You are on page 1of 8

Trích BỘ GIÁO LUẬT 983

Cuốn IV : Nhiệm vụ thánh hóa của Giáo Hội ( Điều 834- 1253)
Chương 1: Cử Hành Bí Tích Rửa Tội
Điều 850
Bí tích Rửa Tội được ban theo nghi thức được quy định trong các sách phụng
vụ đã được phê chuẩn, trừ trường hợp có nhu cầu khẩn cấp, khi đó chỉ phải
giữ những gì đòi buộc để bí tích được thành sự.
Điều 851
Việc cử hành bí tích Rửa Tội phải được chuẩn bị cách xứng hợp, bởi thế:
1
0 người thành niên muốn lãnh nhận bí tích Rửa Tội, phải được nhận vào
khóa dự tòng và, tùy mức độ có thể, phải được hướng dẫn vào việc khai tâm
về bí tích qua nhiều giai đoạn khác nhau, theo nghi thức khai tâm đã được
Hội Đồng Giám Mục thích nghi và theo những quy tắc riêng do Hội Đồng
Giám Mục ban hành;
2
0 cha mẹ nhi đồng sắp được Rửa Tội, cũng như những người sắp đảm nhận
nhiệm vụ đỡ đầu, phải được giáo huấn cách xứng hợp về ý nghĩa của bí tích
này và về những nghĩa vụ gắn liền với bí tích; khi tập hợp nhiều gia đình lại,
và khi đi thăm họ, ở đâu có thể, cha sở, tự mình hoặc nhờ người khác, phải
liệu sao để các bậc cha mẹ được chuẩn bị cách xứng hợp bằng những bài
huấn dụ mục vụ, hơn nữa còn bằng việc cầu nguyện chung.
Điều 852
§1. Những gì đã được quy định trong những điều về bí tích Rửa Tội cho
người thành niên cũng được áp dụng cho tất cả mọi người quá tuổi nhi đồng
đã biết sử dụng trí khôn.
§2. Người nào không làm chủ được mình thì được đồng hóa với nhi đồng, cả
trong vấn đề liên quan đến bí tích Rửa Tội.
Điều 853
Ngoài trường hợp cần thiết, nước dùng để ban bí tích Rửa Tội phải được làm
phép theo những quy định của các sách phụng vụ.
Điều 854
Phải ban bí tích Rửa Tội hoặc bằng cách dìm xuống nước, hoặc bằng cách đổ
nước, nhưng phải tuân giữ các quy định của Hội đồng Giám Mục.
Điều 855
Cha mẹ, những người đỡ đầu và cha sở phải liệu sao để đừng đặt tên xa lạ với
ý nghĩa Kitô giáo.
Điều 856
Mặc dù có thể cử hành bí tích Rửa Tội vào bất cứ ngày nào cũng được,
nhưng thông thường; khuyên nên cử hành bí tích này vào ngày Chúa Nhật
hoặc nếu có thể được, vào đêm vọng Phục Sinh.
Điều 857
§1. Ngoài trường hợp cần thiết, nơi dành riêng để ban bí tích Rửa Tội là nhà
thờ hoặc nhà nguyện.
§2. Theo luật chung, phải ban bí tích rửa Tội cho người thành niên tại nhà thờ
riêng của giáo xứ của họ và cho nhi đồng tại nhà thờ giáo xứ của cha mẹ
chúng, trừ khi có một lý do chính đáng khuyên làm cách khác.
Điều 858
§1. Tất cả mọi nhà thờ giáo xứ phải có giếng Rửa Tội, miễn là vẫn giữ
nguyên quyền có giếng Rửa Tội mà các nhà thờ khác đã thủ đắc.
§2. Để tiện lợi cho tín hữu, sau khi đã tham khảo ý kiến của cha sở, Đấng
Bản Quyền địa phương có thể cho phép hoặc truyền lệnh làm giếng Rửa Tội
cả trong một nhà thờ hoặc một nhà nguyện khác nằm trong ranh giới của giáo
xứ.
Điều 859
Nếu người sắp được Rửa Tội, vì ở xa hoặc vì những hoàn cảnh khác, không
thể đến hoặc không thể được đưa đến nhà thờ giáo xứ hoặc nhà thờ hay nhà
nguyện khác được nói đến ở điều 858 §2 mà không có sự bất tiện lớn, thì có
thể và phải lãnh nhận bí tích Rửa Tội trong một nhà thờ hay một nhà nguyện
khác gần hơn, hoặc tại một nơi khác xứng đáng.
Điều 860
§1. Ngoài trường hợp cần thiết, không được ban bí tích Rửa Tội tại tư gia, trừ
khi Đấng Bản Quyền địa phương cho phép vì một lý do quan trọng.
§2. Nếu Giám Mục giáo phận không ấn định cách khác, không được cử hành
bí tích Rửa Tội tại các bệnh viện, trừ trường hợp cần thiết hay vì một lý do
mục vụ khác đòi buộc.
Chương 2: Thừa Tác Viên Bí Tích Rửa Tội
Điều 861
§1. Thừa tác viên thông thường của bí tích Rửa Tội là Giám Mục, linh mục
và phó tế, miễn là vẫn giữ nguyên những quy định của điều 530, 1
0
.
§2. Nếu thừa tác viên thông thường vắng mặt hay bị ngăn trở, thì một giáo lý
viên hay một người khác được Đấng Bản Quyền địa phương ủy thác làm
nhiệm vụ này, hơn nữa trong trường hợp cần thiết, bất cứ người nào với ý
hướng cần có, đều ban bí tích Rửa Tội cách hợp thức; các vị chủ chăn các
linh hồn, nhất là các cha sở, phải liệu sao để dạy cho các Kitô hữu biết Rửa
Tội đúng cách.
Điều 862
Trừ trường hợp cần thiết, nếu không được phép buộc phải có, không ai có thể
ban bí tích Rửa Tội trong một địa hạt khác, dù là ban cho những người thuộc
quyền mình.
Điều 863
Việc ban bí tích Rửa Tội cho người thành niên ít là cho những người đã được
trọn mười bốn tuổi, nên được trình lên Giám Mục giáo phận, để chính ngài
đích thân ban bí tích này, nếu ngài xét thấy điều đó thuận lợi.
Chương 3: Những Người Lãnh Nhận Bí Tích Rửa Tội
Điều 864
Tất cả và chỉ những người chưa được Rửa Tội mới có khả năng lãnh nhận bí
tích Rửa Tội.
Điều 865
§1. Để có thể được Rửa Tội, người thành niên phải bày tỏ ý muốn lãnh nhận
bí tích Rửa Tội, phải được dạy dỗ đủ về những chân lý đức tin và những
nghĩa vụ Kitô giáo và phải được thử luyện sống đời Kitô hữu qua thời gian
dự tòng; họ cũng được khuyên nhủ ăn năn tội lỗi của mình.
§2. Trong trường hợp nguy tử, người thành niên có thể được Rửa Tội, nếu
sau khi đã có một vài nhận thức về những chân lý chính yếu của đức tin, họ
tỏ ý muốn lãnh nhận bí tích Rửa Tội bằng bất cứ cách nào, và hứa sẽ tuân giữ
các giới răn của Kitô giáo.
Điều 866
Trừ khi có một ngăn trở nghiêm trọng, người thành niên nào được Rửa Tội
thì cũng lãnh nhận bí tích Thêm Sức ngay sau bí tích Rửa Tội, tham dự
Thánh Lễ, cũng như rước lễ.
Điều 867
§1. Các bậc cha mẹ phải lo cho con cái mình được Rửa Tội trong vòng những
tuần lễ đầu tiên; vào dịp việc sớm sau khi sinh và ngay cả trước khi sinh, họ
phải đến gặp cha sở để xin ngài ban bí tích cho con mình và để được chuẩn bị
kỹ luỡng về bí tích ấy.
§2. Nếu nhi đồng đang lâm cơn nguy tử, thì được Rửa Tội ngay không chút
trì hoãn.
Điều 868
§1. Để Rửa Tội một nhi đồng cách hợp thức, thì phải;
1
0 có sự chấp thuận của cha mẹ, hay ít của một trong hai người, hoặc của
người thay quyền họ cách hợp pháp.
2
0 có một niềm hy vọng chắc chắn là em sẽ được giáo dục trong đạo Công
giáo; nếu hoàn toàn thiếu niềm hy vọng này, thì phải hoãn ban bí tích Rửa
Tội, chiếu theo những quy định của luật địa phương, sau khi đã thông báo
cho cha mẹ biết lý do.
§2. Trong cơn nguy tử, nhi đồng của cha mẹ Công giáo đều được Rửa Tội
cách hợp thức, dù trái với ý muốn của cha mẹ.
Điều 869
§1. Nếu hồ nghi một người đã được Rửa Tội hay chưa, hoặc bí tích Rửa Tội
được ban cho người đó có thành sự hay không, và nếu vẫn còn hồ nghi sau
khi đã điều tra cặn kẽ, thì phải ban bí tích Rửa Tội cho họ với điều kiện.
§2. Những người đã được Rửa Tội trong một cộng đoàn Giáo Hội không
Công giáo, thì không được RửaTội với điều kiện, trừ khi có một lý do nghiêm
chỉnh để hồ nghi về tính thành sự của bí tích Rửa Tội, sau khi đã điều tra về
chất thể và mô thể đã được dùng khi ban bí tích, cũng như về ý muốn của
người thành niên được Rửa Tội và của thừa tác viên ban bí tích Rửa Tội.
§3. Nếu trong những trường hợp được nói đến ở §§1 và 2 vẫn còn hồ nghi về
việc ban hoặc về tính thành sự của bí tích Rửa Tội, thì chỉ được ban bí tích
Rửa, sau khi đã trình bày đạo lý về bí tích Rửa Tội cho người lãnh nhận bí
tích Rửa Tội, và sau khi đã cho chính đương sự, nếu là người thành niên,
hoặc cho cha mẹ của đương sự nếu là nhi đồng, biết những lý do hồ nghi về
tính thành sự của bí tích đã được cử hành trước đây.
Điều 870
Phải ban bí tích Rửa Tội cho nhi đồng bị bỏ rơi hoặc vô thừa nhận, trừ khi
việc điều tra cẩn thận cho biết em đã được Rửa Tội rồi.
Điều 871
Trong mức độ có thể, phải Rửa Tội cho những thai nhi bị sẩy, nếu chúng còn
sống.
Chương 4: Người Đỡ Đầu
Điều 872
Trong mức độ có thể, người sắp lãnh nhận bí tích Rửa Tội phải có một người
đỡ đầu. Người này giúp người thành niên sắp lãnh nhận bí tích Rửa Tội trong
việc khai tâm Kitô giáo; còn đối với nhi đồng sắp được Rửa Tội, thì người đỡ
đầu cùng với cha mẹ đưa em đến chịu phép Rửa Tội và liệu sao cho em sau
này sống một đời Kitô giáo xứng hợp với bí tích Rửa Tội và trung thành chu
toàn những nghĩa vụ gắn liền với bí tích.
Điều 873
Phải nhận một cha đỡ đầu hoặc một mẹ đỡ đầu mà thôi, hoặc là cả cha và mẹ
đỡ đầu.
Điều 874
§1. Để được chấp nhận giữ nhiệm vụ đỡ đầu, người đỡ đầu phải:
1
0 do chính người sắp được Rửa Tội chọn hay do cha mẹ hay những người
thay quyền cha mẹ chọn, hoặc thiếu những người ấy, thì do cha sở hay do
thừa tác viên chọn, và phải có khả năng và ý muốn đảm nhận nhiệm vụ này;
2
0 đủ mười sáu tuổi trọn, trừ khi Giám Mục giáo phận đã ấn định một mức
tuổi khác, hoặc trừ khi cha sở hay hừa tác viên xét thấy phải chấp nhận, vì
một lý do ngoại lệ;
3
0
là người Công giáo đã lãnh nhận bí tích Thêm Sức, và bí tích Thánh Thể,
và phải có đời sống xứng hợp với đời sống đức tin và nhiệm vụ phải đảm
nhận;
4
0 không mắc một hình phạt của giáo luật đã được tuyên kết hay tuyên bố
cách hợp pháp;
5
0 không là cha hoặc mẹ của người được Rửa Tội.
§2. Một người đã được Rửa Tội thuộc một cộng đoàn của Giáo Hội không
Công giáo chỉ được chấp nhận như là nhân chứng của bí tích Rửa Tội cùng
với một người đỡ đầu Công giáo.
Chương 5: Chứng Minh Và Ghi Sổ Ban Bí Tích Rửa Tội
Điều 875
Người nào ban bí tích Rửa Tội, thì phải liệu sao cho có được ít là một người
làm chứng, để có thể chứng minh việc ban bí tích Rửa Tội, nếu không có
người đỡ đầu.
Điều 876
Lời tuyên bố của một nhân chứng đáng tin cậy hay lời thề của chính người đã
được Rửa Tội, nếu họ đã lãnh nhận bí tích Rửa Tội ở tuổi thành niên, đủ để
làm bằng chứng cho việc ban bí tích Rửa Tội, nếu điều đó không gây thiệt hại
cho ai.
Điều 877
§1. Cha sở tại nơi cử hành bí tích Rửa Tội phải cẩn thận ghi ngay vào sổ Rửa
Tội tên của những người đã được Rửa Tội, của thừa tác viên, của cha mẹ, của
người đỡ đầu và của những nhân chứng, nếu có, ngày và nơi ban bí tích Rửa
Tội, cũng như ngày và nơi sinh của họ.
§2. Trong trường hợp một đứa con của người mẹ không có hôn phối, thì phải
ghi tên người mẹ, nếu mẫu tính được biết cách công khai, hoặc nếu chính
người mẹ tự ý yêu cầu điều đó bằng văn bản hay trước mặt hai nhân chứng,
cũng phải ghi tên người cha, nếu phụ tính được chứng minh qua một tài liệu
chính thức hay qua lời tuyên bố của đương sự trước mặt cha sở và hai nhân
chứng; trong những trường hợp khác, chỉ phải ghi tên người được Rửa Tội
mà thôi, chứ không ghi tên người cha hoặc tên cha mẹ.
§3. Nếu là con nuôi, thì phải ghi tên các người nuôi, ít là khi điều đó được thể
hiện trong sổ hộ tịch địa phương, và tên cha mẹ ruột, chiếu theo quy tắc của
§§1 và 2, và phải lưu ý đến những quy định của Hội Đồng Giám Mục.
Điều 878
Nếu cha sở không cử hành bí tích tích Rửa Tội và cũng không có mặt, thì
thừa tác viên của bí tích Rửa Tội, dù là ai đi nữa, phải thông báo cho cha sở
của giáo xứ nơi mà bí tích Rửa Tội đã được cử hành, để ngài ghi vào sổ chiếu
theo quy tắc của điều 877 §1

You might also like