Professional Documents
Culture Documents
THIÊN NHIÊN TRONG THƠ NGUYỄN TRÃI
THIÊN NHIÊN TRONG THƠ NGUYỄN TRÃI
Dịch thơ:
“Biển lùa gió bấc thổi băng băng
Nhẹ kéo buồm thơ vượt Bạch Đằng.
Ngạc chặt kình băm non lởm chởm,
Giáo chìm gươm gãy bãi dăng dăng.
Quan hà hiểm trở, Trời kia dựng
Hào kiệt công danh đất ấy từng.
Chuyện cũ ngoảnh đầu, ôi đã dứt
Dòng trôi tìm bóng dạ bâng khuâng.”
(Khương Hữu Dụng dịch)
· Mở đầu bài thơ là hình ảnh “cánh buồm căng gió lướt nhẹ vượt Bạch
Đằng Giang”. Một không gian mênh mông, bao la biển Trời sông nước.
Gió biển lùa thổi mạnh, con thuyền lướt “băng băng”trên mặt biển.
Cảnh quan bao la ấy của biển trời đã khơi dậy một tứ thơ khoáng đạt
dâng lên dào dạt trong tâm hồn phơi phới của thi nhân. Du khách cùng
với con thuyền và cánh buồm thơ đang sống trong tâm thơ vô cùng ung
dung, thư thái:
“Sóc phong xuy hải khí lăng lăng,
Khinh khởi ngâm phàm quá Bạch Đằng.”
(“Biển lùa gió bấc thổi băng băng
Nhẹ kéo buồm thơ vượt Bạch Đằng.”)
· Hai câu thực là bức tranh hoành tráng về dòng sông, cửa biển Bạch
Đằng:
“Ngạc đoạn kình khô sơn khúc khúc,
Qua trầm kích chiết ngạn tằng tằng.”
(“Ngạc chặt kình băm non lởm chởm,
Giáo chìm gươm gãy bãi dăng dăng.”)
Núi, sông, bờ bãi hiện lên qua vần thơ và các hình ảnh ẩn dụ: “Ngạc”,
“kình”, “gươm giáo” mang ý nghĩa tượng trưng. Trên cửa biển Bạch
Đằng, núi trập trùng như bức trường thành chẳng khác nào đàn cá ngạc,
cá kình - lũ giặc phương Bắc bị nhân dân ta căm giận băm vằm và chặt
thành từng khúc. Bờ bãi nhấp nhô “dăng dăng” kéo dài vô tận như giáo
gươm của lũ giặc ngoại xâm bị nhân dân ta đánh chìm, bẻ gãy chất đống
mà thành. Phép đối thần tình tạo nên vần thơ cân xứng hài hòa, cảnh vật
cao thấp, xa gần đầy ấn tượng. Chất thơ dạt dào cảm hứng lịch sử đã
đem đến cho người đọc những liên tưởng đầy tự hào về dòng sông và
chiến công oai hùng của thiên nhiên. Người đọc như cùng nhà thơ sống
lại những năm tháng hào hùng thuở trước. Phải có một tấm lòng yêu
nước và niềm tự hào dân tộc mãnh liệt, Ức Trai mới viết nên những vần
thơ tráng lệ như vậy.
· Tiếp theo phần luận phép đối vẫn được sử dụng sáng tạo, cảm hứng lịch
sử của thi nhân bừng sáng, ý thơ càng trở nên thâm trầm sâu sắc. Thiên
nhiên được khắc họa ngày càng hùng vĩ, hiểm trở hơn, đồng thời một bài
học giữ nước về địa lợi, về nhân hòa, về hào kiệt được nhà thơ nói lên rất
thấm thía:
“Quan hà bách nhị do thiên thiết,
Hào kiệt công danh thử địa tằng.”
(“Quan hà hiểm trở, Trời kia dựng,
Hào kiệt công danh đất ấy từng.”)
=>> Địa thế Bạch Đằng hiểm yếu, là tử địa đối với lũ giặc phương Bắc,
cửa biển lòng sông hiểm yếu ấy là quà tặng của thiên nhiên ban cho
nhân dân ta để bảo vệ xã tắc “vững bền muôn thuở”. Quan hà với hào
kiệt, trời với đất, được đặt trong thế đăng đối, Ức Trai muốn khắc sâu tư
tưởng yêu nước chống xâm lăng. Cuộc chiến đấu chống ngoại xâm để
bảo vệ Tổ quốc Đại Việt từng diễn ra trên Bạch Đằng là chính nghĩa,
lòng dân hợp lẽ Trời nên đã chiến thắng vẻ vang.
=>> Đằng sau những cảnh núi sông tráng lệ là hình ảnh nhân dân
anh hùng được nhà thơ ca ngợi với tất cả niềm tự hào về sức mạnh
nhân nghĩa Việt Nam.
=>>Đọc bài thơ “Cửa biển Bạch Đằng”, đã cảm nhận sâu sắc thêm vế
đối của người xưa: “Đằng Giang tự cổ huyết do hồng" - Ta thêm yêu
đất nước và con người Việt Nam, tự hào về những trang sử chống
xâm lăng của nhân dân ta. Tâm hồn Ức Trai đã hóa núi sông ta.
b. Thiên nhiên mang vẻ đẹp gần gũi, thân thuộc, là ngôi nhà thứ hai của
Nguyễn Trãi:
“Côn Sơn hữu tuyền,
Kỳ thanh lãnh lãnh nhiên,
Ngô dĩ vi cầm huyền.
Côn Sơn hữu thạch,
Vũ tẩy đài phô bích,
Ngô dĩ vi đan tịch.
Nham trung hữu tùng,
Vạn lí thuý đồng đồng,
Ngô ư thị hồ yển tức kì trung.
Lâm trung hữu trúc,
Thiên mẫu ấn hàn lục,
Ngô ư thị hồ ngâm tiêu kỳ trắc.
Vấn quân hà bất quy khứ lai,
Bán sinh trần thổ trường giao cốc?”
( Trích “Côn Sơn Ca”)
Dịch thơ:
“Côn Sơn suối chảy rì rầm,
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai.
Côn Sơn có đá rêu phơi,
Ta ngồi trên đá như ngồi đệm êm.
Trong ghềnh thông mọc như nêm,
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.
Trong rừng có bóng trúc râm,
Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn.
Về đi sao chẳng sớm toan,
Nửa đời vướng bụi trần hoàn làm chi?”
(Phan Võ, Lê Thước, Đào Phương Bình dịch)
- Bài thơ được viết khi Nguyễn Trãi cáo quan về Côn Sơn ở ẩn nhằm giữ
tâm hồn mình thanh thuần, trong sạch tránh xa lớp bụi trần thế.
- Đối với Nguyễn Trãi, Côn Sơn là một miền đất có sức hút kì lạ. Chẳng
thế mà hai lần cáo quan về ở ẩn, ông đều tìm về với Côn Sơn. Và núi
rừng Côn Sơn thanh vắng đã trở thành một thế giới riêng đầy thân
thương gắn bó với thi nhân. Tại Côn Sơn, Nguyễn Trãi được sống với
chính mình. Dường như thiên nhiên đã trở thành cứu cánh cho tâm hồn
ông- một tâm hồn đớn đau vì nhân tình thế thái
- Trong cảm xúc của ông, cảnh trí Côn Sơn hiện ra thật thơ mộng và lãng
mạn: có tiếng suối chảy rì rầm, có đá rêu phơi êm ái, có rừng thông mọc
rậm, dày, có rừng trúc xanh mát..., vừa có cái hoang dã của thiên nhiên,
vừa có hơi ấm của cuộc sống đầy ắp tình người. Hơn nữa, trong con mắt
thi nhân, thiên nhiên không chỉ là cảnh, mà đã trở thành nhà. Ngôi nhà
thiên nhiên ấy thật đặc biệt: suối là đàn, rêu là chiếu, bóng thông làm
giường, bóng tre trúc là nơi ngâm vịnh thơ ca. Và trong ngôi nhà thiên
nhiên ấy, ông để tâm hồn mình giao hoà với cảnh và vẽ lại nó bằng một
ngọn bút tài hoa.
- Một hình ảnh so sánh liên tưởng đầy thú vị khiến ta không khỏi cảm
thán trước tâm hồn phong tình, tinh tế ấy (“Tiếng suối reo” róc rách từng
đợt hệt như có bàn tay uyển chuyển đang gảy khúc đàn ngân nga bên tai)
. Nguyễn Trãi trở về Côn Sơn không phải là để ẩn dật theo đúng nghĩa
của cách sống ẩn dật, mà ông trở về Côn Sơn với nỗi hân hoan đầy tự do
của một con người trở về nhà mình (ý của Hoàng Phủ Ngọc Tường). Và
trong ngôi nhà ấy, ông không những được tha hồ nghe nhạc rừng, ngồi
trên đá đánh cờ, mà còn được nằm dưới bóng thông râm mát, được ngâm
thơ nhàn dưới bóng trúc xanh. Một cuộc sống mà người và cảnh gắn bó
với nhau, hoà nhập vào nhau. Lòng Ức Trai thanh thản đến lạ kì.
c. Thiên nhiên mang vẻ đẹp mĩ lệ, tinh tế, trong thơ Nguyễn Trãi:
· Bài thơ “Dục Thuý sơn”:
· Trong “Tự thán” bài 2, Nguyễn Trãi viết: “Túi thơ chứa hết mọi giang
san”. Quả thật Ức Trai đã đi nhiều nơi, thăm nhiều danh thắng. Với lòng
yêu thiên nhiên say đắm, với hồn thơ rộng mở, nhạy cảm và tinh tế, tới
đâu Nguyễn Trãi cũng có thơ về cảnh đẹp non sông đất nước. Người đọc
ngày nay có thể tìm thấy một bộ sưu tập phong cảnh Việt Nam rất phong
phú và đa dạng qua tập thơ chữ Hán – “Ức Trai thi tập”: núi Côn Sơn,
núi Yên Tử, cảng Vân Đồn, chùa Tiên Du, chùa Đông Sơn, núi Long
Đại, núi Lam Sơn... Đặc biệt, Nguyễn Trãi có nhiều thơ về các địa danh
ở Ninh Bình, tạo nên một quần thể danh thắng của vùng “vịnh Hạ Long
cạn” này: núi Dục Thuý, cửa biển Thần Phù, trấn Vịnh Doanh. Đó là
những danh lam thắng cảnh mang vẻ đẹp mĩ lệ, tinh tế nhưng cũng
không kém phần hoang sơ,...
· Trong quần thể danh thắng đó, nổi bật lên là Dục Thuý sơn. Trước đây
núi có tên là Sơn Thuý. Tên Dục Thuý là do Trương Hán Siêu đặt. Có
người giải thích núi giống hình chim trả, lại ở trên bờ sông, nên gọi là
Dục Thuý, với nghĩa là chim trả tắm (dục: tắm, thuý: chim trả). Dù thế
nào thì tên gọi Dục Thuý sơn cũng rất đẹp và thơ mộng, người chưa
được đến thăm có thể qua tên mà hiểu cảnh.
· Nguyễn Trãi viết “Dục Thuý sơn” với hai nguồn cảm hứng: cảm hứng
thiên nhiên và cảm hứng hoài cổ. Ở nguồn cảm hứng nào người đọc
cũng thấy những nét riêng, độc đáo của Ức Trai.
“Hải khẩu hữu tiên san;
Tiền niên lũ vãng hoàn.
Liên hoa phù thuỷ thượng;
Tiên cảnh truỵ trần gian.
Tháp ảnh, trâm thanh ngọc;
Ba quang kính thuý hoàn.
Hữu hoài Trương Thiếu Bảo;
Bi khắc tiển hoa ban.”
Dịch nghĩa:
Cửa biển có ngọn núi tiên;
Năm xưa ta đã nhiều lần qua lại nơi này.
Dáng núi như đóa hoa sen nổi trên mặt trước;
Tưởng như là cõi tiên rơi xuống trần gian.
Bóng tháp trên núi soi xuống mặt nước giống như cái trâm ngọc xanh;
Ánh sáng của sóng nước phản chiếu ngọn núi như đang soi mái tóc biếc.
Chạnh nhớ Trương Thiếu bảo;
Bia đá khắc thơ văn của ông nay đã lốm đốm rêu.
· Phân tích những câu thơ đặc sắc miêu tả thiên nhiên trong bài thơ:
· Nhìn chung, trong bốn câu thơ đầu tác giả tập trung cảm hứng vào vẻ
đẹp thần tiên, huyền ảo, đầy mĩ lệ của Dục Thuý sơn.
Nhà thơ có một ấn tượng sâu sắc về danh thắng này, đó là “núi tiên”,
“cảnh tiên”. Trong một đoạn thơ ngắn, thi sĩ hai lần dùng từ “tiên” làm
định ngữ để nói về núi Dục Thuý, về cảnh Dục Thuý. Thơ Đường có
phép kị trùng chữ. Nhưng ở đây để làm nổi bật vẻ đẹp thần diệu của Dục
Thuý sơn. Nguyễn Trãi đã bất chấp luật kiêng kỵ đó để phóng bút dùng
hai chữ “tiên”. Trong cảm nhận ngôn ngữ của người Việt, tiên thường
gợi lên sự thần diệu, phi thường, thoát tục (phép tiên, cầu tiên) sự sung
sướng, hạnh phúc (sướng như tiên), vẻ đẹp (đẹp như tiên). Từ tiên trong
“núi tiên”. “cảnh tiên” gây ấn tượng sâu sắc về vẻ đẹp huyền ảo của
Dục Thuý sơn. Người không mang cảm quan tôn giáo, nước cảnh đẹp
cũng như đang vào cõi mộng, cõi tiên. Cái hiện hữu được khẳng định
(“hữu tiên san”) càng làm nổi bật cái hư ảo, kỳ diệu:
“Tiên cảnh trụy trần gian”
(Như cảnh tiên rơi xuống cõi trần)
Dục Thuý sơn là sáng tạo tuyệt vời của hoá công, không phải cho cõi
trần, không phải từ cõi trần mà cho tiên giới, từ liên giới. Một chút “vô
thức” (đánh rơi) đã tô điểm thêm vẻ đẹp hạ giới.
Tác giả dùng hình tượng hoa sen để gợi tả vẻ đẹp Dục Thuý sơn. Dù
không bắt nguồn từ cảm hứng tôn giáo thì hình tượng đó vẫn mang đậm
dấu ấn linh thiêng thoát tục của Phật giáo:
“Liên hoa phù thuỷ thượng”
(Núi tựa (như) đoá hoa sen nổi trên mặt nước)
Về mặt liên tưởng, nhà thơ đã có liên tưởng khá xác thực – núi trên dòng
sông với đóa sen trên mặt nước. Về mặt nội dung thẩm mĩ, hoa sen là
biểu tượng của vẻ đẹp tinh khiết, rất phù hợp với cảnh tiên, non tiên.
· Nguồn cảm hứng đó bất chợt không liền mạch khi tác giả phát hiện ra
một vẻ đẹp khác, không kém mỹ lệ mà lại có phần quyến rũ hơn, say
người hơn:
“Tháp bảo trâm thanh ngọc
Ba quang kính thúy hoàn.”
(Bóng ngọn tháp (trên núi trông giống như cái) cái trâm bằng ngọc xanh
Ánh sáng (lấp lánh trên) sóng nước tự như gương soi mái tóc xanh
(biếc).
=>>Từ những điều phân tích ở trên, có thể nói bài thơ Dục Thuý sơn
đã đem đến cho người đọc nguồn cảm xúc thẩm mĩ dồi dào: cảm xúc
về vẻ đẹp của danh thắng, vẻ đẹp của hình tượng nghệ thuật và đặc
biệt là vẻ đẹp của tâm hồn Ức Trai: yêu thiên nhiên, yêu đất nước,
giàu chất nhân văn.
d. Thiên nhiên mang tâm sự buồn bã, thấm đẫm vẻ ảm đạm:
“Diêu giai hạc lệ song tà nguyệt,
Điếu chử ngư hàn trạo các sa.
Đồ giác hồ trung phong nguyệt hảo,
Niên niên bất dụng nhất tiền xa.”
(Trích “Hoạ hữu nhân Yên hà ngụ hứng kỳ 3”)
Dịch nghĩa :
Hạc kêu ở thềm ngọc, trăng chiếu qua song cửa
Bến câu cá lạnh lẽo, mái chèo gác trên cát
Tự mình biết có trăng đẹp trong bầu thời gian
Năm này qua năm khác chẳng hề tốn tiền mua.
- Bài thơ thuộc mục “Thơ tỏ ý chán nản và muốn về nghỉ” từ tập “Ức
Trai thi tập” (theo thi viện)
- Thiên nhiên mang vẻ gần gũi, bình dị, là trăng, là hạc, là những cảnh
vật xuất hiện thường nhật xoay quanh cuộc sống chúng ta,dù cảnh ấy đã
xuất hiện bao lần trong thi ca từ cổ chí kim song cảnh ấy đi vào thơ
Nguyễn Trãi luôn được khoác lên mình một tấm áo mới - cái “tình” -
cảnh đã thấm đẫm tâm sự con người, tỏ ý muốn lui về thưởng trăng
thưởng vẻ đẹp dung dị của cuộc sống, “lánh đục tìm trong” (câu thơ cuối
: “Niên niên bất dụng nhất tiền xa” tức “Năm này qua năm khác chẳng
tốn tiền mua”)
- Trăng đơn thuần, trăng trăm năm chung thuỷ,thanh cao và thuần khiết,
trăng vốn là tri âm tri kỉ của hầu hết các bậc tao nhân mặc khách, đặc
biệt là những viên quan bất đắc chí với thời cuộc, cáo quan về ở ẩn hòa
mình với thiên nhiên.