You are on page 1of 20

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đề tài tiểu luận “Những hiểu biết về các chỉ tiêu kinh
tế vĩ mô và thực trạng tăng trưởng GDP của Việt Nam trong giai đoạn vừa
qua” là công trình nghiên cứu của bản thân. Những phần sử dụng tài liệu tham
khảo trong bài tiểu luận đã được nêu rõ trong phần tài liệu tham khảo. Các số
liệu, bảng biểu, kết quả trình bày trong tiểu luận là hoàn toàn trung thực, nếu sai
tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm và chịu mọi kỉ luật của bộ môn và nhà trường
để ra.
Hải Dương, ngày 18 tháng 5 năm 2021
Sinh viên
Ngô Thùy Linh

1
LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn khoa Kinh tế, cùng tất cả các thầy giáo, cô giáo
đã tận tình giảng dạy và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu về
đề tài tiểu luận “Những hiểu biết về các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô và thực trạng
tăng trưởng GDP của Việt Nam trong giai đoạn vừa qua”
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô Bùi Thị Thu Thủy - Giảng viên đã
trực tiếp giảng dạy và hướng dẫn tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong
quá trình thực hiện đề tài.
Tôi xin trân trọng cảm ơn lãnh đạo, giáo viên và học sinh trường ĐH Sư
phạm Kĩ thuật Hưng yên đã dành thời gian quý báu của mình để tìm kiếm và
cung cấp tư liệu, tư vấn, giúp đỡ tôi hoàn thành tiểu luận này. Tuy đã có nhiều
cố gắng, nhưng chắc chắn tiểu luận của tôi vẫn còn có nhiều những thiếu sót.
Rất mong nhận được sự góp ý của thầy giáo, cô giáo và các bạn đồng nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn!

2
MỤC LỤC
PHẦN I : MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
1.2 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
1.3 Đối tượng nghiên cứu
1.4 Phạm vi nghiên cứu của đề tài
1.5 Phương pháp nghiên cứu đề tài
1.6 Kết cấu của đề tài
II : KẾT QUẢ NGPHẦN HIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
2.1 Các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô
2.1.1. Tổng thu nhập quốc nội – GDP
2.1.2. Tổng sản lượng quốc gia – GNP
2.1.3. Thu nhập quốc dân
2.1.4. Thu nhập quốc dân có thể sử dụng
2.1.5. Các đồng nhất thức kinh tế vĩ mô cơ bản
2.2 Thực trạng tăng trưởng GPD của Việt Nam
2.3 Nhận xét
PHẦN III : KẾT LUẬN
Tài liệu tham khảo……………………………………………………………

3
PHẦN I : MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Sự cần thiết của đề tài phân tích các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô luôn là một đề
tài quan trọng và cấp thiết, nhất là đối với một quốc gia đang phát triển như Việt
Nam, một nền kinh tế mở có quy mô nhỏ nên dễ bị tổn thương với những biến
động bất lợi từ bên ngoài. Trong điều kiện nền kinh tế thế giới nói chung và nền
kinh tế Việt Nam nói riêng ngày càng xuất hiện nhiều hơn và thường xuyên hơn
các yếu tố bất ổn định thì việc học hỏi, tìm hiểu về các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô có
ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong điều hành chính sách, ổn định kinh tế vĩ mô.
Nền văn minh của Việt Nam đã được xây dựng trên nông nghiệp. Các
triều đại phong kiến đã luôn luôn coi nông nghiệp là cơ sở kinh tế chính, những
tư tưởng kinh tế của họ được khẳng định trên chủ nghĩa trọng nông. Quyền sở
hữu đất đai được công nhận bên cạnh sở hữu công ruộng đất và những công
trình quy mô lớn như đê, các công trình thủy lợi đã được xây dựng ở đồng bằng
sông Hồng tạo điều kiện cho canh tác lúa nước. Trong những thời điểm yên
bình, những người lính được gửi về nhà để làm nông, triều đình gọi chính sách
này là ngụ binh ư nông. Hơn nữa, triều đình cấm giết mổ trâu bò, gia súc và tổ
chức nhiều nghi lễ liên quan tới nông nghiệp. Thủ công mỹ nghệ và nghệ thuật
được coi trọng, nhưng thương mại không được xem trọng, những người kinh
doanh được gọi là ‘’con buôn’’. Do đặc thù của vị trí địa lí, Việt Nam là nơi sở
hữu đồng bằng nhỏ hẹp, nông nghiệp năng suất thấp, thủ công nghiệp và thương
mại kém phát triển nên nền kinh tế quốc gia là tự cung tự cấp. Trong khu vực
Đông Nam Á, Việt Nam không thể xem là một quốc gia giàu có.
Kinh tế Việt Nam là nền kinh tế hỗn hợp. Trong khi nền kinh tế ngày càng
được thị trường hóa thì sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế vẫn còn ở
mức độ cao. Hiện tại, nhà nước vẫn sử dụng các biện pháp quản lý giá cả kiểu
hành chính với các mặt hàng thiết yếu như yêu cầu các tập đoàn kinh tế và tổng
công ty điều chỉnh mức đầu tư, quyết định giá xăng dầu, kiểm soát giá thép, xi
măng, than. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, Đảng ra quyết định về
chiến lược phát triển kinh tế xã hội cho thời kỳ 10 năm và phương hướng thực
hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 5 năm. Trên cơ sở đó, Chính phủ Việt
Nam xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm và hàng năm để trình
Quốc hội góp ý và thông qua.
Chính phủ Việt Nam tự nhận rằng kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế
vận hành theo cơ chế thị trường, và nhiều nước và khối kinh tế bao gồm cả một
số nền kinh tế thị trường tiên tiến cũng công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị
trường. Tuy nhiên, cho đến nay Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản vẫn chưa công nhận
kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường. Tổ chức Thương mại Thế giới công
nhận Việt Nam là nền kinh tế đang phát triển ở trình độ thấp và đang chuyển
đổi.
Kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa đang phát triển, phụ thuộc lớn vào nông nghiệp, du lịch, xuất khẩu thô
4
và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương xây dựng
ở Việt Nam một hệ thống kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tính đến tháng 11 năm 2007, đã có Trung Quốc, Nga, Venezuela, Nam
Phi, ASEAN và Ukraina tuyên bố công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị
trường đầy đủ, đến năm 2013, đã có 37 quốc gia công nhận Việt Nam đạt kinh tế
thị trường (VCCI) trong đó có Nhật Bản, Đức, Hàn Quốc. Đến năm 2017, sau
những nỗ lực đàm phán các Hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và
quốc tế, Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh đã thông báo đã có 69 nước công nhận
Việt Nam là nền kinh tế thị trường tại một phiên họp thường trực chính phủ,
nhưng Hoa Kỳ (đối tác thương mại lớn thứ 2) thì vẫn chưa công nhận Việt Nam
là một kinh tế thị trường. Xét về mặt kinh tế, Việt Nam là quốc gia thành viên
của Liên Hiệp Quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Nhóm
Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển châu Á, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế
châu Á – Thái Bình Dương, Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái
Bình Dương, ASEAN.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
- Nghiên cứu về các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô và thực trạng tăng trưởng GDP của
Việt Nam trong giai đoạn vừa qua.
- Đưa ra những nhận xét khách quan và rút ra bài học kinh nghiệm.
1.3 Đối tượng nghiên cứu :
- Các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô
- Thực trạng tăng trưởng GDP của Việt Nam
1.4 Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
- Đề tài nghiên cứu các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô và thực trạng tăng trưởng GDP
của Việt Nam trong giai đoạn vừa qua
1.5 Phương pháp nghiên cứu đề tài
Phương pháp tiếp cận đề tài, sử dụng kiến thức , kết hợp giữa tài liệu tham
khảo trong sách và trên mạng Internet, thu thập,thống kê số liệu để làm rõ hơn
về các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô và thực trạng tăng trưởng GDP của Việt Nam.
Đồng thời vận dụng các lý luận liên quan cùng với các nhận xét, đánh giá, phân
tích để xây dựng hệ thống quan điểm , phương hướng , giải pháp phát triển.
1.6 Kết cấu của đề tài :
Ngoài phần mục lục, tài liệu tham khảo, kết cấu của đề tài nghiên cứu bao gồm
03 phần chính :
- Phần I: Mở đầu
- Phần II : Kết quả nghiên cứu và thảo luận
- Phần III : Kết luận

5
PHẦN II : KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
2.1 Các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô
2.1.1. Tổng thu nhập quốc nội – GDP
GDP là viết tắt của Gross Domestic Product (tổng sản phẩm quốc nội)
dùng để đo lường tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra
trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, trong một thời kì nhất định (thường là 1 năm)
. Đây là một chỉ số dùng để đánh giá tốc độ tăng trưởng kinh tế của một vùng
hoặc một quốc gia. Sản phẩm dịch vụ trong chỉ số này được tính dựa theo chỉ
số công dân của một quốc gia làm ra, không phân biệt ngành nghề bao gồm cả
trong và ngoài nước.
Gần đây, theo các thống kê chặt chẽ, người ta chia ra N-GDP (National
GDP) và  R-GDP (Regional GDP) để phân biệt tổng sản phẩm quốc nội của
một quốc gia và tổng sản phẩm nội địa của một vùng/ địa phương. R-GDP có
thể được tính theo khu vực (Regional) hoặc đơn vị hành chính nhỏ hơn như
tỉnh, huyện (Provincial) để tính tổng sản phẩm trong khu vực lãnh thổ này.
 Các phương pháp tính GDP
- Phương pháp chi tiêu
Theo phương pháp này, GDP được tính là tổng số tiền mà các hộ gia đình
trong quốc gia đó chi để mua các hàng hóa cuối cùng trong 1 năm.
Công thức tính là:  GDP = C + I + G + (X – M)
Trong đó:
C (Consumption) – Tiêu dùng: là những khoản chi cho tiêu dùng cá nhân
của các hộ gia đình (xây nhà và mua nhà không được tính vào C mà được tính
vào I (Đầu tư tư nhân).
I (Investment) – Đầu tư: là tổng đầu tư trong nước của tư nhân, gồm các
khoản chi tiêu của doanh nghiệp vầ trang thiết bị, nhà xưởng, xây nhà, mua
nhà của các hộ gia đình (hàng hóa tồn kho vẫn được tính vào GDP).
G (Government Purchases) – Chi tiêu của Chính phủ: là các khoản chi của
chính phủ cho quốc gia như chi cho quốc phòng, luật pháp, cơ sở hạ tầng, y tế,
giáo dục… G không bao gồm các khoản “chuyển giao thu nhập” hay còn gọi
là trợ cấp xã hội cho các đối tượng cần trợ cấp.
NX (Net Exports) – Xuất khẩu ròng = X (Giá trị xuất khẩu) – M (Giá trị nhập
khẩu)
- Phương pháp thu nhập (chi phí)
Theo phương pháp này, GDP bằng tổng thu nhập các yếu tố tiền lương,
tiền lãi, lợi nhuận và tiền thuê . Đây cũng chính là tổng chi phí sản xuất các
sản phẩm cuối cùng của xã hội.
Công thức tính: GDP = W + R + I + Pr + Ti + De
6
Trong đó:
W ( Wages ): Tiền lương
I ( Interest ): Tiền lãi
R ( Rent): Tiền thuê nhà đất
Pr : Lợi nhuận
Ti: thuế gián thu ròng
De: khấu hao tài sản cố định
Ở các nước phát triển họ không tính tổng thể GDP như trên mà họ thường tính
thu nhập quốc dân trước ( NI ), dẫu rằng cách tính nào cũng cùng đáp án.
- Phương pháp giá trị gia tăng
Giá trị gia tăng của doanh nghiệp là VA
Giá trị gia tăng của ngành là GO
Giá trị gia tăng của nền kinh tế là GDP
VA = VAi (giá trị thị trường sản phẩm đầu ra của doanh nghiệp – Giá trị đầu
vào được chuyển hết vào giá trị sản phẩm trong quá trình sản xuât.
GO = ∑ VAi (i=1,2,3,..,n) (n là số lượng doanh nghiệp trong ngành i)
GDP = ∑ GOj (j=1,2,3,..,m) (m là số ngành trong nền kinh tế)
Kết quả tính GDP sẽ là như nhau với cả ba cách trên. Ở Việt Nam GDP
được tính toán bởi Tổng cục thống kê dựa trên cơ sở các báo cáo từ các đơn
vị, tổ chức kinh tế cũng như báo cáo của các Cục thống kê tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương. Còn ở Mỹ GDP được tính toán bởi Cục phân tích kinh tế
(vt: BEA).
- GDP bình quân đầu người
GDP bình quân đầu người (GDP Per Capita) hay còn gọi là tổng sản phẩm
quốc nội bình quân đầu người. GDP bình quân đầu người là một thước đo phổ
quát trên toàn cầu để đo lường mức độ giàu có của các quốc gia. 
Trên toàn thế giới, nó được sử dụng bởi các nhà kinh tế cùng với GDP để
phân tích mức độ giàu có của một quốc gia và tăng trưởng kinh tế của nó.
GDP bình quân của đầu người tại 1 thời điểm nào đó sẽ bằng chính GDP của
quốc gia đó chia cho dân số đang sống và làm việc tại quốc gia đó (trong cùng 1
thời điểm).
- GDP danh nghĩa (Nominal) và GDP thực tế ( Real Gross Domestic
Product )
+ GDP danh nghĩa (Nominal)
GDP danh nghĩa là tổng sản phẩm nội địa tính theo giá hiện hành

7
GDP danh nghĩa là chỉ số đánh giá sản xuất kinh tế trong một nền kinh tế
bao gồm giá hiện tại trong tính toán. Nói cách khác, GDP danh nghĩa không loại
bỏ lạm phát hoặc tốc độ tăng giá, có thể làm tăng con số tăng trưởng.
Tất cả hàng hóa và dịch vụ được tính trong GDP danh nghĩa được định
giá theo giá thị trường được bán vào năm tính toán đó.
+ GDP thực tế ( Real Gross Domestic Product )
GDP thực tế là tổng sản phẩm nội địa tính theo năm nghiên cứu còn giá
được tính theo năm gốc, do đó còn gọi là GDP theo giá so sánh. GDP thực tế
được đưa ra nhằm điều chỉnh những sai lệch như sự mất giá của đồng tiền
trong công thức tính GDP danh nghĩa để ước lượng chuẩn hơn số lượng thực
sự của hàng hóa và dịch vụ tạo thành GDP.
GDP thực tế là con số thống kê kinh tế vĩ mô, đo lường giá trị của hàng
hóa và dịch vụ được sản xuất bởi một nền kinh tế trong một giai đoạn cụ thể,
được điều chỉnh theo lạm phát.
+Khác nhau:
1. GDP danh nghĩa là GDP không có tác động của lạm phát hoặc giảm phát
trong khi bạn có thể đến GDP thực, chỉ sau khi đưa ra hiệu ứng của lạm
phát hoặc giảm phát.
2. GDP danh nghĩa phản ánh GDP hiện tại theo giá hiện tại. Ngược lại, GDP
thực tế phản ánh GDP hiện tại theo giá năm trước (cơ sở).
3. Giá trị của GDP danh nghĩa lớn hơn giá trị của GDP thực tế vì trong khi
tính toán, con số lạm phát được khấu trừ khỏi tổng GDP.
4. Với sự giúp đỡ của GDP danh nghĩa, bạn có thể so sánh giữa các quý
khác nhau trong cùng một năm tài chính. Không giống như GDP thực tế,
trong đó việc so sánh các năm tài chính khác nhau có thể được thực hiện
dễ dàng bởi vì bằng cách loại bỏ con số lạm phát, việc so sánh chỉ được
thực hiện giữa các đầu ra được tạo ra.
5. GDP thực tế cho thấy bức tranh thực tế về sự tăng trưởng kinh tế của đất
nước, điều này không đúng với trường hợp GDP danh nghĩa.
2.1.2. Tổng sản lượng quốc gia – GNP
GNP (viết tắt cho Gross National Product) tức Tổng sản lượng quốc
gia hay Tổng sản phẩm quốc gia là một chỉ tiêu kinh tế đánh giá sự phát triển
kinh tế của một đất nước nó được tính là tổng giá trị bằng tiền của các sản phẩm
cuối cùng và dịch vụ mà công dân của một nước làm ra trong một khoảng thời
gian nào đó, thông thường là một năm tài chính, không kể làm ra ở đâu (trong
hay ngoài nước).
Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) là tổng thu nhập kiếm được bởi người
dân thường trực của một quốc gia (được gọi là công dân). Nó khác với GDP ở
chỗ nó bao gồm thu nhập mà người dân trong nước kiếm được ở nước ngoài và

8
trừ đi thu nhập mà người nước ngoài kiếm được ở trong nước. Ví dụ khi một
công dân Canada làm việc tạm thời ở Mỹ, giá trị sản xuất của người đó là một
phần của GDP Mỹ nhưng nó không phải là một phần của GNP Mỹ. (Nó là một
phần của GNP Canada). Đối với hầu hết các nước, trong đó có Mỹ, công dân
trong nước chịu trách nhiệm đối với hầu hết giá trị sản xuất trong nước, vì vậy
GDP và GNP có giá trị gần bằng nhau.
Tổng sản phẩm quốc dân gồm có:
- GNP danh nghĩa ( GNPn ) đo lường tổng sản phẩm quốc dân sản xuất ra
trong một thời kỳ, theo giá cả hiện hành tức là giá cả của cùng thời kỳ đó.
- GNP thực tế ( GNPr ) đo lường tổng sản phẩm quốc dân sản xuất ra
trong một thời kỳ, theo giá cố định ở một thời kỳ được lấy làm gốc.
Gọi D là chỉ số giá cả ( Chỉ số lạm phát )
D = GNPn / GNPr * 100
Sản phẩm cuối cùng là hàng hóa được tiêu thụ cuối cùng bởi những người
tiêu dùng chứ không phải là những sản phẩm được sử dụng như là sản phẩm
trung gian trong sản xuất những sản phẩm khác.
Ví dụ, một chiếc ô tô bán cho người tiêu dùng là một sản phẩm cuối cùng;
các thành phần như lốp được bán cho nhà sản xuất ô tô là sản phẩm trung gian
(a). Cũng chiếc lốp đó, nếu bán cho người tiêu dùng thì nó lại là sản phẩm cuối
cùng (b). Chỉ có sản phẩm cuối cùng mới được tính trong thu nhập quốc gia, do
việc đưa cả sản phẩm trung gian vào sẽ dẫn tới việc tính kép làm tăng ảo giá trị
thực sự của thu nhập quốc gia. Ví dụ, trong trường hợp (a) của chiếc lốp, giá trị
của nó đã được tính khi nó được nhà sản xuất lốp bán cho nhà sản xuất ô tô và
sau đó một lần nữa được tính trong giá trị chiếc ô tô khi nhà sản xuất ô tô bán
cho người tiêu dùng.
Người ta chỉ tính những sản phẩm được sản xuất mới. Việc kinh doanh
những hàng hóa đã tồn tại trước đó, chẳng hạn ô tô cũ, không được tính, do
những mặt hàng như vậy không tham gia vào việc sản xuất của các sản phẩm
mới.
Thu nhập được tính như là một phần của GNP, phụ thuộc vào ai là chủ sở
hữu các yếu tố sản xuất chứ không phải là việc sản xuất diễn ra ở đâu. Ví dụ,
một nhà máy sản xuất ô tô do chủ sở hữu là công dân Mỹ đầu tư tại Việt Nam
thì lợi nhuận sau thuế từ nhà máy sẽ được tính là một phần của GNP của Mỹ
chứ không phải của Việt Nam bởi vì vốn sử dụng trong sản xuất (nhà xưởng,
máy móc, v.v.) là thuộc sở hữu của người Mỹ. Lương của công nhân người Việt
là một phần của GNP của Việt Nam, trong khi lương của công nhân Mỹ làm
việc tại đó là một phần của GNP của Mỹ.
Công thức tính tổng sản phẩm quốc gia dưới đây dựa trên cơ sở tiếp cận từ khái
niệm chi tiêu
 C: Chi phí tiêu dùng cá nhân (hộ gia đình)
9
 I: Tổng đầu tư cá nhân quốc nội (tất cả các doanh nghiệp đầu tư trên lãnh
thổ 1 nước)
 G: Chi phí tiêu dùng của chính phủ
 X: Kim ngạch xuất khẩu các hàng hóa và dịch vụ
 M: Kim ngạch nhập khẩu của hàng hóa và dịch vụ
 NR: Thu nhập ròng từ các hàng hóa và dịch vụ đầu tư ở nước ngoài (thu
nhập ròng)
GNP = C + I + G + (X - M) + NR
2.1.3. Thu nhập quốc dân
Thu nhập quốc dân (Gross national income – GNI) là chỉ số kinh tế xác
định tổng thu nhập của một quốc gia trong một thời gian, thường là một năm.
Đây là chỉ tiêu đo thực lực của quốc gia.
Thu nhập quốc dân là tổng thu nhập kiếm được bởi công dân một quốc gia
trong quá trình sản xuất hàng hóa và dịch vụ. Khác với sản phẩn quốc dân ròng
ở chỗ nó trừ đi thuế gián thu (như là thuế doanh thu) và bao gồm trợ cấp doanh
nghiệp. NNP và thu nhập quốc dân cũng khác nhau bởi vì có một “sai số thống
kê” xuất phát từ các vấn đề trong việc thu thập dữ liệu
Thu nhập quốc dân tương tự như Tổng sản lượng quốc gia – GNP, chỉ
khác biệt ở chỗ GNP không trừ đi thuế gián thu và khấu hao. Ví dụ, lợi nhuận
của một công ty Mỹ hoạt động tại Anh sẽ được tính vào GNI của Mỹ
và GDP của Anh, không tính vào GNI của Anh hay GDP của Mỹ.
Nó bao gồm tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ tạo ra trong quốc gia (chính
là Tổng sản phẩm nội địa - GDP), cộng với thu nhập nhận được từ bên ngoài
(chủ yếu là lãi vay và cổ tức), trừ đi những khoản tương tự phải trả ra bên ngoài.
Thu nhập quốc dân bao gồm: chi tiêu dùng cá nhân, tổng đầu tư của dân
cư, chi tiêu dùng của chính phủ, thu nhập thuần từ tài sản ở nước ngoài (sau khi
trừ các thuế), và tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu và trừ đi hai khoản:
tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ nhập khẩu và thuế gián thu.
Thu nhập quốc dân ròng cũng có thể tính bằng cách lấy tổng sản phẩm
quốc dân trừ đi khấu hao và thuế gián thu.
Y = GNP - Khấu hao (Dp) - Thuế gián thu (Te)
Hay Y = NNP - thuế gián thu (Te)
Trong đó: 
+ Y là thu nhập quốc dân ròng
+ NNP là tổng sản phẩm ròng quốc gia
+ Thuế gián thu: Thông thường đây được coi là những loại thuế đánh vào
sản xuất kinh doanh hàng hóa và dịch vụ và do vậy, việc trả thuế chỉ là gián tiếp
10
(người nộp thuế không phải là người chịu thuế mà thực chất là người tiêu dùng
phải gánh chịu). 
Thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế hải quan và thuế giá trị gia tăng là các ví dụ về
thuế gián thu. Sự phân biệt giữa thuế trực thu và thuế gián thu là một sự phân
biệt truyền thống trong tài chính công cộng. 
Tuy nhiên, sự phân biệt này không phải là một sự phân biệt hoàn toàn chặt
chẽ, đồng thời cũng không phải là đặc biệt bổ ích theo quan điểm phân tích. 
Có một số ví dụ về thuế mà sự phân loại là không dễ dàng và sự phân biệt
giữa chúng không phải là rất có ích theo quan điểm phân tích phạm vi ảnh
hưởng.
+ Thuế thu nhập doanh nghiệp là loại thuế trực thu đánh vào phần thu
nhập sau khi trừ các chi phí liên quan đến thu nhập của cơ sở sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ. Thuế trực thu chủ yếu là các loại thuế đánh vào thu nhập do lao
động; thu nhập do thừa kế tài sản của cha ông để lại, các loại đóng góp của cá
nhân như bảo hiểm xã hội, lệ phí giao thông,...
2.1.4. Thu nhập quốc dân có thể sử dụng
Thu nhập khả dụng là phần thu nhập quốc dân còn lại sau khi các hộ gia
đình nộp lại các loại thuế trực thu và nhận được các trợ cấp của Chính phủ hoặc
doanh nghiệp. Tuy thu nhập quốc dân là chỉ tiêu phản ánh thu nhập từ tất cả các
yếu tố của nền kinh tế, do vậy đã phản ánh mức sống của dân cư. Nhưng để dự
đoán khả năng tiêu và tích lũy của dân cư, Nhà nước phải dựa vào các chỉ tiêu
trực tiếp hơn, tác động đến tiêu dùng và tích lũy. Đó là thu nhập có thể sử dụng.
Thu nhập của các hộ gia đình kinh doanh cá thể hay chung vốn cũng là
một dạng thuế trực thu và phải trừ ra từ thu nhập quốc dân.
Tương tự các loại thuế lợi tức đánh vào các công ty cổ phần (công ty do
nhiều người sở hữu) và phần lợi nhuận không chia của các công ty để lại để tích
lũy tái sản xuất mở rộng, cũng không nằm trong thành phần của thu nhập có thể
sử dụng (Yd).
Toàn bộ thu nhập có thể sử dụng (Yd) chỉ bao gồm thu nhập mà các hộ
gia đình có thể tiêu dùng (C), và để dành hay tiết kiệm (S).
Ta có: Yd = C + S
2.1.5. Các đồng nhất thức kinh tế vĩ mô cơ bản
Mặc dù các chỉ tiêu thu nhập khác nhau về chi tiết, nhưng chúng đều chủ
yếu nói về câu chuyện điều kiện kinh tế. Khi GDP tăng trưởng nhanh, các chỉ
tiêu thu nhập khác cũng thường tăng nhanh. Và khi GDP giảm, các chỉ tiêu thu
nhập khác cũng thường giảm theo như vậy. Để theo dõi những biến động trong
tổng thể nền kinh tế, việc chúng ta sử dụng các chỉ tiêu thu nhập nào không phải
là vấn đề lớn.
 Tổng sản phẩm trong nước (GDP)
11
GDP = C + I + G + X – M
 Tổng thu nhập quốc dân (GNP hay GNI)
GNI = GDP + NFP
 Tổng thu nhập khả dụng quốc gia (GNDI)
GNDI = GNI + NTR
Ta có: GNDI = GDP +NFP + NTR

 Tổng chi tiêu trong nước (Domestic Absorption)


AD = C + I + G
(A - Hay còn gọi là AD), giống như nền kinh tế đóng không có ngoại thương.

2.2 Thực trạng tăng trưởng GPD của Việt Nam


Việt Nam có nhiều thành phần kinh tế. Theo cách xác định hiện nay của
chính phủ, Việt Nam có các thành phần kinh tế sau: kinh tế nhà nước, kinh tế tập
thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước,
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Một trong những biện pháp mà Đảng và
Chính phủ Việt Nam thực hiện để khu vực kinh tế nhà nước trở thành chủ đạo
của nền kinh tế là thành lập các tập đoàn kinh tế nhà nước và tổng cổng ty nhà
nước. Tuy nhiên, từ đầu thập niên 1990 cho đến nay, Việt Nam đã liên tục thực
hiện cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước. Mặc dù Đảng và Nhà nước chủ
trương ưu tiên phát triển các thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể,
song tốc độ tăng trưởng của hai thành phần này lại thấp hơn so với của kinh tế tư
nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.Theo số liệu sơ bộ của Tổng cục
Thống kê, năm 2007, khu vực kinh tế nhà nước là khu vực lớn nhất, chiếm
36,43% GDP thực tế của Việt Nam, tiếp theo lần lượt là kinh tế cá thể
(29,61 %), kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (17,66 %), kinh tế tư nhân
(10,11 %).
Báo cáo của Chính phủ do Thủ tướng trình bày tại kỳ họp thứ 10, Quốc
hội khóa XIII cũng đã nêu rõ 9 nhóm vấn đề còn hạn chế yếu kém, trong đó về
kinh tế đang tồn tại các vấn đề đáng lưu ý như : Kinh tế vĩ mô ổn định chưa
vững chắc; cân đối ngân sách Nhà nước còn khó khăn, bội chi còn cao; nợ công
tăng nhanh, áp lực trả nợ lớn; chất lượng tín dụng chưa cao, xử lý nợ xấu và cơ
cấu lại các ngân hàng thương mại cổ phần yếu kém còn khó khăn; huy động
nguồn lực đầu tư ngoài nhà nước còn hạn chế; tái cơ cấu kinh tế gắn với đổi mới
mô hình tăng trưởng còn chậm…
Trong kế hoạch 5 năm 2011-2015 nhiều chỉ tiêu về kinh tế không đạt
được như: Tốc độ tăng  GDP (bình quân 5,9%/ năm so với mục tiêu từ 6,5-
7%/năm); tổng đầu tư xã hội/GDP, đặc biệt các chỉ tiêu liên quan đến chất lượng
tăng trưởng đều chậm được cải thiện.
12
Tuy từ giữa năm 2013 nền kinh tế Việt Nam đã bắt đầu phục hồi, nhưng
tổng cầu của nền kinh tế tăng chậm. Việc giảm giá lương thực thực phẩm trên
thị trường thế giới trong những năm gần đây cùng với sự chậm tái cơ cấu nền
sản xuất nông nghiệp đã đưa nền sản xuất nông nghiệp nước ta đứng trước viễn
cảnh rất khó khăn, tốc độ tăng trưởng chậm lại và sẽ khó khăn hơn khi mở cửa
thị trường nội địa.
Hệ thống ngân hàng thương mại đang trong giai đoạn tái cơ cấu phải đảm
nhận phần lớn nguồn vốn ngắn hạn lẫn trung - dài hạn cho nền kinh tế nên vẫn
đang gặp khó khăn. Trong 5 năm qua kênh đầu tư công đã có tác động đáng kể
đến sự tăng tổng cầu, kích thích tăng trưởng, nhưng trong những năm tới phải
cắt giảm nợ công, giảm lượng trái phiếu Chính phủ phát hành nên dư địa của
chính sách tài khóa kích thích tổng cầu sẽ không còn nhiều. Bộ máy hành chính
cồng kềnh, nhiều tầng nấc, kém hiệu quả chưa có giải pháp để tinh gọn, mà còn
có khả năng tăng thêm trong các năm tới, khi triển khai các luật mới về tổ chức
bộ máy Nhà nước.
Trong 5 năm qua các chính sách và giải pháp Chính phủ thực thi đều kiên
trì với 3 mục tiêu ưu tiên đề ra từ năm 2011: Kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế
vĩ mô; tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, hỗ trợ thị trường để có tốc độ tăng
trưởng kinh tế hợp lý và bảo đảm an sinh xã hội. Bên cạnh đó đã thực hiện thành
công bước đầu tái cơ cấu 3 lĩnh vực ưu tiên: Đầu tư công, hệ thống ngân hàng
thương mại và các tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Tức là vừa ứng phó các vấn
đề ngắn hạn vừa giải quyết các vấn đề trung, dài hạn đang đặt ra tương đối đồng
bộ.
Tuy còn nhiều khó khăn và thách thức trước mắt, nhưng rõ ràng bức tranh
kinh tế Việt Nam bước vào năm 2016 có nhiều tín hiệu tích cực và lạc quan hơn
thời kỳ chuyển tiếp từ 2010 sang 2011.
Nếu so với tình hình kinh tế-xã hội 5 năm trước, thì năm 2015 bức tranh
kinh tế của nước ta diễn biến khá tích cực, mở ra nhiều cơ hội phát triển bền
vững trong những năm tới. Các chỉ báo về kinh tế vĩ mô như  tăng trưởng, kiểm
soát lạm phát, tỷ giá, thanh khoản của ngân hàng thương mại; xuất-nhập khẩu…
tiếp tục được cải thiện so với các năm trước.
Nhìn chung trong 5 năm qua sự hoàn thiện hệ thống pháp luật mang tính
hệ thống và liên quan đến hầu hết lĩnh vực của đời sống xã hội. Sự đổi mới hệ
thống pháp luật trong lĩnh vực kinh tế đều hướng đến 2 mục tiêu: Cải thiện môi
trường đầu tư kinh doanh trong nước và hội nhập với khu vực và thế giới.
Từ năm 2014, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 19 và nâng cấp Nghị
quyết này trong năm 2015 trong nỗ lực cải cách hành chính công, với mục tiêu
giảm thời gian khai thuế, thủ tục hải quan và thông quan hàng hóa ở các cửa
khẩu đạt trình độ các nước ASEAN - 6 và tiến tới ASEAN-4.
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt kết quả ấn tượng, với tốc độ tăng
7,02%; kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa vượt mốc 500 tỉ USD; CPI bình

13
quân năm 2019 tăng 2,79% so với bình quân năm 2018… là những con số ấn
tượng, làm nên bức tranh kinh tế đầy màu sắc trong năm 2019.
Theo các số liệu mà Tổng Cục trưởng Tổng cục Thống kê Nguyễn Bích
Lâm công bố trong buổi họp báo công bố về tình hình kinh tế - xã hội năm 2019
cho thấy kinh tế Việt Nam đã đạt được những con số hết sức ấn tượng trong năm
vừa qua. GDP năm 2019 tăng trên 7%. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt
kết quả ấn tượng, với tốc độ tăng 7,02%, vượt mục tiêu của Quốc hội đề ra từ
6,6-6,8%. 

Biểu đồ so sánh tăng  trưởng GDP của Việt Nam trong 10 năm gần đây.
Cơ cấu kinh tế năm 2019 cũng có những chuyển biến tích cực với tỉ trọng
khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm xuống 13,96% GDP, so với mức
14,68% của năm 2018. Tỉ trọng khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm
34,49%; khu vực dịch vụ chiếm 41,64% và thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm
chiếm 9,91%.
Tuy là mức tăng thấp nhất của các năm trong giai đoạn 2011 - 2020,
nhưng trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, ảnh hưởng tiêu cực tới
mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội, thì đây là thành công lớn của Việt Nam. Mức tăng
trưởng GDP năm 2020 của Việt Nam thuộc nhóm cao nhất thế giới.
Trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và
thủy sản tăng 2,68%, đóng góp 13,5% vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của
toàn nền kinh tế; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 3,98%, đóng góp 53%;
khu vực dịch vụ tăng 2,34%, đóng góp 33,5%.

Tuy nhiên, các chỉ số quan trọng về kinh tế của Việt Nam hiện vẫn ở mức
thấp so với khu vực và thế giới. GDP bình quân đầu người thấp hơn 4 lần so với
14
GDP bình quân đầu người chung của thế giới. Năng suất lao động, chỉ số sáng
tạo của nền kinh tế, chỉ số tự do kinh tế, chỉ số hấp thụ FDI thấp hơn nhiều các
nước khu vực. Tỷ lệ lao động nam và nữ chưa qua đào tạo của Việt Nam ở mức
khoảng 80%. Trình độ công nghệ của Việt Nam lạc hậu 2-3 thế hệ so với thế
giới và vài chục năm so với khu vực, đa số doanh nghiệp đang sở hữu công nghệ
rất lạc hậu và máy móc hết khấu hao. Tỷ trọng đóng góp của doanh nghiệp tư
nhân trong GDP còn ở mức thấp, trong khi tỷ lệ tham nhũng ở mức cao. Trong
30 năm, Việt Nam thành công trong việc xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức
sống của người dân nhưng thất bại trong mục tiêu công nghiệp hóa vào năm
2020 như Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra khi bắt đầu Đổi mới. Đảng Cộng sản
Việt Nam tiếp tục đặt mục tiêu hoàn thành công nghiệp hóa, hiện đại hóa Việt
Nam vào năm 2030.
* Các chỉ số quan trọng về kinh tế của Việt Nam còn ở mức thấp và tụt hậu
so với khu vực và thế giới:
- GDP bình quân đầu người của Việt Nam năm 2018 là 2.540 USD, thấp
hơn 4.5 lần so với mức GDP bình quân đầu người chung của thế giới (11.370
USD); trong khu vực ASEAN thì thấp hơn Lào (2.690 USD), Indonesia: (3.790
USD), Philippines: (3.100 USD) và thấp hơn 4 lần so với Malaysia (10.700
USD) và gần 3 lần so với Thái Lan (7.080 USD). Năm 2019, sau khi tính toán
lại, GDP đầu người của Việt Nam là 2.985 USD vào năm 2017 và khoảng 3.200
USD vào năm 2018, cao hơn Lào và Philippines, nhưng vẫn thấp hơn 20% so
với Indonesia, chỉ bằng 30% so với Malaysia và 46% so với Thái Lan.
- Năng suất lao động tính theo GDP đầu người của Việt Nam chỉ bằng 7%
của Singapore, 17,6% của Malaysia, 36,5% của Thái Lan, 42,3% của Indonesia,
56,7% của Philippines, 87,4% của Lào và chênh lệch vẫn tiếp tục gia tăng [113],
tới tháng 8/2019 năng suất của Myanmar cũng vượt Việt Nam. Năng suất lao
động Việt Nam chỉ còn cao hơn Campuchia về chỉ số bình quân chung nhưng
lại thấp hơn ở các ngành chủ chốt dẫn dắt nền kinh tế là công nghiệp chế biến
chế tạo, xây dựng và vận tải, kho bãi, truyền thông.Cũng có ngành công nghiệp
năng suất lao động cao là khai khoáng. Nguyên nhân của tình trạng năng suất
thấp không hẳn là do lao động Việt Nam mà là do cách tính: lao động phi chính
thức của Việt Nam chiếm tỷ lệ rất lớn (chỉ làm 1-2 giờ/tuần vẫn được tính là có
việc làm) nên chỉ số năng suất bình quân bị giảm, thứ 3 là quy mô nền kinh tế
chưa được quan sát của Việt Nam khá lớn (khoảng 25% GDP) nhưng chưa được
tính vào số liệu chính thức.
- Trình độ công nghệ của Việt Nam lạc hậu 2-3 thế hệ so với thế giới và
mấy chục năm so với khu vực. Tỷ lệ doanh nghiệp trong nước đang sử dụng
thiết bị lạc hậu và rất lạc hậu là 52%, ở khu vực sản xuất nhỏ chiếm tới 70%;
76% thiết bị máy móc công nghệ thuộc thế hệ 1960-1970, 75% số thiết bị đã hết
khấu hao và 50% thiết bị là đồ tân trang.
- Khu vực doanh nghiệp tư nhân chỉ đóng góp 10% GDP sau hơn 30 năm
đổi mới chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ (95-96%) trong khi doanh

15
nghiệp vừa và lớn chỉ chiếm rất ít (khoảng 1.7% và 2%), không có doanh
nghiệp nào của Việt Nam là công ty đa quốc gia; hộ gia đình đóng góp 30%
GDP.
- Một nghiên cứu với sự tham gia của gần 500 doanh nhân Việt Nam
(gồm 82,7% lãnh đạo cấp cao, 9,9% quản lý cấp trung và khác 7,4%) cho kết
quả tỉ lệ nhận thức, hiểu biết về hội nhập và các hiệp định thương mại của doanh
nghiệp Việt Nam thua cả Lào, Campuchia và Myanmar. Có khoảng 76% doanh
nghiệp Việt Nam được hỏi không biết đến Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC),
so với 26% ở Campuchia, 28% ở Lào và 36% ở Myanmar. 85,5% doanh nghiệp
được khảo sát không nắm được những điều khoản cụ thể của AEC, của TPP là
77,8% và của WTO là 66,3%.
- Năng lực hấp thụ công nghệ, khả năng kết nối giữa thành phần kinh tế
FDI với các doanh nghiệp trong nước, hệ số chuyển giao công nghệ giữa doanh
nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước của Việt Nam thấp hơn cả Lào và
Campuchia.
- Tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo ở Việt Nam rất cao, chiếm tới 76% lao
động nam và 81,6% lao động nữ.
2.3 Nhận xét
Trong vòng 30 năm qua, việc cung cấp các dịch vụ cơ bản có nhiều thay
đổi tích cực. Khả năng người dân tiếp cận hạ tầng cơ sở được cải thiện đáng kể.
Tính đến năm 2016, 99% dân số sử dụng điện chiếu sáng, so với tỉ lệ 14% năm
1993. Tỉ lệ tiếp cận nước sạch nông thôn cũng được cải thiện, từ 17% năm 1993
lên 70% năm 2016, trong khi tỉ lệ ở thành thị là trên 95%. Tuy nhiên, trong
những năm gần đây, đầu tư cơ sở vật chất tính theo phần trăm GDP của Việt
Nam nằm trong nhóm thấp nhất trong khu vực ASEAN. Điều này tạo ra những
thách thức đối với sự phát triển liên tục của các dịch vụ cơ sở hạ tầng hiện đại
cần thiết cho giai đoạn tăng trưởng tiếp theo (Việt Nam xếp thứ 89 trong số 137
quốc gia về chất lượng cơ sở hạ tầng).
Sự phát triển của Viê ̣t Nam trong hơn 30 năm qua rất đáng ghi nhâ ̣n. Đổi
mới kinh tế và chính trị từ năm 1986 đã thúc đẩy phát triển kinh tế, nhanh chóng
đưa Việt Nam từ một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới trở thành
quốc gia thu nhập trung bình thấp. Từ 2002 đến 2018, GDP đầu người tăng 2,7
lần, đạt trên 2.700 USD năm 2019, với hơn 45 triệu người thoát nghèo. Tỉ lệ
nghèo giảm mạnh từ hơn 70% xuống còn dưới 6% (3,2 USD/ngày theo sức mua
ngang giá). Đại bộ phận người nghèo còn lại ở Việt Nam là dân tộc thiểu số,
chiếm 86%.
Do hội nhập kinh tế sâu rộng, nền kinh tế Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng
nề bởi đại dịch COVID-19, nhưng cũng thể hiện sức chống chịu đáng kể.  Tăng
trưởng GDP ước đạt 2,9% năm 2020. Việt Nam là một trong số ít quốc gia trên
thế giới tăng trưởng kinh tế dương, nhưng đại dịch đã để lại những tác động dài
hạn đối với các hộ gia đình - thu nhập của khoảng 45% hộ gia đình được khảo
sát giảm trong tháng 1 năm 2021 so với tháng 1 năm 2020. Nền kinh tế được dự
16
báo sẽ tăng trưởng 6,6% năm 2021 nếu Việt Nam kiểm soát tốt sự lây lan của vi-
rút đồng thời các ngành sản xuất hướng xuất khẩu hoạt động tốt và nhu cầu nội
địa phục hồi mạnh mẽ. 

17
PHẦN III : KẾT LUẬN
Hơn hai muơi năm trước khi Việt Nam bắt đầu mở cửa, các nhà kinh tế
của Đại học Harvard Mỹ cùng nhau phác thảo một con đường phát triển “Theo
Hướng Rồng Bay” cho nền kinh tế khiến thế giới tin tưởng rằng giấc mơ hóa
rồng của Việt Nam sẽ sớm trở thành hiện thực. Từ một nước nghèo chúng ta đã
thành công trong việc chuyển lên thành một quốc gia có tăng trưởng kinh tế
thuộc loại nhanh nhất Châu Á. Song song với tốc độ tăng trưởng ấn tượng, mức
GDP bình quân theo đầu người cũng tăng vọt từ không đầy 100 đô la vào năm
1990 lên đến khoảng 1.200 đô la vào năm 2010 giúp Việt Nam đã mở được cánh
cửa bước vào hàng ngũ các nước có thu nhập trung bình. Có thể nói chúng ta đã
đạt được nhiều thành tựu lớn nhưng chưa đủ để biến giấc mơ hoá rồng trở thành
hiện thực, tuy nhiên trong bối cảnh kinh tế nước ta ngày càng hội nhập sâu rộng
vào kinh tế thế giới, tiềm lực phát triển của chúng ta cũng hơn hai muơi năm
trước ,chúng ta có quyền hy vọng trở thành một quốc gia công nghiệp vào năm
2020.
Vấn đề đặt ra là Việt Nam theo đuổi chính sách đa mục tiêu, vừa muốn
duy trì tốc độ tăng trưởng cao vừa cố giữ tỷ giá cố định và mức lạm phát vừa
phải. Đây là bài toán vô cùng nan giải và chỉ có thể đạt được hai trong ba mục
tiêu. Thực tế, từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 chúng ta bị đặt
trong tình thế giằng co giữa kềm chế lạm phát và sử dụng các gói hỗ trợ nhẳm
kích thích nền kinh tế phát triển. Đầu năm 2011 Chính phủ đã thông qua nghị
quyết về bảy nhóm giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát, điều này cho thấy kiềm
chế lạm phát chứ không phải là tăng truởng sẽ trở thành nhiệm vụ trọng tâm,
hàng đầu hiện nay.
Việt Nam đang chứng kiến thay đổi nhanh về cơ cấu dân số và xã hội.
Dân số Việt Nam đã lên đến 96,5 triệu vào năm 2019 (từ khoảng 60 triệu năm
1986) và dự kiến sẽ tăng lên 120 triệu dân tới năm 2050. Theo kết quả Tổng
điều tra dân số Viê ̣t Nam năm 2019, 55,5% dân số có độ tuổi dưới 35, với tuổi
thọ trung bình gần 76 tuổi, cao hơn những nước có thu nhâ ̣p tương đương trong
khu vực. Nhưng dân số đang bị già hóa nhanh. Tầng lớp trung lưu đang hình
thành – hiện chiếm 13% dân số và dự kiến sẽ lên đến 26% vào năm 2026.
Tăng trưởng và công nghiệp hóa nhanh của Việt Nam đã để lại nhiều tác
động tiêu cực đối với môi trường và tài nguyên thiên nhiên. Tổng mức tiêu thụ
điê ̣n tăng gấp ba lần trong vòng mười năm qua, nhanh hơn mức tăng sản lượng
điện. Với sự phụ thuộc ngày càng tăng vào nhiên liệu hóa thạch, ngành năng
lượng phát thải gần hai phần ba tổng phát thải khí nhà kính của cả nước. Nhu
cầu cấp thiết là phải đẩy nhanh quá trình chuyển đổi năng lượng sạch. Trong hai
thập kỷ qua, Việt Nam đã nổi lên là quốc gia phát thải khí nhà kính bình quân
đầu người tăng trưởng nhanh nhất trên thế giới – với mức tăng khoảng 5% mỗi
năm. Nhu cầu sử dụng nước ngày một tăng cao, trong khi năng suất nước vẫn
còn ở mức thấp, chỉ đạt 12% so với chuẩn thể giới. Tình trạng khai thác thiếu
bền vững tài nguyên thiên nhiên như cát, thủy sản và gỗ có thể ảnh hưởng tiêu

18
cực đến triển vọng tăng trưởng dài hạn. Bên cạnh đó, đại đa số người dân và nền
kinh tế Việt Nam đều dễ bị tổn thương trước tác đô ̣ng của biến đổi khí hậu.
Đô thị hóa, tăng trưởng kinh tế và dân số tăng nhanh đang đặt ra những
thách thức ngày càng lớn về quản lý chất thải và xử lý ô nhiễm. Lượng rác thải
của Việt Nam dự báo tăng gấp đôi trong vòng chưa đầy 15 năm tới. Bên cạnh đó
là vấn đề rác thải nhựa đại dương. Theo ước tính, 90% rác thải nhựa đại dương
toàn cầu được thải ra từ 10 con sông, trong đó có sông Mê Kông. Việt Nam
cũng là một trong mười quốc gia trên thế giới bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi ô
nhiễm không khí. Ô nhiễm nguồn nước đang gây ra những hậu quả nghiêm
trọng đối với năng suất của các ngành quan trọng và với sức khỏe của người
dân.
Chính phủ đang nỗ lực giảm thiểu tác động của tăng trưởng lên môi
trường và thích ứng với biến đổi khí hậu một cách hiệu quả. Nhiều chiến lược và
kế hoạch để thúc đẩy tăng trưởng xanh và sử dụng bền vững tài nguyên thiên
nhiên đang được thực thi.

19
PHẦN TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ GD-ĐT, Kinh tế học vĩ mô (giáo trình dùng cho các trường đại học,
cao đẳng khối kinh tế), NXB GDVN. HN 2009
2. Môi trường kinh doanh 2010: Kỳ vọng mới, báo Thông tin thương mại
3. Giáo trình kinh tế Vĩ Mô
4. https://toc.123docz.net/document/248500-cac-chi-tieu-kinh-te-vi-mo-co-
ban.htm
5. https://laodong.vn/kinh-te/nhung-con-so-an-tuong-ve-kinh-te-viet-nam-
nam-2019-775126.ldo
6. https://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/tang-truong-gdp-trong-10-
nam-qua-cua-viet-nam-318959.html
7. https://vi.gadget-info.com/difference-between-nominal-gdp

20

You might also like