You are on page 1of 28

Carbohydrat

Carbohydrate là polyhydroxy aldehyde hoặc xeton.

24.2 Phân loại Monosaccharid

Aldoses vs. Ketoses

Đường đơn được gọi là monosaccharide, một thuật ngữ bắt nguồn từ tiếng Latinh cho đường, saccharum.
Đường phức tạp, chẳng hạn như disaccharid và polysaccharid, được tạo ra bằng cách nối các monosaccharid lại
với nhau, và chúng sẽ được thảo luận sau trong chương này.

Các monosaccharide thường mang nhiều trung tâm bất đối xứng, và các phép chiếu Fischer được sử dụng để
biểu diễn mỗi trung tâm bất đối xứng. Glucose và fructose là hai ví dụ về đường đơn.

Hậu tố -ose được sử dụng để biểu thị một carbohydrate. Hàng trăm monosaccharide khác nhau đã được biết
đến, mỗi monosaccharide thường có thể được phân loại là aldose hoặc ketose. Anđehit chứa một gốc anđehit,
trong khi xeton chứa một gốc xeton. Theo sơ đồ phân loại này, glucose là một aldose và fructose là một ketose.

Anđehit và xeton có thể được phân loại chi tiết hơn bằng cách kết hợp tiêu chí dựa trên số lượng nguyên tử
cacbon có trong mỗi phân tử. Điều này được thực hiện bằng cách chèn thêm thuật ngữ (tri-, tetra-, pent-, hex-
hoặc hept-) ngay trước hậu tố -ose.

Hợp chất đầu tiên là một aldose có năm nguyên tử carbon, và do đó nó được gọi là aldopentose. Hợp chất thứ
hai là một ketose có sáu nguyên tử carbon, và do đó nó được gọi là ketohexose. Theo cách này, cacbohydrat
được phân loại bằng cách sử dụng ba ký hiệu mô tả:

1. aldo hoặc keto, cho biết hợp chất là aldehyde hay xeton

2. tri-, tetr-, pent-, hex-, hoặc hept-, cho biết số nguyên tử cacbon

3. -ose, chỉ ra một carbohydrate


Glyceraldehyde là một trong những hợp chất nhỏ nhất được coi là một carbohydrate. Nó chỉ có một trung tâm
bất đối và do đó có thể tồn tại một cặp đồng phân đối quang.

Như đã biết các chất đối quang làm quay mặt phẳng phân cực của ánh sáng phân cực theo các hướng ngược
nhau. Một đồng phân đối quang quay mặt phẳng phân cực của ánh sáng phân cực theo chiều kim đồng hồ
(dextrorotatory) và được ký hiệu là (+); đồng phân đối quang kia quay mặt phẳng phân cực của ánh sáng phân
cực phẳng theo hướng ngược chiều kim đồng hồ (levorotatory) và được ký hiệu là (-).(+) glyceraldehyd thu
được từ các nguồn tự nhiên thường được gọi là D-glyceraldehyde. Levorotatory hoặc l-glyceraldehyde có thể
được tạo ra trong phòng thí nghiệm, không được quan sát thấy trong tự nhiên.

Các nghiên cứu ban đầu về cacbohydrat cho thấy rằng hầu hết các cacbohydrat có trong tự nhiên có thể bị thoái
phân để tạo ra D-glyceraldehit. Ví dụ, sự phân hủy của glucose trong tự nhiên tạo ra D-glyceraldehyde (Hình
24.1). Trong quá trình phân huỷ, các nguyên tử cacbon lần lượt bị loại bỏ (từ đỉnh của hình chiếu Fischer).
Thoái phân ba nguyên tử cacbon từ glucozơ trong tự nhiên sẽ tạo ra D-glyceraldehit. Quan sát tương tự cũng
được thực hiện đối với các loại carbohydrate tự nhiên khác.

Ngược lại, đối với cacbohydrat tổng hợp (được điều chế trong phòng thí nghiệm) khi thoái phân, tạo ra hỗn hợp
D- và L-glyceraldehyd. Để đáp lại những quan sát này, các nhà hóa học bắt đầu sử dụng quy ước Fischer-
Rosanoff, trong đó chữ D chỉ bất kỳ loại đường nào khi thoái phân sẽ tạo thành (+) glyceraldehyd. Theo quy
ước này, hầu hết tất cả các cacbohydrat có trong tự nhiên đều là đường D điều này có nghĩa trung tâm bất đối
nằm xa nhất với nhóm cacbonyl sẽ có một nhóm OH quay về bên phải trong phép chiếu Fischer, như trong các
ví dụ sau.

Trong khi D-glyceraldehyde là dextrorotatory (theo định nghĩa), các loại đường D khác không nhất thiết là
dextrorotatory. Ví dụ, D-erythrose và D-threose thực sự là levorotatory.
Trong ngữ cảnh này, chữ D không còn dùng để chỉ hướng quay của ánh sáng phân cực phẳng. Đúng hơn, nó có
nghĩa là trung tâm bất đối xa nhất (trung tâm xa nhất với nhóm cacbonyl) có cấu hình R giống như ở
(+)Glyceraldehit. Tương tự như vậy, đường L không nhất thiết phải là levorotatory, mà đường Lchỉ đơn giản là
đồng phân đối quang của đường D tương ứng.

Bài 24.1: Phân loại từng loại cacbohydrat sau đây là aldose hoặc ketose, sau đó chèn thuật ngữ thích hợp để
biểu thị số nguyên tử carbon có mặt (ví dụ, aldopentose):

Bài 24.2: Bạn cho rằng một aldohexose và một ketohexose là đồng phân cấu tạo của nhau hay không? Giải
thích lý do?

Bài 24.3: Cho biết mỗi cacbohydrat sau đây là đường D hay đường Lvà xác định cấu hình tuyệt đối cho mỗi
trung tâm bất đối. Sau khi gán cấu hình cho tất cả các trung tâm bất đối, bạn có nhận thấy bất kỳ quy luật nào
giúp cho việc gán cấu hình của trung tâm bất đối trong mỗi carbohydrate nhanh hơn không?

Bài 24.4: D-Allose là một aldohexose trong đó cả bốn trung tâm bất đối đều có cấu hình R. Vẽ công thức hình
chiếu Fischer của mỗi hợp chất sau:

(a) D-Allose (b) L-Allose.

Bài 24.5: Chỉ có hai đồng phân lập thể của Ketotetroses

(a) Vẽ cả hai cấu trúc đó.

(b) Xác định mối quan hệ đồng phân lập thể của chúng.
(c) Cho biết đâu là đường D và đâu là đường L.

Bài 24.6 Có bốn đồng phân lập thể aldotetroses.

(a) Vẽ cả bốn cấu trúc đó và sắp xếp chúng thành từng cặp đồng phân đối quang.

(b) Cho biết đồng phân lập thể nào là đường D và đồng phân nào là đường L.

24.3 Cấu hình của Aldoses

Aldotetroses

Aldotetroses có hai trung tâm bất đối có bốn aldotetroses có thể có (hai cặp đồng phân đối hình). Hai trong số
các aldotetros có thể có là đường D, trong khi hai loại còn lại là đường L. Các đường D được gọi là D-erythrose
và D-threose (Hình 24.2). Các đường L, được gọi là L-erythrose và L-threose, là các đối quang của các D
aldotetroses.

Aldopentoses

Aldopentoses có ba trung tâm bất đối có tám aldopentoses có thể có (bốn cặp đồng phân đối quang). Bốn trong
số các aldopentose này là đường D, trong khi bốn aldopentose còn lại là đường L. Hình 24.3 cho thấy các
đường D. D-Ribose là một khối cấu tạo quan trọng của RNA. D-Arabinose được tạo ra bởi hầu hết các loại thực
vật, và D-xylose được tìm thấy trong gỗ.

Aldohexoses

Aldohexoses có bốn trung tâm bất đối tạo ra 24 đồng phân lập thể có thể có. 16 đồng phân lập thể này có thể
được xếp thành 8 cặp đồng phân đối quang, trong đó mỗi cặp bao gồm một đường D và một đường L. Vì đường
D được quan sát trong tự nhiên, chúng ta hãy tập trung vào loại đường D. Có tám trong số chúng (Hình 24.4).

Trong số tám đường D-aldohexoses, D-glucose là phổ biến nhất và quan trọng nhất, và phần còn lại của chương
này sẽ tập trung chủ yếu vào D-glucose.
Hình 24.5 tóm tắt họ D- aldoses được thảo luận trong phần này. Được xây dựng theo cách sau: Bắt đầu với D-
glyceraldehyde, một trung tâm bất đối mới được chèn ngay bên dưới nhóm cacbonyl, tạo ra hai aldotetroses có
thể có. Sau đó, một trung tâm bất đối mới được đưa vào ngay bên dưới nhóm cacbonyl của mỗi aldotetrose, tạo
ra bốn aldopentoses có thể có. Theo một cách tương tự, mỗi aldopentoses dẫn đến hình thành hai aldohexoses,
tạo ra tổng cộng là 8 D-aldohexoses. Mỗi hợp chất trong Hình 24.5 có một đồng phân đối quang L tương ứng
không được biểu diễn.
24.4 Cấu hình của Ketoses

Hình 24.6 tóm tắt họ D-ketoses có từ ba đến sáu nguyên tử cacbon. Họ này được xây dựng theo cách giống như
họ D-aldoses, bắt đầu với dihydroxyacetone là chất mẹ. Tuy nhiên, bởi vì nhóm cacbonyl ở C2 chứ không phải
C1, xeton có ít hơn các aldose có cùng công thức phân tử một trung tâm bất đối . Kết quả là, chỉ có bốn D-
Ketohexoses. Xetose tự nhiên phổ biến nhất là D-fructose. Mỗi hợp chất trong Hình 24.6 có một đồng phân đối
quang L tương ứng không được biểu diễn.
Bài 24.7: Hãy vẽ và gọi tên đồng phân đối quang của D-fructozơ.

Bài 24.8: Thuật ngữ nào sau đây mô tả đúng nhất mối quan hệ giữa D-fructozơ và D-glucozơ? Giải thích

(a) Đồng phân đối quang (b) Đồng phân dia (c) Đồng phân cấu tạo

24.5 Cấu trúc vòng của Monosaccharid

Một anđehit có thể phản ứng với một ancol khi có mặt chất xúc tác axit để tạo ra hemiacetal.

Thấy rằng trạng thái cân bằng không có lợi cho sự hình thành hemiacetal. Tuy nhiên, khi gốc andehit và nhóm
hydroxyl nằm trên cùng một phân tử, một phản ứng nội phân tử có thể xảy ra để tạo thành một hemiacetal mạch
vòng với hằng số cân bằng lớn hơn thuận lợi cho việc hình thành sản phẩm.
Các vòng sáu cạnh tương đối không bị biến dạng, và sự cân bằng tạo điều kiện cho sự hình thành hemiacetal
vòng. Loại phản ứng này đặc trưng cho các hợp chất hai loại nhóm chức hydroxyl và cacbonyl (anđehit hoặc
xeton). Khi vẽ hemiacetal của hydroxyaldehyde hoặc hydroxyketone, điều quan trọng là phải theo dõi tất cả các
nguyên tử carbon. Sai lầm phổ biến là vẽ hemiacetal có quá nhiều hoặc quá ít nguyên tử cacbon. Các bài tập
dưới đây được thiết kế để giúp bạn tránh những sai lầm đó.

VD: Hãy vẽ hemiacetal mạch vòng được tạo thành khi hiđroxyaldehyde sau đây trải qua phản ứng đóng vòng
trong điều kiện axit.

LG:

Hợp chất này chứa cả nhóm hydroxyl và nhóm aldehyde, vì vậy nó có thể tạo thành hemiacetal. Đầu tiên chúng
ta phải xác định kích thước của vòng được hình thành. Tất cả các nguyên tử cacbon phải được đánh số để tránh
vẽ một vòng không chính xác. Bắt đầu từ cacbon của nhóm anđehit và tiếp tục cho đến khi đạt đến cacbon gắn
nhóm OH.

Trong trường hợp này, có bốn nguyên tử cacbon sẽ nằm trên vòng. Vòng được hình thành khi nguyên tử oxy
của nhóm OH tấn công cacbonyl, và do đó, nguyên tử oxy của nhóm OH cũng phải nằm trên vòng điều này có
nghĩa vòng tạo thành gồm bốn nguyên tử carbon và một nguyên tử oxy tức phản ứng, tạo ra một vòng năm cạnh

Chú ý rằng nguyên tử cacbon đầu tiên (vị trí C1) đồng thời liên kết với nguyên tử oxy của vòng và gắn với
nhóm OH mới hình thành. Nói cách khác, nhóm hemiacetal nằm ở C1. Hệ thống đánh số này không chỉ giúp vẽ
vòng chính xác, mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc gắn các nhóm thế một cách thuận lợi. Trong trường hợp
này, có hai nhóm metyl, cả hai đều gắn ở vị trí C3.

Bài 24.9: Hãy vẽ hemiacetal mạch vòng được tạo thành khi xử lý từng hợp chất sau bằng axit/nước:
Bài 24.10: Cho biết hiđroxyalđehit đóng vòng trong điều kiện axit để tạo ra hemiacetal sau:

Bài 24.11: Hợp chất sau đây có một nhóm anđehit và hai nhóm OH: Trong điều kiện axit, một trong hai nhóm
OH có thể hoạt động như một nucleophile và tấn công nhóm cacbonyl, có thể tạo hai hợp chất mang vòng.

(a) Bỏ qua hóa lập thể, hãy vẽ cấu trúc cả hai vòng có thể có.

(b) Hãy dự đoán hemiacetal vòng nào sẽ được ưu tiên trong trường hợp này.

Pyranose của các Monosaccharid

Chúng ta đã thấy rằng một hợp chất có chứa cả một nhóm OH và một gốc andehit sẽ trải qua một quá trình nội
phân tử để tạo thành một hemiacetal tuần hoàn, với một hằng số cân bằng thuận lợi. Sự cân bằng tương tự giữa
dạng mở và dạng đóng được quan sát thấy đối với cacbohydrat.

Ví dụ, D-glucozơ có thể tồn tại ở cả dạng mạch hở và dạng mạch vòng. Các công thức Haworth sau đây chỉ ra
sự phức tạp tại mỗi trung tâm bất đối:

Ở dạng vòng, vòng này được gọi là vòng pyranose, được đặt theo tên của pyran, một hợp chất đơn giản có vòng
sáu cạnh với một nguyên tử oxy nằm trên vòng. Sự cân bằng này hỗ trợ rất nhiều cho sự hình thành hemiacetal
vòng. Tức là, D-glucose hầu như chỉ tồn tại ở dạng hemiacetal vòng được gọi là D-glucopyranose, và chỉ một
lượng nhỏ tồn tại ở dạng mạch hở ở trạng thái cân bằng.

Khi D-glucose trải qua quá trình đóng vòng, hai đồng phân lập thể khác nhau của D-glucopyranose có thể hình
thành (Hình 24.7). Khi glucozơ được đóng vòng tạo hemiacetal, cacbon aldehyt (C1) trở thành trung tâm bất đối
cả hai đồng phân quang học tại trung tâm bất đối mới đó đều có thể được tạo thành. Vị trí C1 được gọi là carbon
anomeric, và các đồng phân lập thể tại vị trí này được gọi là anomer. Hai đồng phân được gắn nhãn là α-D-
glucopyranose và β-D-glucopyranose. Trong đó anomer α, nhóm hydroxyl ở vị trí anome có cấu hình trans với
nhóm CH2OH, trong khi đó anomer β, nhóm hydroxyl tạo thành cấu hình cis với nhóm CH2OH (Hình 24.8).
Một cân bằng được thiết lập giữa α-D-glucopyranose và β-D-glucopyranose với trạng thái cân bằng nghiêng về
β anomer (63% β và 37% α). Dạng mạch mở chỉ xuất hiện diện với lượng rất nhỏ ở trạng thái cân bằng
(<0,01%), nhưng rất quan trọng, vì nó đóng vai trò là trung gian cho cân bằng chuyển hóa giữa hai đồng phân
anomer.
Như chúng ta có thể dự đoán, α-D-glucopyranose và β-D-glucopyranose có các tính chất vật lý khác nhau bởi vì
mối quan hệ của chúng là đồng phân dia. Ví dụ: so sánh góc quay riêng cho hai hợp chất này:

Khi đồng phân α tinh khiết được hòa tan trong nước, nó bắt đầu chuyển hóa và tạo cân bằng với đồng phân β,
tạo ra một hỗn hợp tại thời điểm cân bằng. Ban đầu, đồng phân α tinh khiết có góc quay riêng + 112 °, nhưng
khi cân bằng giá trị góc quay cực riêng của dung dịch đo được là + 52,6 °. Một kết quả tương tự cũng thu được
khi hòa tan đồng phân β tinh khiết trong nước. Ban đầu, anomer đồng phân β tinh khiết có góc quay cực riêng +
18,7 °, nhưng khi hỗn hợp đạt trang thái cân bằng, góc quay cực riêng đo được + 52,6 °. Hiện tượng này được
gọi là mutarotation, một thuật ngữ thường được sử dụng để mô tả các đồng phân anomer α và β có thể tạo ra
một cân bằng thông qua dạng mạch hở. Mutarotation xảy ra nhanh hơn khi có mặt axit hoặc bazơ xúc tác.
Không phải lúc nào cũng có thể xác định được dạng pyranose (α hoặc β) nào sẽ chiếm ưu thế. Đối với D-
glucose, dạng β chiếm ưu thế sau khi đạt trạng thái cân bằng, trong khi đối với D-mannose, dạng α chiếm ưu thế
ở trạng thái cân bằng

Vẽ công thức haworth của một aldohexose

Vẽ cấu trúc của α-D-galactopyranose.

LG:

Phân tích tên gọi: Hợp chất này là D-galactose đã trải qua quá trình đóng vòng để tạo thành vòng α-pyranose.
Hãy bắt đầu bằng cách vẽ khung của một vòng pyranose:

Khi vẽ một vòng pyranose, quy ước được chấp nhận là đặt ôxy ở vị trí phía sau bên phải. Bây giờ chúng ta phải
tính đến tất cả các nguyên tử cacbon.

Một vòng pyranose chỉ chứa 5 nguyên tử carbon, nhưng D-galactose có sáu nguyên tử carbon:

Nguyên tử cacbon thứ sáu (C6) trong D-galactose là một nhóm CH2OH, và nó được gắn với vị trí C5. Do đó,
chúng ta rút ra một nhóm CH2OH nối với vị trí C5 trong vòng pyranose. Chữ “D” chỉ ra rằng nhóm CH2OH
phải ở vị trí trên vòng pyranose:

Điều đó sẽ quan tâm đến sự hình thành tại một trong những vị trí của vòng pyranose. Bây giờ chúng ta hãy tập
trung vào các vị trí còn lại. Sự hình thành ở C1 (carbon anomeric) được chuyển tải dưới tên của dạng vòng
pyranose. Thuật ngữ alpha có nghĩa là nhóm OH ở vị trí C1 phải quay xuống (khác phía với nhóm CH2OH):
Các trung tâm bất đối xứng còn lại (C2, C3 và C4) được vẽ theo quy tắc sau: Bất kỳ nhóm OH nào ở phía bên
phải của công thức Fischer của dạng mạch hở sẽ hướng xuống trong công thức Haworth của dạng vòng, trong
khi bất kỳ nhóm OH nào ở bên trái của công thức Fischer sẽ hướng lên trên vòng trong công thức Haworth:

Bài 24.12: Vẽ công thức Haworth cho mỗi hợp chất sau:

(a) β-D-Galactopyranose (b) α-D-Mannopyranose (c) α-D-Allopyranose

(d) β-D-Mannopyranose (e) β-D-Glucopyranose (f) α-D-Glucopyranose

Bài 24.13: Cho biết tên của hợp chất sau:

Bài 24.14: Mutarotation gây ra sự chuyển hóa β-D-mannopyranose thành α-D-mannopyranose. Sử dụng công
thức Haworth, hãy viết điểm cân bằng giữa hai dạng pyranose và dạng mạch hở ở của D-mannose.

Bài 24.15: Khi D-talose được hòa tan trong nước, một trạng thái cân bằng được thiết lập trong đó có hai dạng
pyranose. Vẽ cả hai dạng pyranose và gọi tên chúng.

Công thức lập thể ba chiều của vòng Pyranose

Công thức Haworth thường được sử dụng để biểu diễn các dạng vòng của D-glucose. Mặc dù các công thức
Haworth cực kỳ hữu ích để biểu diễn các cấu hình, nhưng chúng không hiệu quả để mô tả cấu trúc của một hợp
chất. Một dạng D-glucose mạch vòng sẽ dành phần lớn thời gian của nó tồn tại ở cấu dạng ghế.

Khi vẽ công thức Haworth hoặc cấu dạng ghế, quy ước là đặt nguyên tử oxy ở vị trí phía trên, phía sau bên phải,
như được đánh dấu bằng màu đỏ. Lưu ý rằng ở dạng mạch vòng của D-glucose, tất cả các nhóm thế có thể
chiếm vị trí biên, điều này làm cho hợp chất rất bền và giải thích tại sao D-glucose là monosaccarit phổ biến
nhất trong tự nhiên.

VD: Vẽ cấu dạng ghế bền hơn của α-D-galactopyranose.


LG: Bước đầu tiên là vẽ công thức Haworth của hợp chất:

Hợp chất này có thể có hai cấu dạng ghế khác nhau và chúng ta phải xác định cấu dạng nào ổn định hơn. Chúng
ta bắt đầu bằng cách vẽ một trong các cấu dạng ghế. Oxy chiếm vị trí phía trên, phía sau bên phải:

Các lựa chọn thay thế sau đây không phải là thông thường vì những lý do được chỉ ra:

Vẽ khung vòng rất quan trọng để vẽ đúng cấu dạng ghế. Bước tiếp theo là vẽ tất cả các nhóm thế. Mỗi nhóm thế
được dán nhãn là LÊN hoặc XUỐNG và sau đó đặt vào vị trí thích hợp trên cấu dạng ghế:

Đây là một trong hai cấu dạng ghế mà hợp chất có thể có. Trước khi vẽ vòng lật để đưa ra cấu trúc chiếc ghế
khác, trước tiên chúng ta hãy phân tích cấu trúc này. Đặc biệt, chúng tôi nhìn vào mỗi nhóm thế và xác định
xem nó chiếm vị trí trục hay biên. Trong trường hợp này, hai trong số các nhóm OH chiếm vị trí trục và hai
nhóm chiếm vị trí biên; nhóm CH2OH chiếm vị trí biên.

Nhớ lại rằng một vòng lật chuyển tất cả các vị trí trục thành các vị trí biên và tất cả các vị trí biên thành các vị
trí trục. Cũng nhớ lại rằng cấu trúc ghế ổn định hơn sẽ là cấu trúc mà các nhóm lớn nhất chiếm các vị trí biên.
Trong trường hợp này, CH2OH là nhóm thế lớn nhất, vì vậy cấu trúc ghế bền nhất sẽ là cấu trúc trong đó nhóm
này chiếm vị trí biên, như được minh họa. Các cấu trúc ghế khác sẽ kém ổn định hơn, vì vậy không cần thiết
phải vẽ vòng lật. Đây thường là trường hợp của D-aldohexoses .

Bài 24.16: Hãy vẽ cấu dạng ghế ổn định hơn cho mỗi hợp chất sau:
(a) β-D-Galactopyranose (b) α-D-Glucopyranose (c) β-D-Glucopyranose

Bài 24.17: Hãy vẽ cấu trúc dạng mạch hở của monosaccarit sau:

Bài 24.18: Có hai cấu trúc ghế cho β-D-glucopyranose. Vẽ cấu dạng ghế kém ổn định hơn.

Các dạng Furanose của Monosaccharide

Như đã biết, hydroxyaldehyt có thể tạo thành hemiacetals mạch vòng.

Theo cách tương tự, nhiều carbohydrate cũng có thể tạo thành các vòng năm cạnh, được gọi là vòng furanose,
được đặt tên theo furan, một hợp chất đơn giản sở hữu vòng năm cạnh với một nguyên tử oxy nằm trong vòng.
Ví dụ, D-fructose có thể tạo vòng furanose là kết quả của phản ứng giữa nhóm cacbonyl và nhóm hydroxyl tại
C5 .

D-Fructose cũng có thể đóng vòng để tạo ra các dạng pyranose do phản ứng liên quan đến nhóm hydroxyl ở C6.

Do đó, D-fructose tồn tại dạng mạch hở tồn tại trong dung dịch đóng vai trò là dạng trung gian để chuyển hóa
giữa hai dạng pyranose (α và β), và hai dạng furanose (α và β). Khi hòa tan d-fructose trong nước, các nồng độ
cân bằng sau đây được quan sát thấy: 70% β-pyranose, 2% α-pyranose, 23% β-furanose, 5% α-furanose và
0,7% mạch hở. Mặc dù thực tế là vòng β-pyranose chiếm ưu thế ở trạng thái cân bằng như được quan sát trong
phòng thí nghiệm, nhưng đó là dạng β-furanose của D-fructose tham gia vào hầu hết các con đường sinh hóa.

Bài 24.19: Hãy quan sát cấu trúc của hai D-aldotetroses sau:
Mỗi hợp chất này tồn tại dưới dạng vòng furanose, được hình thành khi OH ở C4 tấn công nhóm andehit. Vẽ
mỗi vòng furanose sau:

(a) α-D-Erythrofuranose (b) β-D-Erythrofuranose

(c) α-D-Threofuranose (d) β-D-Threofuranose

Bài 24.20: Viết cơ chế cho quá trình đóng vòng với xúc tác axit L-threose để tạo β-L-threofuranose.

Bài 24.21: Viết cơ chế cho quá trình đóng vòng D-fructose xúc tác axit để tạo ra β-D-fructofuranose.

Bài 24.22: Vẽ dạng mạch hở của cacbohydrat có thể trải qua quá đóng vòng có xúc tác axit để tạo ra α-D-
fructopyranose

24.6 Các phản ứng của Monosaccharid

Phản ứng Ester và Ether hóa

Monosaccharid tan nhiều trong nước (do sự hiện diện của nhiều nhóm hydroxyl) và thường không tan trong hầu
hết các dung môi hữu cơ. Tính chất này làm cho chúng khó tinh chế bằng các phương pháp thông thường. Tuy
nhiên, các dẫn xuất este của monosaccharide lại tan trong hầu hết các dung môi hữu cơ và dễ dàng tinh chế. Các
monosaccarit được chuyển thành các dẫn xuất este của chúng khi được xử lý bằng một lượng dư axit HCl hoặc
anhydrit axit với sự có mặt của một bazơ, chẳng hạn như pyridin. Trong những điều kiện này, tất cả 5 nhóm
hydroxyl của β-D-glucopyranose được chuyển thành các gốc este.

Monosaccharide cũng có thể được chuyển hóa thành các dẫn xuất ete của chúng thông qua quá trình tổng hợp
ete Williamson. Quy trình này thường liên quan đến việc xử lý ancol với bazơ mạnh để tạo thành ion alkoxit,
tiếp theo là xử lý với alkyl halogenua (phản ứng SN2). Khi xử lý monosaccharide, không thể sử dụng một bazơ
mạnh, thay vào đó, một bazơ yếu như bạc oxit được sử dụng. Trong những điều kiện này, tất cả năm nhóm
hydroxyl của β-D-glucopyranose đều được chuyển thành ete.

Bài 24.23: Cho biết sản phẩm thu được khi xử lý từng hợp chất sau với anhiđrit axetic với sự có mặt của
pyridin:
(a) α-D-Galactopyranose (b) α-D-Glucopyranose (c) β-D-Galactopyranose

Bài 24.24: Cho biết sản phẩm thu được khi xử lý từng hợp chất ở bài trước với metyl iotua với sự có mặt của
bạc oxit (Ag2O).

Phản ứng glycoside hóa

Nhớ rằng hemiacetal sẽ phản ứng với một ancol khi có mặt xúc tác axit để tạo ra acetan.

Như đã đề cập trước đó trong chương này, monosaccharide tồn tại chủ yếu dưới dạng hemiacetals mạch vòng;
do đó chúng được chuyển thành axetal khi xử lý bằng ancol trong điều kiện xúc tác axit. Sản phẩm axetan thu
được gọi là glicozid.

Glycoside được đặt tên bằng cách đặt nhóm alkyl làm tiền tố và thuật ngữ -oside làm hậu tố. Trong quá trình
hình thành glycoside, chỉ có nhóm hydroxyl anomeric được thay thế. Điều này được giải thích qua cơ chế hình
thành glycoside. Nhóm hydroxyl anomeric được proton hóa, sau đó mất nước để tạo ra cacbocation.

Chú ý rằng chất trung gian cacbocation được ổn định nhờ cộng hưởng. Sự ổn định này chỉ xảy ra khi phản ứng
xảy ra ở vị trí anomeric. Chất trung gian cacbocation sau đó bị ancol tấn công, tiếp theo là táchmột proton để
tạo ra sản phẩm.
Cơ chế này cho thấy sự hình thành của đồng phân β. Người ta cũng quan sát được sự hình thành đồng phân α, vì
ancol có thể tấn công cacbocation từ mặt còn lại của cấu trúc cacbocation phẳng.

Sự phân bố sản phẩm không phụ thuộc vào cấu hình anomer ban đầu có nghĩa là, α-D-glucopyranose và β-D-
glucopyranose, mỗi chất đều cho cùng một tỷ lệ glycoside anomeric khi xử lý với ancol trong điều kiện xúc tác
axit. Sau khi được phân lập, các sản phẩm glycoside ổn định trong các điều kiện trung tính hoặc base. Tuy
nhiên, khi xử lý bằng axit nước, chúng dễ dàng chuyển đổi trở lại thành hemiacetal.

Bài 24.25: Khi xử lý α-D-galactopyranose bằng etanol với sự có mặt của chất xúc tác axit, chẳng hạn như HCl,
hai sản phẩm được tạo thành. Vẽ cả hai sản phẩm và giải thích sự hình thành của chúng bằng một cơ chế.

Bài 24.26: Methyl α-D-glucopyranoside là một hợp chất bền không trải qua quá trình chuyển hóa trong điều
kiện trung tính hoặc bazơ. Tuy nhiên, khi ở điều kiện axit, một cân bằng được thiết lập bao gồm cả metyl α-D-
glucopyranoside và metyl β-D-glucopyranoside. Hãy vẽ một cơ chế giải thích cho quan sát này.

Phản ứng epimer hóa

Khi D-glucozơ tiếp xúc với điều kiện bazơ mạnh, nó được chuyển hóa thành hỗn hợp chứa cả D-glucozơ và D-
mannose thông qua quá trình sau:

D-Glucose đầu tiên trải qua quá trình tautom với xúc tác bazơ để tạo thành enediol. Chất trung gian này có thể
tham gia quá trình tautom hóa một lần nữa để hoàn nguyên trở lại aldose, nhưng trong quá trình này, sự liên kết
ở C2 bị mất, dẫn đến hỗn hợp D-glucose và D-mannose. D-Glucose và D-mannose được cho là epimers vì
chúng là những chất đồng phân lập thể chỉ sai khác nhau cấu hình tại một trung tâm bất đối. Khi xử lý D-
glucozơ tinh khiết hoặc D-mannose tinh khiết với một bazơ mạnh thì xảy ra phản ứng trùng hợp, tạo ra mạch
polimer chứa cả D-glucozơ và D-mannose. Vì lý do này, các nhà hóa học thường tránh để cacbohydrat tiếp xúc
với các điều kiện base mạnh.

Bài 24.27: Hãy vẽ và gọi tên công thức cấu tạo của anđehit fomic với d-glucozơ ở mỗi vị trí sau:

(a) C2 (b) C3 (c) C4

Phản ứng khử Monosaccharid

Nhóm cacbonyl của aldose hoặc ketose có thể bị khử khi xử lý với natri borohydride để tạo ra sản phẩm được
gọi là alditol. Ví dụ, hãy xét sự khử D-glucose.
Monosaccharide ban đầu tồn tại chủ yếu dưới dạng hemiacetal, không phản ứng với natri borohydride vì không
mang nhóm cacbonyl. Tuy nhiên, một lượng nhỏ của dạng mạch hở ở trạng thái cân bằng sẽ phản ứng với natri
borohydrid để tạo ra alditol. Khi dạng mạch hở của glucose được chuyển thành alditol, trạng thái cân bằng bị
chuyển dịch sang bên phải theo hướng tạo dạng mạch hở, sau đó tiếp tục bị khử. Quá trình này tiếp diễn đến khi
gần như tất cả các phân tử glucose bị khử thành D-glucitol. D-Glucitol có nhiều trong trái cây và quả mọng. Nó
thường được gọi là D-sorbitol, hoặc chỉ đơn giản là sorbitol, và thường được sử dụng như một chất thay thế
đường trong chế biến thực phẩm.

Bài 24.28: Ta cũng thu được sản phẩm tương tự khi xử lý D-altrose hoặc D-talose bằng natri borohydrid sau đó
thủy phân trong nước. Giải thích.

Bài 24.29: Sản phẩm tương tự thu được khi xử lý D-allose hoặc L-allose bằng natri borohydrid có mặt nước.
Giải thích.

Bài 24.30: Trong số tám D-aldohexoses, chỉ có hai trong số chúng tạo thành alditol không quang hoạt khi được
xử lý bằng natri borohydrid / nước. Xác định hai loại aldohexoses này và giải thích tại sao alditols của chúng
không quang hoạt.

Phản ứng oxy hóa Monosaccharide

Khi được xử lý bằng chất oxi hóa thích hợp, nhóm anđehit có thể bị oxi hóa để tạo ra hợp chất gọi là axit
aldonic.

Phản ứng này được quan sát thấy đối với nhiều loại chất oxy hóa. Khi mong muốn một phản ứng với hiệu suất
cao, chất oxy hóa hữu ích thường dùng là dung dịch nước brom được đệm pH 6. Ví dụ:
Monosaccharide ban đầu tồn tại chủ yếu dưới dạng hemiacetal, và các nhóm OH không bị oxy hóa bởi tác nhân
oxy hóa nhẹ này. Tuy nhiên, một lượng nhỏ ở dạng mạch hở ở trạng thái cân bằng phản ứng với chất oxy hóa
tạo ra axit aldonic. Khi dạng mạch hở của glucose được chuyển thành axit aldonic, trạng thái cân bằng bị
chuyển dịch sang phải theo hướng tạo dạng mạch hở. Do đó, quá trình oxy hóa tiếp tục cho đến khi gần như tất
cả các phân tử glucose bị oxy hóa.

Tác nhân oxi hóa ở trên sẽ oxi hóa aldoses nhưng không phản ứng với xetose.

Đúng là xeton được chuyển hóa từ từ thành aldose thông qua quá trình epime hóa và do đó chúng ta có thể dự
đoán một lượng nhỏ của ketose sẽ được chuyển thành aldose, sau đó sẽ diễn ra quá trình oxy hóa, cung cấp một
con đường oxy hóa ketose. Tuy nhiên, trong điều kiện môi trường có tính axit nhẹ đã ngăn cản quá trình epime
hóa xảy ra. Trong những điều kiện này, xetose không epime hóa để tạo ra aldose, và do đó xeton không bị ôxy
hóa bởi dung dịch đệm nước brom. Điều này cung cấp một phương pháp để phân biệt giữa aldoses và ketoses.
Ngược lại, có những chất oxy hóa khác sử dụng các điều kiện mà ở đó quá trình epime hóa có thể xảy ra.
Những tác nhân thay thế này có thể oxy hóa xeton cũng như aldoses. Ví dụ thuốc thử Tollens (Ag+ trong dung
dịch amoniac ), thuốc thử Fehlings ’(Cu2+ trong dung dịch natri tartrat) và thuốc thử Benedict (Cu2+ trong natri
xitrat). Cả ba đều có thể được sử dụng để định tính của aldose hoặc ketose.

Thuốc thử Tollens chỉ ra sự có mặt của aldose hoặc xetose khi bề mặt của bình phản ứng được phủ một lớp bạc
kim loại (nhìn như gương), trong khi 2 thuốc thử còn lại chỉ ra có mặt của aldose hoặc xetose với sự kết tủa đỏ
gạch (Cu2O). Ba phản ứng này chỉ được sử dụng làm phép thử để từ đó thu được thông tin về cấu trúc của các
loại cacbohydrat chưa biết nhưng không có hiệu quả như các phương pháp tách khi có đủ lượng axit aldonic
mong muốn. Một loại carbohydrate có kết quả dương tính với bất kỳ phép thử nào trong nhóm phép thử này
được gọi là đường khử.

Những phép thử hóa học này rất hữu ích để phân biệt giữa aldoses hoặc ketoses và glycoside của chúng. Trong
khi aldoses và xeton là đường khử, thì glycoside tương ứng của chúng lại không có tính khử. Glycosit không thể
hiện phản ứng mở vòng trong điều kiện trung tính hoặc base và do đó không tạo ra một lượng nhỏ dạng mạch
hở có chứa nhóm anđehit. Vì vậy, chúng không bị ôxy hóa bởi bất kỳ tác nhân oxy hóa nào đã thảo luận.

Khi có mặt chất oxi hóa mạnh hơn, chẳng hạn như HNO3, nhóm hydroxyl bậc một cũng bị oxi hóa, tạo ra axit
dicacboxylic, được gọi là axit aldaric. Phản ứng này liên quan đến quá trình oxy hóa của cả hai nhóm chức được
đánh dấu.
Bài 24.31: Xác định từng hợp chất sau đó phải là đường khử không ?

Bài 24.32: Viết cấu trúc và gọi tên sản phẩm thu được khi cho từng hợp chất sau tác dụng với dung dịch nước
brom (ở pH = 6):

(a) α-D-Galactopyranose (b) β-D-Galactopyranose (c) α-D-Glucopyranose (d) β-D-glucopyranose

Bài 24.33: Bạn có mong đợi β-D-Glucopyranose pentametyl ete là đường khử không? Giải thích.

Kéo dài chuỗi: tổng hợp Kiliani-fischer

Năm 1886, Heinrich Kiliani (Đại học Freiburg, Đức) quan sát thấy rằng một aldose sẽ phản ứng với HCN để tạo
thành một cặp đồng phân lập thể cyanohydrins.

Quá trình này xảy ra thông qua phản ứng cộng acyl nucleophin. Dựa trên quan sát của Kiliani, Emil Fischer sau
đó đã nghĩ ra một phương pháp gồm nhiều bước để chuyển hóa một nhóm cyano thành một aldehyde.

Ví dụ, một aldopentose có thể được chuyển hóa thành aldohexose bằng cách sử dụng phương pháp này, được
gọi là tổng hợp Kiliani-Fischer. Một quy trình hiện đại hơn của quá trình tổng hợp Kiliani-Fischer cho phép
chuyển nhóm xyano thành anđehit chỉ trong một bước (thay vì một vài bước). Điều này được thực hiện thông
qua quá trình hydro hóa gốc xyano bằng cách sử dụng chất xúc tác bị nhiễm độc trong dung dịch nước. Trong
những điều kiện này, nhóm xyano bị khử để tạo ra imine, sau đó thủy phân để tạo ra anđehit
Ví dụ về quá trình này, hãy xem xét kết quả thu được khi quy trình hiện đại của phương pháp tổng hợp Kiliani-
Fischer được thực hiện với D-arabinose làm nguyên liệu ban đầu:

D-Arabinose có năm nguyên tử carbon (một loại aldopentose), và các sản phẩm đều có sáu nguyên tử carbon
(aldohexoses). Trong quá trình này, C1 của nguyên liệu ban đầu được chuyển thành C2 trong sản phẩm. Lưu ý
rằng hai sản phẩm được hình thành bởi vì bước đầu tiên của quá trình không chọn lọc lập thể; nghĩa là, trung
tâm bất đối xứng (C2) có thể có một trong hai cấu trúc, tạo ra D-glucose và D-mannose, là các epime C2.

Bài 24.34: Vẽ và đặt tên cho cặp epimers được hình thành khi các loài aldopentoses sau đây trải qua quá trình
kéo dài chuỗi Kiliani-Fischer:

Bài 24.35: Xác định các thuốc thử bạn sẽ sử dụng để chuyển D-erythrose (Bài 24.22) thành D-ribose. Sản phẩm
nào khác cũng được hình thành trong quá trình này?

Rút ngắn mạch: thoái phân wohl

Phản ứng thoái phân Wohl là phản ứng ngược của quá trình tổng hợp Kiliani-Fischer và liên quan đến việc tách
loại bỏ một nguyên tử cacbon khỏi aldose. Nhóm aldehyde lần đầu tiên được chuyển hóa thành xyanohydrin,
sau đó là tách HCN khi có mặt của bazơ.

Nhìn chung, sản phẩm thu được ít hơn một nguyên tử carbon so với nguyên liệu ban đầu. Việc chuyển hóa
aldehyde thành một nhóm xyano được thực hiện thông qua quá trình hình thành oxime sau đó là quá trình tách
nước. Sau đó, cyanohydrin tạo thành sẽ tách HCN khi được xử lý bằng bazơ mạnh để tạo ra cacbohydrat mới có
ít nguyên tử cacbon hơn cacbohydrat ban đầu:
Quá trình thu ngắn mạch chỉ tạo ra một sản phẩm, ngược lại với quá trình kéo dài chuỗi (Kiliani-Fischer), tạo ra
hai sản phẩm. Hiệu suất của phản ứng thoái phân Wohl nhìn chung không cao, nhưng lại rất hữu ích trong việc
nghiên cứu cấu trúc của monosaccharide.

Bài 24.36: Vẽ và đặt tên cho hai aldohexoses có thể chuyển hóa thành D-ribose (Bài toán 24.37a) bằng phương
pháp sử dụng phản ứng Wohl.

Bài 24.37: Xác định các thuốc thử sẽ sử dụng để chuyển D-ribose thành D-erythrose (Bài toán 24.22).

Bài 24.38: Khi thực hiện phản ứng thoái phân Wohl D-glucose, sau đó là quá trình kéo dài chuỗi Kiliani-
Fischer, sẽ thu được hỗn hợp của hai sản phẩm. Xác định cả hai epimers.

Bài 24.39: Xác định xem mỗi đisaccarit sau đây có phải là đường khử hay không?

Bài 24.40: Vẽ công thức cấu tạo của sản phẩm thu được khi cho đisaccarit sau tác dụng với NaBH4 trong
metanol.

Bài 24.41: Hãy dự đoán sản phẩm thu được khi xử lý cellobiose với từng thuốc thử sau:

(a) NaBH4, H2O (b) Br2, H2O (pH = 6) (c) CH3OH, HCl (d) Ac2O, pyridine
Bài 24.42: Phân loại từng monosaccarit sau đây theo các tiêu chí: D hoặc L, là đường aldo hoặc xeto, và dưới
dạng tetrose, pentose hoặc hexose:

Bài 24.43: Xác định từng cấu trúc sau đây có cấu hình D- hay L-glyxeraldehit:

Bài 24.44: Gọi tên từng aldohexoses sau:

Bài 24.45: Xét cấu trúc của các D- aldopentoses:

(a) Xác định aldopentose đồng phân với D-arabinose ở C2.

(b) Xác định aldopentose đồng phân với D-lyxose ở C3.

(c) Vẽ đồng phân đối quang của D-ribose.

(d) Xác định mối quan hệ giữa đồng phân đối quang của D-arabinose và đồng phân C2 của L-ribose.

(e) Xác định mối quan hệ giữa D-ribose và L-lyxose

Bài 24.46: Hãy vẽ hemiacetal vòng được hình thành khi mỗi trong số các hợp chất đa chức sau đây được xử lý
bằng axit/nước:
Bài 24.47: Xác định hiđroxyalđehit đóng vòng trong điều kiện axit để tạo ra hemiacetal sau:

Bài 24.48: D-Ribose có thể tồn tại hai dạng pyranose và hai dạng furanose.

(a) Vẽ cả hai dạng pyranose của D-ribose và xác định mỗi dạng là α hoặc β.

(b) Vẽ cả hai dạng furanose của D-ribose và xác định mỗi dạng là α hoặc β.

Bài 24.49: Đối với mỗi cặp hợp chất sau đây, hãy xác định xem chúng có phải là đồng phân đối quang, đồng
phân epimer, đồng phân dia (không phải là epime) hoặc các hợp chất giống hệt nhau:

Bài 24.50 Vẽ dạng mạch hở của hợp chất được tạo thành khi thủy phân metyl β-D-glucopyranoside bằng
axit/nước.

Bài 24.51: Xác định cấu hình của mỗi trung tâm bất đối trong các hợp chất sau:

Bài 24.52: Vẽ hình chiếu Fischer cho mỗi hợp chất sau:

(a) D-glucozơ (b) D-galactose (c) D-mannose (d) D-Allose

Bài 24.53: Vẽ hình chiếu Haworth cho mỗi hợp chất sau:

(a) β-D-Fructofuranose (b) β-D-Galactopyranose (c) β-D-Glucopyranose (d) β-D-Mannopyranose


Bài 24.54: Vẽ hình chiếu Haworth cho thấy dạng α-pyranose của D-aldohexose đồng phân với D-glucose ở C3.

Bài 24.55: Cho biết tên đầy đủ của mỗi hợp chất sau:

Bài 24.56: Hãy vẽ dạng mạch hở của mỗi hợp chất trong bài toán trước.

Bài 24.57: Hãy vẽ các sản phẩm mong đợi khi xử lý β-dallopyranose bằng mỗi thuốc thử sau:

(a) CH3I dư, Ag2O (b) Anhiđrit axetic, pyridin dư (c) CH3OH, HCl

Bài 24.58: Khi đun nóng D-galactose với sự có mặt của axit nitric, sẽ thu được một hợp chất không quang hoạt.
Vẽ cấu trúc của sản phẩm và giải thích tại sao nó không quang hoạt.

Bài 24.59: Ngoài D-galactose, một D-aldohexose khác cũng tạo thành axit aldaric không quang hoạt khi xử lý
bằng axit nitric. Vẽ cấu trúc của loại aldohexose này.

Bài 24.60: Vẽ cấu dạng ghế bền nhất của α-daltropyranose và xác định vị trí của tất cả các nhóm thế là trục hay
biên.

Bài 24.61: Cho biết các sản phẩm được dự đoán khi xử lý α-galactopyranose bằng metyl iodua dư với sự có mặt
của bạc oxit, sau đó là axit/nước.

Bài 24.62: Đối với mỗi cặp hợp chất sau đây, hãy xác định xem chúng là đồng phân đối quang, epime, đồng
phân dia (không phải là epime) hay là những hợp chất giống hệt nhau:

(a) D-glucozơ và D-xenlulozơ

(b) 2-deoxy-D-ribose và 2-deoxy-D-arabinose

Bài 24.63: Hãy vẽ tất cả các đường 2-ketonhexose có thể có là đường D.

Bài 24.64: Xác định hai aldohexoses tham gia phản ứng thoái phân Wohl để tạo ra D-ribose. Vẽ hình chiếu
Fischer của dạng mạch hở cho mỗi loại trong số hai loại aldohexoses này.

Bài 24.65: Xác định hai aldohexoses thu được khi d-arabinose trải qua quá trình tổng hợp Kiliani-Fischer.

Bài 24.66: Phân biệt hai sản phẩm thu được khi xử lý D-glixeraldehit bằng HCN, và xác định mối quan hệ giữa
hai sản phẩm này.

Bài 24.67: Khi xử lý với natri borohydrid, D-glucose được chuyển thành alditol.

(a) Vẽ công thức cấu tạo của alditol.

(b) L-aldohexose nào cho cùng alditol khi xử lý với natri borohydride?

Bài 24.68: Loại D-aldohexoses nào được chuyển thành alditol không quang hoạt khi xử lý bằng natri
borohydrid?
Bài 24.69: Xác định xem mỗi hợp chất sau có phải là đường khử không:

Bài 24.70: Xác định các tác nhân sẽ sử dụng để chuyển β-D-glucopyranose thành từng hợp chất sau:

Bài 24.71: Xác định (các) sản phẩm sẽ được tạo thành khi xử lý từng hợp chất sau bằng axit nước:

(a) Metyl α-D-glucopyranoside (b) Etyl β-D-galactopyranoside

Bài 24.72: Xem xét cấu trúc của bốn D-aldopentoses (Hình 24.3).

(a) D-aldopentose nào tạo ra axit aldaric giống với D-lyxose?

(b) Những D-aldopentoses nào tạo ra alditol không quang hoạt khi được xử lý với natri borohydrid?

(c) D-aldopentose nào tạo ra alditol tương tự như L-xylose?

(d) D-aldopentose nào có thể đóng thành dạng β-pyranose trong mà tất cả các nhóm thế đều ở xích đạo?

Bài 24.73 Trehalose là một disaccharide tự nhiên được tìm thấy trong vi khuẩn, côn trùng và nhiều loại thực
vật. Nó bảo vệ tế bào khỏi tình trạng khô do có khả năng giữ nước, do đó ngăn ngừa tổn thương tế bào do mất
nước. Tính chất này của trehalose cũng đã được khai thác trong việc điều chế thực phẩm và mỹ phẩm.
Trehalose không phải là đường khử, nó được thủy phân để tạo ra hai phân tử D-glucose, và không mang bất kỳ
liên kết β-glycoside nào. Vẽ cấu trúc của trehalose.

Bài 24.74: Xylitol được tìm thấy trong nhiều loại quả mọng. Nó ngọt tương đương với đường sucrose nhưng ít
calo hơn. Nó thường được sử dụng trong kẹo cao su không đường. Xylitol thu được khi khử D-xylose. Vẽ công
thức cấu tạo của xylitol.

Bài 24.75: Isomaltose có cấu trúc tương tự như maltose, ngoại trừ nó mang liên kết 1 → 6 α-glycoside, chứ
không phải 1 → 4 α-glycoside. Vẽ công thức cấu tạo của isomaltose.

Bài 24.76: Salicin là một chất giảm đau tự nhiên có trong vỏ cây liễu, và nó đã được sử dụng hàng ngàn năm để
điều trị đau và giảm sốt.
(a) Salicin có phải là đường khử không?

(b) Phân biệt các sản phẩm thu được khi thủy phân salicin trong môi trường axit.

(c) Salicin là một α-glicozit hay một β-glicozit?

(d) Cho biết sản phẩm chính dự kiến thu được khi xử lý salicin bằng anhiđrit axetic dư với sự có mặt của
pyridin.

(e) Bạn có dự đoán salicin tham gia phản ứng mutation khi hòa tan trong nước trung tính không?

Bài 24.77: Hãy vẽ cơ chế cho chuyển hóa sau:

Bài 24.78: Vẽ α-N-glicozit và β-N-glicozit được tạo thành khi cho D-glucozơ tác dụng với anilin (C6H5NH2).

Bài 24.79: Hãy vẽ nucleoside được tạo thành từ mỗi cặp chất sau đây và gọi tên nucleoside:

(a) 2-Deoxy-D-ribose và adenine

(b) D-Ribose và guanine

Bài 24.80: Hợp chất A là D-aldopentose được chuyển hóa thành alditol quang hoạt khi xử lý với natri
borohydrid. Vẽ hai cấu trúc có thể có của hợp chất A.

Bài 24.81: Khi xử lý D-glucose với dung dịch nước brom (đệm pH 6), một axit aldonic được tạo thành gọi là
axit D-gluconic. Xử lý axit D-gluconic với chất xúc tác axit tạo ra lacton (este mạch vòng) có vòng sáu cạnh.

(a) Vẽ công thức cấu tạo của axit D-gluconic.

(b) Vẽ cấu trúc của lacton được hình thành từ axit D-gluconic, xác định cấu hình của mỗi trung tâm bất đối

(c) Dự đoán gì về tnhs quang hoạt của lacton này?

Bài 24.82: Thông thường mỗi α-pyranose của D-aldohexoses, nhóm CH2OH chiếm vị trí biên trong cấu dạng
ghế sẽ bền hơn. Một ngoại lệ là D-idose, trong đó nhóm CH2OH chiếm vị trí ở liên kết trục trong cấu trúc ghế
lại ổn định hơn. Giải thích quan sát này, và sau đó vẽ cấu trúc ghế ổn định hơn của L-idose ở dạng α-pyranose
của nó.
Bài 24.83: Rút ra sản phẩm dự kiến khi xử lý dạng β-pyranose của hợp chất A bằng etyl iotua dư với sự có mặt
của bạc oxit. Thông tin sau có thể được sử dụng để định danh hợp chất A:

1. Công thức phân tử của hợp chất a là C6H12O6.

2. Hợp chất A là đường khử.

3. Khi cho hợp chất A bị phân huỷ Wohl liên tiếp hai lần thì thu được D-erythrose.

4. Hợp chất A là đồng phân với D-glucozơ ở C3.

5. Cấu hình tại C2 là R.

Bài 24.84: Giải thích tại sao glucozơ là monosaccarit phổ biến nhất được quan sát thấy trong tự nhiên.

You might also like