You are on page 1of 12

I.

HAI ĐỨA TRẺ - THẠCH LAM


A. Lời bình:

1. Lời bình của Nguyễn Tuân: Thạch Lam và truyện ngắn Thạch Lam.
- Lời văn Thạch Lam nhiều hình ảnh, nhiều tìm tòi, có một cách điệu thanh thản, bình dị và
sâu sắc. Dưới cái hình thức không những thoát khỏi khuôn sáo cũ của cách hành văn
đương thời mà lại có rất nhiều đức tính sáng tạo ấy, văn Thạch Lam đọng nhiều suy
nghiệm, nó là cái kết tinh của một tâm hồn nhạy cảm và từng trải về sự đời. Thạch Lam có
những nhận xét tinh tế về cuộc sống hàng ngày.
- “Xúc cảm của Thạch lam thường bắt nguồn và nảy nở lên từ những chân cảm đối với tầng
lớp dân nghèo thành thị và thôn quê. Thạch Lam là nhà văn quý mến cuộc sống, trang trọng
trước cuộc sống của mọi người chung quanh. Ngày nay đọc lại Thạch lam, vẫn thấy đầy đủ
cáo dư vị và cái nhã thú của những tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học."
- Có những truyện ngắn Thạch Lam, ở cái thời bấy giờ, đọc xong thấy nó đọng lại trong
người ta như một câu hỏi bức thiết của tác giả, như là một lời trách móc kín đáo của nhân
vật truyện.
- Truyện Hai đứa trẻ có một hương vị thật man mác. Nó gợi lên một nỗi niềm thuộc về quá
vãng, đồng thời cũng gióng lên một cái gì ở trong tương lai.
- Nơi cái thế giới quan của đôi trẻ ở một phố quê, hình ảnh đoàn tàu và cái tiếng còi tàu đã
thành một thói quen của cảm xúc và của ước vọng.

2. Lời bình của Tân Chi: Chủ nghĩa hiện thực trong tác phẩm của Thạch Lam.
- Thạch Lam mô tả những nét hiện thực của cuộc đời lại xuất phát từ lòng thương xót con
người nghèo khổ hơn là từ lòng căm ghét bọn thống trị.
- Nét hiện thực rõ nhất trong tác phẩm Thạch Lam là đời sống của những người dân nghèo
thành thị và nông thôn, là những dằn vặt đấu tranh và đời sống tình cảm rất phong phú
nhưng cũng vô cùng phức tạp của những con người tiểu tư sản.
- Cảm hứng chủ đạo trong sáng tác của Thạch Lam là biểu hiện tấm lòng nhân đạo trước
những mảnh đời đau xót.

3. Lời bình của Lê Quang Hưng: Thế giới nhân vật trong sáng tác Thạch Lam.
- Thế giới nhân vật của Thạch Lam phần lớn là những con người ở địa vị thấp bé, có cuộc
sống nghèo khổ, vất vả, thường ở trong nhịp sống đơn điệu, nhàm tẻ.
- Phải có tấm lòng yêu thương, trân trọng con người đến mức nào, phải là nhà văn tinh tế,
biết sống với tâm trạng, cảm giác nhân vật sâu sắc chừng nào mới viết được những trang
văn như thế.

4. Lời bình của Hà Văn Đức: Ngôn ngữ và giọng điệu trong truyện ngắn Thạch Lam.
- Trái tim Thạch Lam đã không biết bao lần đã thổn thức trước những thân phận nhỏ bé,
khổ
đau ở cõi đời này.
- Xuất hiện trên văn đàn cùng thời với rất nhiều nhà văn khác, Thạch Lam mang một dấu
ấn rất riêng. Không trào lộng như Vũ Trọng Phụng, không hài hước như Nguyễn Công
Hoan, không triết lý như Nam Cao. Thạch Lam nhẹ nhàng và tinh tế.
- Mỗi truyện ngắn của ông như một bài thơ về những cuộc đời, những thân phận nhỏ bé, côi
cút và bất hạnh, gợi sự thương cảm, xót xa sâu sắc của tình người.
- Giản dị mà sâu sắc chứa chan tình nhân ái, Thạch Lam hướng người đọc tới sự thanh cao
của cái đẹp, cái thiện. Ông luôn đi sâu vào khám phá đời sống tâm linh của nhân vật bằng
một ngòi bút rất tinh tế, rất hiểu sự đời - đó là những vẻ đẹp lẩn khuất bên trong tâm hồn
con người: tình thương, sự cảm thông, lòng vị tha giữa người với người, giữa người với
vật..
- Truyện ngắn Thạch Lam với những lời văn nhẹ nhàng và kín đáo, như những khúc tâm
tình giúp người ta sáng suốt để lựa chọn cho mình lối đi đẹp nhất cho cuộc đời.
- Thuở sinh thời, Thạch Lam luôn tâm niệm: “Văn chương không phải là một cách đem đến
cho người đọc sự thoát ly hay sự quên..., văn chương là một thứ khí lớn thanh cao và đắc
lực làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn.”
- Văn Thạch Lam nhẹ nhàng, thủ thỉ nhưng có sức ám ảnh lớn. Là lối truyện tâm tình, không
có cốt truyện, toàn truyện không hề có hành động phát triển xung đột mà chỉ toát lên một
tâm trạng, một không khí nhưng lại rất thực, rất đời.
- Thạch Lam là vậy đó, luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu lòng mình để hiểu về người
khác. Ông đã đặt mình vào vị trí nhân vật để nói lên cảm nghĩ về số phận những kiếp người
nhỏ bé trong xã hội và để từ đó toát lên sự cảm thông sâu sắc với những cảnh đời nghiệt
ngã, khổ đau.
- Thạch Lam đã từng nói: “ Nhà văn cốt nhất định phải đi sâu vào tâm hồn mình, tìm thấy
những tính tình và cảm giác thành thực; tức tìm thấy tâm hồn của mọi người qua tâm hồn
của chính mình, đi đến chỗ bất tử mà không tự biết và qua tâm hồn ta, chúng ta có thể đoán
biết được tâm hồn mọi người. Và chỉ khi nào chúng ta hiểu biết được những trạng thái tâm
lý người ngoài.”
- Song trong cái lãng mạn của Thạch Lam có vẻ tươi sáng của ngày mai tốt đẹp hơn ngày
hôm nay, nó thức tỉnh sâu trong sâu thẳm con người một chút mơ mộng, một niềm vui sống.
- Giọng văn Thạch Lam có sức lôi cuốn kỳ diệu là vì vậy. Càng đọc lại càng say, càng đọc
càng bị cuốn hút. Nó kiểu “ lạt mềm buộc chặt”, càng đi sâu vào người đọc càng không thể
dứt ra.
- Bằng giọng văn nhẹ nhàng, thủ chỉ, Thạch Lam đã đánh thức miền ký ức của mỗi người,
đánh thức những xúc cảm thầm kín nhất, sâu xa nhất về những kỷ niệm yêu dấu đã qua
trong tâm hồn mỗi người.
- Thạch Lam lặng lẽ âm thầm phản ánh đời sống hết sức khốn khó của con người đối với
cái nhìn đôn hậu và đầy thương cảm.
- Ông đã tạo ra những trang văn đẹp, giản dị nhưng vô cùng nhân đạo. Những con người
dù bị chà đạp vẫn cố gắng vươn tới vẻ đẹp thanh cao, những con người dù khốn khó vẫn tự
đấu tranh để vươn tới cái đẹp trong cuộc sống.
- Và giọng điệu buồn trầm gợi niềm xót xa thương cảm về số phận bấp bênh của con người
dưới xã hội cũ là nét đặc trưng của phong cách truyện ngắn Thạch Lam. Một nỗi buồn man
mác nhè nhẹ phủ lên và thấm vào đời sống của các nhân vật, nỗi buồn xa xôi, nỗi buồn mơ
hồ.
- Thạch Lam đã từng quan niệm: “Cái thực tài của nhà văn, nguồn gốc chính là ở tâm hồn
nhà văn, một nghệ sĩ phải có một tâm hồn phong phú, những tình cảm dồi dào. Nếu không,
nghệ sĩ đó chỉ là thợ văn khéo thôi.”

5. Lời bình của Nguyễn Phượng: Dấu ấn của chủ nghĩa hiện đại trong truyện ngắn
“Hai đứa trẻ”.
- Ông hướng ngòi bút về phía những người lao động bần cùng sống trong những làng quê
bùn lầy nước đọng, những người dân nghèo thành thị lay lắt chốn phồn hoa, những kiếp
người kiếm sống bằng những nghề vất vả, tủi cực trong những khu hành lạc lắm bùn nhơ
hay khu ngoại ô nghèo khổ, buồn và vắng.
- Sáng tác của Thạch Lam không tập trung vào việc tạo dựng cốt truyện do đó thường ít sự
kiện, biến cố và hành động nhưng vẫn đầy hấp dẫn bởi thiên hướng đi vào thế giới nội tâm
nhân vật qua việc ghi lại những cảm giác mơ hồ, mong manh và thể hiện bằng một lối viết
nhẹ nhàng, kín đáo, tế nhị.
- Liên ngắm cảnh phố huyện vào đêm như thể trong vô thức cô muốn xóa đi cái tâm trạng
buồn xâm chiếm tâm hồn mình lúc hoàng hôn về.

6. Lời bình của Phan Cự Đệ: Hai đứa trẻ.


- Thời gian như một cái bình lọc kỳ diệu, nó chỉ để lại trong tâm hồn đa cảm và tinh tế của
Thạch Lam những chi tiết điển hình, những cảm giác sâu lắng, những ấn tượng không thể
phai mờ.
- Câu chuyện của Thạch Lam để lại trong tâm hồn ta những dư vị đằm thắm của quê hương
và một sự cảm thương man mác những cuộc đời thầm lặng như những chấm sáng lù mù bị
nhòe đi trong bóng tối dày đặc của một vùng quê tù đọng.

7. Lời bình của Lê Tâm Chính: Thế giới trẻ thơ qua đôi mắt Thạch Lam.
- Các nhân vật trẻ thơ của Thạch Lam có những khuôn mặt riêng: đẹp nhưng buồn.
- Biệt tài của Thạch Lam là ở đó - dựng truyện từ những chi tiết tưởng như khó thành
truyện.
- Thì ra, cái gánh nặng về cơm áo đâu chỉ đè nặng lên vai người lớn, nó còn len vào tuổi thơ
của những đứa trẻ vốn sinh ra không được biết đến tuổi thơ.
- Nhưng người đọc nhận thấy: đã có biết bao buổi chiều như thế! Sự gặm nhấm của nhịp
điệu này đã nhấn chìm biết bao ước vọng của con người.
- Thiết nghĩ sự xót xa thực sự của thiên truyện này là ở chỗ: những đứa trẻ ngây thơ kia,
làm sao lại phải quen và chịu đựng nỗi buồn sớm đến thế? Nỗi buồn chán ở người lớn
khiến ta động lòng trắc ẩn. Vậy nên, với trẻ thơ khi những gánh nặng buồn chán dồn lên vai
chúng quá sớm, ai lại chẳng nhói lòng?
- Nếu nói truyện của Thạch Lam là thứ truyện giàu chất thơ, thì chi tiết đợi tàu của hai đứa
trẻ chính là điểm đỉnh của chất thơ ấy trong hồn người.
- Nhưng dư âm của khát vọng thì còn vang vọng mãi bởi nó là yếu tố cơ bản để “ Gióng lên
cái gì đó còn ở trong tương lai” như Nguyễn Tuân nhận xét. Trong bóng tối này, có một thứ
ánh sáng lạ. Đó không phải là ánh sáng của đoàn tàu mà chính là ánh sáng được đốt lên từ
khát vọng da diết của những đứa trẻ.
- Văn Thạch Lam rõ ràng là thứ văn của sự quan sát bên trong: nhìn thấy bản chất của sự
vật và miêu tả nó trong chiều sâu tâm lý.
- Văn Thạch Lam giản dị, tự nhiên, nhưng rất giàu sức gợi.
- Nhưng chắc chắn Thạch Lam đã thành công trong “ hành trình phát hiện những bí mật của
tâm hồn thơ trẻ”, trong việc khắc chạm vẻ đẹp và thân phận của chúng.

8. Một số nhận định khác:


- “Sức hấp dẫn chủ yếu của những trang viết Thạch Lam là ở tâm hồn dân tộc. Cái ngữ
điệu nhỏ nhẹ mà man mác thi vị, những cảm xúc tinh tế của một tâm hồn dễ rung động như
cánh bướm non” ( Văn Tâm)
“Mỗi truyện ngắn của Thạch Lam như một bài thơ trữ tình, giọng điệu điềm đạm nhưng
chứa đựng biết bao tình cảm mến yêu chân thành và sự nhạy cảm của tác giả trước những
biến thái của cảnh vật và lòng người. Văn Thạch Lam trong sáng, giản dị mà sâu sắc.”
B. CÁI ĐẸP TRONG VĂN THẠCH LAM
Với nhà văn Thạch Lam (1910-1942), vẻ đẹp là một cái gì chỉ hiện ra mong manh thấp thoáng
nên dễ bị bỏ qua. Ông viết: "Cái đẹp man mác khắp vũ trụ, len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm
tàng ở mọi vật tầm thường...". Cái đẹp trong văn Thạch Lam là cái đẹp cổ điển: đẹp và buồn.
Không phải nhà văn tiền chiến nào cũng thích nói đến cái đẹp. Đọc các truyện ngắn truyện dài
của Nguyễn Công Hoan hay cả loạt phóng sự và tiểu thuyết phóng sự của Vũ Trọng Phụng,
người ta thấy cái đẹp hầu như vắng mặt. Có vẻ nó giống như một thứ hàng xa xỉ, không dây dưa
gì đến cuộc đời nhếch nhác này, và để được chân thành trong câu chuyện, tác giả ngầm bảo ta
rằng, tốt hơn hết là không nên nhắc tới nó làm gì (!?)
Ở một ngòi bút như Thạch Lam (cũng như ở Khái Hưng, Nguyễn Tuân, Hồ Dzếnh, Thanh
Tịnh...) thì tình hình hoàn toàn ngược lại. Từ những bài báo nhỏ đến những truyện ngắn cô
đọng, viết văn với Thạch Lam đồng nghĩa với việc săn sóc tới cái đẹp, và nhắc nhở về sự có
mặt của nó với mọi người. Ông nói tới vẻ đẹp trong thiên nhiên: buổi trưa vắng vẻ ở một làng
quê hay ban mai yên ả ở một xóm nhỏ trung du (Dưới bóng hoàng lan, Nắng trong vườn). Ông
nói tới vẻ đẹp hồn hậu trong xúc động đơn sơ của một thanh niên lần đầu làm cha, hoặc cái cảm
giác lạ lùng của mấy em nhỏ trong một ngày chớm rét (Đứa con đầu lòng, Gió đầu mùa). Đối với
những con người khiêm nhường mà cuộc sống bị đè nặng bởi những lo toan hàng ngày, Thạch
Lam biết tìm ra những nét tính cách cao quý, nó là nhân tố làm cho người ta tồn tại và nhờ vậy,
lại toát lên một vẻ đẹp riêng (Nhà mẹ Lê, Tối ba mươi). Một nét quán xuyến trong cách nhìn đời
của Thạch Lam: tác giả luôn luôn mách thầm với chúng ta rằng vẻ đẹp là một cái gì chỉ hiện ra
mong manh thấp thoáng nên dễ bị bỏ qua. Ông viết trong Theo dòng: "Cái đẹp man mác khắp
vũ trụ, len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng ở mọi vật tầm thường. Công việc của nhà văn
là phải hiểu cái đẹp chính ở chỗ mà không ai ngờ, tìm cái đẹp kín đáo bị che lấp trong sự vật,
cho người khác một bài học trông nhìn và thưởng thức".
Quan niệm cổ điển và một thoáng gặp gỡ Đông - Tây
Năm 1940, khi Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân được in ra lần đầu, Thạch Lam sớm có bài
giới thiệu quyển sách trên báo Ngày nay (số ra 15-6-1940). Bài báo đáng được lưu ý, không
phải chỉ vì nó đã nói đúng về Nguyễn Tuân mà còn là một dịp để Thạch Lam tự bộc lộ. Chỉ trong
khuôn khổ chưa đầy 1.000 chữ, ông đã năm lần nhắc tới cái đẹp và những từ ngữ ông dùng để
đi kèm chính là những thuộc tính mà theo ông có liên quan tới cái đẹp chân chính. Đó là vẻ nên
thơ, sự cao quý, cái có ý nghĩa, rồi cả sự khoáng đạt và một chút nồng nàn. Cũng có đến mấy
lần ông nhắc lại hương vị cũ kỹ và nhẫn nại của một sự hy sinh, hoặc tâm tình yêu mến dĩ vãng,
tiếc thương và muốn trở lại những vẻ đẹp đã qua.
Cũng từ đây, người ta đọc ra một quan niệm về cái đẹp mà tác giả Gió đầu mùa theo đuổi.
Trưởng thành từ một cốt cách học trò, người viết văn này dễ rung động với những gì thấp
thoáng, dịu nhẹ. Ông tỏ ra xa lạ với những vẻ đẹp chói chang, quyến rũ, hoặc là cái lối có gì
mang bày hết cả ra ngoài, phô phang lộ liễu. Hình ảnh mà ông thích nhất là bông mai trong
trắng.Trong sự kín đáo và ẩn nhẫn biết điều, vẻ đẹp ông hay nói tới thường hàm chứa một sức
sống tiềm tàng. Một quan niệm như thế phải nói là có nhiều chất cổ điển. Giữa thế kỷ của văn
minh công nghiệp trong cái thời mà máy móc và các mốt thời trang bắt đầu du nhập và ngày
càng bành trướng trong xã hội, văn chương Thạch Lam có vẻ là một thứ dòng nước ngược đưa
người ta trở lại với quan niệm về cái đẹp của phương Đông hoặc gần gũi hơn, trong cách hiểu
về cái đẹp thường thấy ở ông cha ta. Vậy đâu là tác động của yếu tố thời đại đến ngòi bút này?
Thực ra ở đây yếu tố thời đại vẫn có, nhưng cách ảnh hưởng của nó tới Thạch Lam lại có
những nét đặc trưng riêng. Nên nhớ là giữa nền văn hóa Pháp được du nhập vào Việt Nam lúc
ấy và văn hóa phương Đông cổ truyền không phải chỉ có khác biệt mà còn có nhiều nét chung.
Văn hóa cổ điển Pháp cũng nổi tiếng vì sự trong sáng, sự tinh tế và tinh thần nhân bản. Thứ nữa
khi tiếp nhận nền văn hóa này, lớp người như Khái Hưng, Thế Lữ, Huy Cận, Xuân Diệu hoặc
Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân... đã đứng vững trên mảnh đất quê hương ruột thịt. Trong sách vở
mà nhà trường dạy họ cũng như trong những quyển sách họ đọc ở ngoài đời có những lời lẽ
khuyên họ phải biết trở về với cội nguồn dân tộc. Về phần mình, trong sáng tác văn chương,
Thạch Lam sớm tự xác định cho mình một con đường riêng. Ông cho rằng, có một công việc mà
một ngòi bút tự trọng nên đảm nhận, đó là làm sống lại cái đẹp, cái thực vốn là những tính cách
cố hữu trong nền văn hóa cổ truyền. Người và cảnh ông miêu tả vì vậy thường có thêm chiều
sâu trong thời gian. Cái đẹp được ông chắt chiu gạn lọc. Tuy không nói ra trực tiếp, nhưng từ
những gì ông tha thiết, thấy toát lên một lời giáo huấn kín đáo: nếu không được trân trọng giữ
gìn, cái đẹp vốn đã mong manh sẽ tan mất đi và chúng ta sẽ mãi mãi sống trong bơ vơ tiếc xót.
Nỗi buồn giấu kín
Nhưng có lẽ đặc tính đáng nhớ nhất của cái đẹp trong văn Thạch Lam ấy là nó thường được
miêu tả với một nỗi buồn sâu xa. Cảm giác chính còn lại trong người đọc sau khi đọc nhiều trang
sách, từ Gió đầu mùa đến Sợi tóc, là một cuộc đời mờ mờ xám xám. Hãy nhớ lại Cô hàng xén,
thiên truyện bao quát gần hết cuộc đời của một con người. Những phiên chợ quê nhiều mầu
sắc, thoáng qua rất nhanh, cùng với những năm tháng tuổi trẻ, ấp ủ nhiều hy vọng của người
con gái chăm chỉ và giàu tình thương gia đình. Rồi cái khía cạnh người ta nhớ hơn cả khi nghĩ
tới Tâm, ấy là con đường từ chợ về nhà vắng vẻ, cùng những lo âu đè nặng tâm hồn cô trong
cuộc sống hàng ngày. Ngòi bút Thạch Lam thường tỏ ra có sự nhạy cảm lạ lùng với những gì đã
an bài hoặc những nếp sống đã trở thành mòn mỏi. Một buổi tối phố huyện, nhà cửa như thiếp
dần đi trong ánh sáng những ngọn đèn dầu leo lét. Những điệu hát xẩm vẳng lên trong một xóm
nghèo. Mấy bức tranh dân gian mầu sắc đạm bạc. Cảnh tết sơ sài ở một xóm nhỏ ngoại thành...
Thạch Lam bằng lòng chấp nhận cuộc sống như nó đang có, nhưng vẫn không thôi tự nhủ lẽ ra
nó phải khác kia, làm sao nó lại chỉ như chúng ta đang thấy! Một cảm giác bao trùm còn lại: Đời
đẹp và buồn. Và nhờ gắn với cái buồn, cái thực, mà vẻ đẹp trong văn Thạch Lam lại có được sự
sống riêng. Nó trở nên bền chắc. Nó không lẫn đi giữa những vẻ đẹp nhạt nhèo mà những cây
bút tầm thường mang ra để an ủi bạn đọc. Cái thuở thanh bình xa vắng tác giả Gió đầu mùa hay
nói tới giờ đã qua đi từ lâu, song sống trong tấp nập ồn ào, các thế hệ đến sau vẫn có thể tìm
thấy ở cái vẻ đẹp cổ điển mà Thạch Lam hay nói tới một sự đồng cảm. Cổ điển ở đây đồng
nghĩa với sống mãi.
TRUYỆN NGẮN THẠCH LAM – ĐẶC ĐIỂM KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT
Người đọc đến với Thạch Lam, họ quên và hầu như không cần thiết xem ông là nhà văn lãng
mạn hay hiện thực mà điều hấp dẫn đối với họ là toàn bộ bức tranh nhân gian của ông với sự
hiện diện của đủ mọi hạng người, đặc biệt là những con người nghèo khổ. Ngày nay, khi lý
thuyết về sự tiếp nhận văn học được vận dụng để nghiên cứu những vấn đề như bản chất, đặc
trưng, chức năng, cấu trúc của tác phẩm... mà phía người đọc ngày càng phát hiện ra, trong khi
phía người sáng tác có lúc không giải thích được thì vấn đề tìm hiểu tác phẩm Thạch Lam càng
có ý nghĩa, giúp chúng ta phát hiện thêm những phẩm chất mới của một nhà văn đa tài này. Với
ý nghĩa ấy, chúng tôi chỉ xin nêu ra một đặc điểm nổi bật trong thi pháp truyện ngắn của Thạch
Lam. Đó là đặc điểm không gian nghệ thuật-một mặt quan trọng để nhà văn thể hiện tư tưởng và
quan niệm nghệ thuật về con người.
Thạch Lam quan tâm hàng đầu đến không gian hiện thực hằng ngày (L’espace reél quotidien).
Ông ít tô vẽ và cách điệu nó, bởi vì, như ông nói: “Cái đẹp man mác trong vũ trụ, len lỏi khắp
hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng ở mọi vật tầm thường. Công việc của nhà văn là phát biểu cái
đẹp kín đáo và che lấp của sự vật”. Chính vì thế, không gian hiện thực hằng ngày trong tác
phẩm Thạch Lam là một xóm chợ, một ngõ hẻm, một ga xép, một phố huyện nghèo nàn hoặc
một con đường làng vùng nông thôn nào đó. Ở đây, các nhân vật của ông bị tù túng, luẩn quẩn
với những đói nghèo, lo âu, dằn vặt thường nhật. Họ luôn bị ám ảnh bởi miếng cơm, manh áo
hoặc day dứt với những bi kịch tinh thần.
Có thể thấy hầu hết truyện ngắn của Thạch Lam đều sử dụng không gian hiện thực hằng ngày
làm môi trường cho nhân vật hoạt động. Nhưng không gian hiện thực ở đây được bó hẹp lại
trong không gian đời tư, không gian cá nhân chứ không phải trong không gian xã hội rộng lớn,
nên không gian càng dồn nén, thu nhỏ, đông lại, càng hiu hắt hơn. Chính không gian hẹp đó,
nhân vật bộc lộ bản chất, hành vi, suy nghĩ của mình một cách cụ thể, chân thật nhất-và khi họ
thấy bất lực trước hoàn cảnh thì lập tức ngôn ngữ độc thoại, ngôn ngữ giấc mơ hiện ra, khi ấy
không gian hồi tưởng xuất hiện. Không gian hẹp mà Thạch Lam quan tâm miêu tả giúp cho nhân
vật tự vấn, tự ý thức để đối chiếu, so sánh niềm vui, nỗi buồn của mình trong từng thời gian một
cách cụ thể. Dung (truyện ngắn “Hai lần chết”) hiểu rõ nỗi bất hạnh của mình, cứ sau mỗi lần
vùng vẫy, ước mơ thì lại bị nhấn chìm xuống đáy, nhưng khổ nỗi, không thể chết được, dù toại
nguyện mà lại cứ phải sống trong buồn đau, trói buộc.
Từ không gian hiện thực trên, đã kéo theo một đặc điểm khác trong quan niệm về không gian
nghệ thuật của Thạch Lam. Đó là không gian hòa quyện thời gian (L’espace et le temps
s’entremèlent). Chính kiểu không gian này giúp nhà văn lý giải một cách biện chứng quá trình
phát triển tính cách nhân vật và biểu hiện tập trung tư tưởng nghệ thuật của mình. Bằng tài năng
quan sát tinh tế và biết phát hiện ở một tọa độ không gian-thời gian hỗ tương hợp lý, Thạch Lam
đã đặt không gian hiện thực hằng ngày trong sự kết hợp hòa quyện chặt chẽ của thời gian
tương ứng. Do vậy, thời gian đã thành ngôn ngữ, thành môi trường cộng hưởng để nhân vật
hoạt động. Chính kiểu không gian hòa quyện thời gian đã làm cho tình huống dồn nén, gấp gáp,
đẩy số phận bi kịch của nhân vật vào con đường cùng, và quá trình tiếp theo được diễn ra bằng
tiếng than, tiếng kêu thất thanh hòa lẫn tiếng khóc hờn giận là điều không thể khác trong kết thúc
truyện ngắn của Thạch Lam. Trong truyện ngắn “Cô hàng xén”, bên cạnh cảnh náo nhiệt của
buổi chợ mà Tâm ngày nào cũng chứng kiến, còn lại là tâm trạng. Tâm ra về trên con đường
làng lúc đêm tối “sương mù ảm đạm phủ cả cánh đồng và gió lạnh nổi lên, lòng se mệt”, khiến
Tâm mơ hồ, miên man nghĩ về em, về mẹ và những nỗi niềm riêng tư, uẩn khúc. Chính không
gian và thời gian tối đen thăm thẳm ấy giúp Tâm hiểu được cuộc đời mình như “một tấm vải
thô”, ngày nào cũng như ngày nào và “nàng phải chạy vào cái khoảng tối dày đặc ấy để trốn cái
tai ương mà nàng sắp đón nhận”.
Một kiểu không gian khác trong toàn bộ tác phẩm Thạch Lam là không gian bi kịch sau bi kịch
(L’espace dramaitque posterieur). Mới nhìn tưởng như là nhà văn tàn nhẫn với con người nhưng
thực ra ông là nhà văn hiện thực nghiêm ngặt và nhân đạo. Bởi vì sau bi kịch ấy là tiếng lòng,
tiếng gọi khẩn thiết đòi quyền sống, quyền hạnh phúc cho con người. Nỗi đau đời của Thạch
Lam nằm sau câu chữ, sau hình tượng. Ông tỉ mỉ và chính xác đến tận cùng, không ngần ngại
chỉ ra cái bi kịch nhân gian và đẩy nó lên đỉnh điểm. Có thế, mới thấy cái giới hạn mà bước nhảy
vọt sớm muộn gì cũng sẽ xảy ra. Bước nhảy vọt sang một hoàn cảnh tốt đẹp hơn sẽ diễn ra khi
nào? Chưa bao giờ Thạch Lam nói ra điều ấy. Bi kịch của Dung trong truyện ngắn "Hai lần chết"
càng bi kịch hơn dẫu nàng đã quyết định kết liễu cuộc đời để được giải thoát. Nhưng có được
đâu, nước mắt tủi buồn lăn trên má khi “Dung ngậm ngùi nghĩ đến cái chết của mình. Lần này,
về nhà chồng, mới hẳn là chết đuối, chết không bấu víu vào đâu được”.
Chính không gian bi kịch sau bi kịch đã làm xuất hiện nhiều kiểu không gian phát sinh khác:
không gian hồi tưởng, không gian khát vọng trong tác phẩm của Thạch Lam. Bao giờ cũng thế,
khi hiện tại xấu xa, mù mịt thì con người thường quay về với quá khứ để so sánh, đối chiếu và
mơ ước tương lai (dẫu tương lai ấy chưa thể có). Diên (truyện ngắn “Trong bóng tối buổi chiều”)
trong căn phòng chật chội, tối tăm tưởng chừng nghẹt thở, chàng đã hồi tưởng đến “cánh đồng
ruộng quê hương đầy ánh sáng ban mai”, nhưng rồi cái quá khứ ấy không khỏa lấp được nỗi
buồn và sự nghèo hèn của anh trong hiện tại “Diên thấy tủi thân rớm nước mắt”, anh “nấc lên
một tiếng rồi cúi đầu chạy trốn trong bóng tối của buổi chiều vừa xuống”.
Thạch Lam là nhà văn nhân đạo chủ nghĩa. Ông không thể không an ủi và mong muốn con
người được sung sướng và hạnh phúc. Lòng nhân ái ấy bàng bạc trong tác phẩm của ông, hé ra
một chút ánh sáng và hy vọng cho con người, dù mong manh. Trong không gian trầm mặc, u tối,
tiếng tàu xình xịch với hồi còi inh ỏi (truyện ngắn "Hai đứa trẻ"), tiếng tre kĩu kịt ngỡ là tiếng chim
trong đêm mưa (truyện ngắn "Tiếng chim kêu"), tiếng rao đêm của anh xích lô vắng khách
(truyện ngắn "Điều ân hận")... Đó chính là không gian khát vọng, không gian nhân bản mà tác
giả thấp thoáng nhìn thấy và đưa vào tác phẩm như một thủ pháp nghệ thuật, tạm gọi thủ pháp
“Soupape de Sureté” (xả hơi an toàn) để tạo cho không gian không khí êm dịu, đỡ ngột ngạt,
căng thẳng và tạo niềm vui an ủi con người. Đó là điều mà Thạch Lam hằng tâm niệm: “Văn
chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có thể vừa tố cáo và thay đổi một
cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn”.
PGS, TS HỒ THẾ HÀ
PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG ĐỢI TÀU TRONG TRUYỆN NGẮN HAI ĐỨA TRẺ - THẠCH LAM
1. Giới thiệu khái quát về tác giả Thạch Lam và truyện ngắn Hai đứa trẻ: tình huống đợi tàu là
tình huống độc đáo của tác phẩm.
2. Khái quát về tình huống trong truyện ngắn
– Truyện ngắn là tác phẩm tự sự cỡ nhỏ mà nội dung thường chỉ xoay quanh một tình huống
truyện chủ chốt nào đó.
– Tình huống truyện (có tính độc đáo, chủ chốt) được diễn đạt bằng nhiều cách nói khác nhau,
đó là tình thế xảy ra chuyện; là lát cắt của đời sống, là khoảnh khắc mà trong đó sự sống hiện ra
đậm đặcvàý đồ tư tưởng của tác giả cũng được bộc lộ sắc nét nhất.
=> Như vậy có thể hiểu tình huống là một sự kiện đặc biệt trong đó chứa đựng một tình thế bất
thường của quan hệ đời sống
– Truyện ngắn được coi là thành công khi xây dựng được tình huống độc đáo, có tính then chốt
làm nổi bật tư tưởng chủ đề của tác phẩm.
– Tiếp nhận truyện ngắn, người đọc nắm được tình huống then chốt là nắm được chìa khoá mở
cửa vào thế giới nghệ thuật.
3. Xác định tình huống truyện Hai đứa trẻ:
– Truyện Hai đứa trẻ là truyện cốt truyện rất mờ nhạt, thay vào đó là dòng nội tâm, thế giới tâm
hồn của nhân vật.Vì vậy hành động nhân vật, sự kiện trong tác phẩm không nhiều. Cũng chính
vì vậy mà chi tiết, sự kiện được nhà văn xây dựng trong tác phẩm là hết sức chọn lọc và giàu ý
nghĩa.
– Sự kiện được tái hiện đậm nét, chiếm dung lượng nhiều nhất trong tác phẩm chính là cuộc đợi
tàu của hai đứa trẻ trên phố huyện nghèo. Nó gắn với nội tâm, tình cảm của nhân vật. Đây có
thể coi là tình huống chủ chốt của tác phẩm bởi vì đó là một sự kiện đặc biệt trong đó chứa đựng
một tình thế bất thường của quan hệ đời sống.
4: Phân tích tình huống
a. Hoàn cảnh của tình huống (diện mạo của tình huống):
+ Thạch Lam đưa người đọc về không gian phố huyện nghèo, buồn tẻ, chiều tàn, ngày tàn,
phiên chợ tàn, đồ vật tàn và những kiếp người tàn…đêm tối âm u, vây phủ nhịp sống đơn điệu,
quẩn quanh buồn tẻ, lặp đi lặp lại.
+ Giữa không gian ấy, hai đứa trẻ (An và Liên) là 2 đứa trẻ ngây thơ, hồn nhiên, giàu mơ ước,
thèm được chơi, thèm được ăn những thức quà ngon lạ, thèm một không gian mới lạ và sôi
động, rực rõ. Nhưng chúng không được thoả nguyện bao giờ, vì gia cảnh khó khăn, chúng phải
lao động kiếm sống, trông hàng giúp mẹ. Đáng thương nhất là chúng luôn nhớ về quá khứ tươi
đẹp, hạnh phúc (đối lập với hiện tại nghèo nàn, buồn tẻ), và chúng chỉ có thể ngồi yên trong
bóng tối để mơ ước và nghĩ về quá khứ ngày một xa xôi ấy mà thôi.
b, Tính chất của tình huống:
– Cuộc đợi tàu lạ lùng : Lạ vì chúng đợi tàu chẳng phải vì một mục đích nào thiết thực (không
bán hàng, không đón ai, không có người thân nào của chúng trên đoàn tàu ấy) chúng đợi tàu chỉ
để nhìn đoàn tàu. Lạ vì không thiết thực mà ngày nào chúng cũng cố đợi.Chừng như chưa được
nhìn đoàn tàu thì chúng chưa được sống trọn vẹn một ngày.
– Cuộc đợi tàu đầy tâm trạng
+ Đợi tàu là sống lại kỷ niệm: chuyến tàu ở Hà Nội về, gặp được chuyến tàu là hai đứa trẻ được
sống lại quá khứ. Một quá khứ có thực mà Liên từng được sống một tuổi thơ vui tươi sung
sướng. Khi đoàn tàu đi vụt qua, “Liên lặng theo mơ tưởng. Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui
vẻ và huyên náo.“
+ Đợi tàu là mơ ước một thế giới khác với thực tại: Đoàn tàu đi đến đâu, mang theo ánh sáng và
âm thanh, lấp lánh và rầm rộ; âm thanh khỏe khoắn sôi động, ánh sáng rực rõ, mạnh mẽ. Nó là
biểu tượng đầy sức sống, đối lập hoàn toàn với phố huyện đầy bóng tối, buồn tẻ như đang mòn
mỏi, chết dần.Đợi tàu là niềm niềm khao khát sống, khao khát đổi đời.
– Cuộc đợi tàu đáng thương: Hai đứa trẻ có tuổi thơ ngắn ngủi, sớm phải nếm trải thiếu thốn,
lam lũ, nhọc nhằn. Đoàn tàu trở thành niềm vui duy nhất của chúng. Chúng chưa kịp vui thì đoàn
tàu đã mất hút vào bóng tối, mang theo luôn vào bóng tối những mơ tưởng của Liên. Đến từ Hà
nội, đến từ một tuổi thơ đã mất, đoàn tàu là một tia hồi quang cho lũ trẻ được nhìn lại tuổi thơ
tươi vui trong chốc lát. Đoàn tàu chỉ giúp chúng thoả mãn thị giác rồi chúng lại bị ném vào thực
tại không gian phố huyện tù đọng với ngọn đèn nhỏ leo lét. Ngọn đèn nhỏ bé chập chờn đi vào
giấc ngủ của Liên.
5: Ý nghĩa của tình huống : thể hiện tấm lòng và tài năng Thạch Lam:
– Thông điệp giàu đầy tính nhân văn mà nhà văn muốn gửi gắm: Phải thay đổi hoàn cảnh để
cứu lấy con người. Hãy cho những đứa trẻ một cuộc sống khác xứng đáng với con người hơn,
một cuộc sống mà con người có quyền sống trong hi vọng, chứ không phải đang tàn đi trong vô
vọng.
– Nét độc đáo của ngòi bút truyện ngắn Thạch Lam.
NGHỆ THUẬT TƯƠNG PHẢN TRONG TRUYỆN NGẮN HAI ĐỨA TRẺ - THẠCH LAM
Mở bài :
– Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm (0.5 điểm)
– Nêu vấn đề nghị luận
Truyện ngắn của Thạch Lam có một phong cách riêng. Đó là những truyện ngắn dường như
không có cốt truyện, hoặc cốt truyện thường đơn giản nhưng lại hấp dẫn và gợi lên trong người
đọc nhiều suy nghi. Hai đứa trẻ là một trong những truyện ngắn rất tiêu biểu cho phong cách của
Thạch Lam .Tác phẩm thành công trong việc sử dụng nghệ thuật tương phản .
Nghệ thuật tương phản trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” Thạch Lam
Thân bài :
1. Nêu khái niệm nghệ thuật tương phản:
Là một bút pháp mang đậm dấu ấn của chủ nghĩa lãng mạn. Các nhà văn thường vận dụng thủ
pháp này để tô đậm sự đối lập gay gắt giữa các hiện tượng, sự vật, từ đó làm nổi bật tư tưởng,
chủ đề tác phẩm (0.5 điểm)
2. Nghệ thuật tương phản trong truyện ngắn Hai đứa trẻ
+ Tương phản giữa bóng tối và ánh sáng (phân tích dẫn chứng) (1.5điểm)
Ánh sáng và bóng tối đã xuất hiện ngay từ đầu câu chuyện, ánh sáng yếu ớt của mặt trời “ như
hòn than sắp tàn” và xen vào đó là những hình ảnh đầu tiên của bóng tối “ dãy tre làng trước
mặt đen lại”.
Nhưng ám ảnh và có sự khơi gợi nhiều hơn cả là một không gian tối- sáng lúc phố huyện vào
đêm: “ Liên ngồi lặng im bên mấy quả thuốc sơn đen, đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái
buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tam hồn ngây thơ của chị”.
Trong sự đối lặp sáng- tối đó, bóng tối là gam màu chủ yếu. Bóng tối dày đặc mênh mang khắp
một vùng còn ánh sáng thì mờ nhạt, nhỏ nhoi, leo lét không đủ để xua đi bóng tối.
Thạch Lam thường miêu tả bóng tối nhưng chỉ trong hai đứa trẻ, bóng tối mới đủ hình hài, cung
bậc: “ đường phố và các ngõ chứa đầy bóng tối”, bóng người làm cong lung lay nóng dài, bóng
bác phổ Siêu mênh mang ngã xuống đất một vùng và kéo dài đến tận hàng rào hai bên ngõ”.
Phố xá thì tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vài
làng lại càng sậm đen ơn nữa. Đêm ở phố huyện tĩnh mịch và đầy bóng tối”. Trong cái thế giới
ngập tràn bóng đêm, dưới một bầu trời thăm thẳm bao la đầy bí mật của phố huyện, ánh sáng
lại quá yếu ớt, mà nhạt, nhỏ bé, leo lét. Ánh sáng của các cửa hiệu chỉ là những khe sáng, lọt ra
ngoài, hắt xuống mặt đường gồ ghề khiến mặt đất dường như nhấp nhô hơn vì những hòn đá
nhỏ vẫn còn một bên sáng một bên tối. Ánh đèn của bác phở Siêu chỉ là những chấm nhỏ và
vàng lơ lửng đi trong đêm tối. Ánh sáng ngọn đèn của chị em Liên thưa thớt từng hột sáng lọt
qua phên nứa…..
.Đặc biệt là hình ảnh ngọn đèn chị Tí, một quầng sáng nhỏ nhoi, chỉ chiếu sáng một vùng đất
nhỏ, xuất hiện ảy lần trong tác phẩm, tạo nên sức ám ảnh và khơi gợi về cảnh đời, những kiếp
sống nhỏ bé, lay lắt trong đêm đen, trong bóng tối cuộc đời.
+ Tương phản giữa quá khứ và hiện tại (phân tích dẫn chứng) (0.5 điểm)
Chú ý : Quá khứ đẹp đẽ, sung túc của chị em Liên và An – Đối lập với cuộc sống đơn điệu,
nghèo nàn, quẩn quanh của 2 chị em và của người dân nơi phố huyện
+ Nghệ thuật tương phản thể hiện tập trung nhất ở phần cuối câu chuyện: khi đoàn tàu chạy qua
phố huyện: bóng tối- ánh sáng, quá khứ-hiện tại, hiện tại-tương lai, âm thầm, lặng lẽ-ồn ào, náo
nhiệt,.. (2.0 diểm)
3. Tác dụng của nghệ thuật tương phản
→ Tất cả nhằm thể hiện cuộc sống quẩn quanh, bế tắc, tẻ nhạt, tăm tối của những con người
nơi phố huyện đang héo mòn vì bóng tối cuộc đời và niềm khao khát một cuộc sống tươi sáng
tốt đẹp hơn, từ đó thấy được tấm lòng chan chứa yêu thương của tác giả với những cuộc đời bé
nhỏ nơi phố huyện (1 điểm)
-Tạo nên vẻ đẹp lãng mạn, giàu chất thơ cho tác phẩm (0.5 điểm)
Kết bài : đánh giá chung
CHẤT THƠ TRONG TRUYỆN NGẮN HAI ĐỨA TRẺ - THẠCH LAM
1. Tìm hiểu đề:
Đề bài thuộc kiểu đề tự do - chỉ nêu chủ đề mà không bắt buộc về cách thức, phương pháp triển
khai chủ đề đó. Chủ đề được nêu trong đề bài này là chất thơ trong truyện ngắn "Hai đứa trẻ"
(Thạch Lam). Về thực chất, có thể hiểu, đề bài yêu cầu phân tích để tìm ra những biểu hiện của
chất thơ cũng như vai trò của nó trong việc tạo nên dấu ấn phong cách Thạch Lam và thành
công của truyện ngắn "Hai đứa trẻ". Để thực hiện yêu cầu này của đề bài, học sinh cần nắm
vững, hiểu rõ khái niệm "chất thơ", chất thơ trong truyện ngắn để trên cơ sở đó xác định đúng và
phân tích thấu đáo biểu hiện cũng như giá trị của chất thơ trong truyện ngắn "Hai đứa trẻ".
2. Dàn ý:
a. Mở bài:
- Đọc truyện ngắn Thạch Lam, dễ thấy cốt truyện của ông không có gì đặc biệt, thậm chí đôi khi
đơn giản đến như không có. Nhân vật của ông cũng không thuộc vào những lớp người có sức
ảnh hưởng lớn trong xã hội. Vậy mà tác phẩm vẫn có được một sức truyền cảm lớn để có thể
neo đậu lâu bền trong lòng người đọc, tạo nên một sức cuốn hút nhẹ nhàng mà da diết cho
người đọc mỗi lần đọc lại, sống lại cùng với nó. Một trong những yếu tố quan trọng tạo nên sức
truyền cảm, sự hấp dẫn, cuốn hút ấy chính là chất thơ lắng đọng lan toả từ những trang văn.
- Truyện ngắn "Hai đứa trẻ" ("Nắng trong vườn" - 1938) là một truyện ngắn giàu chất thơ.
b. Thân bài:
b.1. Chất thơ và chất thơ trong truyện ngắn:
- "Chất thơ": Tính chất trữ tình - tính chất được tạo nên từ sự hoà quyện giữa vẻ đẹp của cảm
xúc, tâm trạng, tình cảm với vẻ đẹp của cách biểu hiện nó để có thể khơi gợi những rung động
thẩm mĩ và tình cảm nhân văn.
- Chất thơ trong truyện ngắn: Được tạo nên khi nhà văn chú ý khai thác và biểu hiện một cách
tinh tế cái mạch cảm xúc, tâm trạng, tình cảm của nhân vật hoặc của chính mình trước thế giới
bằng những chi tiết, hình ảnh đầy gợi cảm và một lối văn trong sáng, truyền cảm, phù hợp với
nhịp điệu riêng của cảm xúc, tâm hồn.
- Một truyện ngắn (hoặc tác phẩm văn xuôi) được coi là giàu chất thơ khi mối bận tâm của người
viết không đặt vào việc kể lại một biến cố, sự việc, hành động mà là việc làm bật lên một trạng
thái của đời sống hoặc của tâm hồn con người.
b.2. Chất thơ trong truyện ngắn "Hai đứa trẻ":
b.2.1. Vẻ đẹp của cảm xúc, tâm trạng, tình cảm:
- Ở nhân vật Liên có vẻ đẹp của một tâm hồn trẻ thơ trong sáng và thuần khiết, tự nhiên như
chưa từng chịu một tác động tiêu cực nào của cuộc sống.
+ Những rung động tinh tế trước cuộc sống xung quanh: Chỉ một mùi nồng nồng, âm ẩm bốc lên
đã khiến Liên ngỡ đó là mùi riêng của đất quê; không khí vắng lặng đìu hiu của phố huyện đã lay
động tâm hồn Liên để cô cảm nhận được cái buồn của buổi chiều quê và khiến đôi mắt cô cũng
như ngập đầy bóng tối của buổi chiều quê đó; khi đêm xuống, Liên thích thú ngắm bầu trời đêm
với ngàn sao lấp lánh để mơ mộng về con vịt theo sau ông Thần Nông, về dòng sông Ngân Hà
trong các câu chuyện cổ; tâm hồn Liên trong sáng và nhạy cảm đến độ có thể bắt nhạy với
những dấu hiệu mơ hồ nhất của thế giới quanh mình: những con đom đóm lập loè, những khe
sáng, hột sáng lọt qua khe cửa, từng loạt hoa bàng rụng khẽ xuống vai áo…
+ Hoài niệm về quá khứ và mơ mộng với đoàn tàu: Cuộc sống thường nhật với gánh nặng mưu
sinh không thể xoá bỏ trong Liên niềm nhớ tiếc quá khứ. Thậm chí, chính cuộc sống tẻ nhạt
hàng ngày lại khiến nỗi nhớ ấy thêm da diết, khắc khoải: dù kỉ niệm còn lại không nhiều, nhưng
quá khứ luôn trở về trong Liên bằng ánh hồi quang rạng rỡ nhất "Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng
rực, vui vẻ và huyên náo". Chính nỗi nhớ quá khứ luôn thường trực đã khiến Liên khi đối diện
với hình ảnh thực của chuyến tàu đêm lại đắm mình trong những mơ tưởng xa xôi để "sống giữa
bao nhiêu sự xa xôi không biết" mà chuyến tàu ấy gợi lên trong tâm hồn cô.
+ Lòng trắc ẩn đối với những cảnh ngộ đáng thương: Bản thân Liên đang sống một cuộc sống
nghèo khó, Liên cũng thấm thía sâu sắc cảnh nghèo và buồn mà cô đang phải trải qua song
không vì thế mà Liên đóng kín tâm hồn đối với con người và cuộc sống quanh mình. Nhìn những
đứa trẻ nghèo đang nhặt nhạnh, tìm kiếm trên bãi chợ, Liên thấy "động lòng thương" tuy chính
chị cũng không có gì để cho chúng. Sẵn có một tấm lòng thơm thảo, Liên đã rót đầy hơn vào cút
rượu của bà cụ Thi điên dù trong em không phải không có cảm giác sờ sợ rất tự nhiên ở một
đứa trẻ khi phải đối diện với một người không hoàn toàn bình thường. Chính những tình cảm
ngỡ như rất giản dị ấy lại làm cho người ta cảm động như được "thanh lọc tâm hồn" để trở về
với những gì tự nhiên thuần khiết nhất.
- Ở cái tôi Thạch Lam ẩn kín sau nhân vật: Dường như, Thạch Lam đã viết truyện ngắn "Hai đứa
trẻ" bằng chính những trải nghiệm tuổi thơ ở phố huyện Cẩm Giàng. Đọc truyện, không thể
không nhận thấy cái tình âu yếm mà Thạch Lam dành cho nhân vật. Cái tình âu yếm ấy một mặt
xuất phát từ cái nhìn nhân hậu, yêu thương mà người lớn dành cho lứa tuổi này, một mặt là do
nhà văn đã hoá thân vào nhân vật, là sự ám ảnh của tuổi thơ gắn liền với phố huyện Cẩm
Giàng. Sự cộng hưởng của những cảm xúc này để tạo cho những trang viết Thạch Lam một sự
hoà quyện giữa chất thực và chất thơ để tạo thành một sức hút da diết, bền lâu của tác phẩm.
b.2.2. Vẻ đẹp của hình thức nghệ thuật:
- Trong truyện, Thạch Lam đã xây dựng được một thế giới hình ảnh vừa chân thực, sinh động lại
vừa vô cùng gợi cảm bởi chính vẻ đẹp của nó.
+ Quan niệm của Thạch Lam: "Cái đẹp man mác khắp vũ trụ, len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm,
tiềm tàng ở mọi vật bình thường".
+ Không gian được lựa chọn trong tác phẩm: Một phố huyện nghèo nơi tiếp giáp giữa thành thị
và thôn quê song dưới ngòi bút Thạch Lam dường như tính chất làng đã nhiều hơn tính chất
phố.
+ Trong không gian êm ả, tĩnh lặng của phố huyện, mỗi hình ảnh được ngòi bút Thạch Lam gợi
ra đều chan chứa chất thơ: Phương Tây "đỏ rực như lửa cháy", đám mây "ánh hồng như hòn
than sắp tàn", tiếng trống thu không "vang xa để gọi buổi chiều", đêm mùa hạ "êm như nhung và
thoảng qua gió mát", vòm trời "hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh", những con đom đóm
"bay là là trên mặt đât hay len vào những cành cây", bóng bác phở Siêu "mênh mông ngả xuống
đất một vùng và kéo dài đến tận hàng rào hai bên ngõ"…Tất thảy đều là những hình ảnh, màu
sắc, âm thanh vô cùng quen thuộc, bình dị mà ngỡ như rất mới mẻ, rất gợi cảm trong những câu
văn Thạch Lam bởi nó không chỉ hiện diện như một khái niệm mà như một trạng thái của sự
sống đang xao động để chuyển dần một cách tinh tế cái xao động ấy vào tâm hồn con người.
Dưới ngòi bút Thạch Lam, thậm chí đến cả rác rưởi của một phiên chợ quê cũng gợi nhớ bao
điều thân thuộc "Chợ họp giữa phố vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất
chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía. Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban
ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê
hương này". Sức gợi cảm của thứ mùi vị này ở chỗ nó đánh thức cảm xúc, cảm giác ấu thơ của
rất nhiều người Việt.
- Truyện có những chi tiết được lựa chọn đích đáng để thể hiện tinh và sâu thế giới của những
cảm xúc, cảm giác và tình cảm vừa mơ hồ, vừa da diết trong tâm hồn nhân vật: Liên ngồi lặng lẽ
bên mấy quả thuốc sơn đen lúc chiều muộn với đôi mắt ngập đầy dần bóng tối; Liên cùng em
nhìn ngắm những vì sao để mà thấy chúng như thuộc về vũ trụ thăm thẳm bao la, đầy bí mật và
xa lạ; Liên và An chờ đợi chuyến tàu đêm… Trong số đó, có thể nói, chi tiết đợi tàu của hai đứa
trẻ chính là đỉnh điểm của chất thơ trong tâm hồn người. Với hai chị em Liên, đoàn tàu vừa là
một thực tế, vừa là một ảo ảnh trong cái nhìn non trẻ và đầy khát khao. Đoàn tàu đi rồi, ánh
sáng vụt loé lên cũng đã tắt, hai chị em cũng đã chìm vào giấc ngủ song dư âm của khát vọng
thì vẫn còn vang vọng mãi bởi đó là yếu tố cơ bản để "gióng lên cái gì đó còn ở tương lai"
(Nguyễn Tuân). ánh sáng của đoàn tàu đã làm cháy lên một thứ ánh sáng khác - ánh sáng của
khát vọng da diết trong tâm hồn những đứa trẻ. Trân trọng và nâng niu khi khám phá ra thứ ánh
sáng này, tác phẩm của Thạch Lam đã đạt tới một giá trị nhân văn đáng quý.
- Mạch truyện của "Hai đứa trẻ" rất đậm chất trữ tình:
+ Quan niệm của Thạch Lam: "Nhà văn cốt nhất phải đi sâu vào tâm hồn mình, tìm thấy những
tính tình và cảm giác thành thực: tức là tìm thấy tâm hồn mọi người qua tâm hồn của chính
mình". Từ đó có thể thấy, cái hiện thực mà nhà văn quan tâm và đặt lên hàng đầu là hiện thực
tâm trạng, là những xúc cảm, rung động của tâm hồn con người.
+ Truyện "Hai đứa trẻ" không có cốt truyện, mạch truyện không vận động theo mạch của những
tình tiết, sự kiện mà vận động theo mạch cảm xúc, tâm trạng nhân vật. Để làm được điều này,
nhà văn đã đặt điểm nhìn trần thuật vào nhân vật Liên - một cô gái chưa hoàn toàn bước ra khỏi
thời ấu thơ, một cô gái có tâm hồn thuần khiết và nhạy cảm. Từ điểm nhìn ấy, bức tranh đời
sống được tái hiện với sự đan xen, song hành và xâm nhập của cảm giác thực tại và hồi ức quá
khứ mà dường như, cái nổi trội lên, chi phối sự vận động của mạch truyện lại là hành trình tìm
lại những kí ức quá khứ từ chính cái hình ảnh đang hiện diện trong thực tại - hình ảnh đoàn tàu.
Triển khai mạch truyện theo hướng này, ngòi bút Thạch Lam có xu hướng hướng nội, đi vào thế
giới bên trong với những cảm xúc, cảm giác nhiều khi rất mong manh, mơ hồ, thoáng qua,
những biến thái tinh vi của tâm hồn trước ngoại cảnh: nỗi buồn man mác trước cái giờ khắc của
ngày tàn, những hoài niệm da diết về một Hà Nội trong kí ức tuổi thơ, những cảm giác xa xôi
không biết…
- Để thể hiện thành công tất cả những điều trên, Thạch Lam đã sử dụng một bút pháp trữ tình
đặc sắc trong lời kể, giọng kể, một bút pháp hoà hợp sự trong sáng, chính xác và dịu dàng, hoà
hợp sự kín đáo và giản dị như một lời thủ thỉ vừa phải, êm đềm nhỏ nhẹ nhưng có thể phân biệt
được từng âm vị.
+ Thạch Lam ít dùng những chữ to tát, những nhịp điệu gấp gáp vội vàng, lời văn của ông
nhuần nhuyễn, tinh tế để phô diễn những trạng thái, những cảm xúc trong tâm hồn. Câu văn của
Thạch Lam nhiều thanh bằng gợi một nhịp điệu chậm buồn nhưng có sức lan toả. Chẳng hạn khi
miêu tả vẻ trầm buồn nhưng cũng rất đỗi nên thơ của phố huyện, Thạch Lam đã viết: "Chiều,
chiều rồi, một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió
nhẹ đưa vào…" Hay miêu tả cảnh đêm tối sau khi chuyến tàu đi qua: "Đêm tối vẫn bao bọc xung
quanh, đêm của đất quê, và ngoài kia đồng ruộng mênh mang và yên lặng".
+ Thạch Lam đã sáng tạo ra một thứ ngôn ngữ nghệ thuật riêng để biểu đạt cái xao động của sự
sống khẽ vang lên trong không gian, thời gian tĩnh mịch để diễn tả cái thanh thoát, dịu hiền của
tâm hồn Liên: êm ả, yên lặng, thong thả, gượng nhẹ, nhỏ xíu, yên tĩnh, mơ hồ, miên man, tĩnh
mịch … Những từ ngữ này liên kết với nhau như một dải lụa nhẹ bay để tạo một dư âm sâu lắng
trong tâm hồn người đọc.
+ Văn phong Thạch Lam rất bình dị: Câu văn ngắn, nhịp văn chậm rãi, thong thả. Dù diễn tả cái
náo nức bên trong, cái sôi động của ước mơ, Thạch Lam vẫn rất nhẹ nhàng, vẫn tự nén ngòi
bút. Chuyến tàu rực sáng vụt qua, Liên xúc động mạnh khi kỉ niệm xưa dồn dập hiện về "Hà Nội
xa xăm, Hà nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo". Đây là một trong số ít những câu văn kết hợp lối
trùng điệp và những thanh trắc tạo điểm nhấn và ngay câu sau Thạch Lam viết ngắn hơn, nhẹ
hơn, như ghìm giữ lại niềm xúc động: "Con tàu như đem một chút thế giới khác đi qua". Thạch
Lam thường sử dụng kiểu cú pháp đẳng lập, đều đều, nhịp độ khoan thai điềm tĩnh mà vẫn gây
những chấn động nhẹ nhàng, thấm thía chính là ở độ nén của cảm xúc mà nhà văn tạo ra trong
những câu văn.
c. Kết luận:
- Truyện ngắn "Hai đứa trẻ", từ hình thức nghệ thuật tới nội dung được biểu hiện đều chan chứa
chất thơ - cái chất thơ được chưng cất từ đời sống bình dị, thường nhật bằng chính rung động
của tâm hồn nhà văn, chất thơ toả ra từ tình yêu cái đẹp, từ cái nhìn tinh tế trước thiên nhiên,
đời sống và niềm tin ở thiện căn của con người…
- Với những gì được khai thác và biểu hiện trong tác phẩm, có thể nói, truyện "Hai đứa trẻ" tựa
như một bài thơ trữ tình, dù không thật giàu có sâu sắc về ý nghĩa xã hội thì vẫn "đem đến cho
người đọc một cái gì nhẹ nhõm, thơm lành và mát dịu" (Nguyễn Tuân). Đó vừa là giá trị riêng
của tác phẩm, vừa là cốt cách văn chương của Thạch Lam để tạo ra một sức hấp dẫn bền lâu
trong lòng đọc giả.
THẠCH LAM: TÌM VÀO NỘI TÂM, TÌM VÀO CẢM GIÁC – THẠCH LAM NHÌN TỪ GÓC ĐỘ LÝ
LUẬN VĂN XUÔI
Trong các công trình nghiên cứu về văn học trước 1945, như các giáo trình và sách văn học sử,
lời nói đầu viết cho các tổng tập – người ta thường bắt gặp một lối xem xét phổ biến, đó là xem
lịch sử văn học giai đoạn này – trước tiên là trên phạm vi văn học công khai – như cuộc đấu
tranh của chủ nghĩa hiện thực với chủ nghĩa lãng mạn, rồi kết cục là sự phát triển, sự thắng thế
của chủ nghĩa hiện thực.
Theo chúng tôi hiểu, đấy là một quan niệm đã làm cho đời sống văn học trở thành khô cứng,
nghèo nàn, và không đúng với sự thực.
- Trong thực tiễn sáng tác, lúc ấy những khái niệm như hiện thực, lãng mạn .. gần như không hề
có trong đầu óc các nhà văn. Văn học Việt Nam trước 1945, dù đã bước đầu phát triển và phê
bình, đã hình thành nên những bộ sách như Nhà văn hiện đại, Thi nhân Việt Nam, song, chủ
yếu vẫn là quá trình mò mẫm, tự phát.
Vả chăng, hiện thực hay lãng mạn chỉ là quy ước. Chưa chắc nó – phạm trù phương pháp – đã
có vai trò quan trọng trở thành nhân vật chính của lịch sử văn học như thể loại. Hiện nay, thỉnh
thoảng chúng ta vẫn bộc lộ những mâu thuẫn trong việc xem xét một số hiện tượng (ví dụ: Có
phải chủ nghĩa hiện thực ngày một phát triển hay nó đi vào bế tắc? Yếu tố hiện thực có ở Nhất
Linh, Khái Hưng, thơ Xuân Diệu hay không? Tại sao cùng một số văn phẩm của Thạch Lam, có
lúc xếp vào hiện thực, có lúc xếp vào lãng mạn). Thiết nghĩ, đó là do quan niệm về các phương
pháp của chúng ta chưa vững vàng, chắc chắn.
Để thoát khỏi tình trạng đó, có lẽ lên giành ưu tiên cho việc khảo sát sự phát triển văn xuôi, thơ,
kịch, và tìm cách phác hoạ ra sự tiến hoá của ngôn ngữ thể loại, cái mà ta tạm gọi là thi pháp
thể loại
Nói như vậy, không phải bỏ hẳn các khái niệm như hiện thực, lãng mạn.
Có điều, nếu vẫn còn sử dụng đến chúng, cần tìm ra cách hiểu thoáng hơn, cởi mở hơn với
từng khái niệm đó.
Đây là một vấn đề lý luận khá phức tạp, chúng tôi chỉ xin nói một cách tóm tắt:
- Cách hiểu phổ biến hiện nay về chủ nghĩa hiện thực là nhà văn phải mô tả nhân vật trên cái
nền bức tranh xã hội rộng rãi, phải đẩy nó lên trở thành điển hình, có ý nghĩa giai cấp, dân tộc
v.v. Tóm lại, là chủ nghĩa hiện thực hiểu theo bề rộng, một thứ chủ nghĩa hiện thực có lẽ được
sáng chế chỉ để minh hoạ cho những cách hiểu thô thiển về lịch sử

You might also like