Professional Documents
Culture Documents
Ref. RME
Ref. RME
Huynh Thanh
Tài liệu này dựa trên phong cách trích dẫn Harvard được áp dụng khi học
môn Phương pháp Nghiên cứu.
th
Anglia Ruskin University, 2017. Guide to Harvard style of referencing. 6 ed.
<http://libweb.anglia.ac.uk/referencing/harvard.htm> [truy cập ngày 24
tháng 8 năm 2018]
Một vài lưu ý: Khi trong bài viết có trích dẫn thì tài liệu tham phải có và
ngược lại. Những tài liệu không tham khảo hoặc không có trong bài viết thì
không đưa vào mục “Tài liệu tham khảo”. Không ghi học hàm/học vị khi
trích dẫn trong bài hoặc ghi tài liệu tham khảo.
Ví dụ: Tín dụng nhỏ có tác động mạnh hơn tín dụng ưu đãi lên giảm nghèo
tại thành phố Hồ Chí Minh (Huỳnh Thạnh và Trần Ngọc Châu, 2012)
Cooper và Schindler (2003) lập luận………….
Mô hình đồng quản lý………(Trần Thị Út, Chu Mạnh Trinh và Huỳnh Thạnh, 2013)
-Tác phẩm có nhiều hơn ba tác giả thì tên một tác giả và cụm từ “và cộng
sự” hoặc “et al.” nếu bằng tiếng Anh
Ví dụ: Trần Thị Út và cộng sự (2013) chứng minh…………
-Không đọc được bản gốc mà chỉ đọc lại từ một tác giả khác thì ghi “trích dẫn bởi”
(không khuyến khích hình thức này, trừ trường hợp không tiếp cận được nguyên bản)
Ví dụ: Kết quả nghiên cứu tại Ấn Độ………….(trích dẫn bởi Morduch, 2002)
Số liệu Tổng cục Thống kê (2015) trích dẫn bởi Nguyễn Văn Hiệp (2014) nêu
lên thực trạng………….
Tiếng Anh
Họ, tên (viết tắt). tên đệm (nếu có)., năm xuất bản. Tên sách (kể cả tựa con-
nếu có). Số lần xuất bản (nếu nhiều hơn 1). Nơi xuất bản: Nhà xuất bản.
Creswell, J.W., 2009. Research design: Quanlitative, quantitative, and mixed methods
rd
approaches. 3 ed. CA: Sage.
Những sách có hai tác giả thì phần nối với nhau bằng liên từ “và” (tiếng Việt) hoặc
“and” (tiếng Anh), những phần còn lại viết giống như cách viết cho một tác giả.
Những sách có nhiều hơn ba tác giả thì ghi một tác giả và từ “và cộng sự”
(tiếng Việt) hoặc “et al.” (tiếng Anh), những phần còn lại viết giống như cách
viết cho một tác giả. Ví dụ: Boardman, A.E., et al., 2001. Cost-benefit
nd
analysis: concepts and practice. 2 ed. NJ: Prentice Hall.
Ács, Z.J., Autio, E., and Szerb, L., 2014. National systems of entrepreneurship:
measurement issues and policy implications. Research Policy, 43(3), pp. 476-494.
Tham khảo từ bài viết trong hội nghị, hội thảo khoa học
Họ tên, năm xuất bản. Tên bài viết. Tên cơ quan tổ chức, Tên hội nghị/hội
thảo. Địa điểm, ngày. Nơi xuất bản: Nhà xuất bản.
Huỳnh Thạnh và Trần Thị Út, 2016. Tiềm năng khởi nghiệp Việt Nam qua chỉ số khởi
nghiệp toàn cầu. Đại học Nguyễn Tất Thành, Hội thảo khoa học quốc gia về khởi
nghiệp. Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 9 tháng 12 năm 2016. NXB Khoa học và Kỹ thuật.
Tham khảo giáo trình, tài liệu học tập:
Họ tên, năm xuất bản. Tên giáo trình/tài liệu học tập. Trường phát hành.
Nguyễn Kim Chung, Lê Đoàn Minh Đức và Nguyễn Thị Diện, 2014. Giáo trình
nguyên lý kế toán. Đại học Thủ Dầu Một.
Công ty cổ phần sữa Việt Nam, 2015. Vững vị thế Việt Nam: Báo cáo thường niên 2014.
Tháng 2 năm 2015.
Công ty cổ phần sữa Việt Nam, 2015. Báo cáo tài chính năm 2014. Tháng 2 năm 2015.
Tham khảo trên internet: ngoài những thông tin cần thiết cần ghi thêm
đường dẫn để trong dấu < > thời điểm truy cập để trong dấu [ ]
Trần Tấn Hùng, 2016. Hiện thực hóa cộng đồng kinh tế ASEAN và hiệp định
đối tác xuyên Thái Bình Dương – Cơ hội và thách thức đối với tăng trưởng
kinh tế Việt Nam. Tạp chí Đại học Thủ Dầu Một, 29(4), trang 13–22.
<http://www.vjol.info/index.php/tdm/article/viewFile/25883/22134> [truy cập ngày
01 tháng 3 năm 2017]
Lý Trần, 2008. Đáng lo giáo dục Đại học Việt Nam. Báo VnEconomy.
<http://vneconomy.vn/20081105110012624P5C11/dang-lo-giao-duc-
dai-hoc-viet-nam.htm> [Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2012]
CÁCH TRÌNH BÀY BẢNG VÀ HÌNH
Dữ liệu được sử dụng trong bài viết thể hiện qua Bảng hoặc Hình (bao gồm cả
sơ đồ, hình ảnh, bản đồ…) sẽ được trình bày một cách thích hợp và nhất quán. Tên
Bảng được đặt ở vị trí phía trên, theo số thứ tự của chương (ví dụ: Bảng 1.5 được hiểu
Bảng số 5 của chương 1), cuối Bảng ghi rõ nguồn gốc của số liệu. Định dạng chung
của Bảng bao gồm những gạch ngang cho dòng tiêu đề nội dung và gạch kết thúc
Bảng (lưu ý: không gạch, in nghiêng hay in đậm một cách tùy tiện; nội dung Bảng
không nên nằm ở hai trang). Đối với Hình, tên Hình được đặt phía dưới (xem Hình 3.1).
Bảng 2.1. Khởi nghiệp Việt Nam năm 2015 qua các chỉ số.
Việt Indo Malay Philip Thái Đông Nam
Chỉ số (%) Nam -nesia -sia -pines Lan Á(*)
Nhận thấy có năng lực 56.8 65.3 27.8 69.0 46.2 52.1
Nhận thấy có cơ hội 56.8 49.9 28.2 53.8 41.0 43.2
Sợ thất bại 45.6 39.5 27.1 36.5 46.6 37.4
Ý định kinh doanh 22.3 27.5 5.6 37.1 16.7 21.7
Giai đoạn khởi sự 13.7 17.7 2.9 17.2 13.7 12.9
Nhu cầu thiết 37.4 19.0 13.7 25.6 17.2 18.9
Tận dụng cơ hội 57.9 36.5 67.0 41.6 75.9 55.2
Chỉ số động cơ 1.5 1.9 4.9 1.6 4.4 3.2
Lĩnh vực bán buôn/bán lẽ 71.2 73.0 64.4 82.4 71.2 72.8
Hướng sáng tạo s.p/d.v 16.5 17.3 10.5 31.8 19.0 19.7
Định hướng quốc tế 1.5 0.3 7.7 6.9 3.2 4.5
Nguồn: Tính toán được dựa trên dữ liệu từ GEM.
Ghi chú (*): Trung bình Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan
Hình 3.1. Hệ sinh thái khởi nghiệp Việt Nam giai đoạn 2013 – 2015
ĐỀ CƯƠNG NGHIÊN CỨU [Chỉ mang tính tham khảo]
Đây là bài viết của nhóm nghiên cứu khoa học Nguyễn Thái Sơn, Trương Tuấn Vinh,
Nguyễn Huỳnh Trúc Nhi, Hồ Hoàng Việt và Dư Anh Vũ - Lớp: D16QT04
Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi mua rau an toàn trên địa
bàn thành phố Thủ Dầu Một
1. Giới Thiệu
Rau là một thành phần quan trọng của một chế độ ăn uống lành mạnh, nếu ăn rau
hàng ngày với lượng đủ có thể giúp ngăn ngừa các bệnh nặng như bệnh tim mạch và
một số loại ung thư nhất định (WHO/FAO, 2004). Việc ăn rau quả thấp ước tính gây ra
khoảng 31% bệnh tim thiếu máu cục bộ và 11% đột quỵ rộng khắp trên toàn thế giới. Nói
chung, ước tính có thể có tới 2,7 triệu người được cứu sống mỗi năm nhờ việc tiêu thụ
rau đã được tăng lên đáng kể (WHO, 2002). Thông qua các số liệu trên ta thấy được sự
quan trọng của rau đối với cơ thể con người là rất cần thiết.
Tuy nhiên, tại nhiều nơi trên thế giới trong đó có Việt Nam đã và đang sản xuất nhiều loại
rau kém chất lượng, độc hại ra thị trường bằng việc sử dụng thuốc trừ sâu cao hơn kỹ thuật đề
xuất (Pham, Mol và Oosterveer, 2009), sử dụng nước, phân bón và đất bị nhiễm bẩn và sử dụng
Ý thức được vai trò quan trọng của rau nước ta đã đưa nhiều tiêu chuẩn trồng rau
an toàn nhằm cung cấp các sản phẩm rau an toàn đến tay người tiêu dùng (Ha, 2014)
và được sự hợp tác của nhiều người nông dân (Simmons và Scott, 2007). Nhưng ở
Việt Nam nói chung và thành phố Thủ Dầu Một nói riêng thì ý thức dùng rau an toàn
còn khá mới mẻ vì người tiêu dùng còn chịu ảnh hưởng của thói quen mua hàng ở
chợ truyền thống (Wertheim-Heck, Spaargaren và Vellema, 2014).
1
Bên cạnh đó, thành phố Thủ Dầu Một sở hữu một thị trường rau an toàn ở vẫn
còn hạn chế chỉ với lượng rau an toàn ở một số siêu thị như BigC, Coop Mart hay các
cửa hàng thực phẩm sạch xuất hiện gần đây như DaLat House, LeFarms. Tại sao người
dân có thể biết đến rau an toàn nhưng mức độ tin dùng lại còn thấp và liệu rằng, người
tiêu dung có sẵn lòng chi trả cho việc sử dụng rau an toàn. Vì vậy, nghiên cứu những
yếu tố ảnh hưởng đến hành vi mua rau an toàn trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một để
từ đó đề ra các giải pháp phát triển thị trường rau an toàn là vấn đề cần thiết.
Mục tiêu chung: đánh giá hành vi mua rau an toàn của người tiêu
dùng trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một từ đó đề xuất các hướng trong
việc nâng cao ý thức người dân về sử dụng rau an toàn.
- Tìm hiểu tình hình rau an toàn hiện nay ở thành phố Thủ Dầu Một.
- Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi mua rau an toàn.
- Đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến mức sẵn lòng chi trả của người tiêu
dùng cho rau an toàn.
Khách thể nghiên cứu: Người quyết định chính trong vấn đề chi tiêu
thực phẩm của các hộ gia đình tại thành phố Thủ Dầu Một.
Đối tượng nghiên cứu: Sự sẵn lòng chi trả cho rau an toàn.
2
1.4. Giới hạn nghiên cứu
Đề tài chỉ nghiên cứu những người tiêu dùng tại một số chợ, siêu thị,
cửa hàng rau an toàn chứ chưa đánh giá qua tất cả các thị trường khác để
có bức tranh tổng quát về hành vi chọn rau an toàn.
của người tiêu dùng về an toàn thực phẩm đối với rau tại các cửa hàng thị trường truyền
thống trong bối cảnh của các nước đang phát triển và kiểm tra xem liệu việc thu thập
thông tin có động cơ tò mò và kiểm soát cá nhân về sự lựa chọn kích thích ảnh hưởng
đến sự tham gia của người tiêu dùng. Dữ liệu được thu thập từ 115 người tiêu dùng ở
khu vực thành thị và ven đô Nairobi. Nghiên cứu đã sử dụng phương pháp lấy mẫu ngẫu
nhiên và lấy từ người tiêu dùng từ 3 thị trường khác nhau. Mỗi thị trường được chia
thành các phân đoạn để tạo điều kiện lấy mẫu, và người trả lời đã được tuyển từ các
phân đoạn này vào những ngày khác nhau trong tuần (bao gồm cả cuối tuần) và vào các
thời điểm khác nhau để nắm bắt các lớp người tiêu dùng khác nhau. Nghiên cứu này
kiểm tra nội dung nhận thức và cảm xúc của các mô hình nhận thức có liên quan đến
nhận thức của người tiêu dùng về an toàn thực phẩm tại các cửa hàng thị trường truyền
thống ở một quốc gia đang phát triển. Mục đích là cung cấp cái nhìn sâu sắc về sự biểu
hiện ý nghĩa thực sự của an toàn thực phẩm. Hiểu được sự biểu hiện ý nghĩa của an
toàn thực phẩm có thể cung cấp đầu vào cho các biện pháp can thiệp nhằm giảm các
nguy cơ về an toàn thực phẩm, có thể rất quan trọng đối với việc thích ứng với các hệ
thống thực phẩm địa phương góp phần đảm bảo an ninh lương thực.
Do mức sống được cải thiện và sự xuất hiện thường xuyên của tình trạng an toàn
thực phẩm, người tiêu dùng Trung Quốc đang ngày càng quan tâm đến chất lượng và an
toàn thực phẩm. Bài báo của Liu, Pieniak và Verbeke (2013) tập trung vào hành vi của
3
người tiêu dùng Trung Quốc đối với thực phẩm an toàn. Bài đánh giá này dựa trên
các bài báo tiếng Anh và tiếng Hoa đã xuất bản. Các bài báo tiếng Trung đã được
chọn từ cơ sở dữ liệu CNKI – cơ sở dữ liệu lớn nhất Trung Quốc. Kết quả cho thấy
người tiêu dùng Trung Quốc chủ yếu sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng
(truyền hình) và báo chí làm nguồn thông tin chính về thực phẩm an toàn; mặc dù
các mối quan hệ cá nhân và sự tin tưởng giữa các cá nhân cũng đóng một vai trò
quan trọng. Thứ nhất, vẫn có một phân khúc trên thị trường không ý thức về thực
phẩm an toàn. Thứ hai, chính phủ có thể có trách nhiệm làm cơ quan giám sát để
tăng cường giám sát sản xuất lương thực an toàn và điều chỉnh hệ thống chứng
nhận. Cuối cùng, vì mối quan tâm của người tiêu dùng về an toàn thực phẩm ngày
càng tăng và do thái độ hoài nghi đối với thực phẩm an toàn nên nghiên cứu sâu
hơn về cách thực hiện truyền thông rủi ro thông qua thông tin để giảm sự nghi ngờ.
Để khảo sát thái độ của người tiêu dùng về và chứng nhận chất lượng thực phẩm
tại một số khu vực đô thị được lựa chọn ở miền Nam Việt Nam, nhóm nghiên cứu của
Nguyen và cộng sự (2017) đã thu thập dữ liêu bằng bảng khảo sát người tiêu dùng với
số mẫu là 500. Nhận thức của người tiêu dùng về các điều khoản liên quan đến chất
lượng thực phẩm tương đối thấp. Ít hơn một nửa số người tham gia tuyên bố hiểu được
ý nghĩa của thực hành nông nghiệp tốt (GAP), thực phẩm hữu cơ và tính bền vững. Cần
tăng cường nhận thức về tầm quan trọng của các hậu quả môi trường liên quan đến việc
mua thực phẩm có chất lượng để nâng cao thái độ của người tiêu dùng về chất lượng.
Cần nâng cao nhận thức và kiến thức về chứng nhận chất lượng thực phẩm và thực tiễn
nông nghiệp bền vững ở các nước đang phát triển như Việt Nam.
là nguồn rủi ro thực phẩm quan trọng nhất. Ngay từ năm 1995, chính phủ Việt Nam đã
khởi động một chương trình "rau an toàn" ("rau sạch" hoặc "rau an toàn") do các vấn đề
liên quan đến thực phẩm. Trong bối cảnh này, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
4
đã ban hành một quy định tạm thời về việc sản xuất "rau an toàn", áp dụng mức dư
lượng tối đa cho phép từ những danh mục đầu vào trong sản xuất (phân bón, thuốc bảo
vệ thực vật…) làm chuẩn vào năm 1998. Kể từ đó, chính phủ đã thúc đẩy sự phát triển
sản xuất rau cải thiện an toàn thực phẩm. Hợp tác với chính quyền địa phương, nhãn
"rau an toàn" được quảng bá trong các hội chợ hàng năm cho nông dân và trong các
chương trình quảng cáo cho các nhà bán lẻ và người tiêu dùng. Ngoài chương trình "rau
an toàn" còn có các tiêu chuẩn và nhãn hiệu khác nhau, mà người nông dân thường
trồng theo hợp đồng và tuân thủ các quy định kỹ thuật chặt chẽ hoặc nhận được các
chính sách khuyến khích khác để đảm bảo an toàn thực phẩm. Cho đến nay, trái cây và
rau quả với sự bảo đảm chính thức về an toàn thực phẩm hay tư nhân chính thức vẫn là
thị trường tiêu thụ ở Việt Nam, bao gồm cả ở các khu vực đô thị. Tăng trưởng dường
như chủ yếu bị cản trở bởi sự kiểm soát lỏng lẻo, thiếu cơ chế trừng phạt và do đó hạn
Một nghiên cứu khác của Nguyễn Văn Thuận và Võ Thành Danh đã đánh giá thực trạng rau
ở Cần Thơ đã cho thấy Cần Thơ vẫn chưa hình thành vùng sản xuất rau an toàn có quy mô lớn,
các điểm trồng rau an toàn còn nhỏ lẻ và thưa thớt. Phần lớn các điểm trồng rau an toàn là do địa
phương hoặc các dự án sản xuất đầu tư kinh phí. Còn rất ít nông dân tự đầu tư sản xuất rau an
toàn vì chưa đảm bảo được thị trường tiêu thụ. Các sản phẩm rau an toàn ở Cần Thơ vẫn chưa có
một hệ thống tiêu thụ chắc chắn. Tuy Cần Thơ có những nơi sản xuất rau an toàn nhưng sản
phẩm rau an toàn vẫn chưa có được những chứng nhận sản phẩm và nhãn hiệu để tạo lòng tin
cho người tiêu dùng. Nhưng theo định hướng phát triển nghành rau màu của thành phố Cần Thơ,
diện tích rau an toàn sẽ được mở rộng trong thời gian tới theo hướng liên kết sản xuất. Bên cạnh
đó, định hướng phát triển sản xuất rau an toàn theo hướng tăng cường quy trình kiểm tra, giám
sát chất lượng sản phẩm, xây dựng quy trình kỹ thuật sản xuất kết hợp với kỹ thuật bảo vệ cây
trồng, và kết hợp với công tác tổ chức tập huấn, chuyển giao kỹ thuật sản xuất rau an toàn tại các
vùng trồng rau an toàn trọng điểm. Tuy nhiên vẫn có rất nhiều khó khăn
5
trong việc kinh doanh rau an toàn ở Cần Thơ. Một là, việc tìm nhà cung cấp rau an toàn
có năng lực tổ chức cung ứng sản phẩm đảm bảo đúng chất lượng và thời gian giao
hàng là rất khó khăn. Hai là, thiếu một quy trình đảm bảo chất lượng trong sản xuất rau
an toàn. Điều này dẫn đến yếu tố chất lượng, một tính chất quan trọng của rau an toàn,
không được đảm bảo và khiến cho khách hàng không an tâm khi lựa chọn mua rau an
toàn tại siêu thị. Ba là, sự đa dạng hóa sản phẩm rau an toàn là giới hạn.
Cũng cùng mục đích như trên bài nghiên cứu của Lê Thị Hoa Sen và Hồ Thị Hồng
(2012) được thực hiện tại Thừa Thiên Huế sử dụng thông tin thứ cấp gồm chủng loại,
khối lượng rau sản xuất và tiêu dùng cũng như các kênh cung ứng được thu thập từ sở
Nông nghiệp và phòng kinh tế tỉnh, thành phố, các báo cáo liên quan đến tình hình sản
xuất và tiêu thụ rau trên địa bàn thành phố Huế trong năm 2010. Thông tin sơ cấp gồm
chủng loại, lượng rau sản xuất, chi phí, lợi nhuận và các yếu tố ảnh hưởng đến sản xuất
rau an toàn được thu thập từ phỏng vấn ban chủ nhiệm và thảo luận nhóm hộ dân sản
xuất rau an toàn và sản xuất rau thường ở hai hợp tác xã. Kết quả cho thấy rằng người
tiêu dùng thành phố Huế ít có thông tin về rau an toàn và thiếu lòng tin đối với rau an
toàn. Địa điểm bán không thuận lợi cũng là một yếu tố cản trở người tiêu dùng thành
phố Huế sử dụng rau an toàn. Thị trường đầu ra khó khăn, nhận thức của người tiêu
dùng về rau an toàn còn hạn chế, thiếu cơ chế quản lý sản xuất rau an toàn để tạo lòng
tin cho người tiêu dùng là những khó khăn chính của người sản xuất rau an toàn ở Thừa
Thiên Huế. Năng suất rau an toàn trồng theo quy trình VietGAP ở tỉnh Thừa Thiên Huế
thường thấp hơn so với rau thường từ 15-30% và tốn nhiều công lao động hơn sản xuất
rau thường khoảng 20%. Diện tích rau an toàn ở tỉnh Thừa Thiên Huế còn nhỏ lẽ chỉ gần
11 ha và phân tán ở năm hợp tác xã và chủng loại rau an toàn không đa dạng.
Bài nghiên cứu của Wertheim-Heck, Sietze và Vellema (2014) nhằm điều tra làm
thế nào mà người tiêu dùng Việt Nam trong cuộc sống hàng ngày của họ đang phải đối
mặt với nguy cơ về sức khoẻ và các tác dụng phụ khác liên quan đến tiêu thụ rau tươi.
Nghiên cứu đã thực hiện tiến hành với ban quản lý của bốn chợ lớn nhất tại thành phố
6
Việt Trì và với đại diện của ba cơ quan chính quyền địa phương, thu thập dữ liệu từ 75 loại rau từ
nhà bán lẻ. Nghiên cứu khảo sát 152 hộ gia đình được chọn ngẫu nhiên tại 4 quận trung tâm của
thành phố Việt Trì. Sử dụng cả hai phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng để thu thập
dữ liệu về các quá trình xảy ra ở các nơi buôn bán rau. Sử dụng các phương pháp cung cấp truy
cập trực tiếp vào các tương tác xảy ra tại các nơi tiêu thụ (nghiên cứu quan sát) cũng như các
phương pháp tạo ra các tài khoản hoặc biểu hiện hành động và tương tác (khảo sát, phỏng vấn
và phỏng vấn sâu). Nghiên cứu đã cho thấy rằng an toàn thực phẩm là một tình trạng tiến thoái
lưỡng nan giữa các nhà cung cấp và người tiêu dùng về rau. Cả nhà cung cấp dịch vụ và người
tiêu dùng đều nói về vấn đề này mà không do dự và không ngạc nhiên vì sự an toàn thực phẩm
được đưa ra như một mối quan ngại chính. Nghiên cứu đã tìm ra được hướng đi trong việc đạt
được những phương thức cung cấp và tiêu thụ rau an toàn hơn ở Việt Nam và khu vực Đông
Nam Á.
cứu ảnh hưởng của thông tin về nguồn gốc, xuất xứ sản phẩm rau đến hành vi tiêu dùng
của người dân trên địa bàn thành phố Hà Nội. Nghiên cứu này ngoài việc tham khảo các
thông tin đã công bố, còn sử dụng các thông tin sơ cấp được thu thập từ việc khảo sát
90 hộ gia đình dựa trên bảng câu hỏi được chuẩn bị sẵn. Các hộ gia đình được lựa chọn
bao gồm cả khu vực nội thành và và ngoại thành. Tại hộ gia đình, người được lựa chọn
phỏng vấn là đại diện của gia đình, chiếm giữ vai trò quan trọng trong việc chuẩn bị rau
ăn hàng ngày cho cả gia đình. Trong đó, không giới hạn nam giới với trình độ và nghề
nghiệp khác nhau. Kết quả điều tra cho thấy, để xác định được nguồn gốc xuất xứ của
sản phẩm, người tiêu dùng chủ yếu tin tưởng vào địa điểm bán (chiếm 36,7%) và tin
Trong nghiên cứu “Consumers’ attitudes and behaviour towards safe food in
China: A Review” của tác giả Liu, Pieniak và Verbeke (2013) có đề cập đến vấn đề lợi
7
ích của thực phẩm an toàn ở Trung Quốc. Mặc dù mức độ hiểu biết tương đối thấp
nhưng người tiêu dùng Trung Quốc vẫn giữ thái độ tích cực đối với thực phẩm an toàn.
Theo nghiên cứu chỉ ra được yếu tố an toàn là lý do quan trọng nhất và có tính ảnh
hưởng nhất để lựa chọn thực phẩm an toàn, tiếp theo là bởi yếu tố sức khoẻ, đến dinh
dưỡng và vị giác. Bài nghiên cứu cũng nói lên rằng vấn đề an toàn thực phẩm có tầm
ảnh hưởng đến người tiêu dùng hơn là môi trường xã hội bên ngoài. Ví dụ, Jin và Zhao
(2008) đã báo cáo rằng phần lớn người tiêu dùng đã mua thực phẩm xanh vì sự an toàn
(73%), vì tác động từ lợi ích môi trường (10%) và vị ngon của thực phẩm (8%). Trong
nghiên cứu của Yin và cộng sự (2010) người tiêu dùng xếp loại thực phẩm hữu cơ (68%)
tiếp theo là sức khoẻ (62%), hương vị (59%) và tác động từ lợi ích môi trường (33%).
Nghiên cứu của Zhang (2010) cho thấy mối quan tâm về môi trường là lý do thứ hai mua
thực phẩm an toàn. Cuộc khảo sát này cho thấy thực phẩm đảm bảo an toàn là yếu tố
quan trọng nhất, với thứ hạng dinh dưỡng chỉ đứng thứ ba. Liên quan đến hương vị của
thực phẩm an toàn, Meng (2007) đã báo cáo rằng về 40% người tiêu dùng nhận thấy rau
nhiễm độc" nghiêm trọng, "cái chết của nông dân do ngộ độc thuốc", "tử vong người tiêu dùng
từ trang trại tiêu thụ sản xuất", và "sự từ chối xuất khẩu thực phẩm", Trung Quốc đã thông qua
một sự điều chỉnh mạnh mẽ về cơ cấu nông nghiệp dẫn đến phát triển nhanh nông nghiệp hữu
cơ. Bằng phương pháp luận, nghiên cứu cũng dựa vào cuộc điều tra của nông dân. Trong mỗi
cộng đồng 30-33 nông dân được ngẫu nhiên được lựa chọn, kết quả là một cuộc khảo sát của
125 nông dân. Sử dụng bảng câu hỏi cấu trúc để hiểu rau hiện tại và quá khứ của họ (5-7 năm
trước) rau các hoạt động canh tác, với trọng tâm là sử dụng thuốc trừ sâu và các yếu tố ảnh
hưởng đến quyết định sử dụng thuốc trừ sâu, bao gồm các kênh tiếp thị. Kết quả nghiên cứu cho
thấy hơn 72% nông dân áp dụng mức liều thuốc trừ sâu cao hơn qui định cho phép. Khoảng 64%
8
tổng hợp mà nông dân sử dụng nhiều hơn các loại thuốc trừ sâu khác nhau
trong mỗi lần phun. Đối với các kênh tiếp thị rau thông thường, giá rau được
54% nông dân coi là yếu tố quan trọng nhất trong lựa chọn các kênh tiếp thị
rau. Mặc dù, 32% nông dân cho biết họ không có vấn đề với tiếp thị rau, 52%
tin rằng chỉ có kết quả đầu vào hóa học trong sự xuất hiện tốt của rau.
Một nghiên cứu của Nguyễn Thị Ngọc Ẩn (2007) đã chỉ ra được những yếu tố đó là do sự
phát triển công nghiệp hóa, đô thị hóa một cách chóng mặt với việc xây dựng cơ sở hạ tầng ngày
càng nhiều, người dân ở các vùng khác nhau đổ về làm ăn sinh sống ngày càng đông cho nên
diện tích đất vườn, đất trồng trọt ngày càng bị thu hẹp, người dân phải tận dụng những tất đất
nhỏ để trồng trọt. Tuy nhiên do nhu cầu thị trường lớn vì vậy họ lo chạy theo lợi nhuận mà đã sử
dụng thuốc trừ sâu, diệt cỏ không đúng liều lượng, không đúng lúc, khiến cho lượng thuốc tồn
dư cao hoặc dùng phân bón quá mức khiến cho lượng Nitrau an toàn cao, kim loại nặng hiện
diện, đó là những mối quan ngại cho sức khoẻ con người khi phải sử dụng hàng ngày. Tuy nhiên
ngoài sử dụng thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ người ta vì muốn tăng năng xuất, tăng sản lượng rau
xanh để đạt mức thu nhập cao mà người ta đã sử dụng dụng hoá chất bảo vệ thực vật, phân bón
bao gồm phân hữu cơ và phân vô cơ (phân hoá học), hiện sử dụng khá nhiều phân hoá học. Một
số nơi còn sử dụng nước từ các kênh rạch có chứa nước thải, từ các xí nghiệp để tưới rau.Với
tình hình này, nó đã gây hậu quả lớn cho những người tiêu dùng, quan trọng là dư lượng các
chất đã được tích luỹ ở trong rau mà hàng ngày con người sử dụng.
2.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến mức sẵn lòng trả cho thực phẩm
Nghiên cứu của Radam và cộng sự (2010) đã trình bày một số hiểu biết về nhận thức, thái
độ của người tiêu dùng Malaysia và đánh giá mức độ sẵn sàng chi trả (WTP) đối với sản phẩm
thực phẩm với nhãn "Không MSG" (một loại gia vị trong chế biến – mì chính). Nó cũng là để xác
định mức độ nhận thức và các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi mua hàng của người tiêu dùng để
xây dựng các chính sách thay thế trong việc cải tiến các ngành công nghiệp với các sản phẩm
9
ước tính quyết định của người tiêu dùng về việc trả phí bảo hiểm và mức độ mà họ
sẽ chi trả cho các sản phẩm thực phẩm đó bằng nhãn "Không gắn MSG" dựa trên dữ
liệu thu thập từ các khu vực trong thung lũng Klang. Kết quả cho thấy giá cả, quy mô
hộ gia đình, thu nhập hộ gia đình, thành viên gia đình dưới 12 tuổi, nữ và trình độ đại
học là những yếu tố quan trọng và quan trọng nhất ảnh hưởng và xác định mức phí
bảo hiểm mà một cá nhân sẵn sàng chi trả cho các sản phẩm này. Do đó, kết quả sẽ
có thể giúp các chính phủ, nhà hoạch định chính sách, nhà sản xuất và nhà tiếp thị
tham gia vào việc xem xét tiềm năng thị trường sản phẩm trong tương lai gần. Kết
quả của nghiên cứu chỉ ra rằng đa số người được hỏi dường như nhận thức được
MSG, nhưng họ dường như ít hiểu biết về các điều khoản liên quan. Các bên liên
quan cần đưa ra các nguyên tắc và chính sách an toàn MSG cơ bản cho xã hội bằng
cách sử dụng hệ thống giáo dục làm phương tiện. Cần khuyến khích họ thực hiện
các chiến dịch giáo dục về tầm quan trọng của sự an toàn liên quan đến MSG.
Nghiên cứu của Seetisarn và Chiaravutthi (2011) về người tiêu dùng Thái Lan sẵn sàng trả
tiền cho các sản phẩm thực phẩm với Chỉ dẫn địa lý (GI). GI là ký hiệu đề cập đến đặc điểm cụ thể
về vị trí địa lý hoặc nguồn gốc. GI được sử dụng để bảo vệ và đảm bảo rằng sản phẩm là kết quả
từ việc sản phẩm có chất lượng ở một nơi cụ thể. Có nhiều sản phẩm ở Thái Lan đã được Bộ
Thương mại chứng nhận, mang nhãn GI. Mục đích của nghiên cứu này là nghiên cứu sự sẵn sàng
trả tiền của người tiêu dùng Thái Lan (WTP) đối với các sản phẩm có nhãn GI. Thử nghiệm này
được tiến hành theo phương pháp đấu giá. Sáu mươi người tham gia được yêu cầu chào giá cho
ba sản phẩm mỗi loại với các loại nhãn khác nhau: nhãn hàng thông thường, nhãn ghi rõ nguồn
gốc của sản phẩm và nhãn ghi rõ nguồn gốc của sản phẩm và có dấu hiệu GI. Thống kê t-test
được thực hiện để xác định sự khác nhau giữa giá thầu trung bình cho nhãn bình thường, nhãn
nguồn gốc và nhãn GI. Kết quả cho thấy người tiêu dùng Thái Lan bị ảnh hưởng bởi nguồn gốc
của sản phẩm. Tuy nhiên, WTP của nhãn hiệu GI không khác biệt đáng kể so với các WTP
10
nhãn mà ghi rõ nguồn gốc của sản phẩm. Điều này hàm ý rằng người tiêu dùng Thái
đánh giá nguồn gốc của sản phẩm, nhưng không nhận ra tầm quan trọng của nhãn GI.
2
Số mẫu nghiên cứu. Sử dụng công thức lấy mẫu n = p%*q%*[z/e] (Saunder et
al., 2016, p.704) với mức độ tin cậy 95% và sai số 5% ta có số mẫu điều tra 384 người.
Tổ chức thu thập thông tin
Thông tin đề tài sử dụng để phân tích chủ yếu được thu thập qua hai nguồn chính:
Thông tin thứ cấp: nguồn dữ liệu lấy từ những bài nghiên cứu đã công bố
trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài.
Thông tin sơ cấp: Thu thập thông tin dưới dạng thông qua bảng câu hỏi được soạn
trước (xem phụ lục) gồm cả câu hỏi có đáp án và câu hỏi mở. Phần đáp án một vài câu
hỏi lựa chọn có sử dụng thang đo Likert (thang đo khoảng cách) với số điểm từ 1 đến 4.
Trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một có tất cả 14 phường. Để chọn mẫu chính xác cũng
như có tính đại diện cao, nhóm phân ra thành hai giai đoạn chọn mẫu. Giai đoạn một, nhóm chọn
có chủ đích 3 phường để khảo sát bao gồm phường Phú Cường (trung tâm thành phố Thủ Dầu
Một), phường Hiệp Thành (cận ven trung tâm) và Định Hòa (ngoại ô thành phố Thủ Dầu Một). Việc
chọn ra ba phường với đặc điểm vị trí khác nhau như vậy nhằm tạo được bức tranh tổng quan
cho địa bàn khảo sát. Ứng với mỗi phường (Phú Cường 14 khu phố, Hiệp Thành 8 khu phố, Định
Hòa 8 khu phố). Giai đoạn hai, nhóm dùng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đơn để chọn ra ở
mỗi phường 2 khu phố. Sau quá trình chọn ngẫu nhiên mỗi phường 2 khu phố đã chọn ra được
danh sách bao gồm: Phú Cường là khu 2, khu 6; Ở Hiệp Thành là khu 1, khu 7; Ở Định Hòa là khu
3, khu 8. Dựa vào số liệu, đặc điểm dân cư do phường cung cấp, từ mỗi khu tiếp tục sử dụng
phương pháp ngẫu nhiên có hệ thống với số khoảng cách là 2 (k=2) để chọn ra các hộ dân để tiến
hành khảo sát. Sau khi đã đưa ra kế hoạch khảo sát, lập danh sách các hộ sẽ khảo sát dựa trên số
liệu từ các trưởng khu phố. Tiến hành khảo sát theo danh sách đã
11
đề ra đến khi thu thập đủ mẫu. Để dữ liệu mang tính đại diện và chính sát, tất
cả những đối tượng được khảo sát là những người quyết định chính trong
việc sử dụng bửa ăn hàng ngày trong gia đình. Như vậy, số liệu thu thập sẽ
đại diện cho tổng thể thành phố Thủ Dầu Một từ vùng ven đến nội thành.
Nghiên cứu này chủ yếu sử dụng thống kê mô tả và phương pháp quan sát để
đánh giá mục tiêu về thực trạng thị trường tiêu dùng rau hiện nay tại Thủ Dầu Một
(mục tiêu 1). Để đánh giá các hành vi ảnh hưởng đến lựa chọn rau (mục tiêu 2), bài
viết sử dụng kiểm định t để so sánh về điểm trung bình về các tiêu chí chọn lựa rau
giữa hai nhóm tiêu dùng (sử dụng rau an toàn và rau thông thường).
Để đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến mức sẵn lòng trả cho rau an
toàn (mục tiêu 3), phân tích hồi qui bằng phương pháp bình phương sai số
là nhỏ nhất (OLS) được áp dụng. Cụ thể,
Trong đó, lnWTP là logarit tự nhiên của mức sẵn lòng trả (WTP) của hộ gia đình
(đồng)
β2 …β7: Hệ số ước lượng của các biến độc lập ảnh hưởng lên WTP
ɛ: Sai số
Ngoài ra, để phân tích sâu hơn mức sẵn sòng trả trung bình phân theo
các nhóm độ tuổi có sự khác biệt hay không, phân tích phương sai (ANOVA)
được sử dụng trong bài viết này. Tất cả dữ liệu sau khi khảo sát, nhóm nghiên
cứu xử lý dữ liệu trên phần mềm SPSS và đưa ra kết quả phân tích.
12
Bảng 1. Mô tả biến trong mô hình
β1 Tung độ góc
incomepc Thu nhập bình quân đầu người Triệu đồng tháng
Edu Số năm đi học Năm
Age Tuổi Năm
nochil Số trẻ em từ 12 tuổi trở xuống Người
gender Giới tính Biến giả, 1 nếu là nữ và 0 nếu là nam
biến giả, 1 nếu xem thông tin rau củ ở mức
Mức độ quan tâm
duminfor thường xuyên và rất thường xuyên; 0 nếu
thông tin rau
ít khi hoặc không quan tâm
Phân tích này dự kiến sẽ tập trung vào các mảng đánh giá
Thực trạng thị trường rau an toàn tại các các kênh phân phối hiện tại của Thủ
Dầu Một như chợ (chợ Thủ Dầu Một, chợ Đình, chợ Phú Hòa, chợ Hàng Bông), siêu
thị (Coop mart, Big C) và cửa hàng rau an toàn (Đà Lạt house, LeFarms).
Đánh giá hành vi chi tiêu cho thực phẩm (rau/củ) hiện nay của các hộ
gia đình khảo sát như nơi mua, chi tiêu, quyết định lựa chọn rau/củ khi mua.
Bên cạnh đó bài viết cũng đưa ra các yếu tố ưu tiên khi mua hàng của hộ.
Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến mức sẵn lòng chi trả của hộ
đối với việc sử dụng rau an toàn. Cuối cùng, dựa trên kết quả nghiên
cứu, nhóm nghiên cứu đưa ra các đề xuất.
13
5. Khung thời gian
Chuẩn bị
Viết đề cương
nghiên cứu
Bảo vệ và hoàn thiện
đề cương
Thu thập dữ liệu thứ
cấp và dữ liệu sơ cấp
Khảo sát
Tiến hành khảo sát
thực tế
Nhập và xử lí dữ
liệu
Báo cáo
Phân tích
Viết cáo tổng kết
14
6. Tài liệu tham khảo
1. Lê Thị Hoa Sen, Hồ Thị Hồng, 2012. Một số yếu tố ảnh hưởng đến
sản xuất và tiêu thụ rau an toàn ở tỉnh Thừa Thiên Huế. Tạp chí khoa học
trường đại học Huế, 71(2), trang 253-266.
2. Nguyễn Văn Thuận và Võ Thành Danh, 2011. Phân tích các yếu tố
ảnh hưởng đến hành vi tiêu dùng rau an toàn tại thành phố Cần Thơ. Tạp
chí khoa học trường đại học Cần Thơ, 17b, trang 113-119.
3. Nguyễn Các Mác, Nguyễn Linh Trung, 2014. Nghiên cứu ảnh hưởng của
thông tin về nguồn gốc, xuất xứ sản phẩm rau đến hành vi tiêu dùng của người dân
trên địa bàn thành phố Hà Nội. Tạp chí Khoa học và Phát triển, 12(6), trang 877-884.
4. Nguyễn Thị Ngọc Ẩn, 2007. Đánh giá hiện trạng ô nhiễm chì (Pb) trong
rau xanh ở thành phố Hồ Chí Minh. Tạp chí phát triển KH&CN, 10(7), trang 1-9.
7. Lagerkvist, C. J., Okello, J.J. and Karanja, N., 2015. Consumers’ mental model
of food safety for fresh vegetables in Nairobi. British Food Journal, 117, pp. 22 – 36.
15
8. Liu, R., Pieniak, Z. and Verbeke,W., 2013. Consumers’ attitudes and
behaviour towards safe food in China: A review. Food Control, 33, pp. 93 - 104
11. Nguyen, M. H. D., Rutsaert, P., Van Loo, E. J. and Verbeke, W., 2017.
Consumers’ familiarity with and attitudes towards food quality certifications
for rice and vegetables in Vietnam. Food Control, 82, pp. 74-82.
15. Simmons, L. and Scott, S., 2008. Organic agriculture and “safe” vegetables in
16
17. Zhang, H. Y., 2010. Consumer behaviour to green agricultural
products and its influential factors in Guangzhou City. Journal of
Northwest A & F University, 10(4), pp. 53-56.
18. Zhao, C., Jin, M. and Zhao, M., 2008. The structure of female consumers’ purchasing
, 1, pp. 114-118.
17
PHỤ LỤC
7. Chi phí cho thực phẩm trung bình một ngày là ………………………..đồng
8. Anh/chị thường xuyên mua rau ở đâu? (Có thể chọn nhiều đáp án)
18
9. Lý do anh/chị mua rau tại đó (Có thể chọn nhiều đáp án)
Gần nhà/ tiện đường Giá rẻ Dễ lựa chọn
An toàn thực phẩm Đa dạng, phong phú Thói quen
Trưng bày thu hút Khác (xin nêu rõ)……………………………
11. Khi chọn mua rau anh/chị dựa vào:
Cảm tính Kinh nghiệm Kiến thức
Khác (xin nêu rõ)……………………………….
12. Anh/chị có theo dõi (đọc/nghe/xem…) thông tin về rau củ
Rất thường xuyên Thường xuyên Ít khi Không quan tâm
13. Anh/chị lo ngại về thực trạng rau củ không an toàn hiện nay do
Mức độ quan tâm
Với: 1.Hoàn toàn không quan tâm
STT
4. Rất quan tâm
6 Sử dụng chất bảo quản kéo dài thời gian tươi xanh 1 2 3 4
7 Sử dụng hóa chất để nâng cao về màu sắc 12 3 4
Hãy cho biết 3 ưu tiên anh/chị quan tâm nhất (dựa vào cột STT)
Ưu tiên nhất:………. Ưu tiên nhì:………. Ưu tiên ba:…………
14. Từ các tin tức về tình trạng rau không an toàn hiện nay thì anh/chị ứng
phó với tình huống ấy như thế nào?
…………………………………………………………………………………………………….
19
15. Gia đình anh/chị đã có ai đã từng ngộ độc do sử dụng rau củ gây ra không?
17. Khi nói đến rau củ an toàn, anh/chị thường nghĩ đến đó là rau/củ
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
29. Mức giá rau an toàn hiện nay theo anh/chị là Đắc Chấp nhận
được
21. Anh/chị biết đến rau củ an toàn qua kênh thông tin nào? (Có thể chọn nhiều đáp án)
22. Anh/chị có sẵn lòng chi trả nhiều hơn cho rau an toàn không? Có Không
23. Mức phần trăm giá chênh lệch tối đa mà anh/chị sẵn sàng chấp nhận chi trả
nhiều hơn cho việc sử dụng rau an toàn so với rau củ thông thường ……………%
24. Số tiền mà anh/chị sẵn lòng chi trả tối đa nếu sử dụng rau an toàn…………VND/ngày
20
25. Những yếu tố nào khiến anh/ chị cảm thấy khó khăn trong việc biết đến và sử dụng
rau an toàn? ………………………………………………………………………………………..
.......................................................................................................................................................
1 Giá cả 1 2 3 4
2 Thu nhập 1 2 3 4
3 Độ tươi 1 2 3 4
4 Sạch 1 2 3 4
9 Sức khỏe 1 2 3 4
10 Sản phẩm thân thiện với môi trường 1 2 3 4
11 Dễ bảo quản 1 2 3 4
13 Dễ chế biến 1 2 3 4
21
Hãy cho biết 5 tiêu chí anh/chị ưu tiên nhất (dựa vào cột STT)
Ưu tiên thứ nhất:………. Ưu tiên thứ nhì:………. Ưu tiên thứ ba:…………
27. Anh/ chị có thể đánh giá như thế nào về kinh tế gia đình của mình?
Giàu Khá Trung bình Dưới trung bình
22