Professional Documents
Culture Documents
Đề bài 1: Có ý kiến cho rằng: Tình mẫu tử là mạch nguồn tình cảm không bao giờ vơi trong tâm
hồn mỗi con người.Theo em, mạch nguồn tình cảm ấy được thể hiện như thế nào qua nhân vật bé
Hồng qua đoạn trích “Trong lòng mẹ” (trích hồi kí “Những ngày thơ ấu - Nguyên Hồng).
Đề bài 2: Có người không hiểu: Vì sao Nam Cao lại để cho lão Hạc tìm dến cái chết trong khi
vẫn còn nguyên nguồn sống, còn vườn, còn tiền. Họ lại càng không hiểu vì sao: một người tốt đẹp
như thế lại phải tự tử bằng cách ăn bả chó - một cái chết đau đớn và dữ dội ?Hãy viết một bài
văn nhằm giải đáp những thắc mắc trên để mọi người cùng thấy: Đó là những sáng tạo nghệ
thuật sâu sắc có khả năng giúp người ta nhận rõ thực chất đời sống và con người nông dân trước
Cách Mạng.
Đề bài 3: Chứng minh lòng yêu nước, thương dân của các vị vua, chủ tướng thông qua:“Thiên đô
chiếu” (“Chiếu dời đô”- Lý Công Uẩn);“Hịch tướng sĩ”(Trần Quốc Tuấn);“Hịch tướng sĩ”
(Nguyễn Trãi).
Đề bài 4: Có ý kiến cho rằng: Văn học luôn ca ngợi tình yêu thương giữa người và người. Bằng
những tác phẩm đã học trong chương trình Ngữ Văn 8, em hãy làm sáng tỏ nhận định trên.
Đề bài 1: Có ý kiến cho rằng: Tình mẫu tử là mạch nguồn tình cảm không bao giờ vơi trong
tâm hồn mỗi con người.Theo em, mạch nguồn tình cảm ấy được thể hiện như thế nào qua
nhân vật bé Hồng qua đoạn trích “Trong lòng mẹ” (trích hồi kí “Những ngày thơ ấu -
Nguyên Hồng).
III. Kết bài: Khẳng định lại vấn đề theo hướng mở rộng của bản thân.
(trải nghiệm kiến thức bản thân)
Bài làm mẫu
“Con suốt đời vẫn là con của mẹ
Đi suốt đời, lòng mẹ vẫn theo con”
(Tố Hữu)
Mẹ dù thế nào đi chăng nữa vẫn mãi theo ta. Chính sợi dây thiêng liêng gắn kết giữa mẹ và
con mà được gọi với cái tên thiêng liêng, cao quý - tình mẫu tử đã làm làm nền tảng vững chắc
cho con chập chứng bước đi trên con đường đời. Mẹ đã mang đến cho con tình thương da diết, mẹ
đã trao cho con trái tim hi vọng, trao cho con hơi thở nồng ấm, ru đời con khôn lớn. Nhà văn
Nguyên Hồng cũng vậy, những câu chữ ông viết ra dường như rất thiêng liêng ẩn hằn trong đó là
toàn bộ suy nghĩ và cảm xúc về người mẹ bất tận của ông. Đến với đoạn trích “Trong lòng mẹ”, ta
bỗng xót xa trước nhân vật bé Hồng, mang theo cái dư vị đắng chát của một tuổi thơ khao khát
tình mẹ. Cho đến tận bây giờ, khi đọc lại những trang viết này, người đọc vẫn lây lan cái cảm giác
của cậu bé sớm phải chịu cảnh thiếu thốn tình cảm để rồi, những đồng giả chúng ta bất chợt nhận
ra rằng: “Tình mẫu tử là mạch nguồn tình cảm không bao giờ vơi trong tâm hồn mỗi con người”.
Nếu có người hỏi tôi: Tình mẫu tử là gì? thì có lẽ, tôi sẽ đáp lại rằng: tình mẫu tử không thể
giải thích được vì đó là thứ tình cảm tuyệt diệu. Nó đơn sơ, giản dị những vẫn thể hiện được cái gì
đó phập phồng, thổn thức trong trái tim. Và đặc biệt hơn, nó lại càng phập phồng hơn, thổn thức
hơn khi được thể hiện qua nhân vật bé Hồng. Tình cảm ấy như ánh sáng dịu mát, như bóng cây
trên cao, như dòng sữa ngọt ngào vẫn chảy mãi trong trái tim những người con như chúng ta.
Cuộc đời thật công bằng biết bao khi mỗi người chúng ta vẫn gọi đó là “tình mẫu tử”.
Tuy đoạn trích với dung lượng không dài nhưng điều ta bắt gặp trong đó không phải là cảnh
khốn cùng như trong “Lão Hạc” hay cùng cột như trong “Tức nước vỡ bờ”. Tuy vẫn thể hiện được
chất văn của dòng văn hiện thực phê phán nhưng đoạn trích lại ẩn chứa sâu một thứ tình cảm
thiêng liêng, mặn nồng - tình mẫu tử. Và khi đọc những dòng văn như trút cả bao điều đóng
đót vào trái tim người đọc để rồi ta mới cảm nhận được thế nào là thứ tình cảm chân chình.
Với một hoàn cảnh đặc biệt và đáng thương, bé Hồng sinh ra và lớn lên trong một mái gia
đình không có hạnh phúc. Bố mất sớm, mẹ phải đành rời bỏ quê hương, rời xa đứa con mà mình
đã rứt ruột đẻ ra để đi “tha hương cầu thực” khiến bé Hồng phải cô đơn, tủi cực giữa sự ghẻ lạnh
của gia đình họ nội. Và trong tâm trí cậu bé lúc nào cũng luôn tồn đọng cái dư vị đắng cay về một
người mẹ hiền hậu, luôn chở che trong quá khứ. Xung quanh cậu, luôn có những rắp tâm tanh bẩn
muốn reo rắc vào tâm trí cậu để cậu ruồng rẫy, khinh rẻ mẹ. Nhưng cũng chính từ cái rắp tâm tanh
bẩn, cay độc đó, bé Hồng mới có cơ hội bộc lộ rõ những tình cảm của mẹ đối với mẹ đã được ấp ủ
bấy lâu.
“Gần đến giỗ đầu thấy tôi, mợ tôi ở Thanh Hóa vẫn chưa về”. Có lẽ, niềm ước mong mẹ
của cậu bé đã đến mức cực độ. Cậu sống giữa cảnh đau đớn về mặt tinh thần: mất cha - thiếu mẹ,
vậy mà, luôn có những mối rắp tâm bẩn thỉu muốn dấy vào tâm trí non nớt của cậu bé. Một hình
ảnh người mẹ: “bán bóng đèn và những phiên chợ chính còn bán cả vàng hương”. Câu chuyện đã
hé lộ ra một bà cô tậm địa độc ác, bà ta cố ý nói cho cậu bé biết những cảnh ngộ đáng thương của
mẹ cậu để có thể cười nhạo, giễu cợt mẹ. Nhưng bà ta hoàn toàn không hề biết, càng làm như vậy
thì tình cảm của bé Hồng giành cho mẹ lại tăng lên gấp bội, tiếp thêm tình cảm và sức mạnh để
cậy vượt qua cái xã hội “hỗn mang”, tàn ác ấy.
Và rồi, cuộc đối thoại giữa Hồng và bà cô bắt đầu từ những câu hỏi đầy tanh bẩn hằn chứa
một rắp tâm phá đi sợ dây tình cảm giữa bé Hồng và mẹ. “Một hôm cô tôi gọi tôi đến và bảo:
Hồng! Mày có muốn vào Thanh Hóa chơi với mẹ mày không?”. Một câu hỏi đầy “uy lực”, lay
động đến thứ tình cảm thiêng liêng của bé Hồng với mẹ, gợi nên trong chú bao buồn tủi xen lẫn sự
nhớ nhung dồn nén bây lâu nay. Cậu bé “định toan trả lời có” nhưng rồi, Hồng lại trả lời một cách
chắc chắn “Không! cháu không vào. Cuối năm, thế nào mợ cháu cũng về”. Thật bất ngờ! Có lẽ,
Hồng đã sớm nhận ra trong niềm vui “hụt” một điều gì đó tanh bẩn của bà cô. Cậu đã đoán ra
được ý định cảu bà cô như “muốn gieo rắc vào đầu óc tôi những hoài nghi để tôi khinh miệt và
ruồng rẫy mẹ tôi”. Một ý định tàn bạo! Nhưng may thay, chính cái thiêng liêng, cao quý cảu tình
mẫu tử đã kéo cậu lên từ “đám bùn lầy” với những rắp tâm tanh bẩn - “nhưng đời nào lòng yêu
thương và sự kính mến mẹ tôi lại bị những rắp tâm tanh bẩn kia xâm phạm đến”. Và những điều
đó phần nào đã làm rạng lên một tình cảm cao đẹp.
Phải chia tay với một cơ hội gặp mẹ “hiếm có”, bé Hồng muốn chạy thật nhanh, tránh đi
“câu nói cay độc” của bà cô. Nhưng bà ta lại vẫn chưa tha cho một tâm hồn thơ dại. Bà an ủi bé
Hồng bằng một câu nói chứa đầy những ý nghĩ tanh bẩn: “Sao lại không vào? Mợ mày phát tài
lắm, có như dạo trước đâu!”. Giọng nói như mỉa mai, giếu cợt, đang “long lanh ... chằm chằm”
chờ đợi phản ứng của cậu bé. Đôi mắt cậu đã “khóe cay như muốn khóc”. Dường như, những câu
nói đó như “mũi tên” bắng thẳng vào một trái tim khao khát tình mẹ. Liệu rằng, rắp tâm xấu xa,
tanh bẩn của bà cô có thực hiện được hay không? Thái độ của bé Hồng ra sao? Tình cảm của bé
đối với mẹ có thay đổi hay không?
Câu chuyện vẫn diên ra và tiếp đó là một ý định cay độc: “Mạy quá, cứ vào đi, tao cho tiền
tàu, vào mà bắt mợ mày may vá, sắm sửa rồi còn cho thăm em bé nữa chứ!”. Thật tủi nhục và cau
đắng biết bao! Hai tiếng “em bé” được bà cô “ngân ra thật dài” như sự mỉa mai hay điều ám chỉ gì
đó. Phải chăng, bà ta muốn “ép” bé Hồng phải nhận ra rằng: “Mợ tôi chưa đoạn tang thầy tôi mà
đã chửa đẻ với người khác”. Dường như, tình cảm thiêng liêng đó như “lá bùa” hay là một “tấm
bia đỡ đạn” giúp cậu cố cầm cự để hỏi trong tiếng khóc xót xa: “Sao cô biết mợ con?”. Có lẽ, câu
nói đó đã nói trúng tim đen tàn ác của bà cô. Nhưng thật đáng khinh bỉ, “cô tôi vẫn cứ cười trong
tiếng khóc của tôi”. “Tình cảnh thê thảm của mẹ tôi” như khiến chú như “cắt từng miếng thịt”.
Đến lúc này, tâm trạng đau đớn, uất ức của bé Hồng xen lẫn tình yêu tha thiết đã lên tới cực
điểm. Từ nỗi đau vì thương mẹ và đặc biệt hơn là sợi dây tình cảm đã khiến bé phải thốt lên từng
câu chữ ngậm ngùi, xót xa: “Giá mà những cổ tục đã đày đọa mẹ tôi là những thứ như hòn đá hay
cục thủy tinh, đầu mẩu gỗ thì tôi quyết vồ lấy mà cắn, mà nhai, mà nghiền cho kì nát vụn mới
thôi”. Qua đây, ta mới bất chợt tìm thấy được thứ tình cảm thiêng liêng trong tâm hồn ngây dại.
Và cũng có lẽ, bà cô độc ác đã thỏa được ước nguyện nên đã đổi giọng như “nghiêm nghị” và tỏ
ra ngậm ngùi, thương xót. Thì ra, nỗi đau đớn mất mát của đứa bé đã lên đến đỉnh điểm, đồng
thời, sự tàn nhẫn, thâm hiểm của bà cô đã lên đến mức tận cùng. Hỏi rằng, liệu tình mẫu tử cao
quý, thiêng liêng ấy có được trọn vẹn cho đến cuối cùng hay không?
Và rồi qua đó, tuy ý đồ độc ác của bà cô vẫn chưa thực hiện được nhưng nó vẫn là phần
nào giúp bé Hồng vượt lên trên tất cả để hướng đến một chân trời tình yêu thương đích thực. Để
rồi điều đó sẽ chứng minh cho ý nghĩa của tình mẫu tử cao quý, vẫn luôn “là mạch nguồn cảm xúc
không bao giờ vơi trong tâm hồn mỗi con người”. Dù qua bao chông gai, thử thách, vượt lên
những “hố sâu tuyệt vọng”, một “vũng đầm lầy” hằn chứa những xấu xa của một xã hội đen tối,
không chút tình người. Chỉ qua những câu nói ngắn gọn, hàm súc được thể hiện qua sự đối thoại
với bà cô, Nguyên Hồng đã chứng minh cho ta thấy, sức mạnh của tình mẫu tử không bao giờ
kiệt, càng trong cùng cực, cô đơn, sức mạnh đó bị đè nén rồi lại bùng lên dữ dội, ánh lên một sức
mạnh bất diệt - và đó cũng chính là triết lí nhân sinh của nhà văn Nguyên Hồng.
Nhưng rồi, điều đó còn đặc biệt hơn nữa khi người mẹ hiền hậu mà cậu bé mơ ước bấy lâu
nay trở về. Dường như, “cái khóa” bị trói buộc lúc trước đang dần dần mở ra. Bóng tối của những
ngày qua đã tan biến, nhường chỗ cho ánh sáng diệu kì tràn ngập trong một tâm hồn trong sáng, đi
đôi với đó là tiếng gọi khao khát tình mẹ: “Mợ ơi ... mợ ơi ... mợ ơi!”. Ba tiếng gọi cứ ngân dài ra
tha thiết mà đằm thắm tột cùng. Dường như, linh cảm xuất phát từ trái tim khao khát của cậu bé
hoàn toàn đúng. “Chiếc xe kéo” chỉ vừa “thoáng qua” là chú đã cảm nhận được hương vị ngọt
ngào, đằm thắm mà thiếu thốn bấy lấu.
Nhưng linh cảm đó lại không làm cậu lay động mà xen vào đó là “ảo ảnh của dòng nước
trong suốt, chảy dưới bóng râm ... đã hiện ra trước mắt gần rạn nứt của người bộ hành giữa sa
mạc”. Có lẽ, niềm tin vững chắc lúc trước của cậu đã cạn kiệt mà đúng hơn là gần tuyệt vọng.
Phải chăng, chỉ có dòng sữa ngọt ngào cảu người mẹ mới bồi đắp được vết rạn nứt trong trái tim
non nớt ấy.
Giây phút cậu bé gần như là tuyệt vọng thì bỗng “xe chạy chầm chậm ... mẹ tôi cầm nón
vẫy tôi”. Bây giờ thì không còn là những giọt lệ đau đớn nữa mà thay vào đó là những giọt nước
mắt chảy dài trên khuôn mặt hạnh phúc, thấm đẫm trong trái tim ấm nồng chứa chan bao niềm
hạnh phúc, mãn nguyện. “Vài giây sau, tôi đuổi kịp”, trái tim băng giá sắp được mẹ sưởi ấm đã
“trỗi dậy” sâu một giấc ngủ dài. Bao nhiêu mệt nhọc, nỗi giận hờn, đã tan biến. Trong phút chốc
đã mở ra một thế giới tình cảm “mơn man” khắp người cậu bé. Trước đây, nước mắt của cậu bé đã
từng “chan hòa” bởi sự đau khổ, tủi nhục. Và giờ đây, những giọt nước mặt ấy vẫn tuôn nhưng lại
vì một niềm sung sướng bất tận. Đó là dòng nước mắt nhân lên vì niềm vui, nở bừng ánh sáng
hạnh phúc tỏa rực tình mẫu tử thiêng liêng, trong sáng.
Chính xuất phát từ lòng thương, từ tình cảm thiêng liêng, tha thiết, khi ngồi trong lòng mẹ,
cậu đã có những cảm hứng rung động lòng người. Và lúc này, một hình ảnh người mẹ khác hẳn
lời kể của bà cô đã hiện lên với “gương mặt mẹ tôi vẫn tươi sáng với đôi mắt trong và nước da
mịn ... làm nổi bật màu hồng của gò má” - một hình ảnh đẹp như cô Tấm thảo hiền, hoàn toàn trái
ngược vời sự “còm cõi, xơ xác như lời nói của bà cô cay độc”. Bé Hồng thấy mẹ không có gì khác
xưa, “vẫn tươi đẹp như thuở còn sung túc” - đó cũng là hình ảnh người mẹ lúc nào cũng tồn đọng
trong tâm trí cậu bé dù những rắp tâm tanh bẩn vẫn bao quanh cậu.
Được ôm ấp, được chở che và đặc biệt là được nằm gọn trong lòng mẹ, trái tim cậu đã tràn
ngập tình yêu thương, trái tim băng giá đã ấm nồng: “đùi áp đùi mẹ, đầu ngả vào cánh tay mẹ ...
tôi thấy những cảm giác ấm áp đã bao lâu mất đi bỗng lại mơn man khắp da thịt”. Từng cử chỉ,
hành động của cậu cho ta thấy rõ sự hồi sinh bất diệt cảu tình mẫu tử. Chỉ có như thế, cậu mới
nhanaj thấy rõ cái hương vị thiếu thốn lâu nay: “hơi quần áo mẹ tôi và những hơi thở ở khuôn
miệng xinh xắn, nhai trầu phả vào lúc thơm tho lạ thường”. Lúc này, ắt hẳn cái ý nghĩ vẫn luôn
thoáng qua đầu cậu bé như một cơn gió thoảng qua: “phải chăng, trên đời này không còn phút
giây nào hạnh phúc hơn nữa?”. Thật vậy, câu hỏi nghe ngây thơ nhưng cũng xót xa, thương cảm
biết chừng nào! Có lẽ, phải bắt nguồn từ tình yêu thương mẹ tha thiết, toát lên một thứu ánh sáng
diệu kì mới giúp cậu cảm nhận được cái hương vị mất đi bấy lâu, giờ mới có dịp bộc lộ.
Thật đẹp làm sao cái giây phút hạnh phúc của một đứa trẻ lâu nay khao khát tình mẹ và giờ
đây đã thỏa được ước nguyện: “pahir bé lại và lăn vào lòng một người mẹ, áp mặt vào bầu sữa
nóng cảu người mẹ, để mẹ vuốt ve từ trán tới cằm và gãi rôm ở sống lưng cho mới thấy mẹ có một
êm dịu vô cùng”. Thật vậy, bao trùm lên tâm trí cậu bé là một nỗi vui sướng khôn xiết. Phải
thương nhớ mẹ, yêu quý mẹ, thèm khát được gần mẹ đến chừng nào thì bé Hồng mới cảm thấy
sung sướng tột đỉnh khi được ôm ấp trong vòng tay êm dịu của mẹ sau bao ngày trắc trở xa cách.
Có lẽ, bàn tay người mẹ như sức mạnh thiêng liêng, che chở, ôm ấp con đã tạo thành những
“chuỗi giai thoại”. Và chắc có lẽ vậy nên “từ ngã tư đầu trường cho đến về nhà, tôi không còn nhớ
mẹ tôi đã hỏi những câu gì và tôi đã trả lời mẹ tôi những câu gì nữa!”. Và thế rồi, những câu nói
xúc xiểm, cay độc của bà cô như muốn “gieo rắc vào đầu tôi để tôi ruồng rẫy, khinh miệt mẹ”
cũng chỉ là “ù ù bên tai hay thoáng qua như một cơn gió”. Có lẽ, chính vì sợi dây tình mẫu tử gắn
kết thiêng liêng hay tình yêu nồng nàn của bé với mẹ mà giúp bé có thể vượt qua từng hố sâu tanh
bẩn, nâng đỡ bé thoát khỏi những cái cảnh sống “trườn” qua một cuộc đời bất hạnh với một trái
tim khao khát tình mẹ. Dường như, thứ tình cảm thiêng liêng, ấm nồng đó sẽ mãi “không bao giờ
vơi” trong trái tim của những con người bất tử. Và rồi, mọi chông gai hay những câu nói đáng
“nguyền rủa” kia sẽ mãi không bao giờ bám lên sợi dây “trơn tuột” kia, chứa chan bao niềm tha
thiết.
Qua đấy, ta mới bất chợt hiểu rằng: tình yêu thương mẹ là nét nổi bật trong tâm hồn ta -
những con người mang một trái tim thiên thần. Và bé Hồng cũng vậy, tình cảm thiêng liêng, sâu
nặng đã giúp bé có những cách nhìn xác thực hơn về con người và cuộc đời “hỗn mang”. Cho dù
cảnh ngộ có éo le đến mấy, thứ tình cảm thiêng liêng được gọi với cái tên giản dị - mẫu tử ấy sẽ
không bao giờ nhạt phai trong tâm trí những con người mang tâm hồn của một tình yêu đích thực.
Mỗi dòng văn, câu chữ của tác giả đã “lôi” bối cảnh qua cách kể giản dị, giàu sức sống,
thấm dẫm tình người - khác hoàn toàn với “Mợ Du” hay “Huệ Chi trước lễ cưới”. Kết cục của nó
hoàn toàn bi thảm, như một sự giải thoát khiến người đọc phải sửng sốt, đau đớn tột cùng. Mặc dù
vẫn là những cảm giác êm đềm về mẹ nhưng “Trong lòng mẹ” lại mang một triết li nhân sinh sâu
sắc về mẹ, một kết cục tốt đẹp “mẹ con đoàn viên trong một niềm vui tột cùng”. Dường như, đây
là sự bồi đắp cho tâm hồn thánh thiện của một đứa con hiếu thảo, khao khát tình mẹ bây lâu.
Tóm lại, chỉ với những dòng văn giản dị mà thấm đẫm tình người, Nguyên Hồng đã chứng
mình cho ta thấy rõ: “Tình mẫu tử là mạch nguồn tình cảm không bao giờ vơi trong tâm hồn mỗi
con người”. Khi bài ca về tình mẫu tử cất lên từ tận đáy lòng thì tình cảm ấy sẽ cho ta cái cảm
giác thế nào là thứ tình cảm thực sự trong trái tim thực sự.
Dẫu rằng, thời gian có ngừng trôi, Trái Đất có đổi vòng quay đi chăng nữa, nhưng trong trái
tim mỗi con người vẫn dấy lên một thứ tình cảm bất diệt - tình mẫu tử. Thật vậy, “Trong lòng
mẹ” của Nguyên Hồng sẽ mãi là một bài ca bất diệt ẩn hằn một sức mạnh kì diệu, đem ánh sáng
tình yêu đến nhân loại để rồi, bất chợt, mỗi con người chúng ta phải suy ngẫm:
“Mẹ có nghĩa là tất cả
Là cho đi không đòi lại bao giờ”
Đề bài 2.1: Có người không hiểu: Vì sao Nam Cao lại để cho lão Hạc tìm dến cái chết trong khi
vẫn còn nguyên nguồn sống, còn vườn, còn tiền. Họ lại càng không hiểu vì sao: một người tốt đẹp
như thế lại phải tự tử bằng cách ăn bả chó - một cái chết đau đớn và dữ dội? Hãy viết một bài
văn nhằm giải đáp những thắc mắc trên để mọi người cùng thấy: Đó là những sáng tạo nghệ
thuật sâu sắc có khả năng giúp người ta nhận rõ thực chất đời sống và con người nông dân trước
Cách Mạng.
Hoặc Đề bài 2.2: Tóm tắt văn bản“Lão Hạc”(SGK Ngữ văn 8-tập 1) và trình bày suy nghĩ của
em về cái chết đau đớn, dữ dội của nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn
Nam Cao.
Dàn ý bài chi tiết (bài viết bên dưới)
Mở bài: - Đánh giá phong cách viết văn và cách nhìn đúng đắn về người nông dân của nhà văn
Nam Cao trong trào lưu hiện thực phê phán 1930 - 1945.
- Dẫn dắt vấn đề (có hai vấn đề phải dẫn dắt):
1, Vì sao Nam Cao lại để cho lão Hạc tìm đến cái chết trong khi vẫn còn nguyên
nguồn sống, còn vườn, còn tiền ... Vì sao một người tốt đẹp như như lão Hạc lại phải tự
tử bằng cách ăn bả chó?
2, Những sáng tạo nghệ thuật của Nam Cao có khả năng giúp người ta nhận rõ
thực chất đời sống và con người nông dân trước Cách mạng tháng Tám (trong thời thực
dân nửa phong kiến).
Lưu ý: - Ở một số đề thi HSG, các ý cần học sinh chứng minh sẽ không được in đâm hay in
nghiêng hoặc tạo ra một kí hiệu nào đó mà bắt học sinh phải tự nhận biết để chứng minh. Vì thế,
khi đọc đề cần phải gạch chân trước những từ ngữ/ý quan trong để khi làm bài không thừa hoặc
thiếu luận điểm. Trên đó là một trong những ví dụ cụ thể, nếu không được in đậm thì đa số sẽ
không thế xác định được vấn đề phải chứng minh (chủ yếu là vấn đề 2).
- Ở đề bài 1.2 thì không có vấn đề nghị luận nhưng HS cũng phải nếu khái quát về
nhân vật lão Hạc để làm tiền đề cho phần thân bài.
Thân bài: Chứng minh ý kiến trên là đúng thông qua nhân vật lão Hạc trong tác phẩm “Lão Hạc”
của Nam Cao.
- Luận điểm 1: Đoạn chuyển.
+ Đối với cách làm của HSG thì nên trích dẫn một câu nói nào đó để chứng minh vấn đề
[vd: “Đối với tôi, văn chương không phải là sự thoát ly hay sự quên lãng. Văn chương là một thứ
khí giới thanh cao và đắc lực. Nó có thể thay đổi cả một thế giới giả dối và tàn ác, ca ngợi sự công
bình, làm người gần người hơn” (Thạch Lam)].
Lưu ý: Khi trích dẫn câu nói thì phải cho vào ngoặc kép, cuối câu nói là tên của người
nói/viết (nếu đã giới thiệu rồi thì không cần). Khi trích dẫn cần phải đầy đủ, chính xác, nếu không
nhớ rõ câu nói thì nên phác họa lại nội dung câu nói, không nên trích sai câu nói. Sau khi đã
trích thì nên giải thích ý nghĩa câu nói để làm sao liên hệ được đến với vấn đề cảu tác phẩm
(trong trường hợp câu nói của Thạch Lam và đối với đề bài này thì câu nói chỉ có tác dụng với
vấn đề 1 - cái chết của lão Hạc).
+ Tóm tắt hay nói cách khác là kể lại một cách thật ngắn gọn hoàn cảnh của Lão Hạc (vật
chất và tinh thần) để làm sao toát lên sự vất vả, khổ cực của lão qua đó đánh giá trước nghệ thuật
miêu tả tâm lí hay phong cách viết văn của nhà văn Nam Cao.
- Luận điểm 2: Hoàn cảnh thiếu thốn về vật chất lẫn tinh thần của lão Hạc.
+ Vật chất: một căn nhà cũ nát, một sào vườn cằn cỗi, một con chó Vàng.
+ Tinh thần: vợ mất sớm, sống cũng với đứa con trai ... con trai bỏ đi đồn điền cao su, lão
cô đơn một mình với cậu Vàng (chó Vàng).
+ Hoàn cảnh cùng cực sau khi lão ốm và đứa con trai ra đi:
1, Gia sản chỉ có một sào vườn nhỏ đủ để cho lão bòn mót và một con chó mà lão
thường gọi là Cậu Vàng.
2, Sức khỏe của lão càng ngày càng đuối, bão đến cuốn đi vụ hoa màu trên mảnh
vườn lão, các việc nhỏ nhẹ trong làng thì bị cướp mất.
3, Do hoàn cảnh ép buộc, lão đành phải bán cậu Vàng với giá 5đ.
4, Ép mình phải ăn củ chuối, củ sung; làng xóm giúp đỡ lão thì lão từ chối như một
kẻ hách dịch, từ chối lời mời của ông Giáo.
=> Lão đành sống một mình trong sự cô đơn và giằng buộc của bản thân và rồi lão tìm đến
cái chết.
Lưu ý: Khi làm luận điểm này cần phải đan xen những khó khăn về mọi mặt của lão Hạc
theo một trình tự nhất định để làm nổi bật lên sự khó khăn của lão và giới thiệu lão chết.
- Luận điểm 3: Cái chết đau đớn của lão Hạc, ông Giáo hiểu ra và hé lộ phẩm chất tốt đẹp của lão
Hạc => Giải thích vấn đề 1.
Lưu ý: Trước khi sang luận điểm 3 cần phải có một đoạn chuyển từ luận điểm này sang
luận điểm khác: nên đánh giá hoàn cảnh của lão Hạc.
+ Sau khi bán cậu Vàng, lão đã đến tìm đến Binh tư xin một ít bả chó. Sau khi nghe Binh tư
kể lại, ngay cả ông Giáo cũng nghi ngờ lão Hạc.
+ Cái chết đau đớn, dữ dội của lão Hạc: “lão đang vật vã ... Cái chết thật dữ dội!”. Đến lúc
này, ông Giáo và Binh Tư mới hiểu ra.
+ Phẩm chất của lão Hạc: yêu thương con (muốn chết để giữ lại tiền cho con), giàu lòng tự
trọng (không muốn liên lụy đến hàng xóm), muốn giữ lại những phẩm chất tốt đẹp của mình,
không muốn bị cái xấu xâm phạm đến.
+ Chứng minh luận điểm:
1, “Vì sao lão hạc phải tìm đến cái chết trong khi vẫn còn nguyên nguồn sống, còn
tiền, còn vườn”: tuy lão vẫn còn tiền, còn vườn nhưng lão ăn mãi sẽ hết, khi con trai lão về sẽ
không có vốn làm ăn. Vì thương con, nên lão đành chết để giữ lại tiền cho con.
2, “Vì sao lão phải chết bằng cách ăn bả chó”: có lẽ, lão muốn chứng minh mình
không hề theo gót Binh Tư làm bậy. Mặt khác, cái chết của lão như lời tạ tội với chó Vàng, hình
ảnh cái chết của lão cũng như hoàn cảnh chết của chó Vàng.
3, Khẳng định: “Đó là những sáng tạo nghệ thuật sâu sắc của Nam Cao có khả năng
giúp người ta nhận rõ thực chất đời sống và con người nông dân trước Cách Mạng”.
- Luận điểm 4: Mở rộng vấn đề, đánh giá nghệ thuật xây dựng nhân vật của t/g.
+ Đánh giá vấn đề (có 3 vấn đề để đánh giá - như trên),
+ Phản đề: Thường có trong văn nghị luận về tư tưởng đạo lí, đời sống, hiện tượng xã
hội, nếu là học sinh có sức viết tốt, biết cân chỉnh thời gian hợp lí thì nên cho mục phản đề này
vào: khẳng định, trong xã hội hiện nay, không có ít những trường hợp “coi rẻ” phẩm chất của
mình. Qua đó, đánh giá và phê phán những hành động đó.
+ Liên hệ - mở rộng: bao gồm liên hệ bản thân và liên hệ với các tác phẩm khác. Khi liên
hệ bản thân: ta nên liên hệ với thực tế đời sống và với bản thana mình rồi đưa ra những việc làm
tốt (những việc làm trái ngược thì đã có ở mục phản đề, nếu không viết mục phản đề thì nên lướt
qua). Khi liên hệ với các tác phẩm khác: liện hệ với những tác phẩm có chung chủ đề (vd: nhân
vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên ... ) và nêu nổi vật những điểm chung của các tác phẩm
rồi đánh giá, nhận xét vấn đề chứng minh.
Lưu ý: Ngoài ra, ta có thể nhận xét nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, nghệ thuật kể
chuyện và đánh giá giọng văn của nhà văn Nam Cao để khẳng định: trong văn ông luôn có tình
người và đề cao phẩm chất con người dù trong bất cứ hoàn cảnh nào đi chăng nữa.
Kết bài: Khẳng định lại vấn đề theo hướng mở rộng của bản thân.
(trải nghiệm kiến thức bản thân)
Bài làm mẫu
Nam Cao - một nhà văn nhân đạo - một trong những cây bút sáng giá đã để lại những trang
viết tâm huyết về người nông dân trước Cách mạnh tháng Tám mang đậm giá trị hiện thực trong
trào lưu hiện thực phê phán 1930 - 1945. Với nhân vật Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên, cách
nhìn đúng đắn, sâu sắc, nhất là tình thương da diết và niềm tin mãnh liệt vào những “người cùng
khổ” của Nam Cao đã được bộc lộ rõ. Một lão Hạc với số phận bi đát, khổ cực nhưng lại ánh lên
một tâm hồn trong sáng dường như đang hiện diện lên mắt người đọc chúng ta. Truy nhiên, lão lại
phải chết một cách dữ dội và đau đớn để giữ một vẻ đẹp tâm hồn trong sáng. Có lẽ, Nam Cao rất
đau đớn khi để nhân vật của mình “ tìm đến cái chết trong khi vẫn còn nguyên nguồn sống”.
Nhưng chính cái chết đau đớn đó, ta mới cảm nhận được “những sáng tạo nghệ thuật sâu sắc” của
ông toát lên một thứ ánh sáng diệu kì soi đường cho những người nông dân giữa một bầu trời đen
tối.
Sinh thời, nhà phê bình văn học Thạch Lam đã từng nói: “Đối với tôi, văn chương không
phải là sự thoát ly hay sự quên lãng. Văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực. Nó có
thể thay đổi cả một thế giới giả dối và tàn ác, ca ngợi sự công bình, làm người gần người hơn”.
Thật vậy, “Lão Hạc” đã thể hiện rõ điều đó. Xuyên suốt qua tác phẩm, dường như, Nam Cao đã
đưa người đọc đến một xã hội bất công, không chút tình người, cho ta thấy rõ bản chất và số phận
của những người nông dân thực sự. Có lẽ, nó “chuyên chú đến con người” hơn là mang đậm ý
nghĩa văn chương. Hoàn toàn khác với “loại văn chương không đáng thờ” chỉ “chuyên chú ở văn
chương” dễ nhàm chán và không tạo được dấu ấn trong lòng người đọc. Và có lẽ, cái chết đau đớn
hay bản chất của người nông dân như sự tố cáo hay “mũi tên” bắn thẳng vào “trái tim đen tối” của
một chế độ phong kiến “hỗn mang”, “thay đổi một thế giời, làm người gần người hơn”. Và đó
chính là một bài học đạo đức “tuyệt vời” cho những con người ở thế kỉ XXI hiện nay.
Với ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật thành công, “Lão Hạc” đã để lại cái dư vị sâu sắc dối
với bạn đọc. Và Nam Cao - với ngòi bút bậc thầy tinh luyện, ông đau đơn, xót xa như “nhỏ máu”
khi để nhân vật tâm huyết của mình phải “tìm đến cái chết trong khi vẫn còn nguyên nguồn sống”.
Vậy tại sao lại thế?
Thì ra, lão sống suốt đời trong sự vây bủa của cái đói, cái nghèo. Đã nghèo lại góa vợ, lão
lâm vào cảnh một thân “gà trống nuôi con”. Không có ruộng cày, toàn bộ gia sản của lão chỉ có
con chó - người bầu bạn sớm khuya và ba sào vườn - đủ cho lão bòn mót đủ ăn. Mảnh vườn ấy có
được là do vợ lão “cố thắt lưng buộc bụng”, “dè xẻn mãi mới để được ra năm mươi đồng bạc tậu
về”. Đó là mảnh vườn còm cõi, hoa màu ít ỏi, chỉ đủ cho lão bòn mót nên lão phải đi làm thuê,
làm mướn mới có đủ cái ăn. Đó là tất cả cuộc đời của lão khiến lão phải thốt lên rằng: “cuộc đời
như thế chỉ “nhỉnh” hơn cái kiếp con chó”! Và cũng chính từ cái nghèo, cái đói mà người cha như
lão đành phải chịu khuất phục trước hạnh phúc của đứa con trai “độc đinh”. Thế rồi, con trai lão
quyết chí đi đồn điền cao su để có tiền cho “bõ tức”. Cuộc đời của lão như nhói lên một nỗi đau,
một cảnh đời cùng khổ của những người nông dân trước cách mạng Tháng Tám.
Cậu con trai duy nhất bỏ lão mà đi khiến lão trơ trọi một mình. Chỉ có con chó Vàng làm
bạn sớm tối để lào ân hận và cảm thấy mình có lỗi. Con chó trở thành “Cậu Vàng”, thành người
một nhà của lão. Dường như, lão vẫn không thể nào quên được đứa con trai. Trong kí ức của lão,
cậu Vàng là một kỉ vật thiêng liêng, là tài sản của đứa con trai. Có một sợi dây liên lạc rất lạ lùng
giữa lão Hạc, cậu Vàng và cậu con trai “vắng mặt”. Cho nên có bao nhiêu tình thương, nỗi nhớ
chất chứa trong lòng, lão dồn hết vào con chó. Lão cho nó ăn trong bát sứ, chia sẻ thức ăn, chăm
sóc, trò chuyện với nó như một người bạn thâm giao, tưởng không thể nào có thể xa rời nó. Bởi
thế, cái ý định “có lẽ bán con chó” ấy của lão Hạc bao lần chần chừ không thực hiện rồi cuối
cùng, cậu Vàng được bán đi với giá năm đồng bạc.
Cậu Vàng bán đi có vẻ là quyết định khó khăn nhất của đời lão. Năm đồng bạc kể ra cũng là
“món tiền to”, nhất là giữa thời buổi “đói deo đói dắt thế này”. Nhưng, lão Hạc bán cậu Vàng đi
không phải vì tiền mà bởi tình cảnh đói nghèo, khốn quẫn đã buộc lão phải chia tay với nó. “Thóc
cao, gạo kém”, sức cùng, lực kiệt, lão đành phải làm như vậy! Cái khoảnh khắc “lão cố làm ra vui
vẻ” cũng không thể giấu được bộ dàng “cười như mếu và đôi mắt lúc nào cũng ầng ậng nước”.
Lão tự nhất mình là kẻ bất nhân, là tên lừa đảo với một con cho vốn “tin yêu của mình”. Có lẽ,
đây là giây phút đáu đớn của cuộc đời lão khiến “mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô
lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của
lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc ...!”. Cuộc đời lão như dòng nước mắt chảy dài trên những
nỗi đau bất lực. Có lẽ, cậu Vàng đã là một “phần nước mắt” nước mắt của lão. Nó tỏa rạng tâm
hồn và làm ảnh lên bản chất tốt đẹp trong ông lão nông dân đầy bất hạnh. Vì thế, sau khi bán cậu
Vàng, từ túng quấn, lão Hạc bồng chìm xuống như bị ai “vùi dập”.
Trong lúc đó, lão “ép” mình phải ăn của chuối, củ sung trong khi vẫn còn tiền. Ông Giáo
mời lão ăn khoai và uống nước chè thì lão xin khất. Mọi người giúp đỡ lão thì “lão từ chối như
một kẻ hách dịch”. Có lẽ, bản chất của một con người thực sự đã được bộc lộ rõ. Liệu những kẻ
vô cảm như Thị - vợ ông Giáo hay tên ăn trộm như Binh Tư và bao người khác nữa có hiểu được
những chan chứa trong lòng lão hay không? Cuối cùng, vì lòng tự trọng của mình, lão đã đi đến
một hành động như tự giải thoát - cái chết - một cái chết dữ dội và đầy bí ẩn trong khi tài sản vẫn
còn.
Đặc biệt hơn, trước khi lão chết, lão đã gửi lại toàn bộ tài sản của mình cho ông Giáo, nhờ
ông Giáo giữ hộ cho đến khi “thằng con trai lão về”. Tiếp đó, lão xin Binh Tư một ít bả chó.
Thành thật, Binh Tư và một số người khác cũng chẳng hiểu lão xin để làm gì hay lão cũng theo
gót Binh Tư làm chuyện xấu. Và đáng buồn hơn, hành động đó cũng làm cho một người bạn thân
của lão là ông Giáo cũng hiểu nhầm. Vài hôm sau, lão bỗng dưng chết một cách đột ngột, đau đớn
thì lúc đó, câu chuyện mới được làm sáng tỏ.
Phải chăng, chỉ có cái chết mới trọn đạo làm cha, mới giữ trọn vẹn được vẻ đẹp tâm hồn
trong sáng. Và cũng đúng hơn, nếu lão sống, lão sẻ phải đánh đổi bằng “tình phụ tử” vun đắp bây
lâu, “hụt” đi phần nào số tiền lão dành dụm cho con và đặc biệt hơn, điều đó sẽ phiền lụy đến bà
con hàng xóm bởi lão biết, họ cũng chẳng hơn lão được thứ gì, có khi còn khổ hơn lão rất nhiều.
Cho nên, chính vì lòng tự tróng, lão bắt buộc phải đi đến cái chết.
Dường như cái chết của lão như được báo trước. Lão đã trải qua những chua chát, tủi cực
của một kiếp người khi phải đối mặt với hiện thực nghiệt ngã. Lão chết trong cảnh tượng thảm
thương: “Lão đang nằm vật vã ở trên giường, đàu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng
sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại giật mạnh lên một cái. Hai người đàn
ông lực lưỡng phải ngồi đè lên lão. Lão vật vã hai giờ đồng hồ mới chết.Cái chết thật dữ dội!...”.
Bằng những sáng tạo nghệ thuật hằn ẩn trong từng câu chữ, Nam Cao đã miêu tả lại một cách tỉ
mỉ hình dáng, cử chỉ của lão Hạc lúc “lâm chung”. Ta hãy nhìn lão quằn quại, cả người giật đùng
đùng đến mức phải có “hai người đàn ông lực lưỡng đè lên” mới hạn chế được những cái giật
mình, đầu tóc rồi bời, áo quần xô xệch, bọt mép trào ra ta mới thất lão phải trải qua nỗi đau đớn
tột cùng về thể xác. Hai tiếng đồng hồ trôi qua mà cứ như là rất lâu. Chỉ qua những nét phác họa
đơn gian, bậc thầy Nam Cao đã cực tả được nỗi đau khôn cùng của lão Hạc. Không chỉ tả thực,
ông còn đưa ra một câu đánh giá “cái chết thật dữ dội!”. Thì ra, cái chết của lão để chứng minh
lão không bao giờ theo gót Binh Tư làm chuyện bậy và tình yêu thương con tha thiết. Dường như,
cái chết đau đớn của lão như sức ám ảnh ghê gớm trong mỗi đồng giả chúng ta.
Cái chết của lão lại hé lộ ra một khả năng: “Tại sao, lão lại phải chết một cách đau đớn và
nghiệt ngã và đau đớn bằng bả chó?”. Phải chăng, đó như sự chuộc lỗi với con chó Vàng. Một cái
chết đau đớn về thể xác nhưng lại thanh thản về tinh thần. Nhưng thực sự, lão rất muốn sống,
muốn giữ lại toàn bộ tài sản trong niềm mong nhớ đứa con trai trở về. Nhưng lão phải chết để trọn
đạo làm cha, giữ được cái bản chất lương thiện của mình. Lão chết để bảo toàn số tiền cưới vợ cho
con và lão cũng không muốn phiền lụy đến làng xóm, Lão chết tượng trưng cho tình thương âm
thầm và cái chết của lão đã đưa lão đến một thế giới hoàn toán mới, tốt đẹp hơn, tươi sáng hơn,
không chút phiền muộn nào và cũng không bị vùi dập của chế độ thực dân phong kiến.
Có lẽ, cái chết của lão vật vã trên giường cũng gần như cảnh “thàng Mục, thàng Xiên bắt
cậu Vàng”! Đó như lời tạ tội chân thành, sâu sắc đến người bạn mà lão trân trọng nhất. Qua cái
chết dữ dội đó, ta mới thấy bản chất lương thiện và lòng tự trọng cuả con người cao biết chừng
nào!
Dường như, từng câu chữ là niềm đau, niềm đồng cảm của nhà văn trước nhân vật. Và cũng
qua đó, ta mới biết, dù có chết, họ vẫn luôn giữ lại bản chất lương thiện và lòng tự trọng của mình.
Đồng thời, nó còn thể hiện một tinh thân nhân đạo và giá trị hiện thực của tác giả trong tác phẩm.
Và điều đó là những sáng tạo nghệ thuật sâu sắc có khả năng giúp người ta nhận rõ thực chất đời
sống và con người nông dân trước Cách Mạng.
Qua từng chi tiết đó, ta mới cảm nhận được những ý nghĩa sâu sa ẩn chứa bên trong những
con người gần như “gàn dở”. Trong sự bế tắc, cùng cực của hoàn cảnh, người nông dân nghèo vẫn
giữ được phẩm giá tốt đẹp. Nam Cao đã thể hiện thái độ trân trọng và cái nhìn nhân đạo cùng với
một triết lí nhân sinh cao cả: “Con người chỉ xứng đáng với danh nghĩa con người người khi biết
nâng niu, chia sẻ những điều đáng thương, đáng quý ở con người”. Và rồi, cái chết của lão Hạc
như một bản án tố cáo chế độ thực dân phong kiến bất nhân, tàn ác. Đồng thời, cũng là tiếng kêu
cứu khẩn thiết thay đổi môi trường sống phi nhân tính, cứu lấy giá trị chân chính của con người.
Kết thúc bi kịch đồng nghĩa với sự chấm dứt những dằn vặt riêng tư của lão Hạc. “Cái đẹp
và cái xấu bao giờ cũng chính là hai cánh tay của một cơ thể, Không vì cánh tay trái xấu xa mà
đem chặt đứt cánh tay trái đi thì chính thân thể này sẽ đau chứ không riêng gì mình cánh tay trái”
(Hoài Thanh).
Cũng như nhân vật Chí Phèo ở làng Vũ Đại trong tác phẩm cùng tên, Nam Cao đã gây dựng
lên hình ảnh những người thuộc tầng lớp thấp cùng của xã hội phong kiến, họ phải sống trong
cảnh đời bất cảnh, cùng quẫn nhưng lại mang một vẻ đẹp phẩm chất cao thượng. Lão Hạc thương
con rứt ruột những lại bất lực khi thấy con ra đi. Từng câu nói của lão như từng tiếng nấc nghẹn
ngào bật ra từ trái tim yêu thương con tha thiết, từ tận đáy lòng của người cha không chút uất ức,
cam chịu. Phải chăng , đó là giá trị nhân đạo thường gặp trong phong cách viết văn của bậc thầy
Nam Cao.
Trong xã hội hiện đại ngày nay, đất nước đang trên đà phát triển, nhu cầu của con người
ngày một cao. Và đi đôi với thực trạng như thế thì bản chất con người không còn được như ông
cha ta ngày trước. Có một khối người trong xã hội hiện nay “bán rẻ” lương tâm, phẩm chất của
mình và cũng chỉ vì một chữ - “tiền”. Như đại thi hào Nguyễn Du đã nói: “Cả xã hội vì đồng tiền”
- “Truyện Kiều”. Và điều đó cần phải được thay đổi trong xã hội hiện nay
Thời gian cứ thế trôi qua, nhưng cái chết đau đớn, dữ dội của lão nông bần hàn đó vẫn mãi
khắc sâu trong mỗi con người chúng ta. Và rồi từ đây, hình ảnh người nông dẫn Việt Nam trước
Cách mạng Tháng Tám sẽ vẫn luôn thấm đượm trong lòng mỗi độc giả chúng ta về những phẩm
chất cao đẹp đáng phát huy.
Đề bài 3: Chứng minh lòng yêu nước, thương dân của các vị vua, chủ tướng thông qua:
“Thiên đô chiếu” (“Chiếu dời đô” - Lý Công Uẩn); “Hịch tướng sĩ” (Trần Quốc Tuấn); “Hịch
tướng sĩ” (Nguyễn Trãi).
Đề bài 4: Có ý kiến cho rằng: Văn học luôn ca ngợi tình yêu thương giữa người và người. Bằng
những tác phẩm đã học trong chương trình Ngữ Văn 8, em hãy làm sáng tỏ nhận định trên.