Professional Documents
Culture Documents
----------
BÁO CÁO MÔN HỌC
MÔN HỌC: CÔNG NGHỆ TRUYỀN TẢI QUANG
MỤC LỤC
ss
SV thực hiện: Đoàn Quang Vinh Trương Văn Trường
Mai Phương Trâm Nguyễn Hiếu Hoài
Trang |3
Đây là một công nghệ đầy hứa hẹn để sử dụng hiệu quả băng thông khổng lồ
của cáp quang. Trong công nghệ ghép kênh phân chia theo bước sóng, phổ truyền
dẫn của một liên kết sợi quang có thể được chia thành nhiều kênh trong suốt giao
thức. Nhiều kênh có thể hoạt động đồng thời trong một sợi quang ở các bước sóng
khác nhau, cung cấp cho mỗi kênh băng thông tương thích với tốc độ xử lý điện tử
hiện tại. Các kênh này có thể được điều chế độc lập để phù hợp với các định dạng
dữ liệu khác nhau ở các tốc độ bit khác nhau nếu cần. Bằng cách sử dụng WDM
trong mạng quang, chúng ta có thể đạt được dung lượng liên kết theo thứ tự Tbps.
[4]
sóng cung cấp cho mạng khả năng xác định và khoanh vùng luồng lưu lượng, do đó
cho phép sử dụng lại cùng một bước sóng trong các phân đoạn rời rạc về mặt
không gian của mạng. Để truyền dữ liệu từ nút truy cập này sang nút truy cập khác,
kết nối cần được thiết lập ở lớp quang tương tự như trường hợp trong chuyển mạch
kênh mạng lưới. Hoạt động này được thực hiện bằng cách xác định một đường dẫn
trong mạng kết nối nút nguồn với nút đích và bằng cách phân bổ một bước sóng tự
do duy nhất trên tất cả các liên kết sợi trong đường dẫn. Một đường dẫn toàn quang
như vậy được gọi là đường dẫn ánh sáng, mỗi đường dẫn ánh sáng có thể mang dữ
liệu ở tốc độ điện tử cao nhất. Tuy nhiên, những hạn chế thực tế đối với công nghệ
truyền dẫn và các thiết bị quang học hạn chế số bước sóng khả dụng trên mỗi liên
kết sợi, không chắc rằng một đường dẫn ánh sáng có thể được thiết lập giữa mọi
cặp nút truy cập. Các nút trung gian trong đường dẫn định tuyến đường dẫn ánh
sáng trong miền quang học bằng cách sử dụng công tắc nhạy cảm với bước sóng.
Một hạn chế cơ bản trong mạng quang định tuyến theo bước sóng là hai hoặc nhiều
đường ánh sáng truyền qua cùng một liên kết sợi quang phải nằm trên các bước
sóng khác nhau để chúng không giao thoa với nhau. Mạng định tuyến theo bước
sóng, mang dữ liệu từ trạm truy cập này sang trạm truy cập khác mà không có bất
kỳ chuyển đổi quang - điện trung gian nào được gọi là mạng định tuyến theo bước
sóng toàn quang. Các mạng định tuyến theo bước sóng toàn quang sẽ là chủ đề của
công việc của chúng tôi. Các mạng này có một số lợi ích như khả năng đáp ứng
băng thông đang tăng nhanh, độ tin cậy của mạng được cải thiện, quản lý mạng đơn
giản hơn và không phụ thuộc vào định dạng điều chế và tốc độ bit. Trong mạng
quang định tuyến bước sóng, người sử dụng liên lạc với nhau qua các kênh thông
tin quang được gọi là các lightpath. Lightpath là một đường đi của tín hiệu ánh
sáng từ nguồn đến đích dưới dạng quang thông qua các kết nối trung gian. Khi một
lightpath được chọn và xác định, mỗi lightpath cần được định tuyến và gán bước
sóng cho nó. Từ đó đặt ra bài toán định tuyến và gán bước sóng. Định tuyến là vấn
đề tìm đường giữa hai node bất kì trong mạng để thoả mãn một mục đích nào đó,
thuật ngữ gọi là để tối ưu hàm mục tiêu (cost function). Vấn đề này rất quen thuộc
và rất quan trọng trong mạng. Thông thường định tuyến trong IP sử dụng thuật toán
tìm đường Dijkstra, với hàm mục tiêu là các metric quen thuộc như băng thông, độ
trễ, chi phí tuyến, … Trong mạng quang, tìm đường được hiểu theo hai khía cạnh,
đó là tìm đường vật lí mang được mẫu lưu lượng yêu cầu (Routing) và đưa ra bước
sóng phù hợp để mang lưu lượng trên mỗi link dọc path (Wavelength Assignment)
trong số các bước sóng cho phép (bởi mỗi path gồm một số fiber, mà trên mỗi fiber
này, bạn có thể có W sub-chanels, cũng là W bưóc sóng và W lựa chọn cho yêu cầu
kết nối hiện tại). Vấn đề này được viết tắt là RWA. Khi tìm được một path vật lí và
đánh dấu bước sóng trên các link dọc theo path đó, thì chúng ta có một đường
quang, còn gọi là lightpath (LP). Rắc rối đặt ra đối với bài toán RWA là nó đưa ra
hai điều kiện sau: Điều kiện tính liên tục bước sóng: một lightpath phải sử dụng
chung một bước sóng trên tất cả các link dọc theo đường đi của nó từ nguồn đến
đích. [4]
Vì các đường dẫn ánh sáng là các thực thể chuyển mạch cơ bản của mạng
WDM định tuyến theo bước sóng nên việc thiết lập và sử dụng hiệu quả chúng là
rất quan trọng. Do đó, điều quan trọng là phải đề xuất các thuật toán hiệu quả để
chọn các tuyến cho các kết nối được yêu cầu và ấn định các bước sóng trên mỗi
liên kết dọc theo các tuyến này.
sẵn, và nếu nút có bộ chuyển đổi bước sóng, nó có thể chuyển sang bước sóng khác
để định tuyến lightpath. Đường đi vừa thiết lập được gọi là đường ảo, được thiết
lập sẵn trước khi bất kì dữ liệu nào được truyền qua. Một đường vật lí bao gồm tất
cả các tuyến truyền dẫn (link) hình thành trên lộ trình từ nguồn đến đích, nhưng
đường ảo có thể chứa các bước sóng giống hoặc khác nhau từ nguồn đến đích. Hai
yêu cầu cho cuộc gọi có cùng chung điểm đầu cuối đích và nguồn có thể có cùng
đường vật lí nhưng có các đường ảo khác nhau. Hình sau chỉ ra sự hành thành của
một lightpath. Ở đây hai cuộc gọi được tạo ra từ nút 1 và đường ảo cho mỗi cuộc
gọi tạo thành được vẽ ra. Đối với cuộc gọi thứ nhất, nút 1 gán bước sóng 1 và gởi
nó đến nút 2. Giả sử nút 2 có một bộ chuyển đổi bước sóng nhưng không có sẵn
bước sóng 1, vì thế nó chuyển sang bước sóng 2 và gửi đến nút 3. Nút 3 gán tiếp
2 vì nó có sẵn và định tuyến lightpath đến nơi. Bằng cách này đường ảo thứ nhất
được thiết lập. Nếu cuộc gọi thứ hai được tạo ra ở nút 1 ngay sau đó, thì một đường
ảo thứ hai được tạo ra tương tự. Ta thấy rằng đường vật lí thì giống nhau nhưng các
đường ảo thì khác nhau. Tổng số các đường ảo được thiết lập từ nguồn đến đích
phụ thuộc vào số bước sóng sẵn có trên sợi. Số đường ảo được thiết lập thật sự phụ
thuộc vào tốc độ cuộc gọi đi đến. Các bộ chuyển đổi bước sóng giúp thiết lập được
nhiều đường ảo hơn.
Định tuyến là thành phần không thể thiếu trong mạng viễn thông. Nhu cầu
nâng cao hiệu năng, các dịch vụ mới và thay đổi công nghệ mạng là những yếu tố
thúc đẩy sự phát triển của định tuyến mạng. [12]
Mạng viễn thông truyền thống hầu hết được xây dựng dựa theo mô hình
phân cấp, mô hình này cho phép sử dụng định tuyến tĩnh trên qui mô lớn.
Định tuyến tĩnh dựa theo phương thức thủ công do người quản trị khai
báo thông tin định tuyến cho thiết bị định tuyến.[12]
Ưu điểm Nhược điểm
+Sử dụng ít băng thông +Không có khả năng tự động cập
+Không tiêu tốn tài nguyên để tính nhật
toán và phân tích gói tin +Cấu hình thủ công khi mạng thay
+Dễ triển khai, cấu hình đổi
+Bảo mật tốt +Khả năng mở rộng kém, phù hợp
với mô hình nhỏ
Ưu và nhược điểm của Định tuyến tĩnh [13]
Sử dụng định tuyến tĩnh khi:
+ Đường truyền có băng thông thấp
+ Người quản trị cần kiểm soát kết nối hệ thống
+ Hệ thống có ít tuyến kết nối
+ Dùng làm đường dự phòng khi đường kết nối dùng giao thức
định tuyến động.
Phương thức triển khai: có 2 phương thức:
+Next hop: thông tin sẽ chuyển đén Router kế tiếp nào trước khi
đến đích.
+Exit interface: thông tin sẽ được đưa ra cổng nào trước khi đến
đích.
Ở các hệ thống mạng nhỏ, bảng định tuyến có thể cấu hình thủ công,
nhưng ở những hệ thống mạng lớn hơn, phức tạp hơn và thay đổi liên tục nên
việc xây dựng theo phương thức thủ công là cực kỳ khó khăn. Để ngăn mạng
bị lỗi và nghẽn, dựa vào thông tin được giao thức định tuyến cung cấp và xây
dựng bảng định tuyến một cách tự động gọi là định tuyến động.[12]
Ưu điểm Nhược điểm
+Tự động cập nhật thông tin bảng +Tiêu tốn băng thông
định tuyến nếu có sự thay đổi +Yêu cầu xử lý hệ thống cao hơn so
+Tự tính toán và đưa ra tuyến với định tuyến tĩnh
đường tốt nhất
+Đơn giản trong việc cấu hình
Ưu và nhược điểm của Định tuyến tĩnh [13]
Định tuyến động chia thành 2 loại:
+Các giao thức định tuyến ngoài: EGP (Exterior Gateway Protocol)
Với giao thức tiêu biểu là BGP (Border Gateway Protocol):
được dùng để chạy giữa các router thuộc AS khác nhau,
phục vụ trao đổi thông tin định tuyến giữa các AS
(Autonomous System-tập hợp các router chung một chính
sách định tuyến)[12]
+Các giao thức định tuyến trong: IGP (Interior Gateway Protocol): là
loại định tuyến chạy giữa các router nằm bên trong một AS.
Gồm các giao thức tieu biểu như: RIP, OSPF là giao thức
chuẩn quốc tế và EIGRP là giao thức chỉ chạy trên Cisco.
Đồ thị là một cấu trúc toán học được tạo thành từ tập hợp các đỉnh và
các cạnh. Đồ thị biểu diễn một tập hợp các đối tượng (đỉnh) được kết nối với
nhau bằng một số liên kết (cạnh).[15]
Kí hiệu là G = (V,E)
Với V là tập hợp các đỉnh
E là tập hợp các cạnh
Để phân biệt các loại đồ thị khác nhau ta dựa vào kiểu đồ thị và số
lượng cạnh nối hai đỉnh bất kỳ trong đồ thị.
1. Đồ thị vô hướng: là đồ thị không có hướng trong các cạnh liên kết các
đỉnh trong đồ thị.[14]
a. Đơn đồ thị vô hướng: là đồ thị trong đó một cạnh tương ứng với
một cặp đỉnh. G=(V,E)[14]
Với V là tập các đỉnh, E là tập các cạnh của các cặp không có thứ
tự
V1
V3
V2
(Hình 1a)
Với V là tập các đỉnh và E là tập các cạnh của các cặp không có thứ
tự
V1
e1
SV thực hiện: Đoàn Quang Vinhe2 Trương Văn Trường
Mai Phương Trâm Nguyễn Hiếu Hoài
V2 V3
T r a n g | 10
Trong Hình 1b, hai cạnh e1 và e2 được gọi là cạnh lặp (bội hay
song song)
c. Giả đồ thị vô hướng: Là đồ thị có thể chứa các khuyên và các
cạnh lặp. Khi một cạnh nối một đỉnh với chính nó thì gọi là đồ thị
có chứa khuyên.[15]
G =(V,E)
Với V là tập hợp các đỉnh, E là tập hợp các cạnh của các cặp
đỉnh không có thứ tự và không nhất thiết phải khác nhau.
Trong Hình 1c, ta có: V = {V1, V2, V3}
e3 và E =
V1
e1
{(V1,V2), (V2,V3), (V3,
V1), (V1,V1)}
e2
V2 V3
(Hình 1c)
1. Đồ thị có hướng: Là đồ thị trong đó các cạnh liên kết các đỉnh có hướng.
[15]
a) Đơn đồ thị có hướng: là đồ thị trong đó một cạnh có hướng tương ứng
với một cặp đỉnh: G=(V,E)
Với V là tập các đỉnh, E là tập các cạnh của các cặp đỉnh theo thứ tự.
V1
e1 e2
SV thực hiện: Đoàn Quang Vinh Trương Văn Trường
Mai Phương Trâm e3
Nguyễn Hiếu Hoài
V2 V3
(Hình 2a)
T r a n g | 11
Với V là tập các đỉnh, E là tập các cạnh của các cặp đỉnh theo thứ tự.
V1
(Hình 2b)
Bài toán định tuyến gán bước sóng có liên hệ chặt chẽ với bài toán tô
màu các nút trong đồ thị. Cụ thể là tô màu cho các nút G sao cho hai
node kề nhau phải mang màu khác nhau để thể hiện trạng thái node.
mà chỉ gửi tình trạng của các đường link trong linkstate-database của mình đi
cho các router khác, các router sẽ áp dụng giải thuật SPF (shortest path first )
, để tự xây dựng routing-table riêng cho mình . Khi mạng đã hội tụ , Link
State protocol sẽ không gửi update định kỳ mà chỉ gởi khi nào có một sự
thay đổi trong mạng (1 line bị down , cần sử dụng đường back-up) [8]
+ Ưu điểm :
Có thể thích nghi được với đa số hệ thống , cho phép người
thiết kế có thể thiết kế mạng linh hoạt , phản ứng nhanh với
tình huống xảy ra. Do không gởi interval-update , nên link
state bảo đảm được bandwidth cho các đường mạng [8].
+ Nhược điểm :
Do router phải sử lý nhiều , nên chiếm nhiều bộ nhớ , tốc độ
CPU chậm hơn nên tăng delay[8].
Link State khá khó cấu hình để chạy tốt [8] .
cận của nó để tìm đường đi con ngắn nhất đến các nút lân cận
đó [5].
Thuật toán sử dụng cách tiếp cận tham lam, tức là chúng ta sẽ
tìm ra giải pháp tốt nhất tiếp theo với hy vọng rằng kết quả cuối
cùng là giải pháp tốt nhất cho toàn bộ vấn đề [5].
+Ưu điểm :
Dễ cấu hình , router không phải xử lý nhiều nên không tốn nhiều
dung lượng bộ nhớ và CPU có tốc độ xử lý nhanh hơn [8].
+Nhược điểm :
Hệ thống metric quá đơn giản (như rip chỉ là hop-count ) dẫn đến
việc các tuyến đường được chọn vào routing-table chưa phải tuyến
đường tốt nhất [8]
Vì các gói tin update được gửi theo định kỳ nên một lượng
bandwidth đáng kể sẻ bị chiếm (mặc dù mạng không gì thay đổi
nhiều) .
Do Router hội tụ chậm , dẫn đến việc sai lệch trong bảng địn tuyến
gây nên hiện tượng loop [8].
Bước 1: Thực hiện chọn đỉnh bắt đầu và gán các giá trị vô cực cho đường đi của tất
cả các đỉnh khác.
Hình 5.5: Gián giá trị ∞ vào các đỉnh đồ thị trong
thuật toán Bellman-Ford.
Bước 2:Thực hiện duyệt qua từng cạnh và nới lỏng khoảng cách đường đi
nếu không chính xác.
Bước 3: Ta cần thực hiện V lần bởi trong trường hợp xấu nhất, độ dài đường
đi của một đỉnh có thể bị thay đổi V lần.
Bước 4: Lưu ý rằng đỉnh nằm ở góc trên bên phải đã thay đổi độ dài đường
đi của nó.
Bước 5: Sau khi tất cả các đỉnh đã có độ dài đường đi của nó, ta sẽ kiểm tra
xem có tồn tại một vòng lặp có trọng số âm hay không.[9]
trị tính được, trong khi đó còn có thể xảy ra việc định tuyến
thành vòng tròn) [9]
5.3 Mô Phỏng
Định tuyến là công việc hết sức quan trọng trong mạng quang WDM, nó thực hiện
tìm đường cho lightpath mang lưu lượng thông tin từ nguồn đến đích với mục đích tối ưu
mạng. Trong chương này, dựa trên phần mềm Java, em mô phỏng phần định tuyến cho
các lightpath với hàm mục tiêu chúng ta có thể tuỳ chọn như chi phí, độ trễ, lượng lưu
lượng… qua các tuyến từ nguồn đến đích. Thuật toán sử dụng để thực hiện định tuyến là
thuật toán Dijkstra. Các trọng số trên các tuyến không chỉ là độ dài đường đi của tuyến
mà tuỳ theo một tiêu chí nào đó của mạng như chi phí tuyến, độ trễ, băng thông, lưu
lượng thông tin... Nếu lấy theo tiêu chí là chi phí thấp nhất thì trọng số trên các tuyến
(cạnh) là chí phí của tuyến đó.
Thuật toán sẽ thực hiện tìm đỉnh u trong tập hợp Q mà có giá trị d[u] nhỏ nhất.
Đỉnh này được loại ra khỏi Q và được đưa vào tập S. Tập S chứa một bảng các đỉnh tạo
thành một trong những đường đi ngắn nhất từ s đến node nguồn t nào đó.
1 function Dijkstra(G, w, s)
2 for each vertex v in V[G]
3 d[v] := infinity // Gán các giá trị ban đầu
4 previous[v] := undefined
5 d[s] := 0 // Khoảng cách từ s đến s bằng 0
6 S := empty set // Thiết lập S là tập hợp rỗng
7 Q := V[G] // Tập Q chứa tất cả các node của đồ thị
8 while Q is not an empty set
9 u := Extract_Min(Q)
10 S := S union {u}
11 for each edge (u,v) outgoing from u
12 if d[u] + w(u,v) < d[v]
13 d[v] := d[u] + w(u,v)
14 previous[v] := u
Bài toán đặt ra cho mô phỏng: tìm đường đi ngắn nhất đến các đỉnh còn lại.
5.3.1 Cài đặt mô phỏng
Ta cài đặt phần mềm phù hợp với bài toán của mình.
Các chức năng của phần mền:
+ Map type : loại đồ thị mô phỏng có hướng hoặc vô hướng với
Undirected là vô hướng còn Directed là có hướng.
Kết quả mô phỏng: Đường đi ngắn nhất từ đỉnh A đến các đỉnh còn lại
The cost from A to A is 0 Path : A
The cost from A to B is 2 Path : A --> B
The cost from A to C is 1 Path : A --> C
The cost from A to D is 3 Path : A --> C --> F --> B
The cost from A to E is 2 Path : A --> C --> E
The cost from A to F is 4 Path : A --> C --> E --> F
Hình sau đây sẽ cho ta thấy kết quả mô phỏng và các đường đi thuât toán qua có node.
Định tuyến trạng thái liên kết Định tuyến vector khoảng cách
SV thực hiện: Đoàn Quang Vinh Trương Văn Trường
Mai Phương Trâm Nguyễn Hiếu Hoài
T r a n g | 22
- Khi có yêu cầu đến 1 nút, nút đó sẽ xác định những bước sóng còn rỗi( tức là
còn hiệu lực) và chọn ngẫu nhiên 1 bước sóng λ i trong những bước sóng đó để gán
cho yêu cầu đó. Các bước sóng còn rỗi ở mỗi nút được xác định bằng cách loại bỏ
các bước sóng đã sử dụng ra khỏi danh sách bước sóng còn rỗi; khi cuộc gọi kết
thúc thì thì bước sóng λ i được loại ra khỏi danh sách bước sóng bận và trở lại danh
sách bước sóng rỗi ban đầu.
- Phương pháp này không đòi hỏi những thông tin về toàn bộ trạng thai của
mạng khi thực hiện gán bước sóng. Trong trường hợp thiếu thông tin về tinh trạng
bước sóng trong mạng thì phương pháp này sẽ dẫn đến kết quả cân bằng được số
lượng các bước sóng được sử dụng do đó xác suất nghẽn cũng thấp hơn.
- Cũng tương tự như Giải thuật Random, giải thuật này không yêu cầu thông tin
nào về trạng thái của mạng. Giải thuật này có chi phí tính toán ít hơn do không cần
phải duyệt qua tất cả các bước sóng trong tuyến mạng. Nhìn chung giải thuật FF sẽ
tốt hơn Random khi có đầy đủ trong tin về trạng thai mạng, tuy nhiên, trong trường
hợp hạn chế hoặc được cập nhật không kịp thời thì việc cấp phát bước sóng
Random lại tốt hơn.
-Hạn chế của giải thuật này là các bước sóng có chỉ số nhỏ được sử dụng nhiều,
trong khi đó các bước sóng cao ít khi được dùng đến hoặc hầu như không.
Ta có hình vẽ như trên là thứ tự các liên kết được đặt vào ở từng bước sóng
Cho bài toán trên, giả sử cần thiết lập kết nối {4,5}. Ta thấy rằng W1 sử dụng ở 2
liên kết, W2 sử dụng 1 liên kết và W3 sử dụng 3 liên kết. Vậy nên chọn W2 để phù
hợp với giải thuật LU.
6.4: Giải thuật Most-Used(MU)
- Là giải thuật ngược với Least-used, nó tìm chọn những bước sóng được sử
dụng nhiều nhất trong mạng. Giải thuật này phải đòi hỏi những thông tin về trạng
thái mạng để tìm ra bước sóng được sử dụng nhiều nhất. Nó cũng tốn những chi phí
tương tự như trong phép gán Least- used, tuy nhiên nó thực hiện tốt hơn so với giải
thuật Least- used.
Cũng với bài toán như trên, ta sẽ chọn W3 vì nó sử dụng nhiều liên kết nhất (3 liên
kết)
6.5: Giải thuật Min-Product(MP)
- Giải thuật này được đưa ra chủ yếu cho các mạng đa sợi. Nó tương đương với
giải thuật FF. Mục đích là cố gắng gán bước sóng vào các sợi quang nhằm hạn chế
số lượng sợi sử dụng trong mạng.
- Để thực hiện việc này, giải thuật MP tính tích ∏ Dljcho mỗi bước sóng j(1≤
l∈ π
j<W, với W là số bước sóng có thể có trên một sợi quang, l là số liên kết trong
mạng). MP sẽ chọn bước sóng có tích nhỏ nhất để gán bước sóng.
- Tuy nhiên gần đây đã có nghiên cứu rằng giải thuật MP không hiệu quả bằng
FF cho các mạng đa sợi và nó có chi phí tính tóan cao hơn.
Xét 1 đường gồm 3 liên kết, mỗi liên kết có 3 bước sóng. Giả sử có rất nhiều sợi
quang. Ma trận Dlj được cho sau:
1 1 3 1
2 2 2 3
3 4 5 6
bước sóng có sẵn dọc theo đường p. Giải thuật này giảm xác suất tắc nghẽn trong
mạng đa sợi.
Ta cũng xét ví dụ như trên, giả sử mỗi liên kết có tối đa 7 sợi quang. Ta giả sử cần
xét lightpath qua 2 liên kết 1,2:
- Giả sử rằng ma trận lưu lượng được biết trước và đường đi cho mỗi kết nối đã
được lựa chọn. Yêu cầu này có thể đạt được nếu giả sử ma trận lưu lượng là ổn
định trong 1 khoảng thời gian nào đó.
Gọi Ψ là trạng thái mạng với các lightpath đang tồn tại. Trong M∑ , dung lượng
liên kết của bước sóng j tại liên kết l được định nghĩa là số lượng sợi tại liên kết j
mà bước sóng j còn rỗi trên đó.
Dung lượng đường đi của bước sóng j là số sợi mà bước sóng j không được sử
dụng tại liên kết bị nghẽn nhiều nhất trên đường p.
min {r (Ψ ,l , j)}
r(Ψ , l, j)=lϵπ (p )
Dung lượng đường dẫn của đường p tại trạng thái Ψ là tổng dung lượng đường
dẫn của tất cả bước sóng.
max
R(Ψ ,p) = ∑ r (Ψ ,l , j)
j=1
Do chỉ có dung lượng của bước sóng j là thay đổi sau khi lightpath được thiết lập
trên bước sóng j nên có nghĩa là sẽ chọn bước sóng j nào làm tối thiểu hóa tổn thất
dung lượng tổng cộng trên bước sóng này.
∑ r (Ψ , p , j)−r ( Ψ ' , p , j)
pϵP
Giải thuật RCL chọn bước sóng j sao cho tối thiểu hóa tổn thất dung lượng tương
đối ( Relative Capacity Loss), được tính bởi công thức:
- Giải thuật này dựa trên lý luận là việc tối thiểu hóa tổn thất dung lượng tổng
cộng đôi khi chưa là không phải sự lựa chọn bước sóng tốt nhất. Ví dụ như việc
chọn một bước sóng i nào đó có thể làm tắc nghẽn lightpath p 1, trong khi có thể
chọn bước sóng j khác để giảm dung lượng của p2 và p3 nhưng không làm tắc nghẽn
chúng. Do đó bước sóng j nên được chọn mặc dù tổn thất dung lượng tổng cổng
của bước sóng j cao hơn i.
- Đa số trong các trường hợp thì giải thuật RCL hiệu quả hơn M∑
Ví dụ tiêu biểu cho việc gán bước sóng tĩnh là bài toan tô màu cho các nút của
một đồ thị và được thực hiện bằng cách xây dựng một đồ thị G(V,E) với V là tập
các đỉnh, E là tập các cạnh. Bài toán:
+ Xây dựng một đồ thị G(V,E) trong đó mỗi lightpath trong hệ thống thể hiện
bằng một đỉnh của đồ thị G và tồn tại một cạnh vô hướng giữa 2 đỉnh trong đồ thị
G nếu các lightpath có cùng đi qua một liên kết sợi quang vật lý.
+ Tô màu cho các đỉnh của đồ thị G sào cho không có 2 đỉnh kế cận nào có màu
giống nhau và số màu sử dụng là ít nhất.[2]
gửi và nhận các gói tin khác tiếp theo. Bên cạnh vấn đề kĩ thuật của việc chuyển
đổi bước sóng nhanh, một thách thức quan trọng khác nữa là phát triển các giao
thức để phối hợp hiệu quả những kết nối ở các bước sóng khác nhau trong mạng.
Để một hệ thống single- hop hoạt động hiệu quả, băng thông được cấp phát giữa
các node đang tranh chấp phải được quản lí linh động. Các hệ thống này có thể
phân thành hai loại: có phối hợp trước khi truyền dẫn và không yêu cầu phối hợp
trước khi truyền dẫn.
Các loại phối hợp dùng một kênh điều khiển đơn dùng chung giữa các node và
sự truyền dữ liệu thật sự xảy ra thông qua một số các kênh dữ liệu. Các node rỗi
cần giám sát kênh điều khiển. Trước khi phát hoặc thu gói dữ liệu, một gói chỉnh
bộ phát hay bột thu của nó đến kênh dữ liệu thích hợp. Ngược lại trong hệ thống
loại thứ hai, không có sự tồn tại của kênh điều khiển và các node phát hoặc thu từ
các kênh được định trước.
- Yêu cầu: Kết nối trực tiếp multi - hop giữa hai node chỉ có thể xảy ra khi nếu
nút đến có một trong những bộ thu của nó được chỉnh đến một trong những bước
sóng của node gởi.
- Sự kết nối giữa một cặp node bất kì trong mạng đạt được bằng cách định tuyến
thông qua các node trung gian. Ở đó kênh thông tin quang được chuyển thành dạng
điện, địa chỉ đến của gói được giải mã, sau đó gói được chuyển mạch điện và được
phát lại trên bước sóng để đến node đích hoặc đến các node trung gian khác mà ở
đó quá trình này được lặp lại. Vì vậy, một gói sẽ trải qua nhiều bước sóng thông
qua một số node trung gian trước khi đến được node đích.
*So sánh:
- Về dung lượng: WDM song hướng < WDM đơn hướng, tuy vậy thì WDM đơn
hướng lại đòi hỏi số lượng quang gấp đôi so với WDM song hướng -> tốn kém
- Về thiết kế: WDM song hướng đòi hỏi sự phức tạp và chỉnh chu hơn rất nhiều
so với WDM đơn hướng, cơ bản như là vấn đề chống xuyên nhiễu, đảm bảo định
tuyến và phân bố bước sóng sao 2 chiều trên sợi quang không dùng chung 1 bước
sóng
- Về giải quyết vấn đề: Khi có sự cố xảy ra ở hệ thống, WDM song hướng không
cần đến cơ chế APS để chuyển mạch bảo vệ mà nó có thể tự hiểu đồng thời ở cả 2
đầu.
→Tính về độ tối ưu thì WDM song hướng hơn hẳn WDM đơn hướng. Tuy nhiên
trong một số trường hợp thì ta vẫn chọn WDM đơn hướng vì 1 số đặc điểm tối ưu
của nó
Ví dụ: Trong điều kiện mà khả năng xuyên nhiễu giữa các bước sóng là rất cao
mà hệ thống đòi hỏi dung lượng lớn thì WDM đơn hướng đáp ứng tốt hơn và tối ưu
hơn.
Mạng topo là mô hình kết nối các phần tử mạng. Một topo mạng có thể vật lý, lập
bản đồ cấu hình phần cứng, hoặc logic, lập bản đồ con đường mà các dữ liệu phải
đi qua để đi xung quanh mạng. [11]
a) Topo vật lý (Physical Topology)
-Topo vật lý của mạng là quan hệ kết nối vật lý của các điểm nút mạng, là tập hợp
các điểm nút và các sợi quang. [10]
SV thực hiện: Đoàn Quang Vinh Trương Văn Trường
Mai Phương Trâm Nguyễn Hiếu Hoài
T r a n g | 32
-Topo logic là sự phân bố dịch vụ giữa các điểm nút của mạng. [10] Topo logic
thường có các loại kết cấu sau:
+Hình tuyến (bus)
+Hình vòng
2. So sánh topo vật lý và topo logic:
X. Kết luận
Qua những kiến thức trên, chúng ta đã tìm hiểu về phương pháp định tuyến và
gán bước sóng trong mạng WDM, khi có yêu cầu thiết lập lightpath từ node nguồn
đến node đích thì bộ định tuyến bước sóng có nhiệm vụ xác định đường đi và gán
bước sóng cho lightpath đó. Trong mạng quang WDM, việc sử dụng thuật toán
định tuyến bước sóng để đạt được tối ưu mạng là điều hết sức ý nghĩa.
Thuật toán Dijkstra với việc định tuyến tìm đường ngắn nhất có nhiều ưu điểm
trong mạng tập trung nên em sẽ sử dụng để mô phỏng việc định tuyến trong mạng
quang.
Hình 5.5: Gián giá trị ∞ vào các đỉnh đồ thị trong thuật toán Bellman-Ford.
Hình 5.6: Duyệt qua từng cạnh đồ thị trong thuật toán Bellman-Ford.
Hình 5.7: Duyệt lại tìm trường hợp xấu nhất trong thuật toán Bellman-Ford.
FF: First-Fit
LU: Least-Used
MU: Most-Used
MP: Min-Product
LP: Lightpath
[2] Mục c), Phần 3.4.1, Chương 3, Kỹ thuật thông tin quang. Đỗ Văn Việt Em,
2007.
[3] Mục e), Phần 3.4.2, Chương 3, Kỹ thuật thông tin quang. Đỗ Văn Việt Em,
2007.
[7] Mục c), Phần 1.1.2, Chương 1, Kỹ thuật thông tin quang. Đỗ Văn Việt Em,
2007
[8] Nguyễn Đình Hải, Vài nét cơ bản về Distance vecstor và Link State, 2011
[9] Nguyễn Xuân Tùng, vnoi.Các thuật toán về tìm đường đi ngắn nhất, 2018