo
chủ yếu dành riêng cho ngành điện gió ngoài khơi. Việt Nam hiện không có các tàu phù hợp.
Việt Nam có các nhà thầu dầu khí và các công ty vận tải có nhiều kinh nghiệm làm việc ở nước
ngoài và những công ty này có thể tham gia thị trường thông qua đầu tư. Các công ty này bao
gồm Công ty vận tải liên hiệp Huy Hoàng, PTSC và Vietsovpetro.
Tàu lắp đặt điện gió ngoài khơi có thể làm việc ở bất kỳ quốc gia nào mà không bị luật pháp hạn
chế. Ngành điện gió ngoài khơi đã chứng kiến một số lượng lớn tàu được đóng mới, điều này cho
thấy rào cản đầu tư thấp. Liên doanh với các nhà thầu đã thành lập ở châu Âu sẽ giảm rủi ro đầu
tư hơn nữa. Một số tàu đang được đóng tại Nhật Bản.
Có một thách thức là phải cân bằng chi phí vốn của tàu trong khi vẫn phải đảm bảo khả năng tiếp
tục lắp đặt tua-bin và móng có kích thước ngày càng tăng.
Hình 10.9: Đánh giá chuỗi cung ứng cho lắp đặt tuabin và móng
Kinh nghiệm
của Việt Nam
trong điện gió
ngoài khơi
4
3
Năng lực của
2
Quy mô của Việt Nam
cơ hội 1 trong các lĩnh
vực song
song
Kỹ thuật lắp đặt cáp cho các dự án điện gió gần bờ có những điểm tương đồng với quy trình đặt
cáp xuất điện trên bờ cho các trang trại gió ngoài khơi truyền thống. Tuy nhiên, chuyên môn và
thiết bị cho các dự án truyền thống ngoài khơi lại khác biệt. Về lý thuyết, lắp đặt cáp liên kết hệ
thống và cáp xuất khẩu có thể sử dụng cùng một tàu và thiết bị, nhưng các giải pháp tối ưu khác
nhau. Các tàu đặt cáp liên kết hệ thống cần phải cơ động nhưng không cần công suất chuyên chở
cao. Các tàu đặt cáp xuất điện thường lớn hơn để tải được toàn bộ chiều dài của cáp xuất điện. Lý
tưởng nhất là chúng cũng có thể hoạt động ở vùng nước nông. Công ty dịch vụ ngoài khơi Thiên
Lắp đặt cáp cho điện gió ngoài khơi là một thách thức về mặt kỹ thuật, đặc biệt là quá trình kéo
và bấm đầu cáp ở đế tuabin, và những rủi ro khi tham gia thị trường là rất lớn. Cũng như đầu tư
vào tàu, các công ty đặt cáp thiếu kinh nghiệm đã phải chịu sự chậm trễ của các dự án tại các thị
trường điện gió ngoài khơi đã được thiết lập và có thể gây hậu quả tài chính nghiêm trọng. Thiết
lập quan hệ đối tác với một nhà thầu sẽ làm giảm rủi ro này.
Hình 10.10: Đánh giá chuỗi cung ứng cho lắp đặt cáp liên kết hệ thống và cáp xuất điện
Kinh nghiệm
của Việt Nam
trong điện gió
ngoài khơi
4
3
Năng lực của
2
Quy mô của Việt Nam
cơ hội 1 trong các lĩnh
vực song
song
Lắp đặt trạm biến áp ngoài khơi bao gồm lắp đặt móng (thường là giàn chân đế) và lắp đặt bệ
trạm biến áp.
Móng trạm biến áp thường được lắp đặt tương tự như móng tuabin. Nó có thể sử dụng các tàu
tương tự và có thể được thực hiện với tư cách là một phần trong hợp đồng lắp đặt móng tuabin.
Do đó, kết luận của chúng tôi giống như đối với lắp đặt móng tuabin. Như đã đề cập ở trên,
Việt Nam có các nhà thầu có kỹ năng để thực hiện các công việc này nhưng không có tàu phù
hợp với nhu cầu hiện nay.
Bệ trạm biến áp có thể sẽ nặng hơn 2.000 tấn. Trong hầu hết các trường hợp, nó được vận chuyển
đến địa điểm bằng xà lan sau đó được nâng lên vị trí bằng tàu nâng hạng nặng. Các tàu này
thường được ‘mượn’ để sử dụng ngắn hạn từ đội tàu dầu khí, nhưng hiện tại các công ty Việt Nam
không vận hành các đội tàu như vậy.
Vận hành trang trại gió kết hợp một số chuyên môn quản lý tài sản điện gió trên bờ cùng với hậu
cần ngoài khơi. Việt Nam có một ngành điện gió trên bờ đang phát triển và do đó sẽ có các kỹ năng
quản lý tài sản liên quan. Chuyên môn hậu cần ngoài khơi có thể thấy trong các ngành công nghiệp
dầu khí và vận tải của Việt Nam, mặc dù cần phải đầu tư vào các kỹ năng và tàu thuyền. Các công ty
chính có thể là Công ty Hải Dương, PTSC, Công ty dịch vụ ngoài khơi Tân Cảng và Vietsovpetro,
Rào cản gia nhập nói chung là thấp, nguồn thu dài hạn và lợi ích của nguồn cung trong nước cao,
điều này cho thấy khả năng cạnh tranh tăng cao theo thời gian.
Hình 10.11: Đánh giá chuỗi cung ứng cho vận hành trang trại gió
Kinh nghiệm
của Việt Nam
trong điện gió
ngoài khơi
4
3
Năng lực của
2
Quy mô của Việt Nam
cơ hội 1 trong các lĩnh
vực song
song
Bảo dưỡng và dịch vụ tuabin thường do đơn vị cung cấp tuabin thực hiện, thường theo hợp đồng
dịch vụ có thời hạn lên tới 15 năm. Lực lượng lao động trong nước sẽ được sử dụng cho phần lớn
công việc này và có cơ hội cho các công ty trong nước cung cấp dịch vụ kiểm tra và kỹ thuật viên
trong quá trình bảo trì theo kế hoạch và các hoạt động dịch vụ ngoài kế hoạch để đối phó với sự
cố tuabin. Những kỹ năng này có thể thấy trong ngành điện gió trên bờ của Việt Nam. Rào cản gia
nhập thị trường thấp và đầu tư chủ yếu sẽ tập trung vào việc đảm bảo kỹ năng ở mức cao.
Kinh nghiệm
của Việt Nam
trong điện gió
ngoài khơi
4
3
Năng lực của
2
Quy mô của Việt Nam
cơ hội 1 trong các lĩnh
vực song
song
Bảo trì và dịch vụ các phần còn lại (ngoài tuabin) bao gồm móng và cáp liên kết hệ thống và cáp
xuất điện và trạm biến áp. Bảo trì và dịch vụ cáp là quan trọng nhất, các sự cố cáp là nguồn yêu
cầu bảo hiểm lớn nhất trong điện gió ngoài khơi, thường là do hư hỏng cơ học gây ra đối với
cáp. Công tác này sử dụng các thiết bị tương tự như dùng để lắp đặt cáp vì cáp liên kết hệ thống
thường được thay thế thay vì sửa chữa, và các công ty tương tự có thể đảm nhận công việc.
Bảo trì và dịch vụ móng bao gồm kiểm tra ăn mòn hoặc khiếm khuyết các cơ cấu trên và dưới
nước, làm sạch và sửa chữa các phần trên mặt nước. Các công ty Việt Nam như Công ty dịch vụ
ngoài khơi Tân Cảng rất phù hợp với công việc này.
Việc bảo trì và dịch vụ trạm biến áp có thể do đơn vị cung cấp hệ thống điện hoặc các công ty
con của Tập đoàn Điện lực Việt Nam thực hiện, nhưng các công ty cung cấp dịch vụ hỗ trợ vận
hành cho bệ dầu khí có thể đảm nhận công việc này, như PTSC, Công ty dịch vụ ngoài khơi Thiên
Nam và Vietsovpetro.
Kinh nghiệm
của Việt Nam
trong điện gió
ngoài khơi
4
3
Năng lực của
2
Quy mô của Việt Nam
cơ hội 1 trong các lĩnh
vực song
song
Hình 10.14: Đánh giá chuỗi cung ứng cho kết thúc hoạt động
Kinh nghiệm
của Việt Nam
trong điện gió
ngoài khơi
4
3
Năng lực của
2
Quy mô của Việt Nam
cơ hội 1 trong các lĩnh
vực song
song
Bản phân tích xem xét các cơ hội ở các giai đoạn khác nhau của ngành (bao gồm sản xuất, lắp
đặt, vận hành và bảo trì) cho cả các dự án trong nước và xuất khẩu.
Bản phân tích này là rất quan trọng vì nó hữu ích để hiểu, về dài hạn, những tác động kinh tế của
điện gió ngoài khơi là gì và làm thế nào để phát huy tối đa các lợi ích đó.
Phân tích này nhằm xây dựng những tác động kinh tế do các trang trại gió của Việt Nam tạo ra
trên toàn cầu, cũng như tại Việt Nam.
Tác động trực tiếp và gián tiếp đã được mô hình hóa. Tác động trực tiếp được định nghĩa là các
tác động có liên quan đến các đơn vị phát triển dự án và nhà thầu chính của họ. Tác động gián
tiếp được định nghĩa là những tác động có liên quan đến các nhà thầu phụ. Các tác động hiệu
ứng được tạo ra do chi tiêu tiền lương của các cá nhân đã bị bỏ qua vì không có sẵn các số liệu
thống kê kinh tế.
■ Kịch bản tăng trưởng thấp (5 GW vào năm 2030 và 35 GW vào năm 2050), và
■ Kịch bản tăng trưởng cao (10 GW vào năm 2030 và 70 GW vào năm 2050).
Chúng tôi đã sử dụng mô hình nội bộ áp dụng hệ số nhân để chuyển đổi chi tiêu sang năm FTE
và GVA. Thông tin chi tiết về phương pháp của chúng tôi được trình bày trong Phần 11.4.
81
Tác động đối với Việt Nam từ các dự án trong nước và các dự
án toàn cầu
Đây là tổng của các tác động nói trên và dự báo xuất khẩu. Chúng tôi ước tính tính tiềm năng, dựa
trên hiểu biết của chúng tôi về thị trường khu vực và toàn cầu và chuỗi cung ứng của Việt Nam và
cách thức phát triển trong từng kịch bản tăng trưởng.
Bảng 11.1: Tóm tắt chuỗi cung ứng tiềm năng của Việt Nam
Hình 11.1 cho thấy tổng số năm việc làm FTE (Full Time Equivalent—tương đương toàn thời gian)
được tạo ra hàng năm cho một dự án được lắp đặt vào năm 2023. Các số liệu không thay đổi
trong các kịch bản. Điều đó cho thấy số lượng việc làm đạt đỉnh vào năm 2022, năm đầu tiên khai
công xây dựng ước tính cần khoảng 7.500 nhân công, vào lúc phải sản xuất cũng như lắp đặt
tuabin gió cũng như các phụ kiện.
Hình 11.1: Tổng việc làm năm FTE hàng năm cho một dự án 500 MW lắp đặt năm 2023,
được phân theo yếu tố chi phí
8,000
6,000
Năm FTE
4,000
2,000
0
20 0
20 1
20 2
20 3
20 4
20 5
20 6
20 7
20 8
20 9
20 0
20 1
20 2
20 3
20 4
20 5
20 6
20 7
20 8
20 9
20 0
20 1
20 2
20 3
20 4
20 5
20 6
20 7
20 8
20 9
20 0
20 1
20 2
20 3
54
2
2
2
2
2
2
2
2
2
2
3
3
3
3
3
3
3
3
3
3
4
4
4
4
4
4
4
4
4
4
5
5
5
5
20
Phát triển và quản lý dự án Tuabin Các bộ phận còn lại (ngoài tuabin)
Lắp đặt và vận hành Dịch vụ vận hành và bảo dưỡng Tháo dỡ và xử lý
Tổng việc làm cho dự án vào khoảng 30.000 năm FTE. Một nghiên cứu của Cơ quan Năng lượng
tái tạo Quốc tế (IRENA) năm 2018 ước tính rằng một trang trại gió 500 MW tạo ra khoảng 2,1 triệu
ngày công (khoảng 10.000 năm FTE). Con số này được đưa ra dựa vào một khảo sát ngành và có
thể đã bỏ sót các việc làm tạo ra ở các cấp thấp hơn của chuỗi cung ứng. Nó cũng dựa vào tiêu
chuẩn làm việc của châu Âu.40
Hình 11.2 cho thấy GVA được tạo bởi một dự án này. GVA đạt đỉnh vào năm 2022 vào khoảng
740 triệu US$. Tổng GVA trên toàn bộ tuổi thọ của dự án là 2,4 tỷ US$.
Đối với các dự án đơn lẻ trong năm 2030 và năm 2035, các chỉ số tương tự thấp hơn một chút,
cho thấy chi phí đã giảm đi. Các biểu đồ cho những năm này không có trong báo cáo này.
Hình 11.3 đưa ra số việc làm FTE hàng năm trên toàn cầu và cho thấy số lượng việc làm tăng
dần đến năm 2032 cho tới khi vào giai đoạn ổn định vào khoảng 90,000 FTE mỗi năm. Điều đó
là do trong kịch bản này, công suất lắp đặt hàng năm đạt đến trạng thái ổn định vào năm 2032.
Sau năm 2032, số lượng công việc OMS (vận hành và bảo dưỡng) có gia tăng, nhưng bù lại, có
1.0
0.8
GVA (tỷ USD)
0.6
0.4
0.2
0
20 0
20 1
20 2
20 3
20 4
20 5
20 6
20 7
20 8
20 9
20 0
20 1
20 2
20 3
20 4
20 5
20 6
20 7
20 8
20 9
20 0
20 1
20 2
20 3
20 4
20 5
20 6
20 7
20 8
20 9
20 0
20 1
20 2
20 3
54
2
2
2
2
2
2
2
2
2
2
3
3
3
3
3
3
3
3
3
3
4
4
4
4
4
4
4
4
4
4
5
5
5
5
20
Phát triển và quản lý dự án Tuabin Các bộ phận còn lại (ngoài tuabin)
Lắp đặt và vận hành Dịch vụ vận hành và bảo dưỡng Tháo dỡ và xử lý
Hình 11.3: Tổng việc làm năm FTE hàng năm do các dự án của Việt Nam tạo ra trong
kịch bản tăng trưởng cao, được phân theo yếu tố chi phí
120,000
100,000
80,000
Năm FTE
60,000
40,000
20,000
0
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
Phát triển và quản lý dự án Tuabin Các bộ phận còn lại (ngoài tuabin)
Lắp đặt và vận hành Dịch vụ vận hành và bảo dưỡng
sự giảm đi trong các yếu tố khác của chuỗi cung ứng, do hệ quả của sự sụt giảm LCOEs. Từ năm
2020 đến năm 2035, hơn 800.000 năm FTE được tạo ra.
Trong Hình 11.4, GVA tạo ra bởi tất cả các dự án cho thấy xu hướng tương tự, với GVA đạt
khoản 6,5 tỷ US$ mỗi năm trong những năm 2030. Từ năm 2020 đến năm 2035, có hơn 60 tỷ US$
GVA được tạo ra.
Đối với kịch bản tăng trưởng thấp, hình thái biểu đồ có dạng tương tự, mặc dù giai đoạn ổn định
(đoạn đường nằm ngang) xảy ra muộn hơn vì thị trường chỉ đạt đến trạng thái ổn định vào năm
2037. Điều này được thể hiện trong Hình 11.5. Do việc giảm chi phí ở thị trường này chậm hơn, số
6
GVA (tỷ USD)
0
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
Phát triển và quản lý dự án Tuabin Các bộ phận còn lại (ngoài tuabin)
Lắp đặt và vận hành Dịch vụ vận hành và bảo dưỡng
lượng việc làm tiếp tục tăng lên khoảng 70.000 năm FTE mỗi năm khi thị trường OMS (vận hành
và bảo dưỡng) mở rộng.
Trong Hình 11.6, GVA được tạo bởi tất cả các dự án trong kịch bản tăng trưởng thấp cho thấy xu
hướng tương tự. Từ năm 2020 đến năm 2035, có khoảng 30 tỷ US$ GVA được tạo ra.
Hình 11.5: Tổng việc làm năm FTE hàng năm được tạo bởi tất cả các dự án của Việt Nam
trong kịch bản tăng trưởng thấp, được phân theo yếu tố chi phí
120,000
100,000
80,000
Năm FTE
60,000
40,000
20,000
0
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
Phát triển và quản lý dự án Tuabin Các bộ phận còn lại (ngoài tuabin)
Lắp đặt và vận hành Dịch vụ vận hành và bảo dưỡng
6
GVA (tỷ USD)
0
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
Phát triển và quản lý dự án Tuabin Các bộ phận còn lại (ngoài tuabin)
Lắp đặt và vận hành Dịch vụ vận hành và bảo dưỡng
Bảng 11.2: Tỷ lệ nội địa hóa của Việt Nam trong các dự án điện gió ngoài khơi ở Việt Nam
hoàn thành vào năm 2023, 2030 và 2025
Kịch bản tăng trưởng thấp Kịch bản tăng trưởng cao
Yếu tố chi phí 2023 (%) 2030 (%) 2035 (%) 2023 (%) 2030 (%) 2035 (%)
Phát triển dự án 60 70 70 60 70 70
Tuabin 5 10 10 5 15 15
Móng 70 80 80 70 80 80
Cáp 0 0 0 0 70 70
Lắp đặt 10 30 30 10 60 60
Vận hành 70 70 70 70 75 75
Tháo dỡ và xử lý 50 50 50 50 50 50
Tổng 34 40 40 34 60 60
Nguồn: BVG Associates.
Hình 11.7 đưa ra số việc làm FTE hàng năm của Việt Nam được tạo ra từ các dự án. Số năm FTE có
thể đạt khoảng 45.000 trong những năm từ 2030 đến 2039. Từ giữa năm 2020 đến năm 2035, có
420.000 năm FTE được tạo ra, bằng khoảng một nửa tổng việc làm được tạo ra trên toàn cầu.
Hình 11.7: Tổng việc làm năm FTE hàng năm của người Việt Nam được tạo ra bởi tất cả các
dự án của Việt Nam trong kịch bản tăng trưởng cao, được phân theo yếu tố chi phí
60,000
50,000
40,000
Năm FTE
30,000
20,000
10,000
0
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
Phát triển và quản lý dự án Tuabin Các bộ phận còn lại (ngoài tuabin)
Lắp đặt và vận hành Dịch vụ vận hành và bảo dưỡng
Hình 11.8 cho thấy GVA hàng năm đạt 3,5 tỷ US$ trong những năm từ 2030 đến 2039. Từ năm
2020 đến năm 2035, hơn 30 tỷ USD GVA được tạo ra, chiếm khoảng một nửa tổng GVA được tạo
ra trên toàn cầu.
Hình 11.8: GVA hàng năm của Việt Nam được tạo ra bởi tất cả các dự án của Việt Nam
trong kịch bản tăng trưởng cao, được phân theo yếu tố chi phí
3
GVA (tỷ USD)
0
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
Phát triển và quản lý dự án Tuabin Các bộ phận còn lại (ngoài tuabin)
Lắp đặt và vận hành Dịch vụ vận hành và bảo dưỡng
Hình 11.9 đưa ra số việc làm FTE hàng năm của Việt Nam taọ ra từ tất cả các dư án. Nó cho thấy
số năm FTE tiếp tục tăng vào đầu những năm 2030, đạt khoảng 15.500 vào năm 2035. Nó tiếp
tục tăng lên khoảng 20.000 năm FTE vào cuối những năm 2040. Số lượng năm FTE tạo ra trong
giai đoạn từ năm 2020 đến năm 2035 vào khoảng 120.000.
Hình 11.9: Tổng việc làm năm FTE hàng năm của Việt Nam được tạo ra bởi tất cả các dự án
của Việt Nam trong kịch bản tăng trưởng thấp, được phân theo yếu tố chi phí
60,000
50,000
40,000
Năm FTE
30,000
20,000
10,000
0
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
Phát triển và quản lý dự án Tuabin Các bộ phận còn lại (ngoài tuabin)
Lắp đặt và vận hành Dịch vụ vận hành và bảo dưỡng
Hình 11.10 cho thấy GVA hàng năm đạt 1,2 tỷ US$ trong năm 2035. GVA tăng lên khoảng
1,5 tỷ US$ vào cuối những năm 2040, và được tạo ra trong giai đoạn từ năm 2020 đến năm
2035 vào khoảng 9 tỷ US$.
Hình 11.10: GVA hàng năm của Việt Nam được tạo bởi tất cả các dự án của Việt Nam trong
kịch bản tăng trưởng thấp, được phân theo yếu tố chi phí
3
GVA (tỷ USD)
0
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
Phát triển và quản lý dự án Tuabin Các bộ phận còn lại (ngoài tuabin)
Lắp đặt và vận hành Dịch vụ vận hành và bảo dưỡng
Hình 11.11 và Hình 11.12 trình bày một dấu hiệu cho thấy tác động của xuất khẩu đối với khả năng
tạo việc làm và GVA. Cùng với nguồn cung cho thị trường trong nước, tổng việc làm đạt gần 80.000
năm FTE trong những năm 2030, với 700.000 năm FTE được tạo ra trong giai đoạn từ 2020 đến 2035.
GVA đạt 5,5 tỷ US$ trong những năm 2030 và lên tới 50 tỷ US$ trong giai đoạn từ 2020 đến 2035.
Sản xuất linh kiện đóng vai trò đặc biệt quan trọng, và đối với sản xuất linh kiện thì các thị trường
lân cận có thể cũng quan trọng như thị trường trong nước của Việt Nam.
Hình 11.11: Tổng việc làm năm FTE hàng năm của Việt Nam được tạo ra bởi các dự án của
Việt Nam và toàn cầu trong kịch bản tăng trưởng cao, được phân theo yếu tố chi phí
100,000
80,000
60,000
Năm FTE
40,000
20,000
0
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
Thị trường trong nước Xuất khẩu phát triển và quản lý dự án
Xuất khẩu tuabin Xuất khẩu các thiết bị khác
Xuất khẩu lắp đặt và vận hành Xuất khẩu dịch vụ vận hành và bảo dưỡng
Hình 11.12: GVA hàng năm của Việt Nam được tạo bởi các dự án của Việt Nam và toàn
cầu trong kịch bản tăng trưởng cao, được phân theo yếu tố chi phí
4
GVA (tỷ USD)
0
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
Trong kịch bản tăng trưởng thấp, mặc dù có ít cơ hội xuất khẩu hơn nhưng cơ hội vẫn tồn tại
với sản xuất cột và móng tại Việt Nam. Các hạng mục này có thể sẽ được sản xuất cạnh tranh và
các đơn vị cung cấp sẽ có cơ hội xuất khẩu. Số lượng năm FTE được tạo ra từ 2020 đến 2035 là
190.000 và được thể hiện trong Hình 11.13.
Trong cùng thời gian, GVA được tạo ra là 13 tỷ US$ và được thể hiện trong Hình 11.14.
Hình 11.13: Tổng việc làm năm FTE hàng năm của Việt Nam được tạo ra bởi các dự án của
Việt Nam và toàn cầu trong kịch bản tăng trưởng thấp, được phân chia theo yếu tố chi phí
100,000
80,000
60,000
Năm FTE
40,000
20,000
0
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
Thị trường trong nước Xuất khẩu phát triển và quản lý dự án
Xuất khẩu tuabin Xuất khẩu các thiết bị khác
Xuất khẩu lắp đặt và vận hành Xuất khẩu dịch vụ vận hành và bảo dưỡng
Hình 11.14: GVA hàng năm của Việt Nam được tạo bởi các dự án của Việt Nam và toàn
cầu trong kịch bản tăng trưởng thấp, được phân theo yếu tố chi phí
4
GVA (tỷ USD)
0
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
Tổng mức đầu tư trong khoảng từ 40 đến 100 triệu US$ trong kịch bản tăng trưởng thấp và có thể
trên 0,5 tỷ US$ trong kịch bản tăng trưởng cao. Đầu tư vào các cảng chưa được bao gồm, vì vậy sẽ
được bổ sung.
Bảng 11.3: Đầu tư chuỗi cung ứng trong nước để tạo điều kiện cho điện gió ngoài
khơi của Việt Nam với thời điểm để đạt được các tác động cho một dự án được lắp đặt
vào năm 2030
■ Sự tự tin vào danh mục dự án tiềm năng vững chắc trong tương lai để cạnh tranh,
■ Môi trường thương mại và tài chính tạo thuận lợi cho đầu tư, cho dù là đầu tư từ nước ngoài
hay trong nước, và
■ Mức độ cam kết đủ lớn để mua một lượng cung cấp tương đối lớn trong một khoảng thời
gian đủ dài.
Ở châu Âu, điều kiện cuối có thể là một rào cản gây nản lòng, vì các đơn vị phát triển dự án
thường chỉ có tầm nhìn giới hạn trong các dự án của chính mình và tìm cách duy trì cạnh tranh
Dữ liệu mã phân loại ngành có thể phù hợp với các ngành truyền thống ở cấp quốc gia. Tuy
nhiên, việc xây dựng các mã mới cho một ngành trưởng thành cần phải có thời gian. Điều này có
nghĩa là các phân tích về phân loại ngành thông thường của điện gió ngoài khơi cần áp d dữ liệu
hiện có vào các hoạt động điện gió ngoài khơi, điều này không dễ dàng và là có thể gây ra lỗi.
Phân tích sử dụng mã phân loại ngành cũng phải dựa trên dữ liệu tổng quát.
Điện gió ngoài khơi phù hợp hơn với cách xử lí chắc chắn, bằng việc nhìn vào khả năng hiện tại và
tương lai của chuỗi cung ứng nội địa, bởi vì dự án điện gió ngoài khơi có xu hướng:
■ Quy mô lớn và có quy trình thu mua riêng biệt lẫn nhau, và
■ Sử dụng các công nghệ tương đương và dùng chung chuỗi cung ứng.
Do đó, nó cho phép phân tích thực tế về nội dung địa phương, khu vực và trong nước của các dự
án ngay cả khi có lỗ hổng trong dữ liệu.
Phương pháp sử dụng ở đây được BVGA và Steve Westbrook thuộc University of the Highlands
and Islands, Anh, phát triển và đã được sử dụng cho nhiều khách hàng lớn.
Đầu vào đầu tiên của phương pháp này là chi phí cho mỗi MW của từng loại chuỗi cung ứng tại
thời điểm hoàn thành trang trại gió.
Các chi tiêu còn lại tương tự như GVA trực tiếp và gián tiếp được tạo ra. GVA là tổng chi phí lao
động và lợi nhuận hoạt động. Do đó, chúng ta có thể mô hình hóa việc làm FTE từ GVA, miễn là
chúng tôi hiểu được một số biến số chính. Sử dụng phương pháp tác động kinh tế , ảnh hưởng tới
việc làm được tính theo phương trình sau:
(GVA - M)
FTEa =
Ya + Wa
Trong đó:
FTEa = Việc làm FTE hàng năm
GVA = Tổng giá trị gia tăng (US$)
M = Tổng lợi nhuận hoạt động (US$)
Ya = Lương bình quân hàng năm (US$)
Wa = Chi phí ngoài lương hàng năm cho người lao động (US$)
FTE liên quan đến năm việc làm tương đương toàn thời gian, với công việc bán thời gian hoặc
không đủ năm cũng có thể cho là phù hợp. Một công việc toàn thời gian thường sẽ có ít nhất
7 giờ mỗi ngày trong khoảng 230 ngày làm việc trong năm. Nếu một cá nhân làm việc nhiều hơn
đáng kể so với mức này trong một năm, phân bổ FTE sẽ nhiều hơn 1 FTE (ví dụ: 1,5 FTE nếu làm
việc tang ca trên 7 ngày mỗi tuần).
FTE trong báo cáo là tại nơi làm việc chứ không phải nơi cư trú và sẽ bao gồm người lao động di
cư/tạm trú.
Trường hợp làm việc tại một địa phương (ví dụ, tại một địa điểm lắp ráp) được thực hiện bởi
những lao động đến từ nơi khác ở Việt Nam hoặc từ nước ngoài và sống trong các nhà ở tạm thời
khi làm việc tại chỗ, chi tiêu hàng ngày của họ về chỗ ở, thực phẩm và đồ uống, giải trí, . . . gây ra
tác động tới việc làm tại chỗ và trên toàn Việt Nam ở cấp độ rộng hơn. Những tác động này đã
được xem xét trong các tác động gián tiếp bởi vì các chi tiêu này có thể đã được bao gồm trong
chi phí sinh hoạt thay vì chi tiêu cá nhân.
Hệ số GVA trên tổng thu nhập của một doanh nghiệp có thể tương đối cao, ở chỗ nó tính vào phí
sử dụng nhà máy, thiết bị, thuyền đắt tiền, v.v. Ví dụ như trường hợp một tàu chuyên gia, được chế
tạo tại Việt Nam cho công tác năng lượng tái tạo ngoài khơi, các việc làm trước đó và tác động thu
nhập từ các việc làm này có thể bổ sung vào cho những gì đã nắm bắt được trong bài phân tích
trong báo cáo này
Trong báo cáo này, tác động của GVA và thu nhập chưa được tính chiết khẩu trước khi tổng hợp.
Đối với mỗi dự án lý thuyết, chúng tôi đã đưa ra các đánh giá về hàm lượng nội địa hóa cho từng
loại chuỗi cung ứng được xác định trong Phần 10. Chi phí dự án vào năm 2023 được lấy từ mô
hình LCOE được mô tả trong Phần 6. Việt Nam là một trong những quốc gia có mức tăng trưởng
lương cao nhất ở châu Á và điều này có thể có tác động đáng kể đến chi phí trong tương lai. Để
đơn giản hóa phân tích này, chúng tôi giả định rằng sẽ không có sự tăng lương và những thay đổi
chi phí theo giá trị thực cho các dự án vào năm 2030 và 2035 là do thay đổi công nghệ và nâng
cao năng lực trong ngành. Do đó, phân tích có thể đã ước tính thấp đi GVA.
Để mô hình hóa các tác động kinh tế từ năm 2020 đến năm 2050, chúng tôi đã nội suy chi phí và
hàm lượng nội địa hóa trong khoảng thời gian từ 2023 đến 2035. Đối với các tác động trước năm
Phân tích của chúng tôi đã giả định rằng công việc được thực hiện tại Việt Nam có cường độ nhân
lực gấp đôi so với các công ty châu Âu vì chi phí lương thấp hơn làm giảm đi dự án đầu tư vào tự
động hóa. Chúng tôi đề xuất thảo luận thêm về giả định này với Chính phủ trước khi hoàn thiện
kết quả.
Phần việc này giải quyết vấn đề làm thế nào Chính phủ có thể khuyến khích ngành và các bên liên
quan cùng nhau tháo gỡ các hạn chế, bảo vệ môi trường và tối đa hóa sự chấp nhận của xã hội
đồng thời hỗ trợ và phát triển ngành điện gió ngoài khơi.
■ Màu đỏ (R—Red): cân nhắc về môi trường hoặc xã hội RẤT CÓ khả năng tác động hoặc ảnh
hưởng đến phát triển trang trại gió ngoài khơi trong hầu hết các trường hợp
■ Màu hổ phách (A—Amber): cân nhắc về môi trường hoặc xã hội CÓ khả năng hạn chế hoặc
ảnh hưởng đến phát triển trang trại gió ngoài khơi trong hầu hết các trường hợp
■ Màu xanh lá cây (G—Green): hạn chế về môi trường hoặc xã hội ÍT CÓ khả năng hạn chế hoặc
ảnh hưởng đến phát triển trang trại gió ngoài khơi trong mọi trường hợp
Các phân loại này được xác định dựa trên kết hợp kiến thức của chúng tôi và đánh giá chuyên
môn về các vấn đề liên quan đến điện gió ngoài khơi ở các thị trường khác và thông qua sự tham
gia với các bên liên quan tại Việt Nam.
Cách tiếp cận này đảm bảo rằng danh sách các cân nhắc về môi trường và xã hội đã tính đến cả
kinh nghiệm quốc tế và các vấn đề cụ thể đối với Việt Nam.
Mặc dù chúng tôi đã kết hợp các yếu tố đầu vào từ các bên liên quan trong nước về sự phù hợp
của các cân nhắc đã xác định, các khuyến nghị cuối cùng của chúng tôi phù hợp với tiêu chuẩn
quốc tế tốt của ngành.41
Chúng tôi nhận thức được các công việc đang diễn ra song song của WBG liên quan đến đánh
giá các vấn đề môi trường ở Việt Nam, và do đó đã duy trì phân tích của chúng tôi ở mức tổng
quanh và tập trung kỹ hơn vào các cân nhắc xã hội.
Khi có thể, chúng tôi đã xác định liệu các cân nhắc này liên quan hơn đến các dự án điện gió gần
bờ (trong phạm vi 3 hải lý từ bờ) hay các dự án móng cố định (ngoài 3 hải lý).
95
Việc phân tích tập trung vào các cân nhắc để phát triển dự án móng cố định nhưng kết quả cũng
hữu ích cho lắp đặt điện gió gần bờ và móng nổi. Nhiều vấn đề có bản chất tương tự nhau đối với
cả hai loại hệ thống, mặc dù có thể có một số khác biệt về mức độ chi tiết cần thiết đối với điện
gió móng nổi ngoài khơi so với phát triển móng cố định. Ví dụ, ảnh hưởng của công trình với đáy
biển của điện gió móng nổi chắc chắc sẽ nhỏ hơn so với loại móng cố định.
Các bên liên quan chính cho các cân nhắc về môi trường và xã hội bao gồm:
■ Chính phủ:
• MONRE (Bộ Tài Nguyên và Môi Trường),
• VASI (Tổng Cục Biển và Hải Đảo),
• Chính quyền địa phương,
• Đại học khoa học tự nhiên và khoa học xã hội,
• Viện Công Nghệ Sinh Học và Môi Trường, Đại học Nha Trang,
• Viện nuôi trồng thuỷ sản, Cầu Mầu,
• Viện Nghiên cứu thuỷ sản, Hải Phòng,
• Viện Hải Dương học,
• Tổ chức nghiên cứu biển, và
• Viện Sinh thái và Tài Nguyên Sinh Vật.
■ NGOs:
• Tổ chức Sáng kiến về chuyển đổi năng lượng Việt Nam (VIET)
• BirdLife International (Hiệp hội hoạt động trong lĩnh vực bảo tồn đa dạng sinh học chim và
môi trường sống của chúng)
• Trung tâm Bảo tồn Thiên nhiên Việt
• Lực lượng Bảo tồn Chim dẽ mỏ thìa
• Dự án của Tổ chức Quốc tế vệ Bảo tồn Thiên nhiên ở sông Mê Không
• Hiệp hội Bảo tồn Động vật Hoang dã (WCS)
• Trung tâm Bảo tồn Đa dạng Sinh học và Các loài Nguy cấp
• Tổ chức Bảo tồn Thảm động—thực vật quốc tế tại Việt Nam (Flora and Fauna International)
• Tổ chức Nature Adviorsy (Tổ chức hoạt động trong tư vấn sinh thái)
• Tổ chức Amperes (Tổ chức hoạt động trong lĩnh vực cải thiện cách thức sử dụng và quản lý
tài nguyên nước, năng lượng và môi trường)
■ Xác định mức độ cân nhắc áp dụng cho các khu vực có khả năng nhất trong phát triển điện
gió ngoài khơi ở Việt Nam,
■ Đánh giá vấn đề đó được định nghĩa như thế nào trong luật và áp dụng thế nào vào thực tế,
■ Xác định cách thức giải quyết các vấn đề tương tự ở các thị trường điện gió ngoài khơi khác, và
■ Đặt ra các phương án để Việt Nam có thể giải quyết các vấn đề chính.
Chúng tôi đã xem xét Khung môi trường và xã hội42 (ESF) của Ngân hàng Thế giới. ESF áp dụng
cho tất cả các dự án đầu tư mới của Ngân hàng Thế giới và giúp Ngân hàng Thế giới và khách
hàng tiềm năng quản lý tốt hơn các rủi ro môi trường và xã hội của các dự án và cải thiện kết quả
phát triển. Nó bao gồm 10 tiêu chuẩn môi trường và xã hội (ESS) chính như được liệt kê dưới đây:
■ ESS1: Đánh giá và quản lý các rủi ro và tác động môi trường và xã hội
■ ESS2: Lao động và điều kiện làm việc
■ ESS3: Sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên, ngăn ngừa và quản lý ô nhiễm
■ ESS4: An toàn lao động cho cộng đồng
■ ESS5: Thu hồi đất, hạn chế về sử dụng đất và tái định cư không tự nguyện
■ ESS6: Bảo tồn đa dạng sinh học và quản lý bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên sống
■ ESS7: Dân tộc thiểu số/Các cộng đồng địa phương truyền thống khu vực cận Sahara châu Phi
không được cung cấp đầy đủ dịch vụ trong quá khứ
■ ESS8: Di sản văn hóa
■ ESS9: Trung gian tài chính
■ ESS10: Huy động sự tham gia của các bên liên quan và công bố thông tin
Tác động
đến
điện gió
ngoài
Hạn chế Loại khơi Định nghĩa và liên quan đến điện gió ngoài khơi
Các khu bảo tồn Môi trường Các địa điểm đặc biệt về môi trường có ý nghĩa khu vực, quốc gia và
và khu đa dạng quốc tế.
R
sinh học trọng Những hạn chế này ảnh hưởng cả các khu vực điện gió gần bờ và ngoài
điểm khơi, nhưng có tác động nhiều hơn với điện gió gần bờ.
Môi trường sống Môi trường Các môi trường sống ven biển như bãi triều, rừng ngập mặn, thảm cỏ
quan trọng, và biển và rạng san hô ngoài khơi. Ảnh hưởng cả các dự án điện gió gần
R
môi trường sống bờ và ngoài khơi, nhưng môi trường sống ven biển, tác động nhiều hơn
tự nhiên tới các dự án gần bờ.
Các loài sinh vật Môi trường Cá heo, bò biển, cá mập, rùa và và các loài khác nhạy cảm với các hoạt
biển nhạy cảm động khảo sát và xây dựng, bao gồm các loài sinh vật trong Sách đỏ.
R
(Giá trị đa dạng Ảnh hưởng đến cả các dự án gần bờ và ngoài khơi, nhưng có tác động
sinh học ưu tiên) nhiều hơn ở các dự án gần bờ.
Chim và dơi Môi trường Môi trường sống của các loài chim cư trú và di cư, đặc biệt là vùng kiếm
A ăn gần bờ và các bãi chứa nước triều cường, nơi sinh sống của các sinh
vật trong Sách đỏ. Đặc biệt quan trọng đối với các dự án gần bờ.
Hoạt động Xã hội Các mỏ dầu khí, đường dây cung cấp, các công trình cảng biển và
dầu khí R đường ống.
Ảnh hưởng nhiều đến các dự án ngoài khơi.
Cơ sở hạ tầng Xã hội Cáp điện ngầm, thông tin liên lạc, internet.
năng lượng và A Ảnh hưởng đến cả các dự án gần bờ và ngoài khơi.
truyền thông
Tàu và tuyến Kỹ thuật Các tuyến vận chuyển, khu vực neo đậu, và khu vực trung chuyển.
R
đường hàng hải* Ảnh hưởng đến cả các dự án gần bờ và ngoài khơi.
Ngư trường Xã hội Khu vực dùng để đánh bắt cá.
thương mại và R Đặc biệt quan trọng đối với các dự án gần bờ.
truyền thống
Nuôi trồng Xã hội Nuôi trồng thủy sản ven biển và nuôi cá, các loài có vỏ và rong biển.
A
thủy sản Đặc biệt quan trọng đối với các dự án gần bờ.
Phong cảnh, Xã hội Tác động trực quan của tuabin gió đến các đặc điểm di sản gần đó
cảnh biển hoặc các quang cảnh tự nhiên (tiêu cực); và đối với cộng đồng (tích cực/
A
tiêu cực).
Đặc biệt quan trọng đối với các dự án gần bờ.
Di sản lịch sử và Xã hội Xác tàu đắm, các tòa nhà di tích lịch sử ven biển, khu vực tôn giáo và
văn hóa nghi lễ.
R
Các địa điểm đắm tàu cũng có thể chứa bom mìn chưa phát nổ (UXO).
Đặc biệt quan trọng đối với các dự án gần bờ.
Hoạt động du Xã hội Lặn, câu cá giải trí, chèo thuyền, thuyền buồm, khách sạn ven biển, bãi
lịch A biển, tàu du lịch.
Đặc biệt quan trọng đối với các dự án gần bờ.
Khu tập trận Kỹ thuật Căn cứ quân sự, trường bắn, khu vực cấm, khu vực không có hoạt động
quân sự* bay quân sự.
R
Trường bắn cũng có thể chứa UXO.
Ảnh hưởng đến cả các dự án gần bờ và ngoài khơi.
Hàng không* Kỹ thuật Cản trở về mặt vật lý, và gây nhiễu tín hiệu radar hàng không do tuabin
A gió và quay cánh quạt.
Đặc biệt quan trọng đối với các dự án gần bờ.
Nguồn: BVG Associates.
Các hạn chế được đánh dấu * không được coi là trở ngại về môi trường hoặc xã hội theo định nghĩa trong ESS của Ngân hàng
Thế giới nhưng được bao gồm ở đây với tư cách là các ràng buộc về kỹ thuật cần được giải quyết trong phát triển dự án.
Pháp luật yêu cầu các đơn vị phát triển phải lập ĐTMX được bộ TNMT phê duyệt cho tất cả các dự
án điện gió ngoài khơi, mặc dù ĐTMX cho các dự án này thường không được coi là thông lệ quốc
tế tốt của ngành. ĐTMX được yêu cầu cho các dự án sử dụng đất của Công viên quốc gia, Khu
bảo tồn thiên nhiên, Di sản thế giới và Khu dự trữ sinh quyển.44 Không có khung thể chế cụ thể
cho MPA. Trong thực tế, các khu vực này thường được UBND Tỉnh và các cơ quan ban ngành cấp
tỉnh sử dụng và quản lý.45 Các khu vực đa dạng sinh học trọng điểm hiện tại chưa nhận được sự
bảo vệ chính thức theo quy định pháp luật của Việt Nam.
Một số môi trường sinh cảnh biển tự nhiên quan trọng được cho là đặc biệt nhạy cảm với các tác
động từ dự án phát triển như điện gió ngoài khơi. Các môi trường này bao gồm rạng san hô, thảm
cỏ biển, rừng ngập mặn và bãi triều. Các bãi triều ở đồng bằng sông Cửu Long và sông Hồng hỗ
trợ sự phát triển của quần thể chim ven biển mang tầm quan trọng thế giới, bao gồm chim dẽ
mỏ thìa, một loại chim nằm trong danh sách cần được bảo vệ cực kì nguy cấp. Một số môi trường
sống nhạy cảm có thể tìm thấy ở khu vực nước nông ven biển, và do đó đặc biển dễ bị ảnh hướng
bởi các dự án phát triển điện gió ở bãi triều.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy các đơn vị phát triển điện gió ngoài khơi thường tránh xâm lấn vào
các khu vực được quy định, đặc biệt là việc quy định đó có thể dẫn đến suy đoán không được
chấp thuận phát triển dự án, chỉ đơn giản là tránh các khu vực này, tập trung vào các khu vực có
tính chất tương tự để phát triển điện gió. Một số biện pháp giảm thiểu kỹ thuật đã được ngành
điện gió tại các thị trường khác xây dựng để có thể phát triển trang trại gió gần khu vực được quy
định, chẳng hạn như sửa đổi hoạt động của tuabin gió khi có mặt các loài chim và dơi và sử dụng
hàng rào bong bóng (bubble curtain) để hạn chế tiếng ồn đối với động vật có vú ở biển trong quá
trình lắp đặt móng tuabin gió ngoài khơi. Khung pháp lý vững chắc và hệ thống ĐTMX cần được
thiết lập để đảm bảo các biện pháp giảm thiểu tác động phù hợp được thực hiện ở Việt Nam.
Các phương án cho Việt Nam bao gồm công bố chính thức mạng lưới các khu bảo tồn biển (MPA)
và xác định những khu vực có tiềm năng sử dụng đa mục đích cho các trang trại gió ngoài khơi
và những khu vực không tương thích. Phương án tốt nhất là tránh phát triển điện gió ngoài khơi ở
các địa điểm được quy định, tiếp theo là có các phương án kỹ thuật để giảm thiểu tác động tiềm
tàng. Bản báo cáo này khuyến nghị việc xây dựng các hướng dẫn và các yêu cầu đánh giá và giám
Các loài sinh vật biển nhạy cảm (Giá trị đa dạng sinh học ưu tiên)
Một số loài sinh vật biển ở Việt Nam rất nhạy cảm với các hoạt động khảo sát và xây dựng. Những
loài này nói chung là những loài đặc biệt nhạy cảm với tiếng ồn dưới nước, các rung động, ngạt
nước, hoặc mất môi trường sống đáy biển. Các đơn vị phát triển cần xem xét khả năng hiện diện
của cá heo, bò biển, cá mập, rùa và một số loài cá sống theo đàn. Những loài này có bao gồm các
nhánh đang bị đe doạ bởi nguy cơ tuyệt chủng.
Động vật có vú ở biển đặc biệt nhạy cảm với tiếng ồn dưới nước. Mức độ nhạy cảm khác nhau tùy
theo loài, tần số và thời gian của tiếng ồn. Một số loài cũng dễ bị rủi ro va chạm với tàu (ví dụ như
bò biển). Pháp luật bảo vệ cấm săn bắn các loài này nhưng không bảo vệ được chúng không bị
tổn hại do các hoạt động hàng hải khác. Một số loài rất hiếm, như cá heo Irrawaddy được tìm thấy
ở Việt Nam. BỘ TN&MT giám sát việc bảo vệ chúng.
Kinh nghiệm quốc tế đã chứng kiến việc đưa các loài nhạy cảm vào trong ĐTMX, nơi đơn vị phát
triển phải đưa ra các biện pháp giảm thiểu đầy đủ để đáp ứng yêu cầu của các cơ quan quản lý là
số lượng mỗi loài sẽ không chịu tác động bất lợi đáng kể nào.
Việt Nam có thể áp dụng các thông lệ ngành đã được sử dụng ở các nước có lịch sử phát triển
ngoài khơi, như sử dụng các thiết bị làm suy giảm âm thanh, công việc theo mùa, các quan sát
viên hoặc kỹ thuật đóng cọc mềm trong quá trình khảo sát và xây dựng để giảm thiểu tác động
đối với các loài nhạy cảm.
Dơi và chim di cư
Nhiều loài chim dùng Việt Nam làm điểm dừng chân hoặc điểm đến trong quá trình di cư theo
mùa. Các bãi triều của Việt Nam hỗ trợ các quần thể chim bờ biển đang bị đe doạ và có nguy cơ
bị tuyệt chủng bao gồm chim dẽ mỏ thìa, là một loài cực kỳ nguy cấp. Việc phát triển các dự án
điện gió gần bờ đưa ra nguy cơ đáng kể với các loài chim, gây nên sự xáo trộn và thay đổi môi
trường sống của các loài ven biển. Các vùng biển nhiệt đới của Việt Nam ít hỗ trợ quần thể chim
biển xa bờ hơn so với các khu vực ôn đới, ví dụ nhưng khu vực Biển Bắc ở Châu Âu. Tuy nhiên,
hiện tại vẫn còn rất ít dữ liệu để xác định được các khu vực xa bờ mà chim biển có thể bị ảnh
hưởng bở sự phát triển của điện gió ngoài khơi.
Có một yêu cầu theo luật định đối với các đơn vị phát triển là thực hiện ĐTMX trong những trường
hợp như vậy, nhưng các tiêu chuẩn không quy định cụ thể đối với các loài chim và trang trại gió
ngoài khơi. Trong thực tế, các đơn vị phát triển trang trại gió trên thế giới thường ưu tiên tuân
theo các tiêu chuẩn quốc tế (Tiêu chuẩn thực hiện xã hội và môi trường của IFC).46 Chứng minh sự
tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế có thể mang lại lợi ích cho các đơn vị phát triển về mặt thu hút tài
chính hoặc đầu tư quốc tế.
Trên bình diện quốc tế, vấn đề được giải quyết bằng cách tiến hành khảo sát để xác định các loài
chim và con đường di cư, và sau đó tránh các khu vực đó nếu có thể. Nếu cần thiết, có thể yêu cầu
các đơn vị phát triển sửa đổi số lượng và kích thước của tuabin gió, bố trí của tuabin, tắt tuabin
trong các thời kỳ di chuyển chính và ngừng quay rôto khi gió thổi rất nhẹ, không tạo ra điện. Mặc
Việt Nam có một số loài dơi và hiện chưa biết đến sự tương tác của chúng với các trang trại gió,
mặc dù điều này chỉ có thể là một vấn đề liên quan tới các dự án gần bờ.
Phương án đối với Việt Nam bao gồm thực hiện công việc khảo sát (có thể hợp tác với các bên để
giảm chi phí và mang lại lợi ích cho các phát triển khác) và tránh các khu vực có nguy cơ cao đã
được nhận diện. Nghiên cứu từ các quốc gia khác có ngành điện gió trên bờ và ngoài khơi được
thiết lập về rủi ro va chạm và các hành vi tránh các loài chim và dơi có thể được sử dụng để thông
báo các chính sách về địa điểm, phương pháp đánh giá tác động và thiết kế hoặc bố trí trang trại
gió. Cần rà soát và hài hòa các yêu cầu của ĐTMX với các tiêu chuẩn quốc tế.
Ngành dầu khí do Bộ Công Thương và PetroVietnam (PVN) quản lý. Ngành này đã tuân theo
thông lệ quốc tế tốt nhất, cho đến khi gần đây đưa các yêu cầu về các cân nhắc môi trường vào
luật pháp trong nước. Không rõ luật pháp mới so với thông lệ quốc tế như thế nào.
Trước đây, khai thác dầu khí được ưu tiên hơn các mục đích sử dụng khác trên biển và các đơn vị
phát triển điện gió ngoài khơi có thể tránh các khu vực này nhưng có thể tối ưu hóa sử dụng các
phương tiện hỗ trợ trên bờ (ví dụ như cảng), dữ liệu khảo sát và chuỗi cung ứng.
Ở Việt Nam, cáp thông tin liên lạc kéo dài từ Đà Nẵng, Qui Qui đến Vũng Tàu, khoảng 150 km
trước khi kết nối với hệ thống cáp ngầm quốc tế lớn chạy giữa châu Á và châu Âu.47 Một số tuyến
cáp quốc tế lớn chạy song song với bờ biển Việt Nam và không kết nối vào bờ nhưng vẫn có
thể gây hạn chế cho lắp đặt các trang trại gió ngoài khơi (cáp FLAG Châu Âu-Châu Á (FEA) chạy
trong phạm vi 80 km từ bờ biển Việt Nam). Chỉ có duy nhất một tuyến cáp điện ngầm trong cả
nước, kết nối Phú Quốc với đất liền, nơi đây có tiềm năng gió ngoài khơi thấp.48
Cáp ngầm do Bộ Thông tin và Truyền thông (MIC) và các nhà mạng cung cấp dịch vụ internet
trong nước quản lý. Việt Nam có trách nhiệm kiểm soát các hoạt động trong vùng biển của mình,
có thể bao gồm cả sự hiện diện của cáp ngầm quốc tế và bảo vệ chúng khỏi bị hư hỏng (ví dụ,
như do ngư cụ hoặc lắp đặt trang trại gió ngoài khơi gây ra).49
Trong các khu vực pháp lý khác, thực tiễn tốt nhất là lập bản đồ chính xác các tuyến cáp ngầm và
xem xét chúng sớm trong quá trình định vị địa điểm điện gió ngoài khơi và lập quy hoạch các địa
điểm phát triển trong tương lai.
Vùng biển của Việt Nam bận rộn với hoạt động tàu bè và Hình 12.1 cho thấy mật độ vận chuyển
điển hình quanh Việt Nam—xem Phần 20.3 về Dữ Liệu Không Gian để biết thêm thông tin về bản
Hình 12.1: Hoạt động của tuyến hàng, đối với các tàu có Hệ thống nhận dạng tự động
(AIS), ở các vùng biển xung quanh Việt Nam
Có một số cảng quốc tế lớn ở Hải Phòng, Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh, cùng với các cảng
nhỏ khác có tiềm năng mở rộng để đáp ứng hạ tầng cơ sở hỗ trợ trên bờ, có thể được tính đến
trong quá trình xây dựng kế hoạch tổng thể cảng biển năm 2021–2030.
Một số vị trí phát triển điện gió ngoài khơi tiềm năng nằm trong vùng lãnh hải 12 hải lý (do hạn
chế về tốc độ gió và độ sâu của nước), nơi Việt Nam có chủ quyền và có thể điều tiết mọi hoạt
động đi lại của tàu thuyền.50
Kinh nghiệm quốc tế ở các quốc gia là khác nhau, với một số quốc gia tuyên bố các khu vực cấm
trang trại gió (ví dụ như Bỉ và Đức) trong khi một số quốc gia khác mở cho trung chuyển (ví dụ
như Anh và Đan Mạch). Tại những nơi có thể, tất cả các quốc gia đều cố gắng đặt các phát triển
ra ngoài các tuyến vận chuyển và tuyên bố các vùng an toàn tối thiểu (có thể khác nhau giữa giai
đoạn xây dựng và vận hành) vì nguy cơ tai nạn và thương vong tiềm ẩn của con người và thiệt hại
môi trường.51
Khuyến nghị quy hoạch không gian biển để thống nhất vị trí, bố trí và khoảng cách phát triển
điện gió.52 Các tuyến vận chuyển là một hạn chế, nhưng các cảng lại là cơ hội để hỗ trợ và phát
triển kinh tế trên bờ (khảo sát, xây dựng và bảo trì/tàu dịch vụ và chuỗi cung ứng). Như được thảo
luận trong Phần 18, việc xây dựng trang trại gió ngoài khơi thường đòi hỏi một khu vực bố trí lớn
trên bờ, như vậy cần xem xét năng lực và công trình của các cảng biển trong việc đáp ứng nhu
cầu phát triển trang trại gió ngoài khơi (hoặc khả năng mở rộng để có thể đáp ứng) cũng như chỉ
đơn giản là cần tính đến khoảng cách giữa chúng với các địa điểm phát triển.
Ngư trường
Đánh bắt cá ở Việt Nam là nguồn thực phẩm, hoạt động kinh tế và sinh kế quan trọng. Ngư
trường là một hạn chế đối với phát triển điện gió ngoài khơi. Tùy thuộc vào loại hoạt động đánh
bắt, một số kỹ thuật đánh bắt có thể bị ảnh hưởng nhiều hơn so với các kỹ thuật khác. Khi có mặt
trang trại gió, kỹ thuật kéo rê, thiết bị đáy di động chắc chắn sẽ bị hạn chế nhiều hơn so với kỹ
thuật đánh bắt trong tầng nước giữa
Các khu vực đánh cá thương mại ở Vịnh Bắc Bộ, Trung và Đông Nam Bộ có thể hạn chế sự phát
triển của điện gió ngoài khơi. Với các khu vực ven biển đã bị đánh bắt quá mức, việc các đơn vị
phát triển điện gió di chuyển ngư trường gây thêm áp lực lên trữ lượng và sinh kế địa phương.
Một số ngư dân đã di chuyển đến các ngư trường xa bờ hấp dẫn hơn với các loài như cá ngừ, cá
chuồn. Nỗ lực dịch chuyển đánh bắt sang các loài/khu vực khác đã ảnh hưởng đến trữ lượng và
môi trường sống ở những nơi đó, đồng thời làm tăng chi phí cho ngư dân phải đi xa hơn để đánh
bắt hoặc phải trả tiền để mua ngư cụ mới/khác.
Tổng cục Thủy sản, thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Bộ NN-PTNT), quản lý nghề
cá theo công suất động cơ tàu thuyền và khu vực đánh bắt cá. DoF chịu trách nhiệm thực thi các
quy tắc đánh bắt cá và quản lý đánh bắt cá bất hợp pháp.53
Các phương án cho Việt Nam bao gồm tham khảo ý kiến của ngư dân và lựa chọn địa điểm để
tránh can thiệp vào các ngư trường thương mại quan trọng nhất và môi trường sống gắn kết về
mặt sinh học của các loài cá (khu vực sinh sản, nuôi dưỡng), sử dụng các chương trình bồi thường
và thỏa thuận về các khu vực đa mục đích (ví dụ: cho phép quá cảnh, sử dụng một số thiết bị nhất
định). Thay đổi tập quán đánh bắt, trữ lượng và môi trường vật lý (bao gồm cả thay đổi do biến
đổi khí hậu như thay đổi nhiệt độ) có thể dẫn đến thay đổi vị trí của các ngư trường quan trọng
theo thời gian, như vậy các ngư trường thương mại quan trọng không phải bất biến và thông tin
về vị trí và tầm quan trọng các khu vực đánh cá cần được xem xét liên tục. Việt Nam cũng có thể
học hỏi kinh nghiệm từ các nước châu Á khác đã phát triển điện gió ngoài khơi, trong đó có sự
tham gia của các bên liên quan trong quá trình quy hoạch không gian biển và ĐTMX được cung
cấp đủ nguồn lực.
Ngành nuôi trồng thủy sản biển mới nổi (cá mú, cá bớp, động vật thân mềm, ngọc trai, tôm hùm)
được thực hiện ở các vùng nước bán ngập với diện tích bao phủ khoảng 250.000 ha mặt nước.56
Các vùng nuôi chính tập trung ở Hải Phòng, Phú Yên, Quảng Ninh, Khánh Hòa và Vũng Tàu.57
Ngành này do Tổng cục Thủy sản và Bộ NN-PTNT quản lý. Các cơ quan này ủng hộ việc mở rộng
nuôi cá vây tay ở những khu vực trên và chịu trách nhiệm theo luật định hướng dẫn phát triển các
khu nuôi trồng thủy sản lớn.58 Trong thực tiễn, chưa thấy sự xung đột nào của việc này với phát
triển điện gió ngoài khơi. Nhưng khi số lượng các trang trại nuôi trồng thủy sản và trang trại gió
tăng lên, khả năng xung đột cũng tăng lên.
Trong các khu vực pháp lý khác, các đơn vị phát triển thường tránh các khu vực nuôi trồng thủy
sản đã được thiết lập. Việc xác định và thiết lập các khu vực quản lý nuôi trồng thủy sản (các cụm)
và các khu vực đa mục đích được sử dụng để giảm thiểu xung đột.59 Các nghiên cứu sinh học và
kỹ thuật đã chứng minh tính khả thi chung của việc nuôi trồng thủy sản biển và các trang trại gió
ngoài khơi tại cùng một chỗ, nhưng cần phải giải quyết những thách thức về kinh tế xã hội và kỹ
thuật phức tạp.60
Các phương án cho Việt Nam bao gồm quy hoạch không gian cho các khu vực dành riêng cho
quản lý nuôi trồng thủy sản và đánh giá tiềm năng cho các vị trí vừa nuôi trồng thủy sản vừa phát
triển các trang trại gió ngoài khơi sau khi chúng được thiết lập.
Phong cảnh và cảnh biển trải dài dọc theo bờ biển Việt Nam, và tổng cộng có 22 cảnh quan được
bảo vệ đã được lập hồ sơ.61 Tác động trực quan của một trang trại gió có thể tích cực hoặc tiêu
cực đối với các nhà quan sát. Với các dự án điện gió gần bờ, việc cản trở tầm nhìn quan trọng hơn
so với các nơi khác.
Ở Việt Nam, các khu bảo vệ cảnh quan được tuyên bố cho những khu vực có chất lượng cảnh
quan và thẩm mỹ và thường được gắn với các khu vực rừng hoặc các khu văn hóa. Chúng được
UBND Tỉnh quản lý và bao gồm các điều khoản hạn chế thay đổi và sử dụng cảnh quan nhất
định.62
Trong các khu vực pháp lý khác, cảnh quan và cảnh biển thường được pháp luật bảo vệ và các
đơn vị phát triển phải tuân theo hướng dẫn chính thức về cách đánh giá tác động từ các trang trại
gió ngoài khơi, thường liên quan đến tham vấn rộng rãi và biểu thị hình ảnh (chấp ảnh).
Các phương án cho Việt Nam bao gồm lập bản đồ các cảnh quan được bảo vệ, tham vấn ý kiến
cộng đồng địa phương, làm rõ các yêu cầu và hạn chế của việc đặt các trang trại gió ngoài khơi
trong khu vực cảnh quan được bảo vệ và soạn thảo hướng dẫn và quy định cho các đơn vị phát
triển để xem xét các khía cạnh cảnh quan và cảnh biển trong quy trình ĐTMX, bao gồm lựa chọn
của cộng đồng địa phương trong việc đặt địa điểm trang trại gió.
Mặc dù hầu hết các địa điểm có giá trị lịch sử và văn hóa đều nằm trong đất liền và sẽ không bị
ảnh hưởng bởi sự phát triển của điện gió ngoài khơi (trừ Vịnh Hạ Long, và có thể là các địa điểm
UNESCO của Hội An), khảo cổ học dưới nước (chiến trường Bạch Đằng) không được bảo vệ khỏi
sự phát triển. Xác tàu đắm thường ở gần bờ biển.
Di sản lịch sử và văn hóa thuộc quyền quản lý của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (Bộ VHTTDL).
Bảo vệ và chuyên môn tập trung vào khảo cổ học trên mặt đất với các đồ tạo tác dưới nước từ các
vụ đắm tàu thường được bán và không được bảo vệ để tránh thiệt hại do phát triển gây ra.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy mức độ bảo vệ cao đối với khảo cổ học dưới nước và các di tích
lịch sử (ví dụ, pháo đài ven biển) và các đơn vị phát triển tránh đặt dự án gần các địa điểm này.
Trước khi lắp đặt, các đơn vị phát triển tham khảo các hồ sơ khảo cổ và tận dụng các khảo sát địa
vật lý được thực hiện để đánh giá sự phù hợp của đáy biển đối với tuabin và xác định các vị trí có
thể có xác tàu dẫn tới việc có thể yêu cầu khảo sát địa chất cụ thể (ví dụ: khảo sát địa vật lý chi
tiết hơn).
Các hoạt động du lịch do Bộ VHTTDL quản lý, sẽ yêu cầu các đơn vị phát triển cung cấp đủ đảm
bảo rằng các hoạt động du lịch và việc làm và thu nhập liên quan sẽ không chịu tác động lớn do
phát triển điện gió ngoài khơi.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy các đơn vị phát triển điện gió ngoài khơi thường tránh các khu vực
có các hoạt động du lịch quan trọng vì đặc thù về địa điểm và tạo ra nhiều việc làm của ngành
này (tăng thêm giá trị kinh tế và xã hội).
Các phương án cho Việt Nam bao gồm lựa chọn các địa điểm cách xa các điểm nóng du lịch. Phát
triển điện gió móng nổi ngoài khơi có thể có nhiều cơ hội hơn đặt xa bờ hơn, xa các địa điểm du
lịch. Cũng có thể tham vấn ý kiến cộng đồng để lựa chọn địa điểm phát triển trang trại gió ngoài
khơi làm điểm thu hút khách du lịch, như trường hợp điện gió Bạc Liêu đã vô tình trở thành một
điểm thu hút khách du lịch.
Sự không rõ rang của hoạt động quân sự và các khu vực hoạt động có thể hạn chế sự phát triển
và hoạt động của các khu vực phát triển điện gió ngoài khơi trong tương lai.
Hiện chưa rõ các yêu cầu pháp lý liên quan đến các khu vực tập trận quân sự và phát triển điện
gió ngoài khơi, nhưng trên thực tế, các đơn vị phát triển lựa chọn tham vấn sớm với quân đội vì họ
có vai trò quan trọng trong việc ra quyết định và các vấn đề liên quan đến các vị trí điện gió ngoài
khơi được giải quyết theo từng trường hợp.
Trong các khu vực pháp lý khác, quân đội đã thiết lập các khu vực cấm, các hạn chế cụ thể theo
địa điểm và các khu vực không hạn chế để phát triển điện gió ngoài khơi. Một số hoạt động tạm
thời như lắp đặt cáp xuất điện hoặc công việc khảo sát thường được cho phép sau khi tham vấn ý
kiến của quân đội.63, 64
Hàng không
Các tuabin gió ngoài khơi gây rủi ro cho ngành hàng không thông qua cản trở vật lý, nhiễu sóng
radar và các tác động tiêu cực tiềm ẩn đối với hiệu suất của hệ thống thông tin liên lạc và điều
hướng.65 Do vậy, các khu vực xung quanh trung tâm kiểm soát không lưu (radar), cảng hàng
không, sân bay và khu vực không lưu có thể đưa ra những hạn chế mềm hoặc cứng cho các đơn
vị phát triển.
Hiện có nhiều địa điểm liên quan đến hàng không dọc theo bờ biển Việt Nam phục vụ các trung
tâm đô thị lớn và đây có thể là một hạn chế đối với phát triển điện gió gần bờ.
Cục Hàng không dân dụng Việt Nam thuộc Bộ Giao thông vận tải (Bộ GTVT) quản lý ngành hàng
không dân dụng, chịu trách nhiệm xây dựng kế hoạch, chương trình, quy định và tiêu chuẩn, cung
cấp quản lý chuyến bay và an toàn hàng không. Đơn vị này cũng quản lý một số sân bay và cơ sở
hạ tầng hỗ trợ hàng không.66 Yêu cầu pháp lý là phải tham vấn ý kiến của cơ quan này.
Việt Nam cần có các quy trình cho thuê khu vực biển và cấp phép dự án một cách cân bằng, minh
bạch và hiệu quả để thực hiện được quy mô lớn điện gió ngoài khơi như được thảo luận trong
báo cáo này.
Chúng tôi xác định các lỗ hổng cần được giải quyết để đảm bảo các quy trình có thể quản lý
được sự gia tăng theo dự kiến về khối lượng dự án cần xin giấy phép và đưa ra các khuyến nghị
để cải thiện nhằm củng cố sự phát triển của ngành điện gió ngoài khơi bền vững ở Việt Nam.
Trong Phần 14, chúng tôi đề cập đến các cách tiếp cận tổng thể trong tương lai đối với việc cạnh
tranh cho thuê và PPA. Ở đây, chúng tôi tập trung vào các thu xếp cho thuê và cấp phép hiện
hành và cách thức cải tiến chúng ở mức chi tiết hơn, có thể đó là phương pháp tiếp cận tập trung
một giai đoạn hoặc phân cấp hai giai đoạn hoặc bất kỳ một phương pháp nào khác đối với mua
sắm của chính phủ.
■ Một hợp đồng thuê đáy biển độc quyền cho phép khảo sát công việc và sử dụng địa điểm
thông qua các giai đoạn phát triển, xây dựng và vận hành một trang trại gió ngoài khơi, và
■ Tất cả các giấy phép về môi trường và xây dựng cần thiết để tiến hành công tác xây dựng và
vận hành.
Các quy trình này được vạch ra dựa trên sự tham gia của các bên liên quan tại Việt Nam, bao gồm
các bộ ngành của Chính phủ và các đơn vị phát triển dự án:
■ Chính phủ:
• Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam (VASI).
■ Đơn vị phát triển dự án:
• Copenhagen Offshore Partners (COP),
• Enterprize Energy, và
• Mainstream Renewable Power.
108
Các phần cụ thể của pháp luật Việt Nam về năng lượng tái tạo được nêu trong Phần 13.5.
■ Bộ Công Thương—(thông qua Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo (EREA)) hoặc sở công
thương các tỉnh tùy thuộc vào công suất của các dự án. Bộ Công Thương là bộ chủ quản của
ngành năng lượng tái tạo,
■ Cục điều tiết điện lực Việt Nam (ERAV) quản lý việc phát triển tất cả các dự án điện, tuy nhiên
EREA có thẩm quyền và trách nhiệm điều tiết FIT đối với năng lượng tái tạo,
■ Bộ Tài nguyên và Môi trường (MONRE) và các sở tài nguyên và môi trường tỉnh là đơn vị phê
duyệt đánh giá tác động môi trường, và
■ Bộ Xây dựng.
Sau khi nhận được thư chấp thuận địa điểm (độc quyền) từ Bộ Công Thương/Ủy ban nhân dân
tỉnh, hoặc là văn phòng thủ tướng, đơn vị phát triển được quyền thực hiện các hoạt động đo gió
tại địa điểm đó để đưa vào nghiên cứu tiền khả thi. Đây thực sự là một hoạt động thu xếp cho
thuê và đơn vị phát triển được phép bắt đầu quá trình xin phê duyệt cho thuê đáy biển.
Tất cả các bên nộp hồ sơ phải tham vấn chính quyền địa phương khi bắt đầu, vì bất kỳ sự trùng
lặp địa điểm nào đều sẽ được báo hiệu từ rất sớm trong quá trình này. Hiện không có quy trình
cạnh tranh chính thức nào về vấn đề này.
Đăng ký xin phê duyệt cho thuê đáy biển không phải là một quá trình độc lập, và phù hợp với các
giai đoạn phát triển dự án sơ bộ và phát triển dự án, tham khảo Hình 13.2.
Để đăng ký cho thuê đáy biển, trang trại gió được đề xuất phải được đưa vào Quy hoạch phát
triển điện lực (PDP) hoặc Quy hoạch phát triển điện gió của tỉnh (PWPDP). Để được đưa vào trong
các quy hoạch này, các đơn vị phát triển phải nộp nghiên cứu tiền khả thi trong bộ hồ sơ trình lên
Bộ Công Thương. Các chi tiết như địa điểm dự án, nguồn điện và kế hoạch kết nối cần phải được
phê duyệt để đưa vào PDP trước khi đơn vị phát triển có thể xin phê duyệt đầu tư và các giấy
phép liên quan khác.
Theo Thông tư số 02 của Bộ Công Thương, đơn vị phát triển cần lấy ý kiến bằng văn bản của cơ
quan có thẩm quyền (Bộ TN&MT) và các bộ phận tương đương ở cấp vùng) về việc sử dụng tài
nguyên thiên nhiên và các khu vực hàng hải cho dự án điện gió ngoài khơi đề xuất và Tổng Công
ty điện lực miền của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) hoặc Tổng công ty truyền tải điện quốc
gia của EVN khi đăng ký đưa vào PDP.
Sau khi đã được đưa vào PDP, theo Thông tư 02 cần thực hiện nghiên cứu khả thi (FS) để xin thuê
đáy biển.70, 71, 72 Là một phần của FS, các đơn vị phát triển phải được chấp thuận của Bộ TN&MT
và sở TN&MT để tiến hành khảo sát và các hoạt động phát triển. Ngoài ra, họ phải có văn bản xác
nhận hoặc phê duyệt của các cơ quan có thẩm quyền về vị trí của các tuabin gió ngoài khơi.
Hiện tại, không có yêu cầu cụ thể nào đối với đơn vị phát triển thuê đáy biển trước khi tiến hành
khảo sát. Tuy nhiên, quy trình không rõ ràng. Theo các nguồn tư vấn trong nước, để khảo sát
mà chưa thuê đáy biển, đơn vị phát triển phải liên hệ với Bộ Công Thương và Bộ TN&MT.73 Bộ
TN&MT chuyển đề nghị này tới Văn phòng Chính phủ để phê duyệt. Khi Văn phòng Chính phủ đã
phê duyệt đề nghị, có thể bắt đầu khảo sát. Không có yêu cầu hoặc hướng dẫn nêu rõ các cuộc
khảo sát phải kéo dài bao lâu để thu thập một lượng thông tin thích hợp.
Để đăng ký khu vực biển cho dự án điện gió ngoài khơi tại Việt Nam, đơn vị phát triển phải nộp
đơn xin phê duyệt cho thuê đáy biển, theo Nghị định 51 của Chính phủ.74, 75 Cần lưu ý rằng Bộ
TN&MT đang hiện dự thảo Nghị định mới thay thế và do đó quá trình này có thể thay đổi. Vẫn
chưa rõ khi nào nghị định sẽ có hiệu lực và sẽ thay đổi những gì.
Phê duyệt cho thuê đáy biển có thể được cấp bởi Thủ Tướng, Bộ TN&MT hoặc UBND Tỉnh cho
từng dự án. Tuy nhiên, nói chung các có cách quy định sau:
■ Trong vòng 3 hải lý tính từ bờ (sau này là < 6 hải lý)—UBND TỈNH cấp phép cho thuê đáy biển.
■ Ngoài phạm vi 3 hải lý tính từ bờ (sau này là > 6 hải lý)—VASI kiểm soát việc tiếp cận đáy biển,
tuy nhiên, Văn phòng Chính phủ cấp phép cho thuê đáy biển với tham mưu của VASI.76
Năm 2017, luật quy hoạch mới ở Việt Nam có hiệu lực quy định rằng để cho thuê một khu vực đáy
biển hoặc đất cho dự án điện gió, nó phải được liệt kê trong một “kế hoạch được cho thuê”77, 78
Không chắc chắn các khoản phí này được chi trả từ lúc nào đến lúc nào, và liệu chúng có áp dụng
cho toàn bộ khu vực trang trại gió hay chỉ các phần chiếm giữ đáy biển và mặt biển. Đây là một
lĩnh vực quan trọng cần Chính phủ làm rõ vì mọi khoản phí trả trước sẽ cần được xem xét trong
các trường hợp đầu tư của đơn vị phát triển.
Cho đến nay, các đơn vị phát triển điện gió ngoài khơi đang hoạt động ở Việt Nam chưa phải trả
bất kỳ khoản phí nào để thực hiện công việc khảo sát trong khu vực phát triển của mình.
Cần lưu ý rằng trong một số trường hợp nhất định, tùy thuộc vào tài nguyên biển trong khu vực
và ý nghĩa kinh tế xã hội, Bộ TN&MT và UBND Tỉnh liên quan có thể quyết định mức phí thuê đáy
biển cao hơn hoặc thấp hơn.
Giấy phép
Tại Việt Nam, quy trình cấp phép điện gió trên bờ được sử dụng cho các dự án điện gió gần bờ
trong phạm vi 3 hải lý tính từ bờ biển. Quy trình cấp phép cho dự án điện gió móng cố định ngoài
khơi phức tạp và không rõ ràng. Như đã nêu ở trên, đó không phải là một quy trình độc lập, mà
song song với các thỏa thuận cho thuê hiệu quả và quy trình lập quy hoạch phát triển điện (PDP).
Các dự án năng lượng tái tạo được yêu cầu tuân thủ hai yếu tố chính của quy trình pháp lý:
Nhìn chung, quy trình hiện tại để đảm bảo giấy phép xây dựng và môi trường cần thiết cho các
dự án điện gió ngoài khơi có thể được chia thành năm giai đoạn như được nêu trong Hình 13.2.
Bảng 13.2 cung cấp thêm chi tiết về phân tích các phê duyệt cần thiết ở mỗi giai đoạn.
Phát triển dự án sơ bộ
Phát triển dự án sơ bộ bắt đầu với việc lựa chọn địa điểm và kết thúc khi đơn vị phát triển hoặc
nhà đầu tư có được quyết định đầu tư từ Bộ KH&ĐT. Rào cản chính về mặt quy định trong giai
Phát triển dự án sơ bộ
Phát triển dự án
Xây dựng
Vận hành
đoạn này là dự án phải được đưa vào trong PDP/PWPDP. Thời gian của giai đoạn này có thể mất
tới 24 tháng đối với các địa điểm không có dữ liệu gió.
Phát triển dự án
Trong giai đoạn phát triển dự án, đơn vị phát triển phải có được một loạt các thỏa thuận, ủy quyền
và giấy phép cho trang trại gió và cơ sở hạ tầng liên quan, bao gồm cả kết nối lưới điện từ các cơ
quan khác nhau bao gồm Bộ Công Thương và EVN. Các rào cản pháp lý chính trong giai đoạn
này là:
■ FS—báo cáo này phải bao gồm tất cả các dữ liệu và thông tin cần thiết để tiếp cận các cơ
quan quản lý khác nhau để phê duyệt, trong đó có ĐTMX, và
■ PPA.
Ước tính giai đoạn này có thể mất tới bốn năm đối với một số trường hợp và phải được hoàn
thành trước khi xây dựng.
Pháp luật yêu cầu các đơn vị phát triển lập ĐTMX theo tiêu chuẩn trong nước để BỘ TN&MT phê
duyệt cho tất cả các dự án điện gió ngoài khơi. Các tiêu chuẩn ĐTMX ở Việt Nam được lập mà
không tính đến điện gió ngoài khơi và do đó không phải là khuôn khổ lý tưởng cho ĐTMX toàn
diện của các trang trại gió ngoài khơi.
Xây dựng
Sau khi xây dựng, đơn vị phát triển phải có Giấy phép sản xuất điện từ ERAV để bắt đầu sản xuất
điện.
Văn phòng Chính phủ tuyên bố là cơ quan này sẽ trả lời hồ sơ trong vòng 60 ngày sau khi nộp
đủ tài liệu hỗ trợ phùh hợp, như FS và đánh giá tác động môi trường và xã hội. Không rõ là khung
thời gian cứng như vậy có được đảm bảo không cũng như có khả năng thực hiện trên thực tế.
So sánh về cấp phép và cho thuê khu vực biển (đáy biển)
Để cung cấp thông tin khảo sát làm thế nào các khu vực pháp lý khác đã quản lý quy trình cho
thuê đáy biển và cấp phép cho dự án điện gió ngoài khơi. Trong một số khu vực pháp lý cho thuê
và cho phép là các quy trình khác nhau và độc lập với nhau trong khi ở những nước khác lại là quy
trình chung.
Ở đây chúng tôi tập trung vào Anh và xứ Wales,82 Hoa Kỳ và Hà Lan để so sánh. Lợi ích chính
của phương pháp tiếp cận thực hiện ở từng nước trong ba quốc gia trên được trình bày trong
Bảng 13.1, và chi tiết hơn được trình bày trong Bảng 13.3.
Anh và xứ Wales có cơ quan quản lý cụ thể (BEIS ở Anh, Tổ chức quản lý biển và Tài nguyên Thiên
nhiên xứ Wales) để giúp tinh giản quá trình cấp phép. Các tổ chức này đánh giá tất cả các hồ sơ
xin cấp phép cho điện gió ngoài khơi ở Anh và xứ Wales.
Hoa Kỳ chuẩn bị giao dự án quy mô công nghiệp đầu tiên trong năm năm tới; tuy nhiên, họ đã
phải đối mặt với những thách thức liên quan đến sự không chắc chắn trong cấp phép và có sự
khác biệt giữa quy trình của tiểu bang và liên bang trong khu vực đất liền và ngoài khơi.
Điện gió ngoài khơi ở Hà Lan đã đạt mức công suất đặt 2 GW. Các dự án được phát triển theo lộ
trình điện gió ngoài khơi, trong đó xác định địa điểm các trang trại gió mới sẽ được xây dựng và
đặt mục tiêu lắp đặt đến năm 2030.83
Bảng 13.1: Các khía cạnh chính của các chế độ cấp phép khác
Các khía cạnh hiệu quả của quy trình cấp phép hiện tại và các rủi ro và vấn đề chính ở Việt Nam là:
■ Lệ phí cho thuê đáy biển tương đối thấp và chắc chắn đây không phải là một hạn chế phát triển.
■ Cho thuê đáy biển không bắt buộc phải thực hiện khảo sát.
■ Những thay đổi hiện đang được thực hiện theo các hướng dẫn hiện có để hỗ trợ phát triển
các dự án điện gió ngoài khơi ở Việt Nam. Sự không chắc chắn về hình thức cuối cùng của
chúng như hiện nay không khuyến khích được phát triển trong ngắn hạn cho tới khi nó được
hoàn thiện.
Những rủi ro và vấn đề của quy trình cấp phép và quy định hiện hành ở Việt Nam là:
■ Cho thuê đáy biển hiện đang là một quá trình kéo dài, làm tăng thêm rủi ro và chi phí
phát triển.
■ Độc quyền địa điểm phát triển dự án như hiện nay là rủi ro cho các đơn vị phát triển/nhà đầu
tư. Thu thập đầy đủ thông tin mất chi phí khá lớn cho một địa điểm mà họ có thể không có
quyền độc quyền để phát triển.
■ Yêu cầu dự án phải được được đưa vào PDP trước khi các đơn vị phát triển được phép triển
khai có thể ngăn cản các đơn vị phát triển. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng một số đơn vị phát triển
đã bắt đầu nghiên cứu khả thi trước khi đăng ký vào PDP.
■ Yêu cầu dự án phải được đưa vào PDP hiện đang là một thủ tục tốn thời gian và phức tạp do
các vấn đề về quy hoạch truyền tải ở Việt Nam. Điều này làm tăng thêm rủi ro và sự không
chắc chắn của dự án.
■ Hệ thống quy trình cấp phép không rõ ràng có thể ngăn cản các đơn vị phát triển làm việc tại
Việt Nam, nếu không sẽ làm tăng thêm rủi ro.
■ Các tiêu chuẩn của ĐTMX không đặc trưng cho điện gió ngoài khơi và không đáp ứng thông
lệ quốc tế tốt của ngành cho phát triển trang trại gió ngoài khơi.
■ Không có mốc thời gian rõ ràng cho phê duyệt giấy phép, điều này sẽ gây khó khăn cho lập
kế hoạch và tài trợ các dự án.
■ Thiếu minh bạch và quản trị trong suốt quá trình cấp phép, điều này làm tăng thêm rủi ro và
chi phí phát triển.
■ Không có liên kết hoặc phối hợp rõ ràng giữa các Bộ ngành của Chính phủ và UBND Tỉnh,
điều này sẽ làm tăng sự không chắc chắn về khung thời gian đối với việc cấp giấy phép.
■ Trong quá trình xây dựng yêu cầu một lượng lớn giấy phép và công văn phê duyệt khác nhau
làm tăng thêm gánh nặng hành chính và làm chậm việc giao dự án.
■ Tăng cường và liên kết phối hợp giữa các cơ quan ban ngành khác nhau của chính phủ (Bộ
Công Thương, Bộ TN&MT và Bộ KH&ĐT) và các cơ quan ra quyết định của địa phương để thiết
lập các quy định và quy trình rõ ràng về quy trình xác định và cho thuê địa điểm. Điều này cũng
sẽ đảm bảo rằng việc tắc nghẽn cục bộ không cản trở sự phát triển năng lượng tái tạo quốc gia.
■ Thay đổi cách Chính phủ định nghĩa độc quyền để đơn vị phát triển thực sự có độc quyền đối
địa điểm phát triển dự án. Bảo đảm này sẽ giúp giảm bớt sự không chắc chắn và rủi ro cho
đơn vị phát triển. Trong trường hợp có nhiều đơn vị phát triển gửi yêu cầu phát triển trong
cùng một khu vực, cấp Trung ương Nhà Nước cần có một quy trình công bằng và minh bạch
để giải quyết các xung đợt và phân bổ khu vực khảo sát cho các đơn vị phát triển. Dưới hệ
thống đấu giá, các xung đột tiềm ẩn này sẽ không phát sinh.
■ Hoàn thành và ban hành quy hoạch không gian biển và các quy hoạch/ hướng dẫn liên quan
để đảm bảo các quy trình phù hợp với các thay đổi của Luật quy hoạch.
■ Mang lại sự rõ ràng trong quy hoạch không gian biển và những điều mà quy hoạch này sẽ
thay đổi quy trình cấp phép và cách thức xử lý các dự án hiện có trước khi ban hành quy
hoạch không gian biển. Khi một dự án hiện có đang trong quá trình được đưa vào PDP hoặc
xin giấy phép, nếu không có mâu thuẫn nào đáng kể với quy hoạch không giản biển, những
dự án này nên được phép tiếp tục phát triển thông qua quy trình cấp phép.
■ Đảm bảo sự hợp tác giữa tất cả các bộ, cơ quan chức năng và các tổ chức điện gió ngoài khơi
để cung cấp một quy trình hiệu quả hơn. Làm rõ và hợp lý hóa quy trình cấp phép, tiêu chuẩn
ĐTMX và yêu cầu sự tham gia của các bên liên quan, với các hướng dẫn cụ thể để phát triển
điện gió ngoài khơi.
■ Cung cấp cơ chế một cửa cho quy trình cấp phép cho các đơn vị phát triển. Hiện tại có ít nhất
mười hai bộ ngành khác nhau liên quan đến quy trình này.
■ Giảm số lượng giấy phép và công văn phê duyệt cần thiết để hợp lý hóa quy trình và tránh
trùng lặp và tiềm năng trùng lặp.
■ Cho phép linh hoạt trong thiết kế để không phải thực hiện đầy đủ quá trình xin phép lại và sự
chậm trễ sau đó nếu có bất kỳ thay đổi nào đối với thiết kế khi dự án được thực hiện.
■ Cung cấp các dữ liệu liên quan cho ngành. Nghiên cứu tiền khả thi và nghiên cứu khả thi chủ
yếu là để thu thập thông tin. Nếu Chính phủ có thể cung cấp thông tin các thông tin họ có
cho các địa điểm, điều đó giúp giảm rủi ro và chi phí cho đơn vị phát triển.
Những khuyến nghị này tập trung vào quan điểm của các đơn vị phát triển và mang tính tổng
quan. Việc xem xét các yêu cầu về quy định và năng lực (kỹ thuật và tài nguyên) cũng cần được
xem xét nhưng nằm ngoài phạm vi của báo cáo này.
Ngoài ra, cũng cần thực hiện đánh giá chi tiết về các pháp luật liên quan, để xác định xem nó có
phù hợp với mục đích hay không. Tính sẵn sàng và phù hợp của hướng dẫn hỗ trợ cũng cần được
rà soát cùng với cân nhắc những gì được coi là thực tiễn tốt nhất đối với các quy trình cấp phép
và ĐTMX điện gió ngoài khơi, có tính đến tất cả các bên—đơn vị phát triển, cơ quan quản lý và các
bên liên quan.
■ Quyết định số 37/2011/QĐ-TTg (ban hành ngày 29 tháng 6 năm 2011, có hiệu lực từ ngày
20 tháng 8 năm 2011), Quyết định số 39/2018/QĐ-TTg (ban hành ngày 10 tháng 9 năm 2018,
có hiệu lực từ ngày 01 tháng 11 năm 2018) và Thông tư số 02/2019/TT-BCT (ban hành ngày
15 tháng 1 năm 2019, có hiệu lực từ ngày 28 tháng 2 năm 2019) về điện gió.
■ Quyết định số 24/2014/QĐ-TTg (ban hành ngày ngày 24 tháng 3 năm 2014, và có hiệu lực từ
ngày 10 tháng 5 năm 2014), Thông tư số 44/2015/TT-BCT (ban hành ngày 09 tháng 12 năm
2015, và có hiệu lực từ ngày 25 tháng 1 năm 2016) và Thông tư số 54/2018/TT-BCT (ban hành
ngày 25 tháng 12 năm 2018 và có hiệu lực từ ngày 18 tháng 2 năm 2019) về điện sinh khối.
■ Quyết định số 31/2014/QĐ-TTg (ban hành ngày 05 tháng năm 2014, và có hiệu lực từ ngày
20 Tháng Sáu năm 2014) và Thông tư số 32/2015/TT-BCT (ban hành ngày 08 tháng 10 năm
2015, và có hiệu lực từ ngày 07 tháng 12 2015) về phát điện sử dụng chất thải rắn.
■ Quyết định số 11/2017/QĐ-TTg (ban hành ngày 11 tháng 4 năm 2017, và có hiệu lực từ ngày
01 tháng 6 năm 2017), Quyết định số 02/2019/QĐ-TTg (ban hành ngày và có hiệu lực từ ngày
08 tháng 1 năm 2018), Thông tư số 16/2017/TT-BCT (ban hành ngày 12 tháng 9 năm 2017 và
có hiệu lực từ ngày 26 tháng 10 năm 2017) và Thông tư số 05/2019/TT-BCT (ban hành ngày
11 tháng 3 năm 2019 và có hiệu lực từ ngày 25 tháng 4 năm 2019) về điện mặt trời. Quyết
định số 11/2017/QĐ-TTg và số 02/2019/QĐ-TTg hết hạn vào ngày 30 tháng 6 năm 2019.
■ Thông tư số 10/2015/TT-BCT ngày 29 tháng 5 năm 2015 của Bộ Công Thương về quy định
trình tự và thủ tục cấp, thu hồi và thời hạn cho phép hoạt động điện lực, Điều 10.
■ Luật số 55/2014/QH13 ngày 23 tháng 6 năm 2014 của Quốc hội về bảo vệ môi trường,
Điều 20, Điều 22.
■ Nghị định số 18/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 2 năm 2015 về kế hoạch bảo vệ môi trường,
đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch bảo vệ môi
trường, Điều 14.
■ Thông tư số 27/2015/TT-BTNMT ngày 29 tháng 5 năm 2015 của Bộ TN&MT về đánh giá môi
trường chiến lược, IEA và các kế hoạch bảo vệ môi trường, Điều 6.
■ Thông tư số 218/2010/TT-BTC ngày 29 tháng 12 năm 2010 của Bộ Tài chính (MOF) về quy
định thanh toán, quản lý và sử dụng phí để thẩm định báo cáo ĐTMX.
■ Thông tư số 40/2014/TT-BCT ngày 5 tháng 11 năm 2014 của Bộ Công Thương về quy định
quy trình điều độ hệ thống điện quốc gia.
■ Quyết định số 45/QĐ-ĐTĐL ngày 1 tháng 7 năm 2015 của ERAV về ban hành quy trình kiểm
tra và cấp Chứng nhận vận hành cho các chức danh tham gia trực tiếp công tác điều độ, vận
hành hệ thống điện quốc gia ban hành thủ tục kiểm tra và cấp giấy chứng nhận vận hành cho
các cán bộ trực tiếp điều tiết, vận hành hệ thống điện quốc gia.
■ Luật số 50/2014/QH13 ngày 18 tháng 6 năm 2014 của Quốc hội về Xây dựng.
Bảng 13.2: Phân tích hoạt động cấp phép theo các giai đoạn phát triển dự án
(còn tiếp)
(còn tiếp)
(còn tiếp)
Bảng 13.3: So sánh chế độ cho phép và cho thuê ở các quốc gia ví dụ
Mục tiêu điện gió ngoài 40 GW vào năm 2030 (toàn bộ Anh) 2% nhu cầu quốc gia vào năm 2030 và 7% 11,5 GW vào năm 2030
khơi vào năm 2050. Các mục tiêu điện gió ngoài
khơi đang được thúc đẩy ở cấp tiểu bang.
Độ trưởng thành của thị Anh là một thị trường điện gió ngoài Thị trường điện gió ngoài khơi Hoa Kỳ chuẩn Hà Lan là một trong những quốc gia đầu tiên ở châu Âu
trường điện gió ngoài khơi đã được thiết lập với sắp tới là bị cung cấp dự án quy mô công nghiệp đầu lắp đặt các trang trại gió ngoài khơi. Ban đầu, quốc gia này
khơi Vòng 4 đấu giá cho thuê (Anh), và xứ tiên trong 5 năm tới. Tuy nhiên, nó đã phải mở rộng công suất chậm nhưng sau đó đã thực hiện một
Wales đang được thực hiện để bổ sung đối mặt với một số thách thức dưới dạng cam kết đáng kể đối với sự phát triển của ngành. Các vòng
hơn 7 GW vào danh mục phát triển không chắc chắn về cấp phép. Cấp phép nổi cho thuê đang diễn ra đến những năm 2020, với khoảng
điện gió ngoài khơi cho Vương Quốc lên như một trong những rủi ro lớn nhất đối 700 MW công suất dự kiến sẽ được lắp đặt hàng năm đến
Anh. với ngành sau khi đánh giá môi trường ngoài năm 2027 và 1 GWE mỗi năm từ 2028 đến 2030.
dự kiến đối với tất cả các dự án được đề xuất Các mục tiêu điện gió ngoài khơi được liên kết với một
ở Bờ Đông. loạt các cuộc đấu giá và phát triển lưới điện ngoài khơi.
Các địa điểm được chấp thuận trước khi đấu giá. Điều này
làm giảm rủi ro dự án nhưng cũng hạn chế khả năng của
đơn vị phát triển thể hiện sự khác biệt của mình với các đối
thủ cạnh tranh. Đấu giá diễn ra rất cạnh tranh và dẫn đến
giá điện thấp. Năm 2019, đấu giá đầu tiên không có trợ
cấp của Hà Lan đã được tổ chức (mặc dù điều này không
bao gồm chi phí lưới điện).
Cho thuê khu vực biển Các vòng cho thuê và đấu giá cạnh Vòng đấu giá cho thuê và đấu giá cạnh tranh Chính phủ Hà Lan phân bổ các địa điểm trên cơ sở đấu
(đáy biển) tranh do The Crown Estate (TCE) phát được cấp bởi Bộ trưởng Nội vụ và được thầu cạnh tranh, trong đó các đơn vị phát triển trang trại
hành. ban hành bởi Cục Quản lý Năng lượng Đại gió cạnh tranh để giành quyền xây dựng địa điểm, bao
Các vòng cho thuê đang tiến hành ở dương (BOEM). gồm cho thuê đáy biển, giấy phép phát triển và xây dựng,
Anh và xứ Wales: Vòng 4. Phát triển dự án hiện đang được thúc đẩy ở PPA và kết nối lưới điện.
Khu vực cho thuê trong Vòng 4 sẽ được cấp tiểu bang nơi mỗi tiểu bang đang tự đặt Hệ thống cho thuê một giai đoạn và trợ giá giảm thiểu rủi
cấp phép 60 năm. mục tiêu điện gió ngoài khơi của mình. ro cho các đơn vị phát triển nhưng cũng làm cho các đơn
Cấp hợp đồng cho thuê thương mại 25 năm, vị phát triển khó khăn hơn trong việc xây dựng danh mục
có khả năng gia hạn. dự án tiềm năng và xây dựng các dự án rất lớn với nhiều
GW. Ngoài ra, vì đơn vị phát triển chưa tham gia vào công
việc phát triển từ đầu nên họ chỉ có thể tìm hiểu về các vấn
đề với địa điểm dự án ở giai đoạn muộn. Cũng có một rủi
ro nhỏ là nếu có lỗi xảy ra đối với công việc lúc đầu của
chính phủ, điều này có thể dẫn đến các khiếu nại.
6/3/21 8:54 AM
Bảng 13.3: Tiếp theo trang trước
Các chấp thuận chính Các dự án > 100 MW được phân loại Kế hoạch đánh giá địa điểm (SAP, nơi đưa ra Chính phủ Hà Lan đảm nhiệm tất cả các công việc để thiết
cần có là Dự án cơ sở hạ tầng có tầm quan kế hoạch thu thập dữ liệu kỹ thuật cho địa lập các trang trại gió ngoài khơi, trong đó có việc thiết lập
trọng quốc gia (NSIP). Điều này đòi hỏi điểm). vị trí và thiết kế, thực hiện ĐTMX và đảm bảo cung cấp
phải có Chỉ thị đồng ý cho phát triển Kế hoạch xây dựng và vận hành (COP). các giấy phép cần thiết. Để đạt được điều này, chính phủ
Các nghiên cứu hoặc • ĐTMX • ĐTMX • Để xác định các địa điểm tốt nhất để đưa vào các vòng
chấp thuận bổ sung • Đánh giá quy định môi trường sống • Phân tích tác động tích lũy đấu giá, Chính phủ Hà Lan thực hiện giám sát môi
(HRA) • Đánh giá biến đổi khí hậu trường sâu rộng và tham khảo ý kiến công chúng và các
• Giấy phép các loài được bảo vệ ở • ĐTMX xuyên biên giới bên liên quan
châu Âu Giấy phép cũng được yêu cầu với các cơ • TenneT được chỉ định là đơn vị vận hành lưới điện ngoài
Chấp thuận sau quan của từng bang bao gồm các loài chim khơi. Họ chịu trách nhiệm kết nối các trang trại gió với
Các điều kiện giấy phép hàng hải như: di cư, quản lý vùng ven biển, chất lượng hệ thống truyền tải trên bờ
• Kế hoạch quản lý xây dựng nước, quy định không khí và quốc phòng.
• Kế hoạch quản lý môi trường Ngoài BOEM SAP và COP, có một quy trình
• Kế hoạch giám sát môi trường cấp phép phức tạp đồng thời hoặc tiếp
Các văn bản pháp luật và hướng dẫn tuyến với quy trình BOEM. Các hoạt động
cung cấp chi tiết về những gì được xem liên bang này bao gồm: Giấy phép của Công
xét/đánh giá,và yêu cầu các khảo sát và binh lục quân Hoa Kỳ (USACE) cho phép tác
đánh giá. động đến vùng biển của Hoa Kỳ (Giấy phép
6/3/21 8:54 AM
Bảng 13.3: Tiếp theo trang trước
tiếp theo trang trước Toàn quốc (NWP) đối với SAP và giấy phép
riêng lẻ (IP) đối với COP) theo Đạo luật về
Nước sạch; Tham vấn với Cục Cá và Động
vật hoang dã Hoa Kỳ (USFWS) để lập Đánh
6/3/21 8:54 AM
Bảng 13.3: Tiếp theo trang trước
Các nguồn lực của Các bộ phận cụ thể trong MS, MMO và BOEM là cơ quan chính của liên bang chịu Rijksdienst voor Ondernemend Nederland (RVO) đảm bảo
Chính phủ NRW xử lý các hồ sơ liên quan đến cấp trách nhiệm quản lý phát triển năng lượng việc cấp phép môi trường trước khi đấu giá.
phép trong môi trường biển. cho cả tài nguyên năng lượng truyền thống Văn phòng Dự án Năng lượng (Cục Energieprojecten)
Chỉ thị chấp thuận phát triển (DCO) do và năng lượng tái tạo. Tuy nhiên, một loạt các cung cấp phát triển dự án phối hợp cho các dự án năng
cơ quan liên bang và tiểu bang vẫn là những
Lợi ích • Chế độ cấp phép linh hoạt với khả • Ở Mỹ, đơn vị phát triển có thể đề xuất một • Sự chắc chắn của danh mục dự án tiềm năng nhờ vào
năng có thể thay đổi thiết kế dự án địa điểm để Chính phủ đấu giá và nếu các mục tiêu được công bố đến năm 2030
Vấn đề • Chậm trễ trong chấp thuận dự án do • Khung pháp lý và quy định phức tạp (liên • Chi phí trả trước đối với Chính phủ để thực hiện các
vấn đề năng lực của nguồn lực bang, tiểu bang và địa phương), cần sự nghiên cứu và lập kế hoạch khu vực dự án
rõ ràng và nhất quán giữa các tiểu bang • Chi phí để duy trì năng lực và nguồn lực trong Chính
để phát triển chuỗi cung ứng và thu hút phủ
đầu tư • Các đơn vị phát triển có thể cho rằng họ lựa chọn và
• Yêu cầu quá nhiều giấy phép (không thiết kế địa điểm tốt hơn, và tận dụng sự đổi mới để có
giống như ở Anh) thể dẫn đến giảm chi phí
• Đạo luật Jones hạn chế nghiêm ngặt việc
sử dụng các tàu lắp đặt phải là của Mỹ
6/3/21 8:54 AM
14. Mua sắm của Chính phủ
Chúng tôi phác thảo các phương án cho Việt Nam để tạo điều kiện tốt nhất cho tăng trưởng ổn
định, giảm chi phí và lợi ích kinh tế trong nước dựa vào thời điểm và quy mô phù hợp với các kịch
bản được mô tả trong Phần 2.
Chúng tôi xem xét các dự án điện gió gần bờ và các dự án móng cố định khởi động sớm đang
được phát triển và cần xây dựng niềm tin vào thị trường.
FIT hiện hành ở Việt Nam và đấu giá trong tương lai
Ở Việt Nam hiện đang có FIT cho các dự án năng lượng tái tạo đủ điều kiện. FIT này được ấn định
ở mức 98 US$/MWh cho điện gió ngoài khơi. Mức này được coi là không khả thi tài chính đối với
điện gió ngoài khơi, như được thảo luận trong Phần 15.
Chính phủ gần đây đã thông báo rằng FIT sẽ dành cho các dự án đạt đưa vào vận hành thương
mại trước tháng 11 năm 2023.
Chính phủ đã tuyên bố sẽ đưa vào thực hiện một hệ thống đấu giá cạnh tranh cho các dự án
năng lượng tái tạo sau năm 2023, mặc dù không có thông tin chi tiết nào về hệ thống đấu giá đã
được đề xuất và công bố đó.
Phần này lấy ý định đã nêu về việc chuyển sang đấu giá PPA làm điểm khởi đầu và xem xét các
phương án có sẵn cho Chính phủ để đưa ra các quy trình bao gồm cả cho thuê và PPA.
Phần này tập trung vào các phương án tiếp cận mua sắm chủ động của chính phủ để thực hiện
được quy mô trong kịch bản tăng trưởng cao, như được thảo luận trong Phần 1.
127
Chúng tôi đã so sánh các cách tiếp cận này và nhấn mạnh những điểm mạnh và điểm yếu cho
từng cách tiếp cận. Chúng tôi cũng đã xem xét các bài học kinh nghiệm từ các quốc gia khác và
thu thập quan điểm từ các đơn vị phát triển dự án đang hoạt động tại Việt Nam.
■ Cách tiếp cận tập trung một giai đoạn, trong đó đầu tiên chính phủ xác định các khu vực phát
triển dự án, thực hiện ĐTMX và cung cấp tất cả các giấy phép cần thiết và các thỏa thuận kết
nối lưới điện. Sau đó, Chính phủ đấu giá hợp đồng cho thuê và PPA cho các đơn vị phát triển
trong một quy trình cạnh tranh duy nhất. Quy trình tập trung một giai đoạn này được sử dụng
ở Đan Mạch và Hà Lan.
■ Cách tiếp cận phân cấp hai giai đoạn, trong đó đơn vị phát triển chọn một địa điểm và chịu
trách nhiệm thực hiện các hoạt động phát triển. Trong quy trình hai giai đoạn, cạnh tranh lần
đầu được tổ chức để trao hợp đồng cho phép quyền phát triển độc quyền trong một khoảng
thời gian. Sau đó, đơn vị phát triển chịu trách nhiệm xin và nhận được các giấy phép phát
triển cần thiết và thỏa thuận kết nối lưới điện. Khi đã có giấy phép phát triển và thỏa thuận kết
nối lưới, dự án sẽ đủ điều kiện tham gia cạnh tranh lần hai để đạt được PPA. Điều này thường
ở dạng đấu giá Hợp đồng sai khác (CfD). Quy trình phân cấp hai giai đoạn được sử dụng ở
Trung Quốc, Anh và Hoa Kỳ.
Hai cách tiếp cận được trình bày trong Hình 14.1.
Các yếu tố quan trọng, độc lập với cách tiếp cận
Các phương pháp trên sẽ được khảo sát một cách chi tiết trong phần này, nhưng có một số yếu tố
quan trọng để Chính phủ xem xét bất kể phương pháp nào:
■ Hợp lý hóa và tính minh bạch của các quy trình cho thuê, cấp phép và PPA
■ Đủ linh hoạt trong thiết kế trang trại gió trong khi cấp phép
■ Mức độ tham vọng phù hợp khi lập kế hoạch cho các dự án
■ Tầm nhìn danh mục dự án tiềm năng phải lâu dài, ít nhất là 10 năm
■ PPA phù hợp với thị trường
■ Phải có quá trình chuyển đổi để chuyển sang PPA hoặc cách tiếp cận cho thuê mới, và
■ Đảm bảo cạnh tranh mạnh mẽ
Cách tiếp cận tập trung (1 bước) Cách tiếp cận phân cấp (2 bước)
Hoạt động
Hoạt động
khác
khác
Tập trung vào điện gió ngoài khơi Tập trung vào điện gió ngoài khơi
Đánh giá chiến lược về môi trường Đánh giá chiến lược về môi trường
Thiết lập quy định
Thiết lập các khu vực phát triển Thiết lập các khu vực phát triển
Quy hoạch không gian biển và đánh giá tác động tích lũy
Quy hoạch không gian biển và đánh giá tác động tích lũy
Hỗ trợ và giáo dục các bên liên quan Hỗ trợ và giáo dục các bên liên quan
Mua sắm và đưa ra quyết định đầu Mua sắm và đưa ra quyết định đầu
tư cuối cùng tư cuối cùng
Ghi chú
Hợp lý hóa và minh bạch các quy trình cho thuê, cấp phép và PPA
Như đã thảo luận trong Phần 12, quy trình cấp phép hiện nay ở Việt Nam phức tạp và không rõ
ràng. Điều này có thể dẫn đến niềm tin của nhà đầu tư vào thị trường thấp hơn theo dù là theo
cách tiếp cận nào.
Theo cách tiếp cận tập trung, Chính phủ cần quan tâm đến các quy trình khảo sát và xác định địa
điểm và để ngành tự tin rằng các địa điểm được đưa ra cho thuê là khả thi về kỹ thuật và thương
mại. Các tiêu chuẩn ĐTMX phải đủ để thu hút các nguồn tài chính quốc tế. Một quy trình phối
hợp tốt với sự phối hợp giữa các vụ trong bộ và ở cấp chính quyền địa phương là rất quan trọng.
Theo cách tiếp cận phân cấp về cho thuê và PPA, điều này có thể ảnh hưởng đến niềm tin của các
nhà đầu tư do chậm trễ phát triển và rủi ro không nhận được giấy phép cho địa điểm đó.
Sự linh hoạt trong xây dựng và thiết kế các dự án cần phải được cho phép theo cả hai cách tiếp
cận.
Theo cả hai cách tiếp cận tập trung và phân cấp, linh hoạt trong việc thay đổi thiết kế trong suốt
thời gian từ thuê đến PPA là rất quan trọng để tránh chậm trễ do phải xin lại các giấy phép khi có
thay đổi thiết kế. Điều này cũng giúp tối ưu hóa thiết kế khi xuất hiện công nghệ mới.
Mức độ tham vọng phù hợp khi lập kế hoạch cho các dự án
Có một danh mục dự án tiềm năng đầy tham vọng và quy mô đủ lớn là rất quan trọng để xây
dựng ngành và tạo ra cạnh tranh từ một số đơn vị phát triển dự án và các công ty trong chuỗi
cung ứng. Kịch bản tăng trưởng cao được xây dựng lên tới 3 GW mỗi năm sẽ tạo điều kiện cho
tăng trưởng và cạnh tranh. Tuy nhiên, nếu quá tham vọng trong ngắn hạn, nó có thể dẫn đến tắc
nghẽn chuỗi cung ứng và trì hoãn dự án.
Ngoài một danh mục dự án tiềm năng đầy tham vọng, điều quan trọng là phải cung cấp tầm nhìn
dài hạn của danh mục đó, có thể đạt được bằng cách lên kế hoạch cho thuê và đấu giá PPA một
cách thường xuyên để mang lại niềm tin. Điều này giúp cho việc lập kế hoạch sớm, phối hợp và
tối ưu hóa. Các đơn vị cung cấp cần tầm nhìn dài hạn và chắc chắn về quy mô để đầu tư vào công
suất. Tầm nhìn dài hạn cũng mang lại niềm tin để đầu tư vào cơ sở hạ tầng và công nghệ.
Sử dụng đúngcáchtiếp cận PPA khi thị trường phát triển là điểm mấu chốt. Đã có những lo ngại
được đặt ra bởi các quỹ tín dụng và nhà đầu tư quốc tế: giá FIT hiện nay đang khuyến khích các
dự án điện gió gần bờ không phù hợp với tiêu chuẩn môi trường và xã hội của các đơn vị cho vay,
và giá FIT đó có thể không phù hợp để hỗ trợ các dự án điện gió ngoài khơi quy mô lớn. Điều này
được thảo luận trong Phần 15.
Đối với các dự án ban đầu ở một thị trường mới, phí bảo hiểm rủi ro và chi phí cao hơn đáng kể
so với các thị trường trưởng thành. Điều này là do sự kết hợp của một khung pháp lý chưa được
chứng minh và có thể chưa hoàn chỉnh, chuỗi cung ứng chưa trưởng thành, thiếu cơ sở hạ tầng và
chi phí phát triển cao.
Điều chỉnh FIT được thiết kế cụ thể cho các dự án điện gió ngoài khơi trong thời gian ngắn có thể
giảm rủi ro do không thực hiện được, giúp cho thị trường trong nước xây dựng được năng lực và
quy mô xây dựng trước khi chuyển sang hệ thống đấu giá.
Thông qua sự tham gia của các bộ ngành, chúng tôi hiểu rằng ưu tiên cho các dự án xây dựng
sớm hiện nay là được đàm phán PPA với Chính phủ, thay vì điều chỉnh FIT phù hợp hoặc quy trình
đấu giá cạnh tranh.
Về lâu dài, chuyển sang đấu giá cạnh tranh có thể giảm chi phí năng lượng, nhưng chỉ khi có đủ
cạnh tranh và tầm nhìn trên thị trường.
Để đảm bảo niềm tin cho nhà đầu tư, điều quan trọng là phải có một quy trình thực hiện để
chuyển đổi sang cách tiếp cận tập trung một giai đoạn hoặc phân cấp hai giai đoạn. Các dự án
phát triển trong giai đoạn đầu tại thời điểm chuyển đổi cần có sự rõ ràng là chúng được áp dụng
theo cách nào. Nếu chuyển từ cách tiếp cận phân cấp sang tiếp cận tập trung dẫn tới việc đơn vị
phát triển đã có giấy phép được cấp trước đó sẽ bị thu hồi để phù hợp với việc chuyển đổi, điều
này có thể làm suy yếu niềm tin của nhà đầu tư và làm gián đoạn tăng trưởng của ngành.
Chuyển sang đấu giá cạnh tranh đòi hỏi một giai đoạn chuyển tiếp đủ để những bên tham gia
trong ngành thích nghi. Chuyển thẳng từ FIT hoặc PPA có đàm phán sang đấu giá cạnh tranh quá
nhanh có thể dẫn đến tình trạng trì trệ thị trường, do giá thầu cao hơn mức Chính phủ có thể chịu
được vì sự non trẻ của chuỗi cung ứng và sự không chắc chắn của thị trường mới.
Kế hoạch chuyển đổi cũng cần nêu rõ ràng cách thức giải quyết các dự án đang được phát triển,
hoặc những dự án sẽ bắt đầu phát triển trước khi chuyển đổi. Ví dụ, khi thị trường điện gió của
Anh chuyển đổi từ chế độ biểu giá cố định sang hệ thống đấu giá cạnh tranh, nước này đã sử
dụng một sắp xếp được gọi là Vòng kích hoạt quyết định đầu tư tài chính (FIDER)85 được thiết kế
để các đơn vị phát triển đưa ra quyết định đầu tư cuối cùng trước khi chế độ Hợp đồng sai khác
(CFD) được triển khai. Thu xếp quá độ này cần nhận diện dự án cần ở giai đoạn nào tại thời điểm
chuyển đổi để có thể đàm phán PPA với Chính phủ, nếu không sẽ thuộc chương trình đấu giá
cạnh tranh.
Đấu giá PPA cạnh tranh thường có hiệu quả trong việc giảm chi phí. Tuy nhiên, việc ép giá đối với
các đơn vị phát triển và chuỗi cung ứng quá sớm có thể làm tăng rủi ro không thực hiện được,
điều này có thể dẫn đến đình trệ thị trường.
Đánh giá mức độ quan tâm của nhà đầu tư trên thị trường trước khi chuyển sang đấu giá cạnh
tranh là chìa khóa để đảm bảo giá thầu cạnh tranh.
Cân bằng giữa chi phí và hàm lượng nội địa hóa cần được tính đến trong các cuộc đấu giá cạnh
tranh. Một số thị trường đưa ra các yêu cầu về tỷ lệ nội địa hóa thông qua đấu giá, hỗ trợ phát
triển chuỗi cung ứng trong nước, nhưng đây có thể là rào cản đối với giảm chi phí và tăng trưởng
ngành. Các thị trường khác đã thành công trong việc kích thích nguồn cung trong nước với các
yêu cầu trực tiếp ít hơn.
Đưa ra các yêu cầu sơ tuyển và điều kiện đấu thầu cho các cuộc đấu giá, đặc biệt là theo cách tiếp
cận tập trung, sẽ chỉ khuyến khích các hồ sơ dự thầu nghiêm túc.
Đấu giá cạnh tranh làm tăng chi phí và rủi ro cho các đơn vị phát triển. Thiết lập một hệ thống đấu
giá mạnh mẽ có thể giúp giảm rủi ro này.
Bảng 14.1: So sánh giữa cách tiếp cận tập trung một giai đoạn và phân cấp hai giai đoạn
để cho thuê và PPA
Tiếp cận tập trung một giai đoạn Tiếp cận phân cấp hai giai đoạn
Rủi ro hoặc chi + Có thể dẫn đến giá dự thầu thấp hơn + Chính phủ có ít rủi ro và chi phí trả
phí đối với chính + Chính phủ có nhiều cơ hội hơn để lập trước hơn
phủ kế hoạch hiệu quả nơi có địa điểm + Cạnh tranh giữa các dự án tốt nhất
trang trại gió - Ít cơ hội ghép nhóm các dự án để
- Chính phủ có rủi ro và chi phí trả trước hưởng lợi từ kết nối lưới và chuỗi cung
cao hơn ứng
Hấp dẫn đối với + Ít rủi ro trả trước + Kiểm soát tốt hơn đối với các đơn vị
các đơn vị phát - Ít kiểm soát hơn, một số đơn vị phát phát triển
triển triển thấy điều này không hiệu quả + Cơ hội đổi mới và khác biệt lớn hơn
- Ít cơ hội đổi mới và khác biệt hóa dự án - Rủi ro lớn hơn cho các đơn vị phát triển
Tác động đầu tư + Giúp chính phủ triển khai rộng theo + Giúp hình thành mối quan hệ dài hạn
vào chuỗi cung thời gian, điều này tốt cho đầu tư vào giữa đơn vị phát triển và các đơn vị
ứng chuỗi cung ứng cung cấp trong nước
- Ít cơ hội hơn cho các mối quan hệ hình - Nếu kết hợp với đấu giá giới hạn năng
thành giữa các đơn vị phát triển và lực, có thể mang lại ít cơ hội hơn cho
chuỗi cung ứng trong nước các đơn vị cung cấp
Nguồn: BVG Associates.
Theo cách tiếp cận này, chính phủ phải chịu các chi phí trả trước và rủi ro của giai đoạn phát triển
của dự án. Công việc tiến hành trước này bao gồm lập bản đồ độ nhạy (với yếu tổ mối trường
xã hội) để đánh giá và xác định các ràng buộc xã hội và môi trường trong các khu vực quan tâm.
Những phát hiện khi lập bản đồ độ nhạy được sử dụng để cung cấp thông tin cho quy hoạch
không gian biển (MSP) xác định các khu vực phát triển tiềm năng cho điện gió ngoài khơi trong
bối cảnh hạn chế xã hội và môi trường và sự quan tâm của những đối tượng sử dụng biển và các
ngành công nghiệp ngoài khơi khác. Cách tiếp cận theo quy hoạch không gian biển này bảo vệ
môi trường tốt nhất đồng thời cho phép phát triển ở đúng vị trí và cũng hạn chế rủi ro cho các
đơn vị phát triển khi không đạt được sự đồng ý hoặc kết nối lưới điện.
Tuy nhiên, một số đơn vị phát triển có thể cảm thấy điều này không hiệu quả và họ muốn có
quyền kiểm soát lớn hơn. Họ cũng có thể thích xây dựng một danh mục phát triển giai đoạn đầu,
điều này giúp họ giải trình được các đầu tư vào nhân sự dành riêng cho dự án, hoạt động nghiên
cứu và phát triển, cũng như phát triển mối quan hệ với các đơn vị cung cấp trong thời gian dài.
Cách tiếp cận tập trung có thể là một cách tiếp cận hiệu quả hơn, hoặc có thể bị chậm lại do quan
liêu, tùy thuộc vào cách các quy trình được thu xếp hợp lý, và các ban ngành liên quan trong chính
Chính phủ có thể kiểm soát việc lựa chọn địa điểm cũng có thể cung cấp những phối hợp khác,
bao gồm lập kế hoạch khi có sẵn công suất và cho phép kết nối vào lưới điện trung tâm cho một
số trang trại gió.
Một số quốc gia thực hiện phương pháp tập trung cũng cho phép các đơn vị phát triển xác định
các địa điểm và đảm bảo việc cho thuê đối với PPA tập đoàn86 theo chính sách mở cửa. Chính
sách mở cửa có thể làm tăng chi phí, thời gian và rủi ro thất bại của dự án. Cách tiếp cận tốt hơn
có thể là kết hợp cách tiếp cận tập trung với cách tiếp cận phân vùng cho PPA tập đoàn để chính
phủ chia sẻ quy hoạch không gian và ràng buộc kết quả lập bản đồ với các đơn vị phát triển
muốn phát triển dự án với PPA tập đoàn.
Trong hầu hết các thị trường, chính phủ kết hợp cách tiếp cận phân cấp với thực hiện một số quy
hoạch không gian ban đầu và lập bản đồ hạn chế để xác định khu vực phát triển phù hợp, trong
đó các đơn vị phát triển có thể chọn các địa điểm phù hợp nhất.
Điều này làm giảm rủi ro đối với cách tiếp cận phân cấp ở một mức độ nào đó vì nó tạo điều kiện
cho sự tham gia sớm của các bên liên quan và loại trừ các khu vực không phù hợp và xung đột với
những người sử dụng khác. Cách tiếp cận này được một số đơn vị phát triển ưa thích vì giúp họ
linh hoạt hơn trong việc chọn địa điểm phù hợp nhất dựa trên chuyên môn và khẩu vị rủi ro của
riêng họ, và nó làm tăng thêm lòng tin vì một số hạn chế tiềm ẩn bị loại trừ. Họ cũng có thể thiết
lập một hệ thống các dự án mà họ có thể phát triển ở các mức độ khác nhau để phù hợp với các
nguồn lực, sức hấp dẫn tương đối của các dự án và cạnh tranh PPA sắp tới.
Nếu cách tiếp cận phân cấp kết hợp với đấu giá PPA cạnh tranh, các đơn vị phát triển không có
bất kỳ đảm bảo nào là họ sẽ nhận được PPA cho dự án của mình ngay cả khi đã có giấy phép. Có
thể giảm thiểu rủi ro bằng cách có một kế hoạch rõ ràng và đầy đủ các đợt đấu giá PPA .
Mặc dù cách tiếp cận phân cấp có chi phí trả trước ít hơn đối với chính phủ, giá dự thầu mỗi MWh
đối với các dự án có thể cao hơn so với cách tiếp cận tập trung, ít nhất là cho đến khi thị trường
trưởng thành hơn và khung chính sách và năng lực của chính phủ được chứng minh. Điều này là
do chi phí và rủi ro cao hơn đối với các đơn vị phát triển được định giá trong đấu giá.
Một số đơn vị phát triển thích cách tiếp cận này mặc dù gia tăng rủi ro và chi phí của họ vì nó
mang lại cho họ quyền kiểm soát lớn hơn và cơ hội cho lợi thế cạnh tranh. Một số đơn vị phát
triển chắc chắn có nhiều kinh nghiệm hơn chính phủ trong lựa chọn địa điểm đặc biệt là ở thị
Theo cách tiếp cận này, các đơn vị phát triển có nhiều thời gian hơn để thiết lập mối quan hệ lâu
dài với các đơn vị cung cấp trong nước, điều này có thể có lợi. Mặt khác, giới hạn năng lực đấu
giá theo phương pháp này có thể cản trở việc triển khai các dự án, điều này có nghĩa là có ít hợp
đồng được trao cho chuỗi cung ứng. Một ví dụ về điều này là trong vòng CfD 2014 ở Anh, một dự
án đã được trao hơn một nửa công suất có sẵn.
■ Kịch bản tăng trưởng cao dựa vào các hợp đồng cho thuê được trao mỗi năm tăng từ 2 GW
lên 4 GW mỗi năm trong những năm 2020 và duy trì tốc độ này trong dài hạn. Điều quan
trọng là phải có được các quy trình phù hợp càng sớm càng tốt để đạt được điều này, tính từ
khi trao hợp đồng đến xây dựng.
■ Cho dù Việt Nam áp dụng cách tiếp cận tập trung một giai đoạn hay phân cấp hai giai đoạn,
Chính phủ cần thực hiện quy hoạch chi tiết không gian biển, được hỗ trợ bởi chiến lược lập
bản đồ độ nhạy (với môi trường và xã hội) và xem xét những tác động tích lũy trong tương lai.
Quy hoạch không gian vững chắc cung cấp hướng dẫn vị trí và tạo sự chắc chắn cho các đơn
vị phát triển và giảm tác động rủi ro trong cấp phép dự án. Công việc lập quy hoạch rất quan
trọng về thời gian vì vậy cần phải được thực hiện càng sớm càng tốt. Công việc này cũng cần
xem xét các yêu cầu về lưới điện và bất kỳ tín hiệu nào về vị trí mà Chính phủ muốn truyền đạt
trong đó.
■ Để chỉ dẫn thị trường và duy trì động lực, một lộ trình PPA được ngân hàng bảo lãnh, cho các
dự án điện gió ngoài khơi đã phát triển tại Việt Nam, cần được ưu tiên. Điều này có thể dựa
vào sửa đổi các điều khoản của PPA hiện hành hoặc Chính phủ tham gia vào PPA thương thảo
với chủ dự án.
■ Cần thực hiện đánh giá độc lập về sự quan tâm của đơn vị phát triển trên thị trường trước khi
quyết định áp dụng quy trình đấu giá PPA cạnh tranh để đảm bảo có đủ cạnh tranh.
■ Cần có một kế hoạch được xác định rõ ràng để chuyển từ FIT hoặc PPA thương thảo sang
quy trình một giai đoạn hoặc hai giai đoạn, mà có thể cung cấp những PPA được ngân hàng
bảo lãnh và đáp ứng được yêu cầu của đơn vị cho vay quốc tế. Điều này phải bao gồm một
kế hoạch làm thế nào để xử lý các dự án hiện tại hoặc dự án mới đang phát triển tại thời điểm
chuyển đổi. Phải có hướng dẫn nêu rõ dự án đang ở giai đoạn nào trong thời gian chuyển đổi
thì áp dụng cách tiếp cận mới và điều gì xảy ra với những dự án không đáp ứng yêu cầu đó.
■ Quy trình sơ tuyển đối với đấu giá cho thuê và PPA trong tương lai cần tập trung vào năng
lực và sức mạnh của các nhà thầu. Các đơn vị phát triển có kinh nghiệm và có năng lực là chìa
khóa để giảm LCOE và thực hiện thành công các dự án và mang lại lợi ích trong nước.
■ Hệ thống đấu giá cho thuê và PPA cần phải có tham vọng về công suất và đưa ra một khung
thời gian khuyến khích đầu tư vào học tập, năng lực chuỗi cung ứng và cơ sở hạ tầng.
■ Điều quan trọng là các cơ quan của chính phủ phải phát triển chuyên môn và năng lực. Nếu
lựa chọn và phát triển địa điểm theo cách tiếp cận tập trung một giai đoạn không theo tiêu
chuẩn chấp nhận được đối với đơn vị phát triển trong việc bảo đảm hợp đồng thuê, có thể có
rủi ro là Chính phủ phải chịu các trách nhiệm thương mại.
Điều quan trọng cần nêu rõ là, do khối lượng vốn và rủi ro lớn, các điều khoản PPA yêu cầu đối
với các dự án điện gió ngoài khơi sẽ khác với các điều khoản sử dụng cho sản xuất điện trên bờ
(ví dụ như điện gió trên bờ và điện mặt trời). Sự sẵn có của các PPA được ngân hàng bảo lãnh đáp
ứng nhu cầu của các bên cho vay quốc tế là điều kiện tiên quyết để có một thị trường thành công;
chỉ những ngân hàng trong nước sẽ không thể cung cấp đủ khối lượng tài chính hoặc với chi phí
vốn ở mức chấp nhận được.
Mặc dù chúng tôi xem xét môi trường kinh tế vĩ mô chung, ở giai đoạn này chúng tôi chưa xem
xét các vấn đề cụ thể của quốc gia mà không dành riêng cho đầu tư vào điện gió ngoài khơi, ví
dụ như kiểm soát ngoại hối hoặc hạn chế chuyển lợi nhuận về nước.
Phát triển nhà máy điện gió ngoài khơi có những rủi ro và cân nhắc khác so với phát triển điện gió
trên bờ. Tuy nhiên, cũng sẽ có những lợi ích trong việc sử dụng các yếu tố của chế độ điện gió
trên bờ làm khuôn mẫu cho chế độ điện gió ngoài khơi, khi có thể.
Do đó, chúng tôi đã xem xét các khía cạnh chính của chế độ hiện tại và xem xét các thay đổi dự
kiến, chẳng hạn như đề xuất chuyển sang đấu giá sau năm 2023 và xác định các rủi ro mà chế độ
đó có thể tạo ra.87
Để thực hiện điều này, chúng tôi đã tham vấn ý kiến của một loạt các đơn vị phát triển điện gió
ngoài khơi đang hoạt động tại Việt Nam, thực hiện đánh giá ý kiến của các bên ở Việt Nam và các
tổ chức khác trên thế giới về các thỏa thuận hiện có và dựa vào kiến thức của chúng tôi về các vấn
đề chính đối với các nhà đầu tư trong các chế độ hỗ trợ khác trên phạm vi quốc tế.88
135
Khi chúng tôi thấy chế độ hiện tại có thể phân bổ rủi ro không phù hợp và tạo ra rào cản cho triển
khai điện gió ngoài khơi, chúng tôi đã đề xuất một hành động chính sách giảm thiểu tiềm năng.
Các rủi ro và vấn đề tài chính chủ yếu với chế độ hiện có được tóm tắt trong Bảng 15.1 và được
thảo luận thêm dưới đây, bên cạnh đề xuất giảm thiểu của chúng tôi để Chính phủ xem xét trong
chế độ điện gió ngoài khơi của Việt Nam.
Mỗi rủi ro được xác định đã được tính toán mức độ rủi ro dựa trên thang đo sau:
■ Màu đỏ: rủi ro tài chính lớn đối với các nhà đầu tư, điều này có thể dẫn tới xảy ra việc ngừng
đầu tư, đòi hỏi phải giảm thiểu từ Chính phủ
■ Màu hổ phách: rủi ro tài chính vừa phải đối với các nhà đầu tư, sẽ có tác động đáng kể về chi
phí và có thể cần giảm thiểu từ Chính phủ
■ Màu xanh lá cây: rủi ro tài chính ở mức thấp, không có khả năng dẫn tới ngừng đầu tư, Chính
phủ có thể xem xét giảm thiểu
Thang đo này tập trung vào quy mô ảnh hưởng mà một rủi ro có thể gây ra chứ không phải là xác
suất xảy ra rủi ro đó.
Những rủi ro này áp dụng cho chế độ hỗ trợ FIT hiện tại ở Việt Nam. Nếu một cơ chế hỗ trợ khác
được sử dụng cho điện gió ngoài khơi thì sẽ cần phải đánh giá thêm về rủi ro.
Độ lớn
Tình trạng của rủi Biện pháp chính sách
Rủi ro Tóm tắt dự án ro RAG giảm thiểu
Rủi ro xảy ra trong các giai đoạn phát triển dự án và xây dựng
Phê duyệt Chi phí khảo sát, thiết kế và Phát triển Hợp lý hóa quy trình với tiềm
dự án lập kế hoạch có thể bị mất dự án năng quy hoạch một số địa
nếu không được cấp phép điểm do Nhà nước chủ trì
hoặc nếu nhà máy không R
được phê duyệt để đưa vào
Quy hoạch phát triển điện
lực
Chậm trễ Sự phức tạp của quy trình hồ Phát triển Tinh giản quy trình; cung cấp
trong quy sơ tiền xây dựng và các quy dự án hỗ trợ ở giai đoạn nộp hồ sơ
hoạch và trình phê duyệt dẫn đến rủi R
phát triển ro chậm trễ và thay đổi chính
sách trong thời gian chờ
Không chắc Rủi ro giảm thanh toán hỗ Phát triển dự Cố định phần thanh toán hỗ
chắn về mức trợ bởi các nhà hoạch định án, xây dựng, trợ trong PPA ngay từ giai
độ hỗ trợ chính sách sau FID vận hành R đoạn đầu và đảm bảo rằng
sẽ không có điều chỉnh hồi
tố nào với biểu giá
Chậm trễ lưới Rủi ro không có sẵn lưới điện Xây dựng Đưa ra các nghĩa vụ hợp
điện hoặc bị trên bờ tại thời điểm trang đồng hợp lí đối với lưới điện
A
từ chối tiếp trại gió sẵn sàng hoạt động để có thể đáp ứng được thời
cận gian hoàn tất dự án
Đánh giá Tuân thủ các tiêu chuẩn Phát triển Cải thiện các tiêu chuẩn đối
tác động trong nước đối với ĐTMX dự án với ĐTMX phù hợp với các
xã hội và có thể dẫn đến các dự án tiêu chuẩn quốc tế như Tiêu
môi trường không thu hút đầu tư quốc chuẩn hoạt động 689 của
không đầy tế vì chúng không đáp ứng Ngân hàng Thế giới
R
đủ dẫn đến yêu cầu của các nhà đầu tư
các dự án
không thu
hút được đầu
tư quốc tế
Rủi ro xảy ra trong quá trình vận hành của nhà máy
Cắt giảm Không khả thi tài chính do Vận hành Bồi thường cắt giảm (vượt
khả năng bị cắt giảm lưới R quá một ngưỡng nhất định
điện mà không được bảo vệ nào đó)
Rủi ro chi phí Rủi ro khi các yếu tố chi phí Vận hành Bồi thường trong PPA
do khung pháp lý rộng hơn
R
(ví dụ phí mạng, lưới) tăng
cao theo thời gian
Điều kiện Rủi ro PPA bị chấm dứt sớm Vận hành Chính sách đền bù có lợi
chấm dứt do kết quả của cải cách R cho nhà phát triển khi PPA bị
ngành chấm dứt hoàn toàn
Rủi ro tín Rủi ro đối tác thanh toán Vận hành Chính phủ hỗ trợ PPA trong
A
dụng không đủ tín nhiệm trường hợp đối tác vỡ nợ
(còn tiếp)
15. Khả năng được ngân hàng bảo lãnh của PPA 137
Độ lớn
Tình trạng của rủi Biện pháp chính sách
Rủi ro Tóm tắt dự án ro RAG giảm thiểu
Giải quyết Trọng tài quốc tế để giải Vận hành PPA phải bao gồm điều
tranh chấp quyết tranh chấp không A khoản về trọng tài quốc tế
được quy định rõ ràng
Bất khả Các hành vi chính trị không Vận hành Sửa đổi định nghĩa về các sự
kháng được bao gồm trong định kiện bất khả kháng
A
nghĩa về các sự kiện bất khả
kháng
Quyền tham Quyền tham gia của bên Vận hành Sửa đổi PPA để bao gồm
gia của bên cho vay trong trường hợp vi điều khoản về quyền tham
A
cho vay phạm hợp đồng không được gia
quy định trong PPA
Lạm phát Lạm phát đồng đô la Mỹ Vận hành Thanh toán hỗ trợ được liên
không được xem xét trong A kết với chỉ số lạm phát của
thanh toán hỗ trợ đồng đô la Mỹ
Nguồn: BVG Associates.
Ghi chú: Không có rủi ro nào ở đây được đánh giá "xanh" (G).
Sử dụng cạnh tranh để ấn định mức thanh toán hỗ trợ (ví dụ: thông qua đấu giá) thường được
xem là có khả năng dẫn đến chi phí thấp hơn cho khách hàng và được đề xuất từ năm 2023 cho
Việt Nam.91 Đấu giá chỉ có hiệu quả nếu có đủ số lượng đối thủ cạnh tranh. Nếu không đủ, quy
trình cạnh tranh có thể dẫn đến thanh toán hỗ trợ cao.
Bất kỳ chuyển đổi nào đối với cách tiếp cận đấu giá sau năm 2023 đều cần phải đánh giá về mức
độ quan tâm của đơn vị phát triển và phải xem xét trên thực tế, sự thay đổi của cơ chế PPA sẽ tăng
thêm một khoảng thời gian thị trường biến động. Các nỗ lực để chỉ ra sự thay đổi trong cơ chế
PPA mới cần được tiến hành càng sớm càng tốt.
Nếu không đảm bảo được sự quan tâm về cơ chế đấu thầu này, tiếp tục với mức giá được thiết
lập về mặt hành chính có thể là một phương án thích hợp hơn. Ngoài ra, Chính phủ có thể xem
xét đưa ra một mức lãi suất cố định dài hạn cho các nhà phát triển đã sẵn sàng cam kết thực hiện
một danh sách các dự án lớn. Với những thoả thuận như vậy, các đơn vị phát triển có thể chịu chi
phí cao hơn so với các dự án trước đo, nhưng sẽ có động lực để kích thích chuỗi cung ứng trên cơ
sở phát triển dự án tương lai với LCOE thấp hơn.
Ngay cả khi ‘tiêu đề’ về thanh toán hỗ trợ nói trên được ấn định ở mức có vẻ hấp dẫn, sẽ có
những cân nhắc thêm đối với các đơn vị phát triển trong giai đoạn tiền xây dựng. Thứ nhất, có
những rủi ro đáng kể khi mà các đơn vị phát triển đầu tư khá lớn vào các dự án mà sau đó không
được phê duyệt, chẳng hạn như môi trường chính sách đối với điện gió ngoài khơi thay đổi. Thứ
hai, có những rủi ro liên quan đến thời hạn của quy trình nộp đơn. Các đơn vị phát triển cần phải
liên lạc và thương thảo với nhiều bên. Chậm trễ tiềm tàng về thời gian của dự án trong giai đoạn
này khiến đơn vị phát triển gặp rủi ro về chi phí vì họ không xác định được chi phí tài chính cho
giai đoạn tiền phát triển và có rủi ro về thay đổi mức độ thanh toán hỗ trợ trong quá trình phát
triển.
Một số rủi ro có thể được giảm thiểu bằng cách hợp lý hóa quy trình và nhà nước đóng vai trò
lớn hơn trong việc thiết lập địa điểm và kết nối lưới điện cho các trang trại gió.92 Tuy nhiên, ở một
mức độ nào đó, điều này sẽ giảm thiểu khả năng hưởng lợi từ chuyên môn của khu vực tư nhân
trong giai đoạn phát triển. Ví dụ: kể cả khi nếu một đơn vị tư nhân tham gia có nhiều kinh nghiệm
và chuyên môn trong đánh giá các điều kiện địa điểm hơn là nhà nước thì vẫn nên lựa chọn nhà
nước trong việc này.
Ngoài ra, một cách khác để quản lý những rủi ro này là đưa ra các mức hỗ trợ được chốt thông
qua hợp đồng PPA, sau đó được kích hoạt khi trang trại gió được đưa vào vận hành. Điều này sẽ
phần nào giúp các nhà đầu tư yên tâm. Một hợp đồng lý tưởng sẽ bao gồm các ưu đãi hoặc hình
phạt đối với các nhà đầu tư liên quan đến dự án của họ, để đảm bảo rằng các đơn vị phát triển đã
không ‘tích trữ’ các PPA như vậy.
Rủi ro thứ nhất là các mức hỗ trợ thay đổi theo thời gian, như đã thảo luận ở trên liên quan đến rủi
ro trước khi xây dựng.
Thứ hai là, mặc dù phát triển trang trại gió có thể được hoàn thành đúng hạn, các công việc khác
như kết nối lưới điện trên bờ có thể bị chậm trễ. Trong trường hợp đẹp nhất, điều này dẫn đến việc
các đơn vị phát triển tăng thêm chi phí tài chính—còn tệ nhất là, nó có thể rút ngắn thời gian hiệu
lực của chế độ hỗ trợ và/hoặc dẫn đến bị phạt theo PPA vì không cung cấp điện đúng thời hạn.
Điều này có thể được giảm thiểu bằng cách các bên thực hiện đầu tư lưới điện liên quan phải bồi
thường.
15. Khả năng được ngân hàng bảo lãnh của PPA 139
Mặc dù PPA có thể yêu cầu EVN mua toàn bộ lượng điện năng do nhà máy sản xuất ra và giao
đến điểm giao nhận được chỉ định, các điều khoản của PPA có thể giải phóng EVN khỏi nghĩa vụ
phải mua khi có vấn đề kỹ thuật trên lưới truyền tải.
Những điều khoản này về cơ bản chuyển toàn bộ rủi ro truyền tải cho đơn vị phát triển. Mặc
dù PPA có thể yêu cầu EVN giảm thiểu việc cắt giảm hoặc trì hoãn trong việc nhận điện và phải
thông báo trước 10 ngày về gián đoạn này nhưng các điều khoản này không đủ khả năng làm
giảm rủi ro cắt giảm không giới hạn.
Rủi ro này có thể được giảm thiểu bằng cách thực hiện bồi thường cho những cắt giảm vượt quá
mức cắt giảm ‘dự báo’ nhất định nào đó.
Nhà đầu tư có thể phải đối mặt với rủi ro liên quan đến các yếu tố của chi phí cơ sở nằm ngoài
khả năng kiểm soát trực tiếp của mình, ví dụ như các yếu tố xuất phát từ khung pháp lý rộng hơn
của ngành như phí lưới điện, phí tổn thất truyền tải hoặc thuế đối với máy phát điện. Nếu chi phí
của các yếu tố như vậy tăng trong suốt vòng đời của nhà máy, rõ ràng nó sẽ tác động đến lợi
nhuận dự kiến.
Rủi ro này có thể được giảm thiểu bằng cách đưa vào PPA một yêu cầu rõ ràng về đối tác phải
thực hiện bồi thường cho đơn vị phát triển những rủi ro đó.
Rõ ràng là các nhà đầu tư phải đối mặt với rủi ro khá lớn nếu PPA bị chấm dứt sớm. Có rất nhiều
lý do có thể dẫn tới chấm dứt như vậy, bao gồm cả ví dụ liên quan đến các đề xuất cải cách rộng
hơn của ngành điện ở Việt Nam khiến EVN phải chấm dứt hoạt động với tư cách là bên mua điện
trung ương như hiện nay.
Điều này có thể được giảm nhẹ bằng cách quy định rõ trong PPA là hợp đồng không thể bị chấm
dứt trong một tình huống như vậy và hợp đồng sẽ được chuyển cho một đối tác đáng tin cậy tương
tự trong trường hợp cải cách ngành (có nghĩa là khi EVN không còn khả năng làm đối tác nữa).
Các nhà đầu tư sẽ được EVN thanh toán và do đó họ sẽ gặp rủi ro tín dụng liên quan đến độ
tín nhiệm của EVN. Một điều rất quan trọng đối với các nhà đầu tư là EVN được coi là có độ tín
nhiệm cao và có một lộ trình minh bạch mà thông qua đó EVN có thể thu hồi các chi phí mà họ
phải chi trả.
EVN đã được xếp hạng tín nhiệm BB,93 điều đó cho thấy là EVN đáng tin cậy và ổn định. Tuy
nhiên, nếu độ tín nhiệm là một vấn đề lớn đối với các nhà đầu tư, điều này có thể giảm thiểu bằng
cách Chính phủ cung cấp một số hình thức thu xếp hỗ trợ, theo đó sẽ chịu trách nhiệm thanh toán
trong trường hợp EVN vỡ nợ.
PPA được điều chỉnh bởi pháp luật Việt Nam và không có điều khoản rõ ràng về trọng tài quốc tế.
Thông tư 02 quy định rằng, sau khi thương lượng không thành công, có thể giải quyết tranh chấp
theo quy định của pháp luật có liên quan. Điều này có thể cho phép các đơn vị phát triển thương
thảo với EVN để đưa vào trong PPA điều khoản về trọng tài quốc tế. Không rõ liệu EVN có cởi
mở với sửa đổi như vậy không. Nếu không, đơn vị phát triển có rủi ro cao hơn nếu cần giải quyết
tranh chấp.
Để loại bỏ rủi ro giải quyết tranh chấp, PPA cần được sửa đổi để quy định rõ ràng về trọng tài
quốc tế.
Các sự kiện có tính chất chính trị không còn được đưa vào trong phần định nghĩa về các sự kiện
bất khả kháng của PPA. Do đó, các hành vi của chính phủ ảnh hưởng đến thực hiện PPA, việc
không cấp giấy phép hoặc phê duyệt cho đơn vị phát triển, quốc hữu hóa tài sản của đơn vị phát
triển hoặc trưng thu của chính phủ không còn được coi là sự kiện bất khả kháng theo mặc định.
Để có được sự bảo vệ trước sự kiện bất khả kháng, bên bị ảnh hưởng sẽ phải chứng minh sự kiện
chính trị là không thể lường trước và không thể kiểm soát được. Nếu không thể làm như vậy, nó sẽ
vi phạm hợp đồng.
Điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc quy định trọng tài quốc tế trong PPA để tạo niềm
tin cho các đơn vị phát triển là một bên khách quan sẽ xác định liệu một hành động chính trị có
phải là một sự kiện bất khả kháng hay không. Ngoài ra, rủi ro này có thể được giảm thiểu thông
qua việc đưa cụ thể các các hành vi chính trị vào điều khoản bất khả kháng trong PPA.
Trong trường hợp vi phạm hợp đồng, quyền của tổ chức cho vay can thiệp và thay thế trực tiếp
bên vi phạm hoặc chỉ định bên thứ ba không còn được quy định rõ ràng trong PPA. Các đơn vị
phát triển cần đàm phán với EVN nếu người cho vay giữ quyền này, mặc dù không rõ liệu EVN có
cởi mở với sửa đổi này không.
Nếu rủi ro này được coi là mối quan tâm quan trọng đối với các đơn vị phát triển hoặc tổ chức cho
vay của họ và không thể giải quyết dễ dàng thông qua đàm phán với EVN, Chính phủ cần xem
xét sửa đổi PPA để đưa vào quyền can thiệp rõ ràng đối với tổ chức cho vay.
Lạm phát
FIT hiện tại không có hệ số lạm phát, có nghĩa là nhà đầu tư phải đối mặt với rủi ro lạm phát cao
hơn dự báo. FIT được ghi bằng Đô la Mỹ (US$) tương đương nhưng được trả cho các đơn vị phát
triển bằng đồng Việt Nam (VNĐ). Do đó, giả định hợp lý là lạm phát của Việt Nam đã được tính
đến vì nó sẽ dẫn đến sự mất giá của tiền Đồng so với đô la Mỹ. Nhưng nhà đầu tư vẫn sẽ phải đối
mặt với rủi ro khi lạm phát của Mỹ đi lệch khỏi dự báo của họ trong thời hạn PPA 20 năm.
Rủi ro này có thể được giảm thiểu thông qua việc liên kết khoản thanh toán hỗ trợ trong tương lai
với hệ số lạm phát.
15. Khả năng được ngân hàng bảo lãnh của PPA 141
Việt Nam cần xem xét những thay đổi quan trọng đối với chế độ FIT hiện tại trong ngắn hạn để
phân bổ lại rủi ro để hỗ trợ khả năng thanh toán của các dự án. Điều này sẽ làm tăng sự quan tâm
của các nhà đầu tư trong lĩnh vực này và để người tiêu dùng Việt Nam không phải trả giá điện cao
hơn để bù đắp cho những rủi ro được phân bổ không phù hợp. . Giá FIT cần cân nhắc LCOE của
các dự án móng cố định đầu tiên.
Điều này sẽ bao gồm những thay đổi đối với chế độ bảo vệ các đơn vị phát triển khỏi rủi ro của
‘nhà nước’, ví dụ như cấp phép dự án hoặc chậm trễ lưới điện, đặc biệt là trong giai đoạn trước khi
xây dựng, giải quyết các vấn đề xung quanh việc cắt giảm không thể dự báo trước, và đảm bảo
rằng các điều khoản của PPA chủ động tạo điều kiện cho sự tham gia của các công ty tài trợ quốc
tế, ví dụ như điều khoản chấm dứt, quyền được can thiệp và giải quyết tranh chấp.
Dù là Chính phủ áp dụng quy trình tập trung một giai đoạn hay quy trình phân cấp hai giai đoạn
như được nêu trong Phần 14, bất kỳ động thái nào đối với chế độ dựa trên đấu giá cần dựa vào
đánh giá về khả năng có đủ quan tâm của các nhà đầu tư. Điều này rất quan trọng để chương
trình đấu giá thành công. Trước khi lĩnh vực đủ trưởng thành để đảm bảo sự quan tâm đó, mức hỗ
trợ cần được thiết lập phù hợp hơn. Ít nhất nên có một quy trình cạnh tranh có chi phí thấp cho
người tham gia (và có giới hạn thấp nhất của thanh toán hỗ trợ không đổi). Như vậy sẽ đảm bảo
khả thi tài chính khi triển khai rộng rãi điện gió ngoài khơi.
■ Enterprize Energy, và
■ Mainstream Renewable Power.
Các tiêu chuẩn thiết kế sẽ được lựa chọn theo thông lệ quốc tế, chỉ chon theo các tiêu chuẩn Việt
Nam khi các tiêu chuẩn này cao hơn tiêu chuẩn quốc tế. Tuy nhiên nhiều trường hợp như vậy thì
thường không có nhiều do sự non trẻ của ngành điện gió ngoài khơi ở Việt Nam và trên toàn cầu.
Các đơn vị phát triển sẽ chỉ định các tiêu chuẩn H&S liên quan trong quá trình xây dựng và vận
hành và đảm bảo nhà thầu được tiếp cận các nguồn lực cần thiết để có thể thực hiện đúng các
tiêu chuẩn này.
Ngoài việc áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế, các đơn vị phát triển cũng sẽ tận dụng các nhân viên
có kinh nghiệm từ các khu vực khác để đào tạo và phát triển nhân sự vận hành tại Việt Nam.
143
Những quy định này do Văn phòng Chính phủ xây dựng. Tất cả các tài liệu được yêu cầu xây dựng
theo các hướng dẫn này phải được đệ trình lên MOIT phê duyệt trước khi bắt đầu hoạt động.
Trong khi chưa có yêu cầu chủ trang trại gió ngoài khơi tuân thủ các quy đình hiện hành của
ngành dầu khí, trong trường hợp không có quy định cụ thể cho điện gió ngoài thì việc thực hiện
các quy định của ngành dầu khí như một điểm khởi đầu hợp lý là phù hợp. Mặc dù các hoạt
động dầu khí được thừa nhận có các rủi ro về sức khỏe và sự an toàn khác do có sự hiện diện của
hydrocacbon áp lực cao, đây là tiền lệ của việc áp dụng các tiêu chuẩn an toàn lao độngchung tại
các thị trường điện gió ngoài khơi khác như ở vương quốc Anh, nơi mà các quy định của ngành
dầu khí được sử dụng làm điểm khởi đầu cho các dự án điện gió ngoài khơi.
Đây cũng sẽ là một làm cách hiệu quả để tiến hành các dự án điện gió ngoài khơi ở Việt Nam vì
việc xây dựng các hướng dẫn hoàn toàn mới có thể là một quá trình lâu dài. Điều này cũng phù
hợp với kỳ vọng của các đơn vị phát triển dự án, như được thảo luận trong Phần 16.3.
Theo hiểu biết của chúng tôi, khi đơn vị phát triển đã nộp tài liệu cho từng dự án trang trại gió,
MOIT sau đó sẽ thành lập một Hội đồng thẩm định để kiểm tra tài liệu.
Sau đó MOIT sẽ thông báo cho tổ chức hoặc cá nhân có liên quan về tình trạng tài liệu trình nộp—
xem nó được chấp thuận hay phải bổ sung, chỉnh sửa.
Hội đồng này sau đó có thể tiến hành kiểm tra tại chỗ trong hoạt động hiện trường và tổ chức các
cuộc họp thẩm định.
Các quy định dầu khí hiện hành cung cấp chi tiết về quản lý an toàn cho tất cả các hoạt động bao
gồm: tìm kiếm, thăm dò, xử lý, lưu trữ và vận chuyển dầu khí.
■ Chương trình quản lý an toàn (bao gồm chính sách, mục tiêu, hoạt động an toàn, quy định
quốc gia và quốc tế và đánh giá sự tuân thủ),
■ Báo cáo đánh giá rủi ro,
■ Kế hoạch ứng phó khẩn cấp,
■ Trách nhiệm của tổ chức cá nhân đối với quản lý an toàn (bao gồm tài liệu, quản lý an toàn và
rủi ro, ứng phó khẩn cấp, an toàn lao động, đào tạo nhân sự và bằng cấp),
■ Thiết kế và xây dựng an toàn các công trình (bao gồm các yêu cầu chung, phân loại khu vực
nguy hiểm và phòng cháy chữa cháy),
Các quy định khác thường áp dụng cho các dự án dầu khí ngoài khơi ở Việt Nam bao gồm:
■ QCVN 11: 2012/BCT—Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về mức rủi ro chấp nhận được trong đánh
giá định lượng rủi ro cho các hoạt động dầu khí, xăng dầu, hóa chất và nhiệt điện, 2012,
■ QCVN 19: 2009/BTNMT—Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải công nghiệp đối với bụi và
các chất vô cơ, 2009, và
■ QCVN 20: 2009/BTNMT—Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải công nghiệp đối với các
chất hữu cơ, 2009.
Để xác định bất kỳ lỗ hổng nào trong các quy định hiện hành của Việt Nam và xác định các khía
cạnh cần cải thiện, điều quan trọng là phải hiểu được các tài liệu về an toàn và sức khỏe khác
nhau áp dụng cho các hoạt động điện gió ngoài khơi trên toàn cầu.
Bảng 16.1 liệt kê các tài liệu pháp lý về an toàn lao động thường được sử dụng trên thế giới cùng
với một số tài liệu cụ thể của vương quốc Anh. Các hướng dẫn cụ thể của vương quốc Anh được
sử dụng ở đây với tư cách là một ví dụ về thị trường đã được thiết lập sớm hơn so với thị trường
Việt Nam. Mặc dù trong này có một số quy định cụ thể của vương quốc Anh, đại đa số là các tiêu
chuẩn quốc tế (cũng đã được áp dụng cho các dự án của vương quốc Anh) và, theo như phản hồi
của các đơn vị phát triển, họ cũng có ý định áp dụng những tài liệu này cho các dự án điện gió
ngoài khơi ở Việt Nam.
Bảng 16.1: Các tài liệu hướng dẫn và pháp luật về an toàn lao động có liên quan
(ở Anh/trên thế giới)
(còn tiếp)
Ở vương quốc Anh, các quy định về Thiết kế và Quản lý Xây dựng (CDM) áp dụng cho hầu hết
các dự án xây dựng, trong khi hướng dẫn DNVGL-ST là tiêu chuẩn toàn cầu chính cho các trạm
biến áp và tua-bin gió ngoài khơi.
G+, một tổ chức y tế và an toàn toàn cầu đã thúc đẩy ngành điện gió ngoài khơi lập báo cáo số
liệu sự cố, lập ra các hướng dẫn thực hành tốt, các hội thảo về an toàn thông qua thiết kế và học
hỏi từ các sự cố. Dự định hướng dẫn này sẽ được sử dụng bởi tất cả mọi người để cải thiện các
tiêu chuẩn an toàn và sức khỏe toàn cầu trong các trang trại gió ngoài khơi.
Các hướng dẫn của G+ và RenewableUK đã được xây dựng riêng cho ngành điện gió (ngoài khơi
và trên bờ) và được sử dụng cùng với hướng dẫn của DNV-GL.
Cần lưu ý rằng đây không phải là một danh sách đầy đủ mà là quy định và hướng dẫn chính được
áp dụng cho các dự án điện gió ngoài khơi. Có rất nhiều tiêu chuẩn quốc tế áp dụng được cho
các lĩnh vực thiết kế cụ thể, trong đó có các tiêu chuẩn EN, ISO và IEC.
Kinh nghiệm với các thị trường điện gió ngoài khơi khác cho thấy các đơn vị phát triển dự án đã
sử dụng các quy định, tiêu chuẩn và hướng dẫn quốc tế (như DNVGL, ISO, G+, vv.) kết hợp với
các hướng dẫn bao quát đã có đối với nước sở tại (như CDM) thay vì xây dựng các hướng dẫn
mới cho thị trường điện gió ngoài khơi. Ví dụ, các trang trại gió ngoài khơi ở vương quốc Anh sẽ
tuân theo các hướng dẫn CDM và cũng sẽ sử dụng DNVGL-ST-0145/0119/0126 cùng với các tiêu
chuẩn và hướng dẫn ISO khác.
Các đơn vị phát triển có thể áp dụng phương pháp tương tự để phát triển điện gió ngoài khơi
mới tại Việt Nam—sử dụng Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 04/2015/QĐ-TTg (hoặc văn
bản tương đương cho điện gió ngoài khơi) cùng với các hướng dẫn tiêu chuẩn quốc tế khác.
Cách tiếp cận này không chỉ tránh việc phải xây dựng các hướng dẫn hoàn toàn mới bởi nó đã
được áp dụng ở các thị trường khác. Phản hồi từ các đơn vị phát triển cho thấy họ cũng có ý định
như vậy.
Ngôn ngữ sử dụng trong Quyết định số 04/2015/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ là đủ rộng,
trong hầu hết trường hợp, nó có thể áp dụng cho các dự án điện gió ngoài khơi. Nếu Chính phủ
mong muốn đưa ra một tài liệu đầy đủ hơn cho ngành điện gió ngoài khơi thì cần xem xét để mở
rộng những quy định này để đưa vào các thiết kế, hướng dẫn vận hành và tiêu chuẩn quốc tế cụ
thể cần được tuân thủ.
Cách tiếp cận đã được áp dụng ở các khu vực khác (như ở vương quốc Anh) là sử dụng các quy
định cho ngành dầu khí ngoài khơi làm điểm khởi đầu và sử dụng các quy định này, kết hợp với
các quy định điện gió ngoài khơi của quốc tế để đảm bảo thực hành tốt nhất và giảm thiểu rủi ro
về an toàn lao động để thiết kế và vận hành các trang trại gió ngoài khơi.
Do cách tiếp cận này đã được áp dụng ở nơi khác,lợi thế sẽ được tạo ra khi tận dụng nhân sự đã
có kinh nghiệm trong quá trình phát triển và vận hành dự án, bao gồm cả đào tạo con người. Các
đơn vị phát triển dự án cũng cho thấy họ có ý định làm như vậy.
Đào tạo về sức khỏe hành vi và an toàn là một phần không thể thiếu trong các khung về an toàn
lao động hiện đại và đã được áp dụng rộng rãi và áp dụng trong ngành điện gió ngoài khơi.
Việt Nam có thể hưởng lợi từ kinh nghiệm quốc tế có được về vấn đề này từ các đơn vị phát triển
đã hoạt động ở các thị trường điện gió ngoài khơi khác.
Cách tiếp cận này sẽ mang lại sự rõ ràng và đảm bảo cho các đơn vị phát triển dự án có một
khuôn khổ tốt về H&S liên quan đến thiết kế, xây dựng, chạy thử và vận hành các trang trại gió.
Điều này làm giảm nguy cơ gây hại cho người dân và đồng thời giảm rủi ro chậm trễ cho các dự
án trong khi các vấn đề về quy định được giải quyết.
Chính phủ cần nêu trong các hướng dẫn cập nhật cụ thể cho thị trường điện gió ngoài khơi là
nhân viên có kinh nghiệm từ các khu vực khác sẽ được sử dụng để vận hành lắp đặt mới và đào
tạo nhân viên trong nước. Điều này sẽ cho thấy cam kết sử dụng nhân sự trong nước trong dài
hạn và cũng sẽ mang lại niềm tin cho các nhà đầu tư tiềm năng rằng những kiến thức và kinh
nghiệm trước đây sẽ được sử dụng nhiều nhất có thể để giảm thiểu rủi ro về sức khỏe và an toàn.
Các quy định áp dụng cần tập trung vào các khía cạnh hành vi của an toàn lao động và đảm bảo
rằng việc đào tạo hành vi đang thực hiện là yếu tố cốt lõi của việc tuân thủ.
Chúng tôi cũng xem xét các quy trình được sử dụng để quản lý các hồ sơ xin kết nối lưới tại
Việt Nam.
Lưới truyền tải được chia thành ba khu vực: Bắc, Trung và Nam. Trung tâm phụ tải tập trung xung
quanh khu vực miền Bắc và Nam, mỗi vùng tiêu thụ khoảng 45% tổng công suất. Khu vực miền
Trung đóng vai trò liên kết truyền tải giữa miền Bắc và miền Nam. Công suất được truyền đi ở tần
số 50 Hz. Điện áp đường dây truyền tải nằm trong khoảng từ 500 kV đến 110 kV được sử dụng để
kết nối các trung tâm phụ tải và nguồn điện.
Hệ thống có hơn 7.500 km đường dây 500 kV và gần 40.000 km đường dây 110 kV và 220 kV.
Có hai đường dây truyền tải song song 500 kV dài 1.500 km nối miền Bắc với miền Nam của đất
nước với dòng điện từ Nam ra Bắc. Đường dây kết nối chịu tải cao, đặc biệt là trong mùa mưa,
tương ứng với thời kỳ có nguồn gió lớn. Công suất trên kết nối Bắc-Trung là 2.600 MW, trong khi
kết nối Trung-Nam có công suất 4.600 MW.94
Để giải quyết các hạn chế, người ta đã sử dụng các cơ chế cân bằng để quản lý dòng điện. Điện
thừa sản xuất ra ở miền Nam được xuất khẩu sang Campuchia. Điện bổ sung có thể được nhập
khẩu từ Trung Quốc hoặc Lào, mặc dù sản lượng này chỉ chiếm 1,5% sản lượng sử dụng điện
trong năm 2018.95
149
Theo Báo cáo Triển vọng năng lượng năm 2019 của Viện Năng lượng, Hình 17.2 cho thấy các khu
vực tắc nghẽn đã được xác định trong lưới truyền tải đối với 27 GW năng lượng tái tạo, trong đó
có 5 GW là điện gió ngoài khơi vào năm 2030.
Thị trường điện gió ngoài khơi vẫn còn non trẻ ơ Việt Nam. Hiện tại có chưa tới 100 MW được lắp
đặt nhưng con số này sẽ tăng đáng kể. Phần 3 cho thấy phần lớn các khu vực gió ngoài khơi tiềm
năng là ở miền Nam, do nguồn tài nguyên gió ở miền Bắc thấp hơn.97 Mất cân bằng giữa miền
Nam và miền Bắc sẽ là một thách thức ngày càng tăng đối với hệ thống điện.
17.4 Các vấn đề tiềm tàng khi tăng cường triển khai điện gió
Nâng cấp trạm biến áp và lưới truyền tải
Chắc chắn khi Việt Nam tiến triển và nhà máy điện mới hòa lưới, sẽ cần phải xây dựng thêm các
trạm biến áp và nâng cấp lưới truyền tải.
Các nghiên cứu xây dựng mô hình hệ thống gần đây cho thấy có đã tắc nghẽn trong và xung
quanh các thành phố lớn có mật độ dân số cao, gây căng thẳng cục bộ cho các trạm biến áp và
đường dây.98 Cần có cơ sở hạ tầng mới để hỗ trợ các khu vực tắc nghẽn cao và công suất mới.
Các công nghệ như cảm biến nhiệt độ phân tán (DTS) có thể giúp tối đa hóa sử dụng cơ sở hạ
tầng hiện có.
Khi lắp đặt điện gió có tác động đáng kể đến vận hành hệ thống điện, cần vận hành nguồn điện
theo cách để tăng cường tính linh hoạt trong vận hành. Điều quan trọng là phải bao gồm các bộ
phận của nguồn điện gió hiện có trong quy trình điều độ và giám sát và kiểm soát chúng. Một ví
dụ về điều này là giảm sản lượng điện gió vì các tình huống khẩn cấp.
Khi sản lượng phát điện thông thường thấp, sự ổn định của hệ thống có thể là một vấn đề lớn. Cần
kết hợp kiểm soát gió và các công nghệ điều khiển khác để đảm bảo an ninh nguồn cung. Có vài
ví dụ về điều này trong vận hành. Ở Ireland, điện gió có thể cung cấp tới 60% nguồn cung cấp
điện. Điều này, kết hợp với một số kết nối đến các quốc gia khác, có thể dẫn đến các giai đoạn cắt
giảm trang trại gió mà nếu không bù đắp sẽ dẫn đến rủi ro đầu tư không thể chấp nhận được.
Với sự thâm nhập ngày càng tăng của điện gió, quán tính toàn hệ thống sẽ giảm. Khi đó, việc
giảm phát điện sẽ có tác động lớn hơn tới thay đổi tần số trên lưới. Điều này thường kết hợp bởi
các máy phát tích hợp như lắp đặt năng lượng mặt trời được kết nối với lưới điện bằng cách sử
dụng các rơle theo dõi thay đổi tần số (RoCoF), ngắt kết nối khi xảy ra sự kiện lưới điện khiến tần
số giảm xuống. Thiết lập bảo vệ cho trang trại gió và các máy phát điện khác được kết nối với hệ
thống sẽ phải sửa đổi để phù hợp với sự thâm nhập đáng kể của điện gió.
Có nghiên cứu đã nhấn mạnh rằng các đơn vị vận hành lưới truyền tải ở các quốc gia khác nhau
hiện đang nhận ra tác động mà các nhà máy phát điện gió ứng phó với quán tính để hỗ trợ độ tin
cậy của hệ thống.100 Nghiên cứu này xác định rằng các quốc gia có cường độ gió lớn như Ireland
và Đan Mạch hiện đang trong giai đoạn thực hiện các yêu cầu quán tính điện gió trong điều kiện
vận hành tiêu chuẩn của mình.
Trong nhiều hệ thống điện, thị trường dịch vụ phụ trợ đã được phát triển và khuyến khích phát
triển các công nghệ cung cấp dịch vụ để hỗ trợ độ tin cậy của hệ thống truyền tải, ví dụ như tăng
cường khả năng ứng phó với tần số trong thị trường vương quốc Anh với mục đích sử dụng công
nghệ pin để cung cấp dịch vụ ứng phó quán tính.
■ Sử dụng dòng điện cao áp một chiều (HVDC) cho khoảng cách truyền tải dài để giảm bớt
quá tải trên đường dây truyền tải, gia tăng năng lực truyền tải,
■ Triển khai hệ thống quản lý diện rộng (WAMS) cảnh báo mất ổn định lưới điện để ngăn ngừa
xáo trộn lớn,
■ Triển khai biến tần thông minh cho các nhà máy điện gió mới,
■ Hệ thống truyền tải điện xoay chiều linh hoạt (FACTS) để tăng cường sự ổn định của hệ thống
điện bằng cách cung cấp bù công suất phản kháng ứng phó nhanh cho lưới truyền tải,
■ Cần phát triển năng lực quản lý và đáp ứng phía nhu cầu,
■ Các nhà máy điện ảo (VPP) sẽ được triển khai để cải thiện tính linh hoạt trong hệ thống để
quản lý sự mất cân bằng giữa phát điện và nhu cầu, và
■ Đánh giá an ninh động (DSA) để vận hành hệ thống hiệu quả khi có sự thâm nhập cao của
điện gió.
Các khuyến nghị trong báo cáo này cho thấy có thể có những lo ngại về ổn định lưới điện, điện
áp, nghẽn lưới hoặc quá tải xảy ra trong lưới truyền tải. Phần này giúp xác định cần phải thực hiện
những nâng cấp gì khi lắp đặt thêm công suất điện gió.
Một khuyến nghị quan trọng là Việt Nam cần đưa ra hướng dẫn và tiêu chuẩn quy phạm lưới điện
rõ ràng cho các kết nối lưới điện với điện gió ngoài khơi mới.
Để tăng công suất Bắc-Trung, một tuyến đường dây 500 kV dài 750 km đang được xây dựng và
dự kiến sẽ đi vào hoạt động vào năm 2020.102
Ngoài ra, có 25 dự án mở rộng trạm biến áp và hoàn thành vào năm 2025, bao gồm một đường
dây truyền tải trong hành lang Bắc-Nam.
Nghiên cứu và phát triển trong tương lai đang được tiến hành để nâng cấp lưới truyền tải lên các
cấp điện áp cao hơn, bao gồm các kết nối ở cấp 750 kV, 1.000 kV và HVDC.
PDP7 đã đề xuất các cách tiếp theo trong đó lưới truyền tải sẽ được nâng cấp trong giai đoạn đến
năm 2030.
■ Phát triển lưới truyền tải 500 kV, kết nối hệ thống điện giữa các khu vực và các quốc gia
lân cận,
■ Phát triển lưới truyền tải 220 kV với kiểu mạch vòng,
■ Nghiên cứu và xây dựng các trạm biến áp cách điện bằng khí GIS, 220/22 kV, các trạm biến
áp ngầm và không người trực, và
■ Áp dụng các công nghệ lưới điện thông minh trong mạng lưới truyền tải.
PDP 7 ước tính tổng vốn đầu tư cần có vào khoảng 26 tỷ US$ trong giai đoạn từ 2021 đến 2030
để phát triển mạng lưới điện.
Tính đến cuối năm 2018, 4.800 MW điện gió đã được đưa vào PDP 7 sửa đổi của Chính phủ với
công suất đề xuất bổ sung là 7.400 MW.103
Báo cáo Triển vọng năng lượng Việt Nam 2019 cũng xem xét các kịch bản khác nhau cho cân
bằng năng lượng. Mục tiêu C1 RE giả định sự thâm nhập của 10 GW điện gió vào năm 2030 bao
gồm 2,5 GW điện gió ngoài khơi và 7,5 GW điện gió trên bờ. Một nghiên cứu đã được thực hiện
để mô phỏng kịch bản này với việc xem xét các công trình được đề xuất trong PDP7. Nghiên cứu
đã phát hiện rằng các giao diện khu vực có đủ khả năng truyền tải nguồn điện lắp đặt bổ sung.
Với mục đích ước tính liệu có cần nâng cấp bổ sung hay không, báo cáo này xem xét hai kịch bản
thể hiện các mức độ thâm nhập của điện gió ngoài khơi khác nhau, đó là:
Công suất này sẽ được lắp đặt tại các khu vực có tiềm năng điện gió ngoài khơi được minh họa
trong Hình 3.1, được lấy từ công trình nghiên cứu lộ trình điện gió ngoài khơi của DEA.
Nghiên cứu xây dựng mô hình lưới điện đã được tiến hành để hỗ trợ PDP 7 giả định có tổng cộng
10 GW công suất điện gió được lắp đặt vào năm 2030, trong đó có 2,5 GW điện gió ngoài khơi
và 7,5 GW điện gió trên bờ. Kết luận rằng với khối lượng này, cùng với công tác củng cố lưới điện
được đề xuất trong PDP 7, mạng lưới truyền tải có thể đáp ứng các yêu cầu phát điện tăng lên.
Trong các kịch bản tăng trưởng điện gió ngoài khơi được nghiên cứu trong nghiên cứu hiện tại,
có thêm 2,5 GW điện gió ngoài khơi được đề xuất vào năm 2030 theo kịch bản tăng trưởng thấp
và thêm 7,5 GW điện gió ngoài khơi vào năm 2030 theo kịch bản tăng trưởng cao, cao hơn mức
điện gió ngoài khơi được xem xét trong phân tích PDP 7. Mặc dù không ở đây không thực hiện
phân tích chi tiết hệ thống, nâng cấp mạng lưới truyền tải đề xuất được đánh giá là ở đủ để đáp
ứng các yêu cầu phát điện cho từ 5 đến 10 GW điện gió ngoài khơi vào năm 2030.
Để điện gió ngoài khơi đạt mức 5 đến 10 GW vào năm 2030 và 35 đến 70 GW vào năm 2050, lưới
điện cần phải được củng cố nhiều hơn nữa để giảm bớt quá tải cho hệ thống truyền tải khu vực.
Công tác củng cố này cao hơn mức quy hoạch để truyền tải công suất dự báo trong PDP 7. Củng
cố lưới điện bao gồm các trạm biến áp khu vực, năng lực mạng lưới truyền tải Bắc-Nam và yêu
cầu bù công suất phản kháng. Với chiều dài của đường dây truyền tải, có thể sẽ áp dụng công
nghệ HVDC. Cần phân tích mô hình hệ thống chi tiết để xác định các nâng cấp cần thực hiện.
Báo cáo do VIET104 công bố phân tích các nâng cấp truyền tải cần thiết để tích hợp 10 GW điện
gió ngoài khơi vào năm 2030, kịch bản tăng trưởng cao được xem xét trong nghiên cứu này.
Báo cáo này giả định rằng trong giai đoạn đến năm 2025, phát triển điện gió ngoài khơi sẽ được
tập trung vào các khu vực phát triển tiềm năng ở phía nam và đông nam bờ biển Việt Nam để
cung cấp điện cho các trung tâm nhu cầu phụ tải lớn ở phía nam.
Trong giai đoạn từ 2025 đến 2030, nghiên cứu của VIET giả định phát triển điện gió ngoài khơi sẽ
dịch chuyển về phía bắc của đất nước, nơi không đủ nguồn điện trong khu vực, đặc biệt là trong
thời kỳ phụ tải đạt đỉnh trong mùa khô khi các nhà máy thủy điện có công suất thấp hơn mức
trung bình.
Nghiên cứu đề xuất ba phương án nâng cấp mạng lưới truyền tải, như trong Hình 17.3.
Nghiên cứu trình bày ước tính chi phí ở mức cao cho ba phương án, được tóm tắt như sau:
Cơ chế thường được sử dụng để tạo điều kiện nâng cấp hệ thống truyền tải lớn, giúp giảm bớt
gánh nặng đầu tư cho chính phủ là mô hình xây dựng, sở hữu, vận hành, chuyển giao (BOOT).
Theo hình thức BOOT, một doanh nghiệp tư nhân được chính phủ ủy thác để tài trợ, xây dựng và
vận hành cơ sở hạ tầng truyền tải. Đầu tư được thu hồi bằng cách thu một khoản phí cho chính
phủ.
Cách tiếp cận này có thể giúp Việt Nam thực hiện một chương trình tăng tốc xây dựng lưới truyền
tải mà không cần đầu tư như vậy.
Để được kết nối với lưới truyền tải, nhà máy điện phải đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật và an toàn
theo quy định của pháp luật. Là một phần của quy trình đăng ký, EVN sẽ xem xét yêu cầu, xem xét
các yếu tố như quán tính hệ thống, mức độ sóng hài, lắp đặt bảo vệ và công suất phản kháng. Tại
Việt Nam, Công ty mua bán điện (EPTC) là bên mua duy nhất và là đơn vị mua tất cả điện năng
sản xuất ra. EPTC sẽ thương thảo vào ký kết PPA với nhà máy điện. Sau đó, đơn vị này bán điện
cho năm tổng công ty điện lực để bán lại cho người dùng cuối.
Các thỏa thuận với các cơ quan của Việt Nam được yêu cầu tại các giai đoạn dự án sau:
■ Phát triển sơ bộ: Quyết định đầu tư với Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư,
■ Phát triển: đảm bảo nguồn vốn, quyền sử dụng đất, giấy phép xây dựng và môi trường, các
thỏa thuận (như mô tả trong Phần 12), và
■ Vận hành và bảo trì: giấy phép vận hành, giấy phép sản xuất điện.
Kết nối từ trang trại gió đến điểm kết nối lưới điện thuộc về trách nhiệm của chủ sở hữu nhà máy
điện. Điều này bao gồm đầu tư và vận hành cáp truyền tải, trạm biến áp và thiết bị đóng cắt. Sau
điểm kết nối, công ty truyền tải thuộc EVN chịu mọi trách nhiệm. Cục điều tiết điện lực có trách
nhiệm cấp giấy phép hoạt động điện lực.
Ví dụ, ở Anh, hệ thống truyền tải giữa trạm thu gom điện gió/trạm biến áp ngoài khơi đến lưới
truyền tải trên bờ, là do đơn vị phát triển xây dựng và sau đó đấu thầu thông qua quy định. Giấy
phép được cấp cho chủ sở hữu lưới truyền tải ngoài khơi (OFTOs) sau một quá trình đấu thầu
cạnh tranh do cơ quan điều tiết, Ofgem, thực hiện để sở hữu và vận hành mạng lưới.107
Thị trường điện của Anh vận hành theo quy trình cạnh tranh. Điện được giao dịch giữa các nhà
máy điện và các nhà cung cấp thông qua các hợp đồng kỳ hạn hoặc giao ngay sử dụng các đơn
vị quản lý giao dịch thị trường điện để đảm bảo quy định và thống nhất.106 Đơn vị điều hành
hệ thống xử lý vấn đề mất cân bằng lưới điện bằng cách sử dụng đấu giá trong ngày hoặc dự
phòng/ứng phó. Hệ thống này đã góp phần giảm chi phí điện từ điện gió ngoài khơi.108
Chúng tôi tập trung vào nhu cầu chuỗi cung ứng cho điện gió móng cố định ngoài khơi và tập
trung vào các cảng để hỗ trợ sản xuất và xây dựng ven biển. Sau đó chúng tôi trình bày nhu cầu
cho các dự án điện gió gần bờ và móng nổi ở độ sâu ít hơn. Các tàu lớn được trình bày trong
Phần 10. Đường bộ, đường sắt và các yêu cầu cơ sở hạ tầng khác xung quanh cảng phụ thuộc vào
việc sử dụng cảng. Nói chung, mặc dù cơ sở hạ tầng còn hạn chế, chúng tôi không thấy có vấn đề
lớn nào trong việc xây dựng và các loại hình sản xuất mà chúng tôi dự báo trong mười năm tới.
Các cảng hỗ trợ vận hành dự án trong 25 năm hoặc hơn thường có yêu cầu thấp hơn nhiều và các
khoản đầu tư đều dễ dàng thuyết phục vì thời gian hoạt động kéo dài của dự án điện gió ngoài
khơi. Chúng tôi hiểu rằng các tỉnh Bình Thuận và Ninh Thuận đang có cảng cảng rất phù hợp với
các công trình có thể sử dụng được mà không cần chi phí nâng cấp lớn. Chúng tôi xem xét các
năng lực và những thiếu sót trong hạ tầng cảng Việt Nam và đưa ra các khuyến nghị về cách giải
quyết tốt nhất các tắc nghẽn tiềm tàng.
Điều này rất quan trọng vì có các cảng tốt có vai trò quan trọng trong việc xây dựng các dự án
điện gió ngoài khơi an toàn và hiệu quả. Điều này củng cố các luận điểm trình bày trong Phần 6
và Phần 12 và cung cấp thông tin cho các hoạt động khác.
Sau đó, chúng tôi đã sử dụng kiến thức của nhóm và các bên liên quan để đánh giá các cảng hiện
tại ở các vị trí có liên quan đến điện gió ngoài khơi, phân loại các cảng theo:
■ Phù hợp, không cần nâng cấp hoặc nâng cấp nhỏ (chi phí nhỏ hơn 5 triệu US$)
■ Phù hợp cần nâng cấp vừa phải (chi phí từ 5 triệu US$ đến 50 triệu US$), hoặc
■ Phù hợp, cần nâng cấp lớn (chi phí lớn hơn 50 triệu US$)
Sau đó chúng tôi đã chia sẻ đánh giá này với các đơn vị phát triển chính và thu thập ý kiến phản
hồi và dữ liệu bổ sung.
157
Các khía cạnh môi trường và xã hội vẫn chưa được xem xét trong phạm vi đánh giá này và sẽ cần
được đưa vào trong quá trình đánh giá các phương án chi tiết hơn trong tương lai.
Ở khu vực miền trung, cảng Đà Nẵng là cảng nước sâu, quản lý giao thông từ các nước láng
giềng như Thái Lan, Myanmar và Lào. Vịnh Vân Phong nằm hơi xa về phía nam ở khu vực miền
trung. Vị trí này có nước sâu và Hyundai có một xưởng đóng tàu nằm phía tây nam của vịnh.
Thành phố Hồ Chí Minh có một mạng lưới các cảng phục vụ cho miền Nam Việt Nam, chiếm gần
70% tổng lưu lượng tại cảng của Việt Nam. Các cảng gần thành phố, như Cát Lái chủ yếu được
dùng để vận chuyển hàng hóa vì thuận tiện. Điều này dẫn đến tắc nghẽn xung quanh các khu vực
nội bộ cảng và hệ số sử dụng thấp ở các cảng nước sâu khác nằm ở phía nam thành phố trong
khu vực Phú Mỹ.
Các cảng ở Vũng Tàu hỗ trợ ngành dầu khí và nằm trên bán đảo phía đông nam thành phố Hồ
Chí Minh. Những cảng này có thể phục vụ cho các công trình lớn và đã từng được sử dụng để sản
xuất các cấu kiện ngầm và nổi.
Vị trí các đơn vị cung cấp tiềm năng cho điện gió ngoài khơi
Các công ty ở Việt Nam phụ thuộc vào độ tin cậy và dễ tiếp cận của các cơ sở hạ tầng cảng để
cung cấp cho ngành điện gió ngoài khơi.
CS Wind là một đơn vị sản xuất cột tuabin lớn đặt tại Phú Mỹ trước đây đã sử dụng các cảng như
cảng Thị Vải (7), cảng quốc tế Sài Gòn (8) và cảng PTSC Phú Mỹ (10). Sân chế tạo của CS Wind
không nằm ngay trên bến cảng mà cách các cảng này bán kính khoảng 3 km. Cảng Sài Gòn Hiệp
Phước tại thành phố Hồ Chí Minh có tiềm năng là một cảng xây dựng và sản xuất vì nó đã tạo
điều kiện gia công cho nhiều đơn vị cung cấp khác nhau cho ngành dầu khí.
Chúng tôi dự báo các thành phần của tuabin, như hộp vỏ và cánh quạt, sẽ được chuyển đến
từ các thị trường khu vực khác. Thảo luận của chúng tôi với các đơn vị phát triển đã nhấn mạnh
ưu tiên của họ cho các thành phần nhập khẩu phải được vận chuyển trực tiếp đến các cảng xây
dựng. Nếu xảy ra tình trạng tắc nghẽn ở cảng thì có thể các linh kiện này sẽ được chuyển đến
các cảng thương mại trên khắp Việt Nam, được lưu trữ tạm thời và sau đó được vận chuyển bằng
sà lan đến cảng xây dựng được lựa chọn. Có thể sử dụng các cảng ở khu vực trung nam bộ như
cảng Tiên Sa và Cam Ranh cho mục đích này, trong khi ở phía nam, các cảng ở Vũng Tàu và Phú
Mỹ có thể tiếp nhận hàng hóa đó.
Các cảng xây dựng phải đáp ứng được việc cung cấp vật liệu, móng và không gian lưu kho cho
các cấu kiện. Các cảng này phải có khả năng tạo thuận lợi cho lắp ráp toàn bộ hoặc một phần
tua-bin và móng trước khi tải lên và vận chuyển đến địa điểm trang trại gió. Vận chuyển các cấu
kiện lên thuyền/xà lan thường diễn ra theo lô gồm bốn hoặc nhiều hơn tua-bin/ móng tại một thời
điểm, tùy thuộc vào công suất của tàu được sử dụng.
Khác biệt chính giữa các yêu cầu của cảng xây dựng so với cảng sản xuất là không gian. Cảng sản
xuất đòi hỏi diện tích lớn đối với kho và không gian lưu trữ cho các cấu kiện trước khi vận chuyển
đi. Trong một số trường hợp, các cảng sản xuất có thể tạo điều kiện cho các hoạt động xây dựng
thông qua đồng vị trí hoặc phân cụm. Tính khả thi của giải pháp này phụ thuộc vào không gian
lưu trữ và các hạn chế tiếp cận bến cảng, phải đảm bảo mỗi quy trình có thể tiếp tục đồng thời
mà không gặp trở ngại.
Các trạm biến áp ngoài khơi có kích thước lớn nhưng thường được xây dựng thành một hoặc hai
đơn vị tại một thời điểm và yêu cầu không gian tương tự như sản xuất hộp vỏ. Các trạm biến áp sử
dụng các quy trình sản xuất nối tiếp ít hơn, do đó nó giống chế tạo dầu khí hơn.
Do đó, chúng tôi quy định cần không gian từ 20 đến 40 ha cho một cảng có bến cảng phục vụ
sản xuất cho ít nhất một cấu kiện trong Bảng 18.1. Móng cho các dự án móng nổi có thể cần thêm
khoảng một phần ba không gian so với các dự án móng cố định do kích thước của chúng. Do đó,
chúng tôi hy vọng các cảng lớn hơn sẽ được lựa chọn để sản xuất và xây dựng các dự án móng
nổi vào cuối những năm 2020.
Yêu cầu về chiều dài bến tàu là từ 250 đến 300 m để chứa tối đa hai tàu lắp đặt kích cỡ trung bình
hoặc một tàu lắp đặt thế hệ tiếp theo như Jan De Nul’s ‘Voltaire’ hoặc DEME’s ‘Orion’.
Các tàu này có mớn nước trong khoảng từ 8 đến 10 m và độ sâu của kênh tối thiểu đã được quy
định dựa vào yêu cầu này. Các kênh của cảng phải đủ rộng cho các tàu có sườn ngang sàn tàu
trong khoảng từ 45 đến 60 m với khoảng cách tĩnh không là 140 m để có thể vận chuyển các cột
tuabin theo chiều thẳng đứng.
Đất ở mép cảng cần có khả năng chịu lực từ 20 đến 30 tấn/m2 để bốc xếp sang tàu liền kề trong
khi khu vực lưu trữ cần khả năng chịu lực tối thiểu 10 tấn/m2.
Cần cẩu ở bến cảng có thể được sử dụng để nâng các bộ phận và móng của tuabin trong khu vực
cảng. Cần cẩu phù hợp có công suất từ 500 đến 1.000 tấn đối với các bộ phận của tuabin và từ
1.400 đến 2.200 tấn đối với các cọc đơn từ trung bình đến lớn. Chúng tôi công nhận là việc nâng
hạ thường do các tàu lắp đặt hoặc cần cẩu tạm thời trên đất đảm nhận trong quá trình bốc xếp
hàng, vì vậy tầm quan trọng của tiêu chí này đã bị giảm trong phân tích của chúng tôi. Mô-đun
vận tải tự hành (SPMT) tạo thuận lợi cho vận chuyển hàng hóa trên bờ giữa các khu vực lưu trữ và
bến cảng. Cần cẩu di động và cần cẩu bánh xích cũng được sử dụng để giao vật liệu nhưng vì các
cảng có thể thuê tạm thời thiết bị này nên trọng số đã được sử dụng trong mô hình của chúng tôi
để giảm tầm quan trọng của tiêu chí này.
Các cảng cũng cần có khu vực nhà xưởng, nhà xưởng cho lao động và các liên kết giao thông nội
địa tốt như được đưa vào trong Bảng 18.1 dưới tên gọi ‘các công trình khác‘.
Đối với mỗi tiêu chí được trình bày trong Bảng 18.1, điểm số từ một đến năm được phân bổ theo
quy định trong Bảng 18.2. Sau đó, chúng tôi đã tổng hợp tổng số điểm cho mỗi cảng, lưu ý đến
những điểm nhấn mạnh.
Điểm số Definition
1 Không phù hợp và không thể nâng cấp
2 Phù hợp, cần nâng cấp lớn
3 Phù hợp, cần nâng cấp vừa phải
4 Phù hợp, cần nâng cấp nhỏ
5 Không cần nâng cấp
Nguồn: BVG Associates.
Đánh giá của chúng tôi nhìn chung thấy nhiều cảng có không gian cho sản xuất cũng như xây
dựng.
Bảng 18.3: Tóm tắt các cảng sản xuất và cảng xây dựng cho điện gió ngoài khơi
ở Việt Nam
(còn tiếp)
Thay đổi của thủy triều dọc bờ biển Việt Nam và phù sa ven sông có thể hạn chế tiếp cận các
cảng nhưng từ nghiên cứu của chúng tôi, chúng tôi hiểu là cảng Nghệ Tĩnh (14) là cảng duy nhất
trong đánh giá của chúng tôi có thể bị những hạn chế này. Vì hầu hết các cảng mà chúng tôi đã
khảo sát thường lớn và rất quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam, chúng tôi hy vọng các tuyến
sông và kênh vào cảng sẽ được duy tu để thuận lợi cho các tàu ra vào.
Ở giai đoạn này, chúng tôi chưa đánh giá mức độ sẵn có của cảng và quan tâm đến gió ngoài
khơi. Vì một số cảng được thiết lập là cảng container hoặc hàng hóa, điều này có thể hạn chế tính
khả dụng của chúng, mặc dù chúng tôi biết rằng một số cảng như cảng Tân Cảng—Cái Mép (6)
chưa được sử dụng đúng mức. Công suất thừa của các cảng này có thể hỗ trợ cho xây dựng.
Các cảng có thể được sử dụng nhiều nhất cho điện gió ngoài khơi
Có một cụm cảng đáng chú ý nằm ở khu vực phía Nam của Việt Nam ở thành phố Hồ Chí Minh,
Phú Mỹ và Vũng Tàu. Bảy trong số các cảng này đã được xác định chỉ yêu cầu nâng cấp nhỏ hoặc
vừa phải và phần lớn các dự án điện gió ngoài khơi ở Việt Nam đang nằm trong khu vực này,
chúng tôi dự kiến các cảng này sẽ diễn ra các hoạt động lớn nhất trong ngành điện gió ngoài
khơi. Chúng tôi đã điều tra tiềm năng của các hoạt động sản xuất và xây dựng trong cùng một
khu vực cảng nhưng do nhiều cảng đã có những ngành công nghiệp lâu đời, chúng tôi tin rằng
sẽ khó tìm được một địa điểm phù hợp. Dự kiến các cảng xung quanh Vũng Tàu cùng với nhau có
thể tạo thành một cụm theo cách mà các cảng ở Virginia, Hoa Kỳ đã làm.110
Các kịch bản tăng trưởng thấp và cao của chúng tôi với công suất đặt hàng năm chỉ ra rằng cần
có một cảng xây dựng trong giai đoạn từ 2020 đến 2023. Mặc dù nguồn cung có thể đến từ nước
ngoài, nhưng cũng có cơ hội thực tế trong việc thiết lập một hoặc nhiều cơ sở sản xuất móng tại
các cảng sản xuất phù hợp. Ngoài ra còn có cơ hội để thiết lập một xưởng sản xuất gần biển hơn
để sản xuất cột.
Trong kịch bản tăng trưởng cao, nhu cầu sử dụng cảng xây dựng sẽ tăng đều đặn từ 2024 đến
2030, cần phải có thêm từ một hoặc hai cảng mỗi năm. Tổng cộng chúng tôi dự kiến sẽ cần tối
thiểu sáu cảng xây dựng trong kịch bản này. Các cảng lớn nhất có thể được sử dụng để xây dựng
các dự án móng nổi kịp thời gian. Dựa trên đánh giá của chúng tôi, chúng tôi tin rằng có sáu cảng
có thể sẵn sàng nếu có nâng cấp nhỏ và do đó có thể đáp ứng sự phát triển của ngành, mặc dù
một số cảng đầy hứa hẹn như Cảng Tiên Sa (4) ở Đà Nẵng cách xa các địa điểm điện gió ngoài
khơi và do đó ít được mong muốn hơn. Một vài trong số các cảng hứa hẹn nhất (3, 6) ở khu vực
phía nam nằm trong các tuyến sông nội địa và các đơn vị phát triển cho biết họ sẽ tránh những
địa điểm như vậy nếu có thể.
Trong kịch bản tăng trưởng cao, chúng tôi dự kiến có thêm một hoặc hai cơ sở sản xuất móng
được thiết lập, cộng với một cơ sở sản xuất cánh quạt và một cơ sở sản xuất cáp biển. Điều này có
thể gây căng thẳng đối với các cảng có sẵn, có thể dẫn đến phải nâng cấp đến các cảng thuộc
loại cần nâng cấp vừa phải trong thời gian giữa những năm 2020 để cung cấp thêm công suất.
Đầu tư
Chúng tôi đã chỉ ra rằng mỗi cảng được đánh giá nhu cầu đầu tư để hỗ trợ điện gió ngoài khơi,
từ đó tạo ra giá trị trong nước. Chúng tôi hiểu rằng Chính phủ Việt Nam rất muốn hỗ trợ nâng cấp
các cảng, nhưng các đơn vị phát triển thấy cho đến nay có rất ít hoạt động như vậy diễn ra. Không
rõ liệu đã có nguồn tài chính công hay cần phải huy động đầu tư tư nhân. Chúng tôi dự báo quy
hoạch tổng thể cảng biển giai đoạn 2021–2030 đang bị trì hoãn sẽ xác định được ý định của
Chính phủ trong việc nâng cao hiệu quả thông qua đầu tư vào cảng biển và đảm bảo phát triển
toàn diện cả cảng và cơ sở hạ tầng giao thông. Chúng tôi khuyến nghị quy hoạch cảng biển cần
phải tính toán cụ thể tới điện gió ngoài khơi.
Điểm chi tiết cho các cảng được trình bày trong Bảng 18.4. Các cảng 12 và 13 đã được tô màu
xám theo xếp hạng xây dựng vì các hạn chế về chiều cao tĩnh không làm cho các cảng này không
sử dụng để xây dựng được.
Tiêu chí 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15
Cảng PTSC
VICT
SITV
Không gian—
5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 3
cảng xây dựng
Không gian—
5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 3
cảng sản xuất
Chiều dài cầu
5 5 5 5 5 5 5 5 5 4 5 5 3 2 1
cảng
Khả năng chịu
lực của bờ 4 4 3 3 4 3 2 2 3 2 3 3 3 3 2
cảng
Khả năng chịu
lực của khu 4 5 4 4 4 3 3 3 4 3 3 4 3 3 3
lưu trữ
Độ sâu kênh 5 3 5 5 3 5 5 5 5 5 4 5 4 2 5
Chiều rộng
5 3 5 5 3 5 5 5 5 5 4 5 4 2 5
kênh
Công suất cần
4 5 3 2 5 3 3 2 2 3 2 3 2 2 1
cẩu—tuabin
Công suất cần
4 5 3 2 5 3 2 2 2 2 2 3 2 2 1
cẩu—móng
Chiều cao tĩnh
5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 1 1 5 5
không
SPMT 4 5 4 4 5 4 3 4 4 4 4 4 4 4 2
Cần cẩu di
4 5 4 4 5 4 4 4 4 4 4 4 4 4 2
động
Cần cẩu bánh
4 5 4 4 5 4 4 4 4 4 4 4 4 4 2
xích
Các công trình
5 5 4 4 5 4 4 4 2 4 4 4 3 3 1
khác
Chấm điểm
42 40 39.6 39.2 39 38.6 37.2 37.2 37.2 36.4 36.2 35.6 29.2 28.2 26.6
cảng xây dựng
Chấm điểm
42 40 39.6 39.2 39 38.6 37.2 37.2 37.2 36.4 36.2 35.6 29.2 28.2 26.6
cảng sản xuất
Nguồn: BVG Associates.
Chính sách công có thể sử dung rộng hơn để làm giảm mức độ gánh nặng lên khách hàng sử
dụng điện do các dự án ban đầu tạo ra, điều này có thể giúp tăng khả năng chấp nhận triển khai
đáng kể tài trợ cho điện gió ngoài khơi.
Phần báo cáo này trình bày đánh giá ở mức tổng quan về vai trò tiềm năng của chính sách công
rộng hơn (bao gồm tài chính ưu đãi và tài chính khí hậu) trong triển khai điện gió ngoài khơi ở
Việt Nam. Phần này trình bày các ví dụ về hỗ trợ tài chính công đã được sử dụng ở đâu để tạo
điều kiện cho các loại ngành có cơ sở hạ tầng lớn khác.
Trong mỗi loại này, có một số loại công cụ có thể sử dụng. Trong các phần sau, chúng tôi thảo
luận về các loại công cụ có sẵn.
169
■ Thuế nhập khẩu: Các dự án được miễn thuế nhập khẩu áp dụng cho các vật liệu, thiết bị và
phương tiện nhập khẩu hình thành tài sản cố định của dự án năng lượng tái tạo.
■ Thuế thu nhập doanh nghiệp: Các dự án được ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp (CIT)
bao gồm thuế suất CIT ưu đãi 10% (chứ không phải thuế suất CIT thông thường 20%) trong
15 năm, miễn CIT trong bốn năm đầu và giảm 50% cho chín năm tiếp theo năm.
■ Các ưu đãi liên quan đến đất đai: Một số miễn hoặc giảm thuế đất, tiền thuê đất và tiền thuê
mặt nước.
Những ưu đãi này trực tiếp dẫn đến việc giảm chi phí cho các đơn vị phát triển, giảm số tiền họ
cần thu hồi thông qua doanh thu.
Hỗ trợ trực tiếp của chính phủ cho đối tác PPA (để giảm gánh nặng cho người nộp tiền điện)
là một hỗ trợ khác phù hợp với thể loại này và có thể được coi là hỗ trợ điện gió ngoài khơi ở
Việt Nam.
Do có sự chồng chéo đáng kể giữa người tiêu dùng điện phải trả tiền điện và người nộp thuế, các
chính sách này ít có khả năng có hiệu quả khi mối quan tâm là mức độ khả năng chi trả chung của
Việt Nam với tư cách là quốc gia. Chúng có thể có những lợi thế khi kết quả phân phối cụ thể khó
đạt được với chế độ giá điện hơn so với chế độ thuế.
Sự tham gia (bằng vốn chủ sở hữu hoặc thông thường hơn là từ nợ) từ những tổ chức cho vay đa
phương có một số lợi ích. Đối với các lĩnh vực mà họ ưu tiên, họ thường sẽ cung cấp nguồn tài
chính có chi phí thấp hơn. Sự tham gia cũng có khả năng làm gia tăng mong muốn từ những bên
cho vay khác vì:
■ Họ thường sẵn sàng chấp nhận tài trợ lớn hơn cho các dự án phát triển sớm, có rủi ro cao hơn,
■ Sự có mặt của họ có tác dụng như một tín hiệu thường làm tăng mối quan tâm của các đơn vị
tư nhân,
■ Tiêu chuẩn đánh giá tác động môi trường và xã hội của họ như IFC PS6111 đảm bảo áp dụng
thực tiễn tốt nhất trong ĐTMX được triển khai, giúp các nhà đầu tư khác tham gia dễ dàng
hơn,
■ Các quy trình thẩm định của họ thường được các bên khác dựa vào, giảm chi phí tham gia
của các bên cung cấp tài chính tư nhân, và
■ Sự tham gia của họ thường đi kèm với các hỗ trợ khác, hoặc là tư vấn hoặc về tăng cường tín
dụng.
Một ví dụ về chương trình này là chương trình năng lượng mặt trời của HD Bank, trị giá 299 triệu
US$, được thiết lập để tài trợ cho các dự án năng lượng mặt trời tại Việt Nam. Các khoản vay của
chương trình được dùng để cung cấp lên đến 70% tổng mức đầu tư của dự án trong thời hạn vay
tối đa là 12 năm.
Khi có các lĩnh vực ưu tiên cụ thể, MLAs cũng có thể tham gia theo mức vốn chủ sở hữu trong
các dự án (hoặc cung cấp nợ có thể chuyển đổi). Một lần nữa, điều này có thể vận hành như một
phương tiện để đảm bảo có sẵn tài chính, đặc biệt liên quan đến chi phí phát triển trả trước trước
khi được cung cấp tài trợ nợ.
Các cơ chế tăng cường tín dụng này có thể được triển khai bởi các thực thể quốc gia, hoặc tham
gia một phần vào dự án bởi một bên cho vay đa phương. Chúng tôi lưu ý rằng một số cơ chế tăng
cường tín dụng (như bảo lãnh rủi ro chính trị) có thể trùng lặp với một số đề xuất của chúng tôi về
các giải pháp giảm thiểu rủi ro được thảo luận trong Phần 15.
Các phần dưới đây trình bày ví dụ về các cơ chế tăng cường tín dụng đã được triển khai trước đây
tại Việt Nam và liệt kê các loại cơ chế khác có thể được cân nhắc.
Bảo lãnh tín dụng có thể được thiết lập để hấp thụ một phần hoặc toàn bộ rủi ro vỡ nợ của dự án,
bất kể lý do vỡ nợ là gì. Điều này sẽ giảm chi phí tài chính cho đơn vị phát triển, sau đó sẽ giảm
giá điện do đơn vị phát triển đề nghị để trả các chi phí tài chính tài mình.
Chính phủ, thông qua Ngân hàng Phát triển Việt Nam, bảo lãnh một phần tới 70% tổng mức đầu
tư cho các dự án năng lượng tái tạo. Tương tự, Dự án Thúc đẩy tiết kiệm năng lượng của Việt Nam
(do Ngân hàng Thế giới và Quỹ Khí hậu xanh tài trợ) cung cấp một quỹ chia sẻ rủi ro để bảo lãnh
tín dụng một phần cho các tổ chức tài chính tham gia để chi trả khi có vỡ nợ đối với các khoản
vay tiềm năng do các tổ chức này cung cấp để tài trợ cho các tiểu dự án tiết kiệm năng lượng
hợp lệ.113
Bảo lãnh rủi ro một phần cũng có thể bảo lãnh cho bên cho vay tư nhân đối với một số rủi ro liên
quan đến việc cho người vay là chính phủ hoặc địa phương, bao gồm các rủi ro chuyển lợi nhuận
về nước, rủi ro sung công và rủi ro pháp lý.
Năm 2015, Cơ quan bảo lãnh đầu tư đa phương (MIGA, đơn vị bảo hiểm rủi ro chính trị và tăng
cường tín dụng của Nhóm Ngân hàng Thế giới) đã cấp bảo lãnh 39,7 triệu US$ cho một số bên
cho vay. Khoản vay được Bộ Tài chính (MOF) bảo lãnh để hỗ trợ xây dựng nhà máy thủy điện tại
Việt Nam để sản xuất và bán điện cho EVN theo PPA. Bảo lãnh bao gồm rủi ro không hoàn thành
Do số lượng rủi ro chính trị và pháp lý được xác định trong khuôn khổ PPA hiện tại, Chính phủ có
thể xem xét liệu có nên tận dụng các mối quan hệ hiện có với MIGA và các đơn vị bảo lãnh tiềm
năng khác để thu hút đầu tư quốc tế vào ngành điện gió ngoài khơi hay không.
Có một số cơ chế tăng cường tín dụng khác giúp giảm thiểu rủi ro cho các nhà đầu tư, chẳng hạn
như rủi ro hoán đổi tiền tệ liên quan đến giao dịch xuyên biên giới hoặc rủi ro hiệu suất mà các
giải pháp tiết kiệm năng lượng không đạt được mức tiết kiệm năng lượng nhất định.
Mặc dù có sẵn một loạt các cơ chế tăng cường tín dụng nhưng các cơ chế hiệu quả nhất sẽ giải
quyết được các rủi ro lớn nhất chưa lại được giải quyết trong cấu trúc của thỏa thuận PPA. Giảm
được rủi ro này sẽ cho phép các đơn vị phát triển tiếp cận nguồn tài chính rẻ hơn, điều này sẽ làm
giảm FIT cần thiết và giảm bớt gánh nặng giá điện lên người tiêu dùng.
Công cụ nợ xanh
Công cụ nợ xanh là trái phiếu hoặc chứng khoán được phát hành để tài trợ cho các dự án hoặc tài
sản có tác động tích cực đến môi trường hoặc khí hậu. Các trái phiếu này có thể được phát hành
bởi các đơn vị nhà nước hoặc tư nhân và có thể mang lại những lợi ích sau:
■ Cải thiện danh tiếng của đơn vị phát hành, vì trái phiếu xanh dùng để tăng cường cam kết của
họ đối với các mục tiêu môi trường,
■ Họ yêu cầu áp dụng ĐTMX tiêu chuẩn tốt,
■ Đa dạng hóa nhà đầu tư, vì có nguồn vốn ngày càng tăng dành cho các dự án xanh. Do đó,
nhà phát hành có thể tiếp cận các nhà đầu tư có thể không quan tâm đến việc mua trái phiếu
thường xuyên, và
■ Lợi thế về giá tiềm năng nếu danh mục nhà đầu tư rộng hơn cho phép đơn vị phát hành có
được các điều khoản định giá tốt hơn đối với trái phiếu xanh so với trái phiếu thông thường,
mặc dù bằng chứng hỗ trợ cho lợi thế định giá là kết hợp các yếu tố.
Đến nay, trái phiếu xanh chưa được sử dụng để hỗ trợ năng lượng tái tạo ở Việt Nam, mặc
dù chúng đã được sử dụng để hỗ trợ các dự án quản lý nguồn nước. Năm 2016, Bộ Tài chính
Việt Nam đã phê duyệt một dự án thí điểm cho trái phiếu xanh của thành phố. Sau phê duyệt này,
Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu đã bán được 4 triệu US$ trái phiếu xanh 5 năm để tài trợ
cho một dự án quản lý nguồn nước. Trái phiếu xanh cũng đã được Công ty tài chính đầu tư nhà
nước thành phố Hồ Chí Minh phát hành, công ty đã phát hành 23 triệu US$ trái phiếu xanh trong
15 năm để tài trợ cho 11 dự án cơ sở hạ tầng và nước.
Để hỗ trợ cho ngành điện gió ngoài khơi, Việt Nam có thể xem xét áp dụng định nghĩa quốc tế
về dự án ‘xanh’ để có thể dán nhãn cho các dự án cơ sở hạ tầng đáp ứng các tiêu chí, như dự án
điện gió ngoài khơi, được dán nhãn ‘xanh’. Điều này sẽ giúp tăng khả năng tiếp cận thị trường
vốn quốc tế cho các đơn vị phát triển tư nhân của các dự án này, giúp thúc đẩy sự phát triển của
ngành điện gió ngoài khơi thông qua giảm chi phí tài chính.
■ Quan hệ đối tác công tư (PPP), liên quan đến hợp đồng dài hạn giữa một cơ quan nhà nước
và một bên tư nhân được sử dụng để cung cấp cơ sở hạ tầng hoặc dịch vụ,
■ Liên doanh, liên quan đến thỏa thuận giữa hai hoặc nhiều doanh nghiệp tập hợp vốn, kỹ
năng và nguồn lực của họ cho một dự án cụ thể, và
■ Vốn cổ phần tư nhân, vốn chủ sở hữu do đơn vị phát triển hoặc doanh nghiệp phát hành để
tài trợ cho các dự án cụ thể.
Trong số các công cụ vốn chủ sở hữu này, phương án chính sách phù hợp nhất nhìn từ quan điểm
của Chính phủ sẽ là PPP. Việt Nam có lịch sử sử dụng hình thức PPP trong các lĩnh vực như giao
thông, điện và năng lượng, cung cấp nước, nước thải và môi trường để huy động vốn tư nhân đầu
tư vào cơ sở hạ tầng cần thiết. Ví dụ, nhà máy xử lý nước mặt sông Đuống được vận hành thông
qua hình thức PPP giữa một công ty tư nhân và chính quyền thành phố từ năm 2006.
Chính phủ gần đây đã trình dự thảo luật PPP mới. Điều này báo hiệu rằng họ rất muốn tiếp tục sử
dụng các hình thức PPP để thúc đẩy đầu tư vào cơ sở hạ tầng và dịch vụ và nhận ra rằng những
cải tiến đối với khung PPP có thể thu hút thêm đầu tư nước ngoài. Để làm được điều này, Chính
phủ cần đảm bảo luật phân bố rủi ro giữa các bên để các công ty tư nhân có đủ lợi ích để khuyến
khích đầu tư nước ngoài, đồng thời đảm bảo đáp ứng được nhu cầu về môi trường và cơ sở hạ
tầng của Việt Nam. Nếu một số dự án điện gió ngoài khơi được tài trợ một phần thông qua hình
thức PPP, thì cuối cùng sẽ có tác động tới giảm giá điện bằng cách giảm chi phí tài chính cho các
đơn vị phát triển.
Tóm tắt
Để hỗ trợ phát triển điện gió ngoài khơi, các khách hàng của Việt Nam sẽ phải hỗ trợ chênh lệch
giữa chi phí điện gió và chi phí điện được sản xuất theo các hình thức khác.
Việt Nam có thể thực hiện các hành động để giảm chi phí phát triển điện gió ngoài khơi. Một số
chính sách quốc gia (như giảm thuế) có thể chuyển chi phí từ khách hàng sang người nộp thuế
và có thể được xem xét. Ưu tiên cao hơn là khuyến khích các bên cho vay đa phương tham gia
vào các dự án, triển khai (bởi bên cho vay trong nước hoặc đa phương) các cơ chế tăng cường tín
dụng và áp dụng các tiêu chuẩn xanh. Điều này có thể giảm chi phí tài trợ cho điện gió ngoài khơi
bằng cách khuyến khích cạnh tranh tài chính lớn hơn hoặc phân bổ rủi ro tài chính hiệu quả hơn
(ví dụ như vỡ nợ tín dụng).
Giảm đáng kể chi phí tài chính điện gió ngoài khơi sẽ dẫn đến giảm chi phí vật chất trên tổng chi
phí của điện gió ngoài khơi—và do đó cuối cùng sẽ giảm chi phí cho khách hàng sử dụng điện
của Việt Nam.
Các bản đồ được trình bày trong phần này là nhằm mục đích thông báo cho người đọc về những
khó khăn tiềm ẩn, và đặc điểm của các khu vực bên trong hoặc gần với các khu vực biển phù hợp
về mặt kỹ thuât để phát triển điện gió ngoài khơi móng cố định và móng nổi. Các bản đồ này bổ
sung cho bản đồ không gian ở mức tổng quan, tiến hành bởi Cục Năng lương Đan Mạch—DEA.
Nhưng không giống như nghiên cứu Cục Năng lương Đan Mạch, các dự liệu này không xác định
hoặc khoanh vùng các vị trí hoặc khu vực cho điện gió ngoài khơi.
Điều quan trọng cần chỉ ra là, báo cáo này chỉ có một số bộ dữ liệu không gian nhất định; các hạn
chế và đặc thù của khu vực cần được xem xét khi lập kế hoạch các dự án điện gió ngoài khơi. Các
dữ liệu này đóng vai trò là một bản chụp sơ bộ cho những hạn chế tiềm năng đối với phát triển
điện gió ngoài khơi và cung cấp cơ sở cho việc quy hoạch không gian biển mở rộng trong tương
lai ở Việt Nam. Như đã nêu trong Phần 5 và Phần 13, chúng tôi khuyến nghị rằng cần có sự phát
triển kế hoạch không gian biển để xác định các khu vực và địa điểm ít có khả năng bị hạn chế cho
việc triển khai điện gió ngoài khơi.
Các phần dưới đây mô tả các phương pháp được sử dụng để tạo ra tập bản đồ cho ba loại này.
174
Tiềm năng kỹ thuật được định nghĩa là công suất lắp đặt tối đa (GW), xác định bởi tốc độ gió và
độ sâu của nước. Tốc độ gió trung bình hàng năm (ở độ cao 100 m) vượt quá 7 (m/s) được coi là
khả thi cho điện gió ngoài khơi, và độ sâu nước lên tới 60 mét và 1.000 mét được coi là khả thi với
móng cố định và móng nổi. Các bộ dữ liệu được sử dụng trong bài phân tích này bao gồm:
■ Bản đồ gió toàn cầu, bản in 3.0, được phát hành vào năm 2019 từ DTU và Ngân hàng Thế
giới, đã được sử dugj cho tốc độ gió trung bình hàng năm
■ Biểu đồ độ sâu đáy đại dương (Bathymetric Chart—GEBCO), được dùng cho độ sâu của nước
Mô tả đầy đủ về phương pháp luận cho bài phân tích này và các giả định, đã được đưa ra trong
bản báo cáo ban đầu.
Bản phân tích về tiềm năng kỹ thuật không xem xét nhiều yếu tố khác có thể ảnh hưởng đến việc
lập kế hoạch và lựa chọn các dự án điên gió ngoài khơi, bao gồm hạn chế về môi trường, xã hội
và kinh tế. Để hiểu rõ hơn về tiềm năng của gió ngoài khơi, những yếu tố bổ sung phía trên cần
được xem xét.
Không có bộ dữ liệu đáng tin cậy nào được thu thập cho các hạn chế xã hội và kỹ thuật sau:
Dữ liệu môi trường còn hạn chế đối với các vùng biển của Việt Nam và chỉ một số bộ dữ liệu toàn
cầu được đưa vào bản đồ dữ liệu không gian. Trong tương lai, phân tích dữ liệu không gian như
một phần của việc lập kế hoạch không gian biển tầm cỡ quốc gia sẽ cần tham vấn các bên liên
quan, xác định dữ liệu hiện có liên quan và thu thập dữ liệu về các khía cạnh đa dạng sinh học
được ưu tiên116 để hiểu rõ hơn về các hệ sinh thái trên bờ, ven biển và ngoài khơi của Việt Nam.
Ngoài bản đồ về các hạn chế, hai bản đồ bổ sung được cung cấp để minh họa cường độ giao
thông vận tải117 và tốc độ gió tối đa.118
■ Tốc độ gió,
■ Độ sâu của nước,
■ Khoảng cách đến cảng xây dựng,
■ Khoảng cách đến cảng vận hành, và
■ Khoảng cách đến lưới điện.
Các thông số địa điểm này đã được sử dụng cùng với một tập hợp các đặc điểm giả định của một
dự án tham chiếu, trình bày trong Bảng 20.2, cùng với hàm của các chi phí dự án điển hình từ BVG
Associates, làm đầu vào cho mô hình kinh tế công nghệ. Mô hình này đã được sử dụng để ước
tính phân phối không gian của chi phí điện quy dẫn (LCOE) cho một dự án tham chiếu trên vùng
biển Việt Nam.
Bảng 20.2: Các đặc điểm giả định của dự án trang trại gió tham chiếu được sử dụng
trong mô hình
Các tập dữ liệu không gian về tốc độ gió và độ sâu nước được sử dụng ở đây giống như khi lập
tập dữ liệu về tiềm năng kỹ thuật, bao gồm; Bản đồ gió toàn cầu v3.0 (GWA) và Biểu đồ độ sâu
đáy đại dương (Bathymetric Chart), được dùng cho độ sâu của nước (GEBCO).
Để phân tích chi phí, chúng tôi cũng sử dụng các ước lượng như sau.
■ D’(km) = (D2 + 402)1/2 để phản ánh thực tế là có những hạn chế về số lượng cảng phù hợp để
hỗ trợ các hoạt động xây dựng. Từng dự án cụ thể cần xem xét vị trí của các cảng xây dựng
khả thi.
■ Khoảng cách đến cảng vận hành: Được giả định bằng khoảng cách ngắn nhất đến bờ vì
thông thường, có nhiều cảng có thể được sử dụng cho các hoạt động OMS.
■ Khoảng cách đến điểm kết nối lưới: Giả sử bằng khoảng cách ngắn nhất đến bờ cộng với
20 km.
Chúng tôi giới hạn độ sâu của nước dưới 1.200 m để loại bỏ các địa điểm quá thách thức đối với
điện gió ngoài khơi móng nổi. Chúng tôi giả định móng nổi cho các vị trí có nước sâu hơn 60 m.
Trong thực tế, giới hạn giữa độ sâu mà có thể sử dụng móng cố định và móng nổi sẽ tùy vào từng
dự án.
Chúng tôi giới hạn khoảng cách đến bờ dưới 200 km để loại trừ các địa điểm cần cơ sở hạ tầng
truyền tải mới hoặc chuyển đổi năng lượng thay thế. Đây cũng là giới hạn của bộ dữ liệu tốc độ
gió GWA.
Vì LCOE của các dự án rất nhạy cảm với nhiều thông số, nên việc sử dụng phương pháp đơn giản
này để ước tính LCOE tuyệt đối của các dự án tại các địa điểm khác nhau trên vùng biển Việt Nam
là không thích hợp. Thay vào đó, chúng tôi đã cung cấp LCOE như một thước đo chỉ định và
tương đối, mục tiêu là xác định các khu vực trong Việt Nam có thể có LCOE thấp hơn các khu vực
khác.
■ Vùng biển phía bắc Vịnh Bắc Bộ có tốc độ gió trung bình hợp lý, thường là 7,5 đến 8,5 m/s ở
độ cao 100 m. Khu vực biển nông và rộng gần Hà Nội và các trung tâm phụ tải ven biển có
thể cung cấp một số địa điểm hấp dẫn để phát triển gió ngoài khơi móng cố định.
■ Các vùng biển phía đông nam cung cấp nguồn gió với năng lượng lớn hơn, với tốc độ gió
trung bình vượt quá 9,5 m/s ở độ cao 100 m trên phạm vi độ sâu của nước phù hợp với điện
gió móng cố định và móng nổi. Khoảng cách gần của khu vực này với Thành phố Hồ Chí Minh
và các trung tâm phụ tải khác ở phía Nam có thể làm giảm nhu cầu truyền tải cho các dự án
trong khu vực này.
Nguồn: ESMAP. 2021. Going Global: Expanding Offshore Wind to Emerging Markets (Vol. 50): Technical Potential for
Offshore Wind in Vietnam—Map (English). Washington, DC: World Bank Group. http://documents.worldbank.org/curated/
en/340451572465613444/Technical-Potential-for-Offshore-Wind-in-Vietnam-Map
Do tốc độ gió phía nam cao hơn đáng kể, trong thời gian đầu, khu vực này có khả năng sẽ trở
thành tâm điểm chính cho các dự án đầu tiên trong quá trình phát triển của điện gió ngoài khơi ở
Việt Nam.
Chúng tôi không thể có được tất cả các dữ liệu không gian ngoài khơi có liên quan, vì vậy nhiều
thông tin được hiển thị liên quan đến các đặc điểm trên bờ hoặc ven biển. Điều quan trọng cần
nhận ra là, mặc dù những bản đồ này cho thấy vùng biển của Việt Nam có ít ràng buộc/hạn chế,
nhưng đánh giá này không nắm bắt được nhiều yếu tố môi trường và xã hội có liên quan khác.
Điều này thường do thiếu dữ liệu vì cho đến nay việc nghiên cứu và thu thập dữ liệu ở vùng biển
ngoài khơi Việt Nam còn hạn chế. Những khoảng trống dữ liệu này sẽ cần được lấp đầy bằng các
cuộc điều tra trong tương lai để nghiên cứu các điều kiện môi trường và xã hội cơ bản liên quan
đến phát triển gió ngoài khơi.
Vùng biển phía Bắc của Việt Nam, nơi có tiềm năng gió ngoài khơi tốt, nhưng lại gần với một số
khu vực nhạy cảm về môi trường.
Hình 20.3: Bản đồ các ràng buộc của khu vực phía Bắc gần Hà Nội
Các khu vực phía đông nam của vùng biển Việt Nam, được thể hiện trong Hình 20.4, có các điều
kiện kỹ thuật phù hợp nhất để phát triển gió ngoài khơi do tốc độ gió trung bình cao và các khu
vực nước nông hơn, phù hợp điện gió ngoài khơi móng cố định. Các bộ dữ liệu không gian mà
chúng tôi thu thập không cho thấy nhiều hạn chế ngoài khơi trong khu vực này, tuy nhiên không
có dữ liệu nào về các thụ thể đa dạng sinh học quan trọng (chim, động vật có vú, cá, v.v.) hoặc các
thụ thể xã hội quan trọng (ngư nghiệp, quần thể bản địa, v.v.) được thu thập, vì vậy việc lập bản
đồ này không trình bày một bức tranh hoàn chỉnh.
Cũng như khu vực phía Bắc, cả đường dây cao thế và trung tâm dân số/phụ tải đều có thể được
tìm thấy gần các khu vực có nguồn gió ngoài khơi. Điều này có thể tạo cơ hội để giảm thiểu việc
truyền tải cần thiết cho các dự án gió ngoài khơi ở khu vực này.
Khu vực xung quanh đảo Phú Quý, tỉnh Bình Thuận, là một khu bảo tồn do sự đa dạng sinh học
trên và xung quanh đảo. Với các dự án gần với hòn đảo này, điều quan trọng là phải xem xét các
tác động tiềm tàng của bất kỳ sự phát triển nào đối với khu bảo tồn này.
Mặc dù không phải là một hạn chế điển hình đối với sự phát triển của gió ngoài khơi, nhưng
tốc độ gió tối đa là một yếu tố quan trọng cần xem xét trong quy hoạch và thiết kế các dự án.
Việt Nam dễ bị bão và tốc độ gió tối đa có thể gây ra từ những cơn bão này có thể đòi hỏi phải sử
dụng các tuabin gió được thiết kế đặc thù để chống bão. Hình 20.5 cho thấy tốc độ gió duy trì tối
đa xung quanh Việt Nam theo ước tính của NOAA. Tốc độ gió được tính bằng hải lý trong khoảng
thời gian trung bình 10 phút, được quan sát ở độ cao 10 m. Vùng biển phía bắc nhạy cảm hơn
với tốc độ gió cao hơn, có thể vượt quá 80 hải lý/giờ (~41 m/s), trong khi vùng biển phía Nam có
nguy cơ thấp hơn.
Các tuyến hàng hải là điều quan trọng cần xem xét khi chọn các dự án điện gió ngoài khơi. Đặc
biệt, các tàu lớn không thể đi qua một trang trại điện gió ngoài khơi và cần phải lập sơ đồ hành
trình xung quanh các dự án. Các tàu nhỏ hơn có thể đi qua trang trại gió nhưng có nguy cơ va
chạm với các công trình ngoài khơi. Đánh giá rủi ro hàng hải cần được thực hiện khi lập kế hoạch
dự án và nói chung, cần tránh các tuyến đường vận chuyển chính. Hình 20.6 cho thấy mật độ vận
chuyển điển hình trên khắp Việt Nam đối với các tàu được trang bị AIS120 (Hệ thống Nhận dạng
Tự động). Dữ liệu này được tổng hợp, phân tích và xuất bản bởi Marine Traffic. Các khu vực có
màu cam và đỏ cho thấy số lượng hoạt động vận chuyển lớn hơn.
Hình 20.6 cũng cho thấy hoạt động đáng kể của tàu thuyền xung quanh các giếng dầu ngoài khơi
ở vùng biển phía nam. Mặc dù vị trí của cơ sở hạ tầng dầu khí ngoài khơi không có sẵn cho công
việc này, nhưng vị trí của đường ống, giếng và giàn khoan sẽ cần được xem xét khi lập kế hoạch
các dự án, cũng như hoạt động của tàu liên quan đến cơ sở hạ tầng này.
LCOE
Chi phí năng lượng từ điện gió ngoài khơi là một yếu tố quan trọng trong việc xác định sự khả thi
của các dự án và các địa điểm khác nhau. Tốc độ gió có lẽ là yếu tố quan trọng nhất vì điều này
quyết định sản lượng năng lượng tiềm năng. Phần 20.2 mô tả phương pháp luận được sử dụng
để phát triển một lớp thể hiện sự phân bố theo không gian của LCOE tương đối trong các vùng
biển của Việt Nam. Hình 20.7 cho thấy LCOE tương đối cho một dự án tham chiếu móng cố định
hoặc móng nổi 500 MW ở vùng biển Việt Nam. Phân tích này chỉ nhằm mục đích là một hướng
dẫn chỉ dẫn về những khu vực nào có khả năng có các dự án với chi phí năng lượng thấp nhất.
Sự phân phối của LCOE tuân theo các xu hướng có trong bản đồ tiềm năng kỹ thuật. Các khu vực
có tốc độ gió lớn, vùng nước nông hơn, gần bờ và cảng hơn, có khả năng có LCOE thấp hơn. Đặc
biệt, khu vực phía bắc của vùng biển Việt Nam có khu vực có LCOE tương đối thấp, tuy nhiên, khu
vực phía đông nam của vùng biển Việt Nam có nhiều khu vực hơn có khả năng có các dự án điện
gió móng nổi và móng cố định với LCOE thấp.
Dữ liệu không gian được trình bày trong phần này không cung cấp một bức tranh đầy đủ về các
hạn chế về môi trường, xã hội, kinh tế và kỹ thuật đối với phát triển gió ngoài khơi. Có rất nhiều lỗ
hổng dữ liệu và cần thu thập thêm dữ liệu để hiểu rõ hơn những rủi ro liên quan đến các địa điểm
khác. Vì nghiên cứu này không thể thu thập tất cả dữ liệu liên quan từ các bên liên quan, bao gồm
cả vị trí của cơ sở hạ tầng dầu khí ngoài khơi, nên dữ liệu này có thể đến từ các nguồn hiện có.
Ở những nơi chưa có dữ liệu, chẳng hạn như sự phân bố và hành vi của các loài chim biển chẳng
hạn, các cuộc khảo sát thực tế sẽ được yêu cầu để thu thập dữ liệu chính. Tất cả những điều này
cần được tổng hợp thành một quy hoạch không gian biển cho vùng biển Việt Nam, để nhiều bên
liên quan và người sử dụng biển có thể được xem xét ở cấp chiến lược, toàn quốc. Điều này sẽ
giúp lập kế hoạch các dự án được các cơ quan có thẩm quyền về cấp phép đồng ý khi trải qua
ĐTM cấp dự án.
Điều này rất quan trọng vì phải hiểu chi phí có liên quan đến những gì và kế hoạch nào là cần
thiết để ngành phát triển là điều rất có giá trị.
Chi phí cũng có thể được sử dụng làm bằng chứng để cung cấp thông tin cho Chính phủ khi nộp
đề xuất xin tài chính khí hậu (tài trợ không hoàn lại) lên các tổ chức tài trợ như Ngân hàng Thế
giới, để tạo điều kiện xây dựng hiệu quả danh mục dự án tiềm năng.
Ở giai đoạn này, chúng tôi chưa tham gia sâu hơn ngoài việc liên hệ với các đơn vị ở châu Âu có
kinh nghiệm về các cách tiếp cận khác nhau. Chúng tôi chưa thảo luận với các bên liên quan ở
Việt Nam.
Trong việc tính toán chi phí đến năm 2030, chúng tôi giả định quy mô dự án bình quân 500 MW,
có tổng số 20 dự án đã trải qua quá trình phát triển đến đến đoạn xây dựng, và sẽ có thêm 10 dự
án nữa đã đạt đến giai đoạn phát triển chín muồi.
187
Chi phí
điển hình Số Chi phí
Chi phí cho mỗi lượng đến Được
thiết dự án dự án năm sử dụng
lập 500 MW vào 2030 theo cách
(triệu (triệu năm (triệu tiếp cận
# Mô tả US$) US$) 2030 US$) nào?
1 Lập bản đồ độ nhạy chiến lược và thẩm tra vùng 10 N/A N/A 10 1 và 2
phát triển
• Có liên quan đến khuyến nghị 3 và 4
• Bao gồm các khảo sát môi trường và vật lý bao
gồm các loài chim, tuyến đường di cư và động
vật biển có vú, phân tích số liệu và tham vấn
với các bên liên quan, cộng đồng và ngành
2 Phát triển dự án giai đoạn đầu cho đến khi được 5 10 30 305 1
chấp thuận—tiền thiết kế kỹ thuật tổng thể và
ĐTMX
• Có liên quan đến khuyến nghị 3 và 4
• Bao gồm các khảo sát môi trường và vật lý,
thiết kế kỹ thuật, phân tích dữ liệu và tham vấn
với các bên liên quan, cộng đồng và ngành.
Có thể bao gồm thu thập số liệu đo gió, số
liệu hàng hải, địa vật lý đáy biển.
3 Cấp phép—quản lý 2 1 30 32 1 và 2
• Có liên quan đến khuyến nghị 5
• Bao gồm thiết lập và quản lý liên tục các cơ
quan cho thuê và cấp phép và đánh giá kỹ
thuật liên tục đối với ĐTMX
4 Cấp phép—đầu vào của các bên liên quan N/A 0,5 30 15 1 và 2
• Có liên quan đến khuyến nghị 5
• Bao gồm liên lạc giữa các cơ quan Chính phủ
và các bên liên quan trong bối cảnh đánh giá
các dự án
5 Hỗ trợ và nâng cao nhận thức cho các bên liên 1,0 N/A N/A 1.0 1 và 2
quan
• Có liên quan đến khuyến nghị 5
• Bao gồm cung cấp nguồn lực cho các bên liên
quan để trang bị cho họ xử lý các hồ sơ điện
gió ngoài khơi và tăng cường nhận thức về
điện gió ngoài khơi
6 Đấu giá—thiết kế 1 N/A N/A 1 1 và 2
• Có liên quan đến các khuyến nghị 6, 8, 9 và 10
• Bao gồm công tác xác định cách tiếp cận tốt
nhất cho các quy trình cạnh tranh cho thuê và
PPA, và thiết kế cạnh tranh
7 Đấu giá—quản lý N/A 0,5 30 15 1 và 2
• Có liên quan đến khuyến nghị 6 và 7
• Bao gồm các chi phí liên quan đến việc thực
hiện các cuộc đấu giá
Chi phí
điển hình Số Chi phí
Chi phí cho mỗi lượng đến Được
thiết dự án dự án năm sử dụng
lập 500 MW vào 2030 theo cách
(triệu (triệu năm (triệu tiếp cận
# Mô tả US$) US$) 2030 US$) nào?
8 Quy hoạch truyền tải 4 0,5 30 19 1 và 2
• Có liên quan đến khuyến nghị 12 và 13
• Bao gồm phân tích kỹ thuật, thiết kế kỹ thuật,
lập kế hoạch tài chính và cấp phép
9 Đánh giá kỹ năng và đào tạo lực lượng lao động 2 N/A N/A 2 1 và 2
• Có liên quan đến khuyến nghị 16 và 17
• Bao gồm chi phí liên lạc với chuỗi cung ứng
để hiểu các lỗ hổng và thiếu hụt về kỹ năng và
cung cấp các chương trình đào tạo
10 Hợp tác quốc tế 2 N/A N/A 2 1 và 2
• Liên quan đến khuyến nghị 19, 20
• Bao gồm chi phí để tiếp cận các đối tác quốc
tế để xác định và thực hiện nghiên cứu chung
về ngành và các chương trình đầu tư
11 Thiết lập và triển khai quy định H&S, thiết kế và 2 0,1 30 5 1 và 2
quy phạm lưới điện
• Liên quan đến khuyến nghị 19, 20
• Bao gồm chi phí để nghiên cứu, xác định và
quản lý các quy phạm và tiêu chuẩn cần thiết
Nguồn: BVG Associates.
Mục tiêu chính của dự án là thiết lập một mạng lưới vững chắc các bên liên quan trong ngành,
quan điểm và hợp tác của họ sẽ hỗ trợ phát triển và xã hội hóa lộ trình phát triển điện gió ngoài
khơi cho Việt Nam.
Các bên liên quan chính đã được xác định và liệt kê trong Bảng 22.1 theo bốn nhóm:
■ Chính phủ: Các cơ quan chính phủ, cơ quan quản lý và các tổ chức ở cấp quốc gia và khu vực.
■ Đơn vị phát triển: Các đơn vị phát triển dự án điện gió ngoài khơi đang hoạt động tại
Việt Nam.
■ Chuỗi cung ứng: Các doanh nghiệp chuỗi cung ứng đang hoạt động trong lĩnh vực điện gió
ngoài khơi ở Việt Nam hoặc những doanh nghiệp có tiềm năng cung cấp các dịch vụ này.
■ Các tổ chức phi chính phủ (NGO): Các tổ chức phi chính phủ trong nước và quốc tế quan tâm
đến điện gió ngoài khơi tại Việt Nam.
Trong quá trình chuẩn bị cho soạn thảo bản báo cáo này, một cuộc hội ý mở đã được tổ chức
vào tháng 9 và 10 năm 2020. Báo cáo lộ trình điện gió Việt Nam đã được trình bày tại cuộc họp
giữa Chính phủ và các ngành liên quan và bản dự thảo báo cáo đã được đưa ra cho mọi người tải
xuống và phản hồi.
190
1Tàiliệu tiếng Anh WBG (World Bank Group, dịch chính xác là Nhóm Ngân Hàng Thế Giới), bao
gồm Ngân Hàng Quốc Tế Tái Thiết và Phát Triển (IBRD), Hiệp Hội Phát Triển Quốc Tế (IDA), Tổng
công ty Tài Chính Quốc Tế (IFC), Trung tâm Quốc Tế Giải quyết Mâu Thuẫn Đầu Tư (ICSID), và Cơ
quan Bảo Lãnh Đầu Tư Đa Phương (MIGA). Thuật ngữ “Ngân Hàng Thế Giới” thường dung để chỉ
IBRD và IDA.
2Trong tài liệu này “điện gió” và “năng lượng gió” được sử dung tương đương, dịch từ “wind energy”.
3Tất cả số liệu được lũy kế trong giai đoạn 2020–2035, trừ khi được ghi chú khác. Tỷ lệ cung cấp
điện được thảo luận trong Phần 3.2 và 4.2. Công suất vận hành của điện gió ngoài khơi được trình
bày trong Phần 1. Lượng điện năng sản xuất được thảo luận trong Phần 3.3 và 4.3. Chi phí ròng đối
với người tiêu dùng được thảo luận trong Phần 3.3, 4.3 và 7.1. Lượng công việc tương đương trong
nước và GVA được trình bày trong Phần 3.4, 4.4 và 11. Số lượng CO2 giảm thiểu (CO2 avoided)
được thảo luận trong Phần 7.1.
4https://esmap.org/offshore-wind, truy cập lần cuối vào tháng 7 năm 2020.
5Nguyên gốc: intertidal, conventional fixed and floating activity.
6Phân tích tiềm năng kỹ thuật gió ngoài khơi Việt Nam. http://documents.worldbank.org/curated/
vi/340451572465613444/pdf/Technical-Potential-for-Offshore-Wind-in-Vietnam-Map.pdf. Phương
pháp luận được mô tả trong báo cáo của WBG; ‘Phát triển toàn cầu: Mở rộng điện gió ngoài khơi
sang các thị trường mới nổi’. https://esmap.org/going_global_offshore_wind.
7Một năm FTE (Full-Time Equivalent) tương đương với một người làm việc toàn thời gian trong một
năm. Trên thực tế, 190.000 năm FTE (190,000 FTE years) sẽ được tạo ra bởi một số người làm việc
trong dự án ít hơn một năm và những người khác làm việc trong dự án trong nhiều năm, đặc biệt là
trong giai đoạn vận hành. Hồ sơ việc làm của một dự án điển hình được thể hiện trong Hình 10.14.
8https://unfccc.int/process-and-meetings/the-paris-agreement/the-paris-agreement, truy cập lần
cuối vào tháng 11 năm 2020.
9https://climateactiontracker.org/countries/vietnam/pledges-and-targets/, truy cập lần cuối vào
tháng 11 năm 2020.
10Từ gốc Procurement.
11Xem giải thích tại mục 3.4 để hiểu về năm FTE.
12Phương pháp giảm chi phí trong điện gió ngoài khơi BVG Associates lập cho Ủy ban về biến đổi
khí hậu, tháng 6/2015.
13Phương pháp giảm chi phí trong điện gió ngoài khơi BVG Associates lập cho Ủy ban về biến đổi
khí hậu, tháng 6/2015.
193
11/2020.
17So sánh chi phí điện quy dẫn—Phân tích không tính đến trợ cấp, Lazard, 2019, có sẵn trên mạng
tại địa chỉ: https://www.lazard.com/media/451086/lazards-levelized-cost-of-energy-version-130-vf
.pdf, truy cập lần cuối vào tháng 11/2020. Sử dụng giá trị 75US$/MWh vào năm 2020, mức gần cuối
trong khoảng 66–152US$/MWh.
18Đây là chi phí ròng lũy kế của điện gió ngoài khơi, được thể hiện bằng đường màu đen trong
hình. Mức tăng bày bắt đầu do chi phí điện gió ngoài khơi cao hơn, nhưng sau đó đạt đỉnh rồi giảm
xuống bằng 0, trước khi âm khá lớn (cho thấy lợi ích ròng cuối cùng rất lớn đối với Việt Nam từ điện
gió ngoài khơi). Trong cả hai kịch bản, vẫn còn chi phí ròng vào cuối năm 2035, nhưng trong kịch
bản tăng trưởng cao, con số này thấp hơn so với kịch bản tăng trưởng thấp.
19Đây là năm mà tất cả chi phí ròng sẽ được trả hết (thực tế, đất nước đạt ‹hòa vốn› đối với điện gió
ngoài khơi). Đó là điểm trên các hình mà đường màu đen đi qua trục X.
20Năng lượng tái tạo thay thế điện than ở Đông Nam Á, Viện năng lượng tái tạo, tháng 10 năm
2019, có sẵn trên mạng tại địa chỉ https://www.renewable-ei.org/pdfdownload/activities/
SoutheastAsiaPowerReport_EN.pdf, truy cập lần cuối vào tháng 11/2020.
21Giảđịnh tăng chi phí công nghệ truyền thống: tăng 2% hàng năm so với lạm phát để tính chi phí
nhiên liệu và các biện pháp thuế carbon/giảm thiểu.
22Dấu vết carbon của sản xuất điện, Quốc hội UK, tháng 6/2011, có sẵn trên mạng tại địa chỉ:
https://www.parliament.uk/documents/post/postpn_383-carbon-footprint-electricity-generation
.pdf, truy cập lần cuối vào tháng 6 năm 2020. Sử dụng giá trị 500 tấn CO2 cho mỗi GWh, xấp xỉ các
giá trị trung bình được liệt kê cho than, CCS than, CCS khí và khí.
23Stacey Dolan và Garvin Heath, Phát thải khí nhà kính trong toàn bộ vòng đời điện gió quy mô công
nghiệp: Tổng quan hệ thống và hài hòa, Tạp chí Sinh thái công nghiệp, 16 (2012), 136–S154. Phát
thải trong toàn bộ tuổi thọ của điện gió ngoài khơi 12 tấn CO2 trên mỗi GWh là mức không đáng
kể so với 500 tấn CO2 từ nhiên liệu hóa thạch.
24Anton Finenko và Elspeth Thomson, Phát thải carbon dioxide trong tương lai từ ngành sản xuất
điện than của Việt Nam, Quy trình năng lượng, 61 (2014), 1519–1523.
25Một giải pháp năng lượng sạch—từ cái nôi đến nấm mồ, Năng lượng tái tạo của Siemens
Gamesa, 2019, có sẵn trên mạng tại địa chỉ: https://www.siemensgamesa.com/-/media/
siemensgamesa/downloads/en/sustainability/environment/siemens-gamesa-environmental-
product-declaration-epd-sg-8-0-167.pdf, truy cận lần cuối vào tháng 11/2020.
26Cơ quan Thông tin Năng lượng Hoa Kỳ, https://www.eia.gov/, truy cập lần cuối vào tháng 11/2020.
11/2020.
31Để so sánh, Hoa Kỳ đã đạt mức sử dụng năng lượng bình quân đầu người gần như ổn định
13 MWh mỗi năm kể từ năm 2000, tham khảo Cơ quan năng lượng quốc tế, https://www.iea.org/
countries/united-states, truy cập lần cuối vào tháng 11/2020.
32Tiềm năng kỹ thuật điện gió ngoài khơi tại Việt Nam, Ngân hàng Thế giới, tháng 3 năm 2020, có
sẵn trên mạng tại địa chỉ http://documents.worldbank.org/curated/en/781371586848751429/pdf/
Technical-Potential-for-Offshore-Wind-in-Vietnam-Map.pdf, truy cập lần cuối vào tháng 11/2020.
33Báocáo sàng lọc và lựa chọn địa điểm điện gió ngoài khơi của Việt Nam, COWI lập cho Bộ Công
Thương/EREA, tháng 3 năm 2020. Không lưu hành bên ngoài.
34Xu hướng tài chính và đầu tư, Wind Europe, tháng 4 năm 2020, có sẵn trên mạng tại địa chỉ
https://windeurope.org/wp-content/uploads/files/about-wind/reports/Financing-and-Investment-
Trends-2019.pdf, truy cập lần cuối vào tháng 11/2020.
35Báo cáo chưa công bố—có thể tham chiếu trong phiên bản cuối của báo cáo này, hoặc xem thông
cáo báo chí, https://orsted.co.uk/media/newsroom/news/2020/06/1400-gw-of-offshore-wind-is-
possible-by-2050-and-will-be-key-for-green-recovery, truy cập lần cuối vào tháng 11/2020.
36Xu hướng thị trường được thiết lập dựa vào việc lập mô hình từ dưới lên được thảo luận trong
Phần 8.5, nhưng sử dụng kích thước tuabin điển hình và điều kiện địa điểm dự kiến tại các thị
trường được thiết lập trong giai đoạn này.
37Có một sự không chắc chắn lớn về tốc độ gió ở Việt Nam so với các khu vực khác do quá trình đo
tốc độ gió chi tiết ngắn hơn.
38Có một sự không chắc chắn lớn về chi phí móng vì sự không chắc chắn trong yêu cầu thiết kế và
kết quả thiết kế cho các điều kiện mặt đất và bão; cũng như trong chi phí sản xuất do sự không chắc
chắn trong việc sản xuất móng trong nước sẽ hiệu quả ra sao.
39Ngành này chưa chứng minh được mức độ mà lao động và chuỗi cung ứng trong nước có thể hỗ
trợ hiệu quả cho vận hành, bảo trì và dịch vụ.
40Lợi ích năng lượng tái tạo: Tận dụng năng lực trong nước cho điện gió ngoài khơi, Cơ quan năng
lượng tái tạo quốc tế, tháng 11/2018, có sẵn trên mạng tại địa chỉ https://www.irena.org/media/
Files/IRENA/Agency/Publication/2018/May/IRENA_Leveraging_for_Offshore_Wind_2018.pdf, last
accessed, June 2020.
41Ví dụ: Tiêu chuẩn hoạt động xã hội và môi trường của IFC; và Hướng dẫn thực hành tốt và Bộ công
giá tác động kinh tế và xã hội, Marine Scotland thay mặt Chính phủ Scotland, tháng 6 năm 2018, có
sẵn trên mạng tại địa chỉ https://www.gov.scot/publications/sectoral-marine-plan-offshore-wind-
energy-encompassing-deep-waterplan-options/pages/15/, truy cập lần cuối vào tháng 11/2020.
65Chính sách và Hướng dẫn về Tuabin gió—CAP764, Cục hàng không dân dụng, tháng 2 năm
2016, có sẵn trên mạng tại địa chỉ https://publicapps.caa.co.uk/docs/33/CAP764%20Issue6%20
FINAL%20Feb.pdf, truy cập lần cuối vào tháng 11/2020.
66Cục hàng không dân dụng Việt Nam, http://english.caa.gov.vn/, truy cập lần cuối vào tháng
11/2020.
67Nguyễn Việt Hà và Nguyễn Hồng Hải, ‘Tạp chí luật năng lượng tái tạo: Việt Nam’, in Karen
Wong, Tạp chí luật năng lượng tái tạo năm 2018, có sẵn trên mạng tại địa chỉ http://lexcommvn
.com/image/files/Vietnam%20Renewable%20Energy%20Law%20Review%202019(1).pdf, truy cập
lần cuối vào tháng 11/2020.
68Nguyễn Việt Hà và Nguyễn Hồng Hải, ‘Chính sách Năng lượng tái tạo và Quy điịnh ở Việt Nam’, Lex-
ology, ngày 28 tháng 8 năm 2019, có sẵn trên mạng tại địa chỉ https://www.lexology.com/library/
detail.aspx?g=1df596fd-0aa3-483b-a4ca-f60033fb9a70, truy cập lần cuối vào tháng 11/2020.
69Ở Việt Nam, ý nghĩa của độc quyền địa điểm hơi khác so với ở châu Âu. Địa điểm vẫn dành riêng
cho đơn vị phát triển/nhà đầu tư miễn là họ có thể tiếp tục duy trì tiến độ phát triển và thể hiện cam
kết của mình. Nếu họ không thể, địa điểm đó có thể giành cho một đơn vị phát triển/nhà đầu tư
khác.
70Đốivới một số trang trại gió ngoài khơi đầu tiên tại Việt Nam (Thăng Long, Mainstream) đã tiến
hành nghiên cứu khả thi trước khi đưa vào PDP.
71‘Thông tư mới 02 về Hướng dẫn phát triển cho các dự án điện gió ở Việt Nam’, Thông cáo báo chí,
Baker McKenzie, tháng 1 năm 2019, có sẵn trên mạng tại địa chỉ https://www.lexology.com/library/
detail.aspx?g=9c8618bb-427f-4a0b-801b-30b26e2648fd, truy cập lần cuối vào tháng 11/2020.
72PDP7 được ban hành năm 2011 và được sửa đổi vào năm 2016. PDP8 dự kiến sẽ được lấy ý kiến
vào năm 2020 và được ban hành năm 2021.
73VASI, tháng 6/ 2020.
74Nghị định số 51/2014/NĐ-CP của Chính phủ ngày 21 tháng 5 năm 2014 quy định việc giao các
khu vực biển nhất định cho các tổ chức và cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên biển (Nghị định
số 51).